MỪNG LỄ THÁNH PHÊRÔ BỔN MẠNG ĐỨC CHA PHEERÔ TRẦN ĐÌNH TỨ , LỄ TẠ ƠN 38 NĂM LM CỦA CHA PAUL TÚY GP PHÚ CƯỜNG
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Is 66, 10-14c; Gl 6, 14-18;
Lc 10, 1-12.17-20
MỤC LỤC
1. Bình an của Chúa
2. Vào nhà, vào thành phố
3. Anh em hãy ra đi
4. Truyền giáo
5. Chúa sai tôi đi - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
6. Mênh mông lúa đồng – Thiên Phúc
7. Nghịch lý – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
8. Phúc âm hoá bản thân mình trước hết
9. Thiên Chúa cần đến những con người
10. Ai là công nhân mùa gặt của Chúa?
11. Hãy đi giảng dạy
12. Sai 72 môn đệ đi rao giảng -
McCarthy
13. Suy niệm của R. Gutzwiller
14. Bình an đích thực
15. Người rao giảng
16. Người môn đệ
17. Truyền giáo bằng đời sống
18. Chọn lựa các môn đệ – Veritas
19. Tử tế
20. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh
Liêm
21. Suy niệm của JKN
22. Tại trung tâm bão biển – Lm. Mark
Link.
23. Chú giải của Noel Quesson
1. Bình an của Chúa.
Ngày kia có một người đậu xe bên lề
đường, rồi vào trong một cửa hàng để mua sắm mấy thứ cần thiết, khi quay trở ra
thì thấy trên ghế ngồi có một mẩu giấy với hàng chữ: Thưa ông, tôi đã tính ăn
cắp chiếc xe hơi này, nhưng tình cờ đọc thấy lời cầu phúc "Bình an cho quý
bạn", được dán trên tấm kính. Lời cầu chúc này khiến tôi dừng lại và suy
nghĩ. Tôi tin chắc nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, thì hẳn ông sẽ không còn được
bình an và chính tôi cũng vậy. Vì đây là lần đầu tiên tôi ra nghề. Tôi cũng cầu
chúc bình an cho ông và cho cả tôi nữa.
Câu chuyện ngộ nghĩnh trên đây khiến
chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Khi vào bất cứ nhà
nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu ở đó có người yêu
chuộng sự bình an, thì sự bình an sẽ ở lại trên người ấy, bằng không sự bình an
sẽ trở lại với các con.
Áp dụng lời phán dạy này và câu chuyện
trên, chúng ta thấy rằng: Tấm bảng gắn trên kính xe đã đem lại sự bình an của
Đức Kitô cho kẻ đang dự tính ăn cắp xe. Kẻ ăn trộm này là người yêu chuộng sự
bình an của Đức Kitô, nên sự bình an đã ở lại trên anh ta. Vậy đâu là sự bình
an của Đức Kitô?
Kinh Thánh thường dùng danh từ bình an
với bốn ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất, trên bình diện quân sự thì bình an ám chỉ
một tình trạng không có chiến tranh giữa các dân tộc. Ý nghĩa thứ hai trên bình
diện cá nhân, thì bình an ám chỉ tình trạng yên ổn của từng người. Ý nghĩa thứ
ba trên bình diện tôn giáo, thì bình an là mối liên hệ tình nghĩa tốt đẹp giữa
Thiên Chúa và chúng ta. Cuối cùng, bình an còn được Kinh Thánh dùng để nói lên
tình trạng trong đó mọi người trên mặt đất sống hoà thuận với Chúa, với người
khác và với chính bản thân.
Đây là sự bình an mà Chúa nói đến khi
Ngài tuyên bố: Ta để lại sự bình an cho các con, Ta ban sự bình an của Ta cho
các con. Đây cũng chính là sự bình an mà các thiên thần đã cầu chúc trong đêm
Giáng sinh: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện
tâm. Sự bình an này chẳng la gì khác ngoài việc thực thi Nước Chúa trên trần
gian. Để thực hiện sự bình an này, Đức Kitô đã xuống thế làm người để hoà giải
con người với Thiên Chúa cũng như hoà giải con người với nhau. Bởi vì sự bình
an đích thực phải là kết quả của sự hoà giải.
Như thế, để có được sự bình an của
Chúa, chúng ta cũng phải sống tinh thần hoà giải. Có được sự bình an trong tâm
hồn mà thôi chưa đủ, Đức Kitô còn muốn chúng ta mang sự bình an này đến cho
những người chung quanh chúng ta. Chính vì thế mà chúng ta hãy cầu nguyện như
lời kinh của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa, xin hãy biến con thành khí cụ bình
an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng
nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Bởi vì như
lời Chúa đã phán: Phúc cho ai xây dựng hoà bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa.
2. Vào nhà, vào thành phố
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế
giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông
đang cần thợ gặt.
Đức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài
muốn đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những
người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng
văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Đức Giêsu cần vào.
Đưa Ngài vào thật là một thách đố cho
chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị
cấm. Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài
cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản
trở, vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho
Ngài vào thành phố của bạn, vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công
ty... Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm
việc đó.
Đâu là khuôn mặt của người được sai hôm
xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền,
giầy dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự
do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người
tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục
vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm
của thế giới mai sau, phải có khả năng nâng con người lên Đấng Tuyệt Đối.
Đâu là đóng góp của người được sai hôm
xưa? Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa
gần đến. Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm. Cả hai đều
đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới
bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao
giảng gì cho 97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Đấng Cứu Độ?
Đức Giêsu đem đến cho nhân loại quà
tặng đặc biệt nào? Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải
học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu. Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi
người Hồi giáo. Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải
và trọng sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng
nơi đạo Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Đức
Giêsu, và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những nét đặc biệt
của mẹ Têrêxa Calcutta, khiến cả thế giới mộ mến?
Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công
cho dân tộc Việt Nam, người tông đồ cần có những đức tính căn bản nào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên
đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay
vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì
Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một
người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui
bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt
lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà
vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin
tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
3. Anh em hãy ra đi.
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ
là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; Không phải chỉ là 12 chi tộc Israel,
mà là mọi người thuộc mọi dân nước.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được
sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui:
Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.
Một lời chào thân thiện: Bình an cho
nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi
tiền, bao bị, giày dép.
Một việc phải làm: chữa lành những
người ốm đau.
Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu
thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ
chịu.
Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi,
Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã
đổi khác.
Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng
của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự
đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba,
bốn áo, sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện
thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.
Hành trang không được trở thành những
cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là
những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng
giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải
trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè, thực sự đáp ứng những
khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc,
khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta
làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của
ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu
tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những
con người bình thường và yếu đuối.
Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công
bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên
mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Gợi Ý Chia Sẻ
Muốn trở thành tông đồ cho người trẻ
hôm nay, theo ý bạn, cần có những điều kiện gì?
Satan và sự ác vẫn hoành hành trên thế
giới và trong từng tập thể. Chúng ta phải làm gì để chống lại? Bạn có thấy bóng
dáng của Satan trong đời bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên
đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay
vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì
Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với
niềm vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một
người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui
bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt
lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà
vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin
tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
4. Truyền giáo
Có một linh mục người Mỹ thuộc dòng
Tên, giảng dạy tại một trường đại học Công giáo nổi tiếng tại Phi Luật Tân.
Ngày kia, tình cờ vị linh mục này đi vào một khu xóm lao động nghèo nàn và gặp
một tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ. Sau một hồi trao đổi, linh mục người Mỹ đã hỏi tu
sĩ người Bỉ như sau: Anh ở đây làm gì vậy. Tu sĩ người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ,
nấu ăn, giặt giũ quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu xóm
lao động này. Nghe thế vị giáo sư người Mỹ có lẽ như tiếc rẻ cho sự hy sinh
lãng phí ấy, nên mới nói về mình như sau: Tôi sang đây là để dạy học và thuyết
trình, tôi đi đây đi đó, tôi đào ạo những con người hữu ích cho xã hội.
Qua cuộc đối thoại này, có lẽ chúng ta
thấy được những khía cạnh khác nhau của việc truyền giáo trong Hội Thánh. Vị
linh mục người Mỹ trên đây là điển hình cho một đội ngũ đông đảo các nhà truyền
giáo của Hội Thánh trên khắp thế giới, từ thành thị đến nông thôn, từ học đường
đến công sở. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động rao gảing thì cũng
có những nhà truyền giáo âm thầm, sống như những chứng nhân. Tựu trung, hoạt
động hay sống âm thầm, cả hai hình thức đều có chung một sứ mạng, đó là làm
chứng cho Đức Kitô và nước của Ngài. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng
buộc bởi một đòi hỏi giống nhau, đó là làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống
siêu thoát.
Đây là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa
Giêsu đã đề ra cho các môn đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin
Mừng. Ngài nói với các ông: Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, áo xống,
giày dép và đừng chào hỏi ai dọc đường. Một cuộc sống siêu thoát, không lệ
thuộc vào của cải trân gian, đó là biểu hiện tiên quyết cho chứng nhân Nước
Trời.
Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương của
mình để đến những miền đất xa lạ, nhưng chủ yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi
con người ích kỷ của mình để đến với tha nhân trong tinh thần hoà giải, yêu
thương và phục vụ. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh Chúa truyền: Vào nhà nào trước
tiên các con hãy nói: bình an cho nhà này. Hiện diện giữa tha nhân, hiện diện
với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông và tha thứ, đó chính là sự ra đi
đích thực của nhà truyền giáo. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người
tín hữu, tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó có nghĩa là những giá
trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống giữa chúng ta.
Chúng ta phải sống thế nào để những người chung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên
sự bỡ ngỡ như những người Do Thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã
phải kêu lên: Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào.
Bằng lời nói và nhất là bằng cuộc sống
dạt dào yêu thương, chúng ta hãy trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức
Kitô giữa lòng cuộc đời.
5. Chúa sai tôi đi - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo
là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì
nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện
vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai
lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là
công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có
tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu
sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định.
Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động
tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo
bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo:
"Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Lúa đã chín vàng, phải nhanh
chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em
đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao
tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã
chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng
Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo.
Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn
Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng
cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị
Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ
lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh
Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào
sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày
dép" để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình.
Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém,
biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy
vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an
đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với
những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận
lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt
yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm
trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền
giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên
chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người
khác
Như thế mọi người, từ người già tới em
bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người
khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền
giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi
người chúng ta: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Chúng ta hãy
bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: "Lạy Chúa, này con đây, xin hãy
sai con đi".
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp
thiết không?
2- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành
công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc
truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở
chung quanh bạn không?
4- Bạn đã bao giờ tham gia vào việc
truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
6. Mênh mông lúa đồng – Thiên Phúc.
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một
diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại
vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói:
"Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động
này".
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong
bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que
diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên:
"Đã thấy!" Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên
"Đã thấy!"
Sau khi đèn được bật sáng, ông John
Keller giải thích: "Anh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que
diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận
động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang
theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!" Bỗng chốc, cả vận động trường rực
sáng.
Ông John Keller kết luận: "Tất cả
chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng
những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
Đã qua hơn 2000 năm những lời dạy của
Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà
thợ gặt lại ít". Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ
hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo
chỉ không tới 3/o.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang
không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc
của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương,
của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: "Anh
em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói".
"Ra đi" chứ không phải
"ở lại", đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành
trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng
ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticanô II
cũng long trọng khẳng định: "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền
giáo". Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng qủa quyết: "Không một ai
trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được
miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc"
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là
"ra đi".
Ra đi đem "bình an" đến cho
các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng
như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến
gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phaolô đã phải thốt lên:
"Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng". Nhưng việc làm
mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra
đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L.
Moody đã nói: "Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ỉ, chúng chỉ chiếu
sáng".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con ra
đi không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, là để chúng con được siêu thoát
mà lên đường, không cậy dựa vào sức riêng hay trần thế, nhưng chỉ phó thác nơi
một mình Chúa mà thôi.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng lên
đường, dám sống chết cho sứ mạng Chúa đã trao ban. Amen.
7. Nghịch lý – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Nghịch lý của thời đại chúng ta đó là:
Đường phố rộng hơn, quan điểm lại hẹp
hòi hơn
Chúng ta giành nhiều hơn nhưng lại có
ít hơn
Mua sắm nhiều hơn nhưng hưởng thụ lại
ít hơn
Chúng ta có những tòa nhà đồ sộ hơn
nhưng gia đình lại bé nhỏ hơn.
Cuộc sống tiện nghi hơn nhưng ít thời
gian nhàn rỗi hơn
Bằng cấp nhiều hơn nhưng giá trị lại ít
hơn
Hiểu biết nhiều hơn nhưng nhận xét lại
kém hơn
Nhiều nhân tài hơn nhưng ít sáng tạo
hơn
Chúng ta sở hữu nhiều hơn nhưng nhân
cách giảm nhiều hơn
Chúng ta nói quá nhiều, yêu thương thì
quá ít và ghen ghét lại nhiều hơn
Chúng ta biết cách mưu sinh nhưng không
biết tạo dựng cuộc sống
Chúng ta sống thọ hơn nhưng sống ít ý
nghĩa hơn
Chúng ta làm được những điều cao sang
nhưng lại không làm được điều đơn giản với đồng loại.
Vâng, cuộc sống xem ra tiến bộ hơn
nhưng đáng tiếc chúng ta lại đang đánh mất nhiều hơn. Mất tình gia đình, mất
tình bạn, mất tình làng nghĩa xóm. Cái mất lớn nhất của thời đại hôm nay chính
là mất niềm vui của sự bình an tâm hồn. Vì cuộc đời hôm nay có quá nhiều những
rủi ro, có quá nhiều những căng thẳng, những bất trắc khiến con người hôm nay
dù có nhiều tiền, nhiều của, nhiều vật chất nhưng lại có rất ít những giây phút
thư thái bình an. Cuộc đời luôn đong đầy những lo toan khiến con người hôm nay
luôn phải sống trong cảnh đối phó với những nghịch cảnh có thể đưa tới. Bên
cạnh sự vật lộn với cuộc sống quá nhiều khó khăn, sự bươn chải để tìm miếng cơm
manh áo, cuộc sống chung quanh lại còn quá nhiều những sự dữ bủa vây như muốn
nhậm chìm con người. Những tệ nạn xã hội như: xì ke, ma tuý, mại dâm,... luôn
là những cạm bẫy có thể xâm chiếm và làm mất đi sự bình an nơi các gia đình.
Thực tế, đã có biết bao gia đình khô cạn nước mắt vì một đứa con đang lao vào
con đường xì ke, ma tuý; đã có biết bao gia đình tan nát vì lối sống buông thả,
phóng túng của những người chồng thiếu trách nhiệm; đã có biết bao gia đình
đang u sầu vì những quan hệ bất chính của những người cha, người mẹ đang làm
gương mù gương xấu cho đàn con. Sự dữ dường như đang khống chế con người hôm
nay. Sự dữ dường như đang làm chủ xã hội hôm nay khiến con người luôn cảm thấy
bất an và lo sợ.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng
nhìn thấy sự dữ đang hoành hành. Sự dữ đang gây nên những đau khổ, đổ vỡ, mất
mát cho biết bao con người. Sự dữ luôn làm cho con người lo sợ, bất an. Chúa đã
sai các môn đệ ra đi trong tình trạng khẩn trương và cấp bách. Cấp bách đến độ
không cần chuẩn bị những hành trang bên mình như giầy, dép, bao bị, ... Chúa
muốn các môn đệ hãy ưu tiên cho việc đem Tin Mừng đến cho muôn người. Tin Mừng
mà Chúa muốn các môn đệ đem đến cho nhân trần chính là đẩy lùi sự dữ và kiến
tạo bình an cho các tâm hồn. Chúa bảo với các môn đệ hãy mang bình an của Chúa
đến cho muôn người. Bình an của những con người thoát khỏi sự thống trị của sự
dữ khi đón nhận tin mừng Nước Trời. Bình an sẽ được tặng ban khi Triều đại Nước
Thiên Chúa thống trị địa cầu.
Lời mời gọi đó dường như vẫn đang cấp
bách trong thời đại hôm nay. Một thời đại có quá nhiều sự dữ. Một thời đại của
sự hưởng thụ, ích kỷ đã biến con người thành sự dữ đang giết chết bản thân và
tha nhân. Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta hãy chung tay góp
sức đẩy lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta sống. Hãy nói
không với tội lỗi. Hãy tránh xa những cám dỗ tội lỗi. Hãy sống ngay lành để có
niềm vui của sự bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.
Nguyện xin Chúa là hoàng tử bình an ban
bình an đến cho mỗi người chúng ta để nhờ đó chúng ta cũng biết trao ban bình
an cho nhau. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành những sứ giả bình an cho
thế giới hôm nay. Amen.
8. Phúc âm hoá bản thân mình trước hết.
(Trích dẫn từ 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng
đời đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời
cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con
nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy
rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó,
tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải
tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con.
Làm được như thế là con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, cuộc đời đã về chiều,
tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết bao: làm sao biến đổi cuộc đời người
khác khi ta chưa biến đổi được bản thân ta. Thế nên giờ này, tôi chỉ còn biết
cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.
* * *
Cải thiện bản thân là điều kiện tiên
quyết, là việc phải làm trước hết để có thể thay đổi những người chung quanh,
đúng như Khổng Tử dạy: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ."
(theo "Lẽ sống")
Tương tự như thế, khi được mời gọi phúc
âm hoá thế gian, chúng ta phải lo Phúc Âm hoá bản thân chúng ta trước, rồi
chúng ta mới có thể Phúc Âm hoá người khác sau.
Cầu cho ai được sai đi?
Trước khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa
Giêsu dặn các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy
xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về".
Xin chủ mùa sai ai đây?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may
mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ
gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho mọi người
khác, ngoại trừ ta!
Dù muốn dù không thì đa số trong chúng
ta đây đã là thợ gặt bẫm sinh rồi, vì ngay từ thơ ấu, khi được lãnh bí tích rửa
tội, chúng ta đã trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên đã được thông dự vào sứ vụ
tiên tri, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa Giêsu rồi. Vậy thì phải loan Tin Mừng,
phải làm thợ gặt thôi, không thể nào thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách
lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta
cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Thiên Chúa, để đẩy lùi quyền lực của ma
quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao giảng trước
tiên?
Giáo điểm đầu tiên cần được truyền
giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta.
Dù mang danh là Kitô-hữu, đôi khi chúng
ta còn xa lạ với Tin Mừng.
Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc
hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan ẩn dấu trong đó.
Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta
và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt nhau rất xa!
Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng
lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta... thì làm sao ta có thể đem
lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình
không có. Lý do của việc thất bại trong công cuộc loan Tin Mừng là ở đó.
Thế nên, chính bản thân mỗi người chúng
ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá người khác sau.
Ai là người cần được xua trừ ma quỷ
trước tiên?
Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác
cho các môn đệ khi đi loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực
của Sa-tan.
Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên
khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương
tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh,
truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa... để nô dịch hoá con người, đưa nhiều
người vào trong cạm bẫy và tội lỗi.
Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên
thế giới, nhưng trước hết ma quỷ cũng đang chi phối mỗi người chúng ta. Phải
nhận rằng nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã bị ma quỷ xô đẩy làm điều sai
trái đáng trách.
Vậy thì trước khi giải thoát người khác
khỏi tai ách Sa-tan, chúng ta phải lo giải thoát mình trước.
Vậy người đầu tiên cần được giải thoát
khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật
lại cho chúng ta biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui
vẻ trở về báo cáo với Chúa Giêsu những thắng lợi vẻ vang: "Thưa Thầy, nghe
đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con".
Xin Chúa giúp chúng ta cũng đạt được
những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
9. Thiên Chúa cần đến những con người.
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật' – Achille Degeest)
Tuần tự theo sát bài đọc, chúng ta nhấn
thêm vào mấy khía cạnh bản văn. Sứ mạng truyền giáo là khẩn thiết, vì lúa chín
cần có những thợ gặt. Phải xin Chủ mùa sai thợ gặt đến. Sự truyền bá sứ điệp
Phúc Âm giữa nhân loại gặp phải sức chống đối thù nghịch. Sứ giả Phúc Âm phải
dốc toàn sức vào công việc tông đồ, không để bị vướng mắc bởi những quyền lợi
vật chất và những quy ước xã giao (lời chào hỏi nói đến trong bài Phúc Âm ám
chỉ nghi thức đông phương rườm rà làm mất thời giờ). Sứ điệp mang đến cho thế
giới tin mừng bình an vì Nước Trời gần tới. Phúc thật cho nhà nào tiếp đón tông
đồ của Phúc Âm. Vô phúc cho nhà nào từ chối sứ điệp vì trí óc và tâm hồn nhiễm
khuynh hướng xấu.
Bài đọc gợi ý một số câu hỏi.
1) Chúa sai họ, từng toán hai người
một, đi trước Người đến mọi thành thị nơi chốn Người định đến. Tại sao Chúa
muốn cần đến những sứ giả? Tại sao Thiên Chúa không tỏ mình ra cho người ta? Dễ
lắm, nếu được thế nhiều sự việc sẽ trở nên giản dị. Việc thiết lập Giáo Hội sẽ
chẳng còn cần thiết, mỗi lương tâm sẽ đặt trước một sự lựa chọn rõ rệt và có
trách nhiệm. Sở dĩ Thiên Chúa mặc lấy tính nhân loại trong con người Đức Giêsu
và nói với con người qua Giáo Hội, vì Thiên Chúa tôn trọng quyền tự do của con
người. Đức Giêsu Người-Chúa đã trở nên Thiên Chúa mà không xâm phạm bất cứ
quyền tự do nào Người gặp thấy. Giáo Hội, một định chế vừa nhân bản vừa thần
linh, phải có thần tính mà không xâm phạm bất cứ quyền tự do nhân loại nào
trong thế giới mà Giáo Hội có sứ mạng cứu rỗi. Chúa muốn cần có những sứ giả
bên cạnh nhân loại, bởi vì điều Giáo Hội đòi hỏi ở người ta là tự do đón nhận
đức tin.
Sứ giả đức tin phải ý thức sáng suốt về
vai trò mình. Đối với bản thân cũng như đối với người khác, phải tránh ràng
buộc Phúc Âm vào những quyền lợi thế tục. Sứ giả đức tin không tìm kiếm trong
Phúc Âm những quyền lợi thế tục, không rao giảng Phúc Âm như một giá trị hay
một hệ thống văn minh. Điều ấy là phụ, tự nó sẽ đến. Những gì là thế tục, tài
chính, kinh tế, đều không phải là công việc của người tông đồ.
2) Hãy chữa lành những bệnh nhân. Đã có
một thời gian ngắn các tông đồ làm những việc chữa lành bệnh nhân như là những
dấu chỉ, những điều lạ, để hậu thuẫn cho công việc rao giảng. Tuy nhiên sự chữa
lành Phúc Âm đề nghị với mọi người ở một tầm cao khác. Sự rao giảng Phúc Âm
phải gây ra trong người ta một ý thức có hai mặt: ý thức mình đau ốm, nghĩa là
có tội – và ý thức mình được cứu rỗi nhờ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Từ quan
điểm kép, Phúc Âm làm phát sinh mâu thuẫn bởi lẽ con người khó mà nhìn nhận
rằng mình tội lỗi – và ơn cứu độ Phúc Âm đề nghị là sự chữa lành bằng thập giá,
phương thức ấy khiến con người vấp phạm. Hạnh phúc thay kẻ nào đón nhận Phúc
Âm.
10. Ai là công nhân mùa gặt của Chúa?
(Trích dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng' -
Charles E. Miller)
Ngày kia có một người nhận xét, ông ta
nghe thấy từ "ơn gọi" trên bục giảng có vẻ như ám chỉ"ơn
gọi" đến từ Thiên Chúa chứ không phải chỉ dành cho chức linh mục hoặc tu sĩ.
Đây là lúc: Mọi người Công Giáo đều có một ơn gọi đến từ Thiên Chúa.
Phúc Âm ngày hôm nay thường được cắt
nghĩa theo ý nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta xin với chủ ruộng sai
nhiều thợ gặt đến để gặt lúa, nhiều người đã suy nghĩ rằng Người muốn chúng ta
cầu nguyện cho có nhiều vị linh mục. Thật sự ra chủ ý của Chúa không giới hạn
trong ơn gọi đó.
Công đồng Vatican II nói rằng:
"Tất cả những người Công Giáo đều tham dự đầy đủ và tích cực trong phụng
vụ và trong sứ vụ của Giáo Hội. Đó là một ơn gọi". Trong Thánh Lễ được cử
hành trước Công đồng, vị linh mục đã tự mình làm hết mọi sự, vị linh mục được
trợ giúp bởi một cậu trai nhỏ như là một cậu giúp lễ. Và tất cả cộng đoàn hiện
diện trong một vai trò thụ động. Linh mục đã đọc tất cả mọi lời nguyện, tất cả
các bài thánh thư và Phúc Âm trong Thánh Lễ, và tất cả cộng đoàn im lặng lắng
nghe ngay cả việc rước lễ cũng được trao ban bởi chính ngài hoặc đươc giúp đỡ
bởi các vị linh mục khác. Chỉ có cậu bé giúp lễ mới được đáp lại những lời
nguyện của vị linh mục, còn cộng đoàn thì giữ im lặng. Những người đời không
được phép đọc Thánh Kinh hoặc đọc những lời nguyện nào hoặc trợ giúp trong việc
rước lễ. Nhiều người ngạc nhiên khi không quen với sách lễ trước đây hoặc quên
đi thời hiệu của nó, sự thật chỉ một mình vị linh mục được đọc kinh "Lạy
Cha". Thật vậy, người giáo dân thì không được phép đọc kinh"Lạy
Cha". Vai trò thụ động của người giáo dân là một khoảng trống lớn, phản
ánh sự thiếu toàn tâm toàn ý trong sứ vụ của Giáo Hội. Vì một công việc xem ra
là của người giáo dân thì vị linh mục đã phải làm tất cả.
Công đồng Vatican II đã ra quyết định
phục hồi và đề xướng phụng vụ thánh với mục đích giúp cho mọi người đều tham dự
một cách đầy đủ, sinh động và ý thức bởi tất cả mọi người (x. Hiến chế về Phụng
vụ số 14). Nhưng việc tham dự vào phụng vụ thì cũng bất toàn cho đến khi dẫn
đến việc tham dự đầy đủ vào sứ vụ của Giáo Hội.
Chức linh mục thừa tác là nền tảng cho
Giáo Hội. Điều đó không thể thay đổi. Nhưng Thánh Thần qua Công đồng đã kêu gọi
tất cả những người Công Giáo đều phải trở thành những phần tử có trách nhiệm
của Giáo Hội. Không để mọi sự cho vị linh mục nữa. Cũng không trốn tránh những
ai thách đố về đức tin của chúng ta bằng việc nói với họ là chúng ta sẽ nói cho
linh mục. Không sợ tỏ ra đức tin của người Công Giáo trong việc làm ở bất cứ
nơi nào. Không miễn cho đức tin của chúng ta là cá nhân và riêng biêt và sẽ
không ảnh hưởng đến chúng ta là cá nhân và riêng biệt và sẽ không ảnh hưởng đến
chúng ta trong chính trị. Sự thật là tất cả mọi người chúng ta đều được kêu gọi
đặc biệt, qua bí tích Thêm sức, để hoạt động, liên hệ và trở thành những người
Công Giáo có trách nhiệm.
Giáo Hội làm viên mãn hình ảnh của
Giêrusalem như là một người mẹ (x. Bài đọc I). Giáo Hội qua sự hợp nhất với Đức
Kitô đã sản sinh ra những người con và nuôi dưỡng chúng bằng Lời và các bí
tích. Giống như những người cha mẹ tốt, Giáo Hội cũng là thầy dạy và là người
hướng dẫn. Từ hình ảnh này và thực tại của Giáo Hội mà mọi người chúng ta phải
rút ra sự hướng dẫn và sức mạnh để trở thành những người Công Giáo năng nổ
nhiệt tình.
Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng:
"Tên của chúng ta đã được viết ở trên trời rồi". Vì thế mà chúng ta
phải vui mừng. Nhưng cho đến khi Chúa lại đến trong vinh quang để mang chúng ta
về trời, chúng ta phải nhớ rằng công việc của Thiên Chúa trên trái đất này qua
Giáo Hội của Người phải thật sự là của chính chúng ta.
11. Hãy đi giảng dạy
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
"Hãy đi giảng dạy!". Đó là
câu châm ngôn của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình mà Giáo Hội Việt Nam
nói chung và Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã cử hành đại tang
lễ. Ngay từ ngày thụ phong giám mục, Đức Tổng Giám Mục đã chọn cho mình câu
châm ngôn "Hãy đi giảng dạy" cũng là mệnh lệnh truyền giáo của chính
Chúa Giêsu. Đức Tổng Giám mục là một Giám mục truyền giáo. Quả thật, 40 năm kể
từ ngày thụ phong Giám mục cho đến lúc từ trầ, Ngài đã thể hiện câu châm ngôn
sống: "Hãy đi giảng dạy". 40 năm, con đường thật dài và khúc khuỷu.
Khúc khuỷu vì những biến động của thời đợi, khúc khuỷu vì những đổi thay của
thể chế xã hội, chính trị và kinh tế. Và khúc khuỷu của lòng người vốn khó thăm
dò. Nhưng dẫu khó khăn và khúc khuỷu đến đâu, Ngài vẫn Đi. Đi trong suy tư và
cầu nguyện. Đi bằng thái độ hiền hòa, khiêm tốn và kiên nhẫn. Đi trong tin
tưởng và phó thác. Và Đi để Giảng dạy. Vì xác tín rằng, ẩn bên trong những khúc
khuỷu của thời đại và lòng người, vẫn là khát vọng được sống, sống mãnh liệt và
phong phú. Và cũng xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới là Đấng đáp trả và đong đầy
khát võng sống mãnh liệt ấy, nên Ngài không ngừng nỗ lực giới thiệu Đức Kitô
cho mọi người.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng là
một Giáo hoàng truyền giáo. Ngài đã ra khỏi giáo triều ở Rôma nhiều nhất để đi
đến với muôn dân trên khắp năm châu. Đến đâu Ngài cũng luôn rao giảng Tin Mừng
Đức Kitô cho mọi người. Những chuyến công du mục vụ ấy đã cho Ngài thấy rằng:
Mệnh lệnh "Hãy đi rao giảng Tin Mừng" của Chúa Giêsu chưa được các
Kitô hữu thi hành. Đối với Đức Thánh Cha, vấn đề cấp bách là: phải đem Tin Mừng
đến cho những vùng đất mênh mông chưa biết Chúa. Phải tái Phúc Âm hóa những
vùng đất xa xưa đã một lòng tôn thờ Chúa nhưng nay đã lơ là, bỏ Chúa. Phải đem
Tin Mừng thấm nhập các sinh hoạt xã hội loài người.
"Lúa chín đầy đồng, thợ gặt quá
ít". Một nhận định vừa hân hoan vừa báo động. Đối với chúng ta hôm nay là
một lời báo động, vì nếu lúc chín vàng đồng mà gặt không kịp, lúa sẽ rụng hết.
Một thực tế bi đát vì tình trạng thiếu thợ gặt so với cánh đồng lúa chín vàng
bát ngát. Mười hai Tông đồ được sai đi, rồi lại thêm 72 môn đệ nữa, cũng chưa
đáp ứng đủ yêu cầu. Các Giám mục, các linh mục, rồi các tu sĩ nam nữ cũng còn
quá ít, cần phải có sự tiếp tay của các giáo dân nữa.
Vào tháng 10 năm 1987, Thượng Hội Đồng
Giám mục thế giới đã khai mạc tại Rôma. 232 Giám mục từ khắp năm châu kéo về
Rôma để cùng nhau nghiên cứu vấn đề "ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân
trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay". Vì là vấn đề liên quan đến
giáo dân, nên bên cạnh các Giám mục, người ta còn thấy có 53 giáo dân: 27 nam và
26 nữ. Nếu chúng ta đối chiếu 12 Tông đồ với các Giám mục thì sự hiện diện của
27 ông và 26 bà trong Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới ở Rôma là một sự kiện
mới mẻ, như trong Tin Mừng hôm nay: "Chúa Giêsu chọn thêm 72 môn đệ
nữa". Từ Thượng Hội Đồng nầy, một tông huấn mang tựa đề: "Ngừoi Kitô
hữu giáo dân" đã được công bố. Trong đó, Đức Thánh Cha nói: "Giáo
dân, vì là thành phần của Giáo Hội, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin
Mừng. Các bí tích khai tâm kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh Thần đã trang
bị khả năng và thúc giục họ thi hành sứ vụ của mình" (số 33). Đức Thánh
Cha còn nói: "Chắc chắn rằbg: mệnh lệnh của Chúa Giêsu 'Hãy đi loan báo
Tin Mừng' vẫn mang giá trị trường tồn và đặt ra một cách cấp bách. Tuy nhiên,
tình trạng hiện nay trong thế giới, đang đòi hỏi tuyệt đối phải thực thi mệnh
lệnh của Chúa một cách khẩn trương và quảng đại hơn. Một người môn đệ đích thực
của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời đáp trả của riêng mình: "Khốn
thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1Cr 9,16). Cho hay, cái mới
mẻ trong việc thực thi cuộc loan báo Tin Mừng là tất cả toàn dân Chúa, không
phân biệt nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, mạnh yếu. Tất cả đều được sung vào việc
tông đồ truyền giáo.
Trước tình trạng khẩn trương ngày nay,
chúng ta đâu có quyền trông đợi những vị truyền giáo ở các nước ngoài đến giảng
đạo cho chúng ta như ngày xưa đã đến giảng đạo cho ông bà chúng ta. Giờ đây,
chính những linh mục đã được chọn giữa chúng ta cũng chưa bù đắp được gì cho số
người đông đúc và đa dạng ngày nay. Vì thế, Đức Thánh Cha hô hào: "Giá dân
ngày nay phải dấn thân vào công tác truyền giáo của Giáo Hội". Thượng Hội
Đồng Giám Mục đã định nghĩa vị thế độc đáo của người giáo dân giữa lòng Giáo
Hội và giữa thế giới bằng hai mệnh đề như sau: "Giáo dân là ' người của
Giáo Hội' trong lòng thế giới". "giáo dân là 'người của thế giới'
trong lòng Giáo Hội". Là người của Giáo Hội, người giáo dân phải đem Giáo
Hội và Chúa Giêsu vào trong thế giới. Và là người của thế giới, giáo dân phải
đem thế giới đến cùng Giáo Hội và Chúa Kitô.
Tông huấn "người Kitô hữu Giáo
Dân" vẫn nhắc lại sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vatican II để
kêu gọi giáo dân ý thức nhiệm vụ làm tông đồ trong môi trường của mình. Chính
người tín-hữu-thương-gia, tín-hữu-công-nhân phải đem Chúa đến và làm gương sáng
cho anh em mình nơi đồng ruộng, ngoài thị trường, trong cơ quan xí nghiệp của
mình. Hãy coi nơi mình đang ở, chỗ mình đang làm việc là những nơi Chúa sai
mình đến "như chiên ở giữa đàn sói", không phải để bị sói vồ chụp cắn
xé, nhưng để biến sói thành chiên; không phải lấy sức mạnh đọ lại với sức mạnh,
không phải dùng mưu mô đối lại với mưu mô, nhưng khí giới của chúng ta là khí
cụ bình an và hiên hòa, theo gương cuộc sống của Đức Cố Tổng Giám Mục của chúng
ta. Bởi vì Chúa không cho những người được sai đi mang theo gì cả, không được
dự trữ tiền của hoặc võ trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huốc trắc trở.
Chúa muốn chúng ta phải đến với những người anh em mình một cách đơn sơ chân
thành, không băn khoăn bối rối, không rào trước đón sau. Hơn nữa, còn phải loan
báo Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật, nghĩa là phải lo cho anh em phần
hồn, phần xác. Đi đến với người mạnh cũng như kẻ yếu; quan tâm đến tinh thần và
cả đến đời sống vật chất nữa. Như vậy tức là để ý đến con người toàn diện và
tất cả mọi người. Các người chung quanh chúng ta, bà con hàng xóm láng giềng,
các bạn đồng nghiệp của chúng ta trong cơ quan, xí nghiệp nhất định sẽ tin vào
Chúa Kitô, nếu chúng ta loan báo Chúa Kitô với tinh thần dịu hiền, vô vụ lợi,
hoàn toàn phục vụ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Mọi người sẽ
tin vào chứng ta của chúng ta khi thấy chúng ta sống yêu thương nhau, cộng tác
với nhau cách chân tình, không ganh tị và định kiến, biết tôn trong chân lý và
công bình, sẵn sàng phục vụ lợi ích chung của đồng bào và đất nước. Nhờ sự hiện
diện và hoạt động tích cực giữa đời như vậy, anh chị em sẽ làm sáng danh Chúa
và góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng Nước Trời. Sống như thế, anh chị em mới
có lý do chính đáng để hân hoan vui mừng, vì như Chúa đã bảo đảm: "Anh chị
em hãy vui mừng vì tên tuổi anh chị em sẽ được ghi đậm nét ở trên trời".
12. Sai 72 môn đệ đi rao giảng -
McCarthy
Suy Niệm 1. Mùa gặt bội thu
Kitô giáo là một tôn giáo thực hành.
Catherine de Hueck Doherty là một Kitô hữu nổi tiếng. Sinh ra trong một gia
đình quý tộc ở nước Nga, bà sống phần lớn cuộc đời ở Mỹ. Bà nói: "Ngay khi
còn nhỏ tuổi, tôi biết rằng Tin Mừng là để sống".
Khi đã trưởng thành chị làm công việc
của một người bưng nước trong một quán ba ở Manhattan. Trong một dịp kia, chị
thông báo cho một nhóm lính Mỹ và những bạn gái của họ (họ đều biết chị là
người Công giáo) đã đến giờ đóng cửa (4 giờ sáng) và chị phải về.
"Chị đi đâu, Latie?" họ hỏi.
"Hôm nay Chúa nhật, tôi đi dự
Thánh lễ".
"Vâng, ra cô là người Công
giáo?".
"Vâng" chị đáp.
Họ không thể nào hiểu nổi sự kiện chị
là một người Công giáo hành đạo mà lại làm việc ở một nơi như thế. Tất cả bọn
họ đi theo chị đến nhà thờ dự Thánh lễ. Hai tuần sau, một cô gái trong nhóm trở
lại. Cô ấy nói: "Chị làm tôi suy nghĩ. Nếu chị có thể sống một đời sống
tốt lành khi phải làm việc ở một nơi như thế này, vì thế có lẽ tôi cũng có thể
làm được".
Một lần khác Catherine đi tàu điện ngầm
ở Montrial thì gặp một phụ nữ già, cô độc nói với chị: "Chị có muốn nói
chuyện với tôi một lúc không?". Họ làm hai chuyến đi từ đầu này đến đầu
kia của tàu điện ngầm và nói chuyện hết thời gian. Họ trở thành bạn tốt của
nhau, và thường viết thư cho nhau cho đến lúc người phụ nữ ấy qua đời.
Mùa gặt dĩ nhiên là bội thu đối với
những người có con mắt nhìn nó và một tâm hồn đáp lại. Mùa gặt ấy trong các
bệnh viện, gia đình, trường học, nhà tù, công trường, vùng phụ cận. Mỗi ngày là
một ngày gặt hái.
Đức Kitô sai các Tông đồ ra đi giúp
Người thu hoạch mùa màng. Chúng ta có khuynh hướng để việc ấy cho những nhà
chuyên môn: cho các linh mục, nữ tu, các nhà truyền giáo. Những người mà Đức
Kitô sai đi không phải là những nhà chuyên môn. Tuy vậy, họ đã trở thành những
công cụ của người. Trao trách nhiệm cho một cá nhân và để cho người ấy biết bạn
tín nhiệm người ấy là đem lại cho người ấy một sự giúp đỡ mà ít có sự giúp đỡ
nào bằng.
Nhóm bảy mươi hai bắt đầu là những môn
đệ của Người. Rồi Người hướng họ đến mục tiêu bên trên họ với việc làm cho họ
thành những Tông đồ. Đó là cách thức phải luôn luôn được thực hiện. Chúa yêu
cầu chúng ta chia sẽ với những người khác điều mà chúng ta đã nhận được từ
Người. Có những điều vẫn còn chưa làm được nếu chính chúng ta không làm. Chúng
ta nâng cao chúng ta lên trong mức độ chúng ta nâng cao người khác lên.
Làm một Tông đồ có nghĩa là một người
được sai đi. Để có thể làm được công việc của Đức Giêsu. Chúng ta không cần
phải là một loại thiên tài hoặc siêu nhân nào đó. Có sự khác nhau giữa một Tông
đồ và một thiên tài. Sự khác nhau ấy ít liên quan đến tài năng và trí tuệ, mà
có liên quan đến mục đích và sự dấn thân.
Bởi lẽ người ta được kêu gọi không có
nghĩa để được trở thành thông minh hơn hoặc có nhiều tưởng tuợng hơn trước đó.
Không, người ta vẫn có quan hệ với những ơn tự nhiên. Nhưng giờ đây, họ có
nhiều quyết tâm hơn, nhiều sự dâng hiến hơn. Điều ấy đã tạo ra sự khác nhau to
lớn.
Suy Niệm 2. Làm chứng bằng thương tích
Bốn mươi năm sau khi rời bỏ trại giam
Auschwitz, nhà văn Ý Primo Levi vẫn còn mang hình xăm với con số của ông khi
còn ở đó. Khi người ta hỏi ông tại sao không xoá nó đi, ông đáp: "Tại sao
tôi phải làm thế? Không có nhiều người trong chúng ta được đưa vào thế giới để
làm nhân chứng".
Alexander Solzhenitsyn nói rằng ông vẫn
còn bốn mảnh vải dùng để vá mang con số mà người ta phát cho ông khi còn trong
nhà tù. Ông không phải là người duy nhất đem chúng ra khỏi trại giam. Không xấu
hổ về những điều đó, ông nói: "Trong một số gia đình, chúng được phô bày
ra như những thành tích".
Thánh Phaolô cũng không xấu hổ vì những
dấu tích mà ông mang trên mình ông vì Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, ông bình thản
lôi kéo sự chú ý về những dấu tích ấy (Bài đọc 2). Ông nói với những tín hữu
Galat1: "Những dấu tích trên người tôi là những dấu tích của Đức
Kitô". Bằng từ "dấu tích", ông không có ý nói đến những dấu
thành như Padre Pio và những người khác cho rằng mình được in dấu thánh. Ông
muốn nói đến những dấu tích, vết thẹo mà những gian lao, bệnh tật, sự đánh đòn,
ném đá còn để lại trên thân thể của ông. Đó là những sự trả giá cho việc ông
phục vụ Đức Kitô.
Điều thú vị hơn nữa là sự kiện Đức
Giêsu giữ lại dấu đinh và vết đòng đâm trên thân thể Phục Sinh của Người. Người
ta có thể hy vọng Người làm mất hết mọi dấu tích để chứng tỏ rằng mọi sự đã qua
cả rồi, đã ở sau lưng Người, và bởi vì Người đã không muốn làm cho các Tông đồ
khó xử vì họ đã bỏ rơi Người hoặc những người trực tiếp hay gián tiếp có trách
nhiệm gây ra các dấu tích ấy.
Nhưng Đức Giêsu đã không tháo bỏ mọi
thương tích. Người đã giữ chúng lại. Đối với Người những vết tích ấy không làm
cho Người xấu hổ hoặc bối rối. Chúng là những chứng cứ sống động của tình yêu
Người, là những dấu chỉ hữu hình và hùng hồn một tình yêu chân thật phải trả
giá như thế nào. Chúng giống như những huy hiệu danh dự, hoặc những huy chương
chỉ sự lỗi lạc mà khó khăn lắm người ta mới dành được. Chúng vẫn là những
thương tích nhưng chất độc đã bị trừ khử, và vì thế không còn làm tổn thương.
Bởi vì các thương tích của Đức Giêsu vẫn còn thấy rõ trên thân thể Phục Sinh
của Người, chúng đã trở thành suối nguồn hy vọng cho tất cả chúng ta, đặc biệt
cho những người đã chịu đau khổ và vẫn đang còn đau khổ.
Rất nhiều lần chúng ta muốn che giấu
những thương tích của chúng ta. Chúng ta muốn giấu kín những tổn thương của quá
khứ. Và cả khi bên ngoài của chúng đã lành lặn, chất độc thường vẫn còn lại, và
do đó còn gây thương tổn. Nếu chúng ta yêu, chúng ta phải sẵn sàng chịu thương
tích. Tuy nhiên, điều đó không giúp chúng ta bị đầu độc bởi sự cay đắng và lòng
thù hận. Sự cay đắng là điều tệ hại khủng khiếp. "Người ta có thể sống qua
những gian khổ lớn lao nhưng lại chết bởi những cảm nghĩ đắng cay"
(Solzhenitsyn).
CÂU CHUYỆN KHÁC
Felix Frankfurter là một quan toà nổi
tiếng của Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện ở đó
ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật
và ông biết được nhiều điều về Lucy.
Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được
người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông bắt đầu tự hỏi và suy
nghĩ, cố gắng khám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như
sau: Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nói đơn giản chỉ là sự áp dụng thực
hành đức tin của chị. Ông rất ngạc nhiên bởi vì ông chưa bao giờ biết có người
nào mà đời sống mỗi ngày được đặt trên nền tảng tôn giáo như chị.
Lucy không bao giờ biết đức tin sống
động của chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng cô đã làm cho Đức Giêsu hiện diện
cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức
Giêsu cần những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể trở
thành Đấng an ủi như Người muốn làm.
Một quan hệ thật sự với Đức Giêsu sẽ có
một ảnh huởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức Giêsu. Dĩ
nhiên, những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ khi thuận lợi
nói về Chúa Giêsu một cách rõ ràng cởi mở.
13. Suy niệm của R. Gutzwiller
TIẾP NHẬN NGÀI (10, 1-12)
Nhiều người muốn theo Chúa, song thái
độ của họ chưa thực tình dứt khoát hoặc còn giả tạo nữa. Ngài muốn họ lưu tâm
đến cái quyết định quan hệ của họ và những điều kiện theo sau quyết định ấy.
Mặt khác, Ngài vẫn sai bảy mươi hai môn đệ đi trước.
1. Sứ mệnh.
Họ phải dọn đường cho Ngài. Ngài nói rõ
Ngài sẽ đến những nơi họ đến trước. Họ chỉ là sứ giả, còn Ngài mới là Vua. Họ
là những người khai phá, tiên phong, mở đường, để chính Ngài sẽ đi trên con
đường ấy. Họ làm đất sẵn còn Ngài gieo vãi hạt. Họ dựng khung còn Ngài xây
tường. Họ mở cửa để Ngài bước qua. Trách vụ ấy là của mọi chủ chăn, mọi tông đồ
giáo dân trong nước Chúa.
Con người chẳng thể ban phát của Thánh
được mà chỉ được coi là người thừa hành trợ tá thôi. Nước Thiên Chúa không phải
do con người lập nên và lời Chúa không thể do con người suy tưởng ra được. Dẫu
vậy, Thiên Chúa lại muốn dùng những tạo vật Ngài dựng nên để thực hiện các việc
ấy và Ngài còn muốn con số tạo vật ấy phải thật nhiều: 'Mùa màng nhiều, thợ gặt
ít'.
Như thế, con người cũng có một vai trò
khá quan trọng trong công việc của Chúa, phải xin Chúa ban cho thật nhiều ơn
gọi: 'vậy hãy xin chủ mùa sai thợ gặt đồng lúa của Ngài'. Đã hẳn, Chúa quá rõ
việc thiếu các linh mục và thật sự thiếu. Vì nhiều người được gọi mà họ từ chối.
Còn nếu bình thường mà vẫn thiếu thì hẳn là do giới trẻ không sống xứng đáng.
Vì thế cần phải cầu nguyện cho ơn thiên triệu và như thế là đáp ứng đúng đòi
hỏi của Chúa Giêsu.
Hai mặt của sứ điệp ban cho các môn đệ
là: loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành tật bệnh. Vì thế mới có vấn đề lo cho
phần hồn và săn sóc phần xác, đi đến với người mạnh và kẻ yếu, quan tâm đến
phần tinh thần và cả đến những phần thuộc trần thế nữa. Và như thế, tức là để ý
đến con người toàn diện và toàn thể nhân loại.
2. Mệnh lệnh.
'Này Ta sai các anh như chiên vào giữa
sói'. Như vậy không phải là chuyện những con sói này đối địch với những con sói
kia, hay một con sói phải đương đầu với bầy sói. Nhưng chính là con chiên vào
giữa đàn sói. Chúng ta chẳng thể lấy sức đọ sức, dùng mưu đối mưu, bằng cách
lấy sức mạnh của tiền tài và thế lực của các tổ chức, nhưng khí giới của ta là
khí cụ bình an, khí cụ kiên tâm chịu đựng đau khổ và hy sinh.
Như thế, tỏ rõ cho ta thấy rằng linh
mục ở trong thế gian như 'chi thể xa lạ', 'một chiên giữa bày sói' vừa xa lạ
với những người khác, vì thế không thể gây chú ý. Giáo Hội luôn tỏ rõ là không
quyền lực đối với các quốc gia, Giáo Hội sẽ được giải thoát, thật tuyệt vọng
xét phía nhân loại, thật có cơ biến dạng, duy chỉ có uy lực và quyền thế của Chúa
đỡ nâng.
'Đừng mang ví tiền, bao bị, giày, dép'.
Như thế là không có vấn đề bảo đảm, an toàn theo kiểu thế tục, cũng không có
chuyện đề phòng dự liệu, trang bị cần thiết, tiên liệu những gì có thể xảy ra,
võ trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huống trắc trở. Kết quả tinh thần
không lệ thuộc vào những thành tố ấy cũng như những trở lực ngoại tại.
Con người phải đến với người anh em
mình với thực chất của mình, thật đơn giản và chân thành, không băn khoăn bối
rối, không rào trước đón sau. Tức là, con người sẽ chẳng là chi khác hơn dụng
cụ của Thiên Chúa và được sử dụng như tính cách dụng cụ.
3. Định mệnh.
Đức Giêsu nói đến sự được đón tiếp và
bạc đãi. Tức là, sẽ có những người vì Nước Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận đức
tin, và cũng có những người khác cố chấp và dễ dàng từ chối bằng tiếng 'không'
khô cằn. Sự kiện từ chối ấy quả quá nặng đến nỗi Chúa phải quan tâm đặc biệt.
Khi bị từ chối, môn đệ phải rút đi, và phủi chân khỏi bụi của nhà hay làng ấy.
Tức là dứt khoát tuyệt giao với họ và tiếp tục lên đường. Họ sẽ tránh khỏi hình
phạt và án xử hòng đến.
'Ngày ấy, Sôđôma sẽ được xử khoan dung
hơn thành ấy', khi vinh quang Nước Thiên Chúa tỏ hiện trọn vẹn. Vì trách vụ của
mình, môn đệ đặt niềm tin vào Thiên Chúa thì những ai môn đệ đến gặp cũng được
ở trong tay Chúa như thế, hoặc bị Ngài phạt hoặc được Ngài thưởng.
Các chủ chăn cũng như những giáo dân
trợ tá, tất cả những ai đã cam kết phục vụ nước Thiên Chúa, thì đều phải dự
đoán được những thành công và thất bại để luôn sẵn sàng với 'ưng thuận đón
tiếp' cũng như 'chối từ không nhận'. Thất bại không làm lung lay nao núng,
khiếp sợ....
Vì thế, Đức Kitô đã cẩn thận tiên báo
hết sức rõ ràng, với giọng điệu thật nghiêm nghị. Khi thi hành phận sự nước
Chúa. Ai để mình thất vọng tức là đã không am hiểu Tin mừng.
Chúng ta không thể lấy mất sự lựa chọn
khỏi các cá nhân; chúng ta phải đặt các cá nhân đó đối mặt với sự lựa chọn ấy,
là chính sự lựa chọn có giá trị ngàn đời.
MÔN ĐỆ (10, 17-20)
Sự cao cả của các môn đệ được thể hiện
dưới hai phương diện. Trước hết, đó là uy quyền họ được uỷ thác để thi hành
nhiệm vụ mình: 'Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỉ cũng phải luỵ phục
chúng tôi'. Đức Kitô liền khẳng định: 'Ta đã thấy Satan như chớp nhoáng từ trời
sa xuống. Nầy Ta ban cho các anh quyền dẫm lên rắn rít, bò cạp và trên mọi
quyền năng kẻ thù và tuyệt nhiên không có gì làm hại các anh được'.
Môn đệ Chúa được chính Chúa nâng đỡ để
phục vụ Ngài. Nếu Ngài chẳng tha phép, thì không một tai hoạ nào có thể phạm
đến họ được. Vì thế Ngài có trách nhiệm và bổn phận phải lưu tâm đến đó. Tuy
nhiên, không phải chỉ mình Chúa mà thôi, những cả những ai được Ngài dùng nhân
danh Đức Kitô. Ngài có thể tránh cho họ khỏi ách thống trị của các hung thần,
vì Ngài có quyền trên quỉ ma.
Thế giới quỉ ma là một thực tại vô
hình. Satan là một uy lực thiêng liêng. Bởi thế quyền lực của các môn đệ Chúa
không phải là cái từ bên ngoài đụng đến hay áp lực. Dẫu vậy, rõ ràng là những
sự việc lại xẩy ra dưới hình thức hữu hình, khiến nhãn quan nhân loại có thể
cảm nhận được. Ai chỉ tin vào sức mạnh của thân thể, chỉ tin vào thần tài, vào
ảnh hưỡng chính trị, vào quân sư, vào hoàn cảnh xã hội, thì chẳng thể hiểu thực
sự được các biến cố ấy.
Hoạt động của Giáo Hội được thực hiện
theo chiều cao và sâu. Mà chỉ ở đời sau con người mới nhận ra được đặc tính đặc
biệt và lạ lùng của uy quyền mà Chúa ban cho Giáo Hội. Tuy nhiên, sự việc được
quyền lực ấy chỉ là cái thêm vào. Điều lớn lao hơn là: 'Hãy vui mừng vì tên các
anh đã được ghi trên trời'.
Điều làm cho các môn đệ vui mừng, có
quyền tự hào và thực sự phấn khởi, không phải là sự lớn lao và sức mạnh của
việc họ đã làm, nhưng là mầu nhiệm họ được lựa chọn. Nói tóm, con người chẳng
thể tự mình định đoạt đời mình, mà là được chọn; được Chúa ban ơn cho cách
nhưng không.
Những chọn lựa ấy ở giữa vương quốc tối
tăm của Satan và vương quốc huy hoàng của Thiên Chúa. Kẻ được tuyển chọn, được
làm con sự sáng. Không phải chỉ có hoạt động thôi, nhưng cả đời sống vượt khỏi
những giới hạn hẹp hòi, thế trần. Danh tánh kẻ ấy 'được ghi trên trời'. Bởi
vậy, xét theo mục đích và bản chất, sự việc môn đệ được kêu gọi, quả là một sự
cao cả đặc biệt.
14. Bình an đích thực.
Vào năm 1980, có một tuần báo nọ tại
Hoa Kỳ đã đăng tải một sự cố sau đây: Một người vừa mua hàng trong siêu thị
xong, trở lại xe mình thì ngạc nhiên nhìn thấy một tờ giấy để lại nằm ngay trên
chỗ ngồi của người lái, trên đó có những dòng chữ viết vội như sau:
Thưa ông bà, tôi có ý định đánh cắp
chiếc xe này, nhưng khi nhìn thấy lời chào chúc của ông bà gắn nơi tay lái:
"Bình an của Chúa ở cùng bạn", thì tôi bỗng dừng lại và suy nghĩ. Ý
nghĩ xuất hiện trong đầu óc tôi là nếu tôi đánh cắp chiếc xe này thì chắc chắn
ông bà mất xe và không có sự bình an, tôi đây cũng sẽ không có sự bình an. Đây
là lần đầu tiên tôi bước vào nghề ăn cắp xe.
Xin chúc ông bà và cho cả tôi nữa sự
bình an của Chúa. Chúc ông bà lái xe an toàn và lần sau xin nhớ khóa cửa xe.
Ký tên: Người sắp trở thành kẻ trộm xe.
Câu chuyện nhỏ này làm chúng ta chú ý
đến một trong những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi sai họ ra đi
truyền giáo đến trước những nơi mà Chúa sẽ đi qua để chuẩn bị cho Chúa đến:
"Vào nhà nào chúng con hãy chúc: Bình an cho tất cả mọi người trong nhà
này".
Chỉ một khẩu hiệu dán nơi tay lái chiếc
xe: "Cầu chúc bình an" mà bỗng tác động biến đổi ý định xấu của một
người không làm việc xấu xa nữa, thì thử hỏi nếu những đồ đệ của Chúa, chính
chúng ta đây, nếu chúng ta thực sự trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa
cho anh chị em, và không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi mà còn là tác nhân sống
động mang sự bình an của Chúa đến cho anh chị em xung quanh mà ta thường gặp
hằng ngày; nếu chúng ta thực hiện được điều này thì thử hỏi ta có thể đóng góp
phần tích cực của mình cho sự bình an của anh chị em nơi môi trường chúng ta
sinh sống biết là chừng nào.
Lời Chúa dạy cho các đồ đệ chúc
"bình an cho nhà này" là tiếng vang trước cho lời chúc bình an của
Chúa Giêsu Phục sinh trước khi sai các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng của
Chúa: "Bình an cho chúng con". Chắc chắn khi nghe những lời chúc của
Đấng Phục sinh: "Bình an cho chúng con", các tông đồ nhớ lại lời dạy
trước lúc Phục sinh của Chúa, khi Chúa sai các ngài đi thực tập trước công việc
truyền giáo mà các ngài sẽ chu toàn sau biến cố Phục sinh: "Vào nhà nào,
chúng con hãy cầu chúc: bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con".
Chúa Phục sinh ban sự bình an thật cho
các tông đồ, để các ông ra đi và đến phiên các ông, các ông cũng sẽ cầu chúc
như Chúa đã chúc: "Bình an cho nhà này". Các ông nói như Chúa đã nói,
làm các công việc và những việc lạ như Chúa đã làm, hay đúng hơn theo như lời
Chúa nói là hơn cả những gì Chúa đã làm nữa: "Bình an cho chúng con. Bình
an cho nhà này".
Ước gì mỗi người chúng ta được thật sự
lãnh nhận ơn bình an của Chúa, ơn bình an mà Chúa đã phải chết trên thập giá để
thực hiện cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Ước gì mỗi người chúng ta trước
hết lãnh nhận ơn bình an đó của Chúa và để cho ơn bình an, ơn cứu rỗi thánh
hóa, biến đổi chúng ta để rồi chúng ta có thể nói và làm như Chúa đã nói và làm
"Bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con".
Người truyền giáo phải là kẻ nói những
lời bình an, thực hiện những sự bình an, trao ban sự bình an của Chúa cho anh
chị em. Chúng ta cần kiểm điểm lại lời nói và việc làm của mình xem có phải là
lời nói và việc làm như Chúa hay không? Đó là "Bình an cho anh chị em.
Bình an cho nhà này".
Chúng ta hãy đến lãnh nhận ơn bình an
của Chúa: "Thầy ban cho chúng con bình an của Thầy", để rồi chúng ta
cũng có thể trao sự bình an đó cho anh chị em xung quanh.
Lạy Chúa, xin đừng chấp tội lỗi chúng
con, nhưng xin thương ban bình an cho chúng con, cho Hội Thánh Chúa. Xin biến
đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân của sự bình an, trở thành
khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào
nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy
Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, bình an cho anh chị em,
bình an cho chúng con, bình an cho nhà này. Amen.
15. Người rao giảng
Chỉ có mình thánh Luca ghi lại việc sai
phái bảy mươi hai môn đệ đi trước sửa soạn cho Chúa Giêsu đến. Điều này phù hợp
với việc Chúa kéo dài cuộc hành trình trên đường về Giêrusalem. Công tác của họ
chỉ trong một thời gian hạn định, nhưng trong lời huấn thị đưa ra cho họ, Chúa
Giêsu đã đưa ra những nguyên tắc căn bản áp dụng cho mọi thời. Trước hết Ngài
tỏ cho biết lý do của sự lựa chọn họ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Trước khi thế gian nhận được sứ điệp họ mang tới, họ và những người kế vị họ
phải tha thiết cầu nguyện với Chúa mùa gặt sai thợ đến. Đó là một lời cầu nguyện
mà mọi kẻ phụng sự Chúa Kitô phải dâng lên tự đáy lòng mình. Lòng yêu mến của
chúng ta đối với Chúa sẽ khiến chúng ta cố gắng hoàn thành công tác mau chóng
hơn, và muốn được vậy cần phải có đông công nhân hơn.
Đối với người Do Thái, số bảy mươi hai là
số biểu tượng. Đó là số các trưởng lão đã được lựa chọn để giúp đỡ lãnh tụ
Môsê, với phận sự điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong sa mạc. Đó là số thành
viên của Hội đồng quốc gia. Nếu số bảy mươi hai chỉ đoàn thể nào trong hai đoàn
thể đó thì họ cũng là phụ tá cho Chúa Giêsu. Số đó cũng được coi như số các
nước trên thế giới lúc bấy giờ. Luca là người có tầm mắt quốc tế, có lẽ ông
đang nghĩ đến một ngày mà mọi nước trên thế giới sẽ nhận biết và yêu mến Chúa
Giêsu, như ông đang yêu mến Ngài vậy.
Đoạn Kinh Thánh cho ta biết mấy điều
hết sức quan trọng về người truyền đạo cũng như thính giả.
1) Người rao giảng khi ra đi phải sẵn
sàng chấp nhận sự hiểm nguy "như chiên giữa bầy muông sói", nhưng họ
cũng đừng để cho lòng bối rối vấn vương vào những sự thế tục. Sứ giả cần lên
đường cách nhẹ nhàng.
2) Người rao giảng cần phải chú tâm vào
bổn phận của mình, đừng phí thời giờ vào những nghi lễ lạt lẽo vô vị, nhưng
phải ra đi như những con người được thúc giục bởi một động lực cao cả;
"Người ấy không được chào ai dọc đường"; điều này nhắc lại lời tiên
tri Êlisa bảo tên đầy tớ Giêkhađi đi giúp cho bà ân nhân đất Sunêm khi đứa con
đã chết: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai
chào thì đừng đáp lại" (2V4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự
nhưng là người của Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều
nhỏ nhặt đang khi những việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.
3) Người rao giảng không nên làm việc
để kiếm tư lợi. Người ấy nên ăn những món người ta dọn cho mình, không nên đi
từ nhà này qua nhà khác cố ý tìm nơi dễ chịu hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Chẳng
bao lâu sau khi Hội Thánh được thiết lập đã có những hạng người ăn bám. Cuốn
"Giáo lý của mười hai tông đồ" được viết khoảng năm 100 là cuốn sách
về trật tự Hội Thánh đầu tiên. Trong thời đó có những tiên tri đi lang thang từ
thành này sang thành khác. Sách đã quy định rằng, nếu vị tiên tri nào muốn ở
lại nơi nào lâu hơn ba ngày mà không có việc làm thì kẻ ấy là tiên tri giả, và
nếu tiên tri nào xưng mình ở trong Thánh Linh mà xin tiền hay xin thức ăn thì
kẻ ấy là tiên tri giả. Người thợ đáng lãnh tiền công, nhưng đầy tớ của Đấng
chịu đóng đinh không thể là một kẻ say mê lạc thú.
Ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội,
người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời thi hành sứ mệnh: "Hội Thánh
nhân danh Thiên Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy
của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa
Kitô, Đấng giờ đây đang thiết tha mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời
gọi của Người được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng quảng đại đón
nhận. Quả thật chính Chúa Giêsu một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng này, mời gọi
tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức
được những gì của Người cũng là của chính mình (Ph 2,5). Họ hãy tham gia vào sứ
mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Ngài sai họ đi tới các thành và
những nơi Người sẽ đến. Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của
Chúa Giêsu cộng tác vào cùng một công việc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình
thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn thích nghi với
những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng
khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người" (TĐ33).
Đức Kitô muốn thông ban cho các môn đệ
lòng can đảm trong việc tông đồ nên khi Ngài nói "Ta sai các con"
điều mà thánh Gioan Kim Khẩu chú giải: "Điều này đủ cho các ngươi được can
đảm, điều này làm cho các ngươi được tin tưởng". Các sứ giả được can đảm
vì ý thức rằng mình được Thiên Chúa sai đi, như sau này Phêrô giải thích rõ
ràng cho Thượng Hội Đồng ông hành động như thế nhân danh Đức Giêsu Nagiarét,
"vì dưới gầm trời này không có danh nào khác khiến người ta được cứu
rỗi". Rồi thánh Grêgôriô Cả thêm vào để giải thích huấn thị của Chúa: Đừng
mang bao bị giày dép, đừng chào hỏi ai dọc đường, Người rao giảng phải đặt niềm
tin vào Chúa tới độ dầu không trang bị cho mình những nhu cầu để sống, vẫn xác
tín rằng sẽ không thiếu. Thật thế, nếu Ngài bận tâm cho những sự thế tục, Ngài
sẽ không thể ban phát chung quanh Ngài những sự trên trời. Truyền giáo đòi hỏi
một sự hiến thân bao gồm sự từ bỏ, thế nên thánh Phêrô là người đầu tiên thực
hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất ở Cửa Đẹp đền thờ:
"Vàng bạc thì tôi không có". Thánh Ambrôsiô thêm vào "không phải
để phô trương sự nghèo khó, nhưng đúng hơn để vâng phục lệnh Chúa, dường như
Ngài muốn bảo anh: Thấy tôi là một môn đệ của Đức Kitô mà anh lại xin tiền à?
Chúng ta có thể cho anh ta cái gì còn có giá trị hơn vàng bạc nữa; quyền năng
hành động nhân danh Chúa. Tôi không có cái mà Chúa Kitô không cho tôi, nhưng
tôi có cái mà Ngài cho tôi: nhân danh Chúa Giêsu thành Nagiarét anh hãy dậy mà
đi". Do đó, việc truyền giáo đòi hỏi phải siêu thoát của cải vật chất, cũng
như phải luôn luôn mau lẹ sẵn sàng vì công việc cấp bách.
"Đừng chào hỏi ai dọc đường".
Thánh Ambrôsiô tự hỏi "Sao lại thế? Chúa lại bỏ qua một việc xã giao
thường tình? Nhưng phải để ý Chúa không bảo đừng chào ai nhưng bảo đừng chào ai
dọc đường, không thừa đâu!
Khi tiên tri Êlia sai tên đầy tớ đi cứu
giúp đứa con bà góa bằng cách để cây gậy của vị tiên tri trên đứa bé đã chết,
ông cũng ra lệnh đừng chào hỏi ai dọc đường: Ông có ý bảo phải mau mau cứu bé
sống lại, đừng để chậm trễ vì những người cùng đi đường với mình. Như thế không
phải bỏ qua hết phép lịch sự xã giao, nhưng hạn chế những gì ngăn trở để việc
phục vụ được mau lẹ. Khi Thiên Chúa đã bảo, điều gì thế tục phải tạm thời để
qua một bên, chào hỏi nhau là tốt, nhưng tốt hơn là thi hành cho mau điều Chúa
dạy vì chậm trễ có thể trở nên vô ích.
Về phần thính giả, lời Chúa hôm nay dạy
rằng nghe lời Thiên Chúa là một trách nhiệm lớn. Người ta sẽ chịu phán xét theo
những gì mình đã may mắn biết được. Chúng ta không chấp trách trẻ con điều mà
chúng ta kết án người lớn, chúng ta tha thứ cho người man ri những thái độ,
hành động mà nếu xảy ra nơi người văn minh thì bị trừng phạt. Trách nhiệm là
mặt trái của đặc ân. Chối bỏ lời mời của Thiên Chúa là một tai họa. Ở một
phương diện thì mỗi lời hứa của Chúa có thể thành lời buộc tội cho người nào
nghe đến. Nếu người ấy tiếp nhận các lời hứa đó thì quả thật đó là sự vinh hiển
nhất, nhưng nếu người ấy xén bỏ đi, thì một ngày kia, lời ấy sẽ là chứng cớ
nghịch lại cùng người ấy vậy.
Bảy mươi hai môn đệ trở về với vẻ mặt
sáng rỡ vì những chiến thắng đã dành được trong danh Chúa. Ngài nói với các ông
một câu khó hiểu: "Ta thấy satan bị tấn công và nước Thiên Chúa xuất
hiện". Nó có thể có nghĩa là Chúa Giêsu biết rằng nhát đòn tử thương đã
giáng xuống satan và các quyền lực của nó, tuy rằng chiến thắng cuối cùng có
thể còn trì hoãn lâu.
Nhưng câu đó cũng có thể là lời cảnh
báo cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo satan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã
bị ném ra khỏi trời. Có thể Chúa Giêsu ngụ ý cùng bảy mươi hai môn đệ rằng:
"Các ngươi đã thu hoạch được nhiều thắng lợi, hãy giữ mình kẻo sinh kiêu
ngạo". Chúa Giêsu luôn cảnh báo các tôi tớ Ngài về tội kiêu ngạo và quá tự
tín. Quả thực họ được Chúa ban cho mọi quyền phép, nhưng vinh hiển lớn nhất của
họ là được ghi tên vào sổ trên trời. Có một điều mãi mãi là sự thật, ấy là vinh
hiển lớn nhất của con người không phải là những gì mình đã làm được, mà là
những gì Chúa đã làm cho mình. Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã
giúp con người giảm bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào khác trong y
khoa. Một hôm có người hỏi James Simpson: "Ông cho điều gì là khám phá lớn
nhất của ông?" và mong đợi câu trả lời rằng: "Thuốc mê", vì
chính ông là người đã khám phá ra môn thần dược này. Nhưng Simpson đã trả lời:
"Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giêsu, Chúa Cứu Chuộc của tôi".
Tính kiêu ngạo đã cản đường lên thiên đàng, nhưng đức khiêm nhường là giấy
thông hành để được gặp Chúa.
Chúa sửa sai thái độ của các môn đệ khi
chỉ cho các ông lý do thật để vui mừng, đó là niềm hy vọng đạt nước thiên đàng
chứ không phải trong quyền năng làm phép lạ, khi Người trao sứ mạng này cho các
ông. Trong dịp khác, Chúa cũng cho một bài học tương tự (Mt 7,22-23). Trước mắt
Chúa, thi hành ý Ngài quan trọng hơn là làm phép lạ.
16. Người môn đệ
Nếu bây giờ tôi đặt câu hỏi: có khi nào
chúng ta đã nghĩ tới bổn phận truyền giáo, bổn phận làm việc tông đồ hay chưa?
Chắc hẳn có người sẽ trả lời: Việc tông
đồ, việc truyền giáo là bổn phận của các linh mục và tu sĩ, còn chúng tôi lăn
lóc giữa đời, bận rộn với trăm công nghìn việc, còn thời giờ đâu đề nghĩ tới
chuyện ấy.
Dĩ nhiên, sứ mạng chính yếu của các
linh mục và tu sĩ là hoạt động tông đồ, dẫn đưa mọi người trở về cùng Chúa. Tuy
nhiên, là người giáo dân, chúng ta cũng có bổn phận phải góp phần vào công cuộc
trọng đại ấy.
Thực vậy, tin mừng hôm nay cho thấy
ngoài mười hai tông đồ, Chúa Giêsu còn chọn thêm bảy mươi hai môn đệ và sai họ
đi từng hai người một, đến những nơi chính Ngài sẽ tới. Ngài bảo các ông: Lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù
sống bằng bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta vẫn có thể và phải góp phần vào công
cuộc truyền giáo. Chúng ta có thể và phải là người tông đồ ngay chính giữa lòng
cuộc đời của mình. Vậy chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào? Tôi xin thưa
hãy truyền giáo bằng chính cuộc sống đạo đức và yêu thương của mình, bởi vì nhờ
đó, chúng ta sẽ trở nên một tin mừng sống động, một phản ảnh trung thực của Đức
Kitô.
Trước hết bằng một cuộc sống đạo đức.
Tục ngữ Việt Nam đã bảo: cái nết đánh
chết cái đẹp. Vẻ đoan trang thùy mị của chúng ta sẽ là một mối duyên ngầm,
chinh phục được cảm tình của người khác. Lời nói như gió lung lay, việc làm như
tay lôi kéo. Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và
hấp dẫn người khác. Đứng trước gương sáng của chúng ta, kẻ độc ác nhất cũng
phải xúc động và đặt lại vấn đề. Có những người trở lại chỉ vì thấy một em nhỏ
ngoan ngoãn, lễ độ và siêng năng tới nhà thờ tham dự thánh lễ. Có một thanh
niên được mọi người yêu quí vì anh ta lịch sự, sẵn sàng giúp đỡ những người
chung quanh bất cứ việc gì. Anh ta không phải chỉ tỏ ra mình là người công
giáo, mà hơn nữa, anh ta còn sống niềm tin của mình. Nói cách khác, anh ta đã
sống đạo và người ta có thể bảo: Hình ảnh Đức Kitô luôn phảng phất nơi anh ta..
Tiếp đến bẵng một cuộc sống ngập tràn
tình bác ái yêu thương.
Thực vậy, bằng một đời sống đạo đức,
chúng ta trở nên tông đồ của Chúa giữa lòng cuộc đời. Tuy nhiên, tinh thần đạo
đức ấy phải được biểu lộ ra bên ngoài bằng những lời nói, những việc làm của
chúng ta.
Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều
cơ hội để dẫn đưa những kẻ lầm đừng lạc lối trở về cùng Chúa, để cứu vớt những
linh hồn đang chìm sâu trong tội lỗi. Bằng lời nói chia sẻ và cảm thông, chúng
ta có thể làm cho người khác khỏi cô đơn chán nản. Bằng lời nói an ủi và khích
lệ, chúng ta có thể làm cho người khác khỏi bi quan tuyệt vọng. Bằng lời nói
chân thành và xây dựng, chúng ta có thể làm cho người khác thoát khỏi chốn bùn
nhơ tội lỗi. Bằng lời nói khuyên răn nhủ bảo, chúng ta có thể làm tông đồ cho
Chúa trong gia đìnhminh cũng như trong môi trường mình đang sống. Có nghĩa là ở
khắp mọi nơi.
Tinh thần đạo đức còn phải được biểu lộ
qua những cử chỉ, những việc làm của chúng ta. Mấy người bạn tụ họp và trao đổi
những câu chuyện thiếu đứng đắn, nếu bấy giờ có được thái độ nghiêm túc, chúng
ta sẽ làm cho họ phải dừng lại. Khi người khác bài bác tôn giáo, chúng ta không
được phép yên lặng, vì yên lặng khi phải nói là một tội cũng nặng như nói khi
phải yên lặng. Trái lại, chúng ta hãy lên tiếng bênh vực đức tin, dù có làm mất
lòng bè bạn. Trong trường hợp này, chúng ta không sợ ai cả, mà chỉ sợ một mình
Thiên Chúa, như lời thánh Cyprianô: Hãy sợ Thiên Chúa và rồi chúng ta sẽ chẳng
còn phải sợ một ai cả.
Một cô y tá có thể truyền giáo bằng
thái độ ân cần, bàng nụ cười cảm thông, bằng ánh mắt khích lệ, bằng cử chỉ sẵn
sàng giúp đỡ những người đau yếu. Và như vậy, chúng ta có thể dùng những hành
động bác ái yêu thương để cảm hóa người khác, vì bác ái yêu thương là dấu chỉ
chắc chắn nhất giúp người khác nhận ra khuôn mặt Đức Kitô.
Nếu không phải là một trong số mười hai
tông đồ, thì ít nữa chúng ta cũng phải là một trong số bảy mươi hai môn đệ. Sứ
mạng truyền giáo không phải chỉ là sứ mạng dành riêng cho linh mục và tu sĩ,
nhưng còn là bổn phận chung của mỗi người chúng ta. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
ở bất kỳ địa vị nào, làm bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta cũng có thể và phải
góp phần vào công cuộc truyền giáo, bằng một đời sống đạo đức và nhất là bằng
những hành động bác ái yêu thương.
Ở Pêru có một loại cây rất ngộ nghĩnh,
người ta bản xứ gọi nó là "cây làm mưa". Lá nó hút hơi nước trong
không khí, rồi nhỏ xuống như những giọt sương mai. Vì thế, chung quanh nó mặt
đất lúc nào cũng ẩm ướt. Và trời càng nóng, thì nó càng nhỏ xuống nhiều nước.
Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên
như một cây làm mưa hữu ích cho những người chung quanh đang khô khan. Bằng đời
sống đạo đức, chúng ta hút lấy ơn sủng của Chúa, để rồi bằng những hành động
bác ái yêu thương, chúng ta gieo vãi ơn sủng ấy cho những người chung quanh.
Chúng ta sống đức tin, để rồi nhờ đó
chúng ta làm cho đức tin sống lại trong tâm hồn người khác. Đồng thời, khi làm
cho người khác sống đức tin, thì đức tin của chúng ta sẽ trờ nên mạnh mẽ hơn.
Cũng vậy, muốn được hạnh phúc, thì chúng ta hãy cố gắng làm cho người khác được
hạnh phúc. Niềm hạnh phúc chúng ta làm cho người khác sẽ trở lại với chúng ta
và làm cho chúng ta được hạnh phúc hơn.
17. Truyền giáo bằng đời sống
Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.
Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa
Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestien để rao giảng Tin Mừng. Đồng thời,
Ngài cũng đã chọn lựa và sai phái các môn đệ ra đi, để tiếp tay với Ngài trong
sứ mạng cao cả ấy.
Tuy nhiên những cố gắng ấy dường như
không đáp ứng nổi với nhu cầu khẩn thiết, vì thế mà Chúa đã nói:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.
Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ tới gặt lúa.
Trải qua dòng thời gian, lời xác quyết
này vẫn còn là một sự thật, bởi vì ngày hôm nay con số những người tin nhận
Chúa mới chiếm được 30%, và riêng những người Công giáo thì mới chỉ được có 17%
dân số trên thế giới.
Đồng thời qua lời xác quyết ấy, Chúa
cũng muốn kêu mời chúng ta hãy trở nên là những người thợ gặt của Chúa. Có
nghĩa là, chúng ta cũng hãy góp phần vào việc truyền bá đức tin, làm cho Giáo
hội được phát triển. Dĩ nhiên chúng ta có rất nhiều phương pháp để rao giảng
Tin Mừng.
Chẳng hạn bằng việc ra đi như các tông
đồ các vị thừa sai, bằng việc cầu nguyện như các vị tu sĩ trong dòng kín... Thế
nhưng, hôm nay tôi muốn giới thiệu tới quí ông bà một phương pháp mà mỗi người
chúng ta đều có bổn phận phải thực hiện, đó là truyền giáo bằng chính đời sống,
bằng chính gương sáng của chúng ta.
Để hiểu được hậu quả tốt đẹp mà phương
pháp này đem lại, tôi xin kể hai mẩu chuyện nho nhỏ.
Mẩu chuyện thứ nhất đó là có một người
Tin Lành, nghe tiếng cha Vianney là một người đạo đức thánh thiện, bèn tìm đến
xứ Ars để kiểm tra sự thật. Sau khi ra về, người ta hỏi ông đã thấy được những
gì, thì ông trả lời:
- Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một
người.
Và sau đó thì ông đã trở lại với Giáo
hội Công giáo.
Mẩu chuyện thứ hai đó là có một người
khô khan nguội lạnh, tình cờ đi ngang qua nhà thờ, ông thấy một cô bé đang dẫn
mấy em nhỏ vào nhà thờ. Ông đứng quan sát và rồi đã đi theo cô bé. Thấy nét mặt
trang nghiêm và sốt sắng của cô bé khi cầu nguyện, ông đã thực sự xúc động, và
rồi cuối cùng, ông cũng đã trở về cùng Chúa.
Với hai mẩu chuyện này chúng ta thấy
được sức cảm hóa của gương sáng như thế nào. Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
- Lời nói như gió lung lay, việc làm
như tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói:
- Gương sáng chính là một bài giảng
hùng hồn nhất, có sức lôi cuốn và thuyết phục người khác.
Đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái
và yêu thương của chúng ta chính là một thứ ánh sáng cần thiết cho xã hội như
lời Chúa đã phán:
- Các con là ánh sáng thế gian. Bởi vì
nhờ các việc chúng ta làm mà người khác sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, để
rồi cũng sẽ tin nhận Ngài.
Giữa một thế giới đã xa lìa Thiên Chúa,
đang chìm dần vào sa đọa và tội lỗi, thì chúng ta có bổn phận phải thắp lên một
ngọn lửa, chứ đừng ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Và ngọn lửa chúng ta thắp lên là gì?
Tôi xin thưa đó chính là đời sống gương mẫu của mỗi người chúng ta.
18. Chọn lựa các môn đệ – Veritas.
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Bà Tôrôtê đã nhận định thật hay về cuộc
đời của một người sống theo lý tưởng như sau: Ai mang theo tất cả mọi sự với
mình thì sẽ để lại sau rất ít, và do đó, người đó trước sau vẫn y nguyên như
vậy, không có gì thay đổi và có rất ít cả thể để tìm gặp kẻ đó đang tìm kiếm.
Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì. Để gặp được điều
ta tìm kiếm thì điều kiện phải có là biết từ bỏ hoàn toàn, lừng chừng thỏa hiệp
nửa vời sẽ mang đến tàn phá mà thôi.
Nếu những dòng diễn tả trên diễn tả
đúng cho cuộc sống theo lý tưởng nào đó thì nó lại càng đúng hơn nữa cho cuộc
sống của người đồ đệ của Chúa mà bài Phúc âm hôm nay muốn nhắc lại cho chúng ta
một vài đặc điểm.
Khi Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi rao
giảng Tin Mừng, đặc điểm nổi bật nhất dĩ nhiên phải là sự từ bỏ, để lại đàng
sau nhiều điều, nếu không muốn nói là tất cả mọi điều, để chỉ có Chúa và sự
công chính của Chúa trước hết. Ai muốn mang theo mọi sự với mình thì sẽ để lại
rất ít. Rất ít có cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Người sống ích kỷ muốn
mang theo tất cả mọi sự cho mình thì sẽ để lại rất ít, nhất là khi chết rồi thì
chẳng còn gì và sẽ có rất ít cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Sẽ có rất ít
cả thể để theo Chúa cho đến cùng, để sống trọn vẹn cuộc đời theo Chúa.
Chúa Giêsu ý thức rõ ràng cuộc đời của
môn đệ gặp nhiều thử thách. Ngài sai các ông ra đi như chiên vào giữa sói rừng,
nhưng Chúa vẫn đòi hỏi môn đệ phải có thái độ từ bỏ những an toàn của con người
và do con người tạo ra, đó là tiền, bao bị, giầy dép và liên lạc xã giao thường
tình. Chúa sai các ngài ra đi với lời căn dặn: "Các con đừng mang theo túi
tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường". Đây là những điểm
nói lên sự an toàn của con người, do con người tạo ra và Chúa muốn cho những đồ
đệ của Ngài ra đi làm những công việc của Ngài, không ỷ lại vào những sự an
toàn của con người, do con người tạo ra.
Thật là những lời khuyên, những mệnh
lệnh, xét theo thường tình con người thì rất là ngược đời, nếu không muốn nói
là không khôn ngoan chút nào hoặc không thể thực hiện được. Nhưng Chúa Giêsu
giõng dạc thay đổi nhằm đến một thái độ từ bỏ, không ỷ lại vào những sự an toàn
của cuộc sống.
Một nhà truyền giáo tương lai sắp sửa
lên đường viết thơ cho vị giám mục như sau để hỏi về những điều cần thiết cho
cuộc sống của mình trước khi lên đường đến nhận nhiệm sở, nhà truyền giáo đó
hỏi:
- Có xe để di chuyển không?
- Nhà ở có máy lạnh không?
- Có người giúp nấu cơm cho ăn hay
không?
- Trong nhà có tủ lạnh hay không?
- Có tiền lương mỗi tháng bao nhiêu?
- Có được đi nghỉ hè mỗi năm không? v.v...
Dĩ nhiên nhà truyền giáo đó muốn cho
mình mọi sự an toàn trước khi dấn thân. Nhà truyền giáo đó đã nhận được thơ trả
lời rất nhanh của vị Giám mục yêu cầu đừng đến làm việc truyền giáo nơi giáo
phận của ngài nữa.
Phải chăng, chính bản thân chúng ta cũng
dễ dàng bị cám dỗ bởi những đòi hỏi tiện nghi vật chất cho cuộc đời theo Chúa
của mình. Muốn có thật nhiều thì rốt cuộc chẳng có bao nhiêu. Đó là về thái độ
sống của người đồ đệ của Chúa.
Về nội dung sứ điệp rao giảng thì sao?
Chúa Giêsu căn dặn các đồ đệ trong bài Phúc âm hôm nay: "Vào nhà nào chúng
con hãy nói bình an cho nhà này". Lời này loan báo trước lời chúc bình an
của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi Chúa Phục sinh hiện ra cho các ông và sai các
ông ra đi mang bình an của Chúa đến cho mọi người. Lúc đó, Chúa hiện ra cho các
môn đệ và nói: "Bình an cho các con".
Được huấn luyện, được thực tập trước để
rao giảng sự bình an cho anh chị em mình, nên chắc chắn khi ban bình an cho các
môn đệ, các môn đệ sẽ hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa về hệ quả của lời chúc bình an
này mà Chúa đã phải chết trên thập giá để mang đến cho các ông.
Nhận sự bình an của Chúa, các môn đệ
được sai đi chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Nhưng nếu bám víu vào
những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình và những điều trần
tục, những sự an toàn ích kỷ này thường là những điều gây chia rẽ, xung đột,
bất hòa giữa cá nhân với nhau, đó là nói trên bình diện nhỏ và nếu nói trên
bình diện lớn thì sẽ gây chiến tranh giữa các quốc gia.
Nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ
lo cho sự an toàn ích kỷ của mình thì làm sao có thể chia sẻ sự bình an của
Chúa cho anh chị em được. Ai muốn mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để
lại sau rất ít và rất ít để tìm gặp điều mình mong muốn. Một người không biết
hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì cả.
Lời Chúa hôm nay còn muốn nói với chúng
ta nhiều điều khác nữa, nhưng ít ra trong giây phút này chúng ta hãy xét mình
lại về hai điểm vừa được gợi ra cho chúng ta đó là: Thái độ từ bỏ mọi sự để
theo Chúa không ỷ lại vào sự an toàn của con người, nhưng cần nghĩ đến sự quan
phòng chăm sóc của Chúa cho đời sống của mình. Và điểm thứ hai là chia sẻ sự
bình an của Chúa cho anh chị em. Chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tâm hồn
chúng ta, để chúng ta có được đầy tràn sự bình an của Chúa, qua đó chúng ta có
thể chia sẻ sự bình an ấy cho anh chị em. Chúng ta đến cử hành thánh lễ và
trong thánh lễ trước khi chúng ta đón nhận Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta
được mời gọi nhớ lại lời hứa bình an của Chúa: "Thầy ban cho chúng con
bình an, bình an mà thế gian không thể ban cho".
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta
được sự bình an này và gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây
chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
19. Tử tế
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì
ít". Chúa nhật hôm nay Giáo Hội mời gọi mọi người hãy đưa mắt nhìn đồng
lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới. Thế giới có khoảng sáu tỉ
người, mà những người tin Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3
dân số thế giới nhưng người Công giáo chỉ có không tới 3/o. Có thể là đất nước
Việt Nam chúng ta gần 80 triệu người, mới có khoảng trên 10 triệu người Công
giáo. Vẫn còn biết bao người chưa biết Chúa. Có thể là giáo phận, nhưng cũng có
thể là khu xóm, gia đình, nơi chúng ta sinh sống, làm việc... Vậy ai là thợ gặt
trong cánh đồng lúa ấy?
Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa
Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng, nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ.
Điều này có nghĩa là việc rao giảng không phải chỉ dành riêng cho nhóm 12 là
các tông đồ, nhưng cho số đông những người theo Chúa. Đối với chúng ta hôm nay,
việc rao giảng Tin Mừng cũng không phải là bổn phận của một số thành phần nào
trong Giáo Hội như Giám mục, linh mục hay tu sĩ, nhưng là bổn phận của những
người tin theo Chúa, tức là của mọi người và mỗi người đã lãnh Bí tích Rửa tội.
Như vậy, thợ gặt là tất cả chúng ta.
Thật vậy, ngay từ khi lãnh nhận Bí tích
Rửa tội, từ khi được làm con Chúa, khi được gia nhập vào Giáo Hội, người Kitô
hữu được trao cho một chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng
được trao cho một cây nến sáng được châm lửa, được thắp sáng từ cây nến Phục
sinh, tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô là ánh sáng. Anh sáng ấy đến
thế gian để chiếu rọi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng
soi cho người khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa:
người lãnh Bí tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh
sáng chân thật. Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho
những người chung quanh bằng cách sống trong ánh sáng.
Như vậy, ngay từ lúc được rửa tội, ngay
từ lúc tiếp nhận ánh sáng, thì người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng lãnh
nhận sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô
hữu là đèn sáng, là người được sai đi, sai đi thực hiện công trình của Chúa đến
từng người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt màu da, tiếng nói, tín ngưỡng,
địa vị xã hội... Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn nguy hiểm, thì người Kitô
hữu càng được sai đi; ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền
ấy càng khẩn thiết, như Chúa đã nói: "Thầy sai anh em đi như chiên giữa
bầy sói", bởi vì "Những người mạnh khỏe không cần thầy thuốc, chỉ
những ai bệnh tật mới cần". "Ta không đến kêu gọi người công chính,
nhưng kêu mời những người bất lương ăn năn trở lại".
Tuy nhiên, công việc rao giảng không
chỉ là của con người nhưng là của chính Chúa, Ngài là chủ và là người quản lý.
Chính vì vậy nên khi sai các môn đệ đi rao giảng Ngài không mấy chú trọng đến
phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho các môn đệ là đừng mang theo túi
tiền, bao bị gì cả. Phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho
mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế
với mọi người. Việc sống tử tế này không chỉ đối với những người có hoàn cảnh
và điều kiện tốt, nhưng là một đòi hỏi cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là người
Kitô hữu Việt Nam chúng ta đang sống trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn và chưa
lấy gì làm sáng sủa của đất nước. Đây cũng là điều chúng ta đặc biệt lưu ý hôm
nay.
Một trong những cuốn phim gây nhiều chú
ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim "Truyện Tử tế" của đạo
diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được
trình chiếu trong chương trình có tên là "Đại Dương". Khi một ký giả
ngoại quốc hỏi: "Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để giúp dân tộc
họ sống tử tế?". Nhà đạo diễn đã trả lời: "Điều người ta mong đợi ở
các người Kitô Việt Nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin".
Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây
đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết
Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn
nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và
sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống
tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và
sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà
cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi người Kitô chúng ta.
Có người đã nói lên một sự thật đau
lòng như sau: "Chữ tử tế" bây giờ chỉ thấy ở miệng những người có
tuổi hoặc những người hơi xưa. Thời bây giờ mấy ai còn thì giờ để luận bàn
những chuyện xa xôi ấy". Thật là một lời cảnh báo đáng cho chúng ta suy
nghĩ. Người tử tế dường như đã trở thành loại người quí hiếm trong xã hội. Và
khi lòng tử tế đã trở thành quí hiếm thì dĩ nhiên là những hành động không tử
tế chút nào lại càng gia tăng với cấp số nhân. Đọc báo chí hàng ngày chúng ta
thấy đầy dẫy những hành động không chút tử tế ấy.
Sống cho tử tế, sống cho ra người là
điều cần thiết và quan trọng cho cá nhân cũng như xã hội. Đó là ý nghĩa của câu
nói: "Tiên học lễ, hậu học văn". Tử tế thực sự không phải là có tiền
hoặc muốn là có được ngay. Nó cũng phải được học hành, được dạy dỗ, được tập
luyện, kế thừa và gìn giữ. Tử tế như hoa thơm, hoa đẹp, không thể thiếu được
của cuộc đời.
Một người bạn của đạo diễn Trần văn
Thủy, trước khi chết vì bệnh ung thư đã nói: "Tôi chả có gì phải hối tiếc
vì chúng ta đã sống tử tế với nhau". Lời phát biểu gợi cho chúng ta niềm
vui ngập tràn của 72 môn đệ Chúa sau khi đã hoàn thành công tác được giao phó.
Đó là niềm vui của các tông đồ chân chính, là niềm vui của những ai dám sống tử
tế trong một xã hội không lấy gì làm tử tế và đó chẳng phải là niềm vui của
những người Kitô chúng ta sao?
Xã hội chúng ta đang xuống cấp về mọi
mặt, nhất là mặt đạo đức, đó là thực tế không thể chối cãi. Nhưng "Thà đốt
lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối". Tất cả những điều
chia sẻ trên đây mong ước gợi lên cho mọi người một suy nghĩ: trước khi nghĩ
đến những công việc truyền giáo to lớn rầm rộ, chúng ta cần chú ý đến những
việc nhỏ bé đơn giản, đó là thắp một ngọn nến, tức là thắp một tia hy vọng cho
người tuyệt vọng, mang bình an cho người đau khổ, mang tình yêu đến cho người
bị bỏ rơi... chúng ta làm được những việc đó không?
20. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh
Liêm
HÃNH DIỆN VÌ THẬP GIÁ ĐỨC GIÊSU KITÔ
Sứ mạng của ki-tô hữu hôm nay là rao
giảng Đức Yêsu bị đóng đinh thập giá đã phục sinh, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Khi nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, người ta sẽ biết được Thiên Chúa
yêu thương con người đến độ nào! Thập giá trở thành biểu tượng của Đấng chịu
đóng đinh, và rao giảng về thập giá là rao giảng về tình yêu nhập thể.
Khám phá kho tàng qua thập giá Đức Yêsu
Một đời vất vả lam lũ rao giảng Tin
Mừng, công trạng của Phaolô rất to lớn, nhưng Phaolô nói: "ước gì tôi
không hãnh diện về điều gì khác ngoài thập giá Đức Yêsu, Chúa tôi". Với
người đánh giá mọi sự theo giá trị phàm trần, thập giá chỉ là một cây gỗ, có gì
mà hãnh diện? Cái chết ô nhục trần trụi trên thập giá, có gì đáng tự hào?
Phaolô hãnh diện vì thập giá, không phải vì đó là một cây gỗ, nhưng Ngài hãnh
diện vì Con Người đã chết trên thập giá, Đức Yêsu- Đấng yêu thương con người
đến chấp nhận cái "chết treo thập giá trần trụi ô nhục".
"Đức Yêsu chết treo thập
giá", dạy Phaolô và con người của mọi thời đại rất nhiều bài học. Ai sống
trên đời mà không ham sống lâu, không ham giầu sang, không ham được trọng vọng?
Có nhiều người khi bị nghèo, không được trọng vọng, không quyền cao chức trọng,
thì than thân trách phận, làm như thể cuộc đời họ không còn ý nghĩa gì nữa. Cái
hiểu biết sai lầm này, làm chính đương sự không hạnh phúc, và cũng làm những người
thân cũng như những người sống với họ, bị ảnh hưởng. Có biết bao gia đình tan
hoang vì một trong hai vợ chồng đã có quan niệm sai lạc như vậy.
Hãnh diện vì thập giá Đức Yêsu, là hãnh
diện vì mình chỉ là người trần nhưng được Thiên Chúa yêu thương vô cùng, vì
Thiên Chúa nhập thể đã yêu con người đến chết trên thập giá. Con người đối với
Thiên Chúa thật đáng quý biết bao. Nếu chính Thiên Chúa còn quý trọng con người
đến độ chết cho con người, nghĩa là con người có giá trị thực sự trước Thiên
Chúa, thì con người cũng phải biết yêu thương kính trọng nhau. Thập giá Đức
Yêsu, là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Hãnh diện
vì thập giá, là hãnh diện vì mình được yêu, là hãnh diện vì mình nhận thức được
chân lý, biết được giá trị đích thực của cuộc đời.
Rao giảng Nước Thiên Chúa trong mọi
tình huống
Đức Yêsu đã sai gởi không chỉ nhóm 12,
nhưng Ngài còn sai 72 môn đệ đi rao giảng về Nước Thiên Chúa nữa. Sứ điệp rao
giảng là "Nước Thiên Chúa đến gần". Qua cái chết và sống lại của Đức
Yêsu, "nước Thiên Chúa" đã đến và đang đến.
Đâu là cách hành xử của người ra đi rao
giảng Tin Mừng? Không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép; không chào
hỏi ai dọc đường! Người rao giảng Tin Mừng, chẳng có gì đáng giá ngoại trừ
chính sứ điệp rao giảng. Người rao giảng Tin Mừng, chỉ lo lắng sao cho Tin Mừng
được loan báo, và không bận tâm về những điều không cần thiết như lương thực,
quần áo, giầy dép. Những việc chào hỏi dọc đường có thể làm người có sứ mạng
quên mất công việc chính yếu của họ. Việc rao giảng Tin Mừng, quan trọng và
khẩn thiết hơn tất cả những việc xã giao, chào hỏi. Những gì ngăn trở cho việc
rao giảng, phải được bỏ đi.
Với những người được rao giảng, phải
như thế nào? Với những người tiếp đón các ngài, các ngài chúc bình an và loan báo
cho họ biết "Nước Thiên Chúa đến gần"; với những người không tiếp đón
các ngài, các ngài giũ cả bụi chân lại nhưng vẫn loan báo "Nước Thiên Chúa
đã đến gần". Môn đệ của Đức Yêsu rao giảng tin mừng Nước Trời trong mọi
trường hợp, lúc thuận lợi cũng như những lúc bất thuận lợi, lúc được đón nhận
cũng như lúc bị từ chối.
"Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình
an...". Bình an hệ tại thái độ nội tâm của con người, tuỳ thuộc thái độ
của người đó có sẵn sàng đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa hay không. Phaolô và
các tông đồ, khi đi rao giảng các Ngài bị bắt bớ tra tấn, nhưng các Ngài vẫn có
sự bình an đích thực. Sự bình an mà Đức Yêsu hứa ban cho các môn đệ của Ngài,
và thế gian không thể cướp đi được. Những yếu tố bên ngoài, ảnh hưởng đến con
người, nhưng không thể làm một người "theo Chúa" mất bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Khi nói về thập giá, điều gì gợi lên
trong đầu bạn? Nói thật với lòng mình, bạn thấy "thập giá" có ích lợi
gì không?
2. Bình an là gì? Theo bạn, đâu là điều
kiện để có bình an thực sự?
3. Một ki-tô hữu có được trao sứ mạng
rao giảng Tin Mừng không? Cung cách hành xử cho những người được sai đi loan
báo tin mừng "Nước Thiên Chúa", có áp dụng đối với các ki-tô hữu
không? Tại sao?
21. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ngoài 12 tông đồ, còn có 72 môn đệ
được Đức Giêsu sai đi tiếp nối sứ mạng của Ngài. 72 môn đệ đó tượng trưng cho
ơn gọi nào trong Giáo Hội?
2. Tình hình nhân sự trong việc tiếp
nối sứ mạng của Đức Giêsu trên thế giới hay trong xã hội chúng ta đang sống như
thế nào? Khi ý thức điều ấy, bạn có nghe thấy Đức Giêsu mời gọi bạn làm gì
không?
3. Để làm tông đồ, tức tiếp tục công
việc cứu thế của Đức Giêsu, chúng ta phải làm gì? Chúng ta đã làm gì? Có gì cần
sửa chữa trong quan niệm của chúng ta?
Suy tư gợi ý:
1. Ơn gọi làm tông đồ giáo dân
Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giêsu huấn
luyện đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài, Tin Mừng Luca còn nói tới
số 72 môn đệ được Ngài sai đi. Người ta thường ví ơn gọi của 12 môn đệ với ơn
gọi tông đồ của hàng giáo phẩm và giáo sĩ, là những người thường được huấn
luyện đặc biệt có trường lớp để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Và ví
ơn gọi của 72 môn đệ với ơn gọi tông đồ của giáo dân, là những người được huấn
luyện ở trình độ phổ thông để làm tông đồ.
Đấy cũng là một cách hiểu khá hợp lý.
Thực ra, bất kỳ người Ki-tô hữu nào một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và
Thêm Sức, đều được Đức Giêsu mời gọi tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân
loại. Vì thế, việc cứu độ nhân loại không phải là công việc dành riêng cho hàng
giáo sĩ, mà là nhiệm vụ của bất kỳ người Ki-tô hữu nào, dù là giáo dân, đạo gốc
hay tân tòng. Bài Tin Mừng hôm nay là một dịp nhắc nhở người giáo dân nhiệm vụ
tông đồ hay cứu thế của mình. Đặc biệt những Ki-tô hữu đã có từng được đào tạo
để làm tông đồ trong các chủng viện hay tu viện, mà nay lại đứng trong hàng ngũ
giáo dân. Những người này thường được Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt hơn những
giáo dân khác.
2. Sứ mạng của Đức Giêsu còn bao nhiêu
việc phải làm
Hễ nói tới câu Tin Mừng «Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về»,
chúng ta thường nghĩ ngay tới cánh đồng truyền giáo, làm như Giáo Hội chỉ có
một nhiệm vụ duy nhất là truyền giáo. Thực ra, Đức Giêsu đến là để cứu chuộc
nhân loại, mà trong đó việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng chỉ là một phần,
và chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Nhiều khi
người Ki-tô hữu quá quan tâm đến phương tiện này mà quên đi mục đích của nó,
nghĩa là lấy chính việc loan báo Tin Mừng làm mục đích của việc tông đồ. Mục đích
của Giáo Hội cũng như của Đức Giêsu không phải là loan báo Tin Mừng, mà là cứu
nhân loại, không chỉ đời sau mà còn cả đời này nữa. Cứu nhân loại là làm cho
nhân loại hay con người thoát khổ và hạnh phúc hơn. Loan báo Tin Mừng chỉ một
trong những phương tiện phải làm để đạt được mục đích cứu độ đó.
Ý thức lại vấn đề như vậy, chúng ta thử
tự hỏi: chúng ta đã quan tâm tới vấn đề cứu độ con người như Đức Giêsu chưa?
Một cách cụ thể, chúng ta đã làm gì để những người chung quanh ta bớt đau khổ
và hạnh phúc hơn? Sự hiện diện của ta, với tư cách người Ki-tô hữu hay tập thể
Ki-tô hữu, có làm cho gia đình ta, những người chung quanh ta, xã hội ta đang
sống bớt khổ đau và hạnh phúc hơn không?
Thế giới và xã hội con người hiện nay
còn biết bao tội lỗi, đau khổ, bất công. Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu chưa
thực hiện được bao nhiêu, và còn biết bao việc phải làm. Nhưng có được bao
người muốn dấn thân tiếp nối sứ mạng của Ngài? Việc thì nhiều mà nhân sự thì
ít. Người Ki-tô hữu, dù là giáo dân hay giáo sĩ, có nghe thấy lời mời gọi tha
thiết của Ngài không? Và nếu muốn tiếp tục sứ mạng của Ngài, chúng ta phải làm
gì?
3. Trình tự những việc phải làm của
người môn đệ Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu
sai 72 môn đệ đi. Hãy coi lại xem Ngài truyền bảo họ những gì. Có những điều
chính yếu được xếp theo trình tự thời gian mà cũng có thể là theo thứ tự quan
trọng như sau:
1. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị,
giày dép»: ý nói đừng quá lo toan về những nhu cầu vật chất, mà hãy chú tâm vào
sứ mạng của mình. Việc này được đề cập đến đầu tiên, ắt nhiên là một điều rất
quan trọng. Muốn cứu rỗi người khác mà lại quan tâm đến những nhu cầu vật chất
của mình, vốn đòi hỏi rất nhiều tâm trí và năng lực của mình, thì còn đâu tâm
trí và năng lực để cứu rỗi người khác?
2. «Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường»: ý
nói sứ mạng khẩn cấp, cần tập trung thì giờ và năng lực vào sứ mạng của mình.
Ngoài nhu cầu vật chất, còn những nhu cầu cá nhân khác, cũng cần phải dẹp bớt
để tập trung thì giờ và năng lực vào việc cứu rỗi con người.
3. «Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy
nói: "Bình an cho nhà này!"»: ý nói phải quan tâm tới sự bình an,
thoải mái cho người mình gặp. Sự bình an, không phải sống trong lo âu, sợ
sệt... về tinh thần cũng như thể chất là điều mà người môn đệ Chúa cần phải quan
tâm thực hiện đầu tiên cho mọi người mình được sai đến. Đây là nhu cầu căn bản
và cần thiết nhất của mọi người sống trong trần thế.
4. «Hãy chữa những người đau yếu trong
thành»: ý nói hãy quan tâm đến đau khổ và hạnh phúc của mọi người, và cứu giúp
họ trong khả năng của mình. Người môn đệ của Chúa cần phải quan tâm đến những
nhu cầu hết sức cụ thể của con người. Phải cảm thông với niềm vui nỗi buồn, với
hạnh phúc và đau khổ của mọi người, đồng thời phải cứu khổ và tạo điều kiện
hạnh phúc cho họ một cách hữu hiệu.
5. Và sau cùng mới là «nói với họ:
"Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông"»: ý nói là phải loan báo
Tin Mừng cho họ, tức nói với họ về Thiên Chúa, về nhu cầu tâm linh, về những gì
thiêng liêng.
Ta thấy trình tự trên thật là hợp lý.
Người chung quanh ta có được ta quan tâm tạo bình yên và thoải mái cho họ, thì
họ mới dám đặt niềm tin tưởng vào ta, và mới có điều kiện thoải mái để nghe ta
nói những chuyện xem ra có vẻ ít thực tế hơn đối với đời sống của họ. Thế mà
rất nhiều khi người Ki-tô hữu lại làm ngược lại trình tự mà Đức Giêsu đã đề
nghị. Chúng ta lo loan báo Tin Mừng trước, và coi những việc đáng quan tâm hàng
đầu kia vào hàng thứ yếu. Chính vì thế mà việc loan báo Tin Mừng của chúng ta
trở thành thiếu thực tế, kém hữu hiệu, nên không được đón nhận bao nhiêu từ
nhiều thập kỷ nay tại Châu Á. Do đó, chúng ta cần phải sửa lại quan niệm về
cách làm tông đồ của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Công Đồng Vatican II nhắc nhở
người Ki-tô hữu phải nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải
môi trường mình sống nên tốt đẹp hơn một cách hữu hiệu. Xin giúp con xét lại
xem sự hiện diện của con đã biến cải môi trường con sống tới mức độ nào? Có làm
cho những nơi mà con hiện diện tốt đẹp và hạnh phúc hơn không? Xin cho con biết
quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trước đã, trước khi
loan báo nó ra để người khác cùng sống theo. Xin giúp con biết yêu thương để
quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người chung quanh con, và biến con
trở nên một đấng cứu thế nho nhỏ trong môi trường nhỏ bé con đang sống, là gia
đình con, là môi trường nghề nghiệp của con, khu xóm của con, v.v... Amen.
22. Tại trung tâm bão biển – Lm. Mark
Link.
Chủ đề: "Sứ vụ của chúng ta là đem
bình an của Đức Kitô đến cho thế gian"
Trong năm 1980, một tờ báo phát hành
trên toàn quốc có đăng một câu chuyện khác thường. Một người kia ra xe của ông
đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu
giấy viết:
"Thưa ông/bà;
Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến
khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ 'Peace-Be-to-You' (Bình An-Cho-Bạn) dán trên
kính xe. Nó làm tôi do dự và suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này,
ông bà chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy
bình an, vì đây là 'chuyến ăn hàng' đầu tiên của tôi.Do đó, 'bình an cho bạn'
và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa."
Ký tên: "Người Muốn Ăn Cắp
Xe."
Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ
mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài
phúc âm hôm nay:
"Vào bất cứ nhà nào, trước hết các
con hãy nói, 'Bình an cho nhà này.' Nếu một người yêu chuộng bình an sống ở đó,
lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy lại lời chúc bình
an."
Áp dụng điều này vào câu chuyện nói
trên, chúng ta thấy câu "Bình An-Cho-Bạn" đã nới rộng sự bình an của
Đức Kitô đến cho người muốn ăn cắp xe. Tên trộm này là người bình an trong tâm
hồn, và bình an của Đức Kitô đã ngự trên hắn ta.
Điều đó nêu lên một câu hỏi: Chúng ta
muốn nói gì về "bình an của Đức Kitô"? Bình an đó được cấu tạo bởi
những gì? Khi Kinh Thánh dùng chữ bình an, nó có bốn ý nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, nó được dùng trong ý nghĩa
quân sự--để chỉ về sự thiếu vắng chiến tranh giữa các quốc gia. Do đó, chúng ta
nói, "Các quốc gia đang sống bình yên."
Thứ hai, nó được dùng ý nghĩa cá
nhân--để chỉ về một cảm giác hạnh phúc của con người. Do đó, chúng ta nói,
"Chúng tôi hòa thuận với nhau."
Thứ ba, Kinh Thánh dùng chữ bình an
trong ý nghĩa tôn giáo--để chỉ về một tương giao đúng đắn giữa Thiên Chúa và
con người. Do đó, chúng ta nói, "Chúng ta hài hòa với Thiên Chúa."
Sau cùng, Kinh Thánh dùng chữ bình an
để chỉ một tình trạng mà trong đó mọi người trên mặt đất hài hòa với Thiên
Chúa, tha nhân, và với chính mình. Đây là điều chúng ta muốn nói qua chữ
"bình an của Đức Kitô".
Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn nói khi
Người tuyên bố, "Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy
mà Thầy ban cho các con" (Gioan 14:27). Vị linh mục nhắc lại lời này khi
cử hành Thánh Lễ. Sự bình an này thì không gì khác hơn là Nước Thiên Chúa được
trị đến trên mặt đất-là vương quốc mà chúng ta thường cầu xin trong kinh Lạy
Cha khi chúng ta đọc, "Xin cho Nước Cha trị đến..."
Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã
truyền cho các môn đệ hãy đem vào thế gian trong thời ấy. Chính sự bình an này
mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.
Chúng ta sẽ là các khí cụ mà sự bình an
của Đức Kitô sẽ được trải rộng đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới.
Một loại suy sau đây có thể giúp chúng
ta biết ý Chúa muốn chúng ta thi hành điều này như thế nào.
Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá
75 dặm một giờ, người ta gọi nó là "typhoon" (bão lớn) khi xảy ra ở
Thái Bình Dương, và gọi là "hurricane" (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại
Tây Dương. Để có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa
"frisbee" với một lỗ hổng ở giữa. Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn
dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi
hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ. Đó là
cơn cuồng phong hay cơn bão. Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó-cái
lỗ hổng ở giữa đĩa "frisbee".Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh
tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ,nhưng ở tâm bão thì lại êm ả. Không có một
chút gió lốc.Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh
và ánh nắng chói chang.
Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên
điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để
chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.
Có biết bao cơn bão chung quanh chúng
ta ở trong thế giới này. Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn
và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác. Tuy nhiên, ở bàn Tiệc
Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng
chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui hưởng "bình an của Đức
Kitô." Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở
mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát. Cũng như tâm bão chỉ kéo dài
chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một
giờ. Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão. Người muốn
chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến
bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian. Người muốn
chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh
Lễ, với toàn thế giới.Người muốn chúng ta trở thành các khí cụ mà qua đó sự
bình an của Đức Kitô được trải rộng trên toàn thế giới. Và vì thế Kinh Thánh
nói về bốn loại bình an: sự bình yên giữa các quốc gia, sự hòa thuận giữa chúng
ta, sự hài hòa với Thiên Chúa, và bình an của Đức Kitô-đó là một tình trạng mà
mọi người trên thế giới hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình. Sự bình
an sau cùng này, bình an của Đức Kitô, thì không gì khác hơn là sự trị đến của
Vương Quốc Thiên Chúa. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã thể hiện khi làm
người. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đem vào
thế gian trong thời đại của họ. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền chúng
ta phải đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.
Chính sự bình an này mà chúng ta cầu
xin Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta vào sáng hôm nay:
"Lạy Chúa, xin giúp con trở nên
khí cụ bình an của Chúa, Để nơi thù hận, con đem đến tình yêu; nơi xúc phạm,
con đem đến tinh thần tha thứ; nơi nghi kỵ, con đem đến niềm tin; nơi bất hoà,
con đem đến sự hoà hợp; nơi thất vọng, con đem đến hy vọng; nơi bóng tối, con
đem đến sự sáng; nơi buồn sầu, con đem đến niềm vui.
Lạy Chúa, xin hãy dạy con tìm an ủi
người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết; tìm
yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi thứ tha là khi được tha
thứ; chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; chính lúc chết đi là khi vui
sống muôn đời."
(Thánh Phanxicô Assisi)
23. Chú giải của Noel Quesson
Sau đó. Chúa chỉ định bảy mươi hai
người khác và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành,
các nơi mà chính Người sẽ đến.
Là bạn đồng hành của Phaolô, tông đồ
các dân ngoại Luca nhấn, mạnh đến điểm này của cuộc đời Đức Giêsu. Trong số bốn
thánh sử, Ngài là người duy nhất thuật lại giai đoạn này. Trong lúc Luca viết
ra, Ngài đã thấy các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa các đô thị và
vùng đất của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được khai sinh không
phải do hoạt động của các tông đồ được chính thức ủy nhiệm, nhưng do hoạt động
tông đồ của giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề nghiệp và họ
đã loan báo Đức Giêsu (Rô-ma 16).
Luca nhấn mạnh rằng chính Đức Giêsu đã
thiết lập việc tông đồ của các môn đệ. Đức Giêsu không chỉ sai Nhóm Mười Hai đi
(Lc 9, l-6). Người cũng đã sai bảy mươi hai môn đệ,ra đi và hầu như trong cùng
một thời gian (Lc 10, 1,20) để thực hiện cùng một sứ mạng... vả lại với nhiều
tình huống hơn sứ mạng của hàng giáo phẩm. Người ta sẽ không bao giờ kể lại
điều đó cho đầy đủ, Giáo Hội không chỉ và không trước tiên là Giáo Hoàng và các
Giám Mục mà là "dân Thiên Chúa", là mỗi Kitô hữu.
Tôi có tin rằng Đức Giêsu sai tôi đi không?
Rằng tôi là "sứ giả" "Người được sai đi" của Chúa đến với
người này, người nọ không? Phải có cả các phụ nữ trong số những người được sai
đi đó (Lc 8, 13)
"Bảy mươi hai"... ám chỉ tính
toàn cầu của các dân ngoại được kể ra trong sách Sáng Thế (St 10), một số thủ
bản nói về con số bảy mươi. Dĩ nhiên, con số không hạn chế và cũng không phải
là con số của số học. Tất cả mọi người! Tất cả mọi dân tộc.
Cứ từng hai Người một"... Đây là
con số mà Luật đòi hỏi để một chứng từ được nhận là có giá trị (đệ nhị luật
19,15). Đó cũng là tập quán của những Kitô hữu đầu tiên đi truyền giáo, không
bao giờ họ đi một mình: Phaolô và Bác-na-bê... Bác-na-bê và Máccô... Phaolô và
Si-la...
Đời sống hiện đại, công việc nghề:
nghiệp, khoa học, học đường, văn hóa đã đề cao giá trị của việc kết hợp thành
tổ nhóm. Có phải tôi đang là một ky sĩ độc hành không?
"Đi trước... các nơi mà Người sẽ
đến... " Công việc tông đồ lúc nào cũng phải khiêm tốn. Người ta chỉ có
thể chuẩn bị mà thôi. Chính Đức Gỉêsu sẽ đến làm công việc thật sự. Chúng ta
chỉ là những kẻ mở đường.
Người bảo các ông: "Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa
về".
Trong viễn cảnh mà Đức Giêsu nhắm đến,
rõ ràng là con số bảy mười hai người đầu tiên tuy khá lớn nhưng sẽ không đủ
Những người thợ mới phải không ngừng bắt tay vào công việc. Đức Giêsu nhìn xa
trông rộng? "Mùa gặt" là một hình ảnh truyền thống trong Kinh thánh
để nói về thời kỳ: sau hết, sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời mạt thế (Gian
4,13; Mát-thêu 13,39; Khải Huyền 14, 15-16). Trong Đức Giêsu, thời kỳ sau hết
này đã bắt đầu. Đức Giêsu nhìn thấy sự dồi dào của "mùa gặt thánh
thiêng" ấy mà Thiên Chúa là chủ mùa gặt.
Tôi có thật sự tin chắc rằng nhiều
người, đàn ông cũng như đàn bà sẵn sàng đi theo Tin Mừng? Nhưng các thợ gặt
đang thiếu, Đức Giêsu nói. Tức khắc, trước sự thiếu thợ gặt đó (do vậy không
chỉ là một nhược điểm của thời đại chúng ta), Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một
giải pháp duy nhất là sự cầu nguyện. Đối với Người, rõ ràng là việc tông đồ
không phải là một công việc của con nguời như tuyên truyền hay quảng cáo, nhưng
là một công việc của Thiên Chúa, một ân sủng. Tôi có cầu nguyện để có thêm
nhiều thợ gặt không? Trước hết là giáo dân... nhưng cả các linh mục, tu sĩ nam
nữ. Phần tôi? Tôi có phải là một người thợ gặt làm việc cho công cuộc cứu chuộc
không?
Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em
đi như chiên con di vào giữa bầy sói.
Anh em hãy ra đi? Đây là một mệnh lệnh.
"Thầy" sai anh em...
Đức Giêsu không che giấu sự khó khăn
trong công việc Và chúng ta tiếp tục ngạc nhiên vì có nhiều người bỏ mất đức
tin vì chưng thất bại to lớn trong việc truyền bá đức tin. Tuy nhiên chúng ta
đã được cảnh báo rõ. Hình ảnh cũng làm ta kinh ngạc và khó chịu: tín hữu như
một con chiên con bị một bầy sói tấn công. Chúng ta chớ gán cho hình ảnh những
ý nghĩa mà nó không có. Mọi dân ngoại, mọi người vô ưu đều được Thiên Chúa yêu
thương. Nhưng "đàn chiên bé nhỏ" rất cần có chủ chăn bảo vệ (Ga 15,
18; 10, 1.16). Đức Giêsu đã báo trước chó Giáo Hội của người: Giáo Hội thường
xuyên ở trong tình trạng nguy hiểm? Những thời kỳ yên tĩnh, bình an đúng ra
phải làm chúng ta ngạc nhiêm... Vậy thì hãy có lòng trông cậy.
Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày
dép...
Điều đáng lưu ý là Đức Giêsu sẽ không
đưa ra một hướng dẫn nào về "học thuyết"! Người không nói về nội dung
của đttc tin... nhưng nói về các thái độ cụ thể của những người đi thuyết
giảng! Y phục, hành trang, cách giao tiếp. Các nhà truyền giáo trước hết loan
báo Nước Thiên Chúa bằng cách sống của họ!
Trước tiên, Đức Giêsu đặt ra yêu sách
sống nghèo khó Không nên ỷ vào các phương tiện của con người.. Đức Giêsu đã
không sử dụng các vũ khí của quyền lực, của sự giàu sang của vẻ lộng lẫy, huy
hoàng... Đức Giêsu không ra vẻ "trịnh trọng"; Người "vốn giàu
sang đã trở nên nghèo hèn". Yêu sách đầu tiên của Giáo Hội là theo hướng
của thầy mình, là trở nên nghèo khó.
Đừng chào hỏi ai dọc đường...
Đây không phải là một mệnh lệnh về sự
vô lễ, nhưng về sự cấp bách! Không nên mất thời gian vì những cử chỉ lễ phép
quá, mức và dài dòng, vì những lề thói thế tục.
Trong Luca, điều gây ấn tượng mạnh là
các sứ giả của Tin Mừng "chạy" khắp nơi: Đức Maria chạy, đi thăm
viếng, các mục đồng chạy đến máng cỏ, Phi-líp-phê chạy để đuổi kịp chiếc xe của
một người ê-thi-óp (Công vụ 8,30). Còn tôi thì sao? Vào bất cứ nhà nào, trước
tiên hãy nói! "Bình an cho nhà này!". Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình
an, thì bình an của anh em sẽ đậu trên người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ
quay về với anh em. Giờ đây là một phong cách sống nào đó: sự bình an, niềm vui
trong sáng. Một sự hiệp thông của bình an và mềm vui. Hãy có nơi chính mình một
sự bình an và chuyển sự bình an ấy cho người khác "Bình an của anh em sẽ
đậu trên người ấy..." Tin Mừng cũng chính là điều đó? làm chuyển động một
dòng chảy sung mãn hài hòa giữa các con người.
Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn
uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng
đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì
cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.
Những vấn đề về ăn uống này đối với
chúng ta dường như rất ty tiện. Khi người ta biết những cấm đoán theo đúng nghi
lễ của người Do Thái, những lời ấy của Đức Giêsu vang lên như một 'sự giải
phóng phi thường: anh em hãy ăn mọi thứ thức ăn mà không cần bận tâm xem những
thức ăn ấy tinh khiết hay ô uế. Ở đây, Đức Giêsu xuất hiện với chúng ta như một
người thật sự đi trước thời đại của mình. Thật vậy; Người biện hộ cho một sự
cởi mở phóng khoáng đối với tục lệ và tập quán của những người khác chấp nhận
các tục lệ văn hóa của các dân tộc mà chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng! Điều đó
đi rất xa.
Hãy chữa những người đau yếu trong
thành, và nói với họ: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
Tin Mừng này trước tiên rất cụ thể; rất
thực tiễn. Đó là một Tin Mừng, bằng hành động làm điều thiện, đẩy lui điều ác
an ủi, cứu chữa...
Triều đại của Thiên Chúa. Kế hoạch của
Thiên Chúa. Dự án của Thiên Chúa. Người ta chờ đợi Triều đại đó cho thời kỳ sau
hết. Triều Đại ấy. có ở đó, Đức Giêsu nói... rất gần? Rất gần anh em. Triều đại
trong đời thường, thông thường nhất, của anh em, và anh em không biết khám phá
sự gần gũi ấy. Triều đại của Thiên Chúa là gì? Chính là Đức Giêsu. Đó là hạt
giống mầu nhiệm của Thiên Chúa được đặt vào chính tấm lòng của con người. Với
Đức Giêsu, Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa ở đó, ngay từ bây giờ. Trong Đức
Giêsu, sự hoàn thành của thế gian đã được lan rộng. Tin Mừng là một điều gì rất
đơn giản: chính nghĩa của Thiên Chúa sẽ chiến thắng và chính nghĩa ấy là tương
lai tuyệt đối của con người, và nó đã bắt đầu! Thế gian sẽ không trường tồn mãi
mãi, lịch sử của nhân loại sẽ có lúc kết thúc, nhưng sự chấm dứt này không phải
là hư vô, mà chính là Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa, chính là tham dự trước
vào sự thành công ấy, chính là ngay từ bây giờ làm cho chính nghĩa của con
người thành công vì chính nghĩa của con người chỉ là một với chính nghĩa cửa
Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Một cách cụ thể, Triều đại của Thiên Chúa
chính là "thực thi thánh ý của Thiên Chúa": Nguyện "Nước Cha trị
đến, ý cha thể hiện dưới đất! Và thánh ý của Thiên Chúa, chính là điều tốt lành
trọn vẹn của con người: sự chữa trị các bệnh tật thực sự hư hỏng tính toàn vẹn
của con người) là một dấu chỉ của thánh ý ấy: "Anh em hãy cứu chữa con
người? " Triều đại của Thiên Chúa ở đó, rất gần!
Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta
không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: "Ngay cả bụi trong
thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin gửi trả lại các ông. 'Tuy
nhiên các ông phải biết điều này. Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. "Thầy
nói cho anh em hay: trong ngày ấy thành Xơđom còn được xử khoan hồng hơn thành
đó".
Rõ ràng Đức Giêsu đắ đối diện với các
thất bại, các sự khước từ không tin... Nhưng sự báo trước chính nghĩa của Thiên
Chúa phải thành công (cũng là sự thành tựu của chính nghĩa con người?) vẫn tồn
tại; dù các ông, có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, và đó
là Ngày Phán Xét... dĩ nhiên, các ông là những người cố tình và ngoan cố chối
từ, các ông sẽ ở lại bên ngoài sự thành công ấy mà lẽ ra làm sự thành công của
các ông.
Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói:
"Thưa Thầy nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng
con". Đức Giêsu bảo các ông: "Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ
trờisa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời".
Nhóm Bảy Mươi Hai đầu tiên không chỉ có thất bại công việc tông đồ của họ đã thành công: những quyền lực của sự ác đã lùi ' bước. Đó là một nỗi vui mừng Đức Giêsu làm giảm nhẹ chủ nghĩa đắc thắng có hơi ngây thơ và rất tự nhiên của họ: anh em hãy thán phục, phải! Nhưng nhất là hãy tạ ơn, hãy đi vào nội tâm! Niềm vui chủ yếu là được tham dự vào Thiên quốc, và đã tham dự rồi.
Sưu tầm
sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời".
Nhóm Bảy Mươi Hai đầu tiên không chỉ có
thất bại công việc tông đồ của họ đã thành công: những quyền lực của sự ác đã
lùi ' bước. Đó là một nỗi vui mừng Đức Giêsu làm giảm nhẹ chủ nghĩa đắc thắng
có hơi ngây thơ và rất tự nhiên của họ: anh em hãy thán phục, phải! Nhưng nhất
là hãy tạ ơn, hãy đi vào nội tâm! Niềm vui chủ yếu là được tham dự vào Thiên
quốc, và đã tham dự rồi.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét