Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

BÀI GIANG CN IV PS CHUA, CHIÊN LÀNH

BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH


CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Lời Chúa: Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30

MỤC LỤC
1. Chúa Chiên Lành
2. Mục tử
3. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát – Thiên Phúc
4. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta
5. Vị Chủ Chăn Nhân Lành – R. Veritas
6. Người Mục Tử – Lm. Jos. Hoàng Kim Toan
7. Để khỏi bị diệt vong – Lm Ignatio Trần Ngà
8. Người chết vì yêu! – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
9. Hoà hợp tiền định - Achille Degeest
10. Con chiên của Chúa Giêsu
11. Chúa Chiên Lành - McCarthy
12. Chúng theo Tôi
13. Chúa Chiên Lành - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
14. Người mục tử
15. Nghe Ta
16. Đàn chiên
17. Theo Chúa
18. Ơn gọi – Lm. Phạm Thanh Liêm
19. Chú giải của Noel Quesson
20. Chú giải của Fiches Dominicales
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

1. Chúa Chiên Lành.
Vào năm 1943, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích và bị sát hại gần thành phố Chani, miền bắc nước Ý. Và thế là viên chỉ huy Đức Quốc Xã liền ra lệnh bắt 50 người thế giá nhất của thành phố đem đi xử bắn để dạy cho dân thành một bài học.
Đức Cha chánh và Đức Cha phó đã cố gắng can thiệp nhưng không hiệu quả gì. Tất cả 50 người đều bị trói, bị bịt mắt và xếp thành hàng dài. Thế rồi giây phút đen tối nhất đã đến. Tiếng còi hụ vang lên báo hiệu nhắm súng. Đức Cha chánh xin viên chỉ huy một đặc ân cuối cùng là được ôm hôn từng người sắp bị hành quyết. Ngài tìm cơ hội cho các nạn nhân được xưng tội để giao hoà với Chúa. May mắn thay, lời thỉnh cầu này được chấp nhận.
Nhưng cũng thật lạ lùng, bởi vì sau đó hai vị giám mục đã không trở về chỗ cũ, trái lại các ngài đã đứng vào hàng ngũ những người bị xử bắn. Đức Cha chánh đã lên tiếng nói với viên chỉ huy: Không phải chỉ có 50 người, nhưng tất cả là 52 người chúng tôi. Ông còn quyết định bắn chúng tôi, thì xin hãy ra lệnh. Xin Thiên Chúa tha thứ cho ông.
Vừa dứt lời, bỗng từ bầu khí nặng nề của chết chóc vang lên tiếng reo hò, bởi vì các khẩu súng đang nhắm bắn đều hạ xuống. Thế là cả chủ chăn lẫn đoàn chiên đều thoát khỏi những viên đạn của tự thần. Hôm đó từ pháp trường ra về, mục tử cũng như đoàn chiên đều sung sướng hát lời thánh vịnh: Khi Chúa dẫn từ nhân Sion trở về, ta tưởng như giấc mơ...
Hình ảnh hai vị giám mục đứng giữa những người bị xử bắn làm cho chúng ta nhớ tới Đức Kitô, vị mục tử nhân lành của chúng ta. Thực vậy, Ngài là Đấng thánh thiện và quyền năng, Ngài đã xuống thế làm người để trở thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hơn htế nữa, Ngài còn đồng hoá mình với chúng ta, là những kẻ tội lỗi. Không những thế, Ngài còn hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi, như lời thánh Phaolô viết: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi. Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Còn chúng ta thì sao?
Là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta cần phải lắng nghe và bước theo sự dẫn dắt của vị mục tử như lời Ngài đã phán: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.
Hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta thực sự là những con chiên trong đoàn chiên của vị mục tử nhân lành là chính Đức Kitô.

2. Mục tử.
Thế giới ngày nay không ngừng biến đổi, làm cho chúng ta, những người già, dường như choáng váng, không theo nổi. Chúng ta thương tiếc cho một dĩ vãng vàng son, ở đó trật tự và tương lai được bảo đảm.
Thế nhưng, thương tiếc mà làm chi, vì cái dĩ vãng đâu còn nữa. Không có gì là bền vững vì cuộc sống không ngừng đổi thay. Cái hôm nay tồn tại, thì ngay mãi sẽ bị thay thế, từ những kiểu thời trang cho đến những hiệp ước, từ những loại xe cộ cho đến những thữ vữ khí, từ những lập trường cho đến những phương thuốc trị liệu... Thế giới như quay cuồng, đầy những phân rẽ và bất đồng trong dư luận, trong đảng phái, cũng như trong chính tâm hồn mình.
Con người như chao đảo, ngả bên này, nghiêng bên kia. Nghe truyền thanh, xem truyền hình, đọc báo chí, chúng ta cảm thấy như người đang nói với chúng ta là có lý. Nhưng cái có lý ấy chẳng kéo dài được bao lâu, bởi vì khi kẻ đối lập với ông ta lên tiếng, chúng ta lại cảm thấy phần có lý ấy lại chuyển sang phe đối lập. Vì thế, chúng ta khó có thể tìm thấy chân lý, khó có thể nhận ra sự thật.
Giữa những cái trái ngược nhau như vậy, lời Chúa hôm nay vang lên, như muốn xác định cho chúng ta một lập trường dứt khoát và chắc chắn: Ta là mục tử nhân lành. Lời xác quyết này thắp lên trong chúng ta một tia sáng hy vọng, đồng thời tỏ cho chúng ta thấy một góc cạnh mới về Thiên Chúa.
Ta biết các chiên Ta. Phải, Ngài biết chúng ta không như viên kỹ sư biết một chiếc máy. Ngài biết chúng ta không như thầy cô giáo biết những người học trò. Trái lại, Ngài biết chúng ta như một người bạn biết một người bạn, và sẵn sàng hy sinh cho nhau: Ta hiến mạng sống mình đàn chiên.
Hình ảnh người mục tử nhân lành phải là hình ảnh của một người chủ chăn luôn canh giữ chuồng chiên, để đoàn chiên được an toàn. Người mục tử ấy luôn sống giữa bày chiên và luôn chăm sóc đến các con chiên, sẵn sàng chiến đấu chống lại sói dữ, không quản ngại vất vả, để lên đường tìm kiếm những con chiên lạc.
Trái tim của con người thời nay dường như đã trở nên chai đá và băng giá. Họ ít lưu tâm đến những người chung quanh. Trong vũ trụ bao la này, con người chỉ là một số không. Chẳng ai hỏi han đến chúng ta và khi chúng ta lên tiêng nói, thì cũng chẳng ai buồn nghe. Chỉ mình Đức Ki tô, vị mục tử nhân lành, luôn tồn tại giữa những đổi thay. Ngài biết chúng ta và hằng chăm sóc cho chúng ta.
Vào những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã trải qua những năm tháng dài bị bắt bớ và cấm cách. Các tín hữu luôn bị đe doạ và gặp phải muôn vàn khó khăn, thế nhưng dưới những hang toại đạo, hình ảnh được vẽ nhiều nhất trên những bức tường, đó là hình ảnh người mục tử nhân lành. Chính hình ảnh này đã đem lại cho họ niềm ai ủi và khích lệ.
Con người thời nay đặt niềm tin tưởng của mình vào những bài diễn văn của các chính khách, nhưng rồi đến một lúc nào đó, họ nhận ra những trò bịp bợm trong lãnh vực chính trị và những mánh khoé trong phạm vi tuyên truyền, để mà bóp méo sự thật. Bấy giờ, họ cay đắng cảm thấy mình bị lừa gạt.
Còn chúng ta thì khác. Chúng ta đã đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu. Ngài là Đấng trung thành, không phải chỉ nói suông, không phải chỉ hứa cuội, mà Ngài còn thực hiện, còn hành động. Vì thế, trải qua hơn hai ngàn năm, hình ảnh người mục tử nhân lành vẫn còn là một hình ảnh sống động và thời sự, bời vì Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta và đã chết thay cho chúng ta trên thập giá.
Hãy tin tưởng và yêu mến Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, để rồi bản thân và cuộc đời chúng ta sẽ được bình an dưới sự dẫn dắt và chăm sóc của Ngài.

3. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát – Thiên Phúc
(Trích trong 'Như Thầy Đã Yêu')
Dương Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền nam đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: "Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc". Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" (Ga 10,27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: "Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô".
- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augustinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa để được những gì? Đức Kitô đã trả lời: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi". Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: "Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho Tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha". Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ, để chúng con được nằm gọn trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho chúng con luôn đi theo Chúa là chủ chiên nhân lành của cuộc đời chúng con mà thôi. Amen.

4. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta.
Người ta kể lại câu chuyện sau đây: Có ba tín hữu nọ, một ông nhà nghèo, một ông nhà giàu và người thứ ba là kẻ bất lương đều chết trong một giờ và sau đó phải ra tòa Chúa phán xét. Thiên Chúa hỏi ông nhà nghèo: - Vì lý do gì mà ngươi không lo tìm hiểu và tuân giữ Lời Chúa ghi trong sách Koran.
Anh nhà nghèo gãi tai và thưa: - Dạ! Lạy Chúa, vì con nghèo quá, nên phải đầu tắt mặt tối lo kiếm gạo nuôi thân, không còn gì cả.
Chúa trả lời: - Ông Hellen đã nghèo hơn ngươi rất nhiều thế mà có được chút tiền là ông để dành một nửa để học luật Chúa và khi nào không có tiền trả lệ phí thì ông nhịn đói, đứng ngoài trường học nghe lóm Rabbi Eliaza giảng giải Lời Chúa.
Và Thiên Chúa quay sang hỏi ông nhà giàu: - Còn ngươi. Tại sao con lại không tìm học hỏi và tuân giữ luật Chúa?
Ông nhà giàu thưa: - Dạ, tại vì con phải lo công việc quản trị của cải, tiền bạc và các dịch vụ làm ăn. Bận bịu tíu tít, còn giờ đâu mà học hỏi sự gì?
Thiên Chúa phán: - Ngươi đâu có giàu có bằng thầy Rabbi Eliaza, ông ấy có một trăm chiếc tàu buôn bán đủ mọi thứ hàng hóa và rất bận rộn với công việc kinh doanh, nhưng Rabbi Eliaza vẫn tìm ra giờ để học hỏi luật Chúa.
Sau cùng, Chúa hỏi tên bất lương: - Còn ngươi, kẻ gian ác. Tại sao ngươi đã không học hỏi luật Chúa?
Tên bất lương tìm cách chữa lỗi: - Lạy Chúa, con bị các đam mê lôi cuốn quá, nên không còn nghĩ đến gì khác nữa.
Thiên Chúa bảo hắn: - Ngươi đâu có bị người ta cám dỗ và say mê như Giuse khi sống bên Ai Cập xưa kia. Ngày đêm bị vợ quan tổng quản Putipha níu kéo, rủ rê cám dỗ phạm tội với bà ta mà vẫn chống trả tới cùng.
Thế là cả ba người đều phải án phạt sống xa rời Thiên Chúa và chôn vùi trong nơi khổ ải của âm ty, âm phủ.
Là người Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều có bổn phận học hỏi, lắng nghe và tuần giữ Lời Chúa. Đây là một bổn phận thiêng liêng vô cùng quan trọng. Vì nó làm cho phần rỗi chúng ta được bảo đảm.
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không đề nghị với con người điều gì khác ngoài bổn phận lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Đó là điểm thần học nổi bật trong sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay. Đây là chìa khóa thần học giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu Kitô, Người Mục Tử nhân lành như thánh Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, từ "hư mất" ám chỉ tội lỗi, con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Thiên Chúa của mình, phải chết đời đời và xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn. Là thụ tạo được phát minh từ bàn tay nhân hiền của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy của Thiên Chúa khi phạm tội khước từ Thiên Chúa và tự tôn mình lên địa vị của Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa mới phải sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và giao cho Chúa Giêsu chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian chính là để kiếm tìm những gì đã hư mất. Đôi bàn tay của Ngài cũng là đôi bàn tay của Thiên Chúa. Chương tình cứu độ của Ngài thực hiện qua Tin Mừng cứu độ. Nước Trời cũng chính là chương trình của Thiên Chúa.
Hình ảnh người mục tử nhân lành diễn tả sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu đối với nhân loại và không ai có thể giật mất đoàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài.
Trình thuật Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành gồm một số động từ diễn tả các bổn phận của chủ chăn và bổn phận của tín hữu. Nếu viết chúng thành hai cột song song, chúng ta thấy có tới bốn động từ diễn tả bổn phận của chủ chăn. Đó là nói, hiểu biết, hiến mạng sống và gìn giữ. Trong khi đó chỉ có hai động từ diễn tả bổn phận của tín hữu là lắng nghe và đi theo.
Bổn phận đầu tiên của vị chủ chăn là nói, nghĩa là giảng dạy, huấn luyện, đào tạo, khuyên nhủ, kêu mời, đề nghị, góp ý kiến. Đây là động từ bao gồm tất cả mọi sinh hoạt rao giảng của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Từ việc tổ chức các khóa tĩnh tâm, huấn luyện, đào tạo mọi thành phần nhân lực mục vụ của cộng đoàn địa phương cho tới việc dùng các phương tiện và kỹ thuật truyền thông xã hội, báo chí, sách vở, tài liệu, phim ảnh, băng hình, truyền hình... để phổ biến, rao truyền Lời Chúa và phát triển lòng tin của tín hữu.
"Nói" chứ không phải là nóng nảy, bẳn gắt, la hét và mắng chửi tín hữu. Trong nghĩa này, "nói" là cả một nghệ thuật gồm nhiều tập luyện mỗi ngày, từ giọng điệu và kiểu cách cho tới các cử chỉ, từ ngữ và hình ảnh làm sao để giọng nói được ôn tồn, đầm ấm, và truyền cảm, hình ảnh được đơn sơ sáng sủa, rõ ràng, xúc tích và thích hợp hầu có thể truyền đạt Tin Mừng của Chúa đến cho tín hữu một cách hữu hiệu, xác tín và sâu xa hơn. Làm thế nào để vị chủ chăn rao giảng luôn làm giàu cho người nghe, thắp sáng lên trong tâm hồn lòng họ ngọn lửa tinh thần, nung nấu đốt cháy con tim họ và thúc đẩy họ tiến gần Thiên Chúa.
Bổn phận thứ hai của vị chủ chăn, tức là các Giám Mục, nam nữ Tu Sĩ và Giáo Dân lãnh đạo cộng đoàn là hiểu biết. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, hiểu biết có nghĩa là bước vào trong tương quan hiệp thông với tha nhân. Hơn ai hết, vị chủ chăn phải là người có các liên hệ huynh đệ nhân bản với tín hữu, biết chú ý đến sự khác biệt, không lẫn lộn tinh thần hiệp nhất với sự đồng nhất máy móc một chiều, không lẫn lộn cuộc sống với cảnh chạy việc, không lẫn lộn trật tự với cảnh rộn ràng vô hồn. Nhưng để có thể hiểu biết tín hữu, vị chủ chăn cần phải tiếp xúc và nhất là biết lắng nghe họ nói, biết cố gắng nhìn mọi người với con tim của mình, sẵn sàng học hỏi nơi tín hữu của mình. Các tín hữu có thể cho các vị chủ chăn biết bao nhiêu là bài học quí giá trên mọi bình diện cuộc sống, từ các đức tính xã hội, nhân bản cho đến các nhân đức Kitô, lòng tin, cậy, mến và sự thánh thiện.
Bổn phận thứ ba của chủ chăn là hiến mạng sống mình cho cộng đoàn tín hữu, chết cho họ và vì họ. Nói đúng ra, trừ các trường hợp bắt đạo bình thường thì chủ chăn ít khi phải chết vì tín hữu. Những điều mà Thiên Chúa và mọi tín hữu đều mong chờ là các chủ chăn sống hoàn toàn và trọn vẹn cho cộng đoàn, dành trọn khả năng, sức lực, thời giờ, của cải và toàn cuộc sống của mình cho tha nhân. Biết noi gương Chúa Giêsu kiên nhẫn, quảng đại, sống sát với tín hữu.Chia sẻ mọi vui buồn âu lo của họ và trở thành anh em đại đồng của mọi người. Nghĩa là vị chủ chăn không sống cho mình mà sống cho Chúa và cho cộng đoàn.
Bổn phận thứ tư của chủ chăn là giữ gìn để tín hữu khỏi bị sói dữ cắn xé để họ không xa Chúa, rời bỏ Giáo Hội, và mất đức tin. Trong thế giới ngày nay, nhiều khi rất khó nhận diện ra sói dữ, nhưng muốn bảo vệ cộng đoàn, vị chủ chăn phải để lợi ích thiêng liêng mà các linh hồn và hạnh phúc của tín hữu lên trên hết trong mọi sinh hoạt thường ngày chứ không phải các lợi lộc riêng tư, danh dự của mình hay thứ gì khác.
Về phần các tín hữu bổn phận thứ nhất là biết lắng nghe để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Chúa nói, thực hành mọi giáo huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày. Thái độ vâng lời ấy phải thể hiện ra trong việc cộng tác, tham gia, đóng góp vào các sinh hoạt của cộng đoàn tùy các tài khéo và bằng khả năng vật chất cũng như tinh thần của mình làm sao để cải tiến cộng đoàn, để biến nó thành một môi trường sinh động tươi vui, tràn đầy yêu thương, bác ái tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Cộng đoàn tham gia và đóng góp chứ không phải đứng ngoài chỉ trích, phê bình chửi rủa hay phá đám. Bởi vì nếu nghe Lời Chúa mà không hoán cải và thay đổi nếp sống cá nhân, gia đình cộng đoàn và xã hội tức là khước từ Chúa; từ chối Lời Ngài là chối bỏ lòng tin của mình.
Bổn phận thứ hai của tín hữu là đi theo, bước theo Chúa Kitô Phục Sinh để tiến về cuộc sống vĩnh cửu, để tiến về Đất Hứa. Do đó, hành trình của Kitô hữu phải là hành trình tươi vui, phấn khởi. Cuộc sống của Kitô hữu phải là cuộc sống sinh động, nhiều sáng kiến nhiều đóng góp. Khi đóng góp rõ ràng được mục đích của mình, Kitô hữu mới sẵn sàng hiến thân hy sinh và kiên trì trong những lúc gặp chướng ngại, thử thách, khó khăn và cám dỗ. Với ý thức đó, vâng lời có nghĩa là hiểu biết trách nhiệm cao độ mình phải có đối với các chủ chăn và các anh em khác trong cộng đoàn, thông cảm những khó khăn, những yếu đuối và khả năng hạn hẹp của họ và cố gắng xây dựng bù đắp cho nhau.

5. Vị Chủ Chăn Nhân Lành – R. Veritas
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục, tu sĩ nam nữ. Bài Phúc Âm nhắc chúng ta nhớ lại mối tương quan giữa Chúa Giêsu và mỗi tín hữu. Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên tốt lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên.
Cuốn phim về cuộc đời ông Bach Adams, trình bày cho chúng ta thấy một phần nhân cách phi thường, khác thường đến độ bị kẻ khác xét như một người điên. Đó là nhân cách của ông Bach Adams: ông khám phá ra chiều kích nhân bản tương quan giữa người với người trong việc chữa trị bệnh nhân. Bệnh nhân sẽ bình phục mau chóng hơn khi mối tương quan giữa bác sĩ và đương sự được tốt đẹp. Thái độ của ông Bach Adams rất khác biệt với thái độ cứng nhắc, vô tâm, vô tình của bác sĩ tâm thần không màng nghe người bệnh. Thái độ của ông Bach Adams bị thử thách khi người mang ơn những trợ giúp nhân đạo của ông không những không biết ơn mà còn hành động tàn bạo giết chết người yêu của ông. Adams cảm thấy sự hy sinh của mình bị xúc phạm, bị lợi dụng và muốn bỏ cuộc. Tác giả cuốn phim cho chúng ta thấy rằng chỉ khi nào Adams chấp nhận hy sinh, cho đi tất cả, thực sự cho đi tất cả, thì ông mới trung thành được với sứ mạng. Đây có thể nói là một cách sống thí mạng cho kẻ khác, cách sống của vị chủ chăn chiên hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Lòng quảng đại suông không bị thử thách, không quảng đại hy sinh, không phải thí mạng cho kẻ khác thì chưa phải là lòng quảng đại của vị chăn chiên nhân lành. Ngày ơn thiên triệu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từng mời gọi các bạn trẻ hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi theo Chúa, đây không phải là thứ lòng quảng đại lãng mạn, quá lý tưởng, không được thể hiện ra bên ngoài bằng hành động hy sinh cụ thể. Và do đó sẽ không kiên trung kéo dài lâu, gặp khó khăn sẽ dễ dàng nản lòng. Hy sinh là định luật để được trưởng thành và vững mạnh.
Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh Giêrônimô và hỏi: - Này Giêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô đáp: - Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con vừa mới dịch xong.
Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng chưa hoàn toàn thỏa mãn, Ngài hỏi thêm: - Con còn có gì nữa để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô không chút do dự trả lời: - Con dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước tới giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.
Chúa Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa mãn nguyện, Ngài lại hỏi lần thứ ba: - Con còn có gì để dâng cho Ta nữa không?
Lần này, thánh Giêrônimô tỏ vẻ phân vân và nhỏ nhẹ thưa cùng Chúa: - Thì con đã dâng cho Chúa tất cả rồi, còn gì tốt đẹp nữa đâu mà con có thể dâng cho Chúa được.
Chúa Giêsu nhìn Giêrônimô với đôi mắt nhân từ, tràn đầy yêu thương và phán: - Giêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi, những tật xấu của con? Con giữ nó làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên thập giá là để đền tội lỗi con mà.
Thánh Giêrônimô dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của mình.
Câu chuyện này phần nào diễn tả tất cả tâm hồn tràn đầy yêu thương của Chúa đối với mỗi người chúng ta. Ngài biết rõ chúng ta như chủ chăn biết rõ từng con chiên. Ngài đến với mỗi người chúng ta và đặt ra cùng một câu hỏi: "Con có gì dâng cho Ta hôm nay không?", ngoài những gì tốt đẹp nhất mà sức hèn con người có thể thực hiện để dâng cho Chúa, chúng ta còn được Chúa âu yếm mời gọi đừng sợ, hãy dâng cho Chúa cả những tội lỗi của mình. Chúa yêu thương chúng ta, thật khác với mọi lãnh tụ trần gian, chỉ muốn thuộc hạ dâng cho mình điều tốt. Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, vì Chúa là Chúa, nên muốn chúng ta dâng cho Ngài những điều tốt lẫn những điều xấu, vì Ngài có đủ quyền năng để biến đổi những điều xấu, thanh tẩy những tội lỗi chúng ta nếu chúng ta muốn.
Hình ảnh vị chủ chăn nhân lành nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình thương yêu, bảo vệ và hướng dẫn của Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của chúng ta. "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta". Chúng ta hãy đến dâng cho Chúa tất cả cuộc sống của mình, tất cả những điều tốt đẹp, kể cả những điều xấu, những tội lỗi để cho ân sủng Chúa thanh tẩy mỗi người chúng ta mỗi ngày được nên tốt đẹp hơn.

6. Người Mục Tử – Lm. Jos. Hoàng Kim Toan
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Người chăn dắt Israel, là một thuật ngữ quen dùng trong văn hoá người Do Thái, biểu tượng là người gìn giữ hoà bình, người của cõi thiêng mà đến.
Trong ngôn ngữ biểu tượng người chăn dắt là người đã từng trải bằng những kinh nghiệm của mình, người trực giác nhìn thấy phía trước, dự đoán được tương lai gần những điều sắp đến. Người chăn dẫn cũng là người biết canh chừng, theo chức năng đó người chăn dắt luôn trau dồi thêm những tình huống cảnh giác. Người chăn dắt có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho đoàn chiên của mình, anh ta là người biết nhìn trời, dự đoán qua trăng sao, tai lắng nghe và phân biệt được tiếng thú dữ và tiếng chiên lạc đàn thuộc bầy của minh. Chính anh ta là người không có chỗ dừng chân, không có một nơi gối đầu định cư, số phận anh ta tuỳ thuộc vào số phận của đoàn chiên. Đối với đoàn chiên, anh ta là đôi mắt là sự am hiểu thay cho đàn chiên, biết từng con chiên và bảo vệ từng con chiên trong đàn.
Sứ vụ của người chăn chiên đòi hỏi phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ thương cảm. Con chiên nào đau bệnh, anh chữa trị, con nào lạc lối, anh tìm đưa về, con nào bước đi yếu ớt, anh cõng trên vai. Những con chiên khoẻ mạnh anh ta vỗ về... Từ những hình ảnh nhân hậu đó, người chăn chiên còn là biểu tượng của sự bình an cho đàn chiên. Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ chiên.
Theo truyền thống Do Thái Cain đại diện cho người theo văn hoá du mục, Abel đại diện cho nền văn hoá định cư. Người định cư rất quý mến người du mục, và thường ân cần tiếp đón họ. Theo khía cạnh nhìn của người định cư, người chăn chiên là người không thuộc về đất, người chăn chiên có một giá trị thiêng liêng và cao quý.
Nền văn minh Assyrie và Babylone, biểu tượng người chăn chiên gắn liền với ý nghĩa vũ trụ. Danh hiệu người chăn chiên được gán cho thần mặt trăng Tammuz, là người chăn dắt các tinh tú, vị thần của thực vật, chết đi và sống lại. Theo chu kỳ mặt trăng tuần tự sinh ra và rồi mất đi, cũng một chu kỳ liên tiếp được làm đi lập lại mỗi khi chiều về, buổi tối ập đến, người chăn cừu lại lùa đàn chiên vào nơi gìn giữ và sáng mai lại thả ra. Người chăn dắt trong đêm ngủ mê của đoàn chiên vẫn là người lắng nghe, người cầu nguyện cho sự an toàn của đàn chiên. Với hình ảnh đó, người chăn chiên là người trung gian giữa Đấng Tối Cao và thọ tạo.
Người mục tử hôm nay là những nhà lãnh đạo, những nhà doanh nghiệp, những vị lãnh đạo công ty, xí nghiệp. Với đôi mắt tinh tường nhìn về phía trước, dự báo được những gì trong tương lai, chuẩn bị cho những con người dưới quyền đủ khả năng chống đỡ vượt qua thử thách. Những nhà lãnh đạo biết lo cho những người thuộc quyền cũng như cho dân được ấm no hạnh phúc. Bình an của đàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Nhà lãnh đạo không những chỉ sáng suốt mà còn là người chăm lo hạnh phúc cho đàn chiên, là người quy tụ chứ không phải để gây chia rẽ chống đối, là người vì đàn chiên của mình mà hy sinh hạnh phúc cá nhân chứ không phải là người chỉ biết xen lông, giết thịt những con chiên béo, thu lợi nhuận từ đàn chiên để làm giàu cho cá nhân người mục tử. Người mục tử có những đức tính cần thiết và cần có cả đời sống cầu nguyện, vì người mục tử là người nối trời với đất, người lãnh trách nhiệm tinh thần cho đàn chiên của mình, vừa thăng hoa đời sống bằng vật chất vừa làm no thoả đời sống tinh thần cho đoàn chiên, bảo đảm cho đoàn chiên một tương lai chắc chắn. Người mục tử nếu là người không tín ngưỡng, không niềm tin tôn giáo là nhưng nhà lãnh đạo thiếu sót trong bổn phận của mình và có thể làm thiệt hại cho đoàn chiên.
Người mục tử cũng là các gia trưởng trong gia đình, người quy tụ đoàn con của mình chứ không là người gây chia rẽ. Người đảm bảo cho mọi thành viên trong gia đình có những nhu cầu thiết yếu để ăn học và trưởng thành về các đức tính cũng như niềm tin. Nhiệm vụ người gia trưởng xem ra khá nặng nề, chính vì vậy, họ cũng cần có đời sống cấu nguyện để được thêm sức mạnh gánh vác việc đời và gia đình. Các thành viên trong gia đình là những gì Thiên Chúa trao cho để thi hành sứ mạng hướng dẫn của người mục tử.
Người mục tử là những người cai quản các cộng đoàn cần gắn bó với vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu, bởi vì sứ vụ lãnh nhận từ nơi Chúa Giêsu. Cộng đoàn được trao phó để người mục tử hướng cộng đoàn đó thực thi ý định yêu thương của Thiên Chúa. Người mục tử này đóng vai trò quan trọng để xây dựng cộng đoàn mình lãnh nhận được hiệp nhất, nơi chia sẻ tình thương, sống trong bác ái và làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh.
Xin ban cho chúng con những người mục tử như Ý Chúa.

7. Để khỏi bị diệt vong – Lm Ignatio Trần Ngà
Trong các loài thú thì chiên cừu là con vật hiền lành nhất và cũng yếu đuối nhất. Những loài mãnh thú như sư tử, hổ báo... là những con thú hung tợn, có nanh, có vuốt lại có sức mạnh và sự lanh lẹ phi thường nên có thể dễ dàng quật ngã những loài thú yếu đuối hơn và biến những con thú nầy thành mồi ngon cho chúng.
Có những loài thú khác tuy không mạnh mẽ, hùng dũng bằng sư tử, hổ báo... nhưng ít ra cũng có nanh, có vuốt, có sừng, có quai hàm mạnh mẽ... để săn bắt, vồ xé những con thú khác, hay ít ra cũng để tự bảo vệ mình, như con trâu có sừng để báng; con ngựa, con bò có chân để đá, con dê có đầu cứng như đá để húc, để tự bảo vệ mình khỏi bị địch thủ tấn công.
Chỉ riêng có loài cừu, loài chiên là hiền lành yếu đuối, chẳng có sừng để báng, chẳng có móng vuốt để tấn công, chẳng có răng nanh để cắn xé, chẳng có sức mạnh hay sự lanh lẹ để đối lại địch thù. Đã vậy, khi bị tấn công, nó cũng không có cánh để bay lên ngọn cây cao thoát thân như loài chim, không thể chui xuống hang ẩn trú như loài chuột, cũng chẳng có thể cao chạy xa bay lánh thoát địch thù như loài hươu nai...
Ngoài ra, nó cũng không thể cậy dựa vào những bạn cừu khác, vì những con cừu kia cũng yếu đuối, cũng hiền lành, cũng vô phương tự bảo vệ mình như nó. Cả hàng trăm con cừu không hơn một con chó sói! Thế là nó dành đứng chịu trận cho kẻ thù vồ xé, giết hại, tàn sát... Thật tội nghiệp, thật đáng thương! May ra chỉ có người chăn chiên mới là người duy nhất có thể bảo vệ và cứu nguy cho nó, giúp nó sống còn.
* * *
Xét về một số phương diện, con người chúng ta tuy cao cả nhưng cũng rất yếu đuối, lại phải thường xuyên đương đầu với thù trong giặc ngoài rất độc hại, chẳng khác gì con chiên hiền lành đối mặt với cả bầy ác thú.
Kẻ thù bên trong chúng ta chính là những xu hướng xấu nằm trong huyết mạch mỗi người. Đó là óc kiêu căng, là lòng tham vô đáy, là tính ích kỷ, là những ham muốn xấu xa, những khao khát tội lỗi... vẫn luôn nằm vùng, luôn ẩn trú trong ruột gan, trong tim óc con người và có thể chỗi dậy bất cứ lúc nào để xui khiến, thúc đẩy người ta làm điều xằng bậy, xô đẩy con người vào con đường gian ác tội lỗi. Mấy ai dám bảo rằng mình đủ sức chiến thắng những kẻ nội thù nầy. Napoléon là một vị tướng lừng danh trong lịch sử nhân loại, đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt vang dội châu Âu... vẫn phải thú nhận rằng: "chiến thắng cả châu Âu không khó bằng chiến thắng chính bản thân mình".
Còn kẻ thù bên ngoài chúng ta thì không kể xiết. Có vô vàn cạm bẫy rải rác khắp nơi có thể làm cho con người sa đoạ bất cứ lúc nào. Vô số phim ảnh khiêu dâm và bạo lực đang xô đẩy thanh thiếu niên vào con đường sa đoạ. Đếm không xuể sách báo, văn hoá đồi truỵ dưới đủ mọi hình thức... đang huỷ diệt tâm hồn cao đẹp của con người. Các tụ điểm ăn chơi đồi bại mọc lên như nấm khắp mọi nơi. Rượu bia, ma tuý và rất nhiều hình thức kinh doanh xác thịt con người rộ lên khắp chốn... Đó là những chiêu thức rất hiểm độc được tung ra để huỷ diệt phẩm chất con người, nô dịch con người.
Đối mặt với thù trong giặc ngoài rất nguy hại như thế, chúng ta là những con người vốn mang xác thịt hư hèn yếu đuối, khác nào những chiên non... làm sao chống cự nổi?
Trong mặt trận nầy, chúng ta không thể hoàn toàn trông cậy người khác, vì họ cũng yếu đuối như chúng ta, họ cũng là chiên hiền như chúng ta. Cả trăm con chiên cũng không thắng được một con sói. Người duy nhất có thể bảo vệ chiên là người chăn chiên. Còn Đấng duy nhất có thể bảo vệ chúng ta chính là Đấng chăn chiên lành, là Chúa Giêsu.
Hạnh phúc cho chúng ta vì có Chủ Chiên nhân lành bảo vệ.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cam kết bảo vệ chúng ta là chiên của Ngài: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi."
Để được sống đời đời, để khỏi bị diệt vong, chúng ta phải tuân theo hai điều kiện do Ngài đưa ra:
Một là vâng nghe Chúa Giêsu: "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi".
Nghe tiếng Chúa Giêsu tức là để cho lời của Ngài soi dẫn, để khỏi sai đường lạc lối.
Hai là bước theo Chúa Giêsu: "Tôi biết chúng và chúng theo Tôi".
Bước theo Chúa Giêsu là đi theo con đường mà Ngài đã đi, chủ yếu là vâng theo thánh ý Chúa Cha như Ngài đã nêu gương.
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta ý thức thân phận chiên non yếu đuối của mình để chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông nơi Ngài, vâng nghe tiếng Ngài và bước theo vết chân Ngài để khỏi bị diệt vong ở đời nầy và được hưởng sự sống đời đời do Ngài tặng ban.

8. Người chết vì yêu! – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Trong thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền màu xanh hy vọng của cây cỏ tươi. Chính giữa nổi bật cánh hoa hồng, đọng những giọt sương mai lóng lánh. Bên trong là di ảnh của Cristina, tươi trẻ, duyên dáng và lộng lẫy trong chiếc áo ngày cưới. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện trích từ nhật ký của Cristina lúc còn thiếu nữ: Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.
Và... cuộc đời Cristina kết thúc vào năm 26 tuổi. Chiếc bướu ung thư ác tính nơi tử cung mắc phải năm 18 tuổi, tưởng đã chữa lành, nào ngờ tái xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang đợi đứa con thứ ba. Khi vị bác sĩ báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư quái ác tái xuất hiện", Cristina im lặng một giây. Lấy lại bình tĩnh nàng nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói:
- Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!
Vị bác sĩ hiểu ngay. Ông không dám đề nghị với nàng lối trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết bào thai!
Maria Cristina sinh hạ Riccardo vào tháng 8 năm 1994. Ngay sau đó, nàng bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu nơi nội tạng. Người mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở cuối cùng ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ.
Đây là một cái chết đẹp. Chết cho con được sống. Chết để gìn giữ một sinh linh bé bỏng đã được Thiên Chúa phú bẩm nơi cung lòng của người mẹ. Chắc chắn mai sau khi lớn lên, đứa bé đã được mẹ chết thay đó, sẽ hết lòng cảm ơn mẹ. Nhờ mẹ đã hy sinh tính mạng mình, mà người con được bước vào cuộc đời.
Có thể nói sự kiện người mẹ trẻ Cristina dám chết cho con được sống, đã hoạ lại hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành. Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên, sẵn sàng chết cho đàn chiên. Chính Chúa đã từng nói: "Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong". Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau, miễn là chúng ta biết nghe tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Chúa.
Tình thương của người mục tử không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc dưỡng nuôi chúng ta, mà con dám thí mạng sống mình vì chúng ta. Cái chết trên thập tự giá là bằng chứng hùng hồn cho một tình yêu lớn lao đến nỗi dám chết để đổi lại sự sống cho chúng ta. Ngài còn đi đến đỉnh cao của sự dâng hiến trọn vẹn là trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Với tấm bánh đơn sơ nhỏ bé, Chúa muốn hoà tan trong chúng ta để chúng ta được ở lại trong Chúa, và nên một trong Chúa. Qua đó, Chúa cũng muốn mượn lấy bản tính nhân loại của chúng ta, để Ngài lại có thể tiếp tục yêu thương và phục vụ cho đàn chiên được sống ấm no và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay rất cần những tấm lòng dám hy sinh cho nhau, dám vì lợi ích của tha nhân mà quên mình phục vụ, mà quảng đại trao ban. Thế giới sẽ cằn cỗi và hoang tàn nếu không còn những con người dám hy sinh đời mình để phục vụ anh em. Nhưng rất mừng, vì cuộc đời vẫn còn đó biết bao tấm lòng luôn quên mình phục vụ một cách quảng đại và vô vị lợi như mẹ Têrêsa thành Calcutta. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người biết tôn trọng sự sống của con cái mà quên đi tính mạng mình như người mẹ trẻ Cristina. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người đã từ khước niềm vui trong bậc sống vợ chồng, để dâng hiến phục vụ cho tin mừng Nước Trời trong bậc sống linh mục, tu sĩ. Vâng, có lẽ cuộc đời hôm nay vẫn tươi đẹp vì biết bao người cha, người mẹ, chấp nhận một nắng hai sương, lặn lội nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ để lo cho từng cuộc đời những người con. Và còn đó biết bao người, tuy không danh phận giữa đời, nhưng sẵn lòng làm bất cứ điều gì, miễn là đem lại niềm vui cho anh em. Và còn rất nhiều những cuộc đời rất âm thầm đang vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành, khiêm tốn cúi mình băng bó những vết thương đau của đồng loại bằng tình thương và phục vụ một cách quảng đầy hy sinh.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.

9. Hoà hợp tiền định - Achille Degeest
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Đang là mùa đông, người ta mừng lễ Cung hiến ở Giêrusalem. Đức Giêsu đi lại trong Đền Thờ. Một nhóm người Do Thái vây quanh, và yêu cầu Chúa nói trắng ra về thân thế Người. Người có đúng là Đấng Mêsia không? Thật vậy, Thày đã công nhiên nói xa xôi cho người ta hiểu Thày chính là Đấng Mêsia. Có những người đơn sơ, không rắc rối, có thiện chí, đã hiểu được về bí mật thân thế Chúa và tin vào Chúa, chẳng hạn người phụ nữ Samaria và kẻ mù bẩm sinh. Người ta cảm thấy những kẻ chất vấn Chúa nhiều phần thắc mắc khó chịu về Chúa, hơn là sẵn lòng nghe Chúa với một tâm hồn cởi mở. Chúa muốn cho những kẻ nặng óc thành kiến phải bỡ ngợ. Chúa không theo lối suy diễn của họ. Vì lẽ họ cho rằng hệ thống suy diễn của mình không thể sai lầm, ông Giêsu này nhất định sẽ lộ hình tích, chính ông đưa ra một lời khai đúng cách, lúc đó họ sẽ có quyền ném đá ông. Đức Giêsu không do dự. Người đưa ra câu đáp trên hai bình diện: tâm tình thích hợp để dễ dàng tiếp nhận chân lý và Kinh Thánh với một giá trị không thể bác bỏ (Lời Chúa viện dẫn Kinh Thánh tiếp ngay sau đoạn Phúc Âm hôm nay). Hai câu hỏi được đặt ra;
1) Tại sao người Do Thái ngoan cố chối bỏ Đức Giêsu? Chúa bắt đầu bằng cách mời gọi họ thấy gì thì tin thế, bởi những việc Người làm nhân danh Cha Người đều làm chứng cho Ngài. Tuy nhiên Chúa nói tiếp ngay, nếu họ bác bỏ bằng chứng ấy, chính vì cớ tâm hồn họ không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Họ đã nhất quyết lối xét đoán sự việc của họ là tốt. Thế mới con mắt người ta nhìn thực tại theo khuynh hướng của mình. Nếu thực tại không phù hợp với hệ thống suy diễn của mình, người ta cho rằng chính thực tại là sai. Nhận định này có giá trị sâu sắc đối hành vi tin. Để thực hiện một hành vi tin, trước hết con người phải chấp nhận để cho ân huệ chuẩn bị tâm hồn cách bí nhiệm. Nhưng nhận định này cũng có giá trị đối với phẩm chất của hành vi tin. Nhiều người tự nhận mình tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhưng tin vào Đức Kitô nào? Dưới khía cạnh triết lý, xã hội, chính trị, v.v... nào? Luôn luôn chúng ta có lý để băn khoăn không biết con mắt chúng ta có đủ trong sáng không để nhìn Đức Giêsu Kitô?
2) Ý nghĩa câu: không ai giật chúng khỏi tay Ta được là gì? Câu đó có nghĩa: không một quyền năng ngoại giới nào có thể giật người Kitô hữu rời khỏi tay Đức Kitô. Sự trợ giúp của Chúa sẽ mạnh mẽ vô cùng để thắng những khó khăn ngoại giới. Tuy nhiên tại sao có những vụ bất trung bất nghĩa, có cả những vụ bỏ đạo chối Chúa nữa? Sở dĩ như vậy vì quyền năng vô biên của Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do tư tưởng của con người. Khi một Kitô hữu xa lìa Chúa, không phải vì Chúa bỏ kẻ ấy, mà chính vì kẻ ấy bỏ Chúa. Cả trong trường hợp đó, Chúa Kitô không rút lại niềm thương yêu của Chúa. Chúng ta hạy nhớ dụ ngôn cho chiên lạc. Tới đây chúng ta đối diện với một vực thẳm bí nhiệm thứ hai. Không những tâm hồn có thể từ chối phù hợp với hành vi tin, mà còn có thể huỷ diệt niềm tin của mình sau khi đã dâng hiến. Chúng ta không được choáng váng trước bí nhiệm ấy, mà phải tăng cường cảnh giác trong niềm trung tín. Nói đơn giản hơn, chúng ta hãy tin chắc rằng, đáp ứng thiện chí hằng ngày của chúng ta, Chúa nắm vững chúng ta trong tình yêu của Người.

10. Con chiên của Chúa Giêsu
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Anh chị em thân mến, chúng ta vẫn quen gọi các giám mục, các linh mục là các mục tử hay chủ chăn, và anh chị em giáo dân cũng vẫn quen nhận mình là "con chiên". Kiểu nói nầy bắt nguồn từ trong Kinh Thánh. Ngay từ thời Cựu Ước, tiên tri Êzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng: chính Chúa sẽ đến chăn dắt dân Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên, thay thế hết các người lãnh đạo dân từ trước đến nay. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã xưng mình là mục tử và là mục tử tốt lành, đích thực, khác với những kẻ chăn thuê, những mục tử giả.
Tin Mừng hôm nay vắn tắt có bốn câu nói về "con chiên" nhiều hơn là chủ chiên, tức là nói về "người giáo dân" hơn là hàng giáo sĩ. Người giáo dân là con chiên của Chúa Giêsu, là người biết "nghe tiếng Chúa", dám "bước theo Chúa" để không bao giờ phải hư mất, nhưng "được sống đời đời".
Trước đây, anh chị em có nghe nói mình là "con chiên của các cha" thì lấy làm thường tình, chẳng thắc mắc gì. Nhưng ngày nay, hình ảnh con chiên dễ làm cho người ta hiểu lầm và mặc cảm cho là hạ phẩm giá con người giáo dân - người ta là con người mà coi như con vật - coi giáo dân còn ấu trĩ và thụ động trong Giáo Hội.
Cách đây mấy chục năm, Đức Hồng Y Gasquet trong một cuốn sách nói về người giáo dân, có kể câu chuyện như sau: Một người sắp theo đạo hỏi linh mục về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội như thế nào? Linh mục trả lời: "Giáo dân có hai vai trò: một là quỳ gối trước bàn thờ, hai là ngồi quay mặt về tòa giảng". Và Đức Hồng Y Gasquet hóm hỉnh viết thêm: "Người ta quên mất một vai trò thứ ba, đó là móc ví tiền ra".
Câu chuyện trên phản ảnh một quan niệm lệch lạc về địa vị giáo dân. Vai trò của người giáo dân bị giản lược vào mấy việc: xem lễ, nghe giảng và góp tiền vào nhà thờ! Ngày nay, Công Đồng Vatican II đã quan niệm Giáo Hội trước tiên là "Cộng đồng Dân Chúa". Giáo Hội trước hết là giáo dân chứ không phải Giáo hoàng, Giám mục hay Linh mục. Ngày nay, giáo dân phải đứng hàng đầu trong Giáo Hội. Nói như thế không có nghĩa là giáo dân điều khiển tất cả, nhưng có nghĩa là giáo dân phải lãnh phần trách nhiệm sống đạo chủ động của mình, như những người trưởng thành giữa xã hội ngày nay.
Sống đạo trong xã hội "dân chủ tập thể" hôm nay dĩ nhiên giáo dân vẫn phải là những "con chiên" của Chúa, hiền lành yêu thương, đừng hung bạo ác ôn, nhưng cũng phải từ bỏ thái độ ấu trĩ, vô trách nhiệm và thụ động. Chúng ta muốn làm những con người tín hữu đứng hàng đầu, những con người có tinh thần trách nhiệm, dám nhận lãnh sứ mạng, dám sống bổn phận của mình cách chủ động. Với điều kiện đó, chúng ta mới "nghe tiếng Chúa" và "bước theo Chúa" cách đúng đắn và phù hợp với những đòi hỏi của xã hội ngày nay. "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúng theo Ta, và Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Không ai giựt chúng khỏi tay Ta được". Nghe tiếng Chúa là tin nhận Lời của Chúa và bước theo Chúa là dấn thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động. Nghe và theo Chúa là sống gắn bó thiết thân với Chúa. Bởi vậy, nghe và theo Chúa Kitô tức là bước vào cuộc sống bất diệt ngay từ đời nầy.
Tiếng Chúa hôm nay đang vang lên từ quả tim của từng con người nghèo khổ, bị áp bức, bị bóc lột. Tiếng Chúa hôm nay là tiếng kêu của đồng bào, của cả đất nước, của cả xã hội loài người đang cần nhau để sống, để có cơm ăn áo mặc đầy đủ, để tạo được hạnh phúc chung. Tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ mời gọi thúc bách chúng ta xung phong đi đầu, dấn thân theo Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mình và đến chỗ dám liều chết cho anh em được sống, như chủ chiên dám liều mạng sống vì đàn chiên.
Làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật hôm nay với chủ đề mục tử và đàn chiên được Giáo Hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Giáo sĩ và Tu sĩ. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành. Tiếng báo động nầy đang vang đến tai chúng ta hôm nay ở nơi nầy, trên đất nước chúng ta. Hiệp ý với toàn thể Giáo Hội hoàn cầu, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu...
Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh quảng đại của mình: cha mẹ, gia đình, và giáo xứ có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nẩy nở và mới được bảo đảm. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu đã viết: "Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài... Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của thời nay và tôi nói với họ: Hãy để cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rũ các bạn, và tôi lập lại lời Ngôn sứ Giêrêmia (20,7): "Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa... Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi"... "Hãy để Đức Kitô quyến rũ bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn... Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng...". Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh: "Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời".
Cuối cùng, Đức Thánh Cha giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: "Xin Vâng" đáp trả tiếng gọi của Chúa, như Mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.

11. Chúa Chiên Lành - McCarthy
(Trích trong 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng')
Suy Niệm 1. CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bossco bắt đầu làm việc cho giới trẻ nghèo khổ và bị lâm nguy tại thành phố Turin ở Ý. Chẳng bao lâu, các thanh niên nhận ra rằng nơi ngài, đến nỗi một lần kia, khi ngài lâm bệnh nặng, họ đã hết lòng cùng nhau cầu nguyện sốt sắng, và một số người còn muốn được thay thế vào chỗ của ngài, bằng cách tận hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Sau sự kiện đó Thánh Gioan Bosco đã được hồi phục. Mối tương quan này không thể tồn tại được, trừ phi có sự gần gũi, và sự gần gũi lôi kéo theo sự nhận biết và được nhận biết.
Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành nói "Tôi biết các chiên của tôi". Người biết các chiên của Người một cách chính xác, bởi vì Người là Chúa Chiên Lành. Có nhiều mức độ nhận biết khác nhau. Chúng ta quen biết một số người chỉ qua khuôn mặt hoặc danh tính. Còn đối với những người khác, chúng ta chỉ mới quen biết sơ giao mà thôi. Và có người chúng ta quen biết với tư cách là bạn bè.
Có một điều đáng buồn trong việc không nhận biết con người. Elie Wiesel, một văn sĩ người Do Thái, rất gắn bó với cha của ông, người đã bị chết tại Aushwitz vào năm 1944. Tuy nhiên, khi viết cuốn tự thuật, ông nói:
"Tôi chưa biết bao giờ thực sự nhận biết cha tôi. Thật đau lòng khi phải thừa nhận rằng tôi biết rất ít về con người mà tôi yêu thương nhất trên đời, một con người mà chỉ cần một tia nhìn, cũng có thể lay động tâm hồn tôi. Tôi thắc mắc không biết những người con trai khác có cùng một vấn đề giống như tôi không. Liệu họ có nhận biết cha họ như là một con người nào khác với một khuôn mặt đầy uy quyền, cứ mỗi buổi sáng đều rời khỏi nhà, và trở về nhà vào buổi tối, để nuôi sống cả gia đình chăng?".
Tôi e rằng đó là một tiếng than phổ biến. Con cái không biết gì về cha mẹ của họ; cha mẹ không biết gì về con cái. Để nhận biết về nhau, cần phải dành ra thì giờ và công sức, những điều này sẽ mang lại thành quả vĩ đại. Khi thiếu mất sự nhận biết này, thì sẽ để lại hậu quả là sự mất mát lớn lao. Cuộc sống trôi qua vô cùng nhanh chóng. Chúng ta biết về nhau một cách nghèo nàn. Bạn không thể yêu thương một người nào đó mà bạn không hề quen biết.
Sự nhận biết đặc biệt quan trọng đối với những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người mà họ săn sóc. Biết tên của những người đó là một bước khởi đầu tốt. Nhưng để thực sự biết về họ, thì phải biết về lịch sử cuộc sống của họ. Những người được săn sóc sẽ không hơn gì những chiếc bóng đối với người săn sóc, trừ phi người săn sóc biết được một số điều về thế giới mà từ đó người được săn sóc xuất phát.
Lối nhận biết mà chúng ta đang nói đến đòi hỏi phải có thì giờ, sự kiên nhẫn và hy sinh. Nhưng sự nhận biết này được bù đắp bằng phần thưởng lớn lao. Bất chấp chúng ta không ưa một cá nhân nào đó như thế nào, nhưng một khi đã biết về lịch sử cuộc đời của người đó, thì thái độ của chúng ta đối với họ sẽ mềm mỏng hơn.
Tuy nhiên, sự nhận biết này phải là một công việc có hai đường lối. Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành, biết những con chiên của Người một cách thiết thân. Nhưng họ cũng biết Người: "Những kẻ thuộc về tôi thì biết tôi". Đức Giêsu không ngại ngùng trong việc để cho mình được nhận biết. Nhưng đôi khi, chúng ta lại có cảm giác đó. Chúng ta không muốn để người khác đi vào cuộc đời của mình. Sẽ không có ai biết được những cảm giác, nhu cầu, nỗi đau và niềm hy vọng thực sự của chúng ta là gì.
Có lẽ nỗi sợ hãi bị khước từ làm cho chúng ta tự co rút mình lại. Chúng ta sợ rằng nếu người ta thực sự biết được con người bất toàn của mình, thì họ sẽ khước từ chúng ta. Hậu quả là người khác sẽ nhận biết về chúng ta theo như hình ảnh mà chúng ta có ý tưởng về mình, hơn là đúng với con người của chúng ta. Sẽ thật là điều đáng buồn, khi chúng ta phải sống và chết đi, mà chưa bao giờ được người khác biết đến một cách sâu xa, chưa bao giờ được kể ra câu chuyện cuộc đời mình.
Làm sao chúng ta có thể tạo thành một mối quan hệ với người khác được, nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách đối với họ, do đó, chúng ta đã ngăn cản không để cho họ nhận biết mình? Nếu họ cũng giữ một khoảng cách đối với chúng ta, và nếu điều đó để lại hậu quả là họ không tin tưởng hoặc sợ hãi chúng ta, thì liệu chúng ta có trách cứ họ không?
Đức Giêsu chính là Chúa Chiên Lành đối với chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở nơi đây và có sự sống đời đời sau này. Nhưng đây phải là một công việc hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Người. Con Chiên trung thành thì phải biết lắng nghe tiếng nói của chủ chiên và đi theo họ. Chúng ta phải nhận biết Chúa, lắng nghe và thực hành lời của Người.
Suy Niệm 2. TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN.
Đức Giêsu nói "Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được". Bằng cách này, Người đang nhấn mạnh rằng đối với Người, đàn chiên quý giá đến thế nào. Nếu có Người giúp đỡ, thì không bao giờ có một điều xấu xa nào có thể xảy ra cho bất cứ người nào trong số họ.
Khi kẻ làm thuê trông coi đàn chiên, thì lũ chó sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát người thân của mình mà thôi. Người chủ tốt lành của đàn chiên thì không như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của lũ sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Thật không may, chúng ta đang sống trong một thế giới mà đàn chiên, đặc biệt là những con cừu, thường bị vồ chụp và vật cho chết. Nhưng đây chính là một thế giới mà trong đó, hơn bao giờ hết, người ta càng cần đến người chủ chiên tốt lành. Ngày nay, tất cả mọi sự đều có khuynh hướng to lớn ra và được tập trung hoá, làm cho việc nhận biết và săn sóc trở nên không dễ dàng gì, bởi vì tất cả mọi sự đều mất đi tính chất con người. Trong hệ thống này, con người được thuê mướn và củng cố vì hiệu quả công việc, chứ không vì tình yêu và sự quan tâm săn sóc, mà họ có khả năng bày tỏ ra.
Ngày nay, người chủ chiên tốt lành không chắc hẳn phải đương đầu với một đàn chó sói. Nhưng họ có thể phải đương đầu với một điều gì đó còn tệ hại hơn – một bè lũ tội phạm. Philip Lawrence là một hiệu trưởng tại trường Công Giáo Thánh George ở Luân Đôn. Vào một ngày trong tháng 12 năm 1995, ông đã bị đâm nay bên ngoài trường học của ông, trong khi đang cố gắng bảo vệ một trong số các học sinh đang bị một tên côn đồ tấn công, và ông đã chết vì những vết thương quá nặng. Ông đã được các thính giả cảu chương trình Thời Đại Ngày Nay ở đài phát thanh BBC bình bầu là Nhân Vật Ấn Tượng nhất trong Năm. Ông nhận được 23.130 phiếu bầu, trên cả ông John Major, người sau này làm Thủ tướng (18.260 phiếu).
Vợ ông đã nói rằng chồng bà "chắc chắn sẽ cực kỳ bối rối về tất cả điều này. Ông ấy rất khiêm tốn tới mức độ không tán thành chính bản thân mình". Thật là một điều hay, khi biết rằng người ta vẫn còn nhận ra sự vĩ đại nơi một hành động giống như vậy. Và thật là một điều hay, khi biết rằng có người nào đó có thể làm được một hành động như vậy, và nhìn vào hành động này như là một điều gì đó bình thường và tự nhiên.
Philip Lawrence là một người chủ chiên nhân hậu đối với các học sinh của ông. Ông đã cố gắng tạo ra được một môi trường an toàn trong đó các học sinh có thể được học hỏi và phát triển, để có thể tự hào về bản thân mình. Đối với ông, ông không thể chấp nhận nổi sự việc cứ để mặc cho một trong số các học sinh của ông bị một tên côn đồ đánh, mà không ra tay ngăn cản.
Philip Lawrence nhắc nhở cho tất cả chúng ta rằng tình yêu đích thực có nghĩa là gì, và tình yêu đó có thể mang giá trị gì. Nếu chỉ yêu thương giới trẻ mà thôi thì chưa đủ, mà chúng con phải được biết rằng chúng được yêu thương. Điều này không chỉ áp dụng nơi học đường mà còn trong gia đình nữa.
Lawrence đã lấy được sức mạnh và tinh thần nơi đức tin Kitô hữu của ông. Ông đang mô phỏng theo tình yêu của Đức Giêsu, Chúa chiên lành, Đấng đã hiến mạng sống cho đàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh của Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đàn chiên, để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời.
Mỗi Kitô hữu được gọi là người mang tình yêu thương và sự chăm sóc. Chúa Nhật hôm nay là lễ của những người biết quan tâm đến kẻ khác. Lễ này khuyến khích và nâng đỡ những ai đang cố gắng noi guơng Chúa Chiên Lành, và khêu gợi lương tâm của kẻ chăn thuê.
Những người bước theo đường tình yêu thì tự mở ra khả năng sẽ hạnh phúc hơn những người khác, và cũng đau khổ hơn. Nhưng, như Carlo Carretto nói: "Không có gì là khủng khiếp trên trái đất này nếu điều đó dạy cho chúng ta biết yêu thương".

12. Chúng theo Tôi
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa, các thiên thần của bình an và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những bông hồng, bông súng, những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương; và xin hãy đổ tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc trên những nữ tì của Chúa"
Đó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp, thấy nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời. Ông đã viết bài này gần ba tuần trước khi mất để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh đã chăm sóc ông trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.
Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu đã làm nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong.
Thế giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó chút hương thơm của Tuyệt Đối, chút ngọt ngào của Vô Cùng, để thiên đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc, Thiên Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa: cần bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên, cần bước chân mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng, cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm cần bàn tay nhẹ nhàng xoa dịu mọi vết thương, và trên hết cần những trái tim không san sẻ, dám yêu hết mình, dám sống hết tình, hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người, đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.
Cả nước ta có gần 2.000 linh mục và khoảng 7.000 tu sĩ, một con số khiêm tốn trong đất nước gần 80 triệu dân. Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu cho ơn thiên triệu, chúng ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn và hãy giúp cho họ nghe được tiếng gọi ấy.
Chiên trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu, nhưng cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh hiến.
Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ, và họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.
Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu, một giọng nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.
Tiếng ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.
Tiếng ấy mời gọi họ lên đường để theo sát Ngài hết sức có thể, một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh.
Họ vui lòng bỏ lại những gì họ quý yêu. Nhờ bỏ lại mà họ được tự do thanh thoát. Nhờ sống nghèo, họ được giải thoát khỏi cái tôi ưa chiếm đoạt. Nhờ vâng phục, họ được ra khỏi cái tôi muốn bành trướng. Nhờ khiết tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng. Như thế ràng buộc của đời tu lại đem đến tự do.
Họ có thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi, bởi lẽ họ thuộc về Ngài cách đặc biệt.
Ước gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!
Gợi Ý Chia Sẻ
Hiện nay có ít bạn trẻ sống ở thành phố muốn dâng mình cho Chúa. Theo ý bạn, cuộc sống xô bồ của thành phố thời kinh tế thị trường có ảnh hưởng gì trên việc chọn lựa này?
Theo ý bạn, làm sao nhận ra Chúa kêu gọi mình sống đời thánh hiến? Bạn có quen nhiều nhà Dòng không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành, đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức, cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương, thấy được những mất mát của bao người đau khổ, và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu, sống như Ngài đã sống và tiếp tục làm những gì Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con, thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội, để tất cả trở thành những môi trường tốt giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.

13. Chúa Chiên Lành - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin Mừng ta vừa nghe hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ "nghe" và "theo": "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta".
Nghe. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý trên đời.
Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
Theo. Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.
Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.
Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong hai động từ: "biết" và "cho".
Biết. Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giếtsimani và trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
Cho. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi guơn Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Lạy Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đã bao giờ bạn nghe được tiếng Chúa nói trong sâu thẳm tâm hồn bạn chưa?
2. Có lần nào bạn cảm nghiệm được sự ngọt ngào được sống thân mật với Chúa chưa?
3. Bạn cũng là Mục Tử của gia đình bạn, xóm bạn ở, sở nơi bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành không?

14. Người mục tử.
Hình ảnh người mục tử là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái và đã được Kinh Thánh sử dụng nhiều lần.
Thực vậy, tiên tri Egiêkien đã mô tả Đấng Thiên Sai với vóc dáng của một người mục tử. Còn Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đám đông đi theo, Ngài đã thực sự xúc động và nói:
- Ta thương đám dân này, vì họ bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không người chăn dắt.
Nhất là qua đoạn tin mừng hôm nay, Ngài đã nhấn mạnh chính Ngài là người mục tử nhân lành.
Theo thói quen lúc bấy giờ, thì khi chiều xuống, những người mục tử lùa đàn chiên của mình tới một nơi chung để nghỉ qua đêm. Nơi này thường có hàng rào bao bọc và một cửa ra vào, để người ta có thể kiểm soát một cách dễ dàng.
Ban đêm, người ta thay phiên nhau canh giữ đàn chiên. Ban sáng, các mục tử đến tìm đàn chiên của mình. Họ đứng ở cửa và lên tiếng kêu. Đàn chiên nghe tiếng họ và bước theo họ. Các mục tử khác cũng lần lượt làm như vậy và dẫn đàn chiên tới đồng cỏ.
Hình ảnh so sánh thật rõ ràng và trong sáng. Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành. Ngài vừa đi đầu, vừa chỉ đường, để dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh, cũng như tới nguồn suối mát.
Là người tín hữu, chúng ta phải bước theo Ngài, cũng như phải noi gương bắt chước Ngài. Ngài nhận biết mỗi người chúng ta, nhưng đồng thời mỗi người chúng ta cũng phải nhận biết Ngài. Đây không phải chỉ là một sự nhận biết xuất phát từ trí khôn, mà còn phải xuất phát từ trái tim, từ cõi lòng, hay nói cách khác từ tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương Ngài.
Tuy nhiên, trong sự so sánh này có một vài điểm khác thường, được Chúa Giêsu sử dụng để làm nổi bật tình thương của Ngài đối với chúng ta.
Điểm thứ nhất, đó là người mục tử sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Nhưng chết để bảo vệ đàn chiên thì quả thật là hơi hiếm. Người mục tử trong phúc âm không phải chỉ bảo vệ sự sống của đàn chiên, mà còn hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Chính nhờ sự hiến mạng sống này, mà chúng ta có được kho tàng ơn cứu độ.
Điểm thứ hai đó là người mục tử gọi tên từng con chiên. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:
- Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái và để hoa trái các con tồn tại muôn đời.
Là người tín hữu, chúng ta phải ý thức về ơn gọi của mình. Thực vậy, Chúa Giêsu luôn nói với mỗi người chúng ta:
- Hãy theo Ta.
Nhưng đồng thời, Ngài cũng tôn trọng sự tự do của mỗi người. Nếu ngày xưa, Ngài đã mời gọi người phụ nữ Samaria, cũng như đã mời gọi ông Giakêu ra khỏi quãng đời tăm tối và tội lỗi, thì hôm nay, Ngài cũng vẫn âm thầm mời gọi chúng ta sám hối và hoán cải cuộc đời.
Thế nhưng, không phải chúng ta chỉ trả lời Ngài một lần thay cho tất cả. Lời mời gọi của Ngài không ngừng vang vọng suốt dọc cuộc đời chúng ta. Bởi đó, cuộc đời chính là một cuộc đối thoại liên tục, chính là một sự đáp trả không ngừng trước lời mời gọi ân tình của Chúa.
Điểm thứ ba, đó là người mục tử đi trước và đàn chiên theo sau. Người mục tử không đẩy đàn chiên đi trước, nhưng chính ngài là người đi trước để chỉ đường dẫn lối cho đàn chiên.
Với chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng của người Kitô hữu là bước theo Chúa. Mặc dù hôm nay chúng ta không nhìn thấy Chúa nhãn tiền, nhưng tin mừng phúc âm của Ngài chính là những chỉ dẫn cần thiết và bí tích Thánh thể chính là lương thực bổ sức cho chúng ta suốt cuộc hành trình trần gian.
Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành. Còn chúng ta, chúng ta có thực sự là những con chiên trong đàn chiên đang sống dưới sự chăn dắt của Ngài hay không?

15. Nghe Ta
Tất cả các bài đọc Phụng vụ của Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay, hay còn gọi là Chúa nhật lễ "Chúa Chiên Lành" giới thiệu với chúng ta ơn cứu độ mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua Chúa Kitô, vị mục tử nhân lành đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Ơn cứu rỗi và Tin Mừng giải phóng mà Thiên Chúa cống hiến cho con người qua Chúa Kitô là ơn cứu rỗi toàn vẹn, nó có sức mạnh cứu rỗi con người cả hồn lẫn xác, nghĩa là chữa lành mọi bệnh tật hay khổ đau. Các bệnh tật của con người không chỉ là các sự dữ mà chúng phải xuất trên bình diện sâu thẳm hơn, đó là sự không thỏa mãn được những khát vọng sâu thẳm của con người.
Ơn cứu rỗi Thiên Chúa ban cho con người không phải là thứ giải phóng giả tạo hời hợt bên ngoài. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Chúa gieo vào trong nhân loại một mầm sống sự sống mới, một hình ảnh mới về sự sống con người. Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu cho thấy ơn gọi về phẩm giá vô cùng cao quí của con người với những quyền bất khả xâm phạm, như quyền tự do và quyền được kính trọng.
Khi mặc lấy hình hài của con người, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng, mỗi một người dù có nhỏ bé yếu đuối, dù có bệnh hoạn tàn tật, dù có già nua tuổi tác đến đâu đi nữa cũng đều có giá trị cao trọng trước mặt Thiên Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo thành giống hình ảnh của Ngài và mang trong mình hơi thở sự sống Thần linh của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã khai sinh một thế giới có giá trị, trong đó tình yêu thương, sự quí trọng đối với mọi tạo vật, và tình yêu thương quí trọng đối với mỗi người là tạo vật cao vời nhất kéo theo những hậu quả vô cùng quan trọng và cụ thể trong cuộc sống xã hội như trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hóa. Chính vì thế nên cảnh con người quen thói bóc lột con người là một thực tại phản nghịch tinh thần yêu thương của Chúa Kitô.
Tin vào Chúa Kitô Phục sinh là con người lãnh nhận được toàn bộ và trọn vẹn ơn cứu độ qua biến đổi cuộc sống trong tâm hồn cũng như trên thể xác. Bởi vì cuộc sống mới mà Chúa Kitô ban cho con người tinh thần toàn vẹn là cuộc sống làm con cái Thiên Chúa.
Thánh Gioan khẳng định rõ sự thật này, tin nhận Cháu Kitô và Tin Mừng yêu thương của Ngài là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, được giống Ngài và bước vào cuộc sống hiệp thông với Ngài. Phẩm giá làm con cái Thiên Chúa ấy đã được Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta qua Bí tích Thánh tẩy, mầm sống mới thần thiêng ấy đã được săn sóc vun xới lớn mãi trong tâm hồn và giữa cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Ơn gọi Kitô như thế là trở thành giống Chúa mỗi ngày một hơn cho tới khi chúng ta sẽ được biến đổi và hoàn toàn giống Ngài trong cuộc sống hạnh phúc mai sau bên Chúa, trong cuộc sống của những người được ơn cứu chuộc.

16. Đàn chiên
Mục tử và đàn chiên là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì thế Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để diễn tả thật rõ ràng, thật đậm màu những đặc tính chủ yếu của đề tài đó. Đặc biệt trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nêu rõ đặc tính tốt lành của vị mục tử và đàn chiên của Ngài thì "biết nghe tiếng Chúa" dám "bước theo Ngài" để không bao giờ bị diệt vong nhưng được sống đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta được nghe biết bao tiếng ồn ào được phát xuất từ gia đình, từ quán xá và từ những người xung quanh. Những làn sóng này có lúc nghe thật êm dịu, nhưng không thiếu những lúc chúng ta có thể điên lên được; một khi hàng xóm mỗi lúc một "tăng volume" gây náo nhiệt cả hàng xóm. Nếu chúng ta cũng như họ, nếu chúng ta không bằng lòng với họ, tôi hỏi thử chuyện gì sẽ xảy ra? Nhưng một khi chúng ta nghe tiếng: "Hãy yêu thương nhau như Thầy" thì cách giải quyết của ta sẽ trở nên tốt hơn. Như vậy, giữa những âm thanh cao độ của thế gian, vẫn còn có tiếng thì thầm của Đấng tràn đầy tình thương đã và đang lan tỏa trong suốt cuộc sống của chúng ta.
Tiếng của Chúa chính là tình yêu. Ngài yêu thương ta không phải ta đáng được yêu, nhưng Ngài yêu vì chúng ta cần được yêu. Sống giữa xã hội còn phân biệt sang hèn, tiếng của Chúa được vang lên từ những trái tim của những người nghèo khổ, bị áp bức. Tiếng Chúa hôm nay còn là tiếng kêu của đồng bào, của xã hội loài người đang cần đến nhau để sống, để có cơm ăn, áo mặc, để tạo được hạnh phúc cho nhau. Và tiếng Chúa vẫn còn vang dội từng ngày từng giờ thúc bách mỗi người chúng ta dấn thân theo Chúa trên khắp nẻo đường, yêu thương và phục vụ; yêu thương phục vụ và hy sinh đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình. Hơn nữa, dám liều mình vì anh em, như mục tử dám liều mình vì đàn chiên.
Giờ đây, nếu chúng ta nghe tiếng Chúa mời gọi, chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi làm sao?
"Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi". Nghe tiếng Chúa là tin nhận lời của Ngài, bước theo Ngài là dấn thân sống lời Chúa một cách tự do và chủ động. Bước theo Ngài không phải là phó thác hoàn toàn cho Chúa, không phải là trao hết trách nhiệm cho Chúa, và cũng không phải bám víu vào một mớ giáo lý; nhưng là phải thực hành những điều ta lĩnh hội, là thực hành như Ngài đã sống. Sống thực hành là đem lại tình yêu thương dẫn dắt ta trong mọi quan hệ với tha nhân, là mở rộng tâm hồn để tiếp nhận sự thật đến từ Thiên Chúa.
Trước mọi trào lưu tư tưởng mới, và trước mọi cám dỗ tấn công, chúng ta hãy đứng vững vì chúng ta đã được nếm thử cùng nghiệm được rằng Đức Giêsu là đường là sự thật và là sự sống. Như thế, chúng ta sẽ cảm thấy thực sự mình là người người tín hữu Kitô dám bước theo Ngài và có khả năng làm chứng cho Ngài trước thế gian. Lúc đó, hình ảnh mục tử và đàn chiên đạt đến mối tương quan sống động và thân thương giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và những kẻ theo Ngài. Chiên tốt lại gặp được mục tử lòng lành tốt bụng thì thật là tuyệt vời và còn tuyệt vời hơn khi mục tử hứa cho đoàn chiên "được sự sống đời đời".
Chiên tôi.... Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất. Với hình ảnh đó, lời dạy đó, chúng ta quen gọi Đức Giêsu là Đấng chăn chiên lành, Ngài hướng dẫn đoàn chiên của Ngài, Ngài để tâm chăm sóc từng con chiên trong đàn, Ngài không chỉ dẫn dắt đàn chiên đến đồng cỏ xanh nước mát, mà còn dẫn chúng đến đích điểm là sự sống đời đời với Thiên Chúa là Cha trên trời.
Ngay ở trần gian, Ngài là Đấng chăn chiên lành dám thí mạng vì đàn chiên, Ngài dám chịu mục nát đi như hạt giống gieo vào lòng đất. Như thế, sự sống đời đời Ngài ban cho ta ngay tại thế này chính là cuộc sống yêu thương vô điều kiện. Và từ biến cố Phục sinh, con người đã nên mới so với con người cũ, con người sống sót không còn bị đóng khung sau quyền lợi và giá trị riêng tư của mình, nhưng là một cuộc sống đầy yêu thương và luôn mở rộng ra với mọi người.
Nếu mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương đến nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi người Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm liên đới với anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của cuộc sống để cùng đưa nhau về nơi sự sống vĩnh cửu mà mục tử Giêsu đã dọn sẵn cho chúng ta.
Hôm nay, cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ, chúng ta cũng được mời gọi sống trọn ơn gọi (tiên tri – tư tế – vương đế) của mình bằng cách lắng nghe và bước theo Thầy Chí Thánh để trở nên những mục tử tốt cho nhau. Nhất là chúng ta cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều mục tử biết sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, trung thành với ơn gọi của mình để diễn tả đúng khuôn mặt của Đức Kitô, bằng việc nỗ lực thi hành từng ngày từng phút sống phù hợp với tiếng của Ngài không ngừng vang vọng trong thâm tâm ta: "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi".

17. Theo Chúa
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước vị đó thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy.
Đâu là bổn phận của con chiên đối với chủ chăn của mình? Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi ấy và chúng ta ghi nhận được hai bổn phận chính yếu, đó là lắng nghe và bước theo.
Lắng nghe: mỗi buổi sáng, chủ chăn mở cửa chuồng gọi tên từng con chiên và dẫn chúng tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Ban chiều, chủ chăn đưa chiên về chuồng và thay phiên nhau canh giữ chúng qua đêm. Vì thế, con chiên muốn được nuôi sống, muốn được bảo đảm an toàn, thì không những phải biết nghe tiếng chủ chăn mà còn phải có can đảm bước theo sự dẫn dắt của chủ chăn nữa.
Chúng ta cũng vậy, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là hãy lắng nghe tiếng Chúa. Chúa đã nói: "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi". NHư vậy, dấu hiệu và cũng là điều kiện để trở thành con chiên tốt lành của Chúa là nghe tiếng Ngài.
Mặc dù hôm nay Chúa không phán dạy chúng ta cách tỏ tường như ngày xưa Ngài đã phán dạy dân Do thái và các môn đệ. Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục nói với chúng ta. Phải, Ngài nói với chúng ta qua tiếng lương tâm, bởi vì lương tâm chính là tiếng nói âm thầm của Chúa, phát xuất từ thẳm sâu cõi lòng, thôi thúc chúng ta làm lành tránh dữ. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta qua Tin Mừng, bởi vì với Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống, cũng như những cách thức giúp chúng ta giải quyết những tình huống gặp phải.
Bước theo: lắng nghe tiếng Chúa là điều tương đối dễ, nhưng điều quan trọng là phải dám bước theo Chúa. Người Do thái ngày xưa đã từng được nghe chúa giảng dạy và họ cũng đã từng cảm phục sự khôn ngoan của Chúa, nhưng lại chẳng bao giờ thực hành, để rồi cuối cùng họ đã quay lưng chống lại Chúa. Họ giống như những người ngồi xem xiếc. Đúng thế, người xem xiếc cảm phục kẻ đi trên dây, nhưng nếu bảo họ tiến lên để cùng đi trên dây thì họ lại không dám. Cũng như chàng thanh niên giàu có, cảm phục Chúa và đã đến hỏi Chúa về con đường trọn lành. Thế nhưng khi nghe Chúa bảo: "Con hãy về, bán hết của cải và chia sẻ cho người nghèo, rồi đến theo Ta", thì chàng đã buồn rầu cúi mặt vì chàng không có đủ can đảm dứt bỏ những níu kéo của tiền bạc, chàng không dám liều, không dám dấn thân để bước theo Chúa.
Như vậy, "nghe tiếng" Chúa không phải là chỉ nhận ra tiếng nói, tiếng gọi của Chúa, mà chủ yếu là tuân theo, là giữ lời Ngài truyền dạy, đặc biệt là giữ các điều răn của Ngài, nhất là điều răn mới, tức là điều răn yêu thương: "Cứ dấu này người ta biết các con là môn đệ Thầy", là các con thương yêu nhau. Càng yêu thương nhau chúng ta càng chứng tỏ chúng ta là những con chiên tốt lành của Chúa.
Nói rõ hơn, đối với chúng ta, bước theo Chúa có nghĩa là phải cố gắng thực thi những điều ngài truyền dạy, đặc biệt là thực thi giới luật yêu thương, bởi vì giới luật yêu thương chính là cốt lõi của Tin Mừng. Ngày kia, có một linh mục đứng giảng ở ngã ba đường, kêu gọi mọi người đóng góp cho việc từ thiện. Rất nhiều người đã hưởng ứng. Tuy nhiên, có một thanh niên, khoảng 30 tuổi, tiến đến và quì dưới chân vị linh mục, rồi đặt một hòn đá và mấy đồng bạc. Anh nói: "Thưa cha, xin cha hãy nhận lấy của lễ con dâng và xin cha tha tội cho con. Bởi vì lúc đầu con đến đây với ý định dùng hòn đá này để đập bể đầu cha. Nhưng lời Chúa qua sự giảng dạy của cha đã thực sự làm con xúc động và con đã từ bỏ hành vi ám muội của con".
Chúng ta gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo Hội, là Đức Giáo Hoàng, giám mục, linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, cộng tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo Hội.
Sau hết, hôm nay là ngày Giáo Hội toàn cầu dành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúng ta phải cầu nguyện vì chính Chúa đã dạy: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa". Nếu muốn có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu, chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chúng ta luôn cầu xin Chúa gửi tới cho chúng ta nhiều thợ gặt, và nhiều thợ gặt lành nghề, nghĩa là ban ơn soi sáng cho giới trẻ biết nghe tiếng Chúa và các linh hồn kêu gọi họ dấn thân tận hiến cuộc đời cho sứ mạng Chúa Giêsu. Những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa, Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, như Chúa đã nói: Ai xin sẽ được, quê hương nào xin nơi ấy được.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử tốt lành. Xin Chúa cho chúng ta cũng là con chiên tốt lành của Chúa, tức là luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và sống theo lời Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử khôn ngoan, thánh thiện và tài giỏi để tập họp mọi người và dẫn dắt mọi người biết yêu thương nhau để tất cả trở nên một đoàn chiên duy nhất của Chúa.

18. Ơn gọi – Lm. Phạm Thanh Liêm
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời
"Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất".
Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để "sống với Chúa, và để Ngài sai đi"(Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.
Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi
"Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một".
Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi "tơ trời" có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.
Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.
Dụng cụ ban ơn cứu độ
Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.
Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.
Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Ơn gọi là gì? Làm sao biết một người có ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
2. Ơn gọi linh mục, tu sĩ và ơn gọi hôn nhân, ơn gọi nào cao quý hơn? Tại sao?
3. Làm sao để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?

19. Chú giải của Noel Quesson
Tôi là...
Cần phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu đã không ngần ngại sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 4,26; 7,29; 8,58; 13,19; 14,20; 17,24; 18,5) Ta cũng biết rằng, hai từ đó gợi lên kiểu viết "bốn chữ cái không phát âm được là "Tên mầu nhiệm" mà chính Thiên Chúa đã tự mạc khải cho Môsê trong sa mạc Sinai.
YHVH được chuyển dịch thành YaHVeH và đọc là "Adonai", "Đức Chúa".
Hơn nữa, qua nhiều câu trích dẫn như dưới đây, Tin Mừng theo thánh Gioan đã sử dụng tới ba mươi lần hai từ trên "Tôi là...", kèm theo một phẩm tính:
- "Tôi là Bánh hằng sống" (Ga 6,35-42,48-51).
- "Tôi là ánh sáng thế gian" (Ga 8.12-9,5).
- "Tôi là Sự sống lại và là sự Sống" (Ga 11,25).
-"Tôi là Cây nho thật" (Ga 15,l-5).
-"Tôi là Cửa cho chiên ra vào" (Ga 10,7-9).
-"Tôi là Mục tử nhân lành" (Ga 10,11-14).
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh đúng đắn, những kiểu nói trên muốn diễn tả hữu thể thần linh của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm" (Ga l,14).
Tôi là Mục tử nhân lành (người chăn chiên đích thực).
Ở đây, Đức Giêsu không chỉ sử dụng một hình ảnh đẹp dân gian và đồng quê, nhưng trước hết đó là một kiểu nói Kinh Thánh vô cùng phong phú. Trong khắp vùng Đông Phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai Cập: "Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc" (Tv 78,52). Đavit, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Bêlem (1 S 17,34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Mêxia, Đavit mới, cũng được loan báo như một "Mục tử": "Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavit, tôi tớ của Ta" (Ed 34,23).
Mọi thính giả của Đức Giêsu, cũng như chính Người, đều hiểu rõ những trích dẫn Kinh Thánh trên, đặc biệt là chương 34 nổi tiếng của ngôn sứ Êdêkien, diễn tả khá dài những mục tử xấu ác (các vua thời đó) không quan tâm chăm sóc đoàn chiên của họ trước khi quả quyết rằng, Thiên Chúa Giavê phán thế này: Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng tán loạn. Ta sẽ chăn nuôi chúng nơi bãi cỏ tốt. Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta, sấm của Đức Chúa Giavê. Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm" (Ed 34,1-31).
Như thế, rõ ràng của Đức Giêsu cũng không thể lầm về địa vị đó. Họ rất hiểu ý định của Chúa: "Nhiều người trong nhóm họ nói: ông ấy điên khùng rồi? 'Kẻ khác bảo: ông nói phạm thượng, ông là người phàm mà lại tự cho mình, là Thiên Chúa" (Ga 10,20-33). Chính vì thế, họ lấy đá để ném Đức Giêsu.
Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện lâu hơn dựa vào hình ảnh "Mục tử" biểu trưng này, chẳng hạn dùng Thánh Vịnh 22: "Chúa là Mục tử chắn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tưới, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, và bổ sức cho tôi".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang chăm sóc. Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu mến con. Và cầu nguyện như thế, không phải là một kiểu cầu nguyện chủ quan, nặng tình cảm và trống rỗng: Chúng ta sẽ nhận ra, Đức Giêsu còn tiếp tục gọi lên cho ta nội dung cầu nguyện phong phú hơn.
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi.
Ngày nay, hình ảnh con cừu, hình ảnh đoàn vật dễ mang một nghĩa xấu: Đừng có u lì như lũ cừu? Đừng có tinh thần. đoàn vật? Thực sự, hình ảnh của Kinh Thánh mang ý nghĩa ngược lại. Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết, theo.
"Nghe": đó là một trong những thái độ cốt yếu, trong tương quan giữa hai người. Biết lắng nghe, là dấu chỉ của tình yêu đích thực. Biết bao lần, ngay trong một nhóm người, ngay lúc tụ họp chung quanh một bàn tròn, ngay trong một cuộc trao đổi mệnh danh là đối thoại, thế mà thực sự ta, chưa biết lắng nghe. Trong Kinh Thánh, các ngôn sứ không ngừng mời gọi Israel biết lắng nghe. "Hỡi Israel, hãy nghe đây?" (Đnl 6,4; Am 3,1; Tv 29,3-9). Lắng nghe, đó là khởi sự của lòng tin. Thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa mà Chúa Cha muốn ngỏ cùng thế gian. "Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người" (Mt 17,5).
"Theo": đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do: dính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với... Đức Giêsu mời gọi: "Hãy theo tôi" (Ga l,42).
"Biết": trong Kinh Thánh, từ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thân xác... là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,l).
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Đây đúng là một cộng đồng sinh mệnh giữa Mục tử và đoàn chiên, giữa Đức Giêsu và "những kẻ nghe tiếng Người và theo Người". Đúng là một sự liên kết vĩnh viễn.
Lạy Chúa, khi cầu nguyện, con cố tưởng tượng ra, thực sự con đang ở trong "bàn tay Chúa". Bàn tay mà Chúa đã giơ ra cho người bệnh để cứu chữa họ. Bàn tay Chúa đã chìa ra cho Phêrô lúc ông chìm sâu dưới lòng biển. Bàn tay đã cầm Bánh hằng sống, vào chiều Thứ Năm Thánh. Bàn tay mà Chúa đã dang rộng trên thập giá tại đồi Gôngôtha. Bàn tay bị thương tích do đinh đâm thấu qua, mà Chúa đã minh chứng với Tôma. Trong bàn tay đó, Chúa đã nắm chặt lấy con và không ai có thể cướp được con! Lạy Chúa Giêsu xin tạ ơn Chúa.
Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
Như thế, chúng ta được cả "hai bàn tay" giữ gìn.
Như một bé thơ được cả cha mẹ giữ gìn, và hướng dẫn trong an toàn tuyệt đối, hình ảnh đó đẹp biết bao!
Lạy Chúa, con muốn dùng hình ảnh trên để cầu nguyện cùng Chúa. 'Lạy Chúa Giêsu và Chúa Cha, xin giữ gìn những người con thương mến trong bàn tay của Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng, đó không phải là cảnh sắc màu mè diễn tả những "mục tử hiền lành" và các chú cừu con lông xoăn". Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gườm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ... gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1 S 17,34-35).
Đức Giêsu, khi Người nói những lời đó, đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người sẽ phải đường đầu trong cuộc Thụ khổ để đối phương "không cướp được" một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).
Cùng với Đức Giêsu, tôi có khả năng, chiến đấu để cứu sống anh em tôi không?
Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Thế nhưng, lạy Chúa, làm sao giải thích được những hiện tượng bỏ hàng ngũ, bất trung thường thấy chung quanh chúng con, hay ngay trong đời sống chúng con?
Đó là mầu nhiệm của tự do! Nhưng một điều chúng ta cần biết, đó là không khi nào Chúa buông bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại. "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?" (Lc 15,4-7). Vậy chúng ta đã tự tạo hình ảnh sai lầm nào về Thiên Chúa, để nghĩ rằng Người có thể kết án những tội nhân? Chớ gì chúng ta cần cố gắng ít phạm tội đối với Thiên Chúa yêu thương!
Tôi và Chúa Cha là một.
Các chiên của Đức Giêsu, Người nói chúng đã được Chúa Cha, Thiên Chúa trao phó cho Người. Nhưng chúng vẫn luôn ở trong bàn tay của Thiên Chúa.
Những kiểu nói như trên đã dẫn chúng ta bước vào một vực thẳm choáng váng, khi đứng trước con người Giêsu Nadarét: trong con người thực sự đã được sinh ra từ một phụ nữ, đã lớn lên, sắp phải đổ máu và bị giết đi, lại chính là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng và hành động. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa tự mạc khải trong tình thân hữu với con người. "Tôi và Chúa Cha là một". Các Công đồng sẽ phải nỗ lực xác định và đưa ra những quan niệm, nhưng sẽ không khi nào có được một kiểu nói giúp ta hiểu được mầu nhiệm của con người Giêsu. Tất cả những gì đã nói, trong công thức trên, chỉ có thể phải "lắng nghe" trong đức tin: "Chúa Cha và tôi, chúng tôi là một... Thiên Chúa và tôi, Giêsu, chúng tôi là một"
Đó là lý do Đức Giêsu dám quả quyết, Người "ban sự sống đời đời".
Đó là lý do, như chính Thiên Chúa, Người có thể tuyên bố: "Tôi là...".
Đó là lý do Người đã bị buộc tội là một kẻ phạm thượng, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa "minh chính hóa", bằng cách cho Người từ cõi chết sống lại.

20. Chú giải của Fiches Dominicales
"TA LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH"
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đức Giêsu, Đấng chăn chiên lành.
Bản văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch tổng thể một chút. Vào dịp lễ Lều, sau khi chữa một người mù bẩm sinh và anh ta bị trục xuất khỏi hội đường, Đức Giêsu tỏ ra là một "Đấng chăn chiên, hiến tặng đời mình cho đàn chiên" (Ga 10,11)
Giờ đây, chúng ta trở lại lễ Cung Hiến, lễ kỷ niệm hằng năm ngày cung hiến đền thờ và bàn thờ thời Giuđa Macabê. Đức Giêsu đi đi lại lại nơi hành lang Salômôn (nơi mà sau khi Chúa về trời, các môn đệ thường tụ họp, Cv 5, 12). Những người Do Thái - từ ngữ chỉ chung các thù địch của Đức Giêsu, trong Tin Mừng Gioan - tụ tập quanh Đức Giêsu (đúng ra là "quanh Người": 10,22). Tin Mừng ghi: "Lúc đó là mùa đông" (Ga 10,22); nói thế, để từ thời tiết, chúng ta dễ nghĩ tới "sự băng giá" của lòng người theo thánh Augustinô sẽ viết sau này. "Nếu ông là Đấng cứu thế, hãy nói huỵch toẹt cho chúng tôi biết đi".
Những người vây quanh không nắm rõ nội dung từ Cứu thế, nên Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi, Người kêu gọi thính giả suy nghĩ về những công việc của một vị Cứu thế, nhất là việc chữa người mù bấm sinh mới đậy. A. Marchadour giải thích: "Các phép lạ được coi như nhũng dấu chỉ, nhờ đó mà nhận ra Đấng Cứu thế. Rồi, Người tiếp tục đề tài người chăn chiên, hình ảnh truyền thống của Đấng cứu thế dòng dõi Đavít; ở đây, Người nhấn mạnh đến những con chiên mà Chúa Cha trao phó cho Người.
2. Làm một với Chúa Cha.
Và bây giờ, một đề tài mới, cho tới lúc này, chưa đề cập tới lần nào: sự thân mật với Chúa Cha: "Cha tôi và tôi, chúng tôi là một". Một khẳng định xác lập cội nguồn sứ mệnh của Đức Giêsu. Tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu toàn bích bao bọc các con chiên đến nỗi không ai có thể cướp được một con nào. "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha"
Đối với người Do Thái, nói thế là quá quắt rồi. Phạm thượng? Ai lại dám xưng mình là Cứu thế và lại còn thân mật quá thế với Thiên Chúa. Họ lượm đá để ném Người. Họ nói: "Ông chỉ là phàm nhân mà lại tự cho mình là Thiên Chúa". Tác giả Tin Mừng kết thúc: "Nhưng Người đã thoát khỏi tay họ". Tác giả như muốn mời chúng ta đọc đoạn này dưới ánh sáng của cuộc tử nạn trên thập giá và sự Phục sinh từ cõi chết. Với ánh sáng ấy, chúng ta sẽ khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã hoàn tất tới cùng sứ mệnh của mình bởi tình yêu đối với các con chiên thế nào; trên con đường sự sống nào, Người muốn dẫn đưa những ai nghe tiếng Người và đi theo người; Mối tình hiệp thông yêu thương nào với Chúa Cha mà Người muốn dẫn đưa chúng ta tham dự vào?

BÀI ĐỌC THÊM
1. Theo Đức Giêsu
(G. Boucher, trong "Thiên đường tại thế").
Lạy Chúa, chúng con không muốn mình bị đồng hóa với đàn súc vật. Con không thích là một chú chiên chỉ biết đi theo người chăn chiên..Con cũng không muốn kêu be be như con chiên. Con nói điều con nghĩ, đi nơi con thích. Con không muốn bị dắt đi.
Ngày nay, chúng con nhấn mạnh đến sự thức tỉnh của lương tâm: mỗi người sẽ chọn lấy hướng đì mà mình muốn. Mong sao có trong tay phương tiện thực hiện sự lựa chọn của mình. Ngày nay, chúng con thích chịu trách nhiệm về số phận mình. Chúng con không muốn trao tấm bảng trắng đời mình cho các nhà lãnh đạo hoặc những người chúng con bầu ra để họ muốn làm gì thì làm. Ngược lại, họ phải trả lời cho chúng con về những việc họ đã làm.
Nhưng, Chúa lại nói với con rằng: giữa con và Chúa là sự hiệp thông. Mong sao Chúa nói lời soi sáng và hướng dẫn đời con. Chúa thuộc một bình diện hoàn toàn khác.
Nghe Chúa và đi theo con đường Chúa đã vạch ra, con sẽ sống cuộc sống tốt đẹp và trọn vẹn, cho tới nỗi cuộc sống ấy sẽ không ngừng lại khi sự hiện hữu trần thế chấm dứt. Cuộc mạo hiểm mà Chúa dắt con đi sẽ dìm con vào sự sống vĩnh hằng.
Với Chúa, mọi sự sẽ đổi khác. Chúng con không còn nguy cơ sẽ bị huỷ diệt nữa. Không ai tiêu diệt được chúng con. Không gì có thể xâm phạm đến chúng con.
Nghe lời Chúa và đi theo con đường Chúa thiết lập là chúng con lên đường với Chúa. Con muốn nói: với Thiên Chúa. Với Thiên Chúa của sự sống và của sự vĩnh cửu. Với Thiên Chúa mà Chúa đã gọi là Cha.
2. Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
(Sứ điệp của Đức Gioan-Phaolô II).
Ngày nay, vẫn còn nhiều nguyên do cản ngăn thanh thiếu niên và các bạn trẻ sống sự thực của tuổi đời mình trong sự gắn bó quảng đại với Đức Kitô. Biết bao bạn trẻ đang đánh mất năng lực phát triển đích thực.
Vậy nên mong đợi gì? Trong thâm tâm mỗi thế hệ luôn ẩn tàng một ước muốn tạo lập một ý nghĩa cho đời mình. Trên
hành trình cuộc sống, các bạn trẻ luôn tìm một người biết thảo luận với họ, những vấn đề làm họ bức xúc và đồng thời đề ra được những giải pháp, những giá trị, những viễn cảnh đầu tư được sự dũng cảm đương đầu với tương lai.
Điều người ta đòi hỏi hôm nay là: một Giáo Hội biết trả lời cho sự kỳ vọng của tuổi trẻ. Đức Giêsu mong muốn thảo luận với họ qua thân thể người là Giáo Hội. Người muốn đề nghị với họ viễn cảnh của một chọn lựa có tính quyết định cuộc đời Như Người đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, Giáo Hội ngày nay cũng phải lên đường đồng hành với các bạn trẻ đầy ưu tư, bất mãn và mâu thuẫn, để loan báo cho họ Tin Mừng kỳ diệu của Đức Kitô phục sinh.
Điều người ta đang cần là một Giáo Hội cho các bạn trẻ, một Giáo Hội nói chuyện được với lâm hồn họ, hâm nóng con tim họ bằng niềm vui của Tin Mừng, bằng sức mạnh của
Thánh Thể, một Giáo Hội biết đón tiếp và mời gọi những ai
đang đi tìm mục đích cuốn hút toàn bộ cuộc sống của họ; một Giáo Hội không sợ đòi hỏi nhiều sau khi đã cho đi không ít; một Giáo Hội không sợ đòi hỏi nơi bạn trẻ sự nhọc mệt của một cuộc mạo hiểm cao thượng và chân chính, cuộc mạo hiểm bước "theo" Tin Mừng.

21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
CHO CÁC CHIÊN CỦA NGÀI
1. Khác với các phúc âm nhất lãm (Lc 22,66-71 và song song), Gioan không tường thuật vụ án Chúa Giêsu trước công nghị Do thái trong cuộc khổ nạn. Vì theo ông, vụ án thực sự đã diễn ra trước khi Chúa Giêsu bị bắt, trong những lần tranh luận với người Do thái, đặc biệt trong cuộc tranh luận hôm nay. Lúc này cũng như trong vụ án chính thức theo pháp luật về sau. Chúa Giêsu bị ép buộc trả lời rõ ràng Người có phải là Đấng Messia không (c.24) và cuối cùng Ngài tự xưng mình là Con TC (x.Lc 22,70) bằng cách tuyên bố rằng Cha Ngài và Ngài ở trong Cha, trong sự hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc làm.
Tuy nhiên trước khi tuyên bố dứt khoát điều đó, Chúa Giêsu cảm thấy phải cứ quả quyết không ngừng cho những kẻ đối thoại với Ngài. Đó là điều làm cho người Do thái và "chiên của Ngài" khác biệt nhau. Đối với người Do thái, những lời Ngài nói, phép lạ người làm không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Chính trong bối cảnh đó mà Chúa Giêsu nói đến chiên của Ngài, đối nghịch với sự ngoan ngoãn và ngay thẳng của đàn chiên với tính hiểm ác của người Do thái. Dĩ nhiên Ngài không cần nhiều dấu hiệu bên ngoài như vậy, vì chúng nghe và đi theo chủ chiên. Phần mục tử, Ngài biết chiên mình và đảm bảo cho chúng sự sống đời đời. Trong tay Ngài, đàn chiên được an bình không bị ai đánh cướp.
2. Về câu 29, bản Hy lạp không được chắc chắn lắm. Các thủ bản ở đây chia làm nhiều nhóm. Ta có thể tóm gọn thành hai:
Nhóm thứ nhất chọn câu: ho pâtêr mou ho dedoken moi pântôn meizon estin, dịch từng chữ là "Cha Ta, điều Ngài ban cho Ta thì lớn lao hơn tất cả" (bản Vaticanus, Versions latines, Sinaiticus, Codex Freer và chung chung các giáo phụ Latinh). Câu này có thể hiểu được hai cách: điều mà Chúa Cha ban cho Chúa Con chính là bản tính của Người (Augustin, Thomas, Lnabenhauer...) hay quyền năng của Người (Schanz, Belser...) và đó là điều cao trọng hơn tất cả. Nhưng ai mà dám nghĩ đến việc cất bản tính và quyền năng của Chúa Con khỏi tay Chúa Cha? Cho nên lối giải thích thứ nhất này khó chấp nhận xét theo văn mạch. Văn mạch nói đến việc ban tặng là ban tặng các chiên (ý kiến chung), vì thế phải hiểu: "Điều mà Chúa Cha ban cho ta (các chiên) là quà tặng quí giá nhất", như thế ta hiểu đó là lý do khiến Chúa Con phải giữ gìn quà tặng đó, và một khi đã ban cho Con, Chúa Cha cũng luôn lưu tâm đến tặng vật này.
Nhóm thủ bản thứ hai (nhóm K, Codex Coridethi, codex Bezae, và các giáo phụ Hy lạp) chọn câu: ho pâtêr mou hos dedôken moi pantôn meizôn estin, có thể dịch: "Cha Ta, đấng đã ban cho chúng ta, thì lớn hơn tất cả mọi sự", nghĩa là: Cha Ta, Đấng đã ban cho Ta các chiên, là Đấng cao trọng hơn mọi loài và vì thế...Ngài đặt chúng trong tay Ta mà không ngừng giữ chúng trong tay Ngài. Ở đây, tay có nghĩa là quyền năng, quyền năng chung của hai Đấng. Câu này xem ra thích hợp hơn với văn mạch và đã được số đông tác giả theo (Louis, Bultmann, Barret, BJ, TOB...). Tuy nhiên nó bị chỉ trích là đã được sửa đổi để thêm phần sáng sủa. Nói rằng Chúa Cha lớn lao hơn hết mọi sự là điều hiển nhiên, cần gì nêu lên ở đây. Dầu vậy, câu (b) này ngày nay đã được hầu hết chấp nhận.
Dù sao, điều làm chúng ta chú ý chính là tay của Chúa Con, được đặt ngang hàng với tay Chúa Cha, hay đúng hơn cả hai tay cùng bảo vệ giữ gìn đàn chiên. Chúa Giêsu xem ra tự gán cho mình quyền ban sự sống cho các tâm hồn và giữ gìn chúng trong tay. Nhưng rồi theo thói quen (5,19tt; 6,37;7,16; 8,49; 10,18), Chúa Giêsu vội vàng liên kết Cha Ngài vào công trình của Ngài, vì Cha là nguồn mạch mọi ơn huệ: Chúa Cha giao cho Chúa Con một vật và gìn giữ bằng sức mạnh của mình, cũng như Chúa Con gìn giữ những gì nhận được từ Cha.
3. Lời tuyên bố trong câu 30 ("Cha và Ta là một") về sự hiệp thông mật thiết của Chúa Giêsu với Cha Ngài là một mạc khải quan trọng rõ ràng nhất về thần tính của Ngài và mầu nhiệm sâu xa của TC. Chính trên đỉnh sáng ngời đó mà Chúa Giêsu chấm dứt tranh luận với người Do thái: Ngài có thể mạc khải thêm cho họ điều gì nữa? Và đó là nghĩa mà người Do thái hiểu khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố như thế, vì lập tức sau đó họ ném đá Ngài "bởi lẽ ông là một người phàm mà dám cho mình là TC".
Câu 30 này đã nổi tiếng trong lịch sử tranh luận với tà giáo Ariô. Chúa Giêsu không nói: "Ta và Cha Ta, chúng ta là một ngôi vị" (heis) nhưng bảo: "chúng ta là một sự (hen, chose), chúng ta đồng một bản tính và vì thế mà tay Ta (c.28) cũng quyền năng như tay Cha Ta" (c.29). Tất cả thần học gia chống Ariô, từ tertullien đến Augustin đã dùng câu 30 làm công thức thánh kinh nói về việc Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính nhưng khác ngôi vị.
KẾT LUẬN
Ân sủng thần linh cho chúng ta sức mạnh để vượt thắng mọi khó khăn bên ngoài (Rm 8,31-39) bất cứ từ đâu đến, nhưng ân sủng không ép buộc ai cả. Con người có thể từ chối không muốn được cứu rỗi: "TC chỉ từ bỏ những ai xa tránh Ngài trước" (công đồng Triđentinô, DS 1537).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. "Người Do thái mới vây quanh Chúa Giêsu". Họ muốn chất vấn Ngài lần nữa vì Ngài làm họ khó chịu. Họ đột nhiên nói với Ngài: "Cho đến bao giờ nữa, ông còn để lòng trí chúng tôi phân vân lưỡng lự? Nếu quả ông là Đức Kitô, xin nói trắng ra cho chúng tôi". Chúa Giêsu hẳn làm cho họ bối rối nhiều và có lẽ làm cho họ nghi ngờ. Họ muốn biết thực hư. Ai trong chúng ta không một lần chất vấn Chúa như thế: Ngài là ai đối với tôi hôm nay? Tìm Ngài chỗ nào? Trong mọi hỗn loạn thời đại, trong bao cuộc đặt lại vấn đề, Chúa ở đâu? Đâu là sự thật? Đúng hơn, khi một vấn đề đặt ra khiến phải chọn lựa chúng ta đã không từng muốn một câu trả lời rõ ràng đó sao? Thảm kịch chính là chúng ta không biết gì nữa; khiến ngập tràn đến độ làm chúng ta không còn hiểu gì nữa. Đây là một nghịch lý đáng sợ: kiến thức càng tăng thì càng dẫn đến sự vô tri về chân lý. Như những người Do thái, chúng ta muốn biết ai là người kêu gọi chúng ta qua phúc âm, ai là người đảo lộn cuộc hiện hữu của chúng ta và đặt lại vấn đề đời sống chúng ta.
Chúa Giêsu xem ra không trả lời gì cả. Chính công việc Ngài đã thực hiện làm chứng cho Ngài; và nếu người ta không tin Ngài, đó là vì họ không thuộc đàn chiên Ngài, theo Ngài và thuộc về Ngài vì Chúa Cha đã ban họ cho Ngài. Và Ngài nói: "Cha ta và Ta là một". Phải nói là câu trả lời của Chúa Giêsu làm chúng ta hoang mang. Chúng ta vừa chấp nhận, vừa bất mãn, vừa nghi nan. Câu trả lời đó của Chúa Giêsu gợi lên những âm hưởng sâu xa, đánh động tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không thỏa mãn vì câu ấy đặt ra nhiều vấn đề: làm sao trở thành chiên của Chúa. Đặt vấn nạn này là vì chúng ta không biết câu trả lời; thế mà hình như Chúa Giêsu nói rằng câu hỏi chỉ đặt ra cho những kẻ không thể hiểu câu trả lời. Những phản ứng của chúng ta vừa biểu lộ sự thỏa mãn cũng như bất mãn; điều đó chứng tỏ chúng ta vừa là chiên vừa là người Do thái, và chúng ta vẫn đặt câu hỏi mặc dầu một cách nào đó đã biết câu trả lời.
2. Nên lưu ý nghịch lý này là: những ai đặt câu hỏi thì không thể nghe được câu trả lời; còn những ai nghe được câu trả lời thì không cần đặt câu hỏi. Người Do thái đặt câu hỏi, chúng ta cũng vậy, một phần nào đó trong con người chúng ta chưa thuộc về Chúa cũng muốn hạch hỏi Người. Nếu người Do thái đã có khả năng lắng nghe, thì họ đã gặp được câu trả lời, đã sống câu ấy và không hỏi gì nữa. Đặt vấn nạn như họ làm cho họ không nắm được câu đáp, vì họ chỉ chuẩn bị để phê bình, lượng giá câu trả lời theo các định kiến và hiểu biết của họ. Họ chỉ chấp nhận chân lý bao lâu họ thấy hòa hợp với những gì họ đã biết. Họ không thể chấp nhận Đức Kitô bởi không chịu được một giải đáp khác với giải đáp họ đã có sẵn.
3. Trái lại, các chiên không đặt câu hỏi, không phải vì đã biết được giải đáp, song vì điều đó không cần thiết. Chúng có một não trạng khác. Chúa Giêsu diễn tả chúng bằng hai tiếng: "Chúng nghe và theo"; Ngài nói tiếp: "Ta biết chúng" và "chúng biết ta". Đàn chiên không cần đặt vấn đề danh tánh Chúa Giêsu. Chúng thuộc về một giống đặc biệt. Cũng như chúng ta vừa thuộc não trạng người Do thái đang cật vấn Chúa, vừa thuộc dòng giống này. Chúa Giêsu diễn tả đàn chiên với vẻ âu yếm: Ngài biết chúng, ban cho chúng sự sống, bảo vệ chúng khỏi những kẻ ám hại. Đàn chiên không thể cắt nghĩa vì sao Ngài làm như vậy, nhưng chúng biết Ngài nên "chúng nghe và đi theo Ngài". Chúng sẵn sàng lắng nghe, đón nhận cái bí ẩn, đi đến nơi mà Chúa dẫn tới và chấp nhận mọi nghịch cảnh có thể xảy tới.
4. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng quá ham chất vấn, luôn tìm cách phân tích cái mới lạ, giản lược nó thành tầm thường - đó là một cách tự đóng kín mình, làm mình mất khả năng tiến bộ, biến đổi. Hãy biết lắng nghe, biết mình ngu dốt, biết rằng đấng vô danh luôn luôn kỳ lạ, rằng một cách nào đó Chúa luôn là một đấng chúng ta không thể biết rõ, vì chúng ta không thể hiểu được cách tường tận bao lâu còn ở thế gian này. Nhưng để luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa, để sống hạnh phúc thật sự ở cõi trần này, chỉ có một con đường: nghe và theo Chúa.
Sưu tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét