CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Gr
1,4-5.17-19; 1Cr 12,31 - 13,13; Lc 4,21-30
MỤC LỤC
1. Những người
thân
2. Tiên tri
3. Không được chấp
nhận
4. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Biết can đảm
chấp nhận lỗi lầm
6. Ta về ta tắm ao
ta – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
7. Mở rộng tâm trí
– Achille Degeest
8. Để yêu như Đức
Kitô yêu – Charles E. Miller
9. Thân phận ngôn
sứ
10. Loại bỏ vị
ngôn sứ - McCarthy
11. Chúa Giêsu
không được chấp nhận
12. Khước từ vì
ghen tương – R. Gutzwiller
13. Suy niệm của
Đức cố Giám mục Nguyễn sơn Lâm
14. Cánh cửa khép
kín
15. Loại trừ Chúa
Giêsu chăng?
16. Kiên vững và
dịu hiền – Thiên Phúc
17. Con cái trong
nhà
18. Sứ vụ
19. Thành kiến
20. Suy niệm của
JKN
21. Chú giải của
Noel Quesson
22. Chú giải của
Fiches Dominicales
1. Những người
thân.
Như chúng ta đã
thấy Chúa Giêsu khởi sự công việc rao giảng của Ngài. Thoạt đầu, Ngài đã gây
được hứng khởi nơi người nghe. Thánh Luca viết về những hoạt động của Ngài
trong lúc này như sau: Danh tiếng Ngài lan tràn cả miền chung quanh. Ngài giảng
dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Nhưng cũng chính thánh Luca
đã cho chúng ta thấy một cách sống động rằng ngay từ điểm khởi đầu này, lời
giảng dạy của Chúa Giêsu đã tạo nên những chống đối. Chẳng hạn ngày hôm nay,
những người làng Nadarét sau khi đã ca ngợi Ngài, thì họ bắt đầu thắc mắc về
Ngài. Họ bàn tán: Ông này hẳn không phải là con bác phó mộc Giuse hay sao? Và
từ thắc mắc, họ đi đến chỗ căm thù, thậm chí còn muốn thủ tiêu Ngài, như lời
thánh Luca đã viết: Mọi người trong hội đường đều đầy lòng căm phẫn, họ đứng
dậy, đuổi Ngài ra ngoài thành và điệu Ngài lên tận triền núi, nơi thành họ được
xây cất, cố ý xô Ngài xuống cho chết.
Qua đoạn Tin Mừng
này, chúng ta không khỏi liên tưởng tới lời mở đầu của Tin Mừng theo thánh
Gioan, trong đó thánh Gioan cũng đã viết: Ánh sáng đã chiếu soi trong u tối,
nhưng u tối không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà nhưng gia nhân đã không
tiếp nhận Ngài. Từ đó chúng ta đi tới hai nhận định cho việc sống đạo.
Nhận định thứ nhất
đó là mầu nhiệm làm người và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu phải chăng chỉ là
một? Cuộc khổ nạn ngày thứ Sáu Tuần Thánh và cuộc sống lại vinh hiển ngày phục
sinh, chỉ là phần kết thúc của một tiến trình duy nhất, bắt nguồn từ lúc giáng
sinh làm người? Thái độ từ chối và chống đối của người Do Thái, không phải chỉ
xuất phát từ những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng bắt nguồn từ một lựa chọn căn
bản giữa ánh sáng và u tối, giữa yêu thương độ lượng và hận thù ích kỷ. Chúng
ta không thể vừa theo Chúa lại vừa phủ nhận chương trình và đường lối cứu chuộc
của Ngài.
Nhận định thứ hai
đó là như chúng ta đã biết: Dân làng Nadarét đã tỏ ra cứng lòng, không tin
những điều Ngài giảng dạy. Sở dĩ như vậy là vì họ đã quá quen thuộc với bản
thân Ngài, gia đình Ngài nên mới có thái độ: Gần chùa gọi bụt bằng anh. Tại
Nadarét, Chúa Giêsu bị chống đối không phải bởi những người ngoại đạo, mà bởi
những người có đạo, bị oán ghét không phải bởi kẻ thù địch, mà bởi những người
họ hàng thân thích.
Hình ảnh những
người làng Nadarét của thánh Luca, cũng như những hình ảnh gia nhân không tiếp
đón Ngài của thánh Gioan, phải chăng là những hình ảnh tượng trưng cho người
tín hữu chúng ta. Bởi vì mặc dù đã biết Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn không
tin Chúa. Mặc dù nhận lãnh những ơn lành của Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn
lăng nhục và thù ghét Chúa. Mặc dù đã được Chúa thứ tha, mà nhiều lúc chúng ta
vẫn xua đuổi Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi những điều Chúa truyền
dạy, để nhờ đó chúng ta không cứng lòng như những người làng Nadarét, cũng như
không xua đuổi Chúa như những gia nhân mà thánh Gioan đã nói đến.
2. Tiên tri.
Có người đã mô tả
các tiên tri trong Cựu Ước là những kẻ an ủi những ai phiền não, nhưng đồng
thời cũng là những kẻ gây phiền não cho những ai tự mãn.
Chẳng hạn như tiên
tri Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ dân Do Thái đang bị băng hoại từ bên trong
và bị quân đội ngoại bang đe doạ từ bên ngoài. Tình thế như vậy làm cho ông rất
đau xót vì ông yêu mến tổ quốc và đồng bào của mình. Có lẽ vì thế, Chúa đã kêu
gọi ông làm tiên tri cho quê hương mình. Thế nhưng lần nào được kêu gọi ông
cũng đáp lại một cách miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi xứ sở mình
là điều rất khó. Nhưng rồi ông cũng phải rao giảng cho dân chúng con đường sống
còn duy nhất là phải canh tân đời sống, quay trở lại với Ngài. Nghe ông rao
giảng như thế, dân chúng đã nổi giận và căm ghét ông, đến ỗi co lần ông đã bị
đánh đòn, có lần ông đã bị cột vào trong bao, có lần ông đã bị xô vào đống
phân.
Chúa Giêsu cũng đã
cảm nhận được những khó khăn khi lãnh nhận sứ mệnh làm tiên tri ngay trên quê
hương mình. Ngài đã từng bị bà còn lối xóm ruồng rẫy, họ định xô Ngài xuống vực
thẳm cho chết luôn.
Suy nghĩ về thái
độ của dân làng Nagiarét, chúng ta bỗng nhớ tới lời tiên báo của ông già
Simêon: Trẻ nhỏ này sẽ nên như dấu chỉ cho người ta chống đối.
Lời tiên báo này
đã trở thành sự thật. Nếu dân làng Nagiarét đã từng đòi Chúa Giêsu trưng ra
bằng chứng xác minh Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do
Thái cũng buộc Ngài phải xác minh Ngài là Con Thiên Chúa như vậy.
Nếu dân làng
Nagiarét đã từng tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã
kêt án Ngài là dụng cụ của ma quỷ như vậy.
Nếu dân làng
Nagiarét đã từng tìm cách giết Ngài thế nào, thì đám đông dân thành Giêrusalem
cũng hò hét: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.
Chúa Giêsu quả là
đã bị chống đối và bị khích bác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hãy nhớ lại lời
Chúa đã nói với các môn đệ: Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì họ cũng sẽ ghét các
con.
Bất cứ ai cố gắng
sống đúng danh hiệu người Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên có giá trị
như thế nào? Tuy nhiên, cho dù chúng ta có bị ghét bỏ, có bị nhạo cười, nhưng
cũng đừng vì thế mà từ bỏ nếp sống lương thiện và trong sạch của mình. Lý do
thật đơn giản vì Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối đất. Các con là
ánh sáng. Người ta không đốt đèn rồi để dưới đáy thùng nhưng đặt trên giá đèn.
Cũng thế, ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người để họ nhìn thấy
việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Hay như lời thánh
Phaolô: Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa mời gọi để toả sáng như những vì sao
giữa lòng một thế giới đầy tăm tối.
3. Không được chấp
nhận.
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
Tin là thái độ căn
bản trong cuộc sống. Chẳng ai có thể sống mà không tin. Không tin người này
nhưng lại tin người kia. Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ.
Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin. Không phải chọn một cách vu vơ, mù
quáng, nhưng một cách sáng suốt và tự do.
Điều khó là giữ
cho lòng mình được tự do thanh thoát, không bị những định kiến ràng buộc hay tư
lợi chi phối, nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật, dù sự thật đó làm đổ nhào mọi
điều ta nghĩ, và xoay lại hướng đi của cả đời ta.
Có lẽ dân làng
Nagiarét ít có thứ tự do này.
Khi Đức Giêsu
giảng trong hội đường Nagiarét thân quen, họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời
Ngài nói. Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng nay được tiếng tăm
lẫy lừng khắp miền Galilê! Nhưng tin Đức Giêsu là một ngôn sứ lại là điều họ
không làm được.
"Ông này
không phải là con ông Giuse đó sao?"
Ký ức của họ vẫn
còn giữ nguyên những hình ảnh của Đức Giêsu sống tại đây hơn ba mươi năm qua.
Một cuộc sống quá đỗi bình thường! Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác.
Gốc gác, họ hàng của Đức Giêsu, họ đều nắm rõ. Tiếc là họ đã không thể đi xa
hơn.
Cái hiểu biết
trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào, và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm
về Giêsu.
"Những gì ông
đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem."
Người làng
Nagiarét không tin Đức Giêsu là ngôn sứ. Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ.
Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi. Nhưng Đức Giêsu không làm
phép lạ để ép người ta tin.
Chính lòng tin đưa
đến phép lạ, mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương. Lòng chai
đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ, khi Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ
Êlia và Êlisa được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại.
Dân làng không giữ
được Đức Giêsu cho riêng mình. Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi,
thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
Tin Đức Giêsu là
ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa, điều đó chẳng dễ dàng chút nào. Người
không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.
Điều cần thiết là
phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.
Chúa Thánh Thần
vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Hôm nay, chúng ta
đã biết, tin và gần gũi Đức Giêsu, nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như
người Nagiarét: tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm hay muốn độc quyền giữ Đức
Giêsu cho mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dựa
vào đâu để bạn tin người khác? Dựa vào đâu để bạn biết người đó thành thật?
Người dân làng
Nagiarét gặp khó khăn khi phải tin Đức Giêsu. Con người hôm nay gặp khó khăn
nào khi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nagiarét đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã
không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa
là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng
con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu
đuối, trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa
thính ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng
con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin
cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc
sống.
4. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN
TIẾP CHÚA.
Sau khi rao giảng
một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm
phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và muốn giết Chúa. Thật là đáng
buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: "Người đã đến nhà nhưng người nhà
không nhận biết Người". Tại sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa
vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức
tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin.
Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta
có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi
phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ
không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin
và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được
lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được
mong ước của Chúa.
Chúa sống trong
khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với
mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa.
Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống
khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng
không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng
Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương
quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với
Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở
rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì
phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ.
Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn
chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta trong thời hạn hán, làm cho bình dầu
và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng
Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại
trong phạm vi người thân thuộc nhưng phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không
chỉ những người trong đạo Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn
quan khác hẳn nhau.
Tôi là người có
đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng
Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư
danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn
tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép
kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Giữ đạo tốt để
được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Bạn khó chịu
khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có đúng không?
3. Thường thường,
bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được điều gì? Để được may mắn,
khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến Chúa?
5. Biết can đảm
chấp nhận lỗi lầm.
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, Chúa Giêsu
trở về quê hương Nadarét. Vì ưu ái người đồng hương, Ngài ưu tiên tỏ cho họ
nhận biết vai trò và sứ mạng của Ngài là Người được Thánh Thần xức dầu, được
sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ân xá cho những kẻ bị giam
cầm, cho người mù tối đón nhận ánh sáng, cho người bị áp bức được tự do và công
bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa... với hy vọng là những người đồng hương cốt
nhục của mình được đón nhận ơn cứu độ trước hết.
Thế nhưng đôi mắt
của người dân Na-da-rét đã bị che phủ bởi thành kiến nên họ đã không nhận ra
vai trò và sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu. Với thành kiến rằng Đức Giêsu chỉ là
một anh thợ mộc bình thường con của bác thợ Giu-se, bà con thân thích của Ngài
đâu có ai sáng giá... nên họ đã không tin Ngài. Họ đã để tuột khỏi tầm tay một
cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân vô giá.
Để cảnh tỉnh họ,
Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các
ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến cho mình, nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ
thể là vào thời ngôn sứ Isaia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân
Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Isaia được sai
đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu
đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.
Một sự kiện khác
tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi có nhiều người phong cùi trong
dân Israen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa
lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo, người nước Sy-ri.
Thế nhưng, những
lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ
oán ghét Ngài khủng khiếp!
Họ oán ghét và nổi
cơn phẫn nộ với Ngài chỉ vì Ngài đã chỉ cho họ thấy những sự thật phũ phàng
liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi Ngài ra khỏi
hội đường rồi kéo ra khỏi thành.
Thế mà vẫn chưa hả
giận, họ còn kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, cho Ngài nát thịt
tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống, vì Ngài đã dám nói lên
sự thật, một sự thật phũ phàng, đen tối liên quan đến họ...
Ôi, khủng khiếp
thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!
Hành động như thế
là thiếu tinh thần phục thiện, là hèn nhát không dám đối diện với sự thật. Đúng
ra, họ phải cám ơn Chúa Giêsu vì Ngài đã giúp họ thấy được sai lầm của mình để
sửa chữa cho tốt hơn. Đúng ra họ nên nhìn lại sai lầm của mình thật rõ và những
hậu quả do đó mà ra để rồi không còn tái phạm nữa.
Tiếc thay họ đã đi
vào vết chân của cha ông họ nhưng còn tồi tệ hơn. Cha ông họ bạc đãi các tiên
tri, còn chính họ thì toan giết hại Con Thiên Chúa.
Thế nhưng hôm nay
soi lại bản thân, chúng ta cũng thấy đôi khi mình cũng đi theo vết chân đó. Khi
có ai đó chỉ cho ta thấy những lầm lỗi khuyết điểm của chúng ta, những sự thật
đen tối về bản thân ta, thì thay vì cám ơn người đã chỉ bảo cho mình điều hay
lẽ phải, chúng ta lại lồng lên như một thú dữ bị thương, gầm lên dữ dội và có
thể có thái độ hung hãn đối với người đã vạch ra lầm lỗi của mình. Thế rồi mình
cứ cố chấp trong tội lỗi của mình. Và như thế, chúng ta cứ mang thói hư tật xấu
xuống mồ và sẽ không bao giờ biết cải thiện. Thật đáng tiếc lắm thay!
Nếu ngôi nhà chúng
ta bén lửa, bỗng có người phát hiện và báo cho ta biết để chữa cháy, thì hẵn là
chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và khẩn trương chữa cháy cho ngôi nhà.
Còn nếu trong hoàn
cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy, chúng ta lại quay ra căm giận, hành
hung người báo cháy cho mình thì thật là điên rồ không thể chấp nhận được.
Thói hư tật xấu và
những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta
không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo
cho biết có 'lửa' đang bén vào 'căn nhà cuộc đời' của mình, thì đừng phẫn nộ
với người đó như người dân thành Nadarét năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ
họ cảnh báo mà chúng ta biết được những 'ngọn lửa' lầm lỗi, âm ỉ đốt cháy cuộc
đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình khỏi cháy.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách đen tối trong tâm hồn chúng con
để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen tối trong đời mình.
Xin cho chúng con
can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực của người khác mà không tìm cách
biện minh hay chống chế.
Xin cho chúng con
dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình, gọi đúng tên chúng, quan sát cách
vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi, lời nói, và cách cư xử hằng ngày
của chúng con...
May ra lúc đó,
chúng con mới có thể cải thiện và đổi đời.
6. Ta về ta tắm ao
ta – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích trong 'Cùng
Nhau Suy Niệm')
Theo báo chí nhận
xét: "Tết năm nay (2010) lượng trái cây của Trung Quốc nhập về giảm mạnh.
Các năm trước, đến thời điểm này, hàng trái cây Trung Quốc đã chất hàng ngàn
tấn tại chợ nhưng năm nay thì lại chưa thấy gì". Có người còn độc miệng
nói rằng: các loại trái cây của Trung Quốc chủ yếu là lê, táo, nho... màu đẹp,
bóng, để được lâu (khoảng tháng rưỡi) nên một số người mua để cúng chứ không
dám ăn. Không chỉ trái cây nhưng rất nhiều mặt hàng Trung quốc đến nay người
dân đã tẩy chay vì hàng kém chất lượng, nhất là lại chứa nhiều độc tố. Điều đó
dẫn đến một làn sóng trở về với dân tộc: "Ta về ta tắm ao ta - Dù trong dù
đục ao nhà vẫn hơn".
Thực vậy, với xu
hướng xính ngoại, lâu nay nhiều người không dùng hàng Việt. Thích dùng hàng
ngoại. Hậu quả là hàng ngoại kém chất lượng, quá date, hàng giả... tràn ngập
thị trường Việt Nam. Điều này không chỉ dừng lại ở hàng hóa mà ngay cả trong
vấn đề hôn nhân cũng vậy. Nhiều cô gái thích lấy chồng ngoại. Đến nỗi có cả một
thị trường tuyển chọn cô dâu. Nhưng có mấy ai lấy chồng ngoại được yên bề gia
thất? Có mấy ai thực sự hạnh phúc với hôn nhân thiếu vắng tình yêu?
Chúa Giêsu trong
thân phận con người, Ngài cũng từng cay đắng để thốt lên rằng: "không một
tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình". Người ta dễ "gần
chùa gọi Bụt bằng anh". Người ta xem thường đồng hương. Dù biết rằng tình
đồng hương rất cần vì "tối lửa tắt đèn có nhau". Dù biết rằng kẻ láng
giềng rất cần thiết, cần thiết hơn là anh em ruột thịt mà ở xa, như lời cha ông
đã nói: "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Thế nhưng, thực tế cho
thấy, người hàng xóm lại dễ mất lòng nhau. Người hàng xóm lại dễ ganh tỵ với
nhau. Thay vì sống với nhau để mang lại sự chia sẻ, cảm thông, nhưng lại gây
sóng gió cho nhau. Có mấy ai ở bên nhau mà không lời qua tiếng lại? Có mấy ai ở
bên nhau mà đùm bọc lấy nhau như là bí với bầu "tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn"? Chúa Giêsu cũng từng bị đồng hương tìm cách loại trừ. Đã
có lần người ta cho rằng Người đang bị mất trí. Chính vì cái nhìn thiển cận và
đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giêsu đã không thể làm một phép lạ
nào nơi quê hương mình. Hôm nay, sau thời gian dài, Ngài đi rao giảng và làm
nhiều phép lạ, Ngài trở về dưới cái nhìn xem thường của đồng hương. Họ không
tin một Giêsu con bác thợ mộc lại có thể làm nhiều phép lạ như lời đồn. Nói
đúng hơn, là họ không thể chấp nhận sự thật về con người Giêsu mà họ đã biết từ
khi ấu thơ, nay lại có thể có những khả năng phi thường như vậy. Họ đã bị vấp
phạm vì Người. Họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, nhưng Người đã băng qua giữa
họ mà đi.
Vâng, cuộc sống
của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người người biết tôn trọng lẫn nhau,
biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là
lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn, hẹp hòi là
những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật hạnh phúc biết bao khi
chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay
vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau. Cuộc sống sẽ hạnh phúc
biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả, những đóng góp của anh
em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.
Ước gì mỗi người
chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của
mình. Vợ chồng cần có nhau để bổ túc và mang lại hạnh phúc cho nhau. Con cái
cần đến cha mẹ để nương nhờ cậy trông. Hàng xóm cần đến nhau để "tốt lửa
tắt đèn có nhau". Và một khi đã nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong
đời sống của mình, thì hãy sống tôn trọng và kính trọng lẫn nhau, để cùng nhau
xây dựng cuộc sống cho nhau những niềm vui và hạnh phúc. Amen
7. Mở rộng tâm trí
– Achille Degeest.
(Trích trong 'Lương
Thực Ngày Chúa Nhật')
Đức Giêsu ám chỉ
Người đến khai mạc thời cứu độ muôn dân hằng mong đợi. Chúa thừa biết những
phản ứng ít nhiều công khai của đám thính giả. Chúa nói lớn ra điều họ nghĩ
thầm và lẩm bẩm trong miệng. Có hai khó khăn làm họ bực mình. Nặng óc địa
phương, họ bất bình thấy Chúa làm những phép lạ tại những miền khác được dư
luận rộng rãi đồn đại. Họ nghĩ, công cuộc cứu nhân độ thế thần kỳ của Chúa phải
khởi đầu tại nơi sinh quán mới phải. Họ đâm ra ngờ vực con người mà họ biết rõ
lai lịch, tuy họ quý mến, nhưng trong con ông Giuse và bà Maria họ không nhận
ra hình ảnh Đấng Messia. Chúa cho họ thấy một tâm tình khô cứng như thế thật
nghèo nàn. Tâm hồn không thuần khiết, trí óc mắc bệnh thiên kiến thì sao hiểu
được ý nghĩa một dấu chỉ, cho dù là dấu chỉ phi thường tới mức nào. Người xung
quanh có thể đem đến cho chúng ta một sứ điệp, nếu chúng ta không biết đến hoặc
không thừa nhận giá trị của họ chẳng phải là thái độ hẹp hòi ư? Than ôi, ngoại
trừ vài ba trăm người, toàn dân Do Thái đều giống người Galilê và không biết
nhận diện được Đấng Messia đã sinh ra giữa lòng dân tộc. Từ đó xảy ra hiện
tượng Tin Mừng lan tràn tới các dân tộc ngoại chủng, nghĩa là trên khắp hoàn
vũ.
Đoạn Phúc Âm gợi
ra hai câu hỏi:
1) Chính chúng ta
chẳng mắc cái bệnh thành kiến như người Galilê sao?
Gặp dịp, chúng ta
cũng dễ dàng đưa ra một nhận xét: "Ông này, ông nọ, tôi biết lắm?".
Cách suy nghĩ cư xử ấy là bằng chứng rằng chúng ta thật sự chẳng biết gì về
người ấy. Trong trường hợp này, sự hiểu biết của chúng ta về tha nhân không
phải là một sự hiểu biết thông cảm, khả năng đón tiếp của chúng ta giống như
một động mạch bị cứng lại, tắc nghẽn. Vậy mà sự hiểu biết của Thiên Chúa về
chúng ta thì khác xa biết chừng nào. không bao giờ Thiên Chúa nghĩ rằng chúng
ta mãi mãi ở trong một trạng thái nào đó, giữ mãi nguyên trạng đó. Dưới mắt
Thiên Chúa, chúng ta bao giờ cũng có khả năng cải tiến, có thể trở nên tốt hơn,
và Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta tiến bộ. Như vậy, phải chăng chúng ta nên cố
gắng có một nhận định về kẻ khác giống như Chúa nghĩ về chúng ta?
2) Chúng ta có
phòng ngừa bệnh thiên kiến không, vì nó cản trở sự phát triển đức tin của chúng
ta?
Dân chúng Galilê
tin vào Thiên Chúa và mong đợi Đấng Messia. Thiên kiến làm mờ mắt họ, không
nhận ra Đức Giêsu đến thành toàn niềm tin và mong đợi của họ. Vậy mà chúng ta
biết rằng tiến trình của đức tin luôn luôn vấp phải những bất ngờ khiến người
ta bối rối. Đức tin sống động không ưa thứ tư tưởng đặt thành hệ thống và những
việc làm theo thói quen máy móc. Thanh luyện tâm trí, chuẩn bị tâm trí sẵn sàng
nghênh tiếp Thiên Chúa là một trong những yêu cầu chủ yếu của sự tiến bộ trong
đức tin. Theo quan điểm ấy, điều cực kỳ quan trọng là ngày nay người Công giáo
phải chuẩn bị tâm trí đón nhận những ân huệ chưa hề có trước nay, phát xuất từ
Công đồng Vaticanô II. Trong niềm tuân phục nghiêm cẩn và triệt để những huấn
lệnh của Giáo Hội, người Công giáo phải cầu nguyện, hành động và suy nghĩ theo
những chiều hướng Công đồng mở ra cho các tín hữu.
8. Để yêu như Đức
Kitô yêu – Charles E. Miller.
(Trích trong 'Mở
Ra Những Kho Tàng')
Một thiếu niên đã
ném những cái túi ra xa lộ trước mặt nhà của hắn ta, hắn ta mất một trong những
kiếng sát tròng của mình, hắn ta tìm kiếm nhưng không tìm thấy nó. Hắn vào nhà
và nói: "Bố ơi con mất kiếng sát tròng rồi và con không tìm thấy nó".
Cha của cậu ta đứng dậy rời khỏi tờ báo và đi ra ngoài, một lúc sau thì ông trở
lại với cái kiếng sát tròng. Đứa con trai kinh ngạc: "Cha ơi làm sao Cha
tìm thấy nó?". Nó hỏi, cha nó trả lời: "Mày tìm kiếm một miếng plastic.
Còn tao, tao tìm kiếm vì một trăm năm mươi đô".
Khi chúng ta không
nắm vững ý nghĩa đúng của những giá trị, chúng ta có thể thất bại trong việc
tìm thấy những thực tại quan trọng của đời sống. Đó là lý do vì sao mà nhiều
người trong bài Phúc Âm hôm nay đã từ bỏ Chúa Giêsu. Họ không thể chấp nhận
được một thanh niên sinh đẻ tại đây là Đấng Mêsia của họ, họ bỏ sót những gì
thật sự là quan trọng. Đối với họ Chúa Giêsu không khác gì một miếng plastic.
Một điều gì đó
cũng tương tự như thế xảy ra ở Corintho và Thánh Phaolô đã viết thư cho tín hữu
ở đây. Họ đã trở nên say mê bởi những món quà đặc sủng, một số có thể nói những
ngôn ngữ khác nhau, số khác cắt nghĩa được những ngôn ngữ đó, một số được đặc
ân chữa lành, một số khác được nói tiên tri. Những đặc ân này thì tốt cho dân
chúng, nhưng những người Corintho thì thất bại trong việc nắm bắt được giá trị
của đặc ân lớn nhất đó là đặc ân tình yêu.
Đó là lý do vì sao
Thánh Phaolô nói với họ: "Tôi sẽ trình bày cho các bạn biết điều vượt trên
những điều đó". Đó là con đường tình yêu. Nhưng với Thánh Phaolô, tình yêu
không chỉ hấp dẫn hoặc không đơn giản chỉ là lý thuyết. Ngài không nghĩ về một
tuần trăng mật hay một tình yêu lãng mạn. Đối với thánh nhân, tình yêu là thực
tế, là hiện diện nơi trái đất này, là diễn ra ngày này qua ngày nọ khi giao
dịch với những người khác.
"Tình yêu thì
tử tế", thánh nhân có thể đặt nó một cách đơn giản và trực tiếp hơn không?
Chúng ta phải tử tế với nhau nên mới nói: "xin vui lòng", "cám
ơn" hay "xin lỗi". "Tình yêu thì kiên nhẫn". Thật khó
để mà luôn luôn kiên nhẫn với những người mà chúng ta cùng sống hoặc làm việc,
nếu họ không làm cho thần kinh chúng ta căng thẳng thì cũng làm phiền chúng ta
bởi những điều mà chúng ta không thích. Tình yêu thì không ghen tỵ. Tình yêu
thì không làm bộ làm tịch. Tình yêu thì không thô lỗ. Tình yêu không nói lời hư
từ. Mọi đề mục trong danh sách của thánh nhân đều là thực tế. Trên tất cả, tình
yêu là không kiếm tìm chính mình. Tình yêu luôn luôn quảng đại và không ích kỷ.
Cuối cùng, tình yêu không bao giờ thất vọng. Tình yêu thật sự không chỉ ở giữa
người chồng và người vợ, để tốt hơn hoặc xấu hơn, để giàu hơn hoặc nghèo hơn,
lúc bệnh hoạn hay khi khỏe mạnh.
Những tác giả
thiêng liêng đã nhận thấy nơi thư của Thánh Phaolô từ "tình yêu" có
thể được thay thế với tên "Đức Kitô". Đức Kitô thì kiên nhẫn, Đức
Kitô thì tử tế, Đức Kitô không nói lời hư từ, Đức Kitô không tìm kiếm chính
mình, Đức Kitô thì không bao giờ thất vọng. Chân lý này giúp chúng ta nhận thấy
lý tưởng cao vời của một tình yêu thật sự và chúng ta sẽ không đạt được nó nếu
dựa vào chính chúng ta. Thánh Thể là ý nghĩa để chúng ta lớn lên trong tình yêu
giống như Đức Kitô. Chúng ta lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta cầu nguyện:
"Lạy Chúa xin biến đổi con và những tình yêu của con. Xin giúp con yêu mến
như chính Chúa yêu. Xin giúp con mỗi khi con gặp khó khăn".
Thánh Phaolô đã
nhận biết có ba nhân đức lớn lao là đức tin, đức cậy và đức mến. Khi chúng ta
lên thiên đàng chúng ta không còn cần đến đức tin, bởi vì chúng ta đã thấy
Thiên Chúa diện đối diện. Và cũng không còn cần đức cậy bởi vì chúng ta đã đạt
được mục đích của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ có nhân đức lớn hơn mọi nhân đức;
chúng ta sẽ có tình yêu. Chúng ta sẽ bắt đầu từ bây giờ cho đến đời đời, bởi
việc cầu xin và đem ra thực hành một tình yêu giống như Đức Kitô là yêu thương
anh em.
9. Thân phận ngôn
sứ.
(Trích trong 'Niềm
Vui Chia Sẻ)
Có người đã mô tả
các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não và cũng
là những người gây phiền não cho những kẻ giàu sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn
sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang bị băng hoại từ bên trong và bị
quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho
Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà
Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng bào của ông. Nhưng lần nào được
Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm
ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia phải giảng, ông
tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải
canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.
Nghe ông thuyết
giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: "Ông nội
Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng
ta cũng là đồng bào của ông ấy?". Tình trạng căm ghét ngày càng dâng cao
đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần khác thì cột
ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã
cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ
ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài
Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết
giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép Rửa từ sông Giođan trở về. Khi
Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống
trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy
khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với
nhau: "Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta chẳng phải là một
người nghèo khổ trong làng Nagiareth sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận
mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không
phải là tên mạo nhận?". Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám
dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh
Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: "Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra
khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu
xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác".
Nếu đọc tiếp Tin
Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới tận Giêrusalem. Trên con đường
ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy. Cuối cùng họ lôi được Ngài lên
thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ
trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: đem lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến
tận cùng trái đất.
Bài mô tả của
Thánh Luca về những khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiaret khiến
cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị "té cái bịch"
xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng
nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng
vào đền thánh: "Trẻ nầy... là một dấu chỉ cho người ta chống đối" (Lc
2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa
Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh
Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc Ngài
chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng Nagiaret
từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì
bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ y như
thế (x. Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiaret đã từng cố công tìm cách giết Chúa
Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng
hò hét khản cổ: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!" y hệt như vậy.
Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác.
Lời tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong
suốt cuộc đời dương thế của Ngài.
Cùng với Giêrêmia,
Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý
thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ những khó khăn, thử thách và nguy
hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành hòa tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ
Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Ngay nay sứ vụ rao
giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới.
Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang
thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán
phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi
những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ
thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức
Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác
cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị
tử đạo.
Chúng ta cầu xin
cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do
khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh... biết nhìn vào gương của
Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu người đã và đang hết sức
trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Và chính chúng ta
nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô
khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa Tội, khi chúng ta được trở nên
thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời
Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng còn phải để tâm đem Lời Chúa, những
giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến cho những người chung quanh, nhất là
những người trong gia đình, hầu thánh hóa xã hội chúng ta đang sống.
Hạnh phúc của
chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa qua tiếng nói của các sứ giả
Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau mắn, chăm chú nghe Lời Chúa,
suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật. Chớ gì chúng ta biết thay đổi
đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta trên nền tảng Lời Chúa, trên
giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng ta hãy kết
thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung
thành bước theo Chúa Giêsu:
"Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù
đám người ruồng rẫy chúng con.
Lạy Chúa, xin ban
cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước
những cảnh ngộ gai góc.
Lạy Chúa, xin ban
cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước nhữn
gánh quá nặng đè lên chúng con.
Xin giúp chúng con
là muốn ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như
những vì sao trong thế giới tăm tối nầy". Amen.
10. Loại bỏ vị
ngôn sứ - McCarthy
(Trích trong
'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng')
Suy Niệm 1. BỊ
NGƯỜI THÂN YÊU LOẠI BỎ
Sau nhiều năm rời
bỏ ngôi làng nơi ông đã chào đời ở Transkei, Nelson Mandela đã trở về thăm quê
hương. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư và sống ở Johannesburg. Sau này ông đã
viết về cuộc thăm viếng đó: "Không có gì giống như khi ta trở về một nơi
vẫn không thay đổi để tìm lại những con đường trong đó chính bạn đã đổi thay.
Chốn cũ tiếp tục như trước đây, không đổi khác với khi tôi lớn lên ở đó. Nhưng
tôi nhận ra rằng quan điểm của tôi và thế giới quan của tôi đã tiến
triển". Thật vậy, ông đã nói điều đó đúng lúc ông trở về quê hương, ông
không thể sống ở đó nữa –nó trở nên quá nhỏ đối với ông.
Đức Giêsu đã trở
lại Nadaret và với dân làng. Người đã lớn lên ở giữa họ. Người cũng muốn đem
lại cho họ những ơn ích của Người. Họ là những người biết rõ Người. Hẳn bạn
nghĩ rằng họ sẽ đánh giá Người cao nhất. Đáng buồn là họ không tin Người.
Quang cảnh mà bạn
có về một nhà thờ lớn thì một khoảng cách rất khác với quang cảnh khi bạn ở
thật gần. Từ một khoảng cách, ngôi nhà thờ đứng rực rỡ trong khung cảnh xung
quanh. Bạn có thể nhìn thấy những đường nét, hình thể và vẻ đẹp của nó. Nhưng
khi ở thật gần, bạn thấy toàn là bụi bẩn và rạn nứt.
Một điều tương tự
xảy ra với người ta. Một người không bao giờ là một anh hùng với những người
thân. Một thiên tài dường như không được chính bạn bè mình khám phá. Những
người ở gần phải chịu đựng vì các khuyết điểm và giới hạn quá rõ ràng. Những
người ở xa, trái lại, được sự quý trọng cổ vũ vì chỉ những đức hạnh của người
ấy được thấy rõ.
Nhưng điều đã xảy
ra với Đức Giêsu ở Nadaret còn sâu xa hơn thế. Không phải chỉ vì họ không đánh
giá đúng Đức Giêsu. Họ khước từ Người. Tại sao? Bởi vì Người đã chỉ ra sự thiếu
đức tin của họ và nói với họ rằng dân ngoại còn cởi mở với Thiên Chúa hơn họ.
Những ơn ích từ lời hứa trong Giao Ước không có ý nghĩa là tất cả.
Đức Giêsu đã chịu
đựng số phận của mọi ngôn sứ –bị dân của Người khước từ. Lời ngôn sứ không phải
để làm vui lòng người ta, nhưng để nói lên sự thật mà người ta không muốn nghe,
sự thật mà người ta thường che đậy. Nhưng động lực khiến Đức Giêsu nói lên sự
thật là lòng thương xót của Người.
Người phải làm gì?
Hẳn Người có thể nói: "Tôi đã chán họ! Tôi đã chán mọi người. Vì vậy tôi
sẽ rút lui vào một cái lều trong rừng và để cho cỏ dại mọc quanh trên mặt
đất".
Hoặc Người có thể
nói: "Họ muốn gì nào?". Và khi đã tìm ra điều họ muốn, Người có thể
xúc tiến cho họ điều đó. Nhưng trong trường hợp này, ơn đặc biệt mà Người muốn
cho họ và họ hết sức cần sẽ bị bỏ mất.
Sau cùng, Người có
thể cố gắng tìm ra một số ít người sẵn sàng đón nhận điều Người muốn cho họ.
Nếu Người tìm được ít người đó. Người có thể cho họ điều đó tuỳ theo khả năng
họ đón nhận. Đó là điều Người đã chọn để thực hiện.
Bị những người
thân quen của mình khước từ là một việc tổn thương sâu sắc. Đức Giêsu đã đau
buồn bởi những điều đã xảy đến với Người ở Nadaret, nhưng Người đã không trở
nên cay cú và chôn vùi những ân huệ của Người. Người đã làm điều Người có thể
làm cho những kẻ đã tin Người ở Nadaret, và rồi Người mang những ân huệ của
Người đi nơi khác.
Suy Niệm 2. SỰ ƯU
TIÊN CỦA ĐỨC MẾN
Có một dây liên
kết giữa đức tin và đức mến. Có một câu chuyện minh hoạ cho điều ấy nói về
George Herbert, một thi sĩ Anh quốc, một linh mục và nhạc sĩ nghiệp dư. Một ngày
nọ, trên đường đi đến một buổi họp về nhạc với một số bạn bè, ông gặp một người
nghèo bị ngã ngựa. Cả hai, người và ngựa lâm vào cảnh hiểm nghèo và cần gấp sự
giúp đỡ.
Herbert cởi áo dài
tu sĩ và giúp cho người ấy ra khỏi lưng ngựa và đứng dậy trước khi lên ngựa trở
lại. Rồi ông cho người nghèo ấy một món tiền để mua nước giải khát cho cà người
và ngựa. Sau đó, ông lại tiếp tục cuộc hẹn gặp bạn bè.
Dĩ nhiên, ông đã
giữ cho mình rất sạch sẽ và chỉnh tề. Vì thế khi ông quay lại với đôi tay bẩn
và áo quần dính đầy đất, các bạn ông kinh ngạc. Nhưng khi ông nói với họ về
nguyên nhân của điều đó, một người bạn tỏ ý không tán thành việc ông để mình
liên luỵ vào một việc dơ bẩn như thế.
Nhưng ông đáp lại:
"Suy nghĩ về điều tôi đã làm sẽ giống như âm nhạc đến với tôi lúc nửa đêm.
Nếu bỏ đi nó sẽ tạo ra một sự bất hoà trong ý thức của tôi. Bởi vì nếu tôi bắt
buộc phải cầu nguyện cho mọi người trong cơn hoạn nạn, thì chắc chắn rằng tôi
bắt buộc phải đi xa hơn là thực hành những gì tôi cầu nguyện". Rồi ông nói
tiếp: "Giờ đây, chúng ta so dây đàn đi".
Trong Bài đọc 2
hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta một mô tả đẹp nhất về đức mến từ trước tới
nay. Ngày nay tình yêu (đức mến) là từ ngữ được dùng nhiều nhất. Nhưng điều mà
nền văn hoá chúng ta gọi là tình yêu trong các bản nhạc và phim ảnh thường
không có gì là tình yêu cả, nó là sự đối lập của tình yêu. Nó chỉ là ước muốn
làm chủ hoặc chiếm hữu.
Ngày nay có nhiều
người hoài nghi về sự hiện hữu của tình yêu chân chính. Họ không tin có lòng
nhân ái nào mà không bị hoen ố bởi tư lợi. Một lý do của điều ấy là ngày nay
chúng ta có sự hiểu biết tốt hơn về tính chất phức tạp trong bản chất con người
và sự pha tạp của nhiều động lực đàng sau mỗi việc chúng ta làm.
Thánh Phaolô hiểu
rõ những động lực pha tạp đàng sau những việc người ta làm. Ông hiểu người ta
có thể thực hiện những hy sinh to lớn như thế nào, dù rằng những hy sinh không
có giá trị bởi vì những động lực để thực hiện chúng đều do tư lợi.
Nhưng thánh nhân
vẫn tin vào khả hữu của đức yêu thương và đó là trung tâm điểm của người Kitô
hữu. Điều mà ông đề nghị trong sự mô tả đức yêu thương rõ ràng là một lý tưởng.
Một lý tưởng giống như một ngôi sao. Dù chúng ta không bao giờ có thể đạt đến,
nó vẫn luôn hướng dẫn chúng ta. Nhưng điểm chính yếu mà thánh Phaolô đưa ra là
sự ưu tiên của đức yêu thương trong đời sống của một Kitô hữu. Chúng ta phải
sẵn sàng chấp nhận sự yếu đuối và thất bại của chúng ta mà không tức giạn và
thất vọng.
Khi được đức yêu
thương chiếm hữu, người ta sẽ được tràn đầy quyền năng mà người ta không thể từ
chối, đó là quyền năng làm bất cứ việc gì, đương đầu với bất cứ điều gì, chịu
đựng bất cứ việc gì cho con người hoặc sự việc mà người ta yêu mến.
Yêu thương, nhân
từ, bác ái, làm việc vì người khác –đó là những phẩm chất chủ yếu. Đức yêu
thương không bao giờ phai tàn! Những sự việc khác phai nhạt và qua đi, nhưng
đức yêu thương tồn tại mãi. Nếu một người yêu thương thật sự thì người ấy cũng
có được mọi nhân đức khác.
Đức tin, đức cậy
và đức yêu thương (đức mến) là ba nhân đức lớn. Chúng còn mãi nhưng lớn nhất là
đức yêu thương. Mọi sự việc qua đi, nhưng lời nói yêu thương, việc làm yêu
thương không bao giờ qua đi.
11. Chúa Giêsu
không được chấp nhận.
(Trích trong 'Tin
Mừng Chúa Nhật')
Sau khi đã sai
nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc tông đồ tại miền quê xứ
Galilê, Đức Giêsu một mình trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi dưỡng
và lớn lên trong mái ấm gia đình dứoi sự chăm sóc của mẹ Maria và thánh Giuse.
Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống lại, Ngài dừng chân
tại Ca-phác-na-um. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng sau đó, một mình
Ngài trở về thăm quê, và tới dự một buổi thờ phựơng nhằm ngày sabat. Được mời
lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.
Các khán giả nghe
Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống lại vẻ dịu dàng của bài giảng,
hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ cũng không thể chấp nhận
lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ lòng không tin bằng một câu hỏi: "Hẳn
không phải là con ông Giuse sao?" Ý họ muốn nói: "Đây không phải là
người lân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều quen biết, chúng
ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh ta
không thể là Đấng Mêsia được!"
Câu trả lời của
Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không làm trước mặt họ
những phép là mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi Ngài trích dẫn câu tục ngữ:
"Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình" là Ngài có ý nói: "Hãy chứng
thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác. Nếu anh muốn
chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô." Chúa cũng trích dẫn một câu tục ngữ khác
cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: "Không có ngôn sứ
nào được chấp nhận nơi quê hương mình." Những kẻ quá quen thuộc với những
bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của họ. "Quen quá
hóa lờn" (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ
khác theo tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu
biết những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông
cạn này đã làm tài hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được
giá trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã
có một ảnh hưởng bi đát trên chức vụ của Chúa Giêsu, có người chối bỏ Ngài vì
những lý do hết sức nông cạn và điên rồ, tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen
thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi trên thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp
của nhân vị Ngài và quyền năng hối cải của ân điển Ngài.
Thái độ của khán
giả biến thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu ước, cả hai câu
đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài hơn hết, nhưng họ
vẫn không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi do chức vụ của Ngài đem lại hơn những
người ngoại bang. Ngài tự ví sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ơn phúc
lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel vẫn không
nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy các dân tộc trên thế giới sẽ nhận
được ơn phúc cho Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài lại
phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy, điều
làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng
chỉ có họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ xem khinh các dân tộc khác. Họ tin
rằng "Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hỏa
ngục". Thế mà giờ đây chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều
biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi, họ nổi xung lên đuổi
Ngài ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.
Ngay từ khi mới
sinh ra, Đức Giêsu nhận được một định mệnh "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này
làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là
dấu hiệu bị người đời chống báng." (Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành
sự thật.
Hẳn thật, sau khi
đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình, Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận
định cay đắng: "Ngài đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón
nhận!" (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn nhất cho Chúa Giêsu là người
giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón
tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người đi xa trở về, người đã làm
mở mày mở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.
Bài học của
Nagiarét đây vẫn luôn được lặp lại, nhiều người có cơ hội để biết Chúa lại chối
bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ được hàn gắn như
thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh như Na-a-man nhờ lời của
Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những về
ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ thông của chức vụ ấy nữa.
Ngài đến để thỏa mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả thế gian.
Jelana là một
trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám năm, và được
đích thân Đức Mẹ dạy dỗ, một lần có người hỏi cô về số phận của những người
theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: "Có lần Đức Mẹ cho biết có
một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các thị nhân
hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi giáo. Nghe câu trả lời
ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời: "Chỉ
mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy." Sau đó Đức Mẹ
giải thích: "Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia
rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi giáo và Chính thống giáo cũng một thể như người
Công giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là
con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người
đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công giáo
là đủ để được cứu rỗi... Những người không Công giáo không phải là những thọ
tạo kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định
phần chung là cuộc sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống
hiến cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con mẹ đã cứu chuộc toàn thể
nhân loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị
kết án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.
12. Khước từ vì ghen
tương – R. Gutzwiller.
Theo sau Lời Chúa
Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm
tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều
tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi
họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh
này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
Nếu truy tầm lý do
tại sao có sự thay đổi này, ta sẽ thấy phần nào cách suy tư, lời nói và con
người Đức Giêsu làm cho dân chúng Nagiarét bị chưng hửng đối với ý tưởng họ sẵn
có về Đức Messia và sứ mạng của Ngài. Con người của Ngài không am hợp với những
gì họ tưởng tượng. Ngài cũng giống như bất cứ ai trong họ; chẳng có gì tỏ ra là
người thiên thai cả. Ở đây Ngài cũng chẳng thực hiện phép lạ nào trước mặt họ.
Rồi sứ điệp của Ngài cũng chẳng nói lên những điều họ đang thực sự ước ao: bởi
lẽ Ngài không loan báo cho họ một cuộc sống thế trần tiện nghi thoải mái, cũng
không loan báo một nước Israel hùng cường vĩ đại. Chắc chắn họ mong chờ nơi
Chúa Giêsu những gì Ngài đã từ khước khi bị cám dỗ trong sa mạc: bánh, sự lạ và
quyền thế. Thế nhưng Ngài lại mang đến Lời Chúa, mang đến một nước Thiên Chúa
tuy đơn sơ nhưng thật là vĩ đại. Các tiến sĩ luật mớm những chuyện đó cho dân
chúng và làm thay đổi bầu không khí.
Hơn nữa, Ngài đã
thực hiện những phép lạ ở chỗ khác, trước hết là ở là ở Caphanaum chứ không làm
ở Nagiarét nơi họ cư ngụ; điều đó đụng chạm đến lòng ái quốc quá khích của họ
khiến họ nói: 'Thày lang ơi! Hãy chữa lấy mình. Mọi điều chúng tôi đã nghe xảy
ra ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở nơi quê hương ông đây nữa đi!' Chúa Giêsu trả
lời: 'Không có tiên tri nào được sùng mộ ở quê hương mình', Ngài không chút
nhượng bộ lòng ái quốc sai lầm của họ. Ngài không theo họ hướng dẫn, chính họ
mới phải theo sự chỉ đạo của Ngài.
Ngài đi xa hơn nữa
và cho họ thấy rằng việc họ được thuộc về dân Thiên Chúa tuyển chọn không hẳn
là bảo đảm được cứu độ, chỉ có những tâm hồn biết chuẩn bị mới nhận được chứ
không phải là những liên hệ máu mủ.
Xưa tiên tri Êlia
đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp một người ngoại bang: vì bà
goá Sarepta thuộc xứ Siđon này đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương
lại không hiểu ông. Rồi Naaman, người Syria cũng thế, ông đến với tiên tri
Êlisêô và được chữa lành, còn những người đồng quê với tiên tri lại luôn cản
mũi kỳ đà. Vậy hai người của Thiên Chúa đó đã đủ để cho thấy rằng cứ là người
Israel mà thôi không đủ; người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn cứu độ bằng một con
tim ngay thẳng và một tinh thần chân thành.
Dân cư Nagiarét đã
hiểu được lời đe doạ. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy rằng Ngài
không theo cùng một lối suy tưởng như họ, không cùng hy vọng như họ và họ cần
thay đổi não trạng. Nhưng họ lại không chịu, thế nên mới có sự thù địch giữa
Ngài với họ.
Nhiệt tình ban đầu
dựa trên tình cảm bỗng dưng đổi thành ghen ghét. Họ biết rõ Chúa đòi hỏi phải
hoán cải, nhưng họ lại không muốn quay lại. Như thế là họ đã xua đuổi Ngài và
ồn ào giận dữ, họ đuổi Ngài ra khỏi hội đường đến cuối làng để rồi xô Ngài từ
trên triền đá xuống. Nhưng Ngài đi qua giữa họ mà họ chẳng thể hại được Ngài.
Ngài ra đi để chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa.
Đối với chúng ta,
việc Ngài từ bỏ ngôi làng nơi Ngài lớn lên là một sơ thảo về những biến cố sẽ
xảy ra trong tương lai: bị dân riêng khai trừ, từ nay Ngài đi về phía các dân
ngoại.
Sự thay đổi bất
ưng và thiếu suy nghĩ, việc biến thương yêu ra hận thù, tán dương thành bài
xích ấy đáng cho ta suy nghĩ. Tự bản chất, Kitô giáo khơi dậy nơi những ai không
thành kiến một sự hấp dẫn tự phát, bởi vì Tin mừng trả lời cho những vấn nạn
thâm sâu nhất của con người và đáp lại nỗi thất vong thầm kín nhất của tâm hồn.
Nhưng rõ ràng con người lại tiếp nhận với tất cả định kiến. Họ xét đoán theo
mặt trái, nông cạn, dựa trên những thiên kiến đã được hấp thụ qua nền giáo dục.
Họ quan niệm ơn cứu chuộc, trợ giúp theo cách thế của họ, kẻ theo chiều hướng
coi trọng vật chất, ngưới lại theo xu hướng chính trị hay xã hội. Họ không có ý
nghe để hấp thụ mà để biện minh cho những gì họ tưởng nghĩ hay mong ước. Họ lấy
phán đoán cá nhân họ để đo lường Lời Chúa.
Nếu Lời Chúa không
am hợp với những tư tưởng và ước muốn của họ thì họ liền kết án và khu trừ. Họ
không muốn để mình được điều gì khác cân đo, nhưng muốn mình là khuôn là thước
cho chính mình; họ không muốn cái gì khác thẩm định họ, nhưng muốn tự phán xét
chính bản thân mình.
Bối cảnh đã xảy ra
ở Nagiarét vẫn không ngừng tiếp diễn. Trong lần xuất hiện đầu tiên này, Chúa
Giêsu khuyên bảo và cảnh giác. Mặc kệ tất cả, Ngài cứ bước đi giữa họ, đến với
người khác, điều đó có nghĩa là sự bài xích chẳng thể làm gì được Ngài, nhưng
sẽ trở lại chính họ. Chúa Giêsu sẽ đi xa, chính khi con người không muốn tiếp
nhận Ngài. Khi họ ghét Ngài, thì Ngài đem tình thương đi chỗ khác; khi họ có ý
giết Ngài thì Ngài vẫn không ngừng trao ban sự sống. Họ bị huỷ diệt, còn Ngài
vẫn tiến bước đi.
13. Suy niệm của
Đức cố Giám mục Nguyễn sơn Lâm.
PHẢN ỨNG CỦA HỘI
ĐƯỜNG THÀNH NAGIARÉT
Chúa nhật trước,
chúng ta thấy Đức Giêsu khởi sự đi giảng đạo, Người đã vào hội đường Nagiarét,
xưng mình là vị tiên tri Thiên Chúa hứa sẽ gởi đến cho dân Người. Hơn nữa, khi
áp dụng lời sách Isaia về người Tôi tớ Thiên Chúa vào cho mình, Đức Giêsu đã
khẳng định Người là Cứu thế đến công bố năm hồng ân của Thiên Chúa tức là khai
mạc thời đại cứu độ mọi người. Hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy phản ứng
của người đồng hương với Đức Giêsu trước những lời xác quyết của Người.
Đó là thái độ cố
hữu của người Do Thái, như Giêrêmia đã kinh nghiệm. Đó cũng có thể là cách trả
lời của chúng ta đối với mọi mạc khải của Thiên Chúa nơi các ngôn sứ của Người,
nếu chúng ta không nghe lời thánh Phaolô mà đặt đức ái lên trên hết. Vậy chúng
ta hãy suy nghĩ về cả ba bài Kinh Thánh hôm nay để hiểu mình và sửa mình cho
xứng đáng với ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta.
1. Thái độ cố hữu
của người Do thái
Không dân tộc nào
được Chúa yêu thương như cộng đồng con cái Israen. Không phải vì họ có những
đức tính trổi vượt hơn hết mọi dân tộc; nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã khấng chọn
họ làm dân riêng của Người. Họ có luật pháp là mạc khải khôn ngoan cao cả của
Thiên Chúa. Họ còn thường được các tiên tri đến dạy dỗ. Đó là những ngôn sứ
thay mặt Thiên Chúa đến soi sáng và hướng dẫn họ sống theo luật pháp, hầu được
đẹp lòng Chúa và hưởng các ân huệ Người ban.
Nhưng Do Thái lại
là dân cứng đầu cứng cổ. Họ vứt bỏ đường lối của Thiên Chúa để đi theo lòng dục
của mình. Vị tiên tri nào Chúa gửi tới cũng gặp nhiều chống đối và khó khăn.
Một phần nữa cũng vì có quá nhiều những tay bịp bợm, lạm dụng sự mê tín của quần
chúng tự xưng là sứ giả của Thiên Chúa. Nên bên cạnh một số ít tiên tri thật,
có nhan nhản những tiên tri giả và những kẻ "muốn làm nghề tiên tri".
Vì sự hiện diện và hoạt động của những kẻ này, các ngôn sứ của Chúa phải tăng
thêm nỗ lực để khẳng định Lời Chúa và ơn gọi của mình. Và thường khi các ngài
phải "chết để nói lên lời". Giêrêmia là một trong những vị đại tiên
tri. Ông là một trong 4 đại tiên tri còn để lại văn phẩm. Không vị tiên tri nào
đã gặp nhiều đau khổ vì ơn gọi như ông.
Thế nên, xét về
phương diện đau khổ, ông là vị tiên tri gần với Đức Giêsu Kitô hơn hết. và
Phụng Vụ hôm nay đã theo truyền thống coi ông là hình ảnh báo trước về nhà tiên
tri thành Nagiarét có định mệnh "phải chịu đau khổ". Chúng ta đọc lại
những chương 36-45 trong sách Giêrêmia để xem nhà tiên tri này đã khổ sở thế
nào. Người ta chống đối, muốn bịt miệng ông, bắt ông phải vào tù ra khám, và có
lần đã muốn chấm dứt đời ông rồi. Nhưng trong mọi trường hợp, Giêrêmia vẫn
cương quyết công bố Lời Chúa và khẳng định ơn gọi thiêng liêng của mình.
Bài đọc hôm nay
không cố ý mô tả cuộc đời thơ ấu của Giêrêmia đâu. Nhưng đây là cái nhìn của
một người rất đứng tuổi và chín chắn nghĩ lại ơn gọi của mình, để làm chứng cho
mọi người thấy thiên mệnh đã đè xuống trên ông.
Đồng bào của
Giêrêmia, tức là cộng đồng con cái Israen vẫn tin rằng Thiên Chúa là nguồn gốc
mọi sự và con người cũng do tay Người nặn lên. Nhưng điều ít ai để ý, là trước
khi Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật hữu hình này, Người đã có một kế
hoạch rất rõ ràng. Ơn gọi của các tiên tri nằm trong kế hoạch ấy.
Thế nên
"trước khi Ta nắn ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt
dạ mẹ, Ta đã tác thánh ngươi. Ta đã đặt ngươì làm tiên tri cho các dân
tộc". Và để chứng minh điều này, Giêrêmia nói thêm rằng: khi được gọi, ông
chưa biết nói, nhưng Chúa bảo chính Người sẽ ban Lời cho ông để ông chỉ có việc
nói những lời của Người mà thôi.
Đó là những lời
thành thật. Chúng ta không có gì phải nói thêm. Chúng ta chỉ để ý đến lời
Giêrêmia khẳng định mình đã được đặt làm tiên tri cho "các dân tộc".
Ý ông muốn nói sấm ngôn của Chúa, mạc khải của Người, không dành riêng gì cho
dân Do Thái, nhưng cho mọi dân nước và thời đại. Tính cách phổ cập này thêm
vinh dự cho ơn gọi tiên tri tự nó đã cao quý vì phát xuất từ Thiên Chúa. Tuy
nhiên ơn gọi này lại rất bi đát. Những lời sau của Giêrêmia tóm tắt định mệnh
của ông.
Ông phải "nai
lưng", tức là phải lấy thế để chiến đấu, vì người ta sẽ tuyên chiến với
ông. Họ cưỡng lại mọi lời ông nói, vì lời của ông diễn tả ý Chúa chứ không
chiều theo dục vọng của loài người.
Đó là tiêu chuẩn
để phân biệt các tiên tri giả và các tiên tri thật. Những người này dù bị chống
đối và đau khổ vẫn như thành trì, trụ sắt và tường đồng, cự lại các vua và
khanh tướng. Không phải vì họ có can đảm phi thường, nhưng chỉ vì Chúa đã giữ
lời hứa với các tiên tri của Người "Ta sẽ ở với ngươi khiến chúng không
làm gì được ngươi".
Thật ra không phải
vị tiên tri nào cũng thoát khỏi bàn tay sát nhân của loài người độc dữ đến nỗi
sau này có lần Đức Giêsu phải kêu lên "Giêrusalem, Giêrusalem, kẻ giết hại
các tiên tri" (Mt 23,37). Và có như thế, các tiên tri mới là những người
báo trước vị tiên tri sẽ phải đến trong thời kỳ sau hết, Người cũng sẽ bị giết,
nhưng sự sống lại của Người sẽ làm chỗi dậy mọi bậc tiên tri đến trước hầu cho
thấy "thủ lãnh thế gian bị luận phạt".
Hôm nay bài Tin
Mừng Luca cho chúng ta thấy vị tiên tri này. Không những Người đã gợi lại mà
còn thực hiện bài sách Giêrêmia. Chúng ta hãy quan sát Người theo lời thuật của
Luca.
2. Phản ứng của
hội đường thành Nagiarét
Đức Giêsu bấy giờ
vừa giảng xong. Người ta thán phục Người. Họ cảm thấy như có một nguồn ân sủng
thoát ra từ môi miệng của Người. Nhưng Người không là con nhà ông Giuse sao?
Suy nghĩ này làm chứng họ không muốn khiêm nhường đón nhận sứ điệp cứu độ đến
với họ qua một con người bình thường ở giữa họ. Đức Giêsu chua chát nghĩ đến
câu: "Không tiên tri nào được tôn trọng ở quê nhà".
Và từ đó, Luca
nghĩ rằng Đức Giêsu đã nhìn xa hơn nữa, không những Người thấy những kẻ đồng
hương với Người ở Nagiarét không muốn chấp nhận Người; nhưng qua họ, Người còn
thấy rõ cả dân tộc Do Thái nữa cũng sẽ không đón nhận. Họ cậy mình đã có luật
pháp và không muốn bị xáo trọn bởi một luồng gió mới nào nếu người khởi xướng
không làm được những dấu lạ điềm thiêng như Môsê ngày trước. Nghĩa là họ chỉ
muốn mãi mãi là những người xác thịt, coi trọng những cái bề ngoài và không bao
giờ muốn trở nên trưởng thành, biết ý thức về ý nghĩa của luật pháp như các
tiên tri thường hướng dẫn. Tín ngưỡng của họ trở thành thứ tôn giáo của chữ
viết, và của hình thức, chứ không muốn là sự sống tinh thần như Thiên Chúa kêu
gọi. Do đó, họ rất ít nghe lời các tiên tri. Hơn nữa, họ còn bỏ rơi các ngài.
Thường khi họ còn giết chết các ngài nữa. Mà các ngài đâu có thiếu gì các quyền
năng? Êlya không có quyền đóng góp cửa trời và làm mưa sao? Thế mà có ai trong
dân Do Thái được nhờ ông? Trái lại một góa phụ ở Sarepta thuộc dân ngoại đã
được ông cứu đói. Êlisê cũng vậy. Ông là tiên tri rất mạnh thế.
Tuy nhiên cũng
chẳng ai trong dân Do Thái được cho lành bệnh, đang khi Naaman, một bậc khanh
tướng ngoại đạo đã được ông chữa khỏi bệnh cùi. Luca trích dẫn những câu chuyện
này để phục vụ ý kiến của ông khi viết cuốn Tin Mừng thứ ba. Ông có ý diễn tả
rằng dân Do Thái đã không biết đón nhận nhà tiên tri ở giữa họ là Đức Giêsu
thành Nagiarét. Và vì vậy sự nghiệp ân sủng của Người đã được chuyển sang cho
dân ngoại là Hội Thánh hiện nay.
Luca đã không muốn
lợi dụng câu chuyện đã xảy ra trong Hội đường Nagiarét để tổng quát hóa công
cuộc cứu thế của Đức Giêsu Kitô và để báo trước đau khổ vinh quang đang chờ đợi
Người. Người đã đến giữa dân Người, rao truyền tin mừng cứu độ, nhưng thân nhân
của Người và dân Người đã không đón nhận, nên ơn cứu độ của Người mang đến đã
chuyển sang dân ngoại là Hội Thánh chúng ta ngày nay.
Lời khẳng định
này, làm sao người Do Thái có thể chịu đựng được? Họ đã nhất tề đứng lên, hung
hăng lôi Đức Giêsu ra khỏi thành, đưa Người lên một sườn đồi và định tâm đẩy
Người xuống cho chết đi. Nhưng Người đã nhẹ nhàng đi qua mặt họ để tiếp tục
cuộc hành trình.
Bằng những lời đơn
sơ này, Luca muốn báo trước cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Người sẽ bị người Do
Thái kéo ra khỏi thành và đóng đinh trên sườn đồi... Nhưng Người sẽ nhẹ nhàng
linh diệu thoát khỏi nơi họ đẩy Người tới để sống lại vinh quang, tiếp tục công
việc cứu thế của Người.
Như vậy, có thể
nói, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ đơn sơ thuật lại những gì xảy ra trong hội
đường ở Nagiarét. Hoặc Luca đã dùng câu chuyện này để vẽ ra trước tất cả định
mệnh của vị tiên tri đến rao giảng ơn cứu độ cho dân Người. Người cũng bị đối
xử không hơn gì các tiên tri đi trước. Như bài sách Giêrêmia đã nói. Nhưng cũng
như tiên tri này đã loan báo, Người thật là sứ giả của Thiên Chúa gửi đến báo
cho các dân tộc. Hoặc đúng hơn, Luca đã dùng những biến cố trong cuộc đời của
Đức Giêsu Kitô, và đặc biệt những sự kiện tử nạn và phục sinh của Người, làm
đèn chiếu sáng lên câu chuyện xảy ra tại hội đường ở Nagiarét và thuật lại sự
kiện theo ánh sáng mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô.
Dù sao, bài Tin
Mừng hôm nay không những cho chúng ta thấy cuộc đời vất vả của Chúa Cứu Thế,
nhưng còn muốn gợi lên phản ứng tự nhiên của loài người xác thịt đối với tin
mừng cứu độ và hạnh phúc đang dành cho lương dân đón nhận tin mừng.
Chúng ta dĩ nhiên
không muốn cư xử như người Do Thái. Nhưng để được như vậy, phải làm gì? Xin vị
tông đồ các dân ngoại soi sáng giúp đỡ chúng ta.
3. Con đường chúng
ta phải đi
Thánh Phaolô gởi
thư cho giáo dân Côrintô. Ở đây người ta đang háo hức được các ơn lạ để phục vụ
Chúa, họ thèm ơn nói tiếng lạ, ơn tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn xưng đạo mạnh mẽ
hơn. Nhưng thánh tông đồ thấy có nhiều khuynh hướng chuộng hào nhoáng trong
những sự háo hức này. Đó không phải là con đường nên đi vào. Nó sẽ biến những
tín hữu trở thành những con người xác thịt như dân Do Thái ngày trước.
Và thánh nhân đã chỉ
cho mọi người thấy con đường phải đi vào. Đó là bác ái. Thiếu bác ái mọi đặc
sủng kia sẽ rỗng tuyếch. Vì người ta muốn phục vụ ư? Ao ước làm được những sự
ngoạn mục, thật là vô ích. Đức Giêsu đến phục vụ không làm như vậy. Người đã
yêu thương chúng ta và yêu thương cho đến chết. Thế nên đối với thánh Phaolô, ở
đây, con đường bác ái yêu thương rất cụ thể.
Nó có hai hạng
người làm đối tượng: kiên nhẫn với kẻ thiếu nhân đức và giúp đỡ những kẻ thiếu
thốn. Đối với cả hai hạng người, kẻ bác ái phải có những thái độ chứng tỏ lòng
kiên nhẫn và bộc lộ lòng quảng đại. Tiêu cực, họ không được nóng nảy, bực tức,
hoặc chán nản, tuyệt vọng; còn tích cực, họ phải duy trì niềm vui, tin tưởng và
kiên trì. Được như vậy, đức bác ái sẽ toàn thắng sự dữ và giúp đỡ được hiệu
năng.
Thế nên, so sánh
với những đặc sủng mà người ta ao ước như các ơn nói tiếng lạ, ơn nói tiên tri,
ơn chữa bệnh, ơn giảng đạo, đức bác ái rõ ràng trổi vượt. Tất cả các ơn kia có
ngày sẽ hết. Chúng chỉ cần cho đời tạm này. Nhưng lòng bác ái sẽ tồn tại mãi
mãi đi theo ta sang cả thế giới bên kia. Mà sánh với hai nhân đức khác là đức
tin và đức cậy, nhân đức bác ái vẫn trổi hơn. Cả ba nhân đức này đều cần thiết
cho đời sống đạo và cho mọi nhân đức khác. Cả ba cũng theo ta sang cả đời sau,
theo nghĩa đức tin là trạng thái cởi mở tâm hồn nhận biết Chúa thì đời sau vẫn
cần; và đức cậy cũng sẽ cần vì là trạng thái của linh hồn muốn được Chúa yêu
thương. Nhưng đức mến sẽ tồn tại và cao quý hơn hết vì nó làm cho chúng ta kết
hợp với Thiên Chúa là bản chất của đời sóng hạnh phúc sau này ở trên trời.
Thế nên chúng ta
hãy đi vào con đường bác ái. Trươc đây, người Do Thái không đi con đường ấy
nhưng bước theo hướng xác thịt hời hợt bề ngoài vì họ như là trẻ con đối với
thời đại Thánh Thần yêu mến đã được đổ xuống trong Hội Thánh. Ngày nay được
phúc ở trong thời đại sung mãn, chúng ta phải đi vào con đường trưởng thành là
bác ái.
Và giờ đây hơn bao
giờ hết khi cử hành thánh lễ, chúng ta được đưa vào con đường bác ái. Không
những chúng ta được thấy Đức Giêsu đến rao giảng tin mừng cứu độ như là vị tiên
tri cao trọng hơn mọi tiên tri. Người còn thể hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh
để hoàn thành sứ mệnh tiên tri của Người một cách siêu việt hẳn hơn Giêrêmia
ngày trước... Và hơn cả hôm Người ở trong hội đường ở Nagiarét.
Mầu nhiệm bàn thờ
đây còn tuôn đổ Thánh Thần yêu mến cho những ai thành khẩn tham dự. Nhưng cử
hành thánh lễ sốt sắng bao nhiêu, họ phải sống bác ái chân thật và cụ thể bấy
nhiêu để lấy kiên nhẫn lướt thắng sự tội và lấy phục vụ xóa bỏ nghèo khó. Phấn
đấu hết mình cả về phương diện tinh thần cả về phương diện vật chất là nhiệm vụ
của những ai đi trong con đường bác ái. Ai đã dự lễ mà có thể từ chối đi vào
con đường ấy?
14. Cánh cửa khép
kín
Ngày xưa, có một
ông hà tiện và keo kiệt. Ông ta có một cái thú là đếm tiền. Vì thế, ông ta đã
xây một căn phòng bí mật, thật kiên cố, thật vững chắc để cất dấu tất cả tiền
bạc của mình ở đó, và đêm đêm ông lẻn xuống căn phòng bí mật ấy, để hưởng cái
thú đếm tiền.
Thế nhưng, một đêm
kia, ông bước vào căn phòng bí mật ấy, nhưng lại để quên chiếc chìa khóa ở bên
ngoài. Cánh cửa sập lại, ông ta kêu gào thế nào cũng không một ai nghe thấy để
tiếp cứu. Và căn phòng bí mật ấy đã trở nên như một ngôi mộ chôn sống ông. Mãi
sau này người ta mới tìm thấy. Lúc bấy giờ thì ông ta chỉ còn là một thây ma
rữa thối.
Đọc lại Phúc âm,
chúng ta thấy dân Do Thái cũng có một thái độ khép kín như vậy. Họ nghĩ rằng
mình là con cháu Abraham, là dân tộc được Chúa lựa chọn, cho nên phải nắm giữ
địa vị ưu tiên số một, khiến mọi dân tộc khác phải hướng về họ.
Từ thái độ khép
kín này, họ trở nên tự mãn, kênh kiệu và không sẵn sàng đón nhận những lời
giảng dạy của Chúa. Ngay cả dân làng Nagiarét hôm nay cũng vậy, trước hai thí
dụ Chúa đưa ra để cảnh cáo họ: Bà góa tại Sarepta và tướng Naaman. Họ chẳng những
không nghe mà lại còn muốn xô Chúa xuống vực thẳm.
Ta bất bình trước
thái độ của họ, nhưng biết đâu, chính chúng ta lại cũng hành động như vậy. Niềm
tin của chúng ta như ngọn đèn sắp tắt, như một thân cây đã dập nát và tàn héo.
Bản thân chúng ta không chịu sống đức tin, không chịu thực thi những điều Chúa
truyền dạy, thế mà chúng ta vẫn tự mãn với chính mình. Chúng ta chớ cho rằng
mình đạo gốc, đạo dòng và không chịu mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn Chúa, để
rồi cũng như dân Do Thái, chúng ta đánh mất Chúa, chúng ta xua đuổi Chúa và
chúng ta nhẫn tâm giết chết Chúa.
Chúng ta đóng kín
trong những nghi thức và lấy làm tự mãn với những nghi thức ấy. Chúng ta chết
lúc nào cũng không hay biết, bởi vì sống là không ngừng luân lưu, không ngừng
trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Tin không phải chỉ
là chấp nhận một số những nghi thức, những lề luật, những giáo điều, nhưng là
chấp nhận Đức Kitô Đấng đã chết vì yêu thương chúng ta. Từ việc chấp nhận và
sống gắn bó với Đức Kitô, chúng ta sẽ đi đến việc cảm thông và giúp đỡ những
anh em chúng ta, bởi vì, Đức Kitô đang hiện diện nơi họ, nhất là những kẻ đau
khổ và nghèo túng, nhưng liệu chúng ta có nhận ra Ngài và nhất là có đón nhận
Ngài hay không?
15. Loại trừ Chúa
Giêsu chăng?
Đây là một trang
dễ sợ. Trang này bắt đầu bằng một phản ứng đúng ra là đầy cảm tình: "họ
thán phục các lời về ân sủng xuất bởi miệng Ngài". Nhưng kết thúc bằng sự
bạo động: "mọi người trong hội đường đầy lòng tức tối; đứng dậy họ đuổi
Ngài ra ngoài thành".
Loại trừ Chúa
Giêsu! Loại bỏ Đấng là những cánh tay của Thiên Chúa rộng mở để tiếp đón tất cả
mọi người. Thật là dễ sợ! Điều này không thể xảy đến với chúng ta.
Chúng ta hãy hy
vọng điều đó, nhưng Tin Mừng cần phải luôn báo động cho chúng ta. Tại sao những
người Nagiarét đi từ khâm phục đến căm ghét?
Chúa Giêsu đã phải
cảm thấy những thái độ ngập ngừng mạnh hơn trong bài Tin Mừng này và Ngài không
ngần ngại rút ra những hệ quả từ đó: những ơn cứu độ mà ta vừa mang lại cho các
ngươi, những người khác sẽ nhận lãnh, như xưa kia bà goá người Phênixi và người
cùi Syri là những người được nhậm lời chứ không phải người Do thái.
Việc mở rộng cho
dân ngoại xúc phạm đến người Do thái. Họ không còn có thể tin vào người này
nữa. Trong suốt các thế kỷ, người ta sẽ loại trừ Chúa Giêsu vì những lý do khác
nữa nhưng nền tảng của tất cả những sự loại trừ này sẽ có chính sự từ chối cơ
bản được gợi ra đây do sự bối rối của thính giả: "Không phải ông ấy là con
bác Giuse sao?"; đây chỉ là con trai của Giuse mà thôi. Những người nghĩ
rằng Chúa Giêsu chỉ là một con người mà thôi, mặc dầu họ khâm phục Ngài nhiều,
họ vẫn không thể gán cho Ngài trong tư tưởng và trong cuộc sống của họ vị trí
to lớn mà Ngài đòi hỏi. Họ chấp nhận con người, họ loại trừ Con Thiên Chúa.
Lại một lần nữa
đây không phải là trường hợp của chúng ta hay sao? Không, nhưng chúng ta phải
coi chừng một số loại trừ âm ỉ hơn thế nữa. Trước tiên có một cách để sát nhập
Chúa Giêsu vào các ý nghĩ của chúng ta hoặc vào môi trường của chúng ta, mà môi
trường này tương đương với việc từ chối tinh thần của Ngài và do đó từ chối
chính Ngài. Chúng ta hãy xác minh chẳng hạn như những ngập ngừng của chúng ta
và có thể là những giận dữ của chúng ta trước những cởi mở của Giáo Hội, của
Giám mục này, của linh mục nọ. "Tốt hơn hết là chăm sóc các Kitô hữu tốt".
Mỗi lần chúng ta hạn hẹp món quà cứu độ là chúng ta loại trừ Chúa Giêsu.
Tôi cũng gặp những
tín hữu sẵn sàng chấp nhận Chúa Giêsu mà không suy xét tỉ mỉ, bao lâu cuộc sống
của họ yên ả. Nhưng một biến cố nào đó đã đặt họ trước một sự bó buộc của Tin
Mừng là điều đối với họ dường như không thể chấp nhận được đến độ họ thốt lên
sự từ chối: "Ngài không thể yêu cầu tôi làm điều này!". Họ loại bỏ
Chúa Giêsu 'ra ngoài thành', ra ngoài cuộc sống của họ. Không có gì ngao ngán
cho bằng thấy biết bao niềm tin và thậm chí một cuộc đời trung thành lâu dài
chuyển đổi thành sự không biết, sự bỏ rơi, sự căm ghét. Tôi nghĩ rằng phải rất
thận trọng trong việc chọn lựa trong Tin Mừng điều hợp và điều không hợp với
chúng ta: chúng ta có nguy cơ chuẩn bị trong một góc nào đó của con tim chúng
ta sự loại trừ Chúa Giêsu.
"Ngài đã
ngang qua giữa họ mà đi". Chúa Giêsu đi qua với những lời mời gọi và những
dâng hiến của Ngài. Nói chung, nói vâng với Ngài là điều rất dễ. Tin Mừng không
phải được viết ra cho những người xuất chúng, mà là cho những người bé mọn. Dầu
sao nếu điều này trở nên khó hơn, chúng ta đừng buông Đấng duy nhất "có
lời ban sự sống đời đời". Ngài đi con đường của Ngài, hướng về những người
khác có niềm tin và lòng can đảm hơn.
16. Kiên vững và
dịu hiền – Thiên Phúc.
(Trích trong 'Như
Thầy Đã Yêu')
Thôi Trữ là quyền
thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề
thốt. Ai nấy đều sợ hãi răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không,
nhất quyết không chịu thề. Thôi Trữ bảo: Nếu ngươi nghe ta, khi lấy được nước,
ta sẽ cho một nửa. Bằng không, ta giết ngay lập tức. Án Tử vẫn không biến sắc
ung dung nói: lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội vua là bất nhân; lấy
binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta
đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu. Thôi Trữ nghe nói vậy, không
dám làm gì. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.
Thôi Trữ quyền
hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế
mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.
Bài Tin mừng hôm
nay kể lại: "Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy lòng tức tối; đứng
dậy họ đuổi Ngài ra ngoài thành, và điệu Ngài lên tận triền núi nơi thành họ đã
được xây cất, có ý xô Ngài xuống. Nhưng Ngài đã ngang qua giữa họ mà đi"
(Lc 4,28-30). Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu vì họ
không thể tin rằng "Thần khí Chúa" lại ngự xuống trên con ông Giuse
thợ mộc. Họ cảm thấy nghi ngờ vì không thể chấp nhận một con người nghèo khổ
làng Nagiarét lại là tiên tri, lại là Đấng Thiên sai. Họ càng căm phẫn khi con
người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy
sinh, họ muốn tiêu diệt Ngài cho khuất mắt. Đúng như lời Ngài đã nói:
"Không một tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình". Thế mới
ứng nghiệm lời ông già Simêon: Trẻ này là dấy hiệu bị người đời chống báng. Lời
tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.
Nếu dân làng
Nagiarét ép Ngài làm phép lạ để minh chứng Ngài là tiên tri, thì các đầu mục Do
Thái cũng đòi Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống. Nếu dân làng
Nagiarét tố cáo Ngài là lộng ngôn phạm thượng thì bọn pharisêu cũng kết tội
Ngài dựa vào thế gía của quỉ vương. Nếu dân làng Nagiarét cố tìm cách giết
Ngài, thì dân thành Giêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Ngài vào thập giá. Mỗi
người Kitô hữu đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ
thị và bị bỏ rơi, vì "nếu thế gian đã ghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng
họ đã ghét Thầy trước". Thế nhưng ít có ai cảm nghiệm được tâm trạng của Chúa
Giêsu vào những lúc như thế này: Ngài có căn thù những kẻ ruồng rẫy Ngài không?
Ngài có đầu hàng trước nghịch cảnh không? Nói như Martin Luther King: Tôi vui
mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và có con
tim dịu hiền.
Vâng, nếu Thiên
Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Ngài sẽ là một Thiên Chúa xa cách,
lạnh lùng, ngự trị một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng
trầm. Nhưng nếu Ngài chỉ có con tim dịu hiền, thì Ngài sẽ là một Thiên Chúa ủy
mị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng. Đứng trước cảnh bị
ruồng rẫy hôm nay, con tim của Ngài không hề chai đá và tinh thần của Ngài
không chút bạc nhược. Ngài có đủ tinh thần kiên vững để vượt trên thế giới và
có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.
Bài học chúng ta
cần rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay, đó là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể
băng qua giữa họ mà đi, nhưng Ngài cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng
ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Ngài, khi chúng ta muốn xô Ngài xuống vực thẳm, thì
chúng ta cần biết rằng chính lúc đó Ngài đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng
cho chúng ta một cơ hội để quay trở về. Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên
vững trong phán quyết công minh, nhưng Ngài cũng là Đấng có tình dịu hiện trong
tình thương và ân sủng.
Thiên Chúa ban ân
sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được
đặc ân.
Thiên Chúa ban ân
sủng cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải
để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.
Lạy Chúa, Tiên Tri
là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con. Xin cho chúng con luôn
can đảm nói điều Chúa muốn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống
đối, phẫn nộ.
Xin cho chúng con
luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cao cả nhưng cũng rất giàu lòng xót
thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan
hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen.
17. Con cái trong
nhà.
Đọc lại Kinh
thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa đã xác quyết: Tư tưởng và đường nẻo của Ta
không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao
nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của
các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, trong
cuộc sống chúng ta thường yêu thương những người thân cận và đặc biệt là con
cái trong nhà. Còn Thiên Chúa thì chưa hẳn đã là như vậy, bởi vì Ngài vừa là
Đấng giàu lòng thương xót, lại vừa là Đấng rất mực công bằng và ngay thẳng.
Qua đoạn Tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp để chứng minh sự thật trên.
Trường hợp thứ
nhất, đó là là khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng dưới thời tiên tri Elia
khiến cho các dân nước lâm vào cảnh đói kém. Lúc bấy giờ trong Israel không
thiếu gì những bà góa, thế nhưng Thiên Chúa không sai tiên tri Elia đến giúp
cho một bà góa nào cả, mà chỉ sai đến giúp cho bà góa tại Sarepta mà thôi.
Trường hợp thứ hai
đó là dưới thời tiên tri Elisê, trong dân Israel không thiếu gì những người
phong cùi, thế nhưng chẳng một ai trong bọn họ được tiên tri Elisê chữa lành,
mà chỉ có một mình tướng Naaman, người Syria mà thôi.
Từ đó, chúng ta có
thể kết luận: Không phải cứ là người Do Thái, không phải cứ là người thuộc về
dân riêng của Chúa thì sẽ được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Sự thật này còn được
chứng tỏ rất nhiều lần trong Phúc âm. Thực vậy, rất nhiều lần Chúa đã lên tiếng
khen ngợi lòng tin của những người ngoại giáo và Ngài còn xác quyết mạnh mẽ hơn
nữa khi nói: Những kẻ tội lỗi, thu thuế và gái điếm sẽ được vào Nước Trời, còn
con cái trong nhà thì sẽ bị đuổi ra ngoài.
Đoạn Tin mừng hôm
nay cũng cho thấy: Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào cho dân làng
Nagiarét, những người thân cận và đồng hương với Ngài, như đã từng làm ở những
nơi khác, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Vì thế, không phải
cứ là bà con họ hàng với Chúa mà dành được từ những ưu đãi này đến những ưu đãi
khác. Chính Chúa Giêsu có lần cũng đã nói: Thiên Chúa có thể biến những hòn đá
này trở nên con cháu Abraham.
Lần khác Ngài cũng
đã xác quyết: Mẹ Ta và anh em Ta chính là những người biết lắng nghe và tuân
giữ lời Thiên Chúa.
Với chúng ta cũng
vậy. Chúng ta vốn tự hào vì mình là người đạo dòng, đạo gốc. Chúng ta vốn hãnh
diện vì mình đã được lãnh nhận bí tích Rửa tội cũng như đã tin vào Chúa từ hồi
còn tấm bé. Và chúng ta yên trí rằng: chắc chắn mình sẽ được cứu rỗi.
Nếu quả thực đã
nghĩ như vậy, thì chúng ta đã lầm to. Có tên trong sổ sách của giáo xứ, có giấy
chứng nhận đã chịu phép Rửa tội mà thôi cũng chưa chắc là sẽ chiếm lấy được
phần thưởng Nước Trời, bởi vì trong ngày sau hết rất có thể con cái trong nhà
sẽ bị loại ra ngoài.
Bởi đó, cách thức
bảo đảm nhất để chiếm lấy niềm hạnh phúc vĩnh cửu, đó là hãy tuân giữ lời Chúa,
hãy thực thi những điều Ngài truyền dạy, nhất là giới luật yêu thương, như Ngài
đã từng nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các
con yêu thương nhau.
18. Sứ vụ.
Người xưa thường
nói: "Vạn sự khởi đầu nan". Điều này cũng đã xảy ra ngay khi Chúa
Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người tại hội đường Nagiarét, nơi
sinh trưởng của Người. Thành công vừa mới chớm nở, thì khó khăn, thử thách,
không mời đã chợt ập đến, không chịu uốn mình chiều theo những toan tính vị kỷ
của những người đồng hương, Chúa Giêsu đã bị chống đối khước từ, thậm chí họ
muốn thủ tiêu Người. Dẫu sao, Chúa vẫn dũng mạnh thi hành sứ vụ của Người bằng
một trái tim rộng mở, luôn đập những nhịp đập của yêu thương.
Thánh Luca đã ghi
lại trong Tin Mừng hôm nay. Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc và giải thích đoạn sách
của tiên tri Isaia, những người trong hội đường xì xầm với nhau: "Ông này
không phải là con ông Giuse đó sao?". Có lẽ, câu nói này không diễn tả một
thái độ nghi ngờ, trần tục hóa sự thiêng liêng cao cả của Đức Giêsu, bởi vì họ
vừa mới chăm chú lắng nghe và thán phục những lời thốt ra từ miệng Người. Đúng
hơn, câu nói đó như diễn tả một sự toan tính đầy ích kỷ, tư lợi của những người
đồng hương với Chúa. Họ mang một tâm tính vốn rất thường gặp ở đời: "Một
người làm quan cả họ được nhờ". Nếu người này là con ông Giuse, bây giờ
trở thành tiên tri và làm được các phép lạ, vậy tại sao chúng ta lại không lợi
dụng địa vị đó để mưu ích cho thôn xóm, bản làng của mình. Câu ngạn ngữ Chúa
Giêsu trưng dẫn để nói với họ: "Thầy lang ơi! Hãy chữa lấy mình" cho
thấy, họ muốn Chúa hãy làm cho họ hưởng các phép lạ trước rồi sau đó mới cho
người khác được hưởng. Họ muốn đưa ra một tối hậu thư bi đát ép Chúa phải phục
vụ họ trước. Vậy Chúa Giêsu đã xử trí thế nào trước thái độ hẹp hòi của họ.
Biết rõ đầu óc cục
bộ địa phương, còn nhiều ganh tỵ, mang đậm tính mầu cờ sắc áo Nazareth của
những người đồng hương như thế, Chúa Giêsu muốn từ chối ràng buộc ơn cứu độ của
Người trong mối liên hệ máu mủ thân quen nên Người đã nói rõ ý định của Người:
"Tôi bảo thật các ông, không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương
mình". Nghĩa là, vị tiên tri không có tình cảm ưu ái với những người đồng
hương hơn những người xa lạ. Chúa đã trưng dẫn hai vị tiên tri lớn trong Cựu
ước là Elia và Elisa đã có những hoạt động vượt ra ngoài ranh giới tôn giáo
cũng như lãnh thổ, để từ chối không ban cho những người Nazareth, mà cả dân tộc
Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu độ. Ý thức mình là dân riêng Chúa chọn, nên
người Do thái không thể tưởng tượng được một Đấng Cứu thế được Thiên Chúa sai
đến lại lưu tâm đến dân ngoại là người tội lỗi, hơn là ghé mắt chiếu cố đến họ.
Chính điều này đã khiến họ tức giận. Họ lôi Người ra khỏi thành và xô Người
xuống vực. Tuy nhiên, thánh Luca đã ghi lại: "Nhưng Người băng qua giữa họ
mà đi". Nghĩa là, Chúa vẫn bình tĩnh thi hành sứ vụ trước thái độ
"được ăn cả, ngã về không" hay "không ăn được thì đạp đổ"
của họ.
Thái độ hẹp hòi
của người Nazareth và phản ứng của Chúa Giêsu như thế có giúp chúng ta rút ra
bài học gì cho cuộc sống hôm nay không?
Trong cuộc sống,
người tín hữu nếu không tỉnh thức, không xét mình đấm ngực hằng ngày và không
thắp lên trong tim ngọn lửa truyền giáo sẽ dễ trượt theo "vết xe đổ"
của những người Do thái thời xưa.
Tự hào mình thuộc
dòng dõi đạo gốc lâu đời, được rửa tội, được hưởng nền giáo dục và đời sống ơn
thánh, dễ làm cho người Công giáo có cảm tưởng, Thiên Chúa thuộc về người Công
giáo và phục vụ cho người Công giáo. Và điều này dễ dẫn đến khuynh hướng đóng
khung giam hãm Thiên Chúa để độc quyền chiếm hữu Chúa Kitô và ơn cứu độ của
Người hơn là chia sẻ cho những anh em chưa được biết Chúa.
Có thể nói khuynh
hướng này là "Tội thứ nhất, tội của những người được soi sáng mà không
sáng tỏa ra. Họ biết ý nghĩa của cuộc sống, biết hướng đi, biết những điểm có
nước, những trạm có xăng dầu nhưng họ không chỉ dẫn cho ai". Thế nên, thay
vì là những rào cản, sẽ tốt hơn, đẹp hơn, ý nghĩa hơn nếu mỗi người trở nên
những nhịp cầu dẫn đưa người khác đến với Chúa. Đừng vô tình tự nguyện biến
mình thành một trở lực, nhưng hãy cố tình biến đổi thành một trợ lực cho tha
nhân.
Một nhà thần học
rất nổi tiếng người Đức là cha Karl Rahner có một ý tưởng rất đáng cho chúng ta
lưu ý. Ngài nói: "Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là những Kitô hữu
ngoại đạo; trong số những người Công giáo, không phải tất cả đều thực sự là con
cái của Nước Trời. Bao nhiêu kẻ xem ra ở bên ngoài thực sự lại ở trong, còn
những người bẩm sinh là công dân Nước Trời thì sẽ bị ném vào nơi tối tăm dầy
đặc".
Vì thế, sứ mạng
loan báo Tin Mừng đòi hỏi chúng ta phải cố gắng khám phá "những người
ngoại có tâm hồn Kitô hữu". Họ là những người ở gần Thiên Chúa mà không
hay biết. Họ bị bóng tối vị kỷ của chúng ta làm che mất ánh sáng. Tuy nhiên,
không thể có tâm hồn truyền giáo nếu không có đức ái. Không phải vô tình mà
thánh Phaolô đã dùng tới 10 lần chữ "đức ái" trong bài đọc 2 để nhấn
mạnh đức ái là nhân đức tuyệt đối cần và quí trọng nhất. Người loan báo Tin
Mừng cần phải có và cầu xin hơn cả, vì đây chính là con đường hoàn hảo.
Có lẽ là không quá
cường điệu khi nhà bác học Pascal nói rằng: "Tất cả mọi vật chất gộp chung
lại, cộng với tất cả mọi tinh thần gộp chung lại, cộng với tất cả mọi sản phẩm
của hai thứ đó gộp chung lại, cũng không có giá trị bằng một chút bác ái. Đó là
một trật tự khác hẳn, vô cùng cao cả hơn".
Ước chi "vết
đen" của những người Nazareth thời xưa không lập lại và trở thành
"phách mạnh" trong đời sống chúng ta, nhưng chớ gì tấm gương đời sống
của Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức và mở lòng mình ra trước sứ vụ truyền
giáo, dẫu có gặp khó khăn thử thách, thậm chí là chống đối bách hại, vẫn kiên
trì và dũng mạnh thi hành sứ vụ bằng một trái tim chan chứa tình yêu như Ngài,
trong Ngài và nhờ Ngài.
19. Thành kiến.
Với thành kiến sẵn
có đối với những người da đen,bà Anna cho họ là những kẻ lười biếng, trộm cắp,
nghiện ngập, độc ác và giết người không gớm tay. Bà luôn lưu ý những nơi mình
đi qua và mỗi lần thấy bóng dáng một người da đen là bà lánh sang nơi khác. Một
hôm bà vừa bước vào thang máy thì một bóng người da đen to lớn cùng bước vào
đóng ngay cửa lại làm bà không thể trở lui, bà chết điếng người và té xỉu. Tỉnh
dậy nơi nhà thương, bàrất lấy làm hổ thẹn khi biết được rằng chính người da đen
cùng đi trong thang máy với bà là một ca sĩ nổi tiếng tên là Vicky. Anh được
mọi người mộ mến và chính anh đã đỡ bà khi té xỉu và đưa đến nhà thương.
Thành kiến làm
chúng ta ra mù quáng không thể nhận diện được thực tại về những người chúng ta
gặp thường ngày một cách đúng sự thật. Những người làng Nagiarét thời Chúa
Giêsu cũng mắc phải khuyết điểm như bà Anna. Sau thời gian rao giảng tại
Capharnaum, Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiarét và rao giảng tại hội đường.
Dân chúng biết rõ nguồn gốc nhân trần của Ngài nên nói: Người này không phải là
con ông thợ mộc Giuse hay sao? Họ đã nghe biết những sự lạ Ngài thực hiện tại
Capharnaum, những sự lạ chứng minh nguồn gốc thần linh, Ngài là con Thiên Chúa
được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu rỗi con người. Bởi vậy, những thành
kiến không cho phép những họ nhìn xa hơn. Họ bị giới hạn trong cảm nghĩ trần
tục của họ, muốn Ngài thực hiện những sự lạ để hưởng lợi. Họ không thể vượt qua
khía cạnh trần tục, khía cạnh vật chất ích kỷ để có lòng tin vào Chúa. Vì thế
họ đã bị Chúa nhắc khéo nhớ lại chuyện xưa đã xảy ra trong cuộc đời của tiên
tri Elia và Elisêô, đó là trường hợp của bà góa tại Sarepta và tướng Naaman
người Syria. Lời nhắc khéo của Chúa làm cho họ bực tức và chống đối. Họ đem
Ngài lên nơi cao để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết. Quả thật, thành kiến đã
làm cho họ mù quáng và dẫn đến những hành động điên rồ như vậy.
Nhưng thử hỏi
chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta tin thờ Đức Kitô nào đây? Một Đức Kitô chỉ
àm phép lạ để thỏa mãn những nhu cầu ích kỷ của riêng mình? Hay một Đức Kitô
Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta và mời gọi chúng ta bước theo Ngài? Làm
thế nào để chứng thực trong đời sống là chúng ta đã tin vào một vị Thiên Chúa
làm người để cứu rỗi chúng ta? Không có cách nào khác ngoài con đường bác ái
yêu thương trong cuộc sống thường ngày.
Xin Chúa giải
thoát chúng ta khỏi những thành kiến ngăn cản chúng ta nhìn thấy Chúa đến với
dung mạo con người nơi những người anh chị em, nơi những biến cố của cuộc sống.
Vì thành kiến, chúng ta đã không nhận ra điều tốt nơi những người anh chị em và
vì không nhận ra những điều tốt ấy, thì làm sao chúng ta có thể nhận ra Chúa
thực sự hiện diện nơi họ được.
20. Suy niệm của
JKN.
Có bao giờ chính
người Kitô hữu chối bỏ Đức Kitô không?
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức
Giêsu lại bị từ chối tại chính làng của mình? tại chính đất nước Do Thái? còn
dân ngoại thì lại đón nhận Ngài để cuối cùng trở nên Dân Ngài? Liệu lịch sử có
thể tái diễn tương tự như thế đối với Kitô giáo không?
2. Đức Giêsu có
muốn dành ưu tiên cho quê hương hay dân tộc mình không? Ngài có thành công
trong việc dành ưu tiên ấy cho quê hương hay dân tộc mình không? Tại sao?
3. Điều đã xảy ra
với Do Thái có thể xảy ra tương tự với Kitô giáo không? Chúng ta phải làm gì để
tránh vết xe đã đổ?
CHIA SẺ
1. Các ngôn sứ
thường bị từ chối tại chính quê hương mình
Đoạn Tin Mừng hôm
nay và những đoạn khác tương tự trong các sách Tin Mừng khác cho thấy: những
người cùng quê cùng làng với Đức Giêsu có vẻ coi thường Ngài và không tin ở
Ngài cho lắm. Vì đối với họ, Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo
hèn, và của một phụ nữ không danh giá gì trong làng. Nếu chúng ta ở vào địa vị
của dân chúng làng Nagiarét, chưa chắc chúng ta đã suy nghĩ và đánh giá về Ngài
khác hơn họ. Và nếu có một ngôn sứ nào xuất hiện ở thời đại này, tại thành phố
hay tỉnh ta đang sống, chưa chắc ta đã nhận ra và đánh giá vị ấy một cách đúng
đắn.
Thông thường,
người ta thường đánh giá một người tùy theo những gì thấy được ở bên ngoài, chứ
không thấy được giá trị thâm sâu ở bên trong. Và càng là người thân quen với vị
ngôn sứ, thì càng khó đánh giá đúng đắn vị ngôn sứ ấy, vì các ngôn sứ thường
mặc lấy những dáng vẻ bên ngoài rất bình thường, và cũng thường có quan niệm
rất khác với người đương thời. Chính vì thế, các ngôn sứ ít được người đồng
thời và đồng hương biết được giá trị con người mình, thậm chí còn bị coi
thường, khi rẻ, kết án. Vì thế, Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật các ông: không một
ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình».
2. Các ngôn sứ có
muốn ưu đãi quê hương mình cũng không được
Vì thường bị người
đồng thời, đồng hương hay đồng đạo coi thường và không tin, nên các ngôn sứ
thường không thể hoạt động hữu hiệu hay có kết quả tốt đẹp tại quê hương hay
thời đại mình. Chẳng hạn Đức Giêsu không thể làm được nhiều phép lạ tại
Nagiarét, vì họ cứng lòng tin (x. Mt 13,58); đồng bào và đồng đạo của Ngài
chẳng những không tin Ngài mà còn tìm cách giết Ngài nữa. Thái độ của những
người đồng hương, đồng đạo hoặc đồng thời với Ngài như thế, khiến họ không được
lợi lộc gì vì được làm người đồng hương, đồng đạo hay đồng thời với vị ngôn sứ
cả.
Đức Giêsu đã kể ra
những trường hợp cụ thể minh chứng điều ấy, chẳng hạn trường hợp của hai ngôn
sứ Êlia và Êlisa. Thời Êlia, khi Israel bị đói, ông chẳng giúp một bà góa khốn
khổ nào trong nước cả, mà lại giúp một bà góa ở tận đâu đâu, vì bà này tỏ ra
yêu quí, tin tưởng và trọng vọng ông một cách đặc biệt. Thời Êlisa, biết bao
người Israel bị phong hủi thì ông chẳng chữa cho ai, mà lại chữa cho một người
từ ngoại quốc đến.
3. Thực tế ấy đã
xảy ra trên nhiều bình diện khác nhau
Do tình cảm tự
nhiên, ngôn sứ nào cũng đều muốn dành ưu tiên quyền lợi cho quê hương mình,
nhưng nhiều khi vì thái độ khinh thường và cố chấp của người đồng hương, nên
quê hương của các vị không hưởng được cái quyền ưu tiên mà các vị muốn đặc biệt
dành cho. Để rồi cuối cùng sự ưu đãi đó lại được dành cho những người hay dân
tộc xa lạ ở đâu đâu nhưng lại xứng đáng với sự ưu đãi đó hơn.
Thật vậy, Đức
Giêsu luôn luôn muốn dành ơn cứu độ ưu tiên cho người Do Thái (x. Ga 4,22; Mt
10,6; 15,24). Nhưng Người Do Thái lại từ chối sự ưu tiên đó, nên ơn cứu độ lại
được đem đến cho các dân tộc khác. Nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu nói lên thực
trạng đó. Chẳng hạn dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12;
Lc 20,9-19), dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24).
Bài Tin Mừng lễ
Hiển Linh cho thấy các kinh sư Do Thái - đại diện cho dân tộc được Thiên Chúa
ưu tiên dành cho mọi quyền lợi thiêng liêng - mặc dù có Kinh Thánh trong tay và
biết được chính xác Đức Giêsu sinh ra ở đâu, nhưng họ lại không thèm tìm đến
Ngài, mà lại còn muốn làm hại Ngài. Còn các đạo sĩ - đại diện cho dân ngoại,
dân không được ưu tiên - từ mãi đâu đâu tới và phải nhờ tới các kinh sư Do Thái
mới biết được Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì lại quyết tâm tìm kiếm Ngài và
họ đã tìm thấy.
Sự việc ấy là hình
bóng của thực tế xảy ra sau đó: Mặc dù Đức Giêsu sinh ra tại Do Thái, và dân Do
Thái là dân được ưu tiên hưởng ơn cứu độ, thì thực tế là cho tới nay, dân Do Thái
vẫn chưa nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh Nhân Loại, mà vẫn còn tiếp tục
chờ đợi. Còn những dân tộc đang tin vào Đức Giêsu hiện nay thì lại là những dân
tộc bị dân Do Thái xưa khinh thị và gọi là dân ngoại. Thế là ứng nghiệm điều
Đức Giêsu tiên báo trong hai dụ ngôn vừa nêu trên.
4. Nói người lại
nghĩ đến ta
Lịch sử thường hay
tái diễn lại theo kiểu tương tự. Điều đó khiến ta phải suy nghĩ vì nó có thể
xảy ra cho chính chúng ta. Hiện nay, Kitô giáo luôn tự hào mình là tôn giáo do
chính Thiên Chúa thiết lập, được chính Thiên Chúa mặc khải những chân lý thâm
diệu nhất, và là con đường chính thống nhất dẫn đến ơn cứu độ. Kitô giáo với
các tôn giáo khác cũng phần nào tương tự như Do Thái giáo với dân ngoại xưa.
Liệu điều đã đúng với Do Thái giáo có đúng một cách tương tự với Kitô giáo
không?
Dân Do Thái xưa
lúc nào cũng tự hào về tôn giáo của mình là tôn giáo duy nhất đúng đắn vì là
tôn giáo duy nhất được Thiên Chúa mặc khải. Còn các dân tộc khác thì thờ thần
tượng, đi trong sai lạc. Nhưng kết cục ra sao? Dân Do Thái không chỉ phủ nhận
Đức Giêsu mà còn giết Ngài nữa. Họ từ chối ơn cứu độ, và ơn cứu độ đã được trao
cho dân ngoại. Dân ngoại lại đón nhận ơn cứu độ và gia nhập Giáo Hội. Thế thì
xét cho cùng, đối với dân Do Thái, việc có tôn giáo duy nhất đúng đắn, việc nắm
được nhiều chân lý hơn các dân tộc khác có ích lợi gì?
Như thế, xem ra
điều quan trọng không phải là có tôn giáo chân chính cho bằng sống đúng những
gì tôn giáo mình đòi hỏi, sống đúng theo lương tâm của mình. Hãy nghe thánh
Phaolô nói: «Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe
biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật» (Rm 2,13). Vì thế, nếu «bạn tự hào
vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, thì như vậy bạn làm nhục Thiên
Chúa!» (Rm 2,23). Tương tự, nếu chúng ta có tôn giáo chân chính mà lại không
thèm sống đúng theo tôn giáo ấy, thì ta cũng làm nhục Thiên Chúa, Đấng thiết
lập tôn giáo ấy. Lúc ấy chúng ta rất xứng đáng với lời kết án của thánh Phaolô:
«Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa
chư dân» (Rm 2,24). Lúc ấy, tôn giáo chân chính có ích lợi gì cho ta, hay đó
chính là lý do để Thiên Chúa kết án chúng ta?
Bài Tin Mừng hôm
nay chính là lời cảnh tỉnh chúng ta: Đừng để tinh thần yêu thương của Kitô giáo
lại bị chính các Kitô hữu như chúng ta coi thường, không thèm sống, mà người
sống tinh thần ấy lại là những người thuộc các tôn giáo khác. Vậy tốt nhất,
chúng ta hãy đem tinh thần yêu thương của Đức Giêsu ra áp dụng thật sự vào đời
sống. Đừng để trường hợp của Do Thái giáo lại tái diễn một cách tương tự với
Kitô giáo, trong đó người chủ động tái diễn trường hợp ấy lại chính là chúng
ta!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trong bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã gián tiếp cảnh giác chúng con: chính quê hương,
đất nước, dân tộc và đồng đạo của Ngài - là những người mà Ngài muốn dành ưu
tiên hưởng ơn cứu độ Ngài đem lại - lại từ chối Ngài. Hiện nay, rất có thể
chúng con đang đi vào vết xe đã đổ ấy: ngoài miệng chúng con luôn tuyên xưng
mạnh mẽ niềm tin vào Đức Giêsu, nhưng đời sống của chúng con thì lại đi ngược
lại những điều Ngài dạy. Chúng con tuyên xưng hay biểu lộ đức tin mạnh mẽ ra
ngoài để che lấp thực tế phủ nhận đức tin ấy ở bên trong. Xin giúp chúng con ý
thức rằng thái độ giả hình ấy vô cùng có hại cho chúng con. Xin Cha cứu chữa
chúng con khỏi thái độ ấy.
21. Chú giải của
Noel Quesson
Người bắt đầu nói
với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Đấy là kết luận
bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội trường làng quê Nagiarét: Qua bài
đọc của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu vừa đưa ra một chương trình hành động: Rao
giảng Tin Mừng cho Người nghèo hèn, giải phóng những tù nhân, đem lại sự giải
thoát cho những người bị áp bức, loan báo năm hồng ân của Chúa. Lời chú giải
duy nhất của Đức Giêsu nói rằng! Hôm nay, mọi sự ấy đã ứng nghiệm. Trước sự
ngạc nhiên của cử tọa, Người khẳng định rằng bản thân Người đã đáp lại trọn vẹn
mọi sự chờ đợi của Israel. Đức Giêsu kéo Lời Chúa từ "quá khứ" xa xôi
nơi người ta muốn luôn luôn giam hãm Lời Chúa. Người yêu cầu nhân loại chớ đặt
Thiên Chúa "trong quá khứ" hoặc "trong tương lai": phải là
sự lan tỏa của Thiên Chúa, dự án của Thiên Chúa, trong đời sống hàng ngày của
chúng ta... Hôm nay!
Và hôm nay, chẳng
phải chúng ta cũng đã cố gắng kéo lui Tin Mừng trở về phía sau, vào hai mươi
thế kỷ trước đây đó sao? Vậy còn những người nghèo hèn nào, những tù nhân và
người bị áp bức nào hôm nay ở chung quanh chúng ta? Chúng ta sẽ mang đến cho họ
Tin Mừng nào?
Mọi người đều tán
thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người
Tôi chiêm ngưỡng
"miệng" Đức Giêsu mà Luca là người duy nhất thường nói với chúng ta
(Lc 4,22; 11,54; 22,71). Những "lời ân sủng" từ miệng Đức Giêsu mà
ra. Như thế, sự rao giảng của Đức Giêsu đã bắt đầu với việc khẳng định rằng
thời kỳ mà Thiên Chúa ban ơn "không mất tiền" và ban sự tha thứ đã
đến và đó là hôm nay: ý nghĩa sít sao của từ "giải phóng" trả lại tự
do, hay "giải thoát" ("aphésis" trong tiếng Hy Lạp) là thế.
Đức Giêsu đến để mang lại một "sứ điệp của ân sủng", một sự ban ơn,
một quà tặng vô giá mà không ai xứng đáng được. Chúng ta phải ghi nhận rằng
toàn bộ thần học của thánh Phaolô về "ân sủng" trong thư gởi tín hữu
Rôma đã được viết ra khi Luca soạn thảo Tin Mừng của Người. "Ở đâu tội lỗi
đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20).
Luca đã là một môn
đệ và một người bạn đồng hành của Phaolô. Không giống như Máccô (6,1-6), trước
tiên Luca ghi nhận rằng việc rao giảng của Đức Giêsu được đón nhận: "Mọi
người đều tán thành và thán phục?". Những người dân ở Nagiarét không xấu
xa hơn ở những nơi khác: Vậy thì, tại sao họ sắp sửa trở mặt?
Họ bảo nhau:
"Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?
Luca biết rất rõ
đó là một biểu lộ sự ngu dốt của họ về nguồn gốc thật sự của Đức Giêsu như ngài
vừa viết ra trên giấy trắng mực đen: "Thiên hạ vẫn coi Người là con ông
Giuse" (Lc 3,23). Vậy thì, người ta hài lòng với "sứ điệp của Đức
Giêsu, nhưng Người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Người: Đó là cớ vấp phạm
rất thông thường của nhân loại! Dẫu sao, đó chỉ là "con ông Giuse".
Giáo Hội cũng luôn gây ra cùng một cớ vấp phạm. Người ta sẵn sàng tiếp đón sứ
điệp của Giáo Hội, nhưng người ta không chấp nhận sự yếu đuối của con người
trong Giáo Hội.
Giáo Hội cơ cấu
giống như phần lớn các hiệp hội, với tài chính của nó, với sự nặng nề trong
việc điều hành, nhưng sơ cứng của sức nặng quá khứ trong huyết quản, những tội
lỗi của cách thành viên, chứng nhận định thiếu sót của một số viên chức, sự sợ
hãi canh tân, những mâu thuẫn giữa "nói" và "làm". Người ta
không bao giờ nhận xét hết những khía cạnh "quá" con người của Giáo
Hội. Như thế, những người dân ở Nagiarét bị kẹt cứng trong định kiến "con
ông Giuse".
Người nói với họ:
"Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy
mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng
hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Đức Giêsu không
tìm cách làm giảm nhẹ cuộc xung đột mà Người đoán trước: Chính Người đã tấn
công. "Vậy ông hãy làm cho chúng tôi những phép lạ như ông đã làm ở những
miền lân cận!". Người ta không ngừng đặt "cơn cám dỗ" lớn ấy
dưới chân Đức Giêsu. Đó là cơn cám dỗ của satan (Lc 4,l-14). Người ta đòi hỏi
Đức Giêsu những "dấu chỉ từ trời xuống" (Lc 11,16).
Một trong những
cách chối bỏ Thiên Chúa là yêu cầu Chúa làm các phép lạ. Chúng ta tiếp tục có
thái độ của người dân ở Nagiarét. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra
thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho
chúng ta. Vả lại Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta muốn ép Người làm.
Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ. Khi Người chữa lành một
người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta
biết rằng Người muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi Người chữa
lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Người mong muốn chữa lành mọi người
chúng ta khỏi một bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi của chúng ta. Điều đó
được nói rõ ràng trong Tin Mừng (Lc 5,17-26).
"Vậy ông cũng
hãy làm tại đây một phép lạ cho chúng tôi". Chúng ta cũng thế, có lúc
chúng ta tưởng rằng mình phục vụ Thiên Chúa theo cách đó. Vả lại, muốn xếp đặt
Thiên Chúa "để phục vụ chúng ta" chính là chối bỏ Người. Tối hậu thư
bi đát. Tối hậu thư buồn cười. Con người tìm đến trước mặt Chúa và yêu cầu
Người "làm" điều mà mình mong mỏi, điều phục vụ cho mình? Thách thức
Thiên Chúa? Giảm lược Thiên Chúa để Người chỉ còn là một "động cơ phụ gỡ
rối cho chúng ta khi cái xe: không còn chạy được nữa. Oi! Lạy Chúa, con nhận ra
mình ở trong số những người đồng hương của Chúa ở Nagiarét! Xin Chúa giúp con
trở lại với lòng con để bắt đầu phục vụ Chúa, thay vì đòi Chúa phục vụ con.
Thay vì lúc nào cũng nói 'nguyện ý con được thể hiện bởi Chúa, con phải nói
trong chân lý rằng nguyện ý Cha được thể hiện bởi con'
Người nói tiếp:
"Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương
mình
Không, người ta
chẳng chịu nghe cách ngôn sứ.
Làm ngôn sứ chẳng
dễ chịu chút nào, phiền toái là đằng khác! Nghĩa là làm "người phát
ngôn" của Thiên Chúa. Giêrêmia trong bài đọc một của chủ nhật này nói với
chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói
những lời dễ nghe. Vì thế nhiều ngôn sứ đã phải chết: "Giêrusalem! Ngươi
giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi!" (Mt 23,37).
Đấy là một chủ đề của Luca (6,23; 11,47-50; 13,33-34; Cv 7,52).
Còn chúng ta,
trong thế giới mà đa số là vô tín và duy vật, nhưng chúng ta có phải là những
ngôn sứ không? không phải trong những lúc đặc biệt mà trong đời thường mỗi
ngày; nắm chắc "chính nghĩa của Thiên Chúa", nắm chắc lời "vì
Chúa" (từ ngôn sứ trong tiếng Hy Lạp do chữ "pro-phèmi" có nghĩa
là "tôi nói vì").
Thật vậy, tôi nói
cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả
nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không
được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành
Xarépta miền Xiđôn.
Luca, môn đệ của
thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, là người duy nhất đưa ra sự so sánh này lấy ra
từ Cựu ước để nhấn mạnh đến những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho những người
không phải là dân Do Thái. Biến cố ở Nagiarét mang dáng dấp của một chủ đề thần
học: ơn cứu độ không dành riêng cho một số người đặc quyền. Thiên Chúa muốn cứu
chuộc mọi người. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại. Không có Đất Thánh, không có
Dân được chọn. Chúng ta sẽ lạm dụng ngôn ngữ mạc khải nếu chúng ta sử dụng
những cách diễn tả của Kinh Thánh một cách cố chấp như thể những miền đất khác
bên ngoài Israel là phàm tục, như thể các dấn tộc khác bị loại trừ khỏi Giao
ước Thiên Chúa không có biên giới! Thiên Chúa còn bao la, cao cả hơn những chân
trời nhỏ bé của bản thân chúng ta! Người ta không thể giam hãm con ông Giuse
trong cái "hố" ở Nagiarét của Người. Thiên Chúa cao cả hơn Giáo Hội
hữu hình. Những người ngoài Kitô giáo không nằm bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa.
Cũng vậy, vào thời
ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người
nào được sạch, mà chỉ co ông Naaman, người xứ Xyri thôi
Trong sự so sánh
giữa Israel và các dân ngoại, mọi ưu điểm thuộc về dân ngoại. Khi nào có thể,
Đức Giêsu đều thán phục đức tin của các dân ngoại, những người không phải là Do
Thái, những người Samari dị giáo (Lc 9,23.47; 10,33; 17,16). Thật lạ lùng khi
tôn giáo có thể làm sơ cứng lòng người. Từ hai ngàn năm rồi Israel đã chờ đợi
Đấng Mêsia, nhưng đức tin của họ bị sơ cứng. Đó là lời cảnh báo cho tất cả
những ai tưởng rằng mình thân thiết với những việc của Thiên Chúa, tưởng rằng
mình được hưởng, một nền giáo dục Kitô giáo tốt đẹp, và việc thường xuyên tham
dự các bí tích bảo đảm. "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước
Thiên Chúa trước các ông" (Lc 7,34).
Nghe vậy, mọi
người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành
này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực
Đây là sự tiên báo
số phận sau cùng của Đức Giêsu. Người bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv
7,57). Chúng ta hẳn sẽ lầm khi vội vã tưởng rằng mình ở về phía những người
lương thiện và được miễn trừ thái độ của những người đồng hương với Đức Giêsu.
Rất nhiều lần, chúng ta cũng "lôi" Đức Giêsu ra khỏi những quyết định
của chúng ta, nhà chúng ta, nghề nghiệp chúng ta. Ong không can dự gì ở nhà
tôi! Hỡí ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo.
Nhưng Người băng
qua giữa họ mà đi
Những từ khước của
tôi không thể ngăn Con Thiên Chúa theo đuổi kế hoạch của Người với những người
khác. Điều tệ hại là tôi không biết ngạc nhiên nhiều hơn! Giữa những trào lưu
của lịch sử, những từ khước của con người, Đức Giêsu tiếp tục "con đường
của Người". Lạy Chúa, cám ơn Chúa!
22. Chú giải của
Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU, LỜI BAN
ÂN SỦNG CHO MỌI NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Một sứ mệnh
không biên giới:
Chúa nhật trước,
chúng ta đã bắt đầu đọc trình thuật của thánh Luca về việc Đức Giêsu đến thăm
hội đường Nagiarét. trình thuật đó đã được thánh Luca đặt vào lúc Đức Giêsu bắt
đầu thi hành sứ vụ và được trình bày như một cảnh khái quát chương trình, một
biến cố điển hình có dụng ý khai mở và tóm tắt những gì sắp xảy ra.
Sau khi đứng lên
đọc đoạn sách Isaia 61: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi...", theo tập
tục, Đức Giêsu ngồi xuống giảng một bài và tuyên bố không úp mở rằng: "Hôm
nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe".
Đầu tiên những
người có mặt trong hội đường hôm ấy đều tán thành và thán phục những lời ban ân
sủng (= những lời hay ý đẹp) thốt ra từ miệng Người". Họ bảo nhau:
"ông này không phải là con ông Giuse đó sao? ". (Đức Giêsu mà thánh
sử đã ghi trong gia phả của Người, được coi là con của Giuse: 3,23).
Đức Giêsu nắm lấy
ngay vai trò chủ động của mình bằng hai giai đoạn.
- Trước tiên, bằng
cách tố giác hy vọng úp mở của những người đồng hương khi họ muốn Chúa làm cho
họ, tại quê hương Người, những việc lạ lùng mà Người đã làm ở những nơi khác và
muốn Người thi hành lời ban ân sủng để mưu ích cho họ. Dựa vào một câu tục ngữ,
Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang
ơi, hãy chữa lấy mình tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại
Ca-phác-na- um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Lẽ nào ta lại
không có thể coi đây như điều báo trước về lời nhục mạ mà người ta sẽ nhắm vào
Đức Giêsu khi Người hấp hối trên thập giá: "Hãy tự cứu mình đi, nếu ông là
Đấng Kitô "(Lc. 23,35. 7.39)
Rồi, bằng cách
loan báo sứ mệnh của mình có tính phổ quát, Đức Giêsu đưa các thính giả của
mình trở về với hai khuôn mặt lớn của Cựu ước là ngôn sứ Êlia và Elisa; đây là
hai vị ngôn sứ có những hoạt động vượt ranh giới về mặt lãnh thổ cũng như tôn
giáo. Vị thứ nhất đã hóa bánh và dầu ăn ra nhiều giúp nuôi sống một góa phụ ở
Sarepta là miền đất thuộc dân ngoại (Cv. l7.7-27). Vị thứ hai là ngôn sứ Êlisa,
môn đệ của Êlia đã chữa khỏi bệnh cùi cho một viên tướng người Syria đích thân
tới gặp vị tiên tri ngày trên đất Israel (2 CV. 5, 1-27). Góa phụ Sarépta và
Naaman người Syria được coi như những người cầm đầu đàn lũ đông đảo những dân
ngoại mà công cuộc giải phóng họ đã được loan báo trong sách Isaia 61, thì
"hôm nay" được ứng nghiệm nơi Người là Đức Giêsu.
"Gương Êlia
và Êlisa ban ơn huệ của Thiên Chúa cho dân ngoại, như J. Dupgnt nhận xét, cho
người ta thấy trước rằng một khi Chúa Giêsu đã bị dân Israel cũng như các đồng
hương của mình chối bỏ thì sứ điệp cứu độ sẽ chuyên sang cho các dân ngoại. Vì
thế biến cố ở Nagiarét là điềm báo trước những gì người ta thấy xảy ra đối với
Phaolô ở Antiôkhia miền Pixiđia và ở Rôma khi ngài quay về phía các dân ngoại.
Cách xử sự như vậy của Phaolô lúc này đã được hai vị ngôn sứ Elia và Êlisa thực
hiện trong thời buổi của ngài như để tiên báo và biện minh cho hành động của
Phaolô vậy".
2. Một sự chối bỏ
báo trước sự chối bỏ khác:
Lời loan báo
Israel không còn được hưởng đặc ân và Thiên Chúa tiếp đón các dân ngoại đã
khiến cho cử tọa của hội đường đầy phẫn nộ. Y hệt như thái độ của những người
Do thái ở Antiôkhia Pixiđia lúc đầu còn thiện cảm, tử tế rồi không bao lâu sau
chuyển thành giận dữ khi họ thấy dân ngoại "nghe Lời Thiên Chúa" (Cv
13,44-45).
Thì này đây, những
người đồng hương của Đức Giêsu đang đứng dậy lôi Người "ra khỏi
thành" "để xô Người xuống vực". Giống như những thù địch của
Chúa rồi đây sẽ lôi Người "ra khỏi thành" Giêrusalem để đóng đinh
Người. Chẳng khác gì những người Do thái sẽ lôi Stêphanô "ra khỏi
thành" để ném đá ông vậy (Cv. 7,54).
Nhưng giờ của
Người chưa tới, nên "Người băng qua họ mà đi"; Đức Giêsu còn phải
tiếp tục con đường sẽ dẫn Người tới thành đô Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc
khổ nạn của Người, và là nơi Người sẽ sống lại và tỏ mình ra cho các môn đệ vào
sáng ngày Lễ Vượt Qua.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Một bài
tường thuật để loan báo tương lai"
(H. Vulliez trong
"Dieu si proche. Năm C", DDB, trg 90)
"Luca đã viế
câu chuyện này để báo trước tương lai hơn là để tường thuật lại những gì xảy ra
ở Nagiarét. Biến cố xảy ra trong hội đường hôm ấy là một giai đoạn mở đầu bi
thảm báo trước những gì sẽ xảy ra cho sứ mệnh của Đức Giêsu khi ở giữa loài
người. Một sứ mệnh sẽ vươn tới mọi dân tộc. Một sứ mệnh sẽ dẫn Người tới cái
chết: Người sẽ bị người nhà của mình lên án tử, nhưng phàm những ai thuộc mọi
dân tộc, thuộc mọi mầu da nước tóc, đón nhận Người thì Người sẽ cho họ được làm
con Thiên Chúa".
2. "Con người
luôn có khuynh hướng muốn giam hãm Thiên Chúa".
Những con người ấy
nhận mình là những kẻ tin Chúa chân thành, có lòng đạo đức và thực hành đạo,
thế mà sau khi đã ca ngợi Đức Giêsu ở trong hội đường, chính họ lại "đầy
phẫn nộ, đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người
xuống vực". Vậy có ai dám nhận mình giống những người ấy không?
Dù là ai chăng
nữa, chúng ta thảy đều có khuynh hướng muốn giam hãm Chúa và Đấng Kitô của
Người trong một phạm vi nhất định của Giáo Hội ta, trong lời lẽ của những giáo
điều, những truyền thống, những thực hành và ngay cả trong những cách sùng mộ
của chúng ta nữa. Chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng nắm độc quyền về các ân sủng,
phép lạ, ánh sáng của Chúa và ngay cả đức ái mà Người là nguồn mạch nữa. Vậy mà
Phúc âm hôm nay khẳng định mạnh mẽ với ta rằng những người thân của Đức Giêsu
thường sẵn sàng tống cổ Người ra khỏi nhà thờ, nghề nghiệp, quyết định và gia
đinh của họ, mỗi khi sứ điệp của Chúa không làm vừa lòng họ, mỗi khi cuộc viếng
thăm của Người gây phiền hà cho họ. Còn chính Chúa Giêsu thì lại nhắc nhở ta
rằng Thiên Chúa đã thực hiện được những sự lạ lùng nơi các dân ngoại, đã cho
những người cùi, những người thù địch của Israel, dân Chúa, được lành sạch. Đối
với Thiên Chúa tình yêu, chỉ có tình yêu là tiêu chuẩn cuối cùng làm nên giá trị
và sự thật cho tư tưởng và hành động của ta.
3. "Một sự
hiểu lầm đáng sợ"
(G. Boucher, trong
"Le ciel sur terre")
Tại sao người con
của quê hương lại không thực hiện được ở quê quán mình những việc lạ lùng mà
người ấy đã làm ở những nơi khác? Và rồi có thể đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng
trở mặt từ khen ngợi đến phẫn nộ đấy. Bởi lẽ, về phần Đức Giêsu thì Người nói
rõ rằng điều cốt yếu mà Người muốn trình bày cho họ không phải chỉ có vấn đề
các việc lạ lùng, mà Người muốn mạc khải cho họ tình yêu và lòng trung thành
của Thiên Chúa. Cái đó mới là điều hạnh phúc và may mắn thực cho chúng ta.
Lẽ ra Đức Giêsu
phải cung cấp cho những người đồng hương của mình tiền bạc hoặc chữa cho họ
khỏi những bệnh này tật nọ mới đúng. Xem ra người ta ao ước một điều, thì Chúa
lại đưa ra điều ngược lại. Bởi lẽ ai nấy đều thích được lãnh nhận, trong khi
Đức Giêsu lại đòi hỏi phải cho đi, cho đi bản thân mình, cho đi mạng sống mình.
Và kết cục sẽ là thành công và hạnh phúc.
Đức Giêu có hy
vọng những người đồng hương của mình sẽ hiểu biết và thông cảm hơn với Người
không? Bởi vì họ là những người nhà của Người mà. Họ biết Người hơn, từng sát
cạnh liền kề với Người, quý chuộng Người và yêu mến Người mà!
Vậy mà chỉ mới
ngay trong buổi nói chuyện đầu tiên, họ đều nổi xung lên với Người. Cả đám đều
đứng dậy xô đẩy Người ra ngoài, loại bỏ và trục xuất Người khỏi cộng đồng của
họ. Là vì Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong đợi. Họ nghĩ là Người lừa gạt
quần chúng!
Chừng nào sứ điệp
của Người còn là lại kêu gọi hoán cải cuộc đời và chừng nào người ta chỉ thích
sống dễ dãi, thì việc chối bỏ Đấng Thiên Chúa sai đến đã khởi sự rồi.
Họ muốn cho Người
phải chết, nên họ tìm cách loại bỏ Người con của quê hương này ra khỏi nhà họ
bằng cách xô Người xuống vực thẳm.
Nhưng Đức Giêsu
"băng qua giữa họ mà đi". Người là kẻ tự do, hết sức tự do, Người cứ
thảnh thời đi trên con đường của mình lòng đầy tự tin và tin vào sự trung tín
của Thiên Chúa Cha Người. con đường Người đi được vạch sẵn. Không có gì làm cho
Người phải lui bước!
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét