ĐỨC CHA GIUSE NGUYỄN NĂNG |
ĐỨC CHA PHỤ TÁ ANPHONG NGUYỄN HỮU LONG THĂM LANG TRUNG |
CÁC CHA HẠT LÀO CAI TĨNH TÂM |
SƠN MÃN CÓ TRẦN NHÀ MỚI |
LĂNG THÍP |
CHUÔNG MỚI BẢO HÀ |
GIÁO HỌ BẢO HÀ |
CAM ĐƯỜNG |
ĐỨC CHA PHỤ TÁ ANPHONG NGUYỄN HỮU LONG THĂM TẢ PHỜI |
ĐỨC CHA PHỤ TÁ ANPHONG NGUYỄN HỮU LONG
LÀM PHÉP CHUÔNG 1 TẤN 2 CHO CAM ĐƯỜNG
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY A
Lời Chúa: Xh
17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-42
1. Bên bờ
giếng Giacob
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta
cùng nhau chia sẻ hai ý tưởng:
Ý tưởng thứ
nhất đó là nước
Mỗi khi đi làm thuỷ lợi giữa đồng
không mông quạnh với cái nắng như thiêu như đốt, chúng ta mới thấy quý những
giọt nước hiếm hoi.
Dân Do Thái trong Cựu Ước cũng đã trải
qua kinh nghiệm ấy. Khi băng qua sa mạc cát nóng để trở về miền đất Hứa, họ đã
hiểu được nước gắn liền với sự sống của họ như thế nào. Đồng thời qua dòng nước
vọt lên từ tảng đá Horeb dưới cây gậy của Maisen, Chúa đã chứng tỏ Ngài là Đấng
đem lại sự sống cho họ.
Với Chúa Giêsu thì khác, từ thứ nước
bình thường dưới lòng giếng, Ngài đã giới thiệu với người phụ nữ Samaria một
thứ nước đem lại sự sống vĩnh cửu. Thực vậy, đã từ lâu người Do Thái và người
Samaria coi nhau như những kẻ thù truyền kiếp. Dưới mắt dân Do Thái thì người
Samaria bị coi như một thứ ngoại đạo và uế tạp cần phải xa tránh, thế mà qua
đoạn Tin Mừng vừa nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù hận như một dòng
nước tràn bờ đem lại sự xanh tươi cho những mảnh đất khô cằn. Ngài đã xin người
phụ nữ Samaria chút nước uống. Hành động của Ngài đã gây nên sửng sốt và từ sự
sửng sốt ấy, Ngài đã làm trổi dậy một sự sống mới.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của
mình là được sai đến với những con chiên lạc. Cuộc đối thoại của Chúa Giêsu đã
giúp người phụ nữ nhận ra tình trạng bất chính của mình, để rồi cuối cùng nàng
đã xác tín Ngài chính là Đấng cứu thế. Chúa Giêsu đã khởi đầu bằng cách xin
nàng cho Người uống nước, nhưng rồi cuối cùng chính nàng lại là người được lãnh
nhận nước ban sự sống.
Ý tưởng thứ
hai đó là nơi thờ phượng Chúa.
Người Samaria có đền thờ của mình tại
núi Sichem. Trong khi đó người Do Thái lại khẳng định đền thờ của họ tại
Giêrusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thật, bởi vì đó mới chính là
nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài. Vậy ai đúng. Người Samaria hay người Do
Thái? Cuộc tranh luận có lẽ đã kéo dài nhiều tháng và nhiều năm, nhưng vẫn
không có kết luận. Họ không phải chỉ tranh luận suông, mà hơn thế nữa, người Do
Thái còn khích bác dân Samaria là đã theo đuổi một thứ tôn giáo lai căng. Còn
người Samaria thì có lần đã chơi khăm bằng cách rắc xương người chết vào nơi
thờ kính của dân Do Thái, để làm cho nơi đó ra uế tạp, không còn thích hợp cho
công việc tế tự.
Người phụ nữ Samari hẳn muốn nhờ Chúa
Giêsu đứng ra làm trọng tài giải quyết vì nàng nhìn nhận Ngài là người của
Thiên Chúa, đã biết được những chuyện thầm kín của đời nàng. Thế nhưng, Chúa
Giêsu đã nhân dịp này, mạc khải cho nàng biết phải thờ phượng Thiên Chúa trong
tinh thần và trong chân lý, bằng cách nhận biết Thiên Chúa là Cha. Chính sự thờ
phượng Thiên Chúa là Cha và việc đặt mình vào trong mối quan hệ cha con với
Thiên Chúa mới là việc thờ phượng mà Thiên Chúa hằng mong mỏi.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã
thực sự yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim và tâm hồn của mình, hay chúng ta
đang còn mải mê chạy theo những nghi thức và những biểu dương bên ngoài?
2. Nhịp cầu thiêng liêng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử
dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn.
Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi.
Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp
gỡ Thiên chúa.
Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với
người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn
cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng
tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.
Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ
giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị,
đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo
mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm
mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có
nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự
sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con
người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu
có.
Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình
múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi
Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.
Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân
giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng
nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị
đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người
cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là
gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.
Trong phút chốc, chị trở nên thật
nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay.
Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc
đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng
từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.
Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước
kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn
chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn. Những thứ mà
trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời
sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay
tung tăng khắp chốn.
Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ
hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy
trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn
che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: "Ông là Do
Thái mà lại xin nước tôi ư? ". Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá
tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi
xuống. Chị nhìn ra người đối diện "cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát
gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là
"một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống.
Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.
Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào
dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui. Chị để quên
chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ
lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.
-
Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời
chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp
lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.
-
Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước
đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.
-
Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống
thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có
mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị
đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng,
vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý.
Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.
Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể
một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng
đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng
lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ
sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con
chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay
thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác
gà trống: "con gì mà khủng khiếp quá nhỉ". "Đó là đại bàng. Đại
bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà".
Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.
Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã
trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ
là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy
mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là
những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng,
những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết
chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.
Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch
trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức
hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu
khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng
nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1)
Đức Giêsu đã thành công trong việc đưa người
phụ nữ Samaria về nhận biết chân lý. Ta có thể học hỏi được gì ở nơi Người để
thành công trong việc truyền giáo?
2)
Đang thoả mãn với vật chất, người phụ nữ
Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một cuộc hoán cải quan
trọng, là một ơn Chúa ban. Bạn đã bao giờ được ơn sám hối để thấy khao khát đời
sống tâm linh chưa?
3)
Đã bao giờ bạn cảm thấy Đức Giêsu là nguồn
suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn?
3. Cho Tôi xin chút nước uống (Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau nửa ngày hành trình từ Giuđê về
Galilê, Đức Giêsu nghỉ mệt bên một giếng nước ở vùng Samari. Ngài vừa đói vừa
khát, giữa cái nắng ban trưa. Các môn đệ vào thành mua thức ăn. Còn lại một
mình Đức Giêsu ngồi bên bờ giếng. Chính nơi đây đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa
Ngài và người phụ nữ Samari vốn bị coi là ô nhơ.
Đức Giêsu bắt đầu gieo hạt để chuẩn bị
cho mùa gặt mai sau của các môn đệ. "Cho
tôi chút nước uống."
Đức Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng
một lời nài xin. Ngài chẳng sợ thú nhận sự thiếu thốn của mình.
Xin nước uống là làm một cuộc cách
mạng, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samari và Do thái
vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ bốn thế kỷ. Chẳng ai hiểu nổi một bậc
thầy như Đức Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samari. Đức Giêsu đã
cúi mình phá bỏ những hàng rào để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình
đẳng.
"Cho tôi chút nước uống." Ngài
là người xin nước trước khi là người cho... Chúng ta cũng có nhiều điều phải
xin nơi chính những người cần chúng ta giúp đỡ.
Đức Giêsu cho thấy Ngài có một thứ
nước lạ lùng, uống vào không còn khát nữa. Người phụ nữ vội vã xin Ngài thứ
nước kỳ diệu đó. Chị đâu ngờ chính mình đã bắt đầu được nếm rồi. Nước đó chính
là Lời của Đức Giêsu, Lời vén mở dần dần con người thâm sâu của Ngài.
Đức Giêsu cho thấy Ngài biết rõ gia
cảnh của chị. Cái biết của Ngài không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông. Cái
biết của Ngài về những điều riêng tư thầm kín đã khiến chị coi Ngài là một ngôn
sứ đáng tin. Từ đó, chính chị gợi lên vấn đề tôn giáo, một vấn đề khiến chị rất
bận tâm; Chính chị nói lên niềm mong đợi của mình về Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến
dạy dỗ mọi sự (Ga 4,25); rồi cũng chính chị đã bỏ vò nước lại mà hân hoan chạy
đi giới thiệu Đức Giêsu cho đồng bào.
Chị đã tìm thấy thứ nước tuyệt diệu
nơi Đức Giêsu. Ngài từ từ tỏ mình cho chị: "Đấng ấy chính là tôi, người
đang nói với chị đây." Không thấy nói đến chuyện Đức Giêsu ăn hay uống. "Lương
thực của Thầy là thi hành ý Đấng đã sai Thầy." Đức Giêsu chỉ đòi một điều,
đó là nuôi dưỡng nhân loại. Ngài chỉ khát một điều, đó là ban nguồn nước sự
sống. Chúng ta có dám chia sẻ cơn đói khát của Ngài không?
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng
trên đây, bạn thấy đâu là những thái độ cần thiết mà người rao giảng Lời Chúa
hôm nay cần có?
·
Con người đói khát cơm gạo và nước uống tinh
khiết. Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay đói khát điều gì hơn cả (tình bạn, tình
yêu, lòng tin, niềm hy vọng, ý nghĩa cho cuộc sống, sự trung thực...)? Kitô
giáo có thể giúp gì cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính
bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán
dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong
Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn
theo chân Chúa luôn.
Xin
đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin
Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin
Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời.
Amen. (Thánh Âu-tinh)
4. Chúa hiện diện đó, khi ta khát
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúng ta đang chứng kiến Chúa Giêsu
khởi đầu đời sống công khai. Người rời xứ Giuđêa, vì ở đó sự thành công của
Người làm cho nhóm Biệt phái tức giận. Trong giai đoạn này, Chúa không muốn đi
vào cuộc tranh chấp mà bọn họ sửa soạn cho Người, nên Người đi qua Samaria để
lên Galilêa. Tại Samaria xảy ra một cuộc gặp gỡ mở màn cho việc rao giảng cho
dân ngoại toàn thế giới. Chúa Giêsu dừng chân ở núi Garidim. Từ 400 năm, đó là
Núi Thánh của dân bản xứ. Vì kình địch với người Do Thái, họ đã biến ngọn núi
này thành một nơi cạnh tranh với Giêrusalem. Đi đường xa mệt mỏi, Chúa Giêsu
ngồi xuống bên bờ giếng Giacóp, trong lúc môn đệ đi vào làng mua thức ăn. Trong
cuộc đối thoại với người đàn bà ra giếng múc nước, ta thấy ngay ý Người muốn
dùng nước làm biểu tượng để mặc khải sứ mệnh và danh tính Người. Câu chuyện
người đàn bà xứ Samaria thường được dẫn ra làm tỉ dụ về khoa sư phạm tuyệt vời của
Chúa đối với con người. Chúa thâm nhập vào trong tâm trí con người, để làm nổ
tung các giới hạn của nó, mở nó ra đón nhận chân lý cao cả hơn bắt nguồn từ
Thiên Chúa, chớ không phải từ con người.
Trước tiên, Chúa Giêsu gợi óc tò mò
tìm hiểu của người phụ nữ. Muốn thế, người đặt mình vào mức tầm thường của đời
sống hằng ngày, vào mức của công việc múc nước vất vả. Người làm cho linh cảm
rằng không phải chỉ cần có thứ nước đó để sống mà thôi, không phải chỉ có những
thực tại vật chất mới là quan trọng trong đời sống. Do đó phản ứng đầu tiên của
người đàn bà Samaria là: xin ông cho tôi thứ nước ban sự sống.
Phản ứng lẫn lộn vừa ước muốn thoát khỏi sự vất vả thường ngày vừa lòng khao
khát biết Chúa Giêsu muốn nói gì. Chúa làm cho bà thắc mắc hoàn toàn khi thấy
rằng Người nhìn tận đáy lòng bà. Bà hãy về gọi chồng lại đây. Hoàn
cảnh bây giờ trở nên nan giải cho người phụ nữ, và bà lái câu chuyện sang hướng
khác. Phản ứng rất tự nhiên.
Về việc thờ phượng tại Giêrusalem thì
sao? Chúa Giêsu theo bà ‘đi vòng quanh’, lợi dụng cơ hội để nói thế nào là tôn
thờ thật sự. Càng lúc càng thắc mắc thêm, bà nghĩ còn có cách nói tới việc Đấng
Cứu Thế sẽ đến để thoát khỏi cuộc đàm luận này. Đó là lúc Chúa Giêsu chọn để tự
mặc khải mình ra. Chính Ta đang nói với ngươi đây, Ta là Đấng ấy. Bấy giờ bà tin
vào Chúa Giêsu và thuật lại điều đã xảy tới, đó là Tin Mừng rồi.
Chúa hiện diện gần gũi với đời sống cụ
thể thường nhật của ta. Ta có biết nhận ra Người không? Có chấp nhận đối thoại
với Người không? Có chấp nhận rằng không phải chỉ có những của cải vật chất mới
là quan trọng chăng? Ta có cố gắng không để cho mình bị vật chất hóa chăng?
Không phải chỉ có nước uống nuôi xác, còn có nước chảy vọt ra thành sự sống đời
đời. Đời sống ta có được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện và thờ lạy không?
5. Khát vọng vô biên của con người
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’ – R. Veritas)
Andre Frossard, một ký giả người Pháp
đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm,
là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng
sản đầy xác tín…
Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn
đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện
có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông.
Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng
dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người
bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.
Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng
liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp
Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất
(best-seller)…
Anh chị em thân mến,
Dù cho chúng ta có chối bỏ Thiên Chúa,
Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh
nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Ngài đang chờ đợi
chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi
chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên
Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn đấu, bao lâu
chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy
Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục
Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa
Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ
hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù
nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ
Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu
Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành
đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu
chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.
Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình
huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là
người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước
uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc
lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai
uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi
người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.
Thưa anh chị em,
Con người sinh ra trong giới hạn,
nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát đó, kẻ thì đánh
lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ thất vọng… Kẻ
thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật chất. Họ cũng
sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã nói với người
thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ nước này
không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích
cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái
phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa mãn cứ
trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng uống,
càng uống lại càng khát…
Chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên
Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống
với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô
biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát
vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ khi nào gặp được
Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn mà thôi.
Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi
tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán
ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng
nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở
ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an
nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá
rồi!”.
Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp
được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người:
“Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm. Phải chăng ông ấy
là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở
lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi
tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”. Và cũng
như Andre Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên
Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà
bằng cả một tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm
thuộc loại sách bán chạy nhất.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín,
sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm
thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có
thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là
đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập
và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự
sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.
Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa
cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh
nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban
cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.
6. Xin mở mắt tâm hồn con
(Trích trong ‘Sống
Tin Mừng’ – R. Veritas)
Quí ông bà, cô bác và anh chị em thân
mến!
Có lẽ chúng ta không còn cần câu
chuyện nào khác để dẫn chứng cho chúng ta đối với đoạn Phúc Âm hôm nay. Cuộc
gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria được mô tả một cách thật là
hay, với nhiều chi tiết gợi ý và có thể thu hút sức chú ý của chúng ta. Tác giả
Phúc Âm không nhắc đến tên của người đàn bà này, mà chúng ta có thể giả thuyết
là Chúa và các tông đồ, dĩ nhiên trong số các tông đồ có cả tác giả Phúc Âm tức
thánh Gioan, biết tên người đàn bà này, vì Chúa đã lưu lại nơi cộng đồng trong
vùng hai ngày sau đó để giảng dạy. Người đàn bà không được nhắc đến tên, có lẽ
vì hai lý do sau đây:
-
Trước hết là sự tế nhị không muốn nêu danh
tánh của một người đàn bà đã có năm đời chồng và hiện đang sống với người không
phải là chồng của mình.
-
Lý do thứ hai quan trọng hơn, là vì tác giả
Phúc Âm thánh Gioan muốn trình bày nơi đây không phải lịch sử cuộc đời của một
người đàn bà tội lỗi, nhưng trình bày cho chúng ta có thể nói là con đường đức
tin của mỗi người chúng ta.
Nói cách khác, chúng ta không cần biết
danh tánh người đàn bà đó là ai. Vì có thể nói, người đàn bà đó là mỗi người
chúng ta đây trước mặt Thiên Chúa. Con đường đức tin của chúng ta, chúng ta hãy
quan sát xem người đàn bà này đã gặp Chúa Giêsu như thế nào. Hay nói cách khác,
Chúa Giêsu đã gặp bà và hướng dẫn bà từ một thái độ đối nghịch sang thái độ
kính trọng, cuối cùng tin nhận và làm chứng cho Chúa như thế nào.
Trước hết, dung mạo tinh thần của
người đàn bà đó là ai? Mặc dù chúng ta không biết tên và không cần biết tên,
đây là người xứ Samaria, con cháu của những người Do Thái mang dòng máu Adam.
Chúng ta biết vào năm 700 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái bị
bắt đi lưu đày sang Babilon và vùng đất Samari này được người khác đến cư ngụ.
Năm 500 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái được trở về lập quốc
và vùng đất Samari này là vùng đất mà những người Do Thái sống với những người
ngoại quốc, họ lập gia đình với nhau, cưới hỏi nhau. Từ đó những người Samari
này có thể nói là những người Do Thái mang dòng máu lai người ngoại quốc, không
còn là Do Thái chính tông trong sạch như những người Do Thái ở vùng Giuđêa,
quanh thành Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem.
Đây là những người bị người Do Thái
coi như là kẻ thù theo cả hai nghĩa, kẻ thù của dân tộc Do Thái đã kết thân lập
gia đình với những người ngoại quốc, và cũng là kẻ thù coi thường Luật Chúa,
Luật Môsê, không xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của Thiên Chúa nữa. Hơn
thế nữa, người đàn bà đã có năm đời chồng và đang sống với một người không phải
là chồng của mình. Một người tội lỗi công khai, bị kẻ khác xét xử như là kẻ
ngoan cố trong tội lỗi, vui lòng với tội lỗi của mình, mà theo quan điểm con
người của chúng ta thì có lẽ đây là trường hợp hết thuốc chữa.
Người đàn bà Samari mà Chúa Giêsu gặp
không còn xứng đáng với ơn cứu rỗi của Chúa, đó là nhìn theo quan điểm con
người chúng ta, nhưng không hẳn như vậy, vì trong thâm tâm của bà vẫn còn có
một thắc mắc, một khát khao vượt ra khỏi tình trạng hiện tại của mình. Chúng ta
có thể ghi nhận bà còn một chút hiểu biết giáo lý, còn đang mong chờ Đấng Thiên
Sai đến để ban ơn cứu rỗi. Do đó bà đã hỏi Chúa Giêsu: "Chúng tôi phải thờ
Thiên Chúa ở đâu? Tại Giêrusalem hay trên núi này? Tôi biết rằng Đấng Thiên Sai
sẽ đến để dạy cho chúng tôi mọi sự". Đó là khao khát từ trong thâm tâm của
bà hướng về Đấng Cứu Rỗi, và hơn nữa nơi con người bà còn có một điều tốt là
can đảm nói sự về cuộc đời mình ra trước mặt Chúa. Bà đã dám nhìn nhận tôi
không có chồng, bà ý thức về tội lỗi của mình, và có chút khao khát hướng về sự
giải thoát, về ơn cứu rỗi.
Chúa Giêsu đã hành động như thế nào
đối với bà? Chúa đến với bà trước hết trong dung mạo của người Do Thái, tức là
kẻ thù của người Samari. Chúa vượt qua hai định kiến xấu đối với bà, người
Samari và người đàn bà. Người vùng Samari như đã nói là những người Do Thái
mang dòng máu lai ngoại quốc, không còn trung thành, không còn là Do Thái chính
cống trong sạch với Luật Môsê nữa.
Một vị thầy của người Do Thái không
bao giờ nói chuyện với người đàn bà nơi công cộng, nhưng Chúa Giêsu vượt qua
hai định kiến xấu này và khơi dậy thiện cảm của người đàn bà khi mở miệng xin
nước uống: "Xin bà cho tôi nước uống". Chúa tạo dịp cho người đàn bà
làm một việc thiện, làm một điều tốt cho một người mà mình không thích để từ đó
nâng dậy người đàn bà sa ngã.
Hành động và lời nói của Chúa Giêsu đã
phá tan thành kiến nơi người đàn bà: "Sao ông là người Do Thái mà lại xin
nước uống với tôi là người Samari?" Hành động và những lời nói của Chúa
làm cho người đàn bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã đổi cách xưng hô từ việc
ngay từ đầu gọi Chúa là ông một cách xa lạ, thì giờ đây biến thành: "Thưa
Ngài, xin hãy cho tôi nước uống". Một lời thưa nói lên thái độ kính trọng,
bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa nói với bà.
Chúa dùng hình ảnh nước uống để mạc
khải về mầu nhiệm ân sủng Thần Linh từ Thiên Chúa muốn ban cho con người. Chúa
không có thái độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ người đàn bà dễ hiểu và cuối
cùng dẫn bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn của bà. Đó là Chúa cho bà
biết là bà đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải nước uống vật
chất, không phải tình thương nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu rỗi, khao khát
gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc đó Chúa Giêsu đã mạc khải rõ ràng hơn cho bà
Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người đang nói với bà đây. Con đường
đức tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và trở thành người chứng đầu tiên cho
Chúa, bà chạy về làng kêu mời những người khác đến gặp Chúa Giêsu. Tin và làm
chứng cho Chúa luôn đi đôi với nhau.
Tác giả Phúc Âm thánh Gioan không kể
thêm chi tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi tiết để thỏa mãn tính tò mò
của mỗi người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc Âm này, nhưng ngài muốn nói
đầy đủ trong đoạn Phúc Âm này những chi tiết khác thuộc phạm vi riêng tư giữa
Chúa và người đàn bà, giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa và mỗi người
mà chúng ta không cần biết đến.
Những gì đã được kể ra trong đoạn Phúc
Âm hôm nay là để giúp cho mỗi người chúng ta nhìn lại con đường đức tin của
mình: tôi đã gặp được Chúa như thế nào? Tôi đã gặp Chúa hay chưa? Để mỗi người
chúng ta biết trở về nhìn nhận giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm mỗi người,
Chúa thực hiện một dấu lạ, một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội lỗi của chúng ta
như Chúa dùng trường hợp tội lỗi của người đàn bà để mạc khải một thực tại cao
siêu hơn, để kêu gọi người đàn bà trở về, bà đã có năm đời chồng, bà nói đúng
sự thật về người mà bà đang sống, bà biết người đang sống với bà không phải là
chồng của mình. Chúa có thể dùng những tật xấu, những tội lỗi của chúng ta để
thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta trở về với Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được
thức tỉnh để nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình, nhất là nhìn nhận nơi chính
thâm tâm của mỗi người chúng ta có một khao khát hướng về Chúa, có một khao
khát được ơn Chúa cứu rỗi. Xin Chúa đến và củng cố đức tin của chúng ta.
7. Trống vắng
Một du khách từ thánh địa trở về kể
lại rằng: Ngày nọ lúc ông đang ngồi trên một bờ giếng, thì một phụ nữ Ả Rập,
vai mang một cái thùng, tay cầm một cuộn dây quấn lại tròn như một quả cầu, với
một chiếc gàu nhỏ bằng da. Đến nơi, chị cột dây vào gàu và thả xuống giếng, rồi
kéo lên và đổ nước vào thùng. Khi đã đầy thùng, chị liền rời khỏi giếng và trở
về nhà.
Lúc sau, một người đàn ông xuất hiện.
Anh chẳng có gì để múc. Và thế là vì quá khát, anh bèn bò xuống đất, liếm những
giọt nước, mà người phụ nữ đã đổ trào ra. Câu chuyện đơn giản trên sẽ giúp
chúng ta hiểu điều mà người phụ nữ Samaria đề cập đến qua đoạn Tin Mừng hôm
nay.
Chị ta nói với Chúa Giêsu:
-
Thưa ông, ông không có gàu để múc, mà giếng
thì lại sâu, thế thì ông kiếm đâu ra nước hằng sống.
Và Chúa Giêsu đã cắt nghĩa cho chị ta
hiểu rằng Ngài không định nói đến thứ nước vật chất, làm dịu đi cơn khát thông
thường, mà là thứ nước thiêng liêng, làm dịu đi cơn khát tâm linh. Ngài nói:
-
Ai uống nước này vẫn còn khát, nhưng ai uống
nước Ta ban sẽ chẳng khát bao giờ nữa.
Như thế Chúa muốn nói: Về mặt thể xác,
tất cả chúng ta đều bị khát thế nào, thì về mặt tâm linh, tất cả chúng ta cũng
bị khát như vậy.
Tuy nhiên, sự khát tâm linh này là gì?
Đâu là sự trống rỗng bên trong mà chúng ta đã từng cảm nghiệm… Các tác giả Cựu
Ước đã nói về điều này như là một cơn “khát Chúa”. Chẳng hạn thánh vịnh 42 thì
nói:
-
Như nai khát mong tìm suối mát, hồn con cũng
mong đợi Ngài như thế.
Tiên tri Isaia thuật lại lời Chúa:
-
Tất cả mọi kẻ khát hãy đến cùng ta.
Còn tiên tri Giêrêmia thì sánh ví Chúa
như giòng suối trong. Cơn khát mà tất cả chúng ta đều cảm thấy là cơn khát
Chúa. Đây là một cơn khát nội tâm mà mọi người đều có thể cảm nghiệm được như
lời thánh Augustinô:
-
Tâm hồn chúng con được tạo nên cho Chúa và nó
sẽ còn khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
Thế nhưng, nhiều người thời nay đang
cố gắng tìm cách thỏa mãn cơn khát tâm linh này bằng những thứ khác không phải
là Chúa. Chẳng hạn như tiền bạc, danh vọng, lạc thú. Họ hành động như cho đứa
bé đang khóc một cục kẹo để nó nín. Tuy nhiên kinh nghiệm cho hay dùng vật chất
để làm thỏa mãn cơn khát thiêng liêng chẳng khác nào dùng muối để giải tỏa cơn
khát thể xác. Càng uống lại càng khát thêm. Nơi trái tim mỗi người đều ẩn dấu
một con khát mà không giòng nước nào có thể thỏa mãn nổi, một nỗi khắc khoải mà
không sự thành công nào có thể giập tắt được, một sự trống rỗng mà không của
cải vật chất nào có thể lấp đầy được. Điều đó dẫn chúng ta tới kết luận của
đoạn Tin Mừng hôm nay:
Chỉ có Chúa mới thỏa mãn được cơn khát
trong tâm hồn chúng ta. Và chỉ một mình Ngài mới lấp đầy khoảng trống trong
cuộc đời chúng ta, bởi vì như lời Ngài đã xác quyết: Ai uống nước Ta ban thì sẽ
chẳng khát bao giờ.
8. Nguồn nước
Có một người Á Rập nghèo nọ phải băng
qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một
dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn ông ta uống từng ngụm nước và cảm thấy
ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành
trình.
Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ
đô Baghdad. Tìm đủ cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan
tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho
nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Á Rập, đồng thời tưởng thưởng
ông một cách quảng đại.
Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng
đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh
nhất mực từ chối… Chờ cho người Á Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ
của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng
nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt
người Á Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.
Người Á Rập cứ tưởng mình trao tặng
cho quan đầu tỉnh món quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người
tặng cho anh món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm
đậm tình người.
Người phụ nữ Samari cứ tưởng mình làm
ơn cho Đức Giêsu khi cho người uống nước từ giếng Giacóp. Hóa ra Người mới
chính là vị ân nhân sẽ ban cho bà một thứ nước diệu kỳ, uống vào “sẽ không bao
giờ khát nữa”.
Nước ấy chính là Nước hằng sống, nước
đó chính là Lời Đức Giêsu, lời bày tỏ con người kín nhiệm của Người, là Đấng
Mêsia sẽ đến. Để cuối cùng, Người đã tự tỏ mình ra không phải cho người Do Thái
đồng hương, cũng không phải cho các môn đệ thân yêu, mà là cho chính chị, người
phụ nữ ngoại giáo Samari: “Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây”
(Jn 4,26). Niềm vui vỡ òa trong tim, chị vội vã đi loan báo cho dân làng, để họ
cũng được uống thứ nước tuyệt diệu của Đức Giêsu, Nước hằng sống, nước uống vào
sẽ không còn khát nữa.
·
“Đấng ấy” chính là Mêsia, vị cứu tinh của
nhân loại. Chỉ những ai tin vào Người, mới đáng lãnh nhận ơn cứu độ.
·
“Đấng ấy” chính là Nước hằng sống. Chỉ những
ai thật lòng khao khát mới được ban cho thỏa thuê dư đầy.
·
“Đấng ấy” chính là Lời hằng sống. Chỉ những
ai đón nhận Lời và thực thi trong cuộc sống, mới được sống đời đời.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã không ăn cũng
chẳng uống. Vì Người dùng một thứ lương thực mà chính các Tông đồ cũng không hề
biết. Thánh Gioan đã không để chúng ta phải chờ đợi lâu. Vâng, lương thực của
Người chính là “đồng lúa đã chín vàng đang chờ gặt hái” (c.35), là “nhiều người
Samari trong thành đó đã tin vào Người” (c.39). Cơn đói của Người là mong cho
mọi người nhận biết và yêu mến Cha, cơn khát của Người là ước cho muôn người
được no thỏa “nước uống vào sẽ không còn khát nữa”.
Chúng ta sẽ làm thỏa cơn đói của Đức
Giêsu, khi chúng ta làm theo người phụ nữ Samari mau mắn đi loan báo cho dân
làng biết Người chính là Đấng Mêsia.
Chúng ta sẽ làm thỏa cơn khát của Đức
Giêsu, khi chúng ta cùng với dân làng Samari tin Người là “Đấng cứu độ trần
gian” (c. 42).
9. Thờ lạy trong tinh thần và chân lý – André Sève
Với vẻ tò mò, người phụ nữ Samaria
tiến tới phía người đàn ông đang ngồi trên thành giếng. Bởi vì Chúa Giêsu đang
sống, bởi vì mỗi bài suy niệm này là một cuộc gặp gỡ tình yêu với Chúa Giêsu
hằng sống, tại sao không nghĩ rằng Ngài đang chờ tôi? Chính Ngài nói với tôi: “Hãy
cho Ta uống nước”
Nhưng Ngài khẳng định ngay: “Nếu ngươi
biết rõ ơn Thiên Chúa ban: chính ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban; chính ngươi
sẽ xin và ngươi sẽ được uống nước hằng sống”.
Hai nỗi khát khao làm hoang mang. Chúa
Giêsu nói: “Hãy cho Ta”, rồi: “Hãy xin Ta”. Và xa hơn một chút: “Chúa Cha đang
cần những người tôn thờ Ngài thực sự”. Chúng ta đang ở trên đỉnh cao của sự mạc
khải. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta hết khát, nhưng
không có bài Phúc Âm này thì ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa khao khát chúng ta?
Cách duy nhất để có thể xứng đáng với
sự khao khát này chính là khao khát Ngài. Sự ước muốn và tình yêu có qua có
lại: tình yêu vì tình yêu. Chính là phải xin nước của Ngài là nước sẽ làm cho
chúng ta ước ao Chúa: “Hãy xin Ta nước hằng sống và nơi ngươi sẽ phát sinh
nguồn mạch tình yêu. Ngươi có thể là một trong những người tôn thờ mà Cha tìm
kiếm”.
Người tôn thờ sao? Những hình ảnh
phiền nhiễu nổi lên, những người sấp mình trước một ngẫu tượng. Cho nên Thiên
Chúa của chúng ta là gì nếu Ngài muốn người ta sấp mình trước mặt Ngài?
Ngài là Thiên Chúa. Không có gì có thể
thay đổi được cứ liệu này trong quan hệ của chúng ta: Ngài là Thiên Chúa. Ngài
không tìm kiếm những kẻ thờ lạy, Ngài tìm kiếm những kẻ thờ lạy thực sự. Sự
chính xác có một tầm quan trọng lớn lao. Chỉ những kẻ tôn thờ thực sự mới đáp
lại tình yêu của Ngài, không ngừng xem Ngài là Thiên Chúa. Nếu không, mối quan
hệ bị sai lệch, tình yêu của chúng ta không đạt tới Thiên Chuá, chúng ta hoàn
toàn ở trong sự ảo tưởng.
Tôi vừa đặt tình yêu vào chỗ tôn thờ,
bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta
yêu thương Ngài. Nhưng để không lầm lẫn về mối tình kỳ lạ có thể nối kết con
người với Thiên Chúa này, phải đào sâu ý tưởng thờ lạy. Đây hoàn toàn không
phải thờ lay một ngẫu tượng nhưng là biết yêu mến Chúa mà vẫn luôn luôn cảm
nhận sự uy nghiêm của Ngài. Tôi ngần ngại trước khi viết “sự uy nghiêm”, và sự
ngần ngại này chứng tỏ cho tôi thấy rằng không dễ gì tìm được ngôn từ đúng đắn
cho tình yêu tôn thờ này. Do đó ngày nay có một cách nói của Phúc Âm trở nên
nổi tiếng bởi vì nó xác định đầy đủ sự tôn thờ thực sự: “Phải thờ lạy Thiên
Chúa trong tinh thần và chân lý”.
Khi thánh Gioan nối kết hai từ tinh
thần với chân lý bằng từ và, từ quan trọng nhất thường là từ thứ hai (chẳng hạn
“Ông ta thấy và ông ta tin”). Do đó, ở đây phải chú trọng đến chân lý. Vẫn đối
với Gioan, chân lý làm ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định:
“Ta là chân lý”. Trong khi mạc khải chân lý về Chúa Cha, về chính mình và về
quan hệ giữa Ngài với Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thờ lạy “trong chân lý”.
Điều đó có nghĩa là: yêu Cha như Chúa Giêsu yêu thương Ngài.
Nhưng chỉ có Chúa Thánh Thần mới có
thể ban cho chúng ta những tâm tình như Chúa Giêsu. Thờ lạy “trong tinh thần”
có nghĩa là được Thánh Thần linh ứng khi chúng ta muốn yêu thương Cha theo cách
của Chúa Giêsu.
Bạn chắc chắn cảm thấy tôn thờ thực sự
tức là tôn thờ Ba Ngôi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở giếng Giacob mang lại cho
chúng ta ba màu sắc của sự tôn thờ: Sự tôn thờ này hướng đến Chúa Cha, trong
khi, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, sự tôn thờ này được nuôi dưỡng bằng
mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu.
10. Nước
Ai cũng cần nước. Sau không khí, nước
là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Ai
cũng biết thế, nhưng ít ai lại biết quí nước. Sở dĩ chúng ta không quí nước là
vì nước quá nhiều. Sử dụng ở đâu và lúc nào cũng có.
Chỉ khi nào hạn hán mọi sông và giếng
đều cạn, mọi suối đều khô, lúc ấy chúng ta mới biết đến giá trị của một giọt
nước. Chúng ta thường quí những gì ít ỏi, hiếm hoi và có khuynh hướng phung phí
và coi thường cái có nhiều.
Đối với Ả Rập hay Tây tạng, đối với
khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể.
Trái lại, với chúng ta ở đồng ruộng hay ven sông, có phung phí nước cũng không
hết. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người
giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái
cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha
hồ thoải mái.
Nhưng có bao giờ chúng ta uống nước
nhớ nguồn. Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao tôi lại được dư giật nước
như thế. Tại sao nước chúng ta dùng lại là nước ngọt, trong khi ở biển nước lại
mặn đắng.
Kinh Thánh trả lời nước là tác phẩm do
Thiên Chúa tạo dựng. Ngay từ buổi khai thiên lập địa, Thánh Thần Chúa đã bay
lượn trên nước. Thiên Chúa đã cho mưa thuận gió hòa, đã dùng nước để tiêu diệt
cả một thế hệ vô luân ngoại trừ Noe là người công chính. Nước ở biển đỏ đã cứu
thoát dân Do Thái và vùi dập đoàn quân của Pharaon. Qua những sự kiện ấy, chúng
ta thấy được giá trị của nước.
Trước hết, nước tạo nên sự tươi mát.
Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của
cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi
mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước
mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi
mới. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến dòng nước Rửa tội đã gây nên trong chúng ta
những đổi mới cho đời sống thiêng liêng.
Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch.
Còn gì sạch bằng nước, người Do Thái xưa kia đã hiểu như vậy, cho nên họ đặt ra
những luật lệ trong việc sử dụng nước: phải rửa tay trước khi ăn uống, phải tắm
gội trước khi dâng của lễ, phải rửa chân khi đi đường xa mà trở về nhà.
Nước còn được dùng để trừ bệnh phong
cùi, tẩy sạch mọi ô uế tình dục. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý
nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội
lỗi.
Nếu như nước thường do bàn tay Chúa
dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một
thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người
thiếu phụ Samaria:
Nước hằng sống của Chúa là nước cứu
độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần
gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của
Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được
chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nước sông Babylon đã chứng kiến nỗi
lòng thống hối của một dân tộc lưu vong. Nước sông Giocđan đã góp phần chữa
lành Naaman, đã được diễm phúc đón nhận Đấng Cứu Thế. Dòng nước hằng sống vọt
ra từ cạnh sườn Chúa đã tha tội cho tên trộm lành, cho dân Do Thái cũng như cho
toàn thể nhân loại.
Điều quan trọng là chúng ta có đến để
kín múc hay không. Cho dù chúng ta có đang sống bên bờ con kênh nhỏ thì đừng
bao giờ quên dòng nước hằng sống, đó là một dòng nước ít người biết đến nhưng
lại không bao giờ cạn và nhiễm độc.
Điều cần thiết đó là: Hãy hiệp thông
với dòng sông ấy để lãnh nhận những ân sủng của Chúa, nếu chúng ta không muốn
là những kẻ bị chết khát.
11. Nước hằng sống
“Cho thì có phúc hơn là nhận”. Qua việc
xin người khác cho đi sự gì đó, đôi khi chúng ta làm họ giác ngộ và trưởng
thành. Họ có dịp để bước vào thế giới biết chia sẻ tình thương. Tagore đã viết
một dụ ngôn rất có ý nghĩa.
Ngày nọ có một người ăn xin đi khắp
làng, nhưng anh chẳng xin được gì vì nhà nào cũng đóng cửa. Anh bèn tìm cách đi
ra khỏi ngôi làng vào giữa lúc ban trưa nắng đổ. Mồ hôi nhễ nhãi, mệt mỏi vì
đói, chán nản vì bị từ chối, anh ngồi xuống bên vệ đường. Bên cạnh anh là một
cái túi chứa một nắm hạt bắp. Anh dự định chiều tối về nhà sẽ đem ra xay thành
bột, làm một cái bánh ăn cứu đói. Thình lình mắt anh sáng lên khi nhìn thấy
chiếc xe của vua từ đằng xa đang tiến lại gần. “Nhà vua nổi tiếng là một người
tử tế”, anh tự nghĩ. “Ngài sẽ không lỡ đi qua mà chẳng cho mình cái gì”. Rồi
anh chuẩn bị đứng lên, chờ đợi hồi hộp. Anh thật khoái chí khi thấy chiếc xe
của vua từ từ chậm lại. Quả vậy, nó đã ngừng lại ngay chỗ anh đứng với đôi bàn
tay giang rộng chờ đợi xin xỏ.
Cửa xe mở ra và nhà vua xuất hiện.
Người ăn xin cúi gập người xuống dự tính nói: “May phước thay, thưa hoàng đế.
Xin ngài bố thí cho tôi tớ hèn mọn này một ít tiền”. Nhưng nhà vua đã chìa tay
ra trước và nói: “Xin bạn dành cho vua một hạt bắp nhỏ được không?” Người ăn
xin hoàn toàn ngỡ ngàng trước biến cố lạ lùng này. Lấy lại bình tĩnh, anh nói:
“ Thưa hoàng đế, xin vâng lệnh”. Rồi mở chiếc bị ra, liếc nhanh vào trong, anh
nhặt lấy một hạt bắp nhỏ nhất, và đưa cho vua với lời xin lỗi rằng đây là tất
cả lương thực anh có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khỏi, để lại cho người
ăn xin một cảm giác trống rỗng và thất vọng ê chề.
Suốt ngày ngồi ăn xin bên bên vệ đường
mà chẳng được gì, khi hoàng hôn xuống anh trở về nhà buồn bã, mệt mỏi và đói
bụng. Ngay khi về đến nhà anh bắt đầu làm bếp, đổ hết số hạt bắp trong bị ra.
Khi kiểm tra lại những hạt bắp, anh giật mình khám phá thấy rằng hạt bắp nhỏ
nhất đã được thay thế bằng một hạt vàng ròng cùng cỡ. Trong nuối tiếc, anh ngồi
than thở rằng nếu biết được món quà nhà vua muốn cho, anh đã cho vua tất cả số
bắp đang có trong bị. Nếu làm như thế, bây giờ anh đã trở thành một người giàu
có và không bao giờ phải đi ăn xin nữa!
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu
cũng áp dụng phương pháp giáo dục này khi Ngài hỏi người đàn bà Samaria: “Xin
bà cho tôi nước uống”. Ngài thường khởi sự làm phép lạ bằng việc xin một điều
gì trước. Ngài đã xin những người đầy tớ đổ đầy những chum nước trước khi biến
thành rượu ở tiệc cưới Cana. Ngài đã xin năm chiếc bánh và hai con cá từ em bé
trai để hóa bánh ra nhiều.
Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã
biểu lộ cho người đàn bà Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại.
“Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên
Chúa khao khát chúng ta”. Thánh Gioan đã dùng câu chuyện người đàn bà Samaria
bên giếng nước để làm nổi bật lên chủ đề của Tin Mừng thứ Tư được tóm tắt trong
lời mở đầu như sau: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón
nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho
họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Lòng thương xót của Thiên Chúa vượt ra khỏi
mọi giới hạn về quốc gia, văn hóa, sắc tộc, và phái tính. Sự cứu rỗi được ban
cho tất cả nhân loại.
12. Đổi thay
Qua
Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ được tình
yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:
1. Một sự thay đổi:
Cũng giống như các cuộc đàm thoại với
ông Nicôđêmô, Marta và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất cả đều kết thúc bằng
một sự thay đổi. Qua lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã nhận ra Chúa Giêsu là
ai. Người đàn bà Samaria đã có sự thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với
Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ hai, kế đó là Thưa Ngài
(Sir), rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai. Dịch từ
tiếng Hy lạp “Kyrios”, “Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo thánh Phaolô diễn tả
trong thơ gửi tín hữu Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên trời dưới đất
và nơi âm phủ”.
2. Một sự hiểu biết:
Cuộc đối thoại đã thay đổi từ sự ngộ
nhận tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu nói về Ngài như là nước hằng
sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu nước hằng sống như là dòng nước luân lưu trôi
chảy, khác với nước ao tù ứ đọng. Đối với người Do Thái, nước là một biểu tượng
có ý nghĩa. Họ thường đề cập đến sự khao khát của đời sống tinh thần đối với
nguồn nước hằng sống và sự khao khát của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa. Trong
Cựu Ước, suối nước biểu tượng cho chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan qua
việc tuân giữ lề luật. Đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan thì
đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa. Nước biểu
tượng cho thần khí, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng Người,
sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa,
nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.
3. Một lòng khao khát:
Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu đã
vượt qua những hàng rào đố kỵ, ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao khát của con
người. Theo William Barclay, thái độ của người đàn bà lúc đầu không những là
hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, xin cho tôi
nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Nhưng trong
thái độ mỉa mai này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con người. Đó là
khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được.
Thánh Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim của chúng ta không bao giờ
yên nghỉ cho đến khi được nghỉ yên trong Người”.
4. Một chứng nhân:
Cuộc đối thoại bị ngưng vì các môn đệ
trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng, trở về làng. Bà trở
về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội vã, muốn chia sẻ
Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người khác. Giống như Philipphê khi đã
gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng. Bà Maria
Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã gặp thấy Chúa.
Sứ mạng của người Kitô hữu cũng trải
qua hai giai đoạn: trước hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân, như là một chứng
nhân; sau đó trở nên nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám phá ra Chúa
Giêsu là Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn bà vui mừng đến nỗi không còn cảm
thấy xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà chạy đi loan báo công khai cho mọi
người biết về một con người đã biết tất cả cuộc đời của bà. Bà chỉ nói về điều
xảy ra cho bà, và mời mọi người hãy đến và xem.
Vai trò của người đàn bà Samaria là
đưa mọi người đến với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã viết: “Việc tông
đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong phú đích thật Kitô
giáo. Đó là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân.
Dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô,
nguồn nước hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của các người Kitô hữu như
thánh Gioan đã nói: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi
tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật
là Đấng Cứu Thế”.
13. Gặp gỡ
Bài Tin Mừng thuật lại một trong những
cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samaria và cuộc gặp
gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.
Người phụ nữ này đi kín nước thì tình
cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết
gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin
nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát
nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên
bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp
để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước
để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: chính chị là người đang khát, và
Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết
khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.
Nhưng lại ở mức độ cụ thể của đời
thường, người phụ nữ Samaria không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa,
Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn
sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời
chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là
ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận
biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã
nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người
đang mong đợi.
Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ
không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá.
Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói
về Chúa: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.
Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa
Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin
và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong thành, và những người này,
sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không
còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và
biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của
người phụ nữ Samaria là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta
hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp
gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp
được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta,
ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn
gặp gỡ Chúa ư? Hãy nhớ lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe
tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy”. Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ
hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta.
Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tấm lòng chúng ta nhiều lần
rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tấm lòng
chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không
nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những
quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn
sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tấm lòng chúng ta ngay trong lúc này,
chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để
Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.
Người phụ nữ Samaria gặp Chúa Giêsu,
cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay
đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì
chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có
Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh
phúc và có ý nghĩa.
14. Trong Thánh Thần và Chân Lý
Trong một câu chuyện ngụ ngôn
"Những Sinh Vật của Thói Quen", kể rằng có hai vợ chồng bác nông dân
kia cảm thấy cần phải sửa chữa cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì dột, một
vài tấm ván ghép tường bị mục, còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên bị đọng
nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị phá hủy
trước khi mùa đông đến.
Sáng hôm sau, trước khi đi phố mua
thêm đồ dùng, bác cho gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở phòng hờ nhỡ khi
thời tiết đổi xấu. Mà thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ. Nhiệt độ xuống thấp
dần, mưa bắt đầu rơi và nước mưa chuyển thành băng. Bác nông dân cảm thấy rất
vui khi nghĩ mấy con vật giờ đang được ấm áp trong căn chuồng mới. Khi bác về
tới nhà liền đi thẳng ra chuồng thú vật, nhưng căn chuồng trống rỗng chẳng có
con vật nào cả. Bác vội chạy ra ngoài tìm kiếm và thấy một cảnh thật lạ lùng.
Đó là mấy con vật trông thật tội nghiệp, chúng nép vào với nhau và trên lưng
chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng thời chúng lại đứng trên cái nền chuồng cũ,
cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của Thói Quen.
Chúng ta thờ Chúa không phải chỉ làm
những việc theo thói quen như đi nhà thờ hay đọc kinh nhưng phải thờ Chúa trong
cả đời sống chúng ta.
Vào thời Chúa Giêsu thì người
Samaritanô là những người xưa ly khai và tách mình khỏi dân tộc Do thái. Không
như người Do thái thờ Thiên Chúa tại đền thờ trên núi Sion ở Giêrusalem, người
Samaritanô đã thờ Chúa Trời tại đền thờ trên núi Garizim. Bởi đó phụ nữ kia đã
nói với Chúa Giêsu: "Tôi thấy Ngài là một tiên tri, vậy xin Ngài hãy nói
với tôi tại sao cha ông chúng tôi thờ Chúa Trời trên núi này trong khi những
người Do thái các ông lại nói phải thờ tại Giêrusalem?" Chúa Giêsu trả
lời: "Hãy tin Ta, vì khi giờ đến thì người ta không còn thờ phượng Chúa
Cha trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng khi giờ đến, mà thật sự nó đã đến
rồi, thì những người thật sự thờ Thiên Chúa sẽ tin thờ Chúa Cha trong tinh thần
và chân lý; đó chính là điều Chúa Cha muốn" (Jn 4:20, 21, 23).
"Thờ Chúa Cha trong tinh thần và
sự thật", qua những lời đó Chúa Giêsu đã hướng quan niệm về việc thờ
phượng Thiên Chúa từ nơi chốn sang tính cách. Tức là việc tôn thờ Thiên Chúa hệ
tại không phải là "ở đâu" nhưng là "thế nào". Người ta sẽ
không còn cho rằng Thiên Chúa chỉ ẩn mình trong những bức tường của đền thờ thế
gian, hay Ngài chỉ quanh quẩn đâu đấy như trên đỉnh núi chẳng hạn. Thật sự,
người ta sẽ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, và Nhà của Chúa được tìm thấy
trong tâm hồn con người. Người ta không dựa vào thói quen nhưng mặc lấy tinh
thần của Chúa.
Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta phải
tẩy sạch một số thói quen. Ngài nói, "Anh em hãy vất bỏ tất cả những gì
thuộc về thế gian: gian dâm ô uế, đam mê sai trái, dục vọng xấu xa, tham lam ăn
uống, giận dữ, nóng nảy, thù hận, chửi thề và ngôn từ lăng loàn... anh em hãy
dứt khoát với mọi thói quen ấy" (Col 3:5-7). Kể cũng lạ, vì có rất nhiều
trong chúng ta đi nhà thờ, đọc Thánh Kinh, bàn về đạo lý nhưng vẫn cứ để cho
những tính xấu ấy làm chủ đời mình.
Hơn nữa, Thánh Phaolô nói rằng chúng
ta cần phải thay đổi những tập quán xấu bằng những tập quán tốt. Ngài nói,
"Hãy mặc lấy, hỡi những người được Chúa tuyển chọn, lòng quan tâm trắc ẩn,
tốt lành, khiêm nhường, quảng đại, nhẫn nại, chia sẻ nỗi buồn, tha thứ mọi lỗi
lầm anh em xúc phạm tới ngươi, và trên hết hãy mặc lấy tình yêu" (Col
3:12-14).
Xin cho chúng con thật sự thờ Chúa
trong tinh thần và chân lý, trong cả cuộc sống chúng con.
15. Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xy
kha gần thửa đất ông Giacóp đã cho ông là ông Giuse. ở đấy có giếng của ông
Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng
mười hai giờ, trưa. Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước.
Những trang viết lớn của Gioan thì
không ai quên được. Ta có thể đọc chúng ở nhiều mức độ không đối lập nhau: 1.
Một báu vật văn chương và thi ca. 2. Một ý nghĩa nội sinh từ diễn tiến kịch
tính của các màn diễn. 3. Một sự nêu bật giá trị tâm lý tinh tế của Đức Giêsu.
4. Một sự phong phú những kỷ niệm Kinh Thánh được sử dụng lại. 5. Một cách sử
dụng các ý nghĩa biểu tượng sâu xa của loài người. 6. Và, bên trong tất cả
những thứ đó, một nền thần học nhiệm tích và Kitô học cực kỳ cụ thể.
Vâng hãy nếm trước hết ý nghĩa hiện
thực của cảnh tượng: Đức Giêsu mệt nhọc, vật vã, kiệt sức vì một chuyến đi dài
dưới ánh nắng ban trưa. Người lại ăn chay, ngay trước bữa ăn không thể làm được
gì nữa, Người ngồi xuống đất, lưng tựa vào thành bờ giếng. Người khát nhưng
không có thùng múc nước. Một phụ nữ tới, đội một vò nước, theo kiểu phương
Đông. Khi tôi kiệt lực, và tôi không thể làm được gì nữa, tôi có thể cầu ông
Giêsu này, Người biết chuyện đó là gì.
Đức Giêsu nói với chị ấy: "Chị cho tôi
xin chút nước uống". Lúc đó các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.
Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một
phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?”. Quả thế người Do Thái không được giao
thiệp với người Samari, Đức Giêsu trả lời: "Nếu chị nhận ân huệ của Thiên
Chúa ban, và ai là người nói với chị xin cho tôi chút nước uống thì hẳn chị đã
xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”.
Đức Giêsu, con người tự do, ở đây vi
phạm ba điều cấm kị: về chủng tộc, về tôn giáo, về giới tính. Ở Phương Đông,
người ta cấm nói với với một người đàn bà ở chỗ công khai.
Những tín đồ Do Thái tốt đều khinh
miệt những người Samari; cho là những kẻ rối đạo và sùng bái thần tượng. Từ tám
thế kỷ, người Samari và Do Thái đã hết sức thù hằn nhau một cách dữ tợn. Nhưng
Đức Giêsu tự do Người không tin vào những cấm cản dứt khoát, những nhãn hiệu
nẩy lửa, những khẩu hiệu quá đơn giản của những cách phân loại chính trị hay
tôn giáo giữa người tốt và kẻ xấu.
Người phụ nữ ấy nói: “ Thưa ông, ông không có
gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn
tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã
uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”. Đức Giêsu
trả lời: "Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không
bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt
lên, đem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: "Thưa ông,
xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước".
Chúng ta bắt đầu đoán về tất cả nghệ
thuật tâm lý của Đức Giêsu (và của Gioan). Đây không phải chỉ là một ngụm nước
mà một người nước ngoài đầy bụi bặm xin Đức Giêsu mang đến, ở chỗ sâu thẳm nhất
của sinh thể mình, một thứ khát khao khác. Người đốt cháy lên nỗi khát khao làm
cho những nguồn nước chảy vọt lên ở trong lòng những người đàn ông và đàn bà...
Nước! Nước là một thực tại của sự sống. Không có một sự sống nào mà không có
nước! cái yếu tố xem ra tầm thường và quá đơn giản này, lại là quí giá nhất.
Ngay trong những vùng trên địa cầu mà ở đó có nước dồi dào, thì ngày nay, người
ta lại phát hiện được giá trị thiết yếu của nó: người ta bảo vệ, người ta để nó
sang bên cạnh để nó không thiếu, người ta thanh lọc nó. Thế thì chẳng ngạc
nhiên gì khi nước đã có một giá trị biểu tượng phổ biến trong tất cả mọi nền
văn minh và tôn giáo trong Kinh Thánh. "Nước hằng sống" là chính hình
ảnh Thiên Chúa ban sự sống (Gr 2,13; Is 12,3; 55,1; Ed 47,1; Dc 14,8). Biểu
tượng nước đầy dẫy trong sách Tin Mừng Gioan; nước hóa rượu của Cana (Ga 2,7);
nước mà trong đó người ốm muốn lặn xuống ở chỗ giếng Bết-da-tha (Ga 5,7); nước
mở mắt cho người mù ở giếng Si-lô-ê (Ga 9,7), con sông nước hằng sống chảy từ
ngực Đức Kitô được loan báo trên bậc thềm của Đền Thờ (Ga 7,38), nước của sự
sống cho những ai muốn sinh lại bởi nước và Thánh Linh, được loan báo cho
Ni-cô-đê-mô (Ga 8,5), sau cùng, nước chạy vọt ra từ cạnh sườn của Đấng chịu khổ
hình thập giá (Ga 13,39). Bạn có một nguồn nước nơi bạn, bạn biết đó, từ ngày
bạn chịu phép Thánh Tẩy.
Đức Giêsu bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng
chị, rồi trở lại đây". Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng".
Đức Giêsu bảo: Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi,
và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.
Biểu tượng miền Samari “bán mình làm
đĩ” cho các thần tượng... mà cũng là người phụ nữ có thật. Đó là thân bèo giạt
hoa trôi, cái đồ thừa thãi đáng thương, bị chìm xuống vực thẳm làm một thứ đồ
chơi cho cả một nửa lố đàn ông. Thế thì ông là ai, anh chàng nước ngoài mệt phờ
này, cái anh chàng Do Thái bị tẩy chay này, mà lại đoán ra vết thương lòng của
tôi? Thế thì ông là ai, cái anh chàng dò xét cõi lòng phụ nữ với một sự tế nhị
đến độ không làm người ta phải ngượng ngùng? ông là ai, cái người mà đã đoán
được cả lòng tôi khát khao hạnh phúc mà những thứ tình qua đường của tôi không
làm nguôi được ông là ai, cái anh bạn vô danh có vẻ muốn chìa tay cho tôi biết
rằng, dù kinh nghiệm tôi trải qua có đau đớn thật, nhưng cuộc đời tôi có lẽ
không phải là một thất bại?
Người phụ nữ nói với Người: 'Thưa ông, tôi
thấy ông thật là một ngôn sứ... Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên
núi này còn các anh lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên
Chúa". Đức Giêsu nói: “Này chị, hãy tin tôi. Đã đến giờ các người thờ
phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ phượng
Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ
phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến và chính lúc này đây giờ những người
thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa
Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế Thiên Chúa là Thần Khí và những
kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí vô sự thật”. Người phụ nữ
thưa: tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ
loan báo cho chúng tôi mọi sự Đức Giêsu nói: "Đấng ấy chính là tôi, người
đang nói với chị đây".
Ôi đàn bà, cuộc đời của chị không phải
đã hết, đã hỏng. Ôi, loài người, nỗi khát khao của người còn xâu xa hơn người
tưởng. Ôi tội nhân, sự thất bại của người có lẽ sắp trở thành một nguồn suối.
· Thờ phượng!
Đấy là mục tiêu của Người! Ngươi không nghĩ đủ đâu. Nhưng tôi, tôi nhắc lại
mười lần tiếng này: Thờ phượng. Ngươi được tạo thành cho Thiên Chúa. Ôi, đàn
bà, tấm lòng ngươi quá lớn lao, nên không chỉ bằng lòng với những hạnh phúc rời
rạc và tạm bợ! Tất cả những gì tận cùng đều ngắn ngủi.
· Thờ phượng!
Dù muốn hay không, con người đã được lập trình cho chuyện này. Chỉ một mình
Thiên Chúa mới thanh thỏa được nhu cầu về vô hạn nơi chúng ta. Nỗi khát không
những tái phát.
· Thờ phượng!
Thái độ huyền nhiệm của người đứng trước mặt Thiên Chúa, cõi lòng được ngoạm
vào, hít vào, xoa dịu, no thỏa bởi Đấng trên cao!
Người phụ nữ Samari vẫn còn có nhiều
vấn đề tôn giáo có tranh cãi: phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu?... trên núi
Garizim, miền Samari, hay trên núi Si-on ở Giêrusalem? Câu trả lời của Đức
Giêsu là một sự vi phạm Truyền Thống: dám nói rằng Đền Thờ và các nghi thức
phụng vụ không còn quan trọng gì cả! Thật là phạm thượng! Sự thờ tự Thiên Chúa
đích thực là điều đã được thúc đẩy trong cuộc đời chúng ta nhờ chính "Thần
Khí". Đền Thờ Thiên Chúa đích thực là đền thờ mà Chân lý của Chính Đức
Kitô đến khánh thành: đó là thân xác Người; và Đức Giêsu nhận được sự đón tiếp
tốt nhất không phải chính tại miền Giu-đê, nhưng tại ngay giữa miền Samari:
“Các ông thờ phượng điều mà các ông không biết!". Chính người "Do
Thái" biết sự thật. Nhưng chính "anh rối đạo" lại được phụ
quyền. Lạy Chúa, xin cho chúng con sự yêu thích thờ phượng trong Thần khí và
trong sự thật.
Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc
nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế không ai dám hỏi Người
"Thầy cần gì vậy?” hoặc "Thấy nói gì với chị ấy thế?". Người phụ
nữ ấy để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: "Đến mà xem, có một
người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông ấy không phải là Đấng Kitô
sao?". Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
Tấm lòng của người phụ nữ đã được cứu
thoát. Trong cuộc đời bị khô héo, một cuộc sống thấp lè tè dưới đất, hời hợt
(tiêu thụ đủ loại), một nguồn nước đã vọt ra nơi chị ta. Chị không còn gì làm
về cái giếng và cái vò nước này. Chị chạy đi thông báo về nước hằng sống mà chị
vừa khám phá ra. Làm sao mà không kêu lên tin mừng cho cả làng nghe! Và chính
cái quá khứ nặng nề tội lỗi của chị đã khiến cho chị thấy quá hợp để nói về
Thiên Chúa: "Hãy đến xem có người đã yêu tôi với lòng xót thương".
Câu chuyện này không phải là câu chuyện của bạn sao?.
Trong khi đó các môn đệ thưa với Người rằng:
"Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa". Người nói với các ông: 'Thầy phải
dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau:
"Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?". Đức Giêsu nói với
các ông: lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn
tất công trình của Người. Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa
gặt?" Nhưng này. Thầy bảo anh em: "Ngước mắt lên mà xem, đồng luá đã
chín vàng đang chờ ngày gặt hái. Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi đễ
được sống muôn đời, và như thế cả người gieo lẫn người gặt đều hớn hở vui mừng.
Thật vậy câu tục ngữ “kẻ này gieo người kia gặt" quả là đúng. Thầy sai anh
em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm
lụng vất vả; còn anh em được vào hưởng công lao vất vả của họ.
Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin
vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi
đã làm. Vậy khi đến gặp Người dân Samari xin Người ở lại với họ và Người đã ở
lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo
người phụ nữ: "Không còn phải lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính
chúng tai đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian".
Vâng, từng nấc một, Gioan đã đưa chúng
ta xuốngchiếc giếng sâu, chính là huyền nhiệm về bản vị Đức Giêsu: một người
nước ngoài đáng thương mệt nhoài và khát đến cháy cổ… một người Do Thái
"biết Đấng mình thờ phượng" nhưng còn lớn hớn cả Giacóp, người sáng
lập nước Israel, một ngôn sứ đọc được trong lòng người ta và đoán được những âu
lo bị che khuất Đấng Mêsia được trông đợi đã làm chảy vọt lên nước hằng sống
của cuộc sống muôn đời; và dạy cho loài người biết sự khát khao đích thực: Thờ
phượng Thiên Chúa trong Thần khí và trong sự thật, tóm lại Đấng Cứu Độ trần
gian.
Bao lâu còn chưa khám phá ra cái suối
này, Đức Giêsu mà tất cả thức ăn của Người là thực hiện ý muốn của Chúa Cha,
thì thế gian chết vì đói và khát cũng một thứ đồ ăn và thức uống đó luôn ở
trong thực đơn nơi bàn tiệc của Giáo Hội. Phục sinh đến gần: phải chăng bạn sẽ
ngã quỵ vì bệnh thiếu máu thiêng liêng ở gần ngay suối nước và bàn ăn? Và này
bạn khát khao cái gì?
16. Chú giải của Fiches Dominicales
TIẾN TRÌNH NHẬN RA ĐỨC KITÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI:
1. Cuộc gặp
gỡ bên bờ giếng Samaria:
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức
Giêsu và người phụ nữ Samari, một trong những trang đẹp đẽ nhất của Phúc âm
thánh Gioan, thuộc trong số những bài đọc quan trọng của vị thánh sử thường
được Hội Thánh, ngay từ những thế kỷ đầu, dùng trong nghi thức khai tâm các dự
tòng.
u Sự việc xảy
ra tại Samari. Miền đất này ngày xưa đã từng là đất thánh của các tổ phụ nhưng
kể từ cuộc phân ly của người Samari, đã biếrl nên vùng đất bị thù ghét, tránh
lai vãng.
Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền
Galilê.
Người có hai lối dể đi: một "nên đi", khó khăn vất vả hơn vì nắng
nóng; một "không nên đi", không tốt cho những người Do Thái phải thường
xuyên giữ mình sạch sẽ theo luật tế tự, thì lại qua ngã Samari.
Đức Giêsu cố tình chọn lối đi thứ hai
này: "Người phải băng qua Samaria. Theo X. Dufour, có lẽ để chứng tỏ Người
đến "để hoà giải các dân tộc, nối kết những anh em đã phân ly" (xem
"Bài đọc Phúc âm theo thánh Gioan”, tập I, trang 342).
u Sự việc
diễn ra bên bờ giếng Giacob. Trong tất cả các nền văn minh Sêmít, giữa một
thiên nhiên khắc nghiệt do hạn hán và sa mạc nóng cháy, giếng là chỗ duy nhất
cung cấp nước, đã trở thành nơi có tính chất biểu tượng: nơi của sự sống, nơi
để gặp gỡ, đối với những ai thông thạo Kinh Thánh, thì giếng nước còn là khung
cảnh cho nhiều cuộc Giao ước, và là cái gợi nhớ lại ơn Thiên Chúa đã ban cho
Dân Người trong thời xuất hành qua sa mạc.
2. Tiến
trình nhận ra Đức Kitô.
Qua bài tường thuật Phúc âm, thánh sử
Gioan muốn đưa chúng ta vào hành trình nhặn biết Đức Kitô.
·
Những xê dịch đi lại trong không gian là hình
ảnh biểu trưng cho những chuyến trở về nội tâm.
·
Những thay đổi trong danh xưng Đức Giêsu đánh
dấu từng bước của sự nhận biết: lúc đầu chỉ là "người Do Thái", rồi
được tuyên bố là "lớn hơn tổ phụ Giacob là người đã cho chúng tôi giếng
này, sau đó được gọi là "vị Tiên tri" trước khi xưng mình là
"Đấng Messia" và được những người Samaria nhận là "Đấng cứu độ
trần gian".
·
Những ngộ nhận giữa đôi bên đối thoại chỉ cho
chúng ta thấy những chặng đường phải vượt qua: Từ nước giếng đến nước Hằng
Sống.
-
Từ nơi chân thờ phụng đến việc tôn thờ Thiên
Chúa trong tình thần và chân lý.
-
Từ của ăn nuôi thân xác đến lương thực là thi
hành ý Cha.
-
Từ chuyện mùa màng đến sứ mạng trên cánh đồng
truyền giáo. Từ nước giếng đến Nước Hằng sống:
"Có một người phụ nữ Samaria đến lấy
nước”.
Chị cho tôi xin chút nước uống, Đức Giêsu xin với người phụ nữ ấy, như ngày xưa
dân Israel cũng đã xin cho có nước uống trong sa mạc (Bài đọc I). Người phụ nữ
bỡ ngỡ trước lời đề nghi khó hiểu của người đàn ông Do Thái qua đường này, bởi
trải qua nhiều thế ky đã có quá nhiều hiểu lầm và thù ghét giữa người Do Thái
và người Samari. Chị không ngại chấp nhận cuộc trao đổi: "Ông là người Do
Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”. Vô tình chị
đang từng bước đi vào một cuộc mặc khải nhiệm mầu chưa từng có.
Đức Giêsu "xin người phụ nữ nước
uống". Vẫn theo X. Dufour, "Người ta có cảm tưởng là điều
mà Người thực sự đang khát chính là cái khát, là nỗi ước ao của người phụ nữ
làm sao có được thứ Nước Hằng Sống mà chỉ một mình Người có thể ban cho"
(Sđd trang 354). Và quả thực, sau đó Đức Giêsu đã trả lời: "Nếu chị nhận
ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống,
thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống? Là kẻ "không
có thùng để múc nước", giờ đây Người lại xưng mình sẽ ban Nước Hằng Sống,
thứ nước sẽ làm thoả mọi cơn khát, thứ nước "sẽ trở thành nơi người uống
‘một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời’.
Câu chuyện chuyển dần theo nhận định
của Alain Marchadour - từ cái giếng nước vật chất sang người đàn ông, một người
Do Thái đã mệt lả và đói khát. Con người ấy, ngay trong tình thế thiếu thốn của
mình, lại tự giới thiệu như một Đấng có quyền ban phát. Mà ân ban ở đây lại
không có liên can gì tới thứ nước trong giếng cả, vòi từ nơi con người ấy, nó
trở thành một nguồn suối mới ngàn trùng vượt xa cái giếng nước ban đầu Đức
Giêsu đã đưa vào trong cuộc đối thoại một chiều kích mầu nhiệm từ chuyện một
cái giếng nước vật chất mà Người ghé vào để xin nước uống, người đã huớng đến
chính bản thân Người, là ân ban của Thiên Chúa, Đấng có quyền năng ban cho loài
người Nước Hằng Sống" ("Phúc âm thánh Gioan”, Centurion, 1992, trang
76-77).
Từ nơi chốn thờ phượng đến việc tôn thờ Thiên
Chúa trong tinh thần và chân lý:
Đức Giêsu lúc này đặt người phụ nữ trở
về đối diện trước chuyện đời tư của mình: một cuộc sống thiếu chung thuỷ chẳng
khác gì biểu tượng về sự bất trung tôn giáo nơi những người dân Samari. Chúa
nói với người phụ nừ: "Chị hãy gọi chồng chị rồi trở lại đây”. "Tôi
không có chồng, chị ta đáp. Chúa không nhượng bộ: "Chị nói tôi không có
chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi (con số có thể khiến liên tưởng tới
năm vị thần mà người Samari thờ), và hiện người đang sống với chị không phải là
chồng chị. Chị đã nói đúng. "Thưa ông tôi thấy ông thật là một ngôn sứ,
người phụ nữ nói tiếp, thêm một bước khám phá về chân tính của người khách lạ.
Sau đó chị lái câu chuyện sang một vấn đề đã từng là nguyên cớ gây chia rẽ giữa
người Do Thái và người Samari: nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. "Trên núi
này (núi Garizim)?” hay "ở Giêrusalem?”. Đức Giêsu báo cho chị ta hay rằng
từ nay, với Người, một thời cũ đã qua, một thời mới bắt đầu: không còn chỗ cho
thứ thờ phượng gắn liền với một ngọn núi; đã hết thời cho những cái đã là đền
thờ này hay đền thờ kia (D. Mollat). Kể từ bây giờ sự hiện diện của Thiên Chúa
không còn lệ thuộc vào một nơi chốn hay một đền đài nào nữa, nhưng vào một con
người: Đức Giêsu Kitô. Người loan báo: "Những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật". Họ sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong Người, Đức Giêsu, Đấng là đền thờ mới (Ga 2,19-22), và nhờ Chúa Thánh
Thần, Đấng được ban cho họ để trở nên con cái Thiên Chúa trong Người Con.
Và khi người phụ nữ đề cập tới việc “Đấng
Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, Đức Giêsu trả lời: "Đấng ấy chính
là tôi, người đang nói với chị đây”.
Để vò nước lại, bởi nó chẳng còn dùng
vào việc gì nữa, người phụ nữ chạy đi chia sẻ với bà con của mình niềm vui của
cuộc gặp gỡ: người phụ nữ từng thèm khát được uống, được tồn tại, nay đã tìm ra
được con người đã làm vọt lên trong chị một nguồn sống mới: "Ông ấy không
phải là Đấng Kitô sao?”
3. Dẫn tới
việc tuyên xưng đức tin:
Đang lúc đó thì các môn đệ trở về,
mang theo đồ ăn thức uống. Người phụ nữ đã đi khỏi, các ông mời Chúa: “Rabbi,
xin mời Thầy dùng bữa". Lại một ngộ nhận nữa liền xảy ra về chuyện
"lương thực". Điều Đức Glêsu hằng tìm kiếm, cái là lương thực là sự
sống của người chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và họàn tất công
trình của Người”.
Rồi từ đề tài lương thực và sứ mạng
dẫn tới đề tài “mùa gặt”. Thêm một ngộ nhận mới: các môn đệ chỉ nhìn thấy cánh
đồng còn phải chờ bốn tháng nữa mới tới mùa gặt, còn Đức Giêsu lại mời gọi các
ông "hãy ngước mắt lên mà xem" thấy những người Samari đang lại gần
kia, họ chính là những hoa trái đầu tiên của mùa gặt truyền giáo. Bài tường
thuật đạt tới đỉnh cao với lời tuyên xưng đức tin của những người Samari: chính
chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Đấng cứu độ trần gian. Lời tuyên
xưng không trực tiếp nói với Đức Giêsu, nhưng với người phụ nữ. X. Dufour nhận
xét: Ngay những kẻ đã được nghe Tin Mừng người phụ nữ loan báo, nay lại loan
báo cho chị ta biết Đức Giêsu kia thực sự là ai: đúng là một trao đổi lạ lùng!,
và kết luận: Qua phong cách và lời nói của người đàn ông Do Thái tên Giêsu đã
đến ở giữa họ này, những người Samari đã được mở ra tới một chân trời mới vượt
xa ranh giới mảnh đất của họ. Họ đã nhận ra con người này không chỉ là Đấng
Messia cho một dân tộc mà họ mong đợi, nhưng là Đấng Cứu độ trần gian. (Sđđ,
trang 39S và 395).
Đức Giêsu đã sẵn lòng ở lại với họ hai
ngày, điều này làm sáng tỏ rằng đối với Người, không còn đâu là "miền đất
được ưu tiên", không còn đâu là "miến đất bị ghét bỏ" nữa, nhưng
tất cả mọi người không phân biệt đều được mời gọi đến với ơn cứu độ.
BÀI ĐỌC
THÊM:
1. “Theo
kiểu của họ, các anh chị tân tòng nói với chúng ta về tính chất muôn đời mới mẻ
của Đức tin”.
"Người phụ nữ Samari". Đối
với nhiều người đó là tên một cửa tiệm lớn ở Paris mà người ta đôi lúc còn nhắc
đến thời còn bán đồ cũ. Nếu từ này còn có thể khiến ai đó chú ý đến chương IV
của Phúc âm thánh Gioan này, thì chúng ta tin chắc rằng phải có một cái gì đó
đặc biệt có sức thu hút, “nói là thu hút", nhưng trong câu chuyện Phúc âm
không hề có vấn đề thu hút gì cả. Đúng hơn đây là một sự tiếp cận. Một sự khám
phá và là một lời mời gọi không thể chối từ. Người phụ nữ Samari ở đây đúng là
mẫu mực, là điển hình của người tân tòng đang dấn thân tìm gặp Đức Giêsu.
Chị ta lại chịu hai mặt bất lợi: là
phụ nữ và là thành phần của một sắc dân bị người Do Thái miệt thị (bằng chứng
về sự xuất hiện và có mặt của những cộng đoàn Kitô hữu tại Samari ngay vào thời
Tin Mừng IV đang được biên soạn). Nhưng đó không thành vấn đề, Đức Giêsu vẫn
tìm cách lôi kéo người phụ nữ này, nhưng một sức hấp dẫn vô hình. Cách tiếp cận
thật lạ lùng: người khách lạ đã mỏi mệt dừng chân bên bờ giếng xin người phụ nữ
chút nước uống. Đấng có quyền năng ban phát mọi sự, nay lại làm kẻ ngửa tay
xin. Thiên Chúa luôn rộng ban ơn của Người cho tất cả những ai biết sẵn sàng
cho đi chút của cải mình có. Người tân tòng sẽ tìm thấy không phải là một vị
Thiên Chúa thích huỷ diệt để rồi lại ban phước, nhưng một Thiên Chúa nghèo,
dường như phải cần đến loài người. Thế rồi câu chuyện bỗng đổi chiều, giờ đây
cái nhìn của Đức Giêsu soi thấu vào ngõ ngách đời tư của người phụ nữ. Cái nhìn
của loài người chỉ dừng lại ở bề ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn sâu vào cõi lòng.
Người tân tòng phải chăng là kẻ mà Đức Giêsu đã trở nên thiết thân hơn chính
bản thân họ?
Đến đây, người phụ nữ ngỡ ngàng nhận
ra vị ngôn sứ Chị biết rằng giòng Nước Hằng Sống kia có thể rửa sạch mọi bất
trung tội tình của chị. Kẻ sắp lãnh nhận phép Thánh Tẩy cũng thế, họ khát khao
giòng nước rồi đây sẽ cho phép họ thầm thì kêu tên Thiên Chúa là Cha. Chưa hết,
người phụ nữ còn bỏ lại tất cả, cả cái vò nước, cả những người tình, cả cuộc
đời chị, để loan báo cho mọi người về cuộc gặp gỡ có tính chất quyết định cho
chị. Chúng ta có khả năng để lắng nghe tiếng của những anh chị em tân tòng nói
với chúng ta, theo cách của họ, sau khi đã giã từ cuộc đời dĩ vãng, về cái mới
mẻ muôn thuở của Đức Tin?".
2. “Người
phụ nữ bỏ quên vò nước bên bờ giếng”
"Bên bờ giếng, có một khánh bộ
hành mỏi mệt dừng chân, chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói. Cũng bên bờ
giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ nay nó những
giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên chúa ban. Cái vò nước bỏ quên đó sẽ mãi
mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam hãm trong đủ
thứ công việc hằng ngày, trong những quan hệ không tới đâu với một loạt đời
chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu,
qua những trao đổi với Người. Cũng thế đối với những người Samari kia, những kẻ
đã biết đón nhận người khách đường xa không hẹn mà đến này. Như thế, chính qua
những chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung, cố gắng quay về với
Thiên Chúa... mà con người nghe tiếng nói của Thánh Thần. Nhưng ở đây và lúc
này, lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn lường của lời nói, qua thái
độ chân thành của các bên đối thoại qua những khoảnh khắc thinh lặng để cho
chân lý nói.
17. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện
Đà Lạt
"Người phải băng qua Samari". Lộ trình
ngắn nhất và dễ nhận từ Giuđê đến Galilê chạy ngang qua miền Samari. Edei,
"Người phải", diễn tả một sự bắt buộc hay một sự tiện lợi về địa dư?
'Động từ dei, trong Tin Mừng Gioan (3, 7.14.30; 4, 20. 24; 9, 4; 10, 16; 12,
34...) cũng như trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 8, 31; 9,11) thường có nghĩa
một sự bắt buộc phát xuất từ ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. Có thể bảo ‘edei’
vừa xác định thêm chi tiết địa dư, vừa đặc biệt ám chỉ rằng Thiên Chúa muốn có
câu chuyện này xảy ra ở Samari để mặc khải tính cách phổ quát của ơn cứu độ do
Con Ngài mang đến.
"Lúc ấy chừng giờ thứ sáu". Những lối
xác định thời gian loại đó ta còn gặp thấy trong 1, 39; 4, 52 và 19, 14. Trong
19, 14, cũng một thành ngữ như ở đây tái hiện trong bối cảnh vụ xử án Chúa
Giêsu: có thể Gioan đã muốn dùng cùng một cách nói như vậy để ngụ ý là tính
cách phổ quát của ơn cứu rỗi, được tỏ lộ trong câu chuyện hôm nay, tùy thuộc
vào cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô.
"Cho tôi uống với": Như trong
mọi trình thuật của Gioan, chính Chúa Giêsu là người khởi xướng. Lời xin của
Người có vẻ tự nhiên, vì lúc đó là buổi trưa, sau khi đi đường xa mệt mỏi.
Nhưng đối với độc giả của Gioan, thì một lời xin như thế có vẻ lạ thường, vì
người xin uống nước là chính người phải ban cho nước sống dư tràn.
"Trong Thần khí và sự thật". Một lối chú
giải rất được phổ biến cho đây là lời ám chỉ việc phụng tự thiêng liêng, nội
tâm, loại bỏ mọi hy tế và mọi nơi thờ phượng. Việc phụng tự hoàn toàn nội tâm
này được khơi nguồn do sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa và do lòng sùng
kính thành thật đối với chân lý. Song một lối giải thích như vậy vẫn còn thiếu
sót, vì không lưu ý tới tính cách mới mẻ của việc phụng tự do Chúa Kitô thiết
lập. Thật vậy, các ngôn sứ đã đòi hỏi việc phụng tự nội tâm nhiều lần rồi (Am
5, 20-26; Is 1, 11-20; 29, 13; Tv 50, 7-23; 51, 18tt). Vào thời Chúa Giêsu,
người Do thái cũng như dân ngoại đều biết rằng phụng tự nội tâm trồi vượt phụng
tự bên ngoài. Việc phụng tự mới được Chúa Kitô trình bày ở đây không thể chỉ là
lặp lại lý tưởng các ngôn sứ rao giảng; nó phải được đặt vào trong bối cảnh
chung của khởi điểm mới trong Chúa Kitô. Việc phụng tự Chúa Cha đích thực phải
đáp ứng với địa vị mới của người tín hữu là được trở thành con Thiên Chúa: "Những
kẻ thờ phượng đích thật" là những kẻ "sinh bởi Thiên Chúa"
(1,13) bằng nước và Thần khí (3,5) và được hiến thánh nhờ sự thật (17, 17.19).
Thành ra việc phụng tự mới là việc phụng tự khơi nguồn bởi nguyên lý sự sống
của các Kitô hữu. Đây là phụng tự trong sự thật", vì được thành hình do
mặc khải vẹn toàn của Chúa Giêsu.
"Thiên Chúa là Thần khí". Xác quyết
này là một trong ba xác quyết quan trọng của Gioan về Thiên Chúa ("Thiên
Chúa là ánh sáng" 1Ga 1,5; "Thiên Chúa là Tình yêu" 1Ga 4,
8-16). Nó có vẻ như là một định nghĩa về Ngài. Nó gần giống như phản ứng của
các người Do thái hy hóa và các triết gia ngoại giáo chống lại những lối trình
bày nhân hình về Thiên Chúa. Với lại ta không thấy một giáo huấn nào tương tự
trong Cựu ước cả. Vì vậy có kẻ nghĩ rằng lời xác quyết của Gioan ở đây mang
nguồn gốc Hy lạp. Tuy nhiên, không nên giả thiết một sự vay mượn như thề vì
giáo thuyết của Gioan về Thần khí nối dài giáo thuyết của Cựu ước, theo đó thì
Thần khí không phải là cách hiện hữu đối nghịch với vật chất, nhưng là hoạt
động sáng tạo của Thiên Chúa nhằm phát sinh sự sống. Đó cũng là ý nghĩa cơ bản
mà ta thường gặp nơi Gioan (3, 5-8; 6, 63; 7,38; 14, 17-19). Thành ra phải kết
luận rằng ớ đây Gioan không có ý chống lại những cái nhìn vật chất, như nhìn về
Thiên Chúa, song chỉ muốn xác nhận quyền năng đáng tạo sự sống của Ngài.
KẾT LUẬN
Qua việc dùng các tước hiệu khác nhau,
những tước hiệu mời gọi niềm tin dần dần, trang sách này của thánh Gioan đã mặc
khải một khía cạnh cơ bản trong mầu nhiệm Chúa Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một
lữ khách vô danh. Sau đó, thiếu phụ Samari khám phá ra Người là một người Do
thái (c. 9). Khi nghe lời hứa kỳ lạ về một thứ nước sống, bà hỏi Người:
"Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Giacóp cha chúng tôi sao?" (c. 12). Lúc
nhìn thấy là Người đã thấu rõ bí mật đời tư của mình, bà mới nhận ra Người là
một ngôn sứ (c. 19). Sau cùng, khi Chúa Giêsu đã mặc khải cách hoàn toàn rồi,
bà phỏng đoán Người có lẽ là Đấng Kitô (c.29). Nhưng chính dân thành Samari,
hoa quả đầu mùa của các dân tộc, mới tuyên xưng đức tin của họ vào Chúa Giêsu
"Đấng Cứu Thế" (c.42). Từ đầu đến cuối, việc mặc khải vẫn nằm trong
viễn ảnh lịch sử cứu độ. Các chương Tin Mừng khác mặc khải Chúa Giêsu là Đấng
Thiên Chúa sai đến và là Con Chúa Cha. "Kitô" và "Con Thiên
Chúa" là hai tước hiệu căn bản của bản tuyên tín theo thánh Gioan (20,31).
Còn “Đấng Cứu Thế" là tước hiệu tổng hợp: Kẻ đã đến như ánh sáng trần gian
(8,12; 12,46), như Người mặc khải, như Đấng Kitô, là chính Con Một được Thiên
Chúa sai đến để cứu rỗi thế gian và cho mọi người có sự sống vĩnh cửu trong
mình (3, 16-18).
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1) Chúa Giêsu
khai mào câu chuyện với thiếu phụ Samari bằng cách khêu gợi tính tò mò của bà.
Người tự đặt mình vào thực tế tầm thường của đời sống thường nhật, vào hoàn
cảnh của kẻ phải mệt mỏi kín nước đều đều, để rồi làm cho bà cảm thấy không
phải chỉ cần có thứ nước ấy mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật
chất là đáng kể trong đời sống. Hôm nay đây, Chúa còn hiện diện trong cuộc sống
thường ngày của ta. Ta có biết nhận ra Người chăng? Có chấp nhận đối thoại với
Người? Có đồng ý là không phải chỉ những thực tại vật chất mới đáng kể trong
đời sống của ta Có cố gắng để đừng bị vật chất chi phối chăng? Vì không chỉ có
thứ nước tự nhiên mà thôi, song còn thứ nước siêu nhiên vọt đến sự sống vĩnh
cửu. Cuộc đời của ta còn phải được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện và tôn thờ
Thiên Chúa.
2) “Ai uống
nước giiếng này, sẽ còn khát lại" (c.13). Nước này không giải khát thật
sự, nó vừa tạm thời xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai
lại không biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao
giờ nó thỏa; ai mà không cảm thấy các nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận,
thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát, lại càng uống, càng uống lại
càng khát! Và luôn luôn theo lối lý luận ích kỷ ấy mà người thiếu phụ Samari
đón nghe những lại của Chúa Giêsu về nước sống và tìm cách lợi dụng cơ hội: xin
Ngài ban cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi đến cây múc nước"
(c.15). Một ngộ nhận như thế cũng gặp thấy nơi người Do thái trong diễn từ Bánh
sự sống: thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy" (6,34). Theo bản
năng tự nhiên, ta có khuynh hướng muốn chụp lấy ơn Thiên Chúa như một thứ bảo
hiểm sinh mạng khả dĩ miễn cho mình lăn lộn với đời, như một số vốn mang lại
nhiều lợi giúp mình mãi mãi an cư, muốn thứ bánh, thứ nước Ngài ban cho ấy trở
thành kho vô tận, dùng mãi không bao giờ cạn. Nhưng ơn Thiên Chúa đâu có muốn
giản lược ta vào trong sự thỏa mãn cái tính cách dinh dưỡng đó: “Ai uống nước Ta
sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa" Chúa Giêsu bảo vậy (c.14). người
không giữ nước ấy trong một bình đóng kín, bưng bít một cách ích kỷ. Trái lại,
nước Ta sẽ ban cho nó sẽ trở nên trong nó một suối nước vọt đến sự sống đời
đời" (c.14). Nước sống ấy có sức giải khát vì, vượt ra ngoài-bản năng bảo
tồn, nó làm phát sinh trong ta chính nguồn sống, và dạy chúng ta rằng sống
chính là trao ban, là chia sẻ không tính toán, là phun trào ra mà không giữ
lại.
3) Cuộc đối
thoại chuyển qua hướng mới với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đi gọi chồng
bà...". Để cho thiếu phụ Samari hiểu và đón nhận ơn Thiên Chúa, Chúa Giêsu
đột ngột đề cập đến bí mật đời tư của bà. Trong lãnh vực này, cơn khát của
người đàn bà, cơn khát tình yêu, cũng chẳng được thỏa mãn; thiếu phụ đã có năm
đời chồng và người đang sống với bà hiện giờ không phải là chồng đích thực
(c.18). Giống như nước mà bà phải đến múc uống luôn song chẳng đã khát, những
nỗ lực tình yêu liên tiếp của bà đã làm bà thất vọng và đẩy bà vào nỗi cô đơn.
Mục đích của Chúa Giêsu không phải là đem người thiếu phụ trở về thái độ sám
hối song là cho bà thấy, như đã cho Nathanael thấy (1, 47-50). Người thông suốt
lạ lùng, là khiến bà cúi đầu trước uy nhan của vị Ngôn sứ và từ đó chuẩn bị cho
bà lãnh hội mặc khải của Thần khí. Thực vậy, không một tiếng quở trách, không
một lời khuyến khích nào trên môi miệng Chúa Giêsu; không một tâm trạng tội
lỗi, không một giọng thống hối nơi người đàn bà; nhưng chỉ có một lời khen ngợi
đầy vẻ ngạc nhiên: thưa Ngài, tôi thấy Ngài là một ngôn sứ (c.19), và sau đó,
trong câu nói với dân làng: một người đã bảo cho tôi biết mọi sự tôi đã làm
(c.9). Nếu có chuyện tội chăng nữa, thì vấn đề không phải chỗ đó, hoặc hình như
bị gác ngay qua một bên. Với ánh mắt nhân từ và sáng suốt, Chúa Giêsu cũng mời
gọi ta hãy nhìn thăng mình không chút tự mãn song cũng chẳng chút xấu hổ, cay
đắng và thất vọng. Đặc biệt Người muốn dẫn đưa ta đến chỗ nhìn nhận Người là vị
"Ngôn sứ Thiên Chúa sai đến, là Đấng mặc khải về bản tính nhân loại đích
thực của ta, là Đấng giúp ta khám phá ý nghĩa và không chiều kích của cơn đói
khát trong ta, là Đấng tố cáo những mưu kế mà ta dùng để đánh lừa hoặc thỏa mãn
cơn khát ấy một cách rẻ tiền. là Đấng dạy cho ta biết sống và trào dâng nước
sống của ơn Chúa.
18. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi
ý:
1.
Có thực tại trần gian nào thỏa mãn được những
khát vọng vô hạn của con người không? Những thực tại siêu nhiên thì sao? Thực
tại nào có thể thỏa mãn những khát vọng của con người để họ được hạnh phúc?
2.
Người ta có luôn luôn thật sự gặp gỡ Thiên
Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, trong các bí tích không? Muốn thật sự
gặp gỡ Thiên Chúa phải có những yếu tố nào?
3.
Thế nào là thờ phượng, gặp gỡ Thiên Chúa “trong
thần khí và sự thật”?
Suy tư gợi
ý:
1. Khát vọng của con người không bao giờ được
thỏa mãn
Khát nước, đó là tình trạng thiếu thốn
mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta phải uống nước để
thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn khát dằn vặt rất đau
khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian (một tiếng hay hai tiếng
sau) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Đói cũng tương tự như khát. Ngoài
nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác: tình cảm, tình
yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu biết, trở nên hoàn
hảo… Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong ước, thì con người
cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp tục cảm thấy thiếu
thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau khổ. Khi không có
chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp. Khi đã có chiếc
xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy… Cứ thế, chẳng bao giờ ta
hết thiếu thốn, ết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc của con người vì
thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi lại đói khát triền
miên.
Như vậy, con người cứ phải nô lệ cho
những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách thỏa mãn chúng.
Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy sinh cả gì mình
quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em… Vì thế,
cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn khát loại khác.
Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói chặt con người vào
đau khổ.
2. Làm sao để hết khát vọng? để khỏi đau khổ?
Đức Giêsu nói: “Ai uống nước này, sẽ
lại khát”. Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người đều chỉ là tạm
thời. Được thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu đẳng nhất của
con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát vọng, và
không còn phải khát vọng nữa. Làm sao có được giải pháp đó trên đời? Đức Giêsu
đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao
giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên,
đem lại sự sống đời đời”. Ngài cho biết giải pháp của Ngài sẽ trở thành “một
mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” nơi người dùng giải pháp ấy. Có sẵn
trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái lại còn có
thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy “đem lại sự sống đời đời”.
Mạch nước ấy là gì? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành Đức Ki-tô. Chỉ
cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô, ta sẽ có được mạch nước đem lại sự
sống ấy ở trong ta. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp được Thiên Chúa,
các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy hạnh phúc vô biên
bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh thần rất lớn để dấn
thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi. Vậy vấn đề mấu chốt
là thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô.
3. Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa?
Nhiều khi ta đến để gặp Chúa – trong
nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ, v.v… – nhưng ta lại
không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói quen, theo giờ
giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện với Chúa trước
nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn không thật sự gặp
Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với Chúa, ở bên cạnh
Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa. Cổ nhân có câu: “Hữu duyên thiên
lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng” (Có duyên với nhau thì dù
xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với nhau thì dù có mặt đối
mặt cũng không gặp nhau). Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có “duyên”
với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn nói: “Đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu” (Cùng âm thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình,
khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau). Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu,
nên chỉ những ai biết yêu thương – nghĩa là giống Thiên Chúa – mới có thể gặp
gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa
sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên
Chúa” (1Ga 4,7a-8). Chữ “biết” ở đây có nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không biết yêu thương thì không thể gặp
được Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ các người
sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem”. Như
vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian – tức chỗ này chỗ kia – không phải là
chuyện quan trọng: “Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm
làm ra” (Cv 7,48). Đức Giêsu cũng nói: “Giờ đã đến – và chính là lúc này đây –
những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự
thật”. Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài trong
thần khí và sự thật.
4. Gặp gỡ Thiên Chúa trong thần khí và sự
thật
Để giải thích điều này, Đức Giêsu nói:
“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong
thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người
cũng phải dùng thần khí của mình – tức tâm hồn mình – để gặp Ngài. Vì chỉ có
thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp
Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính
là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay
tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6;
Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh
em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự
trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh
em” (1Cr 3,17; x. 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới
có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha
nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp
được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Âu-Tinh đã từng than
thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con”
(Confession, cuốn VI, chương 1).
Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn
phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật,
vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với
Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự gặp được Thiên
Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất, “có nói có,
không nói không” (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không thể gặp được
Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một đằng, làm một
nẻo.
Cầu nguyện
Tôi nghe thấy tiếng Chúa: “Đã đến lúc
trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa. Con người không nên
thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không gian, vụ thời gian, vụ
vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa bằng thần khí chứ
không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người cần gặp gỡ Thiên Chúa
ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài. Con người cần hiểu
biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài hơn là bằng những
hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của mỗi tôn giáo, mỗi
nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới được biến đổi để trở
nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét