CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Is 6,1-2a.3-8; 1Cr 15,1-11; Lc 5,1-11
MỤC LỤC
1. Tự do
2. Khiêm
nhường
3. Đào
tạo tông đồ - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Môn đệ
Đức Kitô trên hoàn vũ - Achille Degeest
5. Con
đường của Thiên Chúa là tốt nhất
6. Được
gọi để gọi người khác
7. Kêu
gọi các môn đệ đầu tiên - McCarthy
8. Đào
tạo môn đệ
9. Những
môn đồ tiên khởi - R. Gutzwiller
10. Từ
nay anh sẽ bắt người
11. Dựa
vào lời Thầy
12.
"Con sẽ là kẻ đánh lưới người"
13. Cuộc
phiêu lưu
14. Mẻ
lưới
1. Tự do
Các ông
từ bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Đọc lại
Phúc Âm chúng ta phải cảm phục thái độ dứt khoát và từ bỏ của các môn đệ trước
lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, sau khi Chúa Giêsu nói: Các con hãy theo
Ta và Ta sẽ làm cho các con trở nên những kẻ chài lưới người ta, thì Phêrô,
Anrê cũng như Giacôbê và Gioan đã từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và cả những người
thân yêu để bước theo Chúa Giêsu. Cũng vậy, khi Chúa Giêsu đi qua bàn thu thuế
tại Capharnaum, Ngài lên tiếng gọi Matthêu: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã
đứng dậy, từ bỏ bàn giấy, từ bỏ nghề nghiệp mà bước theo Chúa. Thái độ mau mắn
và dứt khoát ấy làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai muốn theo Ta,
phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta". Các môn đệ là như
thế, chúng ta thì sao?
Chúng ta
thường nói rất nhiều mà làm thì chẳng được bao nhiêu. Trong tâm tư nguyện vọng,
chúng ta muốn tôn thờ Chúa như một vị vua duy nhất của lõi lòng. Chúng ta muốn
dâng tất cả cho Ngài, thế nhưng trong cuộc sống cụ thể, chúng ta rất ngại phải
hy sinh, phải từ bỏ, phải dâng hiến cho Ngài. Tình yêu chúng ta dành cho Ngài
giống như một ngọn đèn thiếu dầu. Bình thường thì nó cháy một cách leo loét,
nhưng mỗi khi phải cố gắng, phải hy sinh thì nó bỗng dưng phụt tắt.
Chính vì
thế, mỗi người chúng ta phải kiểm điểm lại đời sống, phải hồi tâm xét mình và
phải chấp nhận con người thực sự của chúng ta là như thế nào? Chúng ta có quảng
đại đáp trả lời mời gọi của Chúa hay không, bởi vì chính sự quảng đại này mới
là thước đo sự gắn bó và tình yêu của chúng ta đối với Chúa.
Là người
tín hữu, chúng ta có biết hy sinh những thú vui, cho dù là chính đáng, để chu
toàn những bổn phận đạo đức của chúng ta đối với Chúa, để tuân giữ giới luật
yêu thương của Ngài cũng như để thực thi thánh ý của Ngài trong lòng cuộc đời
chúng ta hay không?
Là những
bậc làm cha mẹ, chúng ta có biết chấp nhận những hy sinh gian khổ vì cuộc sống
và tương lai của con cái hay không? Cho dù những khó khăn, những bất đồng,
chúng ta có đem vào trong gia đình chúng ta một bầu khí yêu thương và đạo đức
hay không?
Là những
người con, chúng ta có biết mau mắn vui vẻ vâng theo những lời khuyên bảo của
cha mẹ. Chúng ta có biết chia sẻ những lo lắng của cha mẹ bằng cách chu toàn
những bổn phận của mình hay không?
Để kết
luận, chúng ta nên nhớ điều này, đó là nếu chúng ta còn ngại hy sinh, nếu chúng
ta không dám từ bỏ, thì đó là dấu chỉ chắn chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề
yêu mến Chúa, chưa hề là người môn đệ đích thực của Ngài.
2. Khiêm
nhường
Nhìn vào
cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn ngoan là người biết tận dụng mọi cơ hội để
làm giàu cho mình, nhưng đồng thời cũng phải khiêm tốn để biết mình và biết
người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết tin tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể
cả kinh nghiệm của người khác.
Và hành
trình của đức tin cũng không đi ra ngoài sự khôn ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm
nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt người khôn ngoan đi tìm Chúa và đã nhận ra
Ngài, không ai khác hơn là thánh Phêrô.
Thực vậy,
ông là một dân chài chuyên nghiệp, một người đi biển nhiều kinh nghiệm quý giá,
thế nhưng ông không quá tự phụ với những sự từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có
một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là khiêm tốn, tin tưởng và vâng phục vào lời
Chúa Giêsu:
- Thưa
Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả lưới.
Trước mẻ
cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào về đức tin của riêng mình để mà khoe khoang
với các bạn, cũng như để kể công với Chúa. Trái lại, thêm một lần nữa, ông vẫn
khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng ấy, để suy nghĩ và nhận ra Đức Kitô là Thiên
Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá, Phêrô đã thực sự khiêm tốn thú nhận:
- Lạy
Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Chính nhờ
thái độ này, đức tin của ông được củng cố đến độ ông không chỉ nói lên lời cảm
tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả cuộc sống của mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự
mà đi theo Chúa.
Còn chúng
ta thì sao? Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để lắng nghe lời Chúa qua những con
người, qua những biến cố mà Ngài gởi đến hay không? Có lẽ Phêrô vẫn đoán biết
Đức Kitô không có nhiều kinh nghiệm về biển cả, nhưng ông rút kinh nghiệm qua
những phép lạ, vì thế ông vẫn khiêm tốn vâng phục và tin tưởng vào Chúa Giêsu
vì Ngài còn là Thầy, là người hướng dẫn của ông. Liệu chúng ta có biết hồi tâm
để rút ra những kinh nghiệm như Phêrô hay không?
Kinh
nghiệm bản thân cho ông hay ban đêm là cao điểm để đánh bắt. Thế mà ông đã từng
cực nhọc suốt cả đêm mà chẳng đánh bắt được một con cá nào, vậy mà lòng trọng
kính đối với Chúa Giêsu đã thúc đẩy ông thả lưới giữa ban ngày ban mặt, là thời
điểm chẳng thuận tiện chút nào. Liệu chúng ta có quá tự hào về kinh nghiệm bản
thân, để rồi khép kín cõi lòng mình trước lời mời gọi của Chúa hay không?
Những
kinh nghiệm và hiểu biết, đôi khi có thể trở thành chướng ngại vật cản trở cho
hành trình đức tin, nếu chúng ta không có được sự khiêm tốn của Phêrô. Hãy cư
xử như Phêrô, bằng cách đón nhận ý Chúa qua kinh nghiệm của Hội Thánh, đồng
thời cảm tạ Ngài bằng một thái độ cụ thể và quyết liệt như Phêrô, đó là từ bỏ
mọi sự mà đi theo Ngài.
3. Đào
tạo tông đồ - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin
Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến.
Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng
của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi
truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương
trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương
trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ
nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới.
Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông
chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các
ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ
Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ
sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để
ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến
các môn đệ của Người.
Điểm thứ
hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về
Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên
Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong
những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình
cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh
sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ
lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ
hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống
bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh
thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông
đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ
ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối.
Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ
rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong
khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm
trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả
lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối.
Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã
thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau
cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái
độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là
chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua
những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý
còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen
biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền
bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn
chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.
Nhưng khó
nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những
thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ
phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp
hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản
thân.
Khi đã từ
bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy
tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt
đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người
được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân,
chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa,
chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn
chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm
việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa,
xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1. Bạn có
tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2. Bạn có
cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3. Bạn đã
ra đi khỏi chính mình chưa?
4. Bạn có
cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
4. Môn đệ
Đức Kitô trên hoàn vũ - Achille Degeest
Bài Phúc
Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần giải thích theo nghĩa này nghĩa khác có thể
không có trong bản văn. Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh
thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm
một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc
rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích.
Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ
Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi
đứng trước tôn nhan Chúa: "Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một
kẻ có tội". Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng
đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng
nhìn thấy số mệnh ông.
Chúng ta
suy niệm về hai câu:
1)
"Hãy ra khơi". Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá.
Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời
xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm
nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên
thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống
biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại
một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ
lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng
cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: "Từ nay ngươi sẽ là kẻ
lưới người". Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong
"lưới" của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các
tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan
niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được
liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.
2)
"Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa".
Thánh
chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất
của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và
thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của
thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh
cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết. Các ông cũng như
chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc
thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới
chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để
theo Đức Kitô.
5. Con
đường của Thiên Chúa là tốt nhất
(Suy niệm
của Charles E. Miller)
Thiên
Chúa thì kiên bền không thay đổi. Chúng ta có thể tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Thánh Kinh đã mặc khải những hành động và những lời của Thiên Chúa trong quá
khứ. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong quá khứ là những gì mà Người sẽ
thực hiện trong ngày hôm nay. Những gì Thiên Chúa đã nói trong quá khứ là những
gì Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta hôm nay. Những gì xảy ra cho Phêrô trong bài
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đã xảy ra cho tất cả chúng ta trong cùng một cách thế
như thế ngày hôm nay.
Thánh
Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai
của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những người đồng nghiệp đã làm
việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ
này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ
mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to
lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe
được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô: "Lạy Thầy, chúng
con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì". Ngài đã trình bày
quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài
thình lình nhận biết mình đang nói với ai. Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt
của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm:
"Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới". Đức tin của Phêrô
thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã
mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ"Thầy" khi ông nói:
"Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả lưới". Kết quả sự tin tưởng của
Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông
là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.
Trước đó,
tiên tri Isaia đã học cùng bài học như chính Phêrô đã học. Đầu tiên, Isaia
không muốn chấp nhận sứ vụ trở thành một tiên tri cho dân Chúa. Ông cảm thấy
mình bất xứng, ông tự mô tả chính mình như một người không biết ăn nói. Ông
sung sướng bỏ đi và theo một cách sống khác, nhưng Thiên Chúa đã muốn ngài. Một
thiên thần Sêraphim đã đụng đến môi của tiên tri Isaia, đó là một biểu hiện ân
sủng của Thiên Chúa. Với ân sủng này Isaia đã đáp trả: "Này tôi đây xin
hãy sai tôi", ngài đã trở thành một trong những vị tiên tri lớn nhất bởi
vì ngài đã theo đường lối của Chúa.
Trong lúc
suy nghĩ chúng ta không thấy điều gì quen thuộc, xảy ra với chúng ta sao? Có lẽ
các bạn có nơi trái tim hình ảnh của một người nào đó mà các bạn muốn kết hôn.
Điều đó đã thực hiện được. Một người khác bước vào đời sống của các bạn và bây
giờ các bạn sẽ cảm ơn Thiên Chúa, vì hôn thê của các bạn thật hợp với các bạn
hơn. Có thể các bạn có một công việc mà các bạn thích, các bạn có vẻ như có một
tương lai với một công ty đặc biệt. Nhưng trong thời suy thoái kinh tế, công ty
giảm biên chế, bạn mất công việc của mình. Tiếp đó, một cơ hội lớn thình lình
mở ra cho bạn và bạn trở thành một người có công việc khác khiến các bạn thấy
rằng có một sự chăm sóc kỳ diệu mà các bạn không bao giờ nghĩ ra trước đó.
Những thí
dụ này có thể không thích hợp với các bạn. Mọi người chúng ta phải có thời gian
để suy nghĩ về những gì Thiên Chúa đã hành động trong cuộc sống của chúng ta
theo một cách vượt xa những gì chúng ta đã dự định và mong đợi. Thánh Phaolô
nghĩ rằng ngài đang thi hành bổn phận của một người Do Thái sốt sắng nhiệt
tình. Thiên Chúa có một dự định khác cho ngài, như là một tông đồ và là tác giả
của những bức thư Tân Ước. Ngài đã đặt bút viết những điều về những giáo lý
quan trọng nhất cho chúng ta. Cách của Thiên Chúa thì tốt hơn của Thánh Phaolô.
Đôi khi
chúng ta không bắt được một mẻ cá lớn. Những điều xem ra là sai, là thất bại
đối với chúng ta. Tiếp đó chúng ta phải kêin nhẫn và dành thời gian để cho Chúa
hành động. Từ thị kiến thiên đàng của tiên tri Isaia chúng ta sẽ ca lên khúc
tán tụng của mình: "Thánh Thánh Thánh, Chúa là sức mạnh và quyền năng,
trời và đất đầy vinh quang Chúa". Sự diễn tả vẻ huy hoàng của Thiên Chúa
sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa siêu việt hơn chúng ta. Đường lối của
Người thì không phải là đường lối của chúng ta và đường lối của Ngài luôn luôn
là tốt nhất.
6. Được
gọi để gọi người khác
-
"Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?"
Chị
Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với
chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở thành giang sơn của chị.
Bổn phận
của chị giữ nhà khách là gọi người khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline
chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10
lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến
chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về chuông kéo, kẻng sắt... nhưng
công việc luôn luôn vẫn là gọi người khác.
Ôi chao!
Biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong
điện thoại. Nhưng có một điều chị Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi,
đang xin gặp một người nào đó... trừ ra chị. Vì thế chị thường nói đùa:
"Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi
người khác: tôi được gọi để gọi".
Một ngày
của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh,
luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được
quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không quá 10 dòng; trong nhà
nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông
reo... luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với "sự gián đoạn" này của mình,
chỉ mới có thể tạo nên "sự liên hệ" của người khác. Chị bao giờ cũng
nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người
đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị... Với thời gian, da mặt chị nhợt
nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời
kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.
Và rồi
một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành
lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ: "Chúa đến gọi tôi lần hai" (và
cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa
rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình
sẽ là vô chủ...
Chị
Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận
hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của chị
không phải là ở chỗ đó sao?
Chúa Nhật
hôm nay nhắc lại cho chúng ta ban ơn gọi: ơn gọi của Isaia trong đền thánh
Giêrusalem (Bđ. 1), ơn gọi của Phaolô trên đường đi Đamas (Bđ. 2) và ơn gọi của
Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài Tin Mừng). Nhưng chắc chắn có chủ ý dạy
chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa và làm theo ý Chúa, ra đi gọi những người
khác đến với Chúa: được gọi để gọi người khác.
Isaia tự
thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn
sàng đáp lại: "Tôi đây, hãy sai tôi đi". Thái độ của Isaia chính là
thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi vào thế gian: "Này con xin đến
để thực thi ý Chúa" (Dt 10,9).
Thánh
Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn gọi của mình và cách mình đáp lại ơn
gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên đường đi Đamas và chọn
ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn
nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân
huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại ông nhờ ơn Chúa mà hết lòng hết
sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi bằng cả cuộc sống.
Còn Simon
Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến
nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi lưới
người như lưới cá". Điều này sẽ xảy ra sau đó? Tin Mừng cho thấy không
phải chỉ có Phêrô, người được gọi đích danh, đã theo Chúa, mà cả những người
khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa: "Ho đưa thuyền vào bờ và bỏ mọi sự mà
theo Chúa". Đến đây chúng ta mới rõ "mẻ cá lạ" Chúa làm là có
dụng ý hay có mục đích "mở đường" cho ơn gọi của Phêrô và đồng bạn.
Nghề nghiệp đánh cá của các ông thật đã giúp ích cho các ông hiểu một cách dễ
dàng sứ vụ mới là làm "những kẻ chài lưới người" (Mt 4,19), nhưng mẻ
cá lạ mới giúp các ông quyết định lại ơn gọi một cách mau chóng, vì biết rằng
có Chúa giúp khi thi hành sứ vụ của mình.
Anh chị
em thân mến,
Chính
Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc
cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài
đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính
chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa
kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng
đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm
trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy
bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài,
vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào
theo như Ngài muốn.
Chúng ta
cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và
đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của
Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất
cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.
Chúng ta
cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc
tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng
"lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít".
Chính
chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe tiếng Chúa chỉ bảo ra làm việc nầy hay
việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện nay trên quê hương đất nước chúng ta.
Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đó chính là ơn
gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ và sau nầy. Đó cũng là ơn gọi làm tông
đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin của mình trong môi trường xã hội.
Nếu tình
yêu đòi biểu lộ, và có khi biểu lộ bằng những cách "kỳ lạ", thì Thiên
Chúa vì quá yêu nhân loại, nêu đã biểu lộ bằng nhiều cách thế, trong đó có cách
thế cho con người được tham dự vào việc truyền bá Tin Mừng, được đọc và được
giảng Lời của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm thay! Miệng lưỡi con người mà được nói
Lời của Đấng siêu việt. Tình yêu Thiên Chúa vẫn gửi tới mỗi người tín hữu để họ
đem Lời Thiên Chúa nói cho những người xung quanh, những người thân thuộc và cả
những người đi theo Chúa, dùng chính nghề nghiệp khả năng của mình để thành
nghề lôi kéo người khác về cho Chúa. Và Đấng là Tình Yêu đang luôn chờ đợi lời
đáp trả của từng người chúng ta.
Và nhất
là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức Kitô chịu chết và tuyên xưng Ngài sống lại vì
chúng ta qua cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng
ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi nầy. Nhờ nghe Lời Chúa và ăn uống Mình Máu
Thánh Chúa, chúng ta sống ơn gọi một cách tốt đẹp để đời sống chúng ta cũng là
một lời mời gọi nhiều người khác đến với Chúa.
7. Kêu
gọi các môn đệ đầu tiên - McCarthy
Suy Niệm
1. LẠY CHÚA, THEO LỜI CHÚA...
Thời gian
ban đêm là thời gian để đánh cá. Nếu có người nào khác nói với Phêrô:
"Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá" hẳn ông sẽ nói: "Bạn
có điên không? Phải chăng bạn muốn tôi trở thành một kẻ điên trước mặt những
bạn chài khác? Nếu bọn ngư phủ chúng tôi suốt đêm đã không bắt được con cá nào,
thử hỏi chúng tôi còn có cơ may nào để bắt được cá giữa ban ngày?".
Nhưng khi
Đức Giêsu nói những lời ấy với Phêrô, câu trả lời tự phát của Phêrô là:
"Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng
theo lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".
Đối với
Phêrô, lời của Đức Giêsu khác với lời của bất cứ ai. Lời người mang theo quyền
bính mà lời người khác không có được. Vì thế nếu Đức Giêsu đã yêu cầu, thì dù
tình thế có vẻ tuyệt vọng, dù Phêrô có mệt mỏi hoặc có vẻ điên rồ, ông cũng
phải thử làm lại.
Phêrô
hoàn toàn tín thác vào Đức Giêsu. Theo lời Người, ông được chuẩn bị để cố gắng
làm điều không thể làm được. Sau này chúng ta còn thấy được điều này trong Tin
Mừng khi ông cố gắng đi trên mặt nước theo lời của Đức Giêsu.
Có bao
nhiêu người mà chúng ta coi lời họ là nghiêm chỉnh? Chúng ta hoàn toàn tín thác
vào lời ai? Chúng ta hoàn toàn tin cậy vào lời ai? Câu trả lời là "rất
ít".
Đánh cá
là một nghề xứng đáng. Tuy nhiên, Đức Giêsu thấy Phêrô có khả năng làm những
việc khác. Đức Giêsu cần loại người như Phêrô để giúp đỡ Người trong công việc
của Người. Đức Giêsu đã nhìn thấy những đức tính nào của Phêrô khiến Người kêu
gọi ông chia sẻ công việc với Người? Ông có một đức tính hàng đầu và quan trọng
nhất là đức tin vào Đức Giêsu. Ông cũng có đức khiêm nhường.
Câu
chuyện Tin Mừng không còn là một câu chuyện về việc đánh cá, nhưng về lòng tín
thác. Đức Giêsu đã nói với Phêrô: "Anh sẵn sàng tín thác vào Thày tới
đâu?". Đây là một khúc quanh trong cuộc đời của Phêrô. Điều gì bắt đầu từ
một khởi điểm mới sau một thất bại thì bắt đầu với một phương hướng mới.
Đánh cá
là một nghề quan trọng. Nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi Phêrô và các bạn chài của
ông đến với một công việc còn quan trọng hơn. Người đã mang lại cho họ không
chỉ một công việc mới, nhưng một mục tiêu để họ cống hiến cả cuộc đời họ cho
mục tiêu ấy. Họ biết rằng người kêu gọi họ để phục vụ những người khác: "Thày
làm cho anh em thành những người đi đánh lưới người". Khi các giáo chủ của
các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ biến đổi người ta thành những nô
lệ của họ. Đức Giêsu kêu gọi các Tông đồ không phải để họ phục vụ Người, nhưng
phục vụ người khác.
Chúa vẫn
còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người
đáp lại lời Người. Một số người (như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến
mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế "chuyên nghiệp". Nhưng
không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép
Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người
bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu
trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ
Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông
đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.
Suy Niệm
2. MỘT KHỞI ĐẦU TỐT ĐẸP
Isaia,
Phaolô và Phêrô là trung tâm của các Bài đọc hôm nay. Cả ba người đã làm những
điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Tuy nhiên họ đều có mặc cảm tự ti. Họ có một quan
điểm thấp kém về mình. Họ không đặt mình ra trước, nhưng được Thiên Chúa kêu
gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy một cách miễn cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng
với ơn gọi.
Isaia
nói: "Tôi là một người có đôi môi ô uế". Phaolô nói: "Tôi là
người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng mang danh tông đồ".
Và Phêrô tuyên bố: "Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội
lỗi". Đó không phải là một sự khiêm nhường giả tạo của ông mà là một chân
lý rõ ràng.
Mỗi người
bắt đầu bằng sự nhận ra sự bất xứng và không thích hợp của mình. Theo một quan
điểm tâm linh, sự khởi đầu như thế là lý tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem
ra làm hại hơn có lợi. Người ấy chỉ cậy dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà
tâm linh xây trên cát chắc chắn sẽ sụp đổ.
Mặt khác,
khi chúng ta gặp một người lo sợ, miễn cưỡng ngần ngại, chúng ta nhận thấy
người ấy đáng tin hơn, và nhân đạo hơn. Yếu tố miễn cưỡng này là cốt lõi của
vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh nhân hoặc tử đạo hăm hở đi tìm cái chết hoặc cực
hình xem ra không chân thật.
Ở đây có
một nghịch lý to lớn. Phaolô nói: "Khi tôi yếu, chính là lúc tôi
mạnh" (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông nhận ra sự yếu đuối của mình và chạy
đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa trở nên có hiệu lực nơi ông.
Khi chúng
ta biết những yếu đuối của chúng ta, Thiên Chúa có thể làm chúng ta mạnh mẽ.
Khi chúng ta biết sự trống rỗng của chúng ta, Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng
ta. Khi chúng ta biết sự nghèo nàn của chúng ta. Lúc đó, chúng ta thích hợp để
làm công việc của Người, và Người hoàn thành trong chúng ta những việc mà chúng
ta nghĩ mình không làm được.
Sự khiêm
nhường là một khởi điểm. Điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ
và hèn nhát. Không có ân sủng, chúng ta không thể cứu lấy mình, càng không thể
cứu người khác.
Tuy
nhiên, người ta có thể dùng tội lỗi và yếu đuối của mình như một lá chắn. Isaia
xin Thiên Chúa chọn người khác, người nào có cái miệng thanh sạch. Phêrô xin
Đức Kitô tránh xa ông vì ông là kẻ tội lỗi. Khi chúng ta làm điều đó, chúng ta
nhượng bộ sự yếu đuối của chúng ta. Chúng ta dùng sự yếu đuối của mình như một
mánh khoé thách đố làm điều thiện hảo.
Theo
Phêrô, Đức Giêsu là Đấng Thánh phải tránh xa ông là kẻ tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu
khước từ làm như thế. Người đã đến vì những người tội lỗi. Bằng cách ấy, Người
đã thay đổi cách hiểu của con người về Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là
Đấng xa lánh tội nhân, nhưng là một Thiên Chúa muốn họ được cứu, và đem đến cho
họ một sự khởi đầu mới mẻ.
Isaia,
Phaolô và Phêrô sau cùng đã chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, và cả ba đã
làm một công việc sáng chói. Đây là một nghịch lý –sức mạnh vươn lên từ sự yếu
đuối. Khi chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa, Người sẽ ban cho chúng
ta sức mạnh để chúng ta có thể làm những điều mà chúng ta không bao giờ nghĩ
mình làm được.
Chúng ta
hãy xin Chúa cho chúng ta sự khiêm nhường để hiểu biết những yếu đuối của chúng
ta, và cho chúng ta sức mạnh vượt lên yếu đuối. Lúc đó, chúng ta sẽ có được
niềm vui để khám phá ra rằng chính khi chúng ta yếu là lúc chúng ta mạnh, bởi
vì quyền năng của Chúa trở nên có hiệu lực đối với chúng ta.
8. Đào
tạo môn đệ
Hồ nước
lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: biển Galilê, biển Ti-bê-ri-át
và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài 20,8km, rộng 12,8km. hồ ở vào chỗ trũng của
mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống như khí
hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có
chính thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới mười lăm ngàn dân.
Ghen-nê-xa-rét thực ra là tên của một cánh đồng xinh đẹp nằm ở phía tây bờ hồ,
đó là vùng đất phì nhiêu nhất.
Tại đây
chúng ta đối diện với một khúc quanh trong chức vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa
giảng trong nhà hội nữa, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ. Rồi Ngài sẽ còn trở lại nhà
hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa nhà hội đóng lại trước mặt Ngài, thì Hội
Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và tòa giảng của Ngài sẽ
là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng.
Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường, bên bờ hồ. Vào dịp này
Ngài mượn một chiếc thuyền của một người bạn dùng làm tòa giảng để giảng cho
quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban cho bốn người sắp được kêu gọi một bài học
cụ thể về tính cách của công tác và sự thành công vĩ đại sẽ đến với chức vụ của
họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài đã làm một phép lạ vô
cùng kích động, và chúng ta có thể liệt kê các điều kiện để một phép lạ xảy ra:
1. Có mắt
biết nhìn xem:
Chúng ta
không cần nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này.
Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc cả mặt biển trong
một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá
lớn đó mà các ngư phủ không thấy. Chúng ta cần đôi mắt biết nhìn thấy. Nhiều
người đã nhìn nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã
nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi nước. Nhiều người đã nhìn thấy táo rơi, nhưng
chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn thấy và đã tìm ra luật hấp lực của trái đất.
Nhìn lên bầu trời các nhà thiên văn học tìm thấy nhiều điều hơn là một người
thường. Nhìn vào một hàng rào cây cỏ, các nhà thảo mộc khám phá ra nhiều điều
kỳ diệu mà một người nông dân thường không nhận ra được.
"Đức
Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy
chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ: lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."
(Mt 9,36-38).
Sau cuộc
tiếp xúc với người phụ nữ xứ Samari ở bờ giếng Gia-cóp, Chúa nói với các môn đệ
viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin Mừng: "Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng
nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa
đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!" Và thánh Gioan ghi tiếp: "Có
nhiều người Samari trong thành đó tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm
chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở lại với họ, Người ở lại hai ngày. Số người
tin còn đông hơn nữa." (Ga 4,35.39.40) Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho
những ai biết nhìn xem.
2. Có
tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:
Khi Chúa
Giêsu nói thế, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều
người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ ngã lòng quá sớm. Trong cuốn hồi
ký "Cuộc đời những thành tựu của tôi", nhà tỷ phú Mỹ Henri Ford với
biệt danh vua ô tô, đã ghi lại biết quyết thành công của ông: "Những người
đầu hàng thường đông hơn những người chiến thắng, không phải họ thiếu tiền của,
sự hiểu biết, trí thông minh, lòng ham muốn... cái họ thiếu là lòng kiên
nhẫn." Và ông gọi đó là "nữ hoàng không vương miện của ý chí."
Ray Knoe, một thiên tài của công ty sản xuất thực phẩm "mì ăn liền"
Mc Donald, cũng có cùng một quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu các
năng lực của con người, ông viết: "Không có gì trên thế gian có thể thay
thế lòng kiên trì. Tài năng ư? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ
thất bại! Thiên tài ư? Thiếu gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư?
Thế gian đầy dẫy những kẻ vô dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì
và cương quyết là vạn năng. Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì
không có gì có thể địch nổi."
3. Có
tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng:
Đêm đã
qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc đánh bắt cá, tất cả hoàn cảnh đều không
thuận tiện, nhưng Phêrô nói: "Trong hoàn cảnh như vậy, nhưng nếu Thày bảo
thì chúng con xin vâng."
Chúng ta
thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi sự đều
thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo
đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể
thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Rõ ràng
đó là do một quyền phép siêu nhiên khiến Phêrô cảm thấy mình đang đứng trước sự
hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ vẻ sợ hãi như cảm giác của một người đối
diện với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã phán những lời chẳng những đánh tan sự kinh
hãi của Phêrô, nhưng cũng đem lại can đảm cho ông và đồng bạn trong những năm
tới: "Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chinh phục người ta."
Ngay nay
Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy
sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.
Để kết
thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của chân phước Eserive, sáng lập Opus Dei:
"Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi xía vô chuyện ấy? Tôi phải trả
lời ngay cho bạn: Chính Đức Kitô ra lệnh cho bạn đó. Ngài bảo bạn phải xin "vì
lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đi gặt
lúa!" Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm sao được? Tôi có nhiều việc
phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho tôi! Không, không có ai
khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói như thế. Lời mời của
Chúa là dành cho tất cả và mỗi người Kitô hữu. Không có ai được miễn trừ, dầu
là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một miễn trừ nào, một
là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta kiệt quệ."
(Escriva amis de Dieu).
9. Những
môn đồ tiên khởi - R. Gutzwiller
Cho đến
bây giờ vẫn chỉ có một mình Đức Giêsu giảng Tin mừng. Bây giờ Ngài tụ tập các
môn đệ quanh Ngài. Chắc hẳn đó là một cộng đoàn thính giả, nhưng cũng là những
cộng tác viên mà Ngài cho tham dự tích cực vào công việc của Ngài. Điều này xem
ra có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Thế nhưng, ngay bản chất của Thiên Chúa nhập
thể đòi hỏi Ngài phải sử dụng con người để xây dựng Nước Thiên Chúa. Lời mời
gọi thật là ý nghĩa bắt đầu nơi Simon Phêrô.
1. Chuẩn
bị.
Nơi
Simon, thửa đất được chuẩn bị thật kỹ lưỡng, mặc dầu ông không ý thức được điều
đó. Ông có mặt khi Chúa chữa lành người quỷ ám trong hội đường. Nơi nhà ông,
Chúa đã chữa lành bà nhạc của ông và chiều đến, trước cửa nhà ông, nhiền bệnh
nhân đã tìm lại được sức khoẻ một cách lạ lùng. Đây Chúa Giêsu đang ngồi trên
chiếc thuyền đánh cá của ông, nhẹ nhàng đi ra xa bờ và từ đó, Ngài cất tiếng
giảng dạy dân chúng; vị trí đặc biệt này cũng là vị thế của ông trong lãnh vực
thiêng liêng.
Trong
việc sửa soạn trực tiếp cho vị Tông đồ có hai phương diện: đòi hỏi và củng cố.
Yêu cầu
thứ nhất là phải luôn dễ dàng suy phục đức tin. Chúa Giêsu bảo ông ra khơi thả
lưới. Phêrô cũng từ chối như bất cứ người nào khác: ông tuyên bố rõ rằng: mình
đã vất vả suốt đêm –thời gian thuận tiện để đánh cá- cùng các bạn, thế mà
chuảng kết quả gì. Bây giờ tại sao lại phải làm nữa, vào một lúc bất lợi, khi
mà con người mệt mỏi và xét theo loài người thì tất bại là cái chắc!
Nhưng ông
cũng thưa: 'Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới'. Tinh thần đức tin đưa đến chỗ vâng
phục, khiến cho ông được thừa nhận và được ban thưởng một mẻ cá lạ lùng. Mẻ cá
mà Simon và em là Anrê bắt được quá nhiều đến độ ông phải làm hiệu cho bạn là
Giacôbê và Gioan ở một chiếc thuyền khác đến giúp đỡ. Và cả hai thuyền đầy ắp
những cá.
Con người
lao công, Thiên Chúa thưởng công. Cần con người phải ra tay hành động, phải cố
gắng, phải sử dụng mọi phương tiện cần thiết, nhưng trong việc phụng vụ nước
Chúa, phần kết quả không tuỳ thuộc ở con người.
Kể từ
thời ấy, Giáo Hội rất thường sử dụng mọi phương pháp để hoạt động tông đồ, dốc
toàn lực và kiên trì làm việc; dầu hạt giống đã gieo, nhưng số thu hoạch không
tăng gấp bội.
Ngược
lại, khi không, ở một miền nào đó trên trái đất, nơi người ta chẳng hy vọng gì
thì nhiều lần Thiên Chúa lại làm phát sinh một mùa thâu hoạch thật là phong
nhiêu, chỗ mà người ta cho rằng kết quả chẳng có bao nhiêu. Ở đây trong sự mời
gọi thi hành nhiệm vụ khởi đầu của Simon, rõ ràng thành công hay thất bại đều ở
trong tay Chúa, vất cả chỉ có ý nghĩa khi nó hợp với Thánh ý và giới mệnh của
Chúa, thi hành cả lúc coi là có viễn tượng thất bại, nhưng làm với một niềm tin
trung kiên bền vững.
Đòi hỏi
thứ hai là ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Thánh Phêrô đã hiểu mẻ cá này có
ý nghĩa gì rồi. Nó làm cho ông chú ý đến Đức Kitô dường như ngôi sao lạ đối với
các đạo sĩ, bởi vì mẻ cá nhiều quá đỗi, trong một khoảng thời gian vắn, một nơi
bất lợi, tất cả cho ông biết rằng có sự hiện diện của một lực siêu nhiên.
Do vậy,
Thánh Phêrô có kinh nghiệm về Thiên Chúa nhờ gần gũi với Đức Kitô. Sự gần gũi
này làm ông sợ hãi đến cùng cõi thâm sâu trong người ông, ông ý thức được tình
trạng tội lỗi của mình, đó là cái không thể tồn tại trước nhan Thiên Chúa. Con
người càng cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống, thì càng thấy cái
tôi tội lỗi cua mình biểu hiện ra thật đau khổ và không thể nào chịu được. Vì
đó Thánh Phêrô, đã sụp xuống và sợ hãi thưa: 'Lạy Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi
là kẻ tội lỗi'.
Đó hẳn là
thái độ xứng hợp. Con người được mời gọi cộng tác vào nước Thiên Chúa chẳng
phải vì có những khả năng đặc biệt như những tư chất tri thức, điều kiện luân
lý và đạo đức, nhưng chỉ đơn giản là vì Thiên Chúa muốn họ cộng tác, có thế
thôi, chứ nơi con người không có chi xứng đáng để Thiên Chúa phải chọn lựa. Một
khi con người biết rằng mình được Thiên Chúa mời gọi không phải vì 'mình thế
này thế nọ', nhưng 'cho dù mình bất xứng, Thiên Chúa cũng vẫn...', và nếu thành
thực thú nhận rằng mình tội lỗi thì sẽ chẳng quy kết quả và vinh dự cho bản
thân mình nhưng cho duy mình Thiên Chúa mà thôi.
Thế cho
nên mẻ cá lạ lùng này là một chuẩn bị tuyệt hảo. Khi con người tội lỗi tín thác
vào sức mạnh và sự cao cả của Thiên Chúa, và bắt tay vào việc với tinh thần dễ
dậy và ngoan ngoãn với đức tin, thì lúc đó họ đang sống trong chân lý. Mọi thái
dộ khác xuất phát từ nguyên một triết lý tự nhiên thôi, đều phải coi là sai
lạc. Chúa Giêsu không đòi hỏi mà thôi, phép lạ của Ngài còn làm cho Simon và
các đồng bạn được vững chắc trong tâm hồn.
Là những
ngư phủ thiện nghệ, họ sẽ chẳng bao giờ quên được mẻ cá này. Họ chưa từng thấy
hay kinh nghiệm một trường hợp nào tương tự. Nay bỗng dưng vào một lúc bất
tiện, cả một đàn cá từ tứ phía đổ tràn vào lưới; nay bỗng nhiên mẻ cá nhiều đến
độ hai thuyền chở nặng gần chìm; họ coi đây là hiện tượng siêu phàm không thể
hiểu được.
Sau này
khi đi giảng Tin mừng các ông sẽ gặp sự chống đối từ phía Israel, và sẽ phải từ
bỏ dân riêng của mình sau bao năm trường vất vả mà không kết quả để quay về
phía các dân ngoại.
Với một
thiểu số ít ỏi, họ đã chinh phục được những thành phố lớn; đến giờ chịu tử đạo,
các ông sẽ phải bỏ mạng sống mình và bỏ tất cả để chấp nhận một số phận bấp
bênh hầu phục vụ nước Thiên Chúa. Thế nhưng các ông không lầm khi theo Chúa
Kitô bởi vì từ nay các ông biết rằng kết quả có thể đến bất ngờ, hoàn toàn bất
ngờ ở nơi nào, lúc nào tuỳ sự tự do cao cả Chúa định đoạt. Các ông không còn lo
lắng đến thành công hay thất bại, chính Chúa Kitô sẽ quyết định những điều đó.
Sau những
đêm trường vất vả mà công dã tràng, các ông nhận được những buổi mai vinh
thắng. Trong nước Thiên Chúa, vất vả cố gắng không được cân đo theo những quy
luật tự nhiên. Ta hãy tin rằng mọi sự đều ở trong tay Thiên Chúa; phải luôn
luôn thi hành công việc với lòng hy vọng và đừng khi nào thất vọng.
2. Sứ vụ
Simon nài
xin: 'Lạy Thày, xin hãy tránh xa con'. Chúa Giêsu trả lời ông theo một hướng
trái ngược hẳn: 'Đừng sợ, các con sẽ là kẻ chinh phục người ta'. Tạo vật tội
lỗi có lý do để sợ hãi. Nhưng ơn sủng của Chúa Kitô sẽ xua đuổi nỗi lo sợ này. Tội
lỗi đẩy ra xa, còn ân sủng kéo lại gần. Không phải chỉ để vui hưởng yên ủi hay
bản thân được cảm nghiệm, nhưng là để tham dự và cộng tác vào công trình của
Chúa. 'Con sẽ là ngư phủ lưới người ta'.
Chiếc ghe
nhỏ của Phêrô từ đây sắp lướt trên đại dương, tức là lịch sử thế giới, đoàn
người đi với Ngài không ngừng tìm cách câu lưới người ta. Con người sẽ trở nên
miếng mồi của Thiên Chúa, nhưng không phải để bị huỷ diệt, mà là để được giải
thoát: để được cứu vớt khỏi cái đầm lầy đáng thương tức là cuộc sống hoàn toàn
có tính cách trần thế, và được đưa sang đại dương mênh mông tức là tình yêu của
Thiên Chúa.
Bởi vì
một khi sóng nước đời này muốn làm biển cả thì thực tế lại chỉ là một cái đầm
lầy nước đọng. Chỉ khi nào sa vào lưới của Chúa và rồi được Ngài cho chìm ngập
trong những cuộn sóng ơn sủng, bấy giờ, họ mới có được cái kinh nghiệm thế nào
là sự phong phú của một đời sống trong Chúa.
Để thực
hiện chương trình này, Chúa Giêsu sắp chinh phục những con người mà Ngài sẽ lấy
quyền năng của mình để trang bị cho và trao cho nhiệm vụ ra đi giảng dạy. Do đó
không được hoàn toàn quên đến phần đóng góp của con người để cho rằng một mình
Thiên Chúa làm hết mọi sự.
Nhưng thể
theo ý của Đức Kitô, Đấng đã sắp đặt như thế chứ không theo cách khác, những
con người này phải chịu vất cả với sự kiên nhẫn, đam mê kiên trì của một ngư
phủ, để đem hiểu biết cũng như tài khéo trong việc đánh bắt những con người 'cô
đơn' sử dụng những phương pháp tinh xảo để thu phục đám đông, dành mọi nỗ lực
để phục vụ sứ mạng đã được trao phó.
Không có
gì cao quí cho bằng nghề lưới người: phải bắt đầu lại luôn luôn, hết mẻ này đến
mẻ khác... đến với mọi giai tầng xã hội, mọi ý thức hệ chính trị, mọi phe nhóm
quốc gia, chủng tộc.. Mọi tuổi tác, giới phái, trình độ văn hoá... Các ngư phủ
lưới người phải làm việc theo lệnh của Chúa ở khắp mọi nơi. Đó là sứ vụ của họ.
Vậy họ
trả lời ra sao? 'Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngưới'. Bản văn không thuật
lại một lời phản kháng nào của bốn môn đệ tiên khởi cả. Không bán tín bán nghi,
cũng không từ chối vì thứ khiêm nhường giả tạo, cũng không vì nhiệt tình bồng
bột; nhưng chỉ nhấn mạnh đến hai mặt của sự kiện: 'Các ông đã bỏ mọi sự mà đi
theo Người'. Mỗi một mặt đều có tầm quan trọng riêng của nó.
Bỏ mọi
sự. Con người phải cởi bỏ những mối dây làm mình bị vướng víu và tê liệt. Cần
phải có bàn tay và tâm hồn tự do. Không còn thuộc về thế giới xung quanh và cái
vũ trụ quen thuộc. Chúa Kitô muốn cho kẻ được Ngài mời gọi cộng tác phải hoàn
toàn tuỳ Ngài xếp đặt. Ân huệ tuyệt đối giả thiết sự từ bỏ hoàn toàn. Nhờ từ
bỏ, con người chuẩn bị cho mình thật sẵn sàng.
Đi theo
Người. từ nay có một nhóm môn đồ ở với Thầy. Các ông không theo Ngài kiểu như
những học trò thụ giáo một bậc Thầy triết lý: bởi vì đây không nhằm mục đích
tri thức, nhưng là một sự dấn thân thực sự. Chúa Giêsu đã biến những ngư phủ
này thành những ngư phủ lưới người, kéo họ ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của họ;
họ sắp đi theo Ngài, cùng Ngài đi vào thế giới mênh mông. Họ thuộc về Ngài hoàn
toàn, họ đã khám phá một tâm điểm mới cho cuộc sống, một mục đích mới để hoạt
động.
Giờ đây
chính Chúa Giêsu sắp xếp mọi sự cho họ; Chúa Kitô sẽ là số phận của họ trong
suốt cuộc sống của họ trên dương thế, và là cuộc sống mới của họ. Sau mẻ cá lạ
lùng này, họ đã cập bờ nhưng với con người hoàn toàn khác hẳn. Sự ra đi này
biến thành một cuộc vượt biển mới, cuộc Vượt qua bao la và đòi can đảm mà họ
chỉ thoáng linh cảm thấy.
Theo
gương Chúa Kitô, qua việc từ bỏ và tận hiến mình thực sự là điều lớn lao nhất
trong cuộc sống của con người.
10. Từ
nay anh sẽ bắt người
Suy Niệm
Chẳng ai
ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.
Ông đã có
nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là
những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần phải chăm nom.
Ông yêu
vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có
Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại
dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể
làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng
yêu.
Đức Giêsu
đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau
đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể
nhân danh kinh nghiệm của mình để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do
mệt mỏi, sau một đêm ra khơi. Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy
Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ
ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ
lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và
nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới:
"Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người."
Simon lại
có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ
quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng
một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ
lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ
cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn
gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều tưởng như không thể đổi.
Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?
Gợi Ý
Chia Sẻ
Nghe theo
tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả không ngờ: có khi nào trong
đời, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của Simon không?
Theo ý
bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là khó bỏ hơn cả?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã
lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây
dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng
của Chúa.
Hôm nay
Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia
đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con
chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa
chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho
chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh
phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
11. Dựa
vào lời Thầy
Suy Niệm
Simon là
một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp. Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào
đổi thay. Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này lại lọt vào cặp mắt của Đức
Giêsu.
Ngài đã
từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông. Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài
giảng và thấy một số phép lạ Ngài làm. Đôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối
liên hệ đời thường, nên Đức Giêsu rất tự nhiên xuống thuyền của Simon, và từ
thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Khi giảng
xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu. Đây thật là một thách đố lớn cho
Simon.
Kinh
nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá thì đánh cá ban ngày cũng uổng
công. Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất vả. Lưới đã được giặt
và đem phơi...
Nhưng
Simon còn có một kinh nghiệm khác, kinh nghiệm về sức mạnh của Lời Đức Giêsu.
Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa cho mẹ vợ ông. Thế nên, giờ
đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau
đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Điều mà
ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp. Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư
tràn. Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá
kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho ông. Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân
mình.
Chính lúc
đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa. Ông thú nhận mình là tội nhân
trước mặt Đấng Thánh.
Nhưng khi
ông muốn Ngài tránh xa ông, thì Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng. Ngài mở
đời ông sang một trang mới:
"Từ
nay, anh sẽ bắt sống người ta." Không phải bắt để làm chết như bắt cá,
nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã
trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Đức Giêsu: kinh nghiệm quen biết, kinh
nghiệm bị thách đố trong niềm tin, kinh nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa
qua mẻ cá lạ, kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp trả.
Kinh nghiệm
trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Đức
Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại. Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ
vỡ. Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.
Tin đòi
vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi
của xác thân.
Tin đòi
tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi
tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng
tất cả trong Ngài.
Hôm nay,
Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác. Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm
như Simon không?
Gợi Ý
Chia Sẻ
Có nhiều
người đi lễ, nhưng ít người nghe được tiếng mời gọi cộng tác của Đức Giêsu. Bạn
có thấy vai trò quan trọng của giáo dân trong Hội Thánh không? Họ có thể làm gì
và phải làm gì?
Cuộc đời
Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả mà không được gì. Bạn đã làm gì để giữ
vững niềm tin trong giai đoạn ấy?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã
lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây
dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng
của Chúa.
Hôm nay
Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia
đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con
chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa
chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho
chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh
phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
12.
"Con sẽ là kẻ đánh lưới người"
Một cái hồ
nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng thuyết trẻ, vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu
lưu của Giáo Hội mà Luca là người thuật lại đã bắt đầu như thế. Trong khi mô tả
bước đầu này ngài hiểu những chuyến đánh cá người đầu tiên, những bước đầu của
Giáo Hội nơi thế giới ngoại giáo. Và chúng ta, làm sao chúng ta không nghĩ đến
những đám đông các tín hữu?
Nhưng
cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi những ngư phủ nữa. Tin Mừng này là dành
cho mỗi một người chúng ta, ngay cả đoạn 10 nổi tiếng mà vì Tin Mừng đó, đoạn
này đã được viết: "Từ nay đây là những người mà con sẽ bắt lấy". Đây
là những từ ngữ thật sự đánh trúng những thanh thiếu niên đã trở nên những linh
mục và những nhà truyền giáo.
Và có thể
đánh trúng những ai trong khi đọc lại trang Tin Mừng của Luca cảm thấy nổi lên
sự nản chí: đánh cá ở đâu và như thế nào đây?
Đây chính
là mục tiêu của trần thuật này của Luca: niềm tin vào Chúa Giêsu như là phương
thuốc chống lại sự nản chí. Trong khi khai mào mùa đánh cá tông đồ lớn lao,
Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo đừng nên quên bao giờ: không có Ta, lưới của
các con sẽ trống trơn. Chúng ta không luôn luôn thấy rõ chân lý cơ bản này ở
vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã dấn thân vào sứ mạng tông đồ, chúng ta lao
nhọc ngày đêm mà không làm việc một cách đầy đủ với Chúa Giêsu. Chúng ta bỏ
không nghe bài giảng, xao lãng các bí tích, chúng ta hoạt động, chạy vạy và một
ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm cật lực một cách vô ích.
Làm
phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta muốn thoát ra khỏi một giây phút nghi
ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng này. Đây là trang Chúa Giêsu tỏ cho
thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta tin cậy vào Ngài. Ngài chọn điều có
thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông đồ đầu tiên: nghề nghiệp của họ. Và
Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà đưa ra những lời khuyên cho những
người chuyên đánh cá, và là những người vất vả qua một đêm nỗ lực nhưng vô ích.
Những nhà
chuyên môn trong công tác tông đồ sẽ gặp cảnh này. Cạn kiệt những nỗ lực vô
ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho Chúa Giêsu, nghĩa là cho việc cầu nguyện.
Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong công tác tông đồ hạn hẹp hơn và không
chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay hoặc tìm kiếm những phương pháp khác
hơn là chuyên chú cầu nguyện.
Dầu vậy,
chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến cho chúng ta lòng nhiệt thành của Phêrô. Là
thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc, Chúa Giêsu đã chinh phục ông: "Theo
lời Thầy, tôi xin thả lưới".
Chúng ta
sẽ không đưa về những mẻ lưới và những chiếc thuyền đầy cá. Chúng ta không còn
ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ đến phép lạ củng cố một niềm tin vừa chớm nở.
Nhưng chúng ta biết điều mà con người đã có thể làm cùng với Chúa Giêsu, qua
những mẻ lưới truyền giáo lớn. Chúng ta có quyển Công Vụ Tông Đồ, những câu
chuyện truyền giáo và những hạnh các thánh để làm sống lại niềm tin của chúng
ta. Một mình đức tin, đức tin có thể làm cho chúng ta thành các tông đồ làm
việc cật lực nhìn lên Ngài "theo lời Thầy, tôi xin thả lưới".
13. Cuộc
phiêu lưu
Chúng ta
vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của ba nhân vật quan trọng nhất của Thánh
Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô. Cả ba đã gặp Chúa trong những biến cố lạ
lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc đời cho Ngài. Vậy thì cuộc phiêu lưu ấy
như thế nào?
Đối với
Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông trong một thị kiến khác thường. Ông thấy vinh
quang Thiên Chúa bằng một cảnh sắc hùng vĩ, với các thiên thần đứng chầu và
không ngớt tung hô. Một cảnh tượng uy nghiêm và trang trọng.
Đối với
Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ông một cách trực tiếp hơn. Sau khi đã kể
lại những người đã được Đức Kitô phục sinh hiện đến, ông cũng cho biết là Đức
Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó ông đang bắt bớ Giáo hội, nhưng là do
tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra này đã là một biến cố quan trọng
trong đời sống của ông.
Còn Phêrô
và các bạn thì đã bị bắt lấy đang lúc làm việc và đã thấy được quyền năng của
Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố đó đã làm cho ông và các bạn ông tin theo
Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba cách thức khác nhau để mạc khải, để tỏ lộ
mình ra.
Đối với
Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh quang. Đối với Phaolô thì Đức Kitô là chủ
của sự sống, còn đối với Phêrô, thì Ngài là Chúa của tạo vật. Đối với mỗi vị,
Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu hút lại vừa chế ngự. Vừa có vẻ như xa xôi
nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng những lời mời gọi mãnh liệt nhất và trong
những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với họ như để hoàn thành một cách sung mãn
niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn họ.
Đồng thời
trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có cùng một phản ứng, vừa bất ngờ lại vừa mạnh
mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất xứng và hổ thẹn.
Isaia đã
kêu lên:
- Vô phúc
cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi nhơ bẩn.
Phaolô
thì tự thú:
- Tôi vốn
là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ và không xứng đáng với danh hiệu ấy, vì
tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.
Còn Phêrô
thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:
- Lạy
Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi là kẻ tội lỗi.
Giữa lý
tưởng cao cả mời gọi họ và con người yếu đuối của họ có một hố sâu cách biệt,
làm cho họ cảm thấy mình bất lực và muốn đẩy Thiên Chúa ra xa. Trước mặt Thiên
Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi và xấu hổ. Thế nhưng chính Ngài sẽ hành
động để nâng đỡ sự yếu hèn của con người.
Miệng
lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng than hồng. Phaolô được biến đổi bởi ơn
Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,. thì cảm thấy như được an tâm để dấn
thân vào công việc mới. Như thế mỗi người đều được Thiên Chúa tái tạo và chấp
nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng và thất vọng nhất. Từ đó họ cảm thấy
cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào Thiên Chúa. Nên họ hoàn toàn phó thác,
để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài mong muốn nơi họ. Họ chỉ còn biết theo
Ngài và tuân phục Ngài.
Để đáp
trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì Isaia đã trả lời:
- Này tôi
đây, xin hãy sai tôi.
Phaolô
thì nói:
- Tôi đã
chịu khổ nhọc nhiều hơn những người khác.
Còn Phêrô
và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe thuyền mà đi theo Chúa Giêsu.
Sự sợ hãi
đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin tưởng vì Thiên
Chúa chính là tất cả những gì chúng ta muốn và Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên
như thế, vì nếu không có Ngài chúng ta không là gì cả.
Cuộc
phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải chăng cũng là cuộc phiêu lưu của mỗi người
chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách. Thiên Chúa đến với chúng
ta bằng nhiều ngả đường.
Vì thế,
cần phải chăm chú lắng nghe và tìm hiểu. Có những lúc chúng ta cảm thấy bối rối
và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng ngã lòng, bởi vì Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ.
Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng từ bỏ và vâng phục Ngài.
14. Mẻ
lưới
Sau khi
kết thúc bài giảng của mình, Chúa Giêsu nói với Phêrô rằng:
- Hãy ra
khơi và thả lưới.
Và chúng
ta đã thấy được phản ứng tức thời của Phêrô. Ông nói:
- Thưa
Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào.
Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả lưới.
Qua lời
nói này, chúng ta thấy được thái độ của Phêrô. Ông không tranh luận và bàn cãi
với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, trái lại ông hoàn
toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì thế mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Đồng thời,
nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các ông đã làm lụng vất vả suốt đêm, tuy
nhiên các ông đã làm lụng như thế nào?
Tôi xin
thưa:
- Các ông
đã làm lụng một mình.
- Và kết
quả ra làm sao?
Tôi xin
thưa:
- Chỉ là
một con số không.
Với chúng
ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc một mình, có nghĩa là chúng ta quá ỉ vào sức
riêng, quá cậy dựa vào tài năng của mình, để rồi thất bại sẽ làm cho chúng ta
bực bội và thất vọng. Trái lại, với tâm tình cầu nguyện và tin tưởng, chúng ta
hãy mời Chúa cùng làm với chúng ta và chúng ta sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn
nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Có Chúa
thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành
cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Hay như
Thánh vinh đã nói:
- Ví như
Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề
vất vả chỉ là uổng công.
Thành trì
Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh
kiện tướng cũng không ra gì.
Và chính
Chúa cũng đã xác quyết:
- Không
có Thày, các con không thể làm gì được.
Tiếp nối
đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ cá lạ lùng ấy, các môn đệ đã đi từ ngạc
nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô đã quì xuống dưới chân Chúa và thưa lên
với Ngài:
- Lạy
Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Phải
chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ cõi lòng khiêm nhường của ông, khiến
chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên đội trưởng:
- Lạy
Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.
Chúa
Giêsu không những đã không rời xa Phêrô, trái lại Ngài đã yêu thương và dành
cho ông một sứ mạng:
- Từ nay
con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.
Và Phúc
âm đã kết thúc: các ông cho thuyền vào bờ, rồi sau đó đã từ bỏ mọi sự mà đi
theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi này đã nói lên tất cả. Các ông đã trở
thành những mẫu gương sáng chói cho muôn đời noi theo, bởi vì qua dòng thời
gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi sự, bước theo Chúa trên dấu chân
của các ông.
Lời Chúa
phán với các ngư phủ bên bờ hồ Tibêriade ngày xưa vẫn còn vang vọng tới chúng
ta cho đến hôm nay:
- Các con
hãy ra khơi và thả lưới.
Vâng theo
lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị tông đồ đã đi tới những vùng đất xa xôi hẻo
lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm, thực hiện những hành động bác ái yêu thương
hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Riêng
chúng ta thì sao? Là những người dân ở hậu phương, chúng ta có bổn phận phải
yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến bằng lời kinh cầu nguyện, bằng đời
sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải cũng như bằng chính tiền bạc vật
chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái được những thành quả tốt đẹp, và
bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó, cũng sẽ trở nên những người thợ gặt
trên cánh đồng truyền giáo.
Thế
nhưng, chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá
đức tin của Giáo hội? Chúng ta có thực sự muốn ra khơi và thả lưới hay không?
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét