MỪNG LỄ THÁNH ANTÔN |
MỪNG KỶ NIỆM HAI ĐỨC CHA ĐƯỢC BỔ NHIỆM |
ĐỒNG TẾ MỪNG LỄ THÁNH ANTÔN |
ĐỒNG TẾ MỪNG LỄ THÁNH ANTÔN |
ĐỒNG TẾ MỪNG LỄ THÁNH ANTÔN |
ĐỒNG TẾ GIỖ CHA CỐ TRỌNG TAI SAPA |
HAI TÂN TÒNG H’MÔNG |
CHÚA NHẬT LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
1. Mình Máu Thánh Đức Kitô.
-
Làm sao
một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
-
Được chứ
sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu
thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không
nào? Chớ thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa
được.
Bậc thầy đó lại hỏi
tiếp:
-
Làm sao
Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
-
Thầy hay
nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao
lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy
có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao
Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu
thua lại hỏi thêm:
-
Làm sao
có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi
thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?
Vị linh mục đáp:
-
Đối với
Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Rồi để chứng minh
cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể
tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy
đang ngạc nhiên và nói:
-
Trước
đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào. Và
bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại
sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên
giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội
cử hành mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi
đi tham dự Thánh lễ?
Thánh lễ không phải
là nơi trình diễn thời trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham
dự đầy đủ, biến Thánh lễ thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu
đến cuối, còn cộng đoàn thì yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng
vụ và tinh thần cộng đoàn của Thánh lễ.
Nếu thánh lễ là một
bữa tiệc, thì chúng ta phải cố gắng để Lời Chúa đúng là một món ăn thừa thãi.
Tuy nhiên khi dọc tiệc, Thiên Chúa muốn chúng ta được ăn uống no say ơn thánh
của Ngài. Nhưng vì Bí tích Thánh Thể là bàn tiệc thánh, nên muốn, tiếp nhận
Chúa vào cõi lòng, thì linh hồn chúng ta cũng phải ở trong tình trạng ơn thánh,
nghĩa là sạch tội trọng. Và hơn thế nữa mỗi khi tham dự Thánh lễ chúng ta hãy
duyệt xét lại mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta xem có phù hợp với
Tin Mừng và nhất là chúng ta đã thực sự sống bác ái yêu thương hay không. Bởi
vì chúng ta phải làm hoà trước đã, rồi mới đến mà dâng Thánh lễ sau.
2. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi.
Suy Niệm
"Lúc đó tôi
biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống". Đó là lời
của bà Susanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn
người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối
ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình
chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến
khi cả hai mẹ con được cứu. Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh
Thể.
Đức Giêsu đã chết để
chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài
muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ,
vào dịp lễ Giáng sinh, thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có
ít người tò mò lên "ăn bánh thánh". Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng
manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ: "Ăn
tấm bánh đó là ăn thịt Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa". Thật là
kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức
tin, không dễ giải thích cho người ngoài. Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng
của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn
trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây
là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy."
Mình và Máu tượng
trưng toàn thể con người Đức Giêsu. Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt
mình Ngài, mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
·
Rước lễ
là gắn bó với một ngôi vị: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong
tôi và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
·
Rước lễ
không phải là đón nhận một xác chết, nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay
đã phục sinh. "Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống
nhờ tôi như vậy" (c.57).
·
Rước lễ
là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ
Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu
phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con
người, nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất
bất động cũng được nâng lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất có chỗ trong
thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật
chất ở quanh ta cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Bài Tin
Mừng hôm nay có 10 từ "sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự
sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
·
Bạn nghĩ
gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình
không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để
tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có
một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con
về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện
diện ấy lan tỏa khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa
mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục
hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn
năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu
trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa,
trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn
màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
3. Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Mỗi khi chiêm ngắm
Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy
vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá
thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường,
quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt
được quý trọng.
Tuy bình thường,
nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như
nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng
không có không được.
Chúa trở thành tấm
bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người.
Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm
bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của
con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị. Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa
vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý
nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi
được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu
hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây
không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu
thụ.
Khi xưng mình là
bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền
nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa
chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được
lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá
để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết
với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với
Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành
nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn
chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con
người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu
của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một
bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia
sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng
ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm
thiết.
Với những gợi ý như
thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí
tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích
Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi
với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích
Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì
Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh
Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những
người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh
Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn
đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1)
Khi dâng
lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2)
Khi bạn
rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3)
Phép
Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
4. Một trao đổi khôn lường – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài Phúc Âm này là
phần chính của bài giảng về bánh sự sống, được Chúa dạy sau phép lạ hoá bánh ra
nhiều và bước đi trên nước. Qua những phép lạ ấy, Chúa Giêsu đã chứng tỏ quyền
năng của Ngài trên thiên nhiên, trên thân thể của Ngài và quyền phân phát vô
tận lương thực thần linh, mà bánh hoá nhiều là biểu tượng. Như đối với phần
đông các bản văn của thánh Gioan, đoạn này đòi hỏi sự suy niệm và đón nhận chăm
chú hơn là lời bình giải. Chính để giúp suy niệm, mà một vài ghi chú sau đây
được đề ra.
1) Ta là bánh sự sống từ trời xuống. Chúng ta có thể giải thích lời này như một
mệnh đề phát biểu sự kiện Nhập thể. Sự sống đời đời hứa cho ai ăn bánh ấy là sự
sống siêu nhiên, do Đức Kitô mang đến cho kẻ nào tin vào Ngài như là Đấng được
Chúa Cha sai đến. Nhưng lời ấy còn có ý nghĩa khác. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta chịu
nộp cho thế gian được sống. Ở đây Chúa Giêsu nói về tương lai. “Bánh”
cho đến đây có thể chỉ Chúa Giêsu lương thực đức tin, nay mang một ý nghĩa mới…
Đức Kitô – Bánh ăn – đã trao nộp thịt mình cho thế gian được sống. Điều ấy có
nghĩa là nếu phép Thánh Thể là một lương thực, đồng thời cũng là lễ hy sinh.
Đức Kitô tự nộp làm của lễ hy sinh trong cuộc Tử nạn và trên thập giá, Thánh Thể
đồng hoá hy lễ ấy và tiếp nối cho đến mãi mãi. Chúng ta có nghĩ rằng khi tham
dự vào bàn tiệc của Chúa, mối dây liên kết huynh đệ đầu tiên và chính yếu nhất
nối liền chúng ta với Hy lễ của Ngài hay không? Những buổi cử hành phép Thánh
Thể nối kết làm một sự thông hiệp của chúng ta với nhau. Đừng bao giờ chia cắt
những gì Chúa đã liên kết. Các Thánh lễ của chúng ta, cử hành chia sẻ, cũng
phải cử hành lòng thờ phượng.
2) Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy ở
trong Ta và Ta ở trong người ấy. Lời này của Chúa cho thấy rõ một sự hỗ tương quan trọng. Thực vậy,
thoạt xét người ta có thể đơn giản nghĩ rằng Đức Kitô ở trong người nào ăn mình
Ngài. Như thế chưa đủ, điều ngược lại cũng đúng. Người ước ao mình được ở trong
Ngài, người ấy được đi vào và ở trong Đấng tạo dựng Cứu chuộc, viên mãn của
mình. Làm sao nghĩ tưởng một điều như vậy? Chúa đã muốn như thế. Ngài ban cho
con người một khả năng phi thường hoà nhập vào Thần linh. Khi rước mình Đức
Kitô, người tín hữu tiến dần đến sự hoà nhập với Đức Kitô. Nếu nghĩ rằng con
người sẽ biến Thiên Chúa thành người thì được nuôi dưỡng bởi mình và máu Ngài
thì thật là ấu trĩ. Con người được biến thành Thiên Chúa mới đúng. Con Thiên
Chúa khi hiến thân làm lương thực thần hoá người nào ăn Ngài, Ngài cho người
được tham dự vào bản tính Thần linh. Điều này khiến ta nghĩ đến câu tán tụng
của mùa Giáng Sinh: Ôi trao đổi kỳ diệu, Thiên Chúa làm người để người được nên
Thiên Chúa.
5. Cậu bé Marcellino
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino”
kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một
thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và
tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên
gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt
khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang
đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho
người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương
thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống
khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
-
“Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
-
“Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
-
“Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy
Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng
tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến,
đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng
để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi
dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh
Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng
ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón
nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay
để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ
về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín
hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay,
chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh
và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí
tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã
có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để
nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của
uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn
bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát
thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của
uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không
những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống
vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên
Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra
trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của
uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến
sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh
Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp
mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong
tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở
trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với
Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám
khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong
tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với
Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín
hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm
thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm
thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ
nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để
chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của
cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách
bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã
từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói
với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết
chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến,
“Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được
mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà
không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là
một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và
lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong
đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến
dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì,
chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng
vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng
bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với
Chúa Kitô.
Đức Cha Helder
Camera, Tông Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống
nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được
nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức
Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường
phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến
sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện
ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt
25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong
sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình
yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm
giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng
một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm
hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ,
cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
6. Để đón nhận sự sống đời đời
(Trích trong ‘Cùng
đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Mekong là một trong
12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng,
chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanmar (Miến
Điện), Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông,
đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem
lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của
nó.
Sự sống thần linh,
tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng
tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi
cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha
[Chúa Cha là Đấng hằng sống". Ga 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng
như Chúa Thánh Thần, ["Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống
nhờ Chúa Cha." Ga 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như
nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề
xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba
Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân
loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giêsu
được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở
trong Ngài. [Có lần Chúa Giêsu ngỏ lời với Philipphê: "Anh không tin rằng
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?... Anh em hãy tin Thầy:
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 10-11)]
Vậy nếu chúng ta
muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giêsu thông ban, thì chúng ta
cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giêsu và để cho Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ
dàng vì chính Chúa Giêsu đã quảng đại mách bảo cho mọi người: "Ai ăn thịt
và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6,
56)
Ngoài ra, theo bài
giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì "khi bạn ăn uống Mình và
Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như
thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập
khắp toàn thân" (trích bài đọc Kinh Sách mùa Chay & Phục Sinh, bản
dịch của nhóm PVGK trang 456).
Một khi được ở trong
Chúa Giêsu, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu thì tất nhiên Sự Sống của
Chúa Giêsu (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận.
Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình
nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giêsu mới nói là "ai ăn Thịt
và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời." (Ga 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích
Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống
từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời,
nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giêsu.
Thật là ân huệ tuyệt
vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho
nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giêsu trong bí
tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời
đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
♥♥♥
Con người sẵn sàng
trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp
phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy
nay Chúa Giêsu biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn
phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa
ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không
những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng
thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn
tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao
quý nầy.
7. Mình Máu Thánh Chúa – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống
Tin Mừng’)
Một Mục sư nọ kể lại
câu chuyện sau đây:
Hai người lính vào
trong một Giáo đường. Họ đứng giữa cộng đoàn đang sốt sắng cầu nguyện, người
lính lớn tiếng đe dọa: Ai không bỏ đạo sẽ
bị bắn chết tại chỗ. Ai bỏ đạo thì đứng sang bên phải và được thả về; những
người còn lại chuẩn bị để chết vì niềm tin của mình.
Nhưng trong bầu khí
hoàn toàn tin tưởng, không ai rời khỏi vị trí mình đang cầu nguyện.
Trước bầu khí thinh
lặng và thánh thiêng ấy, hai người lính kia thả súng xuống và nói: Chúng tôi là những người Kitô, sở dĩ chúng
tôi đã hành xử như vừa rồi là vì chúng tôi muốn thử xem có ai là người sẵn sàng
chết cho niềm tin của mình không? Và chỉ những người như thế mới đáng được về.
Bài Phúc Âm của Chúa
Nhật Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa tra vấn các người Kitô, mỗi người chúng ta có
quyết liệt đến mức sẵn sàng chết vì điều mình tin chăng?
Sách Phúc Âm của
Gioan đã thuật lại cho độc giả tới màn khá gay cấn. Sau bài Tin Mừng, tác giả
cho biết nhiều môn đệ của Chúa Giêsu không ngần ngại nói trắng ra điều họ nghĩ:
"Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi" (Ga 6,60). Kết quả là nhiều
môn đệ rút lui không còn tin vào Chúa Giêsu nữa, không còn đồng hành chung với
Ngài nữa. Đó là lúc chính Chúa Giêsu đã muốn nhóm Mười Hai phải xác định rõ lập
trường về niềm tin của mình: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay
sao?". Chúng ta biết, một bên là Phêrô đã tuyên xưng thay cho các Tông Đồ:
"Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những Lời ban
sự sống đời đời". Và bên kia là Giuđa Iscariô không những bỏ Thầy mà còn
phản Thầy nữa.
Toàn bộ chương VI
của Phúc Âm thánh Gioan đặt các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã
được thấy Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều (x. Ga 6,1-10), rồi đi
trên mặt nước và trong nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống (x. Ga
6,16-21). Rồi cuối bài giảng tại hội đường Capharnaum, ở đó Chúa Giêsu xưng
mình là Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,26-59). Bài Phúc Âm hôm nay rút từ bài diễn văn
của Chúa tại Hội Đường Capharnaum: "Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai
ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho
thế gian được sống". Chúng ta có còn tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa phán
hay không?
Ngày 3.5.1999, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh Lễ Mình và Máu Thánh Chúa tại đền
thờ thánh Gioan Latêranô ở Rôma. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong ước tất cả
mọi người hiệp ý với Ngài dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể lời nguyện cho hòa bình
tại Kosovo và cho tất cả mọi người trên thế giới. Sau đây xin được trích lại
bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Kính Mình Máu Thánh
Chúa để chúng ta cùng hiệp ý chia sẻ và mừng kính Lễ Mình Máu Thánh Chúa trong
ngày hôm nay.
"Hỡi Sion, hãy dâng lên lời chúc tụng
Đấng Cứu Thế".
Lễ trọng kính Mình
Máu Thánh Chúa là ngày Lễ Chúc Tụng và Tạ Ơn. Trong lễ này, dân Kitô hiệp nhau
quanh bàn thờ để chiêm ngắm và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhớ hy tế Chúa
Kitô, Đấng đã ban cho tất cả mọi người ơn cứu độ và sự bình an.
Việc cử hành Thánh
Lễ trọng thể và cuộc rước kiệu theo truyền thống, cả hai đều hướng đến một mục
tiêu đặc biệt là cầu khẩn tha thiết cho "Hòa Bình". Trong khi chúng
ta tôn thờ Mình Thánh của Đấng là Đầu, là Chúa Giêsu. Làm sao chúng ta không
liên đới để trở thành những chi thể của Người đang chịu đau khổ vì chiến tranh?
Phải, Thưa anh chị
em thân mến,
Những tín hữu Rôma
và khách hành hương hôm nay, tất cả chúng ta bắt đầu cầu nguyện chung với nhau
cho Hòa Bình. Chúng ta hãy cầu nguyện đặc biêt cho hòa bình tại Kosovo. Ước chi
Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
Trong bài đọc thứ
nhất vang lên mệnh lệnh của Chúa: "Con hãy nhớ lại con đường mà Thiên Chúa
đã cho con đi qua" (Dnl 8,2). "Con hãy nhớ lại", đây là mệnh
lệnh thứ nhất, không phải lời mời gọi mà là mệnh lệnh Chúa gởi đến dân Ngài
trước khi đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa ra lệnh cho họ là đừng quên.
Để có được sự hòa
bình của Thiên Chúa hứa ban thì trước hết hãy "đừng quên", hãy biết
sử dụng những kinh nghiệm đã trải qua, kể cả những sai lầm, người ta cũng có
thể rút ra một bài học để định hướng tốt hơn cho con đường mình đang đi. Khi
nhìn về thế kỷ này và nhìn về ngàn năm sắp kết thúc, làm sao chúng ta không nhớ
lại những thử thách khủng khiếp mà nhân loại đã gánh chịu, chúng ta không thể
nào quên được, ngược lại chúng ta phải nhớ. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta,
giúp chúng ta rút ra những bài học đúng từ những thăng trầm chúng ta trải qua
cũng như của những ai đã đi trước chúng ta.
Lịch sử muốn nói đến
những khát vọng to lớn là muốn có hòa bình, nhưng cũng nói đến thất vọng mà
nhân loại đã phải chịu nữa là "nước mắt và máu". Chính ngày hôm nay
3.6.1963, cách đây hơn ba mươi năm về trước, Đức Gioan XXIII qua đời. Ngài là vị
Giáo Hoàng của "Thông Điệp Hòa Bình Trên Mặt Đất". Thông Điệp này đã
được mọi người đồng thanh ca tụng biết chừng nào, trong đó có nói lên những
đường nét chính đích thực cho việc xây dựng hòa bình thế giới. Nhưng biết bao
lần trong những năm qua, người ta phải chứng kiến biết bao vụ bùng nổ, gây
chiến, bạo lực, chiến tranh trên thế giới. Tuy nhiên, người tín hữu không đầu
hàng, người tín hữu biết mình có sức cậy dựa vào sự trợ lực của Thiên Chúa. Về
điểm này, những lời của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly thật là có ý nghĩa:
"Thầy để lại bình an cho các con. Thầy đem lại bình an không như cách thức
thế gian đã ban cho" (Ga 14,27).
Ngày hôm nay, chúng
ta muốn hiểu thấu những lời này và hiểu cách sâu xa hơn nữa. Trong tinh thần,
chúng ta hãy bước vào nhà Tiệc Ly với Chúa Giêsu qua việc Ngài trao ban chính
Mình và Máu Ngài dưới hình bánh và rượu mà Ngài đã thực hiện ở Calvariô đang
được tái diễn trong nhiệm tích Thánh Thể. Chính trong cách thức này mà Chúa
Giêsu trao ban cho chúng ta sự bình an. Sau này Thánh Phaolô đã bình luận:
"Người là hòa bình của chúng ta".
Khi trao ban chính
Mình, Chúa Giêsu Kitô trao ban cho chúng ta chính sự bình an. Hòa bình của Chúa
không phải là hòa bình của thế gian, nhưng hòa bình của Chúa Kitô là kết quả sự
Vượt Qua của Ngài, nghĩa là kết quả của hy tế trong cuộc vượt qua của Ngài.
"Bánh mà Ta ban
cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống". Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe,
những lời này của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hiểu thế nào là nguồn mạch của
hòa bình đích thực. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, là Bánh được trao ban
cho thế gian để được sống. Đó là Bánh mà Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, ngõ hầu để
nhân loại được sống và sống dồi dào: "Thiên Chúa đã không tha Con Một
Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài" (Ga 3,16), để cứu rỗi tất cả, như là
Bánh nuôi sống tất cả.
Ngôn ngữ Chúa Giêsu
dùng thật rõ ràng. Để được sống thì không chỉ tin Chúa mà thôi, còn cần phải
sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Vì vậy mà Ngôi Lời đã Nhập Thể, chết
và sống lại. Người đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta biết
Thánh Thể, ngõ hầu chúng ta có thể sống nhờ Ngài, như Ngài sống nhờ Chúa Cha
(Ga 6,5). Bí tích Thánh Thể là bí tích của hồng ân mà chính Chúa Kitô đã trao
ban cho chúng ta, là bí tích của tình thương và hòa bình, là sức sống sung mãn
"Bánh Hằng Sống, Bánh ban sức sống".
Ước gì lễ Kính Mình
Máu Thánh Chúa gia tăng đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, vào Bí Tích Thánh
Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, ban
cho chúng ta sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, bước
theo Chúa chúng con dấn thân chống lại bạo lực của con người trên con người mà
không dùng đến bạo lực. Chúng con cần có sức mạnh của tình thương Chúa, chúng
con cần lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống sự sống của Chúa, để được
sức mạnh của Chúa, sức mạnh của tình thương chiến thắng trên bạo lực.
Lạy Chúa, xin giúp
mỗi người chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, nhờ bí tích Thánh Thể
chúng con được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng con lãnh nhận sự sống
của Chúa trong mình chúng con, xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa
nhiều hơn. Amen.
8. Bí tích Thánh Thể
Nếu đọc lại Phúc Âm,
chúng ta sẽ thấy từ việc chuẩn bị đến việc thiết lập và cử hành bí tích Thánh
Thể, tất cả đều được diễn ra trong bàu khí của một bữa ăn.
Thực vậy, bữa tiệc
thứ nhất đó là đám cưới Cana, tại đây Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã
hóa thành rượu ngon. Qua phép lạ này Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cứu cho đôi
tân khỏi bị bẽ mặt với khách mời vì thiếu rượu, mà còn muốn củng cố niềm tin
cho các môn đệ, cũng như chuẩn bị cho các ông đón nhận bữa tiệc ly sau này, khi
Ngài biến rượu thành máu thánh Người.
Tiếp đến là phép lạ
Chúa Giêsu làm cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng đám đông trong hoang địa. Qua
phép lạ này, Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng
liêng nuôi sống linh hồn chúng ta:
-
Thịt Ta
thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có
sự sống đời đời. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế. (Ga 6,55-56).
Thế nhưng, quan
trọng hơn cả phải là bữa tiệc ly, qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh
Thể vào buổi chiều ngày Thứ năm Tuần Thánh. Phúc âm đã kể lại như sau: Đang khi
ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ
và phán:
-
Tất cả
các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Cùng một thể thức ấy
Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:
-
Tất cả
hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và
nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. (Mt
26,26-29).
Cuối cùng, đó là bữa
ăn nơi quán trọ gần làng Emmaus. Sau khi hai môn đệ mời Người vào nghỉ chân,
Người đã cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra
Người đã Phục sinh, đã sống lại. (Lc 24,13-35).
Nhìn vào đời thường,
chúng ta thấy, những người cùng ngồi ăn với nhau trong một bàn tiệc trong một
bữa cơm, thường có một mẫu số chung nào đó. Mẫu số chung ấy có thể là tình
nghĩa gia đình, tình nghĩa bè bạn. Mẫu số chung ấy còn có thể là một niềm vui,
một nỗi buồn, hay một công việc cùng làm. Vì thế, bữa ăn trở nên một biểu tượng
của tình yêu, của cảm thông, của hợp nhất.
Bàn tiệc Thánh Thể
cũng vậy, phải là biểu tượng của yêu thương, của cảm thông, của hợp nhất, như
lời thánh Phaolô:
-
Chúng ta
tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô.
(1Cr 10,17)
Vì thế, sống Bí tích
Thánh Thể cũng chính là sống yêu thương, sống cảm thông, sống hợp nhất. Chúng
ta phải bắt chước cộng đoàn Giêrusalem ở những năm tháng đầu tiên khi Giáo hội
còn phôi thai. Từ nghi thức bẻ bánh trở về, họ đã gom góp tài sản riêng làm của
chung, rồi phân phối theo nhu cầu của mọi người, đến nỗi dân ngoại đã phải thán
phục và kêu lên:
-
Kìa xem
họ yêu thương nhau biết là chừng nào. (Cv 2,42-46).
Còn chúng ta thì
sao? Hằng ngày, hay ít nữa là hàng tuần, chúng ta đều đến nhà thờ tham dự thánh
lễ, thế nhưng, trong cuộc đời, chúng ta đã thực sự sống yêu thương, sống cảm
thông và sống hiệp nhất với nhau hay chưa?
9. Thánh lễ làm cho chúng ta trở thành anh em
Càng ngày người ta
càng nghe câu nói làm tổn thương đến đời sống Kitô hữu: “Tôi là tín hữu nhưng
không hành đạo”. Tôi hy vọng rằng tất cả con người bạn nổi lên chống lại cái
khẳng định tách rời sự “hành đạo” với “đức tin” này. Nhưng chúng ta hãy xem xét
kỹ mối dây liên kết giữa hai điều trên.
Việc chúng ta suy
niệm về Bánh Hằng Sống sẽ chỉ cho chúng ta thấy mối liên kết giữa hai phần của
cuộc sống Kitô hữu: “Nếu các ngươi không ăn thịt Ta, nếu các ngươi không uống
máu Ta, các ngươi sẽ không có sự sống”
Tiếng cốt lõi đó là:
sự sống. Người tín hữu không hành
đạo rất có ý muốn “sống đức tin” của mình. Và điều này được thể hiện tức khắc
do một mối quan tâm chính đáng về tình yêu thương anh em: “Tôi tin vào Chúa
Kitô và Tin Mừng của Ngài. Chúa Kitô không đòi hỏi tôi phải đi lễ, Ngài đòi hỏi
tôi phải yêu thương”.
Ngài đòi hỏi cả hai
việc! Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương các con”, cũng chính là Chúa Giêsu đã báo trước cho chúng ta: “Nếu các
con không hiệp thông cùng thịt và máu Ta, các con sẽ không có sự sống. Sự sống
này cho phép các con là anh em với nhau như
Thầy là anh em với các con”.
Phép Thánh Thể kết
hợp chúng ta với cuộc sống của Chúa Kitô đến nỗi chúng ta không dám nghĩ đến
điều đó nếu chính Ngài không nói với chúng ta: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta
thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”. Tôi nghĩ đến một câu rất hay của
thánh Cypriano: “Ai chiếm trọn tâm lòng chúng ta kẻ ấy cũng được chúng ta nói
đến”. Người ta có thể thêm: người ấy cũng hiện diện trong các cử chỉ của chúng
ta, trong cách thức chúng ta yêu thương nữa.
Người tín hữu muốn
yêu thương mà “không đi lễ” thì không thấy được rằng họ ít có đức tin bởi vì họ
không tin vào một lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Không ăn Bánh Hằng Sống thì
các ngươi sẽ không có sự sống”. Người tin nửa vời này và người không tin có thể
rất thương yêu nhau như anh em. Điều này rất thường gặp. Nhưng họ khó và hiếm
khi yêu thương “như Chúa Giêsu”. Đối với người không tin, đây là điều bình
thường. Đối với người tín hữu thì đây là một sự lệch lạc: muốn là môn đệ của
Chúa Giêsu, bắt chước Chúa Giêsu mà không nuôi dưỡng mình bằng sự sống của
Ngài.
Tôi biết rõ vấn nạn
kinh khủng này: thực ra, người tín hữu hành đạo không bỏ lễ có yêu thương anh
em đến thế chăng?
Trước hết, vơ đũa cả
nắm là điều không tốt. Có những người tôn sùng Thánh Thể mà sự dễ thương và
lòng độ lượng nói lên rất nhiều về “sự sống của Chúa Kitô” nơi họ.
Nhưng vấn đề Thánh
Thể –liên quan đến tất cả chúng ta- chính là vấn đề sức sống Thánh Thể của
chúng ta. Nhận lãnh sự sống bằng cách ăn Bánh Hằng Sống đòi hỏi một sự chú ý,
một sự gắn bó bên trong là những điều thường quá thiếu vắng. Rước lễ dần dần
trở nên ma thuật và thói quen, như thể việc di chuyển và giơ hai tay ra là đủ
để trở nên một người xin sự sống đầy quyền lực. Không, điều này đòi buộc một
niềm tin thức tỉnh nói với chúng ta lúc ấy, là tại sao chúng ta đi rước lễ và
chúng ta vừa nhận lãnh thứ lương thực gì. “Một thứ bánh bị bẻ ra vì một thế
giới mới”, một cuộc sống bị nghiền nát để chúng ta có thể thoát ra khỏi ích kỷ
và kiêu ngạo. Không có cái chết này làm sao chúng ta là anh em với nhau được?
10. Thánh Lễ nối dài
Nhân ngày lễ kính
Mình và Máu Thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa
thánh lễ với cuộc đời mỗi người chúng ta. Mối liên hệ ấy được diễn tả qua hai ý
tưởng.
Ý tưởng thứ nhất: cuộc đời
chính là một thánh lễ được nối dài.
Thực vậy, có nhiều
người trong chúng ta chỉ sống đạo trong nhà thờ, nhưng lại không sống đạo giữa
lòng cuộc đời. Tới nhà thờ, họ là những con chiên ngoan. Nhưng khi thánh lễ kết
thúc, bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã dẹp bỏ niềm tin, như cởi bỏ bộ quần áo
đẹp họ mặc vào khi đi tham dự thánh lễ, cất kỹ trong tủ, để hóa kiếp trở thành
một loài lang sói bằng những hành động thù oán, bất công và ghen ghét.
Họ tách biệt thánh
lễ ra khỏi cuộc đời và trong suốt khoảng thời gian còn lại, họ quên đi mình là
người Kitô hữu.
Tôi nghĩ rằng cách
sống đạo chỉ hạn hẹp trong bốn bức tường nhà thờ chắc chắn sẽ không thể nào làm
đẹp lòng Chúa, bởi vì chính Ngài đã muốn chúng ta phải sống đạo giữa đời. Ngài
đòi hỏi chúng ta phải trở nên như men trong bột, như muối trong thức ăn, như
ánh sáng trong đêm tối. Nghĩa là tình thần của Phúc âm phải thấm nhiễm vào toàn
bộ cuộc sống chúng ta, rồi từ nền tảng ấy, nó dần dần cải tạo cái môi trường xã
hội chúng ta đang tiếp xúc.
Khi vị Linh mục nói
với chúng ta:
-
Lễ đã
xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều ấy không có
nghĩa là: thánh lễ đã kết thúc khi cánh cửa nhà thờ khép lại, trái lại còn phải
mở ra cho chúng ta một thánh lễ khác nữa, thánh lễ giữa lòng cuộc đời, thánh lễ
của chính cuộc sống.
Điều ấy còn muốn nói
lên rằng chúng ta phải kéo dài thánh lễ từ nhà thờ đến cuộc sống, phải biến
cuộc đời chúng ta trở thành một thành lễ nối dài, phải thực hiện tinh thần
thánh lễ trong chính môi trường và hoàn cảnh xã hội. Hay nói một cách khác:
điều quan trọng không phải chỉ là phải sống đạo trong nhà thờ, mà còn phải sống
đạo trong cuộc đời. Mỗi người chúng ta phải trở nên muối ướp cho xã hội khỏi
ươn thối, phải trở nên men làm cho xã hội dậy lên hương thơm thánh thiện, phải
trở nên ánh sáng phá tan bóng tối đang bao phủ xã hội. Và như vậy, cuộc đời
chính là một thánh lễ được nối dài.
Ý tưởng thứ hai: Dưới một góc
độ nào đó, Thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại.
Thực vậy, nhiều khi
chúng ta đã có quan niệm sai lạc, coi việc đi tham dự thánh lễ như đi xem một
vở kịch, một cuốn phim, để rồi có thái độ hoàn toàn thụ động và dửng dưng.
Trong khi đó, thánh
lễ đòi hỏi mỗi người tham dự phải có một thái độ tích cực. Chúng ta cùng dâng
thánh lễ với vị Linh mục, bởi vì chúng ta cùng sống một tâm tình, cùng dâng một
lễ vật là Mình và Máu thánh Đức Kitô.
Ngoài ra, lễ vật
riêng tư của mỗi người còn là những lao công vất vả, những khổ đau buồn phiền,
những gian nguy thử thách mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta dâng
lên cùng với Mình và Máu thánh Đức Kitô, nhờ đó những hy sinh nhỏ bé và tầm
thường của chúng ta sẽ có được một giá trị thiêng liêng to lớn, trở nên như một
góp phần vào hy lễ thập giá, đồng thời trở nên như những sợi chỉ vàng dệt thành
tấm vải cuộc đời của chúng ta.
Như thế, dưới một
góc cạnh nào đó, thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại. Chúng ta
nên nhớ rằng: Thánh lễ trong nhà thờ cần phải được tiếp nối trong cuộc sống
thường ngày bằng cách chấp nhận những gian khổ là như thập giá Chúa muốn chúng
ta vác lấy, cũng như bằng cách thực thi những hành động bác ái yêu thương, giúp
đỡ những người chung quanh. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta cũng cần phải
được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ bằng cách dâng lên Chúa những thập giá,
những hy sinh chúng ta gặp phải.
Và như vậy, có một
sự pha trộn, có một sự hòa nhập, có một sự liên hệ mật thiết giữa thánh lễ được
cử hành trong nhà thờ với cuộc đời chúng ta đang sống.
11. Sức sống
Tại Tây Ban Nha có một
câu chuyện về cậu bé tên là Marcellino. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước
cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
Vốn tính hay nghịch
ngợm, nên thày đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia
Marcellino lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên
thập giá. Nghĩ rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Marcellino vào bếp
ăn cắp bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với
cậu.
Từ đó, ngày nào cậu
cũng đem bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
-
Con
thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
-
Con muốn
được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói
với cậu bé:
-
Con sẽ
được gặp mẹ con ngay tức khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau các thầy tìm
thấy cậu nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
Vì yêu thương mẹ,
muốn được ở bên mẹ, mà Marcellino đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con
người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn
nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở mãi
với con người, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên
cuộc hành trình về quê trời. Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn
đời”.
Thánh thể là Bí tích
Tình Yêu. Khi mời gọi: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu
muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả
cuộc sống dấn thân và trao ban.
Khi lãnh nhận bánh
Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng
suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại.
Khi chia sẻ bàn tiệc
Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng
ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa.
Chính khi nhận lãnh
Thánh Thể để rồi chia sẻ trao ban, người tín hữu lại nhận được sự sống trường
sinh và niềm vui lại tràn ngập tâm hồn.
Vì thế, sống Bí tích
Thánh Thể chính là sống yêu thương, sống Bí tích Thánh Thể là sống cho và vì
Đức Kitô, sống Bí tích Thánh Thể là sống như Đức Kitô đã sống và đã hiến trao
cách quảng đại cho tha nhân.
Người tín hữu không
lãnh nhận bánh Thánh Thể để cất giữ cho riêng mình, nhưng là để biến con người
mình thành lương thực nuôi dưỡng anh em.
Việc chia nhau một
tấm bánh nhắc nhở chúng ta sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương
và hy sinh cho nhau.
Trong thánh lễ bế
mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 45, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Chúng ta rước
Mình Thánh Chúa Kitô mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát,
kẻ bị bóc lột, tù đày hay đau yếu”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh
Thể, khi chúng con sống yêu thương là chúng con đang làm chứng rằng: Chúa chính
là sức sống mãnh liệt của chúng con.
Xin cho chúng con
khi lãnh nhận bánh Thánh Thể cũng đón nhận được sức sống mới của Chúa, để chúng
con ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống chúng con.
12. Thánh Thể
Một hôm, người ta
hỏi một em bé chín tuổi mới được rước lễ lần đầu: “Đâu là sự khác biệt giữa cây
thánh giá và Mình Thánh Chúa?”. Em bé ấy đã trả lời rất hay và rất đúng rằng:
“Trên cây thánh giá, người ta thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không có ở đó. Còn
trong bánh Thánh, người ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó”. Đúng vậy,
về phép Thánh Thể người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà chỉ có thể
nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin, nhưng đây cũng
là một mầu nhiệm của tình yêu thương. Chúng ta hãy tìm hiểu nhân ngày lễ trọng
kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay. Trong bữa tiệc ly, bữa tiệc cuối cùng của
Chúa Giêsu với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa đã làm một
việc rất quan trọng, đó là biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho
thành máu Ngài, đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như vậy để tưởng
nhớ đến Ngài. Như vậy, bữa tiệc ly này đã trở thành thánh lễ đầu tiên do chính
Chúa Giêsu, là linh mục tối cao, cử hành, và việc biến bánh rượu trở nên Mình
Máu Ngài là bí tích Thánh Thể do Chúa thiết lập và Chúa muốn sự kiện cao quí
này, tức là thánh lễ, được tiếp diễn luôn mãi qua các môn đệ của Ngài.
Vì thế, trong thánh
lễ, khi linh mục lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, này là
chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa,
nhưng là Mình và Máu Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là một chân lý cao siêu, vượt quá
sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời
truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm một tấm bánh chưa
truyền phép và một hình bánh đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác
nhau, hay là có đưa vào phòng thí nghiệm để phân chất, chúng ta vẫn thấy như
thường về phẩm chất, khối lượng và hình thức. Tuy nhiên, theo đức tin, thì lại
khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, một đàng
là tấm bánh nhỏ bé, tầm thường. Chính vì thế, sau truyền phép, linh mục lớn
tiếng công bố: Đây là màu nhiệm đức tin.
Đúng vậy, Thánh thể
là một bí tích đức tin. Nhưng cũng còn là bí tính tình yêu. Tại sao vậy? Thánh
Gioan tông đồ đã viết: Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu
thương họ đến cùng. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột
bực tình yêu của Chúa Giêsu ở đây là việc lập phép Thánh Thể, để từ nay Ngài
trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa Ngài với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
Sau hết, Thánh Thể
còn là bí tích của sự chia sẻ. Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh
Thể trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa đã cầm và phân
chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ
cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa
dùng như dấu chỉ để các môn đệ làm mà nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ
đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể
bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương
ngay trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một
cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng ích kỷ, không quan tâm đến những
anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia
sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức
với hết mọi người.
Bí tích Thánh thể
cao quí biết bao và đem lại ơn ích biết bao nhiêu. Thế mà nhiều người vẫn còn
thờ ơ hoặc chưa yêu mến cho thật đầy đủ. Được bao nhiêu người rước lễ, có người
chỉ rước lễ một năm một lần. Nhiều người rước lễ không nên, hoặc không chuẩn bị
đầy đủ hoặc không cám ơn đàng hoàng. Đến nhà thờ là gặp Chúa, tâm sự với Chúa,
thế mà có những thái độ bất kính: nói chuyện riêng, có những cử chỉ bất kính.
Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và cố gắng sống tốt đẹp hơn.
13. Tấm bánh
Là con người, chúng
ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh. Chúng ta còn phải chịu đựng nhiều kiểu đói
khát. Chúng ta hãy mở Tin mừng, để hiểu về những loại tấm bánh khác nhau, mà
Đức Giêsu đã ban cho nhân loại, từ đó, Người đang làm thỏa mãn nhiều khao khát
của họ.
Đối với những người
đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Người đã ban cho họ
bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói về thể lý của họ.
Đối với những người
phong cùi mà thân thể đang bị héo mòn, Người đã ban cho họ tấm bánh duy nhất có
ý nghĩa quan trọng đối với họ – đó là được chữa lành bệnh tật.
Đối với người phụ nữ
đang ở một mình tại giếng Giacóp, Người đã ban cho bà tấm bánh của lòng ân cần
tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp nhận.
Đối với những người
tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn
lòng khao khát được cứu độ.
Đối với những người
bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ. Người
đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát
được cảm thấy mình có giá trị.
Đối với người góa
phụ thành Naim, một người đã chôn cất đứa con trai duy nhất, và đối với Marta
và Maria, là những người chị vừa mới chôn cất em trai họ là Lagiarô, Người đã
ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót, và đã chứng tỏ cho họ thấy rằng ngay
cả trong cái chết, chúng ta vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp.
Đối với Giakêu, một
người thu thuế giàu có, đã tước đoạt bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã
bắt đầu bằng cách tự để cho Người được mời vào bàn ăn của ông ta. Sau đó, Người
đã đánh thức nơi ông ta một niềm khao khát được có một đời sống tốt đẹp hơn,
Người đã giúp ông ta biết chia sẻ cho người nghèo tiền bạc bất chính của mình.
Đối với kẻ trộm chết
bên cạnh mình, Người đã ban cho anh ta tấm bánh của sự hòa giải với Thiên Chúa,
do đó, Người đã ban lại bình an cho tâm hồn bị bối rối của anh ta.
Nhưng thật đáng ngạc
nhiên, có một số người lại khước từ tấm bánh Đức Giêsu ban.
-
Có một
thanh niên giàu có, được Người ban cho tấm bánh của đời sống ngay chính, nhưng
đã từ chối, vì anh ta không muốn từ bỏ những của cải của mình.
-
Có những
ký lục và Pharisêu được Người ban cho không chỉ một lần, mà nhiều lần, tấm bánh
của sự hoán cải, nhưng họ đã từ chối dù chỉ một mẫu bánh.
-
Có những
người dân thành Giêrusalem mà Người yêu dấu, trong những dòng nước mắt, Người
đã ban cho tấm bánh của sự bình an, nhưng họ đã từ chối, và hậu quả là thành
phố của họ bị phá hủy.
-
Có một
ông quan Philatô, mà Người ban cho tấm bánh của sự thật, nhưng ông ta không hề
thèm khát muốn ăn, vì nó đặt địa vị của ông ta vào tình trạng rủi ro.
Đức Giêsu đã chia sẻ
chính Người cho mọi người, bằng nhiều cách thức khác nhau, và dưới nhiều hình
thức khác nhau, trước khi ban cho họ bản thân mình như là thức ăn và nước uống,
trong bữa Tiệc Ly.
Đức Giêsu nuôi dưỡng
chúng ta bằng rất nhiều cách đặc biệt trong Phép Thánh Thể. Chỉ khi nào chúng
ta đánh mất ý nghĩa sự hiện diện của Đức Kitô trong tất cả mọi mặt, thì sự hiện
diện của Người trong Phép thánh Thể trở nên một vấn đề. Những người có ý thức
sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ tạo vật, thì sẽ không gặp
khó khăn gì lớn, trong việc tin tưởng rằng Người đang hiện diện bằng một cách
thức rất đặc biệt trong Phép Thánh Thể.
Chỉ duy nhất Thiên
Chúa là Đấng thỏa mãn được những khao khát và mong mỏi của tâm hồn chúng ta, vì
chỉ một mình Người có thể ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời. Đây là tấm
bánh mà chúng ta được đón nhận trong Phép Thánh Thể. Nếu không có tấm bánh đó,
chúng ta sẽ không có sức mạnh để đi theo Đức Kitô.
14. Tình yêu của Thiên Chúa
Mừng kính Mình và
Máu Thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình
yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, nhất là qua bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, tình yêu
là một đề tài xưa như trái đất và được đề cập đến nhiều nhất qua sách vở, qua
nghệ thuật cũng như qua cuộc sống. Tuy nhiên, con người vẫn chưa khai triển hết
vẻ phong phú của tình yêu, cho nên tới bây giờ, tình yêu vẫn còn là một câu
chuyện thời sự nóng bỏng trên môi miệng chúng ta.
Nếu đưa mắt nhìn
xem, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi biết bao nhiêu
yêu thương. Những người bạn chân thành luôn nâng đỡ để cùng nhau theo đuổi một
mục đích, một lý tưởng. Những cặp tình nhân mà trái tim luôn đập cùng một nhịp
yêu thương. Những người mẹ luôn ân cần nuôi dạy những đứa con thơ dại. Tình yêu
ở trước mặt cũng như ở sau lưng chúng ta. Thế nhưng, đâu là mẫu số chung cho
những thứ tình yêu ấy? Đâu là điểm làm cho mặc cho những thứ tình yêu ấy một
giá trị và đưa chúng vào một lãnh vực cao cả hơn?
Tôi xin trả lời:
- Đó là sự hy sinh.
Thực vậy, đúng như tuc ngữ đã bảo:
- Yêu nhau chẳng
quản xa gần,
Mấy
sông cũng lội,,mấy ngàn cũng qua.
Đã yêu thương nhau, thì sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh cho nhau và vì nhau
để mưu cầu hạnh phúc cho nhau, nhu một câu danh ngôn đã bảo:
- Hãy cho tình yêu
vào máy cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là một tình yêu thức thiệt,
bằng không thì chỉ là một tình yêu thứ dổm mà thôi.
Sự hy sinh phải là nền tảng căn bản, trên đó tình yêu được xây dựng, cho dù
sóng gió cuộc đời có phũ phàng, cũng không thể làm cho nó bị lay chuyễn. Hy
vinh và tình yêu luôn bổ túc lẫn cho nhau: hy sinh sẽ làm cho tình yêu trở nên
tinh ròng và tình yêu tinh ròng sẽ giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận hy sinh.
Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chính là tình yêu
tuyệt hảo nhất, khuôn mẩu cho mọi tình yêu của chúng ta. Và như vậy, chắc chắn
sự hy sinh Ngài dành cho chúng ta cũng thật lớn lao. Sự hy sinh ấy bắt đầu từ
nguyên thủy. Khi tạo dựng nên trời và đất, Ngài đã một phần nào đặt mình vào sự
giới hạn của không gian và thời gian. Thế nhưng, Ngài đã nhận được những gì,
nếu không phải là sự phản bội của loài người, một tạo vật đã được Ngài dựng nên
theo hình ảnh của Ngài.
Tuy nhiên, dù con người có phản bội, Ngài cũng đã không bỏ rơi con người
trong án phạt của sự chết, trái lại Ngài đã đưa ra chương trình cứu độ và thực
hiện chương trình ấy trong dòng thời gian, bằng cách sai Con Một Ngài xuống thế
để cứu chuộc chúng ta.
Giả như bây giờ xảy ra một cuộc hỏa hoạn, hẳn chúng ta sẽ ca tụng hành vi
can đảm của người đã dám coi thường cái chết, nảy vào vùng lửa cháy để cứu
thoát một em bé nào đó. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đã hy sinh vì chúng ta và đã
đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, như lời Ngài đã phán:
- Không ai yêu hơn
người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hơn thế nữa, Ngài lãi còn trao ban cho chúng ta Mình và Máu thánh Ngài làm
của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Vì vậy, chúng ta có thể nói được rằng bí tích Thánh Thể chính là bí tích của
tình yêu Thiên Chúa.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã nghe nói đến nạn đói năm Ất Dậu 1945
tại miền Bắc. Đó là một nạn đói thật khủng khiếp, giết hại gần hai triêu người.
Có hai mẹ con người kia cũng lâm vào cảnh tang thương ấy và nằm hấp hối chờ
chết bên vệ đường. Người mẹ trước khi nhắm mắt, đã không thể nào cầm lòng được
trước tiếng khóc của đứa con thiếu sữa. Bởi đó, bà đã làm một hành động táo
bạo, đó là cắn đứt ngón tay trỏ, để đứa con được bú những giọt máu cuối cùng
của mình thay cho dòng sữa đã cạn kiệt, với hy vọng nó sẽ được cứu sống.
Câu chuyện cảm động ấy không phải chỉ xảy ra một lần, nhưng nó còn xảy ra
mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã trối lại cho chúng ta
Mình Máu thánh Ngài làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta, như lời Ngài đã
xác quyết:
- Thịt Ta thật là
của ăn và Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được
sống đời đời.
Chính nhờ của ăn thần linh này, chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa,
được trở nên giống Chúa và được chia sẻ sự sống ân tình với Ngài.
Vì thế, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và hãy sốt sắng rước lể mỗi khi có
thể, để đáp trả tình yêu thương vô biên Chúa đã dành cho mỗi người chúng ta
trong bí tích Thánh Thể.
15. Bánh
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, trung tâm của Giáo Hội,
trung tâm của đời sống đức tin, trung tâm của giáo xứ và đời sống của mỗi người
như Công đồng Vatican II đã nói: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh
của đời sống Kitô giáo”, “Bí tích Thánh Thể tích chứa tất cả của cải thiêng
liêng của Giáo Hội: Đó chính là Đức Kitô”.
Vào năm 1263, một linh mục từ Prague, thủ đô Tiệp Khắc, đi hành hương tới
Rôma cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho ngài vì đang có những nghi ngờ về
ơn kêu gọi. Trên đường tới Rôma, ngài ngừng lại ở một thị xã cách Rôma 70 dặm
về phía bắc. Tại đây, trong thánh lễ, khi truyền phép ngài nâng cao bánh lễ
lên, tấm bánh đã trở nên thịt và bắt đầu chảy máu. Những giọt máu đã chảy xuống
trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên bàn thờ. Năm sau, 1264 Đức Giáo Hoàng
Urban IV đã thành lập lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, và ngài đã yêu cầu thánh
Thomas Aquinas sáng tác một bài ca cho ngày lễ. Thánh Thomas đã viết ra hai bài
nổi tiếng là “Tantum Ergo” và “O Salutaris” mà chúng ta vẫn thường hát khi chầu
Thánh Thể. Tấm khăn thánh mang những vết máu vẫn còn được lưu giữ tại vương
cung thánh đường Orvieto, phía bắc thành phố Roma.
Mặc dù phép lạ thánh thể này đã dẫn tới việc thiết lập ngày lễ Mình và Máu
Chúa Giêsu, nhưng phép lạ Thánh Thể nổi tiếng ở Lanciano, cũng tại Ý, đã xảy ra
nhiều thế kỷ trước vào năm 700. Câu chuyện xảy ra tại nhà thờ thánh Legonzanô
khi một linh mục dòng thánh Basiliô đang dâng thánh lễ bỗng trở nên nghi ngờ sự
hiện diện thực sự của Mình Máu Thánh Chúa trong hình bánh rượu. Lúc truyền
phép, sự lạ liền xảy ra ngay trong tay vị linh mục. Bánh trở nên thịt sống và
rượu trở nên máu tươi rồi đông đặc lại thành 5 cục to nhỏ. Tuy đã trải qua 1300
năm rồi, ngày nay vẫn còn thấy rõ miếng bánh đã biến thành thịt này có màu hơi
nâu, nhìn dưới ánh sáng thấy màu hồng được đặt trong một mặt nhật quý giá. Và
năm cục máu màu vàng nghệ được đặt trong một chén thánh bằng kính trưng bày ở
nhà thờ Lancianô để giáo dân tự do kính viếng.
Trong 12 thế kỷ qua, giáo quyền đã cho làm nhiều cuộc giám nghiệm vào những
năm 1574, 1637, 1770, 1886. Mới đây vào năm 1971 và 1981 một phòng thí nghiệm
của bệnh viện đã thử nghiệm lại bằng những thiết bị khoa học tối tân. Công việc
được trao cho ông Odoardo Linoli, giáo sư môn giải phẫu nhân hình, kiêm giáo sư
mô học bệnh lý, hóa học và hiển vi học, với sự cộng tác của giáo sư Ruggero
Bertelli thuộc đại học đường Siena. Kết quả được công bố vào ngày 04.03.1971
trước các vị trong giáo quyền, chính quyền, các giới khoa học, văn học và báo
chí:
- Thịt và máu này
là thịt và máu thật, của một người có máu AB đã sống.
-
Thịt được lấy ra từ mô cơ tim (myocardium), một phần thịt
của trái tim, một cách khéo léo tuyệt vời như do một nhà phẫu thuật tài giỏi.
Điều này có nghĩa là từ trái tim của Chúa Giêsu, Thánh Tâm. Đây chính là biểu tượng của tình yêu.
-
Thịt và
máu không có vết tích của một chất nào được dùng để ướp xác cả.
-
Trong
máu có các chất clorua, phốt pho, magnesium, potassium, sodium và calcium.
Các di tích này được
lưu trữ bao nhiêu thế kỷ một cách tự nhiên, lại chịu ảnh hưởng của những xúc
tác vật lý, không khí, sinh vật mà vẫn giữ nguyên tình trạng như thế là một
hiện tượng kỳ lạ, khoa học không sao giải thích được. Hơn thế nữa, điều lạ lùng
là nếu đem cân một cục máu, trọng lượng vẫn bằng tổng số của cả năm cục. Đem cân
riêng lẻ từng cục hay cân chung lại với nhau tổng số vẫn không thay đổi.
Đây là hai phép lạ
Thánh Thể trong tổng số khoảng 22 các phép lạ khác xảy ra ở khắp nơi trên thế
giới. Những phép lạ này trả lời cho những nghi ngờ về sự hiện diện thực của
Chúa Giêsu qua hình bánh và rượu. Lòng đạo đức và sự trung thành của chúng ta
sẽ tùy thuộc vào sự ràng buộc bởi mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã ban trước ngày
chịu nạn: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy”.
16. Bánh
Trong sách Giáo lý
Công giáo số 1358, Giáo Hội tóm lược ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể vào những
điểm chính như sau:
1. Thánh Thể là sự cảm tạ và
ngợi khen Chúa Cha:
Thánh Thể là lời chúc tụng để Giáo Hội bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa vì tất cả
những ơn lành Ngài đã thực hiện qua việc sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa nhân
loại. Ý nghĩa trước hết của thánh lễ là “lễ tạ ơn” Thiên Chúa. Câu chuyện kể về
một phụ nữ thường xuyên mang theo mình cuốn sách mỏng. Chị đặt tên cho nó là
cuốn sách ghi chép tiểu sử cuộc đời. Chị thường chia sẻ với bạn bè rằng nó
chẳng mất nhiều thì giờ để đọc, vì cuốn sách chỉ có ba trang giấy. Lại chẳng có
một chữ nào được viết trên đó cả. Trang đầu tiên màu đen. Chị nói rằng nó đại
diện cho các tội lỗi xưa nay của chị. Trang thứ hai màu đỏ, nó biểu tượng cho
máu Chúa Giêsu đã đổ ra vì tội lỗi của chị. Trang thứ ba màu trắng, đại diện
cho chính chị sau khi đã được lau sạch trong máu của Chúa Giêsu Kitô, Người đã
làm cho chị trở nên trắng hơn tuyết.
2. Thánh thể tưởng niệm sự hy
sinh của Chúa Giêsu: Một
câu chuyện có thật gợi lên sự hy sinh cao cả của Chúa Kitô được những tù binh
người Anh bị lính Nhật giam giữ trên bờ sông Kwai kể lại như sau: Một người
lính Anh Quốc của trung đoàn Argyll bị lính Nhật bắt giam phải đi làm lao động
khổ sai xây dựng đường rầy xe lửa. Như thường lệ, sau mỗi ngày lao động, tất cả
những dụng cụ làm việc phải được kiểm kê. Ngay khi một nhóm tù binh vừa trao
nộp dụng cụ xong, sắp sửa trở về trại, thì người lính Nhật canh giữ la lên rằng
có một cái xẻng bị mất. Anh lính quả quyết rằng một người nào đó đã ăn cắp và
bán cho người Thái. Cả nhóm tù binh phải tập họp lại. Anh lính Nhật bước tới
bước lui trước mặt từng người tù, anh phô trương, nộ nạt, sỉ vả họ vì hành động
xấu xa và vô ơn đối với hoàng đế. Đến lúc phát cáu, hắn nổi giận, và la hét.
Hắn yêu cầu thủ phạm phải bước ra khỏi hàng ngũ chấp nhận hình phạt. Nhưng
chẳng có ai động đậy. Tên lính Nhật lại càng nổi cơn điên lên cao độ hơn nữa.
Hắn hét lên: “Tất cả phải chết! Chết hết! Chết hết!”.
Để chứng tỏ điều hắn
nói là thật, hắn lên cò súng, kê báng súng lên vai và chĩa nòng súng vào từng
người một, sẵn sàng bắn từ đầu cho đến cuối. Vào lúc đó Argyll bước tới, đứng
yên và nói,:Tôi đã làm điều đó”. Tên lính Nhật tuôn ra tất cả sự thù hận, hắn
đấm đá túi bụi vào Argyll. Tuy nhiên anh vẫn đứng lặng thinh với khuôn mặt đầy
máu me đang chảy xuống. Sự yên lặng của anh đã khiêu khích sự phẫn nộ của tên
lính Nhật lên tột độ. Hắn nắm lấy cây súng trường, đưa lên cao khỏi đầu, và với
một tiếng tru lên như chó, hắn bắn vào đầu Argyll. Argyll tung người lên, rơi xuống
đất, rồi nằm yên bất động. Mặc dù rõ ràng rằng người tù đã chết, nhưng tên lính
Nhật vẫn tiếp tục đánh anh cho đến khi hắn kiệt sức mới thôi! Những người tù
khổ sai đã lãnh xác người bạn mình, vác những dụng cụ lao động trên vai, bước
về trại. Khi những dụng cụ lao động được đếm lại một lần nữa ở đồn lính canh,
đã không có cái xẻng nào bị mất cả. Tất cả dụng cụ lao động đều đầy đủ! Thánh
Thể là sự tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo ý nghĩa của
Thánh Kinh “tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại những biến cố của quá
khứ, nhưng còn có nghĩa công bố những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho
loài người. Trong Tân Ước từ “tưởng niệm” còn có nghĩa là sự tái diễn có tính
cách bí tích, làm cho trở thành hiện tại sự hy sinh của Chúa Kitô như Công đồng
Vatican II đã nói: “Tất cả mỗi khi hy lễ thập giá mà Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của
chúng ta, được hiến tế trên bàn thờ, thì công cuộc ơn cứu chuộc của chúng ta
được thực hiện”.
3. Thánh Thể là sự hiện diện
của Chúa Kitô: Nhờ quyền
năng của Lời Ngài và của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo Hội
bằng nhiều cách: trong việc cầu nguyện của Giáo Hội, nơi những người nghèo khó,
nơi các bệnh nhân, các tù nhân, trong bí tích của Ngài, trong hy lễ Thánh Thể,
và nơi con người của thừa tác viên. Đặc biệt nhất là Ngài hiện diện dưới hình
bánh và hình rượu trong Bí tích Thánh thể. Đó là ngày lễ Phục sinh ở trong tù.
Có chừng hơn 10.000 tù nhân chính trị bị giam giữ bởi một chế độ tàn bạo và áp
bức. Một nhóm tù nhân Kitô hữu muốn cử hành Bí tích Thánh thể, nhưng họ không
có bánh lễ, không có rượu nho, không có chén thánh, cũng chẳng có sách lễ,
không có Thánh Kinh, và không có cả linh mục nữa. Những tù nhân không phải là
Kitô giáo cũng nhiệt tình giúp đỡ: “Chúng tôi sẽ giúp đỡ các anh. Chúng tôi sẽ
nói chuyện rì rào rất êm ái để quí vị có thể gặp nhau mà không lôi kéo sự chú ý
của các tên canh tù”. Một trong những tù nhân Kitô hữu lên tiếng góp ý với đồng
đạo: “Chúng ta không có bánh lễ, cũng chẳng có lấy một giọt rượu nho, nhưng
chúng ta sẽ cử hành như thể chúng ta có tất cả”. Và người tù nhân Kitô hữu đó
bắt đầu hướng dẫn mọi người tham dự thánh lễ qua các nghi thức phụng vụ. Mọi
người đều ngạc nhiên vì anh nhớ từng lời, từng kinh đã nghe được qua bao nhiêu
thánh lễ ngày Chúa nhật từ khi còn bé. Khi đọc đến những lời của Chúa Giêsu đã
nói trong bữa Tiệc Ly, anh quay sang người bạn tù bên cạnh mình. Rồi nắm lấy
hai bàn tay mà nói: “Đây là mình ta sẽ bị nộp vì các con”. Và sau đó tất cả mọi
người trong nhóm đi một vòng tròn, từng người một, mỗi người quay sang người
bên cạnh, mở rộng đôi bàn tay và lập lại những lời của Chúa Giêsu: “Đây là mình
ta sẽ bị nộp vì các con”.
“Hãy làm việc này mà
nhớ đến Thầy” là một mệnh lệnh được thi hành không chỉ trong thánh lễ với linh
mục thừa tác viên chính thức của Giáo Hội, nhưng còn được sống thánh lễ và cử
hành bằng chính đời sống của các Kitô hữu nữa. Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã
nói: “Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự
chết”. Đây chính là bảo chứng của Vương Quốc tương lai, sự sống đời đời như lời
Chúa phán hôm nay: “Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống
muôn đời”.
17. Thánh Thể
Trong bữa Tiệc Ly,
Chúa Giêsu cầm bánh trong tay và nói trước mặt các môn đệ: “Đây là Mình Thầy”,
lập tức mọi người hiểu rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh
kia, bên ngoài có hình thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh
đã biến sang bản thể của Thiên Chúa. Làm sao có thể như thế được? Đối với Thiên
Chúa thì không thành vấn đề, bởi vì Thiên Chúa đã từng làm cho có manna đầy
tràn ở trong hoang địa, và nước trở thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana, thì việc
biến bánh ra Mình Chúa đối với Chúa là chuyện dễ dàng, dễ dàng đến độ Ngài chỉ
cần một lời nói “Đây là Mình Thầy”. Có ai trong chúng ta dám nói tôi là thế này
tôi là thế nọ không? Thí dụ: “Tôi là ánh sáng”. Chúng ta chỉ có thể nói: “Tôi
có ánh sáng” hay “tôi chế ra ánh sáng la-de”, chứ không ai có thể nói: “Tôi là
ánh sáng”. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng ra ánh sáng, mới có nền tảng mà
tuyên bố “Tôi là ánh sáng”. Cho nên, khi Chúa nói: “Đây là Mình Thầy” là một
câu nói quả quyết, một câu nói quả quyết sự đồng nhất.
Một số người chối Bí
tích Thánh Thể đã cho rằng: câu Chúa nói: “Đây là Mình Thầy” chỉ có ý nghĩa
tượng trưng, ám chỉ một việc khác. Chúng ta có thể trả lời như sau: Để có ý
nghĩa tượng trưng, phải có một trong bốn ý sau đây: Thứ nhất, một cái gì tượng
trưng rõ ràng, chẳng hạn khi chúng ta chỉ vào pho tượng thánh Giuse mà nói:
“Đây là thánh Giuse”. Thứ hai, một kiểu nói dụ ngôn, chẳng hạn như hạt giống
gieo là lời Chúa. Thứ ba, một ý nghĩa tượng trưng tự nó, chẳng hạn như tre trúc
tượng trưng cho lòng ngay thẳng, bông huệ tượng trưng cho sự thanh khiết. Thứ
tư, một bản văn ám chỉ tới một chuyện khác, chẳng hạn Isaac ám chỉ Chúa Giêsu.
Lời truyền phép của Chúa Giêsu không ở trong bốn trường hợp đó. Tự bản chất và
công dụng của bánh không bao giờ ám chỉ đến thân thể. Chúa cũng không cắt nghĩa
gì thêm, vì quá rõ ràng, đến nỗi người Do Thái lấy làm chướng tai, không nghe
được và bỏ đi. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước không bao giờ dùng tấm bánh để ám
chỉ về người ta, cho nên, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” phải hiểu là một chân
lý quyền năng của Chúa. Như vậy, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” là Chúa lập Bí
tích Thánh Thể. Đây là điều chắc chắn, là chân lý tuyệt đối, nhắc nhở chúng ta
những điều quan trọng sau đây:
·
Thứ
nhất, Chúa Kitô hiện
diện thật sự trong phép thánh Thể. Chúa Kitô ở trong phép Thánh Thể là Chúa
Kitô vinh hiển, nhân tính Ngài hiện diện trong bí tích đó không còn đau khổ,
buồn phiền, cô đơn nữa. Những kiểu nói Ngài cô đơn, vắng lặng trong nhà tạm chỉ
là để nhắc nhở thái độ dễ vô ơn, thờ ơ của chúng ta đối với Chúa.
·
Thứ
hai, Chúa Kitô hiện diện
trong phép Thánh Thể là trạng thái hết sức khiêm hạ vì thương yêu loài người.
Chúa âm thầm tự trở nên một tù nhân giữa loài người. Phải có một tình yêu cao
độ chúng ta mới hiểu được sự ở lại trong khiêm hạ này. Cũng trong sự khiêm hạ
âm thầm này mà có biết bao phạm thượng, lộng ngôn xúc phạm đến Chúa qua bao thế
hệ. Đó cũng là lý do nữa nhắc nhở chúng ta thêm lòng kính mến bí tích tình yêu
tột đỉnh này.
·
Thứ
ba, Chúa Kitô với hai
bản tính đều ở trong bánh và rượu. Ở mỗi hình thái đều có đủ Chúa Kitô thật.
Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa Kitô ở trong hình thái bánh rượu không còn lệ
thuộc vào không gian, thời gian hay trương độ, trọng lượng như xác thịt người
phàm nữa. Ngài ngự trong hình bánh rượu, Ngài nghe, biết, thấy chúng ta cầu
nguyện, không bằng con mắt xác thịt như chúng ta mà bằng thần tính của Thiên
Chúa. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng đến cầu nguyện với Chúa trong Thánh Thể.
Chúng ta hãy nhớ và
thực hành hai điều sau: Thứ nhất, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy cố
gắng rước lễ, bởi vì chả lẽ đi dự tiệc mà lại không ăn tiệc? Chúng ta phải
chuẩn bị chu đáo để rước lễ. Nhưng cũng đừng vì một đôi khuyết điểm hay yếu
đuối nhỏ mà chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng rước Chúa. Thật ra khi rước
lễ, tình yêu chúng ta dành cho Chúa Giêsu đủ để Ngài tha thứ những tội nhẹ và
khuyết điểm của chúng ta. Thứ hai, ngoài thánh lễ, Chúa vẫn ở với chúng ta
trong nhà tạm. Vì thế, mỗi khi vào nhà thờ chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của
Chúa, chúng ta cúi đầu hay bái gối với một lòng biết ơn và kính trọng, rồi
chúng ta bắt đầu cầu nguyện với một lòng tin sâu xa: Chúa Kitô đang hiện diện
thực sự trước chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang muốn ban ơn cho chúng ta.
18. Suy niệm của JNK
Câu hỏi gợi ý:
1.
Những
câu nói của Đức Giêsu như: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống",
"Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống" có ý nghĩa gì?
2.
Bản thân
Đức Giêsu có thể ví như chiếc bánh bị ăn không? Tại sao?
3.
"Ăn
thịt uống máu" Đức Giêsu là gì? Cụ thể là gì?
SUY NIỆM
1. "Bánh hằng sống từ trời
xuống" ở đây nghĩa là gì?
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn
bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi
đây, để cho thế gian được sống". Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo
nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất
được.
Viết tới đây tôi nghĩ
tới Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết
bắt ông cho bằng được để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh
hay trường thọ. Chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Đức
Giêsu (hiểu theo nghĩa vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời
đời theo kiểu các yêu tinh tin vào thịt của Đường Tam Tạng.
Cũng khó mà hiểu
được một cách thuần túy rằng Thịt đem lại sự sống đời đời ở đây chỉ là bánh
Thánh Thể mà người ta vẫn nhận lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên
rước lễ dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội
tâm nào (xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được
sống đời đời quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì bánh Thánh Thể quả là một thứ
phù phép hay bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù
phép trong các tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua,
chứ không hứa hạn một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ
hưởng chỉ bị đòi hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản!
Theo tôi nghĩ, chính
thái độ nội tâm của ta mới là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự
sống đời đời cho ta hay không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Đức Giêsu là
một thái độ hay hành vi nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội
tâm ấy, thì có rước lễ hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời.
Thật vậy, có ai dám bảo đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có
sự sống đời đời chăng? Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có
thái độ nội tâm giống như Đức Giêsu thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời
đời.
Thiết tưởng, câu nói
của Đức Giêsu đang được bàn tới cần hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm hơn
là nghĩa đen. Vì nói chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có
ý nghĩa quan trọng thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn theo nghĩa đen.
Vả lại, chính Đức Giêsu đã từng dùng từ "lương thực" hay "thức
ăn" theo nghĩa tâm linh: ""Thầy phải dùng một thứ lương thực mà
anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn
đến cho Thầy rồi chăng?" Đức Giêsu nói với các ông: "Lương thực của
Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người""
(Ga 32-34). Thiết tưởng chữ "bánh", "của ăn", "của
uống" trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.
2. Cuộc đời và bản thân Đức
Giêsu là một "chiếc bánh bị ăn"
Một trong những đặc
tính căn bản nhất của đồ ăn là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn
toàn vì ích lợi của người ăn nó. Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là
hoàn toàn vị tha, không vương một chút vị kỷ nào. Đức Giêsu cũng hiện hữu và
sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì loài người, không hề vì bản thân mình chút
nào. Ngài từng nói: "Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi,
nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" (Ga 6,38); "Tôi đến để cho chiên được
sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
Cả cuộc đời Đức
Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy
Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một
hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả. Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết
sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi
gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu thương Chúa Cha và nhân loại.
Hãy nghe Ngài cầu
nguyện hai lần với Chúa Cha trước khi chịu tử nạn: "Lạy Cha, nếu có thể
được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin
theo ý Cha" (Mt 26,39; x. 26,42). Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi
Ngôi Hai xuống thế: "Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự" (Pl 2,6-8).
Như vậy, cả cuộc đời
Ngài là một cái "bánh bị ăn", nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con
người cũng nhờ thế mà "được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10), được
phục hồi lại sự sống đời đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.
3. "Ai ăn thịt và uống máu
tôi thì được sống muôn đời"
Đức Giêsu nói:
"Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống". Điều ấy chắc
chắn là sự thật, nhưng phải hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn
đề còn lại là "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu để "được sống muôn
đời" là gì? Muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu thì phải làm
gì?
Khi tôi ăn hay uống
một thức gì, thì thức ấy được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các
tế bào của tôi. Thức ấy mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh
khỏe, và bệnh tôi được chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì
chất độc ấy cũng trở nên những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể
tôi suy yếu. Chắc chắn rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm
sống ở đời đều hoàn toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên
ngoài. Chính nhờ thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh
khỏe hay bệnh tật tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng
tùy thuộc cách thức tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ
thay thế những tế bào cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế,
nhiều thầy thuốc hay nhà sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức
khỏe bằng cách thay đổi đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.
Từ thực tế trên, ta
có thể hiểu được cách thức "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu. Đức Giêsu
là Ngôi Lời, nên bản chất của Ngài là "Lời". Lời của Ngài cũng chính
là của ăn thức uống. Đời sống và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như
đã nói ở phần trên.
Ăn uống Ngài chính
là dùng lời của Ngài, dùng gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt
chước hầu thay thế dần dần "chất của ta" bằng "chất của
Ngài", nghĩa là ta càng ngày càng trở nên "có chất Giêsu" hơn
trong quan niệm, tư tưởng, lời nói, và hành động của ta.
Nếu mỗi ngày ta thay
thế 1% hay 1‰ "chất tôi" thành "chất Ngài" - ít hay nhiều
tùy sự cố gắng hay quyết định của ta - thì chỉ một thời gian sau "chất
tôi" đầy ích kỷ, tham lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và "chất Ngài"
đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ tăng lên. Và tới một lúc nào đó, "chất
Ngài" ở trong tôi trở thành viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Đương
nhiên thực tế không đơn sơ như vậy).
Lúc ấy tôi có thể
nói như Phao-lô: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Ki-tô
sống trong tôi" (Gl 10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôi
mà là Đức Ki-tô. Điều đó không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một
cái tôi hoàn hảo nhất, đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con
người hoàn hảo. Chính lúc ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn
vẹn nhất. Đấy là cách "ăn thịt uống máu" Ngài - mà tôi nghĩ theo
thiển ý mình - là hợp lý và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có
sự sống đời đời.
Vậy thiết tưởng, mỗi
khi dâng thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể, tức là "ăn thịt uống máu"
Ngài một cách bí tích, ta cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là
"ăn thịt uống máu" Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói
trên. Có sự phối hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể
sẽ đem lại cho ta sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.
4. Hãy trở nên "chiếc bánh
bị ăn" như Đức Giêsu
Như vậy, "ăn
thịt và uống máu" Đức Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để
dần dần thay thế "chất tôi" thành "chất Ngài", biến
"tôi" thành "Ngài". Nói cách khác, đó là trở nên giống Đức
Giêsu hoàn toàn. Giống Đức Giêsu là giống Thiên Chúa, mà "Thiên Chúa là
Tình Yêu" (1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha,
không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Đức Giêsu là biết yêu thương mọi người bằng
một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng trở nên "chiếc bánh bị ăn" như
Đức Giêsu (theo cách nói của cha Antoine Chevrier, tu hội Prado). "Bị ăn"
bởi những người chung quanh ta, nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng,
con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng
hết sức để sống như thế, chính là "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu, và
như thế thì chắc chắn ta sẽ được sự sống đời đời.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn
"ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống
của Ngài để biến một phần rất nhỏ "chất tôi" trong con thành
"chất Giêsu". Nếu mỗi ngày con chỉ biến 1‰ (một phần ngàn) "chất
tôi" thành "chất Giêsu" một cách thật nghiêm túc và thành công,
thì trên nguyên tắc chỉ 1.000 ngày sau - tức khoảng 3 năm - con đã được biến
đổi hoàn toàn nên giống Đức Giêsu. Đó là tính theo kiểu toán học, thực tế không
đơn sơ, dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Xin cho con biết "ăn thịt và uống
máu" Ngài theo kiểu ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.
19. Chúa Giêsu bồng ẵm tôi
Một trong những
truyện hay nhất của cuộc đời Chúa Giêsu là truyện Chúa bồng ẵm một em bé. Các
tông đồ tranh cãi xem ai là người cao cả nhất. Chúa Giêsu bảo các ông: “Ai muốn
ở bậc nhất thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”. Rồi Chúa dắt
một em bé lại và để em đứng giữa các ông. Chúa bồng ẫm em và nói: “Ai đón nhận
một trẻ nhỏ như em bé này vì danh Ta là đón nhận Ta, và ai đón tiếp Ta, thì
không phải đón tiếp Ta, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Ta” (Mc 9,36).
Theo truyền tụng thì
em bé này sau trở nên thánh Ignatuiô thành Antiochia, Ngài đã hiến dâng mạng
sống vì Chúa Kitô năm 107. Khi còn là thiếu niên, Ignatio thường dẫn bạn bè tới
nơi mà Chúa Giêsu đã bồng ẵm cậu và bảo bạn bè: “Các bạn coi đó. Đây là chỗ
Chúa Giêsu đã bồng ẵm tôi”.
Nếu bạn muốn, bạn có
thể coi đó là câu chuyện tưởng tượng của thời trung cổ, nhưng chúng ta biết
chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã bồng ẵm một em bé. Sự kiện đó hôm nay làm nổi bật
tư tưởng của tôi, nghĩa là trong sự Hiệp lễ, chúng ta không chỉ ôm ẵm Chúa
Giêsu, nhưng chính Ngài cũng ôm ẵm chúng ta.
Có lẽ không bao giờ
bạn nghĩ đến sự Hiệp lễ trong cách này. Chúng ta nói trực riếp: “Tôi đón nhận
Chúa Giêsu trong sự hiệp lễ... Chúa Giêsu ngự vào trong lòng tôi”. Chúng ta nói
về những hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm
chúng ta. Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ
là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý
nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Ai ăn Thịt ta và
uống Máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúng ta có thể nói như
thánh Ignatiô: “Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrilo thành
Alexandries so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hòa lẫn với nhau.
Thánh Têrêxa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của Ngài như là sự hoà
tan với Chúa Kitô.
Bạn hãy tưởng tượng
một em bé chạy lại gặp cha nó. Nó giang cánh tay nhỏ bé quàng vào cổ cha nó. Cố
sức ôm chặt lấy cha nó. Nhưng người cha bồng lấy đứa con trong vòng tay to
khỏe, ôm ấp đấ yêu thương. Sự hiệp lễ cũng phần nào giống như thế. Chúng ta ôm
ẫm Chúa Kitô. Chúng ta đón rước Ngài ngự vào lòng ta. Chúa Giêsu ôm ẫm ta, đưa
ta vào lòng Ngài.
Bạn hãy suy nghĩ
điều này và bạn bắt đầu nhận thức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu,
lòng khát khao hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải
có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm
chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại
trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta.
Sự thật kỳ lạ này
chúng ta cử hành hôm nay, ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, tôn vinh Mình Máu
Thánh Chúa Kitô. Trong sự buồn thảm của tuần thánh, chúng ta đã làm mới lại
ngày thứ năm thánh đầu tiên, khi Chúa Giêsu trao ban chính Ngài cho các tông
đồ, và các ông được dâng chính mình cho Ngài. Sự thật vui mừng lớn lao quá,
chúng ta muốn cử hành một cách dặc biệt trong một ngày đặc biệt, Mình Máu Thánh
Chúa Kitô. Chúng ta ước ao làm mới lại ước vọng được ôm ẵm Chúa Kitô và được
Ngài ôm ẵm chúng ta.
Xin Chúa chúc lành
cho các bạn.
20. Chú giải của Fiches
Dominicales
ĐỨC GIÊSU HOÁ BÁNH RA NHIỀU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Tác giả Tin Mừng nói
rõ, chúng ta ở vào thời kỳ "ít lâu trước lễ vượt qua, một đại lễ của người
Do Thái”(6,4). Tác giả đưa biến cố được sống thời Đức Giêsu (bánh hoá nhiều,
bài giảng ở Capharnaum) về với thời của Israel (Manna thời xuất hành với sự hướng
dẫn của Môsê) để các độc giả thấy rõ hơn tính thời sự trong thời của Giáo Hội
(sau khi Đức Giêsu phục sinh, trong việc chia sẻ Lời Chúa và bánh của bí tích
Thánh Thể). Vì lòng thương xót đám đông đã theo Ngài, Đức Giêsu đã nuôi họ bằng
"năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá" (6,9), như thế Ngài cho thấy
rõ phần nào căn tính đích thực của Ngài. Bởi thế các chứng nhân đã không lầm,
họ đồng hoá Ngài với vị đại ngôn sứ, Đấng đã được ông Môsê loan báo trong sách
Đệ Nhị Luật (18,15): "Giữa các ngươi, trong số anh em các ngươi, Chúa là
Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi”. Thật vậy, trước những dấu lạ
mà Đức Giêsu đã thực hiện, người ta nói “chính Ngài là vị đại ngôn sứ phải đến
trong thế gian”. Nhưng, thánh Gioan viết, hiểu lầm sứ mạng của Ngài, họ "toan
bắt ép Ngài làm vua của họ" (6,14-15). Vì thế để tránh họ, Đức Giêsu rút
lui một mình lên núi trước khi đi qua bờ bên kia cách kín đáo với các môn đệ
của Ngài.
Chính "ở trong
hội đường Capharnaum" (6.59) đám đông đi tìm và gặp Ngài, Đức Giêsu giảng
cho họ một bài về bánh ban sự sống", trong đó Ngài đào sâu ý nghĩa của
bánh, ý nghĩa đã hiện hữu trong dấu chỉ, và dạy họ rằng, đối với họ. Đấng đã
hoá bánh ra nhiều cũng chính là bánh của nhân loại. Câu 51 đến 58. đã được ghi
trong sách bài đọc năm A này, và đã làm thành đoạn cuối của bài giảng, không
thể tách rời khỏi các câu trên, với sự song song rất rõ ràng giữa phần đầu và
phần cuối của bài giảng tại Capharnaum.
Cũng lời mở đầu: “Ta
là bánh sự sống" (câu 35) và "Ta là Bánh hằng sống” (câu 51). Cũng
lời cuối về sự sống vĩnh cửu: “Ai tin Ta sẽ có sự sống đời đời" ( câu 58).
Cùng lời quảng diễn
về những xì xầm (đối chiếu với những "xì xầm" trong sách Xuất Hành,
và những chống đối của người Do Thái) làm sao ông ta có thể nói: “Ta từ trời
xuống" (câu 42), và làm sao con người ấy lại có thể lấy thịt mình cho
chúng ta ăn" (câu 52).
Nhưng trong lúc phần
đầu của bài giảng trình bày "bánh sự sống" trong Đức Kitô với tư cách
là Đấng mặc khải của Chúa Cha Lời Thiên Chúa từ trời xuống, thì phần hai lại
quy chiếu cách rõ nét về bí tích Thánh Thể.
ĐỨC GIÊSU BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG.
Ở phần đầu của bài
đọc của sách này, khi quảng diễn Đệ Nhị Luật 8,3 Đức Giêsu tự giới thiệu mình
trước hết như là "Bánh sự sống" cho những ai tiếp nhận sứ điệp của
ngài bánh hằng sống từ trời xuống, đó là mặc khải cuối cùng cho loài người. Đức
Giêsu đã mặc khải bằng lời nói và việc làm của Ngài, bằng mầu nhiệm trọn vẹn
của Ngài, bằng chính con người của Ngài vì Ngài là "Ngôi Lời trở thành xác
phàm" (Ga 1,14). Ngài có thể áp dụng cho chính mình những gì mà Cựu ước đã
nói về Lời của Thiên Chúa hay sự khôn ngoan thần linh, là của ăn duy nhất có
thể làm dịu cơn đói khát của con người: "Ta là bánh sự sống, ai đến với
Ta, sẽ không bao giờ đói nữa, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ" (cf.
Pro. 9,5,- Sir. 24,21).
Một giai đoạn mới đã
vượt qua với phần hai của bài giảng.
Ở đây sự gợi lại cái
chết của Đức Giêsu, như nguồn sống, được làm rõ nét hơn "bánh mà Ta sẽ
ban, chính là thịt Ta, ban cho thế gian được sống. Và chữ "THỊT" làm
nhớ lại lời mở đầu của thánh Gioan 1,14: “Ngôi Lời đã hoá thành xác phàm. A.
Marchadour quảng diễn: chính Đấng nhập thể hiện diện. Nhưng ở đây lời lẽ thích
đáng được diễn đạt: cái chết của Đức Giêsu như nguồn sống cho nhân loại.
"Ngôi Lời trở thành xác phàm" (1,14). Thịt trở thành bánh (6,51).
Giữa việc nhập thể, cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể có một sự liên
tục mật thiết. (Phúc âm thánh Gioan "Centurion", 1992, trang 108).
Và nếu, cho đến bây
giờ cái tiếng chính là "TIN", “ĐẾN VỚI TÔI" thì bây giờ chúng ta
lại thấy những từ: "BAN", "ĂN và UỐNG". A. Marchadour viết
tiếp: "Trong phần cuối của bài giảng của Đức Giêsu, những từ về Thánh Thể
(eucharistiques) chiếm chỗ quan trọng với tính hiện thực mà người ta chỉ có thể
hiểu vào thời đại của Giáo Hội. Giữa các câu 53, 54-56, thay vì từ
"ĂN" truyền thống, Gioan dùng một từ có vẻ sống động hơn: "nhai,
cắn" điều đó còn nhấn mạnh hơn đến sở hữu và nghĩa nội tâm hoá cần thiết.
Trong trường hợp này, phần bài giảng này có thể chịu ảnh hưởng những cuộc tranh
cãi trong cộng đồng Kitô giáo của Gioan trên tính hiện thực của Thánh Thể (Phúc
âm thánh Gioan "Centurion", p.109) Đức Giêsu cũng là bánh từ trời
xuống vì trong bí tích, cái mà Ngài ban làm của ăn chính là "thịt"
Ngài hiến dâng cho sự sống của thế gian, ăn thịt (động từ lặp lại 8 lần trong
một ít câu) và "uống" máu Ngài, là nhận lấy sự sống của Ngài, là
thông hiệp với mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài: chúng ta ở vào thời
"ít lâu trước lễ Vượt qua, thịt của Đức Giêsu được ban để cho thế gian
được sống" (câu 51). Giờ Giuđa nộp Thầy mình đã gần đến, Gioan lưu ý (câu
64 và 70-71). Đến phiên mình, nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài, Ngài chấp nhận
liều mình trở nên "tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới". (Đại hội Thánh
Thể Lộ Đức, 1981).
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Ngày nay cũng thế, khi thông hiệp với Đức
Kitô trong đức tin, người Kitô hữu ở trong Ngài và nhận được sự sống đời đời (A. March, "Dossier biblique số 41, trang 13-14).
Khi giảng tại
Capharnaum, Chúa Giêsu đã không thể nói rõ cách trực tiếp về Thánh Thể, điều
người ta không thể hiểu nổi trước bữa tiệc ly, trước cái chết và sự sống lại
của Ngài. Cụm từ "bánh sự sống" trước hết là một cách nói về Đức
Giêsu như Đấng mặc khải từ trời đến và lời Ngài là của ăn và của uống (Hãy đến
mà ăn bánh của Ta hãy uống rượu nho mà Ta đã dọn sẵn cho các con: Prov. 9,5).
Tất cả bài giảng trước hết gợi lên lòng tin vào Đức Giêsu Đấng mặc khải, nhưng
việc thực hiện Thánh Thể cũng lộ ra trong thuật ngữ Kitô giáo: "ăn, uống,
có sự sống". Tuy nhiên phần cuối thì trực tiếp chỉ về "Thánh Thể"
chúng ta hãy quan sát. Thật vậy, từ câu 51, Đức Giêsu gợi lên cái chết của Ngài
như là nguồn sự sống: bánh mà tôi sẽ ban cho, chính là thịt tôi để cho thế gian
được sống. Từ "thịt" làm nhớ đến lời mở đầu: Lời trở nên xác phàm
(1,14). Chính việc nhập thể (incarnation) được diễn tả ở đây, trong giai đoạn
kết thúc: cái chết của Đức Giêsu, Ngôi Lời trở nên thịt (xác phàm), thịt làm
thành của ăn. Giữa việc nhập thể, cái chết và Thánh Thể có một sự liên tục.
Ngày nay Đức Giêsu vắng mặt trong thân thể Người, sự mặc khải của Ngài vẫn còn
đó và Thánh Thể là trọng tâm mà loài người được mời gọi, cùng với cơ may cũng
như rủi ro bị từ chối như vào thời Đức Giêsu vậy: Lời này chói tai quá, ai mà
nghe được! (6,60). Ở câu 53-56, thay vì động từ "ăn", Gioan dùng một
từ rất mạnh: "nhai, cắn". Có lẽ là để nhấn mạnh đến tính hiên thực
của Thánh Thể: Thật vậy, một số Kitô hữu, những người thuộc phái ngộ đạo, từ
chối sự trung gian thể chất của các bí tích để kết hiệp với Đức Giêsu, cũng như
họ từ chối không tin sự hiện hữu của nhân loại tỉnh trong Đức Giêsu, đến trong
xác thịt (1Ga 4,2). Nhưng vì thế, để sự trung gian của bánh không phải là ma
thuật: chính tinh thần làm cho sống, xác thịt có ích chi (Ga 6,56). Thánh Thể,
Mình Máu thông ban cho tín hữu ơn mà những người đồng thời với Đức Giêsu tìm kiếm:
sự sống vĩnh cửu từ bây giờ và mãi mãi, ở với Đức Giêsu. Hôm nay cũng vậy,
người Kitô hữu thông hiệp với Đức Giêsu trong đức tin, ở với Ngài và có sự sống
đời đời.
2) “Cao quý thay mầu nhiệm đức tin” (Mgr. L.Daloz trong "Chúng ta đã thấy vinh quang
Ngài" Desclée de Brouwer, trang 87-88).
Đức Kitô phải mời
gọi chúng ta đặt mình vào đỉnh cao của đức tin để mặc khải cho chúng ta về mầu
nhiệm đức tin. Chúa nhắc lại lời khẳng định đã đưa đến những lời "xì
xầm": "Ta là bánh ban sự sống”. Ngài bác lại lời bắt bẻ về manna mà
người ta nại ra để chống lại Ngài: "Trong sa mạc, cha ông các ngươi đã ăn
manna và đã chết, cho nên chưa phải là thứ bánh ban sự sống. Trái lại ai ăn
bánh bởi trời sẽ không hề chết bao giờ: ai tin và ăn bánh này sẽ sống muôn
đời". Và đây là lời tuyên bố gây vấp phạm… bánh mà Ta ban, chính là thịt
Ta để cho thế gian được sống… Tuy nhiên trước sự chống đối, Chúa Giêsu chẳng
những không dịu giọng mà trái lại còn nhấn mạnh bằng bốn câu rất rõ ràng và
thực tế: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài… ai ăn thịt
Ta, và uống máu Ta... thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của sống… ai ăn
thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy...". Không có
lối thoát nào cả, không có cách nào khác để có sự sống, có sự phục sinh để ở trong
Ngài. Không thể rõ ràng hơn được nữa. Hòn đá, vật chướng ngại, chính là hòn đá
gốc để các môn đệ được sống, hòn đá thử thách của sự thật về đức tin. Như thế,
Thánh Thể cắm sâu vào trung tâm của hiện hữu Kitô giáo. Trong bóng tối của mầu
nhiệm, những ai muốn có sự sống phải hướng về đó, vì đó là của ăn để sống: bánh
bởi trời là như thế: rất khác với thứ bánh mà cha ông các ngươi đã ăn, họ đã
hết, nhưng ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Không một lời diễn giảng, thánh sử
kết thúc đơn sơ: Đó là những lời dạy của Đức Giêsu trong hội đường Capharnaum.
Đó là cách bánh hằng sống và chén cứu độ được dặt vào tay chúng ta không một
lời giải thích nào. "Cao cả thay nhầu nhiệm đức tin".
3) “Hai bàn Tiệc" (J.Perron, trong "Đọc Kinh Thánh" số 52,
trang 139-140).
Nếu tách rời những
câu trước với đoạn văn này, sẽ đi đến nguy hiểm là làm nghèo nàn đi, hơn nữa
làm sai nghĩa về lời dạy về Thánh Thể của Gioan. Những gì nói về bí tích phải
để mở ra một nhân quan rộng hơn nhiều hơn những gì nói trong bài thuyết giảng.
Nếu Đức Giêsu là bánh ban sự sống trong Thánh Thể, là bởi trước hết Ngài là
bánh cho những ai tiếp nhận lời Ngài và chứng của Ngài, và vì thế phần đầu chỉ
nói đến người "tin vào", phần hai nói đến người “tin
hiệp-thông", nhưng hai phần, phần nào cũng không thể thiếu, bởi lẽ không
thể nói đến "người hiệp thông" mà trước hết người ấy không phải là kẻ
tin, nếu không có sự khẳng định ở câu 47 thì câu khẳng định 54 chẳng có nghĩa
gì hay là dẫn đến tình trạng làm cho Thánh Thể chỉ là một nghi lê ma thuật. Thánh
Tôma Aquinô nhắc nhở rằng mọi bí tích đều là "bí tích đức tin" (sacra
men ta fidei). Cuối cùng nếu đức tin có thể bỏ qua bí tích (không nói đến rước
lễ thiêng liêng hay rửa tội bằng lòng muốn) thì bí tích không thể có nếu không
có đức tin. Đức tin là sự kết hiệp đầu tiên với Đức Kitô, phải đi trước nghi lễ
bí tích và hướng về đó" (A.Feuillet). Sự tình bày về Thánh Thể này cũng
mời gọi chúng ta, như các cải tổ Công đồng đã làm, tìm lại chỗ đứng của phụng
vụ Lời Chúa đi trước và chuẩn bị cho nghi lễ bẻ bánh trong các cử hành của
chúng ta - cả hai phải kết hợp với nhau cách sâu xa như hai đoạn của bài giảng
thuyết của Gioan. Các tác giả Kitô giáo xưa đã hiểu như thế khi họ nói đến
"hai bàn tiện trong Giáo Hội: "Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc
thánh". Có lẽ vì thế mà sinh ra những hậu quả đáng giận của phong trào cải
cách: sự chia cắt mà người ta có thể diễn tả một cách hài hước: người Tin lành
thì ra khỏi cửa với cuốn Kinh Thánh trong túi và người Công giáo đi ra mang
theo Mình Thánh Chúa. Lời dí dỏm, trên đây, nếu có thể nói lên một cái gì về
thực tế của sự kiện, thì phải nói rằng cả hai cộng đồng, mỗi bên chỉ giữ cho
mình một nữa mầu nhiệm Thánh Thể, một phần của bài giảng thuyết trên chủ đề
"bánh ban sự sống".
21. Chú giải của Noel Quesson
MÌNH VÀ MÁU ĐỨC KITÔ
Khác với ba Tin Mừng
nhất lãm, thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Thánh Thể, chiều ngày thứ
năm Tuần Thánh. Nhưng sau khi hoá bánh ra nhiều lúc Đức Giêsu phân phát lương
thực trần gian cho những người đói khổ, thánh sử đã đặt vào miệng Đức Giêsu một
bài giảng dài về “bánh hằng sống, bánh ban sự sống muôn đời”…
Theo một văn phong
điểm hình của thánh Gioan, trang Tin Mừng ngắn mà chúng ta đọc hôm nay chứa
đựng năm từ –chìa khoá: ăn (8 lần); uống (4 lần); thịt
(5 lần); máu (4 lần); sống (9 lần); phải để mình cuốn hút
vào giọng nói có nhiệu điệu ấy và dám vượt ra ngoài ngôn ngữ và ý tưởng trong
sáng. Sự gặp gỡ với mầu nhiệm Thiên Chúa không bao giờ ban cho người nào gắn
chặt và bám víu vào cái tri giác được, vào nhân tính và sự duy lý.
"Tôi là bánh hằng sống từ
trời xuống"
Bánh? Dẫu sao cũng
là một vật rất đơn giản và rất con người. Đối Với toàn bộ vùng duyên hải của
biển Địa trung hải, "bánh" (bánh mì) là lương thực căn bản, như khoai
mì đối với châu Phi và lúa gạo đối với châu A. Bánh cũng là biểu tượng cho sự
sống. Ai không ăn chẳng bao lâu sẽ chết và ai không ngon sẽ phải đến bác sĩ, vì
đó là dấu hiệu có cái gì không ổn cho sức khoẻ của mình.
Nhưng sau đó chúng
ta được phóng lên trên những từ ngữ của Đức Giêsu nói người là bánh lương thực
nuôi sống. Hơn thế nữa Người còn khẳng định rằng lương thực ấy thiêng liêng, từ
trời xuống. Và đó là bánh hằng sống! Vậy thì đó là một thứ bánh tra hỏi chúng
ta về bản chất cái đói của chúng ta. Đối với tôi sống có nghĩa là gì? Nếu tôi
không muốn ăn Thánh Thể, chứng bệnh thiếu máu nào rình chờ tôi? Tôi nuôi sống
mình bằng gì? Phải chăng bằng tài sản? Bằng lạc thú? Bằng tiêu thụ? Bằng lao
động? Những sở thích tự phát và sơ đẳng của tôi là gì?
“Ai ăn bánh này sẽ được sống
muôn đời".
Có nhiều trình độ
sống khác nhau. Pascal đã nói đến ba cấp độ của sự cao cả. Những sự cao cả của
xác phàm, những sự cao cả của tinh thần và sau cùng sự cao cả của thánh thiện;
“gom tất cả thân thể lại, người ta không thể làm ra một tư tưởng nhỏ; điều đó
không thể làm được và tư tưởng thuộc về một trật tự khác. Gom tất cả thân thể
và tinh thần lại người ta không thể rút ra một vận động của bác ái chân thật,
điều đó không thể làm được và bác ái thuộc về một trật tự khác: trật tự siêu
nhiên”. (Tư tưởng 585). Dĩ nhiên là có sự sống của thân thể, thuộc sinh học,
đúng theo bản chất của nó là đẹp và mong manh. Một nhãn hiệu quần dài vừa qua
đã treo một biểu ngữ quảng cáo với lý tưởng đó: "Bạn hãy để cho thân thể
bạn phát biểu, người ta thấy mình đang ở trình độ nào! nhưng đời sống thật của
con người là đời sống trí thức: chính tư tưởng phân biệt con người với thú vật.
Và chúng ta còn có một đời sống tâm linh: điều quan trọng lúc đó là yêu thương
chân thật.
Đức Giêsu không
ngừng nghĩ đến “đời sống thánh thiêng, đời sống muôn đời" như Người nói.
“Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính
là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống".
Những thánh sử khác
dùng một từ khác: "Này là mình Thầy”. Còn Gioan đã nói về sự nhập Thể đã
sử dụng chữ “thịt” được dịch ra tiếng Việt là ‘người phàm’. “Và Ngôi Lời đã trở
thành người phàm" (Ga 1,14). "Đức Kitô đã đến và trở nên người phàm”
(1 Ga 4,2). Gioan nhấn mạnh nhiều trên tính hiện thực của Đức Giêsu: điều chúng
tôi đã thấy tận mắt và tay chúng tôi đã chạm đến (1 Ga 1,1).
Người phàm theo
nghĩa Kinh Thánh, trước tiên không phải là bản chất thể lý mà chúng ta còn Gọi
là thịt, xác thịt; mà là toàn bộ "hữu thể sống", là ngôi Vị trọn vẹn
"Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là tôi, tất cả sự sống tôi”. Khi nói về
"thịt tôi đây", như trong câu này, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của
Người. Khái niệm này rất quan trọng: Đức Giêsu phải đi qua cái chết để chúng ta
được nuôi sống bởi Người. Người phải đi qua cái chết chúng ta được sống.
Người Do Thái liền tranh luận
sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông
ta được?”
Không phải chỉ ngày
nay Thánh Thể bị từ chối. Ngay từ ngày đầu tiên, người ta đã gào lên "điên
rồ!" Ai bám víu vào sự lĩnh hội ngay lập tức của các từ ngữ sẽ không thể
đạt đến điều Đức Giêsu muốn nói:
Đức Giêsu nói với họ:
"Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con
Người, các ông không có sự sống nơi mình".
Không nao núng. Đức
Giêsu còn nói thêm! Người không tìm cách để tránh gây thương tổn. Cho đến lúc
này, Người chỉ nói "ăn" thịt Người. Người nhấn mạnh thêm khi nói rằng
phải "uống" máu Người. Sự ám chỉ thịt và máu nhắc nhớ đến nghi thức
hiến tế chiên vượt qua nơi những người Do Thái. Đối với tâm thức của người Do
Thái, uống máu là một điều cấm kỵ, một sự cấm kỵ thiêng liêng; không chỉ không
được phép mà còn ghê tởm, phạm thánh. Ngay cả thịt các động vật phải để cho nhỏ
hết máu trước khi được ăn bởi vì máu là sự sống (Lv 17,11-14; Đnl 12,23).
Nhưng thực tại văn
hóa ấy, mà từ “máu” chuyển tải trong tư tưởng Thánh Kinh cho thấy rõ ràng không
chỉ là thứ chất lỏng gồm các hồng cầu và bạch cầu. Máu mà Đức Giêsu nói đến,
chính là sự mới sẽ đến từ cái chết của Người. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng
thực tại mầu nhiệm của Mình và Máu mà chúng ta tiếp nhận chính là "thân
thể vinh quang và thiêng liêng của Đức Giêsu đã Chết và đã sống lại. Về vấn đề
này, phải đọc lại sự khai triển của Thánh Phaolô: "Cái người gieo không
phải là hình thể sẽ mọc lên nhưng là một hạt trơ trụi, như hạt lúa hay một thứ
nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý người muốn: Giống nào hình
thể nấy... Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát. mà trỗi dậy
thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì
yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi
dậy là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí..." (l
Cô-rin-tô 15,37-42).
“Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết".
Sự vượt qua phi
thường của các từ ngữ mà chúng ta được mời gọi trong đức tin, không nên làm cho
chúng ta đi đến một ý nghĩa chỉ thuốn là ẩn dụ hoặc làm dịu đi. Ở đây Gioan
thình lình thay thế từ "phagein", "ăn" mà ngài đã dùng cho
đến lúc này... bằng từ "trôgei” mang tính hiện thực nhiều hơn và có nghĩa
là "nhai"! Mọi bản dịch đều ngần ngại đi theo thánh sử tới đó! Tuy
nhiên, ở đây chúng ta có một ghi nhận văn hóa quan trọng: trong bữa vượt qua,
con cái Israel được khuyên bảo phải nhai kỹ thức ăn như để hấp thụ thức ăn ấy
tốt hơn. Chính Đức Giêsu ám chỉ đến tập tục đó. Và trong điều đó, không có gì
là ma thuật; nhưng là một sự tượng trưng sâu xa rất hiện thực và rất có ý nghĩa
bởi vì đời sống thiêng liêng của chúng ta được nuôi dưỡng và diễn tả bằng thân
thể.
“Vì thịt tôi thật là của ăn và
máu tôi thật là của uống".
Từ "thật"
được lặp lại hai lần. Đức Giêsu, nhất là trong Tin Mừng của Gioan không ngừng
đi từ một thực tại hữu hình đến một thực tại khác sâu la hơn. Con người khát
vọng sự viên mãn. Điều mà con người đã có kinh nghiệm về niệm vui tình yêu, sự
sống làm cho con người ước mơ niềm vui sau cùng, không phức tạp, một tình yêu
hoàn toàn làm thỏa mãn, môt đời sống không có sự chết. Lịch sử nhân loại là một
lịch sự dài của những ước mơ bị tước đoạt những khát vọng thất bại. Đức Giêsu
dám đề nghị sự sống thật, lương thực thật.
"Ai ăn thịt và uống máu
tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Ở đây có một từ mà
thánh Gioan hay dùng: ở lại! Đề tài này sẽ còn được phát
triển dài vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, trong bài văn phúng dụ về cây
nho:..Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong
người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì
được" (Ga 15,5).
Một trong những lời
tự phụ nhất mà một con người bình thường không bao giờ phát biểu. Lời gây vấp
ngã, nếu đó không phải là lời của Thiên Chúa.
"Nhai thịt”;
“uống máu"; khi Gioan viết những lời nàỵ các Kitô hữu đã cử hành bữa ăn
mầu nhiệm Thánh Thể, tức thánh lễ. Thật vậy trong thánh lễ có hai dấu chỉ phân
biệt: bánh, chất rắn phải ăn; rượu nho, chất lỏng phải uống. Và có hai lời phân
biệt: "Này là Mình Thầy bị nộp" “Này là Máu Thầy đổ ra"
Thịt... Máu... Làm
thế nào mà không nghĩ đến cách cụ thể mà Đức Giêsu đã chết trên thập giá! Thánh
lễ đưa chúng ta về Gôn-gô-tha nghĩa là hy tế đổ máu của Đấng đã ban cho tất cả
một cách tự do. Hiệp thông với Đức Giêsu, không thể chỉ là một phần của phút
trong đó chúng ta hiệp nhất với Người. Điều đó cũng phải là toàn bộ thời gian
và bề dày của đời sống chúng ta mỗi ngày được hiến dâng tình yêu.
-
Và đó là
“ở lại” trong Đức Giêsu.
-
Và đó là
"sự sống" theo Đức Giêsu: sự sống thật.
Sự hiệp lễ Thánh Thể
chỉ có ý nghĩa khi nó biểu lộ và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong cuộc sống. Và
một cách cụ thể của mỗi người chúng ta biết rất rõ trong cuộc sống hàng ngày
điều đó có ý nghĩa là gì.
"Như Chúa Cha là Đấng hằng
sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi
mà được sống như vậy".
Đây là một trong
những công thức cô đọng nhất của tất cả Tin Mừng. Rõ ràng có vấn đề thần thánh
hóa con người! Hình ảnh đồng hóa lương thực nói lên nhiều điều!trong mọi chu kỳ
của tự nhiên, luôn luôn hữu thể lớp trên đồng hóa thân hữu thể của lớp dưới:
thảo mộc biến đổi thành vật chất vô cơ; thú vật biến đổi thành các thảo mộc mà
nó ăn và con người là đỉnh cao thấy rõ của sự biến đổi ấy mỗi ngày một hoàn thiện
của sự sống. Tại sao sự biến đổi lại dừng lại ở đó? Tại sao Thiên Chúa lại
không đồng hóa chúng ta với Người?
"Đây là bánh từ trời xuống
không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ
được sống muôn đời".
Sống! Sống dồi dào!
Sống thánh thiêng. Chỉ thế thôi Bạn có muốn như thế không? Bạn hãy đến với ngày
lễ của sự sống đời đời. Thánh Thể chiếm vị trí nào trong đời bạn? Bạn có đói
khát Thiên Chúa không? Người ta không ăn Thánh Thể như những người Do Thái ăn
bánh man-na đi làm dịu cơn đói của thể xác. Đây là một cơn đói thiêng liêng,
xuyên qua một dấu chỉ của thể xác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét