HÔM NAY THỨ TU, NGAY 10/04/2013 TẠI HỌC VIỆN THỪA SAI GÒ MÂY, ĐỨC CHA PHÊRÔ TRẦN ĐÌNH TỨ, ĐẶC TRÁCH HỘI THỪA SAI VN ĐÃ TRUYÊN CHỨC PHÓ TẾ CHO CHO 10 THÀY TRONG HỘI THỪA SAI ĐÓ LÀ:
- GIUSE VŨ ĐỨC TÂN CHÂU
- GIUSE TRÀN QUANG ĐỊNH
- GIUSE NGÔ QUANG HIỆP
- ĐAMINH NGUYỄN HỮU HÙNG
- PHÊRÔ PHAN KHẮC SÙNG
- GIUSE NGUYỄN VĂN THƯỢC
- GIOAN .B. NGUYỄN THANH TỊNH
- GIUSE LƯU NGỌC TUẤN
- GIÚE TRÀN QUỐC THANH
- PHÊRÔ M. NGUYỄN NGỌC VIỆT
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH
- Năm C
Lời Chúa: Cv 5,27b-32.40b-41; Kh
5,11-14; Ga 21,1-19
MỤC LỤC
1. Mẻ lưới
2. Mẻ cá
3. Thủ lãnh Giáo Hội – Thiên Phúc
4. Chúa đó
5. Mầu nhiệm Giáo Hội - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
6. Chúa hiện ra gần biển Tibêria – R.
Veritas
7. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội – R.
Veritas
8. Hãy tin vào tình thương Chúa
9. Bữa ăn trên bờ biển
10. Bảo đảm cho sự chân truyền –
Achille Degeest
11. Thiên Chúa không bỏ con người -
McCarthy
12. Có Chúa nâng đỡ
13. Hiện ra
14. Sống lại
15. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
16. Chú giải của Noel Quesson
17. Chú giải của Fiches Dominicales
18. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà
Lạt
1. Mẻ lưới.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta
nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ
đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước
rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa.
Suốt đêm hôm ấy các ông đã vất vả và
cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì. Sáng đến, theo sự chỉ dẫn của một người lạ
mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp
các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng
chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.
Theo nhiều nhà chú giải thì mẻ cá lạ
lùng này chính là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Thực vậy, các môn đệ
theo lời Chúa chỉ dạy đã hoạt động và ngay khi không có chút hy vọng gì thì
cũng vẫn có thể quy tụ mọi người từ mọi nơi thành một cộng đoàn duy nhất, vì
các ông đã làm theo lời Đấng đã sống lại. Con số 153 con cá được đưa ra ở đây
cũng có thể góp phần làm nổi bật ý tưởng trên. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà
động vật học hồi xưa phân biệt được 153 loại cá. Do đó con số này tượng trưng
cho tất cả mọi thứ cá trong biển. Và như thế, dưới cái nhìn của các nhà chú
giải thì mẻ lưới của các tông đồ sẽ quy tụ toàn thể gia đình nhân loại để làm
thành một cộng đoàn duy nhất.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc thi hành
sứ mạng của Chúa Giêsu Phục sinh không phải lúc nào cũng dễ dàng ngay cả đối
với các môn đệ. Bài đọc I, trích sách Tông đồ Công vụ đã nêu lên những khó khăn
của việc rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ đã bị cấm không được rao giảng danh
Chúa Giêsu. Lệnh cấm ấy lại xuất phát từ thẩy cả thượng tế. Trong chính cuộc
đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài cũng đã từng gặp phải những khó khăn từ phía
những người lãnh đạo Do Thái giáo. Và cuối cùng Ngài đã phải chết vì tay họ.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi
tới một kết luận thực hành. Kết luận ấy như thế này. Công việc rao giảng Tin
Mừng Chúa Phục Sinh, không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục tu
sĩ, mà còn là một bổn phận chung của mọi người tín hữu. Chu toàn được bổn phận
ấy không phải là một việc dễ dàng, trái lại ở mọi nơi và trong mọi lúc, người
tông đồ đều có thể gặp phải những khó khăn, những phản kháng.
Trong những hoàn cảnh như thế, nếu chỉ
cậy dựa vào sức lực và tài năng riêng của mình, chúng ta sẽ dễ dàng nản chí và
chắc chắn sẽ đi tới chỗ thất bại. Trái lại nếu biết cậy dựa vào tình thương và
ơn sủng của Chúa, chúng ta sẽ luôn có được một lòng hăng hay và nhiệt thành để
rồi sẽ đi tới thành công, bởi vì đối với Chúa, không có điều gì mà Ngài không
thể làm được.
Noi gương các môn đệ, chúng ta hãy vâng
theo lời Chúa, ra khơi và thả lưới, để nhờ đó chúng ta sẽ đem về cho Chúa những
tâm hồn sám hối.
2. Mẻ cá
Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực
nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng
theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ
cá lạ lùng.
Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa
Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên
nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng
say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho
những người con yêu dấu.
Sau bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự
riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi
đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài ở trần gian, Ngài muốn ông phải
yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Đồng thời Ngài cũng muốn
sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài ba lần trong cuộc thương khó.
Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành, bằng
cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng
lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng chăn dắt các chiên con và
chiên mẹ của Ngài.
Như thế, Phêrô và những đấng kế vị ông
trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa.
Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất, chúng ta hãy lắng nghe và ngước
nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng
soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc sống vĩnh cửu. Giông tố có thể
nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, bởi vì
ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để chúng ta nhận ra con đường phải
đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao giờ bị sóng nước vùi dập.
Sau khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo
Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô được biết: Một tương lai không mấy
sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng
sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói: Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý.
Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không
muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô
biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa.
Qua dòng thời gian, biết bao nhiêu vị
tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh
Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao nhiêu người đang âm thầm chịu đựng
những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng cho đức tin của mình. Những người
này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Bổn phận của chúng ta là phải cầu
nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị em đang gặp phải những gian nan
thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong niềm tin của mình.
3. Thủ lãnh Giáo Hội – Thiên Phúc
(Trích trong 'Như Thầy Đã Yêu')
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau
cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ
tha của Người, được kể lại như sau:
Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt
bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu
khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo
thánh.
Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người
đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi:
"Quovadis?"nghĩa là "Người đi đâu đó?"Người ấy trả lời:
"Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa". Ông chợt
hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực
hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu
bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính
ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình
không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.
Con người ấy chính là Phêrô, và cái
chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thầy bảo
thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý.
Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn
anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách
nào để tôn vinh Thiên Chúa".
Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực,
nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới
đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa
đã chọn làm "đá tảng", thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của
Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:
Sau biến cố Phục sinh, các tông đồ trở
về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: "Tôi đi đánh cá
đây". Các môn đệ khác cũng đồng tình: "Chúng tôi cùng đi với
anh". Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách
lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói:
"Chúa đó!"Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng
nhiệt, năng nổ, hăng hái.
Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong,
Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh
Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?". Thật
tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người
lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả
là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại
lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn".
Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh
thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho
ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ
lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến
Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của
Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".
Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ
lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống
vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn
chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu "Như Thầy đã
yêu".
4. Chúa đó
(Trích trong 'Manna')
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về
Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là
thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời
kín đáo: "Tôi đi đánh cá đây."Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp
lại: "Chúng tôi cùng đi với anh". Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm
trong nhóm. Đây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với
nhau cả đêm, và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy nhiên, họ cũng là những người có
tính tình khác nhau.
Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến
thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng sau đó, ông cứ
điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn
tả một tình yêu.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh
của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những
khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Đây không phải là một nhóm bạn khép
kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của
Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào
thế giới.
"Không có Thầy anh em chẳng làm gì
được"(Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ
cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn
được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa
ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh
lễ.
Chúng ta thường quên thánh lễ là một
bữa ăn, qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời
dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi
bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa
tập trung nơi thánh lễ.
Đó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho
Hội Thánh.
Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh
đạo bởi Simon Phêrô.
Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và
chết vì Thầy, nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo. Ba lần chối được
hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu: "Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết
con yêu mến Thầy". Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:
"Hãy chăn dắt chiên của Thầy."
Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của
Thầy chí thánh, cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên. Hãy
theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến. Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước
theo Thầy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta
trong đời thường, giữa lúc ta nhọc nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa
đến với bạn và cho bạn một "mẻ cá lớn"không?
Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam? Đó
có phải là một Hội Thánh đầy tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng
các bí tích và được lãnh đạo bằng tình yêu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con
tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị
Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin
hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin
hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh
em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông
Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không
được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá
cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình
ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang
đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
5. Mầu nhiệm Giáo Hội - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm
đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần
gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi
thiết lập.
Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là
yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia
đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là
người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền,
nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong
một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu
thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo
hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: "Phêrô, con có mến Thầy không?". Có
yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của
Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu
mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.
Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống
truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề
đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn
như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: "Hãy theo Thầy,
Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta". Muốn
đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi
nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng
vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà
phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi
là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn,
có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả,
khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện
của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.
Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có
hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt
động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội
không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được
con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe
Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không
còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp
yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng
Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để
hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn
hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày
cho đến tận thế".
Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét
theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự
hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ,
quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ
thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên
vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều
kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội
luôn mãi.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa,
con cảm tạ Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ
có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài
Tin Mừng hôm nay?
2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ
quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?
3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó
khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?
6. Chúa hiện ra gần biển Tibêria – R.
Veritas
(Trích trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng
Ngày')
Trong số các Giám Mục nổi tiếng can đảm
của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng
giám mục Giáo phận thủ đô San Sanvador. Ngày Đức Cha còn sống, Chúa nhật nào
nhà thờ chính tòa cũng chật ních tín hữu đến tham dự thánh lễ và nghe ngài
giảng. Đức Cha thường cho giáo dân biết tin tức liên quan đến Giáo Hội, đến
tình trạng trong nước và mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực, bất công và nghèo
đói do chính quyền cũng như phe du kích gây ra cho dân chúng. Đức tổng giám mục
Romero cũng dùng đài phát thanh để gây ý thức nơi dân chúng và thẳng thắn tố
cáo các vụ vi phạm quyền con người do các lực lượng nói trên chủ mưu. Nhưng
tiếng nói của Đức cha không làm cho chính quyền quân đội El Sanvador cũng như
lực lượng du kích hài lòng. Sau nhiều lần hăm dọa mà không có kết quả, những kẻ
thù ghét Đức Cha đã quyết định giết ngài. Sáng ngày 24/03/1980 họ đã sai người
ám sát Đức tổng Giám mục Romero ngay trong nhà nguyện của bệnh việc thủ đô, nơi
Đức tổng Giám mục hằng ngày vẫn đến dâng thánh lễ cho các nữ tu, nhân viên y tế
và bệnh nhân. Kẻ sát nhân ngồi trà trộn trong số các tín hữu hiện diện. Không
hiểu Đức cha có linh cảm mình sắp sửa phải đổ máu ra như hiến tế mưu cầu hòa bình
cho một dân tộc El Sanvador hay không, nhưng trong vài lời suy tư ngắn trong
Phúc Âm, Đức cha nói: "Như chủ chăn sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên,
Ngài cũng sẵn sàng chết miễn là nước nhà được hòa bình tươi sáng, nhân dân El
Sanvador được sống trong ấm no thịnh vượng". Đức Cha rời tòa giảng tiến
lên bàn thờ, thì chính lúc đó kẻ sát nhân tiến lên rút súng bắn Ngài. Đức Tổng
Giám mục Romero gục ngã trước bàn thờ máu lênh láng chảy và thánh lễ cuối cùng
của vị chủ chăn hôm đó đã dang dở, nhưng đã thành Thánh lễ trọn vẹn. Vì vị chủ
tế đã trở thành con chiên hiến tế y như Chúa Giêsu trên Thập giá ngày xưa.
Đức tổng Giám mục Romero đã chết vì đã
trung thành với sứ mệnh chủ chăn của Ngài: "Thà vâng lời Thiên Chúa còn
hơn vâng lời người ta". Cái chết tử đạo của Đức cha giúp chúng ta hiểu sứ
điệp Lời Chúa trong Phụng Vụ Chúa Nhật III mùa Phục Sinh hôm nay.
Sách Tông đồ công vụ là cuốn sách kể
lại lịch sử thời giáo hội sơ khai, trong đó, nét nổi bật nhất của Giáo hội thời
đó là thực tại Kitô hữu bị bách hại. Cũng như Chúa Giêsu đã bị khước từ và bị
bắt bớ trong lúc rao truyền Tin Mừng cứu độ thế nào, thì giờ đây cộng đoàn Kitô
hữu tiên khởi cũng bị bắt bớ như vậy.
Tin Mừng mà các tông đồ vâng lệnh Chúa
Giêsu tiếp tục rao giảng được dân chúng đón nhận như bị giới lãnh đạo khước từ,
đặc biệt là giới lãnh đạo tôn giáo. Ngay từ đầu, các tông đồ đã ý thức được
rằng khi các nhà lãnh đạo chống đối lời rao giảng là họ đã chống đối chính
Thiên Chúa và chương trình của Ngài, chứ không phải chỉ chống lại các tông đồ,
vì các tông đồ chỉ là dụng cụ loan báo Tin Mừng cứu độ. Nói cách khác, mọi cuộc
bách hại Kitô hữu đều bắt nguồn từ thái độ thù ghét Thiên Chúa và chống lại
chương trình cứu độ của Ngài. Chương trình mà chính Chúa Giêsu Kitô đã thành
toàn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Nhiều người Do thái dù rất đạo đức
và chân thành cũng không chấp nhận Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài. Đối với
họ, Chúa Giêsu đã không sống theo luật Môisê và giáo huấn của Kinh Thánh, vì
thế họ cần phải thủ tiêu Ngài. Nhân danh các luật lệ và giáo huấn, giới tư tế
đã cấm các tông đồ phổ biến sứ điệp của Chúa Giêsu. Nhưng lời rao giảng của các
tông đồ có mục đích giúp mọi người hiểu rằng: "Giáo huấn Kinh Thánh dẫn
đưa con người đến chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đã thành toàn chương trình cứu
độ".
Tin Mừng của Chúa Giêsu tiếp tục Kinh
Thánh Cựu Ước Do Thái, vì thế mọi người phải vâng lời Thiên Chúa, Đấng đã nói
qua các ngôn sứ và sau cùng qua Đức Giêsu, Đấng đã hứa trao ban ơn tha tội và
ơn cứu rỗi cho con người, Đấng đã từng bước trong lòng lịch sử dân Do Thái, và
sau cùng trong bản tính nhân loại của Đức Giêsu thành Nazareth, nghĩa là phải
vâng lời Thiên Chúa của toàn Kinh Thánh và trở về với Ngài chứ không phải là
chiều theo ý muốn của giới lãnh đạo trần gian.
Áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày,
qua chương 5 sách Tông đồ Công vụ, Thiên Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta điều này:
Ngài cần đến các nhân chứng biết vâng lời bằng thái độ không vâng theo giới
lãnh đạo trần gian dối trá, tham lam và ác độc. Bằng cách biết nói
"không" với các đề nghị và dàn xếp đổi chác của họ, biết cương quyết
nói "không" trước những ve vuốt, tâng bốc hứa hẹn, lợi lộc và cạm bẫy
họ giăng để biến đổi Tin Mừng trở thành dụng cụ phục vụ họ và vô hiệu hóa giáo
huấn của Chúa. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời bằng cách cương quyết
chống lại tất cả những gì đe dọa sự sống, phẩm giá, tự do và tính chất thánh
thiêng của con người. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời Ngài bằng cách nói
"không" với tất cả những gì nghịch với luật Chúa và lương tâm của
mình. Cho dù tiếng "không" ấy được cất lên mà có phải thất bại và
thiệt hại trong cuộc sống đi nữa, thì họ vẫn cương quyết giữ vững lập trường để
bảo vệ giáo huấn Tin Mừng của Ngài. Chỉ khi nào người tín hữu Kitô biết sống
như thế thì họ mới diễn tả trung thực lòng tin của mình vào Chúa Kitô Phục Sinh
mà họ tôn vinh và cử hành trong Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật trong năm.
Cũng giống như kinh nghiệm của tác giả
sách Khải Huyền trong chương 5, "chính trong bầu khí Phụng Vụ Chúa Nhật,
chính lúc tụ họp nhau lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể mà Kitô hữu sẽ
được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và bối cảnh cuộc
sống thần thiêng vĩnh cửu mai sau.
Nói một cách khác, các buổi cử hành
Phụng Vụ Thánh Thể rất quan trọng trong đời sống đức tin của người tín hữu Kitô
vì đó là suối nguồn ân thánh giúp vun trồng đồng cỏ cuộc sống thiêng liêng và
ba loài hoa quí là tin cậy mến. Nếu không ý thức được sự thật tuyệt vời này,
Kitô hữu sẽ không bao giờ sống Phụng Vụ một cách trọn vẹn. Mỗi một Kitô hữu,
mỗi một cộng đoàn Kitô hữu không sống các thực tại nhiệm mầu của Phụng vụ một
cách trọn vẹn và sâu thẳm thì sớm muộn cũng trở thành thờ ơ bất động, tê liệt
và nguội lạnh. Mà nguội lạnh là sắp chết nếu không nói là đang chết hay đã chết
như một cái xác không hồn bất động. Nếu không biết ý thức và cảnh tỉnh, người
Kitô hữu rất dễ trở thành những cái xác nguội lạnh không hồn và sẽ là những bộ
phận ung thối rữa nát trong thân mình Giáo Hội.
Chương 21, thánh Gioan đã tường thuật
biến cố Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và can thiệp giúp các ông
đánh được mẻ cá lớn sau một đêm lao nhọc mỏi mệt mà chẳng bắt được gì. Qua đó,
thánh sử muốn nhắn nhủ chúng ta những điều sau đây:
1. Nếu không muốn lao nhọc một cách vô
ích trong công việc làm và cuộc sống mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Phục
Sinh để Ngài hoạt động, hiện diện và hướng dẫn chỉ vẽ cho chúng ta trong mọi
sự: nghĩa là biết vâng lời Đức Kitô Phục Sinh quẳng lưới phía bên phải. Trong
truyền thống Kinh Thánh, bên phải là phía của phúc lành. Rất tiếc trong cuộc
sống chúng ta lại thường cứng đầu cứng cổ, quẳng lưới bên trái là phía của án
phạt và chúc dữ.
2. Chúng ta hãy biết noi gương Chúa
Giêsu Phục Sinh duy trì chiều kích nhân bản của cuộc sống. Phúc âm thánh Gioan
là Phúc âm thiêng liêng kết thúc với hình ảnh Chúa Giêsu Phục Sinh sửa soạn bữa
ăn sáng cho các tông đồ trên bờ hồ Tibêria chứng minh cho thấy tất cả chiều
kích nhân bản trong kiểu cách sống của Chúa Giêsu. Đức Giêsu thành Nazareth
trước kia và Chúa Giêsu Phục Sinh giờ đây vẫn là một. Ngài chuyện vãn đối thoại
với các tông đồ. Ngài chú ý đến công việc làm, các sinh hoạt, các vấn đề khó
khăn của họ và ngồi ăn với họ.
Mầu nhiệm Nhập Thể dạy cho chúng ta
biết rằng đức tin của chúng ta sẽ không vững chắc nếu không được xây trên chiều
kích nhân bản với tất cả cái phong phú tuyệt diệu của nó.
Khi còn sống và rao giảng Tin Mừng,
Chúa Giêsu đã luôn luôn yêu thương bênh vực những người nghèo hèn, bé nhỏ bị
gạt ra lề xã hội. Giờ đây, khi trao ban cho Phêrô chăn dắt chiên con, chiên mẹ,
biểu tượng cho lớp người yếu đuối, khiêm tốn, bé nhỏ, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh
vẫn tiếp tục đường hướng mục vụ ấy và muốn Giáo hội tiến bước trên con đường
này.
3. Trong sứ mệnh phục vụ này, cường độ
của tình yêu thường là điểm qui chiếu và thước đo duy nhất. Càng yêu mến Chúa
Giêsu Kitô nhiều bao nhiêu thì công tác phục vụ của Phêrô càng trung thực với
tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô và càng hữu hiệu bấy nhiêu.
Vấn đề ở đây không phải là khả năng trí
thức, học cao biết rộng, mà là biết yêu mến nhiều nhất, yêu thương nhiều hơn
hết đó là tước hiệu duy nhất có giá trị biện minh cho quyền bính cai trị, nghĩa
là phục vụ trong Giáo hội.
4. Tinh thần sẵn sàng theo Chúa Giêsu
Kitô không phải để bước đi trên con đường danh vọng có nhiều đặc quyền đặc lợi,
được người đời ca tụng kính nể, mà là để bước đi trên con đường Thập Giá khổ
đau dẫn đến cái chết Phục Sinh.
7. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội – R.
Veritas.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Những bài đọc của phần phụng vụ Lời
Chúa trong thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh hướng những suy tư của chúng ta
về vận mệnh tương lai của Giáo Hội, cộng đoàn những kẻ tin nhận Chúa Giêsu Kitô
là Đấng Cứu Rỗi. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền
tảng là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất
cả mọi người, là sự dấn thân của con người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa
Thánh Thần, để làm chứng cho Chúa và thông truyền cho anh chị em mình những sự
thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giải hòa con người với Thiên Chúa và
với nhau.
Nơi bài đọc thứ nhất từ sách Tông Đồ
Công Vụ, chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ vừa nói trên. Bị những
vị lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu rỗi,
bị những vị lãnh đạo uy quyền này của dân Do Thái ngăn cấm không được lên tiếng
làm chứng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa.
Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời loài người. Thiên Chúa, Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại. Đấng
mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã
tôn vinh Người bên hữu Ngài và làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu
Thế, để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất
cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho
tất cả những ai tuân phục Chúa, chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm
chứng."
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được
xây dựng trên nền tảng của thái độ can đảm này, thái độ sống đức tin, làm chứng
cho Chúa Giêsu Kitô và sự thật cứu rỗi của Người. "Chúng tôi phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời con người", đọc và suy nghĩ về lời này của
thánh tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh mà chính thánh nhân và các tông đồ khác lúc
đó trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những vị lãnh đạo dân Do
Thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền và họ là những vị lãnh đạo tôn giáo Do
Thái cùng với quyền lãnh đạo dân Do Thái; Khi những vị lãnh đạo Do Thái này lạm
dụng quyền hành của họ để xen vào việc tôn giáo, việc các tông đồ làm chứng
Chúa Kitô Phục Sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự
thật tôn giáo. Khi các vị lãnh đạo Do Thái lạm dụng quyền hành của mình để xen
vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải có một trong hai
thái độ hoặc theo Chúa Giêsu Kitô, hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh
đạo Do Thái, thì lúc đó, thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ
chọn theo Chúa Giêsu Kitô, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người.
Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo chứ không phải
là lời kêu gọi dân chúng nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị.
Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ
được tự do để rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, rao giảng sự ăn năn thống
hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ cho những tội lỗi, những tật xấu,
những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau. Nếu sinh
hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo ngôn ngữ ngày nay, được
hưởng sự tự do như đáng được, thì các ngài đâu cần phải xác nhận là phải vâng
lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người.
Làm sao con người có thể chiếm lấy địa
vị hoặc thay thế chỗ của Thiên Chúa được? Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm
nay, trong giây phút này, làm sao chúng ta có thể nói mình không cần sự tha thứ
của Thiên Chúa, không cần được ơn Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều
tội, để sống đúng phẩm vị con người, sống như là những con cái của Thiên Chúa,
và như là anh chị em với nhau? Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và được
khuyến khích để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ
Thiên Chúa, và cuối cùng, sau hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, hay một
trăm năm, sẽ trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái độ của các tông đồ được trình bày
trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh đã xây dựng Giáo
Hội cho đến ngày nay. "Chúng tôi và Thánh Thần", không phải riêng tự
sức các tông đồ nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Ơn
Chúa không thiếu, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay
không?
Bài Phúc Âm cũng kể lại biến cố Chúa
hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc
sống thường nhật trước khi được Chúa gọi, trở về nghề chài lưới. Chúa đến để
củng cố sự dấn thân của họ và chúng ta biết rõ điều gì đã xảy ra cho các tông
đồ. Chúa đến củng cố các ngài bằng một phép lạ và một bữa ăn. Bữa ăn bổ sức
trong tình thân thiết Thầy trò, để các tông đồ có sức mạnh và niềm vui mà chu
toàn sứ mạng đã lãnh nhận. Bài Phúc Âm hôm nay mang đến cho chúng ta niềm vui
mừng và củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào Giáo Hội Chúa vì những lý do
sau đây:
Chúa Kitô Phục Sinh không từ bỏ các môn
đệ, những kẻ cách này hay cách khác đã vấp ngã trong thử thách Chúa đã trải
qua, tức cuộc khổ nạn và chết của Chúa trên thập giá. Chúa sống lại không quở
trách các ông mà ngược lại đã ban cho các ông bình an và niềm vui: "Bình
an cho các con", như thể Chúa đã nói: "Thầy không chấp những lỗi lầm
của các con đã bỏ Thầy, Thầy tha thứ cho các con, và hơn nữa, ban ơn Thánh Thần
để đổi mới các con, cho các con được kiên vững trong tình yêu Thầy, để luôn
luôn có sự bình an giữa sự thử thách".
Hơn nữa, như trong Phúc Âm ghi lại Chúa
Giêsu thực hiện phép lạ mà chính Chúa đã thực hiện khi kêu gọi các tông đồ lần
đầu tiên, phép lạ lưới được nhiều cá, và làm như vậy, các tông đồ hiểu rằng
Chúa Phục Sinh mời gọi họ, tiếp tục mời gọi họ theo Ngài mặc cho những lỗi lầm
của họ. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đóng góp phần của mình trong Giáo Hội
và Chúa không bao giờ từ bỏ chương trình Ngài đã định.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được
bình an và niềm vui. Xin thương đổ tràn Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con
cho chúng con được củng cố trong đức tin và trung thành trong sứ mạng đã lãnh
nhận.
8. Hãy tin vào tình thương Chúa.
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nếu như Thánh Phaolô với biến cố té
ngựa trên đường Damát đã thay đổi cuộc đời, thì thánh Phêrô với ba lần công
khai nói lên lời "yêu mến Thầy", là dịp để ông đứng dậy làm lại cuộc
đời. Hay nói đúng hơn là Chúa đã tạo cơ hội để Phêrô chuộc lại lỗi lầm. Lỗi lầm
mà bởi nhất thời yếu đuối ông đã vấp phạm trong đêm tối vườn Cây Dầu.
Thực vậy, người ta tưởng rằng đêm tối
vườn cây dầu đã tiêu hủy sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một ngư dân
chất phát, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng
tuyên bố: "nếu anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ". Thế
mà đêm đó, ông đã bỏ chạy, tuy đã rút gươm chém đứt một tai của người lính. Một
hành động mà Chúa chẳng hoan nghênh lại còn kết án: "Ai dùng gươm sẽ chết
vì gươm". Ông ân hận. Ông muốn chuộc lại lỗi lầm. Ông vẫn đi theo Chúa xen
lẫn đám đông dân chúng đang cuồng nhiệt đòi kết án từ hình Thầy Chí Thánh. Một
hành động táo bạo biểu lộ lòng thật chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí
Thánh. Ông muốn biểu lộ một tình yêu sâu xa với Thầy mình, nhưng "lực bất
tòng tâm". Ông không đủ can đảm đối phó với sự dữ. Ông đã sợ hãi chối Thầy
đến ba lần. Nhưng may mắn cho cuộc đời ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như
tiếng lương tâm đã thức tỉnh lòng ông. Ông biết lỗi của mình. Ông đã đứng dậy
và bước ra ngoài sự dữ. Ông đã dứt bỏ nơi chốn nên cớ vấp phạm. Ông đã ra khỏi
sân tiền đình và khóc lóc ăn năn.
Và sau một "cuối tuần mất
mát" đầy đau khổ. Có lẽ Phêrô đã sống trong dằn vặt của lương tâm. Tại sao
ông lại bỏ Thầy? Tại sao ông lại chối Thầy đến ba lần? Ông biết trái tim ông
yêu Chúa rất chân thành. Thế mà vì yếu đuối và hồ đồ ông đã phạm qúa nhiều sai
lầm. Làm sao ông có thể chuộc lại lỗi lầm? Chúa đã sống lại và hiện ra nhiều
lần, nhưng ông không hề dám nói một lời nào với Thầy. Vì ngại ngùng. Vì hổ
thẹn. Phêrô dường như không dám nghĩ mình còn xứng đáng là trụ cột cho các anh
em.
Hôm nay Chúa Phục sinh hiện đến và cho
Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá
và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình
yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con
ông Giona, "con có yêu mến Thầy không?". Câu hỏi được lập lại ba lần
như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho
Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho
Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái
dành cho ông.
Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng
giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo
danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời
nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những
hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho
chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta
rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng
đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn
chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy
hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta
hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi
lầm. "Ai nên khôn mà không dại một lần". Ai cũng cần tình yêu để sống
và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và
giúp nhau hoàn thiện con người của mình.
Nguyện xin Chúa là Đấng luôn đi trước
trong tình thương tha thứ giúp chúng ta học nơi Chúa để đối xử khoan dung với
nhau. Amen.
9. Bữa ăn trên bờ biển
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Cũng như các lần trước, Chúa Kitô Phục
Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ. Lúc đầu họ chưa nhận ra Ngài. Phải
có một lời nói hay một dấu chỉ gì của Chúa có liên hệ với kinh nghiệm trước kia
của họ, họ mới giác ngộ và nhận ra sự hiện diện rất thật của Chúa Phục Sinh.
Câu chuyện Tin Mừng kể lại hôm nay rõ
ràng gợi lại mẻ lưới lạ lùng trước đó gần ba năm. Cũng một mẻ lưới như vậy, nhờ
đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi họ: "Hãy theo Thầy, từ nay anh em sẽ là những kẻ
lưới người như lưới cá" (Lc 5,10). Ở đây, mẻ lưới nầy cũng sẽ được gắn với
sứ mạng của các tông đồ. Con số 153 con cá bắt được là con số biểu tượng của
tất cả mọi thứ cá biến. Và như thế nó muốn nói rằng, lưới của các tông đồ rồi
đây sẽ quy tụ toàn thể nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo
Hội.
Thì ra, mẻ lưới thần kỳ nầy là để mở
đường cho một giây phút gặp gỡ thân tình giữa Thầy và trò, giữa Đấng Phục Sinh
và các tông đồ. Đối với Phêrô và các bạn ông thì đây không phải là gặp Chúa lần
đầu. Đã có hai lần trước rồi. Và sau hai lần đó, họ vẫn tiếp tục nghề cũ. Phêrô
nói: "Tôi đi lưới cá đây". Mấy người kia nói: "Thì cùng
đi". Thế là họ lên thuyền ra đi, nhưng suốt đêm hôm ấy họ chẳng bắt được
con cá nào! Vất vả mà chẳng được gì! Ngay lúc đó có ai đứng chờ trên bờ biển và
cất tiếng gọi. Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra trước tiên và mách cho
Phêrô: "Chúa đó!". Rồi, ùm một cái, Phêrô đã lao xuống nước, đi đến
với người đang chờ mình, gọi mình.
Sao Chúa lại đơn giản như vậy? Sao Chúa
lại lui cui nướng cá, nướng bánh, dọn một bữa điểm tâm cho những người đi làm
đêm trở về, như một bà nội trợ lo cho người trong nhà. Rồi thầy trò ngồi bên
nhau và chia nhau một bữa ăn thân hữu. Không cần phải hỏi: "Ông là
ai?" Vì biết rồi. Thuyền đây, lưới đây, cá đang chín vàng đây, bánh đang
còn đây. Và Chúa đây, Người Phục Sinh, Người khơi nguồn sống, Vị Cứu Tinh.
Nhưng, thưa anh chị em,
Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa
phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở
thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn
là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường
hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu
nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì. Và đây không
phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng
điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng
về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh
đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Các ông
ra về mà lòng hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Chúa. Rồi
các ông vẫn cứ tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh
ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đầy, bắt bớ, không gì ngăn cản
được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: "Phải vâng lời Thiên Chúa
hơn vâng lời người ta".
Quả thật, có một cái gì đó đã xảy ra.
Cái gì? Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Cái
gì đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Gặp gỡ âm thầm thôi, chốc lát
thôi, nhưng cái tiếp cận bằng mắt, bằng tay, không quan trọng băng sự giao tiếp
của cõi lòng, giờ phút cơ duyên làm cho họ hiểu rằng họ đã đi vào, đã đụng tới
một thế giới mới và con người của họ cũng biến thành mới hoàn toàn. Từ đó, họ
đinh ninh một điều: "Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá,
thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha
tội". Vì thế, họ sẽ "vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta". Từ
nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, cưỡng bức. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã
có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó.
Anh chị em thân mến,
Giáo Hội ngày nay, nếu muốn tiếp tục sứ
mạng của các tông đồ, nếu muốn phát triển, thì cũng không có con đường nào
khác. Giáo Hội của Chúa Phục SInh chỉ có thể phát triển qua những cuộc đời có
khi vất vả, tăm tối, có khi tù túng, nhọc nhằn, như các Tông đồ kia. Nhưng cũng
như các Tông đồ đã gặp được Chúa Giêsu Phục sinh đang đơn sơ dọn bữa ăn cho họ
và mời họ đến ăn chung với Ngài. Do đó,
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin vào sự
hiện diện kề cận của Ngài bên chúng ta ngay trong công việc sinh sống, làm ăn
vất vả hằng ngày.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin luôn
luôn có cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nỗi đau khổ, thất bại, bị bỏ rơi, đơn
độc của chúng ta.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là nhận thấy Chúa
vẫn luôn tái diễn những việc kỳ diệu, những mẻ lưới đầy cá, những lần hoá bánh
ra nhiều trong đời sống chúng ta và trong thế giới, để đáp ứng những nhu cầu ấm
no, hạnh phúc cho con người.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là đáp lại lời
mời gọi của Ngài đến dự bữa ăn huynh đệ mà Ngài đã ân cần dọn sẵn cho chúng ta
nơi bàn tiệc Thánh Thể, một bữa ăn hiệp nhất thắm tình Thầy trò xum họp, Cha
con đoàn tụ, liên kết mọi người trong một sức sống của Đức Kitô Phục sinh để
tiến đến một tương lai vinh quang vĩnh cửu.
Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục
sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem.
Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng
dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất
là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu
cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng
thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin vào Chúa Kitô Phục sinh.
Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn.
10. Bảo đảm cho sự chân truyền –
Achille Degeest
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật')
Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ
nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, chờ Người ở Galilê. Các ông là những người rất
tích cực, không khoanh tay ngồi chờ, các ông trở lại với công việc hằng ngày.
Trong khung cảnh tâm lý chất phác thực tế ấy, Chúa bất thần hiện đến với các
môn đệ giữa lúc các ông đang đánh cá. Một cách rất tự nhiên, không cần dùng
những lời tuyệt diệu thích hợp với khung cảnh thi vị của bình minh đang lên,
Chúa hỏi các ông có cá để ăn không. Gioan là người đầu tiên đoán biết chính
Chúa đấy. Một cuộc đối thoại diễn ra giữa Chúa và các môn đệ, lời lẽ đơn sơ
nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta để ý đến cách xử sự tế nhị của Đức
Giêsu. Người đốt than, nướng cá, dọn bánh và một lần nữa nói chuyện với các môn
đệ trong một bữa ăn thân mật. Có lẽ tế nhị hơn nữa là khi Chúa hỏi lấy thêm cá
của các ông mặc dầu Người có sẵn. Chúa làm vậy ngõ hầu nỗ lực và niềm tin của
các ông tìm được phần thưởng kết hợp với ân huệ Chúa. Về phần Phêrô, chúng ta
cần nhấn thêm vào một chi tiết trong bài Phúc Âm và những lời nói của Thày.
1) Chi tiết được truyền thống Kitô giáo
ưa thích làm nổi bật là sự kiện Phêrô vội vàng nhảy xuống biển bơi chừng trăm
thước để vào bờ gặp Thày. Chúng ta ghi sơ qua rằng bơi được quãng ấy chắc chắn
phải là người rất tỉnh táo. Gioan là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu, Phêrô là
người đầu tiên đến gặp Đức Giêsu. Trong Giáo Hội là như vậy. Rất nhiều phen,
tiến bộ về học thuyết và sáng kiến về đức tin sống thật sự đều xuất phát từ
những Kitô hữu nhận được ân huệ thấu triệt trong khi tìm kiếm chân lý và ân huệ
nhiệt thành trong khi thực thi bác ái. Họ thuộc hàng ngũ tiền tiến. Họ tường
trình sự việc với Phêrô. Thuyền trưởng Phêrô, hay vị thừa kết ngày nay, tường
trình với Chúa. Chính Phêrô bảo đảm cho tính chất chân truyền của hành động,
Phêrô là người chịu trách nhiệm quyết định.
2) Những lời Thày nói với Phêrô đã có
tiếng vang mới nhất mấy năm gần đây trong Công đồng Vaticanô II. Đức Giêsu lựa
chọn một số người "lập thành nhóm các tông đồ, tổ chức họ thành một cộng
đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững. Chúa chọn Phêrô, một người trong nhóm,
làm đầu cộng đoàn" (Hiến chế Ánh sáng muôn dân 19). "Trong số mười
hai tông đồ, Chúa chọn Phêrô và và công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi
ông tuyên xưng đức tin... sau khi ông tuyên xưng tình yêu đối với Người, Chúa
trao phó toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt
trong hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy Đức Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc và
chủ chăn linh hồn chúng ta" (Sắc lệnh về Hiệp nhất, 2). Đối với những ai
am hiểu lịch sử cận đại Giáo Hội, thấy nổi lên một sự thật hiển nhiên khích lệ
là mầu nhiệm Phêrô bảo đảm cho sự vững bền đức tin và củng cố anh em ông (các
vị giám mục) trong đức tin –mầu nhiệm này đang hoàn tất trước mắt chúng ta.
11. Thiên Chúa không bỏ con người -
McCarthy
Suy Niệm 1. CHỊU ĐAU KHỔ VÌ CHÚA
Bài đọc từ sách Công Vụ Tông Đồ kể lại
sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những nhà lãnh đạo Do Thái.
Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó
mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một thời gian trước đây đã từng chối
Chúa Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã giữ vững lập trường của mình, và
can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của
mình: ông và các Tông đồ đồng môn của ông đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui
mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô có được lòng can đảm mới
mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm nhờ ở Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ
của các Tông đồ đồng môn của ông.
Thật may mắn là kể từ thời các Tông đồ,
nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm
chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya,
một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày
biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán
thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị
giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng
chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như
vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẩu giấy, rồi gửi nhờ
qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10
năm 1986, bà được phóng thích.
Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố
quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói "Khi bạn lâm vào cảnh rắc
rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn
ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi".
Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại
được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã
có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm
nguy đã nối kết con người lại với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép
của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua
tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng
ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.
Irina và các bạn đồng hành với bà
thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị
ngược đãi. Bà nói "Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống
sót". Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại
dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều
là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã
trở thành nữ tu.
"Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi
cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay
đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con
người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào".
Những người giống như Irina và các bạn
của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu
thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn
đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi
bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng
quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy
Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa
theo cách đó được.
Chúng ta là những môn đệ của Đức Giêsu.
Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế
giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những
điều mà các Tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải
chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi
tệ –thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta.
Chúng ta không thể nói trước được là ơn
gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta.
Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và
sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu
tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó
sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi
bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.
Suy Niệm 2. TIẾNG GỌI THỨ HAI.
Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một
đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong khi đang đi trên một con
đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như
không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ
họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng
lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu
khi đến với những người này. Sau khi đã nói vài câu về giá trị của ngọn lửa,
anh lỉnh đi mất. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất
ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu,
thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công
việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh
giá được những nỗ lực của anh.
Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà,
anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy sáng rực.
Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên "Mời anh vào! Mời anh vào!".
Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu hơn anh dự định. Cuối
cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói "Cám ơn anh đã ghé
qua".
Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến
giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói
"Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được
nhu cầu của Ta". Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người
đốt lửa tiếp nhận được thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được
nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt
lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh
quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những
người bị lạnh lẽo.
Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về
những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của nah sẽ đòi hỏi nơi
anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào,
và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm
tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của
anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.
Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm
mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ
của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng
đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa
nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là
ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và
anh đã thực hiện điều đó.
Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được
thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ
vụ của Đức Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại,
và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba
năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông
đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được
kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình.
Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm
tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa "Xin vâng"
của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.
Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện
về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi
của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà
người ta chỉ cần lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con
đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một
phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi
trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp
trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.
Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối
với tình yêu –yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của
Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).
12. Có Chúa nâng đỡ
Phần lớn các tông đồ đều sinh sống bằng
nghề chài lưới. Hôm được nhiều, hôm được ít và có hôm chẳng được gì. Đó cũng là
kinh nghiệm sống vốn thường xảy ra cho chúng ta.
Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã suy
nghĩ, đã cân nhắc, đã cố gắng hết sức, thế mà vẫn cứ thất bại. Tuy nhiên, điều
quan trọng hơn, đó là thái độ của chúng ta trước những thất bại.
Thực vậy, trước những thất bại gặp
phải, có những kẻ nản lòng và thối chí, nhưng cũng có những người vẫn kiên trì
theo đuổi, vì họ nghĩ rằng:
- Thua keo nay, ta bày keo khác.
- Thất bại là mẹ thành công...
Và sự kiên trì nhiều khi đã xoay ngược
tình thế, mà đem lại những thành quả tốt đẹp.
Ông Schmitt, thuở còn là thanh niên, đã
bán tất cả gia tài, sang Mỹ tìm vàng. Tìm mãi tìm hoài mà vẫn chẳng thấy. Tiền
bạc thì mỗi lúc một cạn, còn đói khổ và cực nhọc thì cứ mỗi ngày một gia tăng.
Chịu không nổi, nhiều người đã bỏ cuộc.
Trong khi đó, ông ta vẫn miệt mài tìm
kiếm và sau cùng ông đã thấy được những dấu vết của vàng trong lòng một ngọn
núi. Ông kêu gọi mỏi người góp vốn, nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Không
thất vọng, ông ta tiếp tục làm việc. Sau ba mươi hai năm vất vả, ông đã trở
thành một nhà tỷ phú.
Thất bại trong cuộc sống là một sự kiện
bình thường, như ca dao Việt Nam đã nói:
- Cơm sôi cả lửa thì khê,
Việc làm hay hỏng, là lề thế gian.
Sự thành công có được một phần do kiên
trì chịu đựng và cố gắng:
- Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng, đổi nghề mặc ai.
Thế nhưng, kinh nghiệm còn cho chúng ta
thấy được một sự thật khác nữa, đó là với sức riêng, khi thì chúng ta thất bại,
khi thì chúng ta thành công, Chẳng ai thất bại hoài và cũng chẳng ai thành công
mãi. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ thành công dù bên ngoài xem
ra như không có thể.
Thực vậy, các tông đồ đã vất vả cực
nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, vâng lời Chúa, các
ông đã ra khơi thả lưới, và lập tức đã có được một một mẻ cá lạ lùng. Thất bại
đã trở nên thành công, khó hoá thành dễ và không có thể đã biến thành có thể.
Tìm tưởng vào mình đã đành, mà hơn thế
nữa, chúng ta còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, bởi vì như lời Chúa đã
phán:
- Không có Thầy, các con không thể làm
gì được.
Thánh Phaolô đã xác quyết:
- Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng
chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái.
Và người Việt Nam chúng ta cũng thường
nói:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.
Chẳng hạn khi làm ruộng, chúng ta phải
dùng mọi phương thế tự nhiên như cày bừa, gieo xạ, xịt thuốc và bón phân...Tuy
nhiên, lúa tốt và trúng còn lệ thuộc vào thời tiết, mưa thuận gió hoà. Việc này
thì dường như ngoài tầm tay của chúng ta.
Chẳng hạn khi buôn bán, chúng ta phải
điều nghiên thị trường, hàng tốt, giá cả phải chăng...Tuy nhiên, nếu gặp phải
thời buổi loạn lạc, thì chắc hẳn số người đến mua cũng chẳng bao nhiêu.
Chẳng hạn khi lập gia đình, chúng ta
phải tìm hiểu và bàn hỏi... Tuy nhiên, chẳng may sau khi cưới và chung sống với
nhau, chúng ta mới thấy người mình yêu không giống với người mình mơ ước vì có
quá nhiều khuyết điểm. Lúc đó phải làm sao đây? Hôn nhân không giống như một
chiếc áo, vừa thì mặc, không vừa thì bỏ. Nhờ người này người nọ nhắc nhở bảo
ban mà vẫn không chuyển biến. Nếu kéo lê cuộc tình như vậy suốt dọc cuộc đời
thì qua là một gánh nặng.
Trong trường hợp như thế, vẫn còn có
một phương thế đó là tin tưởng và phó thác cho Chúa, vì Ngài có thể làm được
mọi sự, như lời thánh vịnh đã xác quyết:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.
Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Hay như lời thánh Félix de Nole đã nói:
- Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên
tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Và chính Chúa cũng đã phán:
- Đối với Thiên Chúa, không việc gì là
không có thể.
Tóm lại, trong mọi việc, chúng ta hãy
sử dụng sử dụng hai phương tiện trợ giúp cho nhau, đó là tự nhiên và siêu
nhiên, đó là sức mình và ơn Chúa, nhờ đó mới bảo đảm được những thành quả tốt
đẹp.
13. Hiện ra
Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội. Cộng
đoàn là những kẻ tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế.
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa
được xây dựng trên nền tảng vững chắc là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Ơn
cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người là sự dấn thân của con người dưới ơn soi
sáng của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, cho anh chị em mình những sự
thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giao hoà con người với Thiên Chúa và
với nhau.
Nơi bài đọc 1 trích từ sách Tông đồ
Công vụ giúp chúng ta nhìn thấy thái độ mà các tông đồ phải đấu tranh, bị những
người lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, bị
những người lãnh đạo Do thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng về Chúa
Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa.
Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả
lời: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người". Thiên
Chúa Cha đã cho Chúa Kitô sống lại, Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng
đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài, làm cho
Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở
lại và sự tha thứ các tội lỗi: "Về tất cả điều này chúng tôi và Chúa Thánh
Thần cùng làm chứng".
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được
xây dựng trên thái độ can đảm này. Thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa
Kitô và cho sự thật cứu rỗi của Ngài: "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa
hơn là vâng lời loài người".
Đọc và suy nghĩ về lời tuyên bố này của
thánh Phêrô trong hoàn cảnh mà thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó phải trải
qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những người lãnh đạo dân Do thái,
những vị lãnh đạo đầy uy quyền mà lạm dụng quyền hành của họ để xen mình vào
việc tôn giáo thì các tông đồ đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh để
trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo.
Khi các vị lãnh đạo lạm dụng quyền của
mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn
một trong hai thái độ là theo Chúa Kitô hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị
lãnh đạo Do thái thì chính lúc đó thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các
tông đồ chọn theo Chúa Kitô Phục sinh, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
loài người.
Đây là câu trả lời cho một quyền hành
xen mình vào việc tôn giáo, chứ không phải là một lời kêu gọi con người nổi
loạn chống lại một quyền hành chính trị. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ
được tự do để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự
giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi, của những sự xấu, của những
sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau thì các tông đồ đã
chọn sự tự do ấy, đó là việc rao giảng Tin Mừng giải phóng cho con người. Nếu
sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo kiểu nói ngày nay được
hưởng sự tự do như đang được thì các ngài đâu cần phải xác nhận phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị
hoặc thay thế Thiên Chúa được.
Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm
nay, trong giây phút này làm sao chúng ta có thể nói là mình không cần sự tha
thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Thiên Chúa giải thoát khỏi những điều
xấu, điều tội để sống đúng địa vị con người, sống như là con cái Thiên Chúa và
như là anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta không cần được sự nâng đỡ để sống
trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa và cuối
cùng qua 20, 30 năm hay 100 đi nữa thì cũng sẽ phải trở về lại với Thiên Chúa
trong cõi đời đời.
Thái độ các tông đồ được trình bày
trong bài đọc 1 của bài đọc hôm nay đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay.
Chúng tôi và Chúa Thánh Thần không phải tự sức riêng các tông đồ, nhưng là
trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần
làm chứng cho ơn Chúa, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay
không?
Bài Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa
Giêsu hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về
với cuộc sống hằng ngày, trở về với nghề chài lưới. Nhưng Chúa đến để kêu gọi
họ trở về với ơn gọi tông đồ, đồng thời Ngài củng cố đức tin cho các tông đồ.
Điều gì đã xảy ra cho các ngài? Từ đó
Chúa đến củng cố các ngài nhờ một phép lạ và một bữa ăn; bữa ăn bổ sức trong
tinh thần. Ước gì chúng ta cũng được củng cố như vậy trong Bí tích Thánh Thể,
để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa, chứng nhân hữu hiệu trong mọi
hoàn cảnh và cho mọi người ở khắp mọi nơi.
14. Sống lại
Đặc biệt tôi rất vui mừng khi thấy có
rất nhiều anh chị em mà tôi xin được phép gọi là các bạn trẻ đang hiện diện
trong ngôi thánh đường này.
Có một sự thật – thật đến nỗi đã có
nhiều người không dám tin là có thật: Đó là sự kiện Đức Giêsu Kitô đã chết và
đã sống lại hiển vinh. Đây chính là trọng tâm, là cốt lõi, là nền tảng của đức
tin Kitô giáo. Thánh Phaolô còn xác quyết: "Nếu Đức Kitô đã không sống lại
thì điều anh em tin thật là hão huyền... và chúng ta là những kẻ đáng thương
nhất trên trần gian này".
Tất cả chúng ta vừa trịnh trọng lắng
nghe thánh Gioan tông đồ thuật lại việc Đức Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra
với các tông đồ tại biển hồ Tibêria. Đây không phải là một cuộc thoáng hiện của
Đức Giêsu, nhưng Ngài còn ngồi lại, cùng dùng bữa thân mật với các ông nữa.
Chính trong khung cảnh lãng mạn đó, Đức Giêsu đã đặc biệt ngỏ lời, đã tỏ tình
với Phêrô: "Phêrô, con có yêu mến Thầy không?... Phêrô, con có yêu mến
Thầy nhất không, hơn các người này không?"
Nghe đến đây, tôi và các bạn có lẽ đã
tức điên lên và tự nhủ: Chúa Giêsu ơi! Sao Chúa dại quá vậy? Chúa hết người để
yêu rồi hay sao mà lại đi yêu và yêu đến cuồng si Phêrô, kẻ đã từng phản bội –
kẻ đã từng chối Chúa, xử quê Chúa trước mặt công chúng, Chúa có còn nhớ hay
không?
Thánh Têrêsa thành Avila từng trách Đức
Giêsu đã quá yêu con người đến điên dại, kể cũng không quá đáng. Phêrô là con
người thế nào? Chúng ta đã quá rõ: Một tên ngư phủ quê mùa, tính tình thì nóng
nảy, thuộc "tuýp bốc", hay làm tàng, ta đây... được Đức Giêsu thương
nhận làm đệ tử, cho ngồi đồng bàn, chia sẻ vui buồn, dạy dỗ đủ điều... lại còn
được mời gọi trao ban sứ vụ tông đồ cao cả... Thế mà, khi có sự cố, hàn vi,
biến loạn xảy đến lại chối Thầy bỏ bạn. Con người đó hỏi thử có gì đáng để Đức
Giêsu yêu thương đến thế?
Đúng ra, trong số các tông đồ, nếu Đức
Giêsu có muốn yêu thì Gioan là xứng đáng hơn cả, hay là Natanaen – một con
người không có gì là gian dối, (như Đức Giêsu đã từng khen).
Ngẫm nghĩ: tình yêu thật khó hiểu! Con
tim của Đức Giêsu có những lý do riêng mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tôi
thường nghe Hồng Nhung hát bài "vẫn mãi hát lời tình yêu"của Dương
Thụ. Nhưng thực sự giờ đây tôi mới hiểu và dám quả quyết: chỉ có Đức Giêsu mới
thật sự là người vẫn mãi hát lời tình yêu mà thôi. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng
Giêsu thật có lý khi xác tín rằng: "Bạn đừng sợ Chúa, Chúa chỉ có biết yêu
mà thôi"
Con người Phêrô cộc cằn và đáng ghét
đó. Đúng ra nên dành một dấu chấm hết cho xong chuyện. Thế nhưng, Phêrô lại
được Đức Giêsu yêu thương một cách đặc biệt và chính tình yêu Giêsu đã cảm hoá
được Phêrô cách lạ lùng. Con người bất trị đó cuối cùng đã phải thốt lên:
"Thầy biết mọi sự mà, Thầy biết con yêu mến Thầy mà!"Đúng là "lạ
cho mặt sắt cũng ngây vì tình". Một lần bị nguyền rủa là Satan, ba lần
chối Chúa – chán nản, bỏ cuộc, về hưu đánh cá, coi như lòng đã chết. Giờ đây
lại chỗi dậy bằng ba lần cam kết yêu thương.
Điều gì đã làm Phêrô biến đổi như vậy?
Phải chăng Phêrô đã ân hận vì quá khứ nhiều xót xa? Hay choáng ngợp vì mẻ cá lạ
với 153 con mà lưới không rách?
Đó cũng chưa là lý do đầy đủ để thuyết
phục và chinh phục Phêrô. Nguyên nhân sâu xa nhất là Phêrô đã khám phá và xác
tín vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô. Bằng chứng là suốt quãng đời
còn lại của Phêrô đã không ngừng rao giảng và hầu như chỉ rao giảng và làm
chứng về Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã dùng tình yêu để cảm hoá Phêrô.
Tình yêu của Đức Giêsu thật sự có sức
mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai, nếu người ta biết đặt niềm tin vào
Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân và khép lại quá khứ để trở
thành thánh nhân. Sống giữa cuộc đời ô trọc – thị phi – hư danh – chóng qua
này; tình yêu Giêsu là một lý do cuối cùng để con người hôm nay hy vọng.
Khám phá và tin vào mầu nhiệm Tử nạn –
Phục sinh của Đức Kitô là điều không dễ. Chúng ta dù vẫn biết rằng: Đức tin là
một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, nhưng từ Tin đến Yêu và yêu tha thiết,
yêu say đắm như Phêrô lại là cả một quá trình cảm hoá từng bước, ngày qua ngày
trong cuộc sống. Đức Kitô đã đi vào lịch sử, đã chấp nhận lịch sử và không bị
lịch sử giới hạn bằng chính sự thật Phục sinh của Ngài. Với thời gian, mãnh lực
cảm hoá của tình yêu Giêsu sẽ được chúng ta kiểm chứng cảm nghiệm giống như ly
rượu đào uống dần – thấm lâu – say mãi. Để một khi đã yêu thật sự, chúng ta sẽ
không còn hờ hững nữa; nhưng trái lại là một sự lựa chọn, dấn thân và hiến thân
trọn vẹn cho tình yêu Giêsu đó.
Ngày nay, trước xu hướng của tình yêu
"thời mở cửa", mọi cái đều phải quảng cáo, tranh thủ, tốc độ, chộp
giật... Tình yêu cũng dễ dàng bị nhuốm màu kinh doanh đó. Vả lại, từ tình yêu
lãng mạn của "khung trời đại học"đến thứ tình yêu thực tế phũ phàng
được cân, đo, đong, đếm bằng "cơm-áo-gạo-tiền". Người trẻ chúng ta dù
muốn dù không cũng có ít nhiều ngờ vực, nghi nan khi bước vào ngưỡng cửa của
tình yêu, mà trước đó người ta dễ dàng đã thấy quảng cáo, tiếp thị, bầy bán với
hàng trăm thứ quan niệm lệch lạc về tình yêu nơi các cửa hàng giả hiệu, bất
chấp đúng sai, miễn sao có lời.
Chẳng hạn, có một số bạn trẻ cho rằng
tình yêu là "thứ trời cho"nên họ sẵn sàng biến thành thú "trò
chơi". Một số khác lại thực tế hơn đi tìm và xây tổ trước khi có tình yêu,
bạn đời họ cần phải là "nhà mặt phố, bố làm to". Ngoài ra, còn có
kiểu "tình hờ", "tình cờ", "tình cho không biếu
không"... kết cuộc lối chịu chơi đó biến cuộc đời của những chàng trai, cô
gái thành những trái táo thối chín non, rẻ mạt!
Gút lại, những kiểu tình yêu phát xuất
từ những xu hướng lệch lạc thời mở cửa này, thực chất có mang lại tình yêu và
hạnh phúc đúng nghĩa thật sự cho người trẻ hôm nay hay không? Chúng ta hiểu:
trong tình yêu luôn có muôn vàn sắc thái, mùi vị, ngọt, bùi, đắng cay... Tuy
nhiên nếu tình yêu không bắt đầu bằng sự rung động của con tim và cần có thời
gian để cảm hoá, thanh luyện cho thật tinh ròng, là thứ quí hơn vàng, thì chắc
chắn bạn sẽ không bao giờ nếm được hương vị ngọt ngào do tình yêu mang lại.
Trong tình yêu, ngay cả niềm tin cũng không được lạm dụng; chọn lựa phải chắc
chắn, dấn thân triệt để. Có như vậy việc hiến thân cho nhau mới trọn vẹn và đến
cùng. Thách đố lớn nhất của thời đại hôm nay, của tình yêu hôm nay: lòng trung
thành.
Các bạn đang nghĩ gì và làm gì để xây
dựng đời sống "văn minh tình yêu"cho chính mình và người khác? Trước
ngưỡng cửa nửa tối – nửa sáng của cuộc đời bạn đang tin tưởng hay chối từ, nghi
nan? Chắc chắn chúng ta cần phải có một thần tượng, một lý tưởng để theo đuổi
và can đảm bước tới trong hy vọng: tình yêu Giêsu thật sự là lý do cuối cùng,
là khuôn mẫu đích thực cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Dốc hết vốn liếng đức tin ra, chúng ta
cần xác tín một điều: "Thiên Chúa chỉ có biết yêu mà thôi". Và đối
với tình yêu Giêsu thì chỉ một lần được sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa.
15. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ
Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với
con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan
tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không
bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.
Hành vi không bình thường
Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất
có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không
được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm
cách giúp đỡ: "thả lưới bên mạn thuyền thì có đó".
Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu
Phục Sinh: "Thầy đó". Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không
nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có
thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.
Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang
ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi
vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề
nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ
làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?
Cách hành xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các
tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công
việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu
thương.
"Hãy mang cá các anh vừa bắt được
lại đây". Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho
đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ
nhất.
Tại sao lại là con số 153 con cá? Có
người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con
thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao
gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.
Không một ai trong các ông dám hỏi
"Ngài là ai", vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có
một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại "không ai dám hỏi
Ngài là ai". Tuy vậy, không ai dám hỏi "Ngài là ai", vì tất cả
đều biết đó là Thầy.
Số phận và thái độ cần có của con người
Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô:
"anh có yêu Thầy hơn những người này không?"Nếu chỉ là câu hỏi:
"anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không", chắc là Phêrô không
cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: "Phêrô, anh có yêu Thầy
hơn những người này yêu Thầy không?"Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã
quả quyết: "dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ
thầy", và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn
hơn: "Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy". Ba lần hỏi, bù vào ba lần
chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: "Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự,
Chúa biết rằng con yêu Chúa". Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản
bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ
rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn
dắt đàn chiên của Chúa.
"Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu
tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi
con không muốn". Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác?
Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình,
nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và
Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa
quyền năng trong tình yêu.
"Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng
lời người ta". Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy.
Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong
cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy,
đã dẫn Phêrô và những người "làm chứng"đến cái chết.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn
tin Đức Giêsu đã phục sinh!
2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn
Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
3. Tại sao "phải vâng lời Thiên
Chúa hơn vâng lời con người"?
16. Chú giải của Noel Quesson
Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho
các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô,
ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông
Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các
ông: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với
anh".
Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện
giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại
hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều
đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần
ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng
đầy ý nghĩa.
Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm
đó họ không bắt được gì cả.
Đánh cá vào ban đêm là một cách thông
dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra
một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya... họ
đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường
gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm
tối đời tôi là gì?
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên
bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.
Bảy người đang sống trên "biển nổi
sóng", giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực
ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu
đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên... nét tương phản
cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới
trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở
đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.
Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng
ta như thế.
Đức Giêsu nói với các ông: "Này
các chú, không ăn gì ư?". Các ông trả lời: "Thưa không". Người
bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được
cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy
những cá.
Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy
thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động
giúp đỡ họ... ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy
gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ "bờ" bên
kia?
Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến
nói với ông Phêrô: "Chúa đó". Vừa nghe nói "Chúa đó" ông
Simon - Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã.
Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh
đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô.
Ông sống "yêu thương", nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết
một người, chính là một công việc của tình yêu.
Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình
yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những
đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ,
chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ
hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm
tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.
Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo
theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm
thước.
Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký
xác thực của một nhân chứng.
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn
than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.
Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá
mới bắt được tới đây! "
Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác
thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một
"bữa 'ăn" cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của
họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng
cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của
Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.
Ta biết tầm quan trọng của "bữa
ăn" trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm
Thánh Đức Giêsu cũng đã "phục vụ" các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày
nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu
chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một
bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối
hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.
Ông Simon - Phêrô lên thuyền, rồi kéo
lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.
Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.
Sau trực giác yêu thương của Gioan, con
người chiêm niệm... bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt
động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như "tấm
lưới" không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả "chiếc áo của
Đức Giêsu không bị xé rách" (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo
hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.
Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà
ăn". Không ai trong các môn đệ dám hỏi: "ông là ai", vì các ông
biết rằng đó là Chúa.
Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước
sâu vào "mầu nhiệm". Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn
thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái
hoàn toàn khác... Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người
hôm qua. Người đã trở nên "O kiirios, Đức Chúa!". Và trong trường hợp
này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh
sáng bởi ánh sáng!
Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho
các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra
cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
Đây là bữa ăn thực sự... đồng thời,
cũng là bữa ăn mầu nhiệm.
Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của
Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh
Gioan, sau khi Chúa dùng "năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ",
từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều...
Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở
"trên bến bờ khác", trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta
"lương thực từ trời " Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh
đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6,33). "Tôi là Bánh hằng sống...
Thịt Tôi thật là của ăn... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời...." (Ga
6,51-55-58).
Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời
gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường
dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ "con
cá" (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:
Lèsous Kristos Théou Unios Sôter
Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi
ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các
anh em này không?". Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến
Thầy. Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".
Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã
ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó
trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội.
Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. "Tôi chính là Mục
tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên" (Ga 10,11). Giờ đây Đức
Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện "bằng xương, bằng thịt"
nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới
và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: "Hãy chăn
dắt chiên của Thầy".
Lần thứ hai... rồi lần thứ ba, Đức
Giêsu lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy
không?".
Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba
lần: "Anh có yêu mến Thầy không?". Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ
mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc
chiên của Thầy".
Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy
đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị
của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ
yêu cầu ông ba "lần biểu lộ tình yêu! "Anh có mến Thầy không?":
Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh
lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: "'Này anh X... anh có yêu Thầy
không?". Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.
Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể
dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han....
Như thế, người đã phạm tội nặng nhất,
kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội
khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương.
Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất
trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu
phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong
Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình
(Mc 9,35; Ga 13,4-16)... nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu
thương Đức Giêsu... Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân
tận hiến.
Thật Thầy bảo thật cho anh biết:
"Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về
già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh
chẳng muốn". Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn
vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy".
Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ
ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và
hoạt động ("Anh đi đâu tuỳ ý")... và tuổi già như biểu tượng của sự
gò bó và thụ động ("một người khác sẽ thắt lưng cho anh"), nghĩa là
sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc
được nữa)... Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận
theo của Đức Giêsu trên thập giá. " Đó là hoạt động cuối cùng của con
người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là
tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm mất thể diện
Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết là hoạt động
cuối cùng.
17. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH VẪN HIỆN DIỆN
TRONG HỘI THÁNH CỦA NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tảng sáng, Đức Giêsu đã có mặt trên
bờ biển hồ.
Các câu 30-31: "Còn nhiều phép
lạ... " kết thúc bài Tin Mừng Chúa nhật trước hiển nhiên là đoạn kết của
Tin Mừng thánh Gioan. Bới vậy, nhiều nhà chuyên môn coi đoạn 21 như một phụ lục
được thêm vào sau.
Alain Marchadour nhanh chóng quả quyết:
"đoạn phụ lục này không phải chỉ là một "lời bạt ", nhưng là một
nối tiếp có tính Giáo Hội học cho một Tin Mừng nặng tính Kitô học. Giữa Tin
Mừng tập trung vào Đức Kitô coi như kết thúc sau đoạn 20 là phụ lục là đoạn 21
không có mâu thuẫn mà chỉ là sự chuyến hướng nhắm vào Giáo hội (I. Zumstein).
Những trung gian cần thiết để Đấng Mạc Khải tiếp tục công trình đều được trưng
diễn: bữa ăn tạ ơn trong đó sự hiện diện của Người được tiếp tục nhiệm vụ mục
tử của Phêrô là các Đấng kế vị, nhiệm vụ của người môn đệ được Chúa yêu và Giáo
Hội của Ngài " ("Levangile de Jean ", Centurion, trg 253).
Một lần nữa, chúng ta lại thấy 3 giai
đoạn của tiến trình Phục sinh:
- sáng kiến của Đấng Phục sinh
- nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi
biết Người đã chết
- sứ mệnh Đấng Phục sinh trao cho Phêrô
a/ Khung cảnh diễn ra trên bờ hồ
Tibêriát, nơi họ gặp Đức Giêsu Nadarét. Simon Phêrô và 6 anh em khác: Tôma,
Nathanael quê Cana xứ Galilêa, hai con ông Zêbêđê và hai môn đệ nữa đang dưới
thuyền đánh cá. Nhưng không được gì hết. "Nhưng suốt đêm ấy họ không bắt
được gì.? (so sánh với bản tướng thuật khởi đầu sứ vụ tại Galilê của Luca
5,1-11).
b/ Tảng sáng, Đức Giêsu phục sinh hiện
đến trên bờ hồ.
Các môn đệ không nhận ra Người. A.
Marchadour chú giải rằng: "Họ không nhận ra Người. Sự Phục sinh đã tạo một
biến đổi nào đó nơi Đức Giêsu. Vì sự biến đối đó nên các bản tường thuật cũng
có những chi tiết khác biệt. Ở đây, cả sự hiện diện thể lý, cả giọng nói cũng
không làm cho các môn đệ nhận ra, trừ người môn đệ được Chúa yêu." (Sđd, trg
256).
Khi Đức Giêsu hỏi: "Các con bắt
được con cá nào không? (Hãy nghĩ tới câu Chúa hỏi các môn đệ trên đường đi
Emmaus: các bạn nói chuyện gì mà rầu rĩ thế?) họ thú thật: vất vả thâu đêm mà
chẳng được gì, nhưng, vâng lời Người, "họ thả lưới ".
c/ Sau đó, mẻ cá lạ lùng được trình bày
như một biểu trưng cho sứ mệnh tông đồ của cộng đoàn. Các tông đồ tự sức mình,
không thể thành công trong sứ mệnh, nhưng, dựa vào lời Đấng Phục sinh, họ bắt
tay vào việc, và ngoài sự mong đợi, họ tập hợp được muôn người khắp nơi (bội
thu: 153 con cá, gợi nhớ ở tiệc cưới Cana nơi Ga 2; bánh hoá nhiều Ga 6). Lại
còn hình ảnh hợp nhất (chính sử đã muốn tượng trưng bằng chi tiết: lưới không
bị rách, theo ngữ nghĩa Hy Lạp, không bị phân ly, không có chia rẽ).
2. Chúa đó
- Gioan, người môn đệ Chúa yêu (như nơi
Ga 20,2-10: "ông thấy và ông tin"), đã tỏ ra bén nhạy với dấu lạ. Và
nhờ trực giác chiêm niệm này mà mắt các anh em khác mở rộng để thấy Đấng Phục
sinh hiện diện trên bờ hồ: "Chúa đó ". Thánh Phêrô Chrysologue chú
giải: " Kẻ được yêu thấy trước vì con mắt tình yêu tinh hơn, và kẻ được
yêu cảm nhận bén nhạy hơn."
Lời của Gioan làm cho Phêrô tin tưởng,
ông vội khoác áo vào và nhảy ùm xuống (Thi vị thật. Phêrô đang ở trần. Xin nhớ
đến Luca 5,8: "Lạy Thầy, xin xa con ra, con chỉ là tên thuyền
chài")..
- Cái gì làm cho tâm trí Phêrô trì trệ
vậy ông vẫn là người ban phát cho người khác mà bây giờ phải nhờ người khác
mách bảo. Vẫn thánh Phêrô Chrysologue chú giải: "Đâu rồi lời tuyên xưng
" thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa 'hằng sống ". Hay tại ông đã chối
Thầy khi nghe một đứa nữ tỳ tra vấn? Khi bạn ông nói "Thầy đó". Ông
vội lấy áo vì đang ở trần, nhảy xuống biển, như muốn rửa sạch các vết tội như
chối Thầy 3 lần. Ông, người đứng đầu các Tông Đồ, trở thành kẻ sám hối đầu tiên".
Vào tới bờ các môn đệ thấy bánh và cá
đã nướng sẵn đó. Trong bữa ăn mà Chúa đã chuẩn bị để đãi họ ("đến mà ăn
"). Anh sáng thâm nhập tâm hồn: Không môn đệ nào còn hỏi Người Thầy là ai?
Vì họ đều biết đó là Chúa?
A. Marchadour chú thích rằng: "
Trong những bích hoạ cổ, bánh và cá biểu tượng tiệc Thánh Thể. Như vậy, trình
thuật này của thánh Gioan, muốn nhắc độc giả nhớ rằng: cử hành Thánh Thể là sự
nối dài là hiện thực hoá điều mà các chứng nhân tiên khởi của biến cố Phục sinh
tin nhận trong sứ vụ cũng như công việc đời thường, tín hữu cần nhớ: Chúa Giêsu
vinh hiển đang chờ họ, đang chuẩn bị cho họ bữa ăn nuôi sống họ và làm cho họ
có sức mà gặp được Người" (Sđd, trg 257).
3. Hãy chăn các chiên của Ta.
Toàn bộ trình thuật của Gioan khẩn
khoản mời chúng ta hướng về Phêrô. Ở bờ hồ, Phêrô được liệt kê trước hết trong
danh sách các môn đệ. Ông là kẻ khởi xướng chuyến ra biển, các anh em khác theo
ông và xuống thuyền của ông; chính ông nhào xuống nước lội vào gặp Đấng mà
Gioan vừa chỉ ra là Chúa; và rồi, chính ông trở lại thuyền để kéo lưới vào tận
bờ, đầy những cá lớn và trình mẻ cá cho Đức Giêsu thấy.
Và bây giờ, trong câu chuyện có tính
quyết định, Phêrô đóng vai trò chính yếu nhất, khi Đấng phục sinh long trọng
xác nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt của ông cũng như những điều kiện cần thiết để
chu toàn sứ mệnh ấy.
Ba lần hỏi: "Con có yêu mến Thầy
Không? Con có yêu mến Thầy hơn những người này không? " những câu hỏi vừa
gợi lại vừa sửa lỗi ba lần Phêrô đã chối Thầy (Ga 13,37 và 18, 17.25.27). Đức
Giêsu đón nhận một tội nhân sám hối.
Ba lần trao nhiệm vụ. Kẻ mới chối
Người, Người lại trao một nhiệm vụ đặc biệt trong Giáo Hội Người. Ba lần trao
nhiệm vụ theo thói quen thời đó, Đức Giêsu đã chính thức uỷ thác cho Phêrô
nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên. Nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn khi "theo
" Thầy mình cho tới cái chết để làm chứng. (Ga 13,36): tham dự vào sứ mệnh
của Đức Giêsu, chính là tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người; và
cũng chính là chấp nhận hiến dâng mạng sống cho những anh em đã được Chúa trao
phó như Đức Giêsu.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức Giêsu trên bờ biển Hồ
("Bible du Dimanche""
trg 582).
Đức Giêsu đã hứa với các Tông đồ: Người
sẽ gặp các ông ở Galilê sau khi sống lại. Người đang ở bờ biển Hồ (biểu tượng
của vĩnh cửu), trong khi các môn đệ đang vất vả trên.mặt biển, trong thử thách,
hiểm nguy. Các Tông đồ không nhận ra Người ngay. Chỉ đức tin mới làm cho người
ta nhận ra Người qua những dấu chỉ Người tỏ bày.
Đức Chúa vinh hiển, Đấng từ xa kêu gọi
và chỉ tỏ mình trong đức tin, lại cũng chính là người mời phục vụ chuẩn bị bữa
ăn và mới gọi chúng ta ngồi chia sẻ bữa ăn ấy. Đức Kitô sai các Tông đồ đi chài
lưới người ta. Mẻ chài này, Người điều khiển. Người làm cho cá vào đầy lưới,
biểu tượng Nước Trời (Mt.13,47). Người trao nhiệm vụ chủ chăn cho Phêrô. Uy
quyền này được trao cho một con người rất bình thường (Simon con Giona), một
con người mỏng giòn, đã chối bỏ Người và không thể yêu Người sâu xa hơn ngoài
sự gắn bó thuần tình cảm.
Nhưng từ đây, Đức tin của Phêrô dựa
trên Đức Giêsu chứ không dự' trên sức mình: " Thầy biết ". Phêrô
không đòi chia sẻ mọi tâm tư của Thầy, ông chỉ còn việc duy nhất phải làm: theo
Thầy.
Số phận của Phêrô cũng sẽ là số phận
của các tín hữu: từ lòng tin nhiệt thành phác hoạ lối đi, ông tiến tới đức tin
chín chắn, dám để cho Chúa dẫn dắt cuộc đời cho tới chết, tới tử đạo.
2. Người của bờ biển Hồ
(G. Bessière, trong dieu si proche, Nãm
C". DDB, trg 57-58).
Không ai nhận ra con người đứng trên bờ
biển Hồ. Người môn đệ Đức Giêsu yêu đã kêu lên: " Chúa đó! " Vào sáng
phục sinh, ông là người đã đến mồ trước tiên, "ông đã thấy và đã tin; và
trong ánh sáng của tình yêu, ông còn là người đầu tiên nhận ra Đấng Phục sinh.
Phêrô cũng là người có phản ứng rất đặc biệt: nhảy ùm xuống nước mà lội vào với
Chúa.
Bản tướng thuật như quên những anh em
khác để tập chú vào hai nhân vật này. Mỗi người một vẻ. Người thì được Đức
Giêsu quá yêu thương. người thì là.thủ lãnh năng động của tập thể. Giáo Hội sơ
khai cần nhận ra đặc điểm của hai khuôn mặt vĩ đại này. Đó là hai cực sống động
của những cộng đồng quan trọng tiên khởi, hai trào lưu khác nhau của Kitô giáo
thuở đầu. Cả hai vị đều tiếp nhận từ Đức Giêsu vai trò đặc biệt của mình.
Còn một biểu tượng rất giàu ý nghĩa:
người ta chèo thuyền, người ta thả lưới, đêm dài vô tận, bình mình nhợt nhạt,
mà thuyền cá nhẹ tênh. Phải nhìn ra đấng Phục sinh đang ở xa xa, phải biết đi
tới tận cùng thế giới. Nghe người chỉ mà quay lại quăng lưới. Chỉ Người có thể
dẫn ta vào những cuộc mạo hiểm khi nhắc cho ta những đòi hỏi và hạnh phúc của
cuộc mạo hiểm đó, đời sống của Giáo Hội phải luôn được "hiệu chỉnh "
dưới ánh mắt của Đức Giêsu''
Lưới không rách. Cộng đồng Kitô giáo
cũng vậy. Nhiều dị biệt. Nhưng là nơi người ta nghe nhau, hiệp thông với nhau
dù rất khác biệt. Đức Giêsu luôn mời gọi. Người hiến tặng bánh và cá, như thời
nuôi dân trong hoang địa, như bữa tiệc chiều ly biệt. Chúng ta thoáng nhận ra
hình ảnh bữa tiệc ngày thế mạt mà Người muốn mời cả loài người. Chân trời này
gợi nơi ta một mối quan tâm vô cùng sâu sắc.
Các Kitô hữu, thực hiện sứ mệnh mỗi
người mỗi cách, nhưng phải trùng hợp với ý Đức Giêsu, nhận ra Người, nghe
"được tiếng Người khi thi hành sứ mệnh Chính Người nuôi dưỡng và làm cộng
đồng sống động: chúng ta nghĩ đến Bữa tiệc ly Thánh Thể. Và như tại Emmaus,
chúng ta nhận ra Đấng Phục Sinh nhờ cử chỉ khi hiện diện, phục vụ và chia sẻ
của Người.
18. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà
Lạt
CHÚA HIỆN RA BÊN BỜ HỒ TIBÊRIAT
1. Đa số các nhà phê bình nhất trí cho
rằng chương này là một phụ chương được thêm sau khi phúc âm hoàn toàn chấm dứt;
một số khác cho rằng chính tác giả phúc âm đã soạn thảo ra nó, vì chương có
những nét đặc biệt của Gioan (ngôn ngữ, bút pháp, ngữ vựng...). Đúng vậy, nhưng
người ta cũng thấy những yếu tố xa lạ với Gioan và gần với Lc hơn (có những con
số; x. phép lạ hoá bánh, Lc 9,10-17). Hãy thận trọng khi giải thích những con
số này vì cách tường thuật cuộc đánh cá kỳ diệu và việc hoá bánh ra nhiều rất
khác nhau. Ngoài ra, vì có khá nhiều thành ngữ không thuộc Gioan, nên người ta
nhìn nhận là không phải chính Gioan viết, nhưng là một môn đệ của ông viết thêm
vào, dựa trên những câu chuyện của chính Gioan kể lại. Có lẽ phụ chương này
được thêm vào ngay từ đầu. Thật vậy, người ta thấy nó trong tất cả mọi thủ bản
và được nhiều tác giả Kitô giáo đồng thời với chính phúc âm được xuất bản,
nghĩa là được phổ biến trong các giáo đoàn. Hình như tác giả phúc âm đã chết
vào thời đó (c.21-23); toàn chương nói về ông như nói về một người khác
(21,7:ekeinos, người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến ấy). Đàng khác ngôn ngữ thần học
thường thấy trong các văn tập của Gioan ở ấy đã nhường chỗ cho việc mô tả các
nhân vật và tương quan của họ trong Giáo hội. Người biên soạn bản văn này chú ý
nhiều đến chi tiết cá nhân. Bản danh sách trong 21,2, việc nhắc đến nguồn gốc
của Mahanael (ông từ Cana đến) và việc nói đến 2 con ông Giebêđê (mà phúc ân
thứ tư đã cố tình tránh né) cho thấy điều đó. Và cách giải thích quyền tối
thượng của Phêrô trên Gioan minh chứng rõ ràng có sự can thiệp của một biên tập
viên khác hằng muốn làm nổi bật giá trị của phúc âm, hằng muốn cho người ta
biết rằng tác giả đã suýt trở thành nhân vật điều khiển Giáo hội. Theo ý kiến
nhiều người thì phần kết luận (cc.24-25) là do một người môn đệ đặc trách việc
xuất bản viết, phúc âm gia không phải là tác phẩm phần kết luận đó, vì ông
chính là môn đệ dấu yêu mà trình thuật cuối cùng nói đến.
Như thế, vì thiếu chứng cớ rõ ràng dựa
trên ngôn ngữ và văn thể, toàn bộ dữ kiện và chiều hướng chung của bản văn cho
phép nghĩ rằng chương 21 là công trình của môn đệ đặc trách việc xuất bản. Việc
Gioan đã kết thúc phúc âm ở 20,30-31 bênh vực cho kết luận này của chúng ta.
Tưởng cũng nên lưu ý rằng bất xác thực tính này (non-authenticité) không ảnh
hưởng gì đến linh hứng tín của chương 21; tuy nhiên bất xác thực tính đó không
phải tuyệt đối, vì trình thuật này dựa trên cơ sở những gì chính tác giả phúc
âm kể lại.
2. Đoản văn ghi chú các tông đồ bắt
được 153 con cá trong mẻ lưới lạ lùng. Phải nghĩ gì về con số lạ lùng này? Có
thể người ta vì tò mò, đã đếm xem số lượng... Tuy nhiên ở đây không chỉ có việc
ghi lại cách chính xác số cá bắt được. Các giáo phụ đã đưa ra nhiều giả thiết,
trong đó lối giải thích của thánh Jêrôme dễ chấp nhận nhất: các nhà vạn vật học
thời xưa biết được 153 loại cá. Thực ra, một biểu hiện không hề có cơ sở trong
CƯ như thế mà lại được ghi nhận trong phúc âm Gioan, kể cũng hơi lạ. Dù sao,
nếu thánh Jêrôme có lý, thì ý nghĩa của con số này trùng phùng với thành ngữ
"đủ mọi thứ cá" trong dụ ngôn về Nước Trời (Mt 13,47). Giáo hội phải
hội tụ trong nước mình tất cả mọi dân tộc, như mục tử chân chính qui tụ trong
đàn mình mọi con chiên đến từ chuồng khác ngoài Israel (10,1b), như Con Người
kéo lôi tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (x.12,32; 6,44). Vì thế,
phải liên kết đề tài biểu tượng này với các chi tiết liên quan đến chiếc thuyền
duy nhất và chiếc lưới không bị thủng.
3. Một câu hỏi, lặp lại ba lần
"Phêrô, con có mến Ta không?" xem ra được nhấn mạnh bù lại ba lần
chối Chúa, hầu hết các nhà chú giải đều nhất trí như thế. Nhưng chỉ sau lần hỏi
thứ ba, mới nghe Chúa Giêsu thôi nói với Phêrô: "Hãy chăn nuôi đàn cừu của
Ta", như thể ngầm bảo rằng ông đã được tha. Vậy tại sao lời uỷ nhiệm này
được trao cho ông ba lần luôn?
Nhiều nhà chú giải nhấn mạnh: việc lặp
lại này nhằm tăng thêm phần long trọng cho khung cảnh. Theo Bultmann, việc long
trọng lặp lại như thế gợi lên "một tập tục tế tự hoặc một tập tục pháp lý
có tính cách ma thuật". Còn P. Gaechter đề nghị cách giải thích sau: như
những công thức luật pháp cổ xưa thường không được viết ra nhưng phải được lặp
lại ba lần trước những nhân chứng. Cũng thế, lời uỷ nhiệm chính thức được trao
ban cho Phêrô cũng có giá trị pháp lý nhờ lặp lại ba lần trước các nhân chứng.
Để minh chứng cho ý kiến này ông đưa ra nhiều ví dụ rút từ luật giá thú xứ
Palestine và nhắc lại công thức ba lần đã được dùng đến khi Abraham nhận căn động
của Makpéla để chôn xác Sara (St 23,3-18). Ngoài ra, có thể kể thêm trường hợp
luật dòng thánh Biển Đức, thế kỷ thứ sáu, buộc phải đọc lời khấn ba lần. Nói
tóm lại, tâm thức luật pháp chung chung của cổ thời giúp ta dễ dàng hiểu lời uỷ
nhiệm ba lần được lặp lại này. Việc lặp lại có ý nói rằng Phêrô chính thức được
giao phó nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Đức Kitô.
4. Ba lần Chúa Giêsu hỏi và ba lần
Phêrô trả lời tạo nên tâm điểm của trình thuật: địa vị Phêrô và môn đệ dấu yêu
có đủ mọi cơ may được phong làm người lãnh đạo: các con ông Giêbeđê (được đó có
Gioan) và mẹ các ông đã chẳng ngần ngại xin những chỗ tốt trong Nước Trời sao?
(Mc 10,35-41)
Nếu Phêrô đã chiếm chỗ nhất, đó không
phải là vì công lao của ông. Ba lần Chúa Giêsu hỏi rõ ràng là dư âm của ba lần
ông chối Chúa. Ông đã thề theo Chúa Giêsu cho đến chết, dù các người khác chối
bỏ Người... (Mc 14,29). Và giờ đây, ông bị tra vấn về tình yêu và lòng trung
tín của ông:"Con có mến ta hơn những người này không?", câu hỏi đầu
tiên là vậy. Để hướng dẫn kẻ khác, phải chứng tỏ có một tình yêu lớn hơn. Chúa
Giêsu hoàn toàn không muốn khơi lại niềm đau xa xưa. Nhưng Phêrô hãy biết rằng
việc ông được quyền tối thượng không do công lao của ông. Mọi trình thuật về ơn
gọi, trong CƯ cũng như trong TƯ, luôn đi theo lời xác quyết tính cách bất xứng
của đương sự (15,16). Khi Chúa hỏi Phêrô có yêu mến Ngài hơn những người khác
không, câu hỏi này nhắm đến tương lai nhiều hơn là quá khứ. Phêrô không được
chọn vì đã yêu nhiều. Các sự kiện quá khứ đều phủ nhận điều đó; chỉ có Gioan,
vì yêu nhiều hơn nên mới dám đến đứng dưới chân thập giá sau khi đã chạy trốn.
Nhưng vì một khi được chọn, ông phải từ đó yêu nhiều hơn những kẻ khác.
5. Vì là người lãnh đạo, từ nay, theo
chân Chúa Giêsu Phêrô phải đi trước đoàn chiên (13,36). Xưa kia vì quá tự tin,
ông đã tuyên bố có thể theo Chúa cho đến chết. Ông sẽ có cơ hội thực hiện điều
đó. Khi trích một châm ngôn bình dân, Chúa Giêsu báo cho Phêrô biết một ngày
kia ông sẽ chết tử vì đạo. Lúc còn trẻ, người ta có thể tự mặc áo, thắt nịt,
như Phêrô đã làm lúc nãy (21,7). Nhưng khi về già, sẽ bị người khác áp chế.
Cũng vậy, Phêrô sẽ giăng tay để người khác thắt lưng. Hình ảnh này nói lên việc
mất tự do, chứ không nói đến hình thức cụ thể của việc Phêrô tử đạo; truyền
thuyết ghi nhận đã bị đóng đinh.
Lời bí ẩn mà Chúa Giêsu đưa ra có được
Giáo hội giải thích như là lời tiên báo về cuộc tử đạo của Phêrô. Chính tác giả
cũng gợi lên cách giải thích này (12,33; 18,32). Nhờ việc tử đạo, Phêrô sẽ tôn
vinh TC. Từ ngữ tôn vinh ở đây không có cùng một ý nghĩa như trong trình thuật
Tử nạn của Chúa Giêsu (13,31; 17,1). Nhờ cái chết, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi
người thấy vinh quang của Cha Ngài và một cách nào đó trở nên lăng kính của
vinh quang TC. Nhờ việc tử đạo, Phêrô tuyên xưng vinh quang hay thần tính của
TC, khi thực hiện thánh ý của Ngài (1P 4,16). Trong lúc chờ đợi, Phêrô chỉ cần
đi theo Chúa Giêsu (10,4; 12,26). Con đường này đương nhiên đưa ông đến cuộc tử
đạo (12,26.36).
KẾT LUẬN
Giavê, mục tử Israel (Ez 34,11-12; Tv
23) đã cho Chúa Giêsu trở nên mục tử tốt lành và đích thực (Ga 10,1-16; 1P
5,4). Từ đây chính Phêrô sẽ thay mặt Đức Kitô thi hành quyền chăn dắt hữu hình:
ông trước hết rồi đến những người kế vị ông.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người mục tử nhân lành săn sóc đàn
chiên mình mà chúng ta đã biết mà phúc âm đã trình bày, đó chính là Đức Kitô;
tuy nhiên Phêrô hôm nay được giao phó một công việc thật đặc biệt: coi sóc để
mỗi con chiên được ăn đầy đủ. Chúng ta có thể dễ dàng hiểu đây là của ăn đã
được Chúa Giêsu đưa ra, của ăn chính Ngài thiết lập và không thể thiếu: Mình và
Máu Ngài. Với Thánh Thể, còn có của ăn Lời chúa đi kèm nữa. Nếu Chúa Giêsu vẫn
là mục tử tối cao, thì Phêrô đặc trách về lương thực và an toàn thiêng liêng
của đàn chiên.
Trong cách Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh
Ngài cho vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo hội, chúng ta có thể tìm thấy hai bài
học:
- Nếu Phêrô và qua ông, những đấng kế
vị, có bổn phận nuôi dưỡng thì chúng ta phải biết chạy đến với các Ngài. Có lẽ
bổn phận đầu tiên của chức tư tế, qua đoạn phúc âm này, là bảo đảm của ăn
thiêng liêng phát triển và giữ gìn Giáo hội.
- Cũng như Phêrô, tất cả chúng ta đều
có chức vụ phải thi hành, vai trò nắm giữ để phục vụ tha nhân. Dù chức vụ khiêm
tốn hay hào khoáng, quan trọng hay tầm thường, hiệu lực hay không đáng kể, cũng
chẳng sao. Có lẽ hôm nay chúng ta nên suy nghĩ về cách thức chúng ta đã thi
hành công việc: có đúng như Chúa Giêsu đòi hỏi Phêrô, nghĩa là làm vì yêu,
trong tinh thần phục vụ và vô vị lợi hay không?
2. Chính vì Phêrô xác quyết yêu mến
Chúa, nên được Chúa trao phó đoàn chiên cho. Và chính vì đàn chiên được trao
phó cho mình mà Phêrô phải lệ thuộc và vâng lời. Nếu Phêrô được trao công việc
này là vì ông yêu Đức Kitô. Việc ông phục vụ tha nhân sẽ được nung nấu không
phải là vì lòng ham danh cầu lợi, nhưng vì lòng tín trung với tình yêu Đức
Kitô. Tình yêu với Đức Kitô thanh tẩy ý hướng phục vụ tha nhân của ông. Khi
phục vụ tha nhân vì yêu Chúa, ông can đảm dấn thân trong con đường lệ thuộc,
vâng lời. Đa số các nhà chú giải thấy trong dụ ngôn kỳ lạ của Chúa Giêsu lời
tiên báo việc tử đạo của Phêrô vào cuối đời. Nhưng người ta cũng thấy trong đó
lời tiên báo: cuộc đời Phêrô, vì ngày càng bận bịu phục vụ tha nhân, sẽ được
thúc đẩy bởi một sự vâng lời đến nỗi ông bị chiếm đoạt hoàn toàn.
Đây là một sự lệ thuộc chặt chẽ giữa tình
yêu Chúa, việc phục vụ tha nhân là sự từ bỏ chính mình, tất cả những gì mà Chúa
Giêsu đòi hỏi nơi Phêrô, thủ lãnh Giáo hội. Do đó, được trao ban quyền bính,
với sứ mạng thiết lập một sứ mạng mới, Phêrô phải tuân hành trong sự vâng phục
thánh linh. Ông được chính Chúa bảo vệ khỏi cám dỗ thống trị anh em. Khỏi quyến
rũ áp đặt một quyền lực tôn giáo, khỏi tham vọng mưu đồ địa vị cá nhân.
3. "Người môn đệ Chúa Giêsu yêu
mến mới nói cùng Phêrô: "Chúa đó" (c.7). Theo văn mạch, người môn đệ
nhận ra Đức Kitô không phải vì nhìn thấy Chúa trực tiếp, nhưng vì thấy phép lạ
Chúa làm. Truy nhiên không phải ai cũng nhận ra; bản văn cho thấy chỉ một mình
môn đệ Chúa Giêsu yêu mới có được sự minh mẫn mà các tông đồ khác không có. Đối
với chúng ta cũng thế: việc nhận ra Chúa Giêsu, sự khám phá ra hiện diện của
Ngài, trước tiên không nằm trong tầm trí giác bén nhạy và tức khắc, nhưng được
thực hiện nhờ việc giải thích biến cố trong đó biểu lộ hiệu lực của Lời Ngài và
hiệu năng của công việc chúng ta dựa trên "Lời Ngài" (Lc 5,5). Chỉ
một mình môn đệ Chúa Giêsu yêu mến mới có thể làm được điều ấy, bởi vì sự vắng
mặt lâu của thầy, sự nặng nề của công việc mà thói quen dễ thất vọng đã không
dập tắt trong ông cái nhìn của tình yêu. Khi mà các môn đệ khác chỉ thấy một sự
may mắn bất ngờ, thì ông lại khám phá ra sự can thiệp của Đấng phục sinh.
"Ông thấy và ông tin" (20,8). Ngược với Tôma muốn thấy và sờ đến
trước khi tin, ông không cần một minh chứng rõ ràng, nhưng đức tin và cái nhìn
trở nên một nơi ông: điều ông thấy mạc khải cho ông Đấng ông tin, vì Đấng ông
tin làm cho ông thấy. Và chúng ta, những Kitô hữu, sự phục sinh của Đức Kitô có
thâm nhập và biến đổi cuộc đời chúng ta, có canh tân cùng tinh luyện cái nhìn
của chúng ta về các biến cố không?
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét