ĐTC. TIẾP NGUYÊN THỦ CHÂU ÂU |
ĐC. TÔMA NGUYỄN VĂN TRÂM GIÁM QUẢN PHAN THIẾT |
HƯNG HÓA CÓ THÊM 9 PHÓ TẾ |
ĐẠI HỘI ACIES COMITIUM LÀO CAI - YÊN BÁI |
NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG |
MỪNG HAI ĐC. GIUSE |
PHÁT DIỆM CÓ THÊM 11 PHÓ TẾ |
NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG |
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY A
Lời Chúa: Ed
37,12-14; Rm 8,8-11; Ga 11,1-45
Đối với nhiều người Việt Nam , sự chết
không nhất thiết là điều đáng sợ. Người xưa coi chết là mãn kiếp, tức là hết
đời sống, nên thường ung dung thư thái đón chờ cái chết và chuẩn bị cho cái
chết của mình ngay những tháng năm còn khoẻ mạnh. Chẳng hạn như mua sắm quan
tài và những đồ khâm liệm đề phòng khi cái chết đến. Cho nên ông Nguyễn Khuyến,
vì không muốn phí phạm xa hoa, nên đã căn dặn con cái:
-
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thì thôi.
Trong khi đó, người Tây phương thì
không làm như vậy. Họ không sắm sẵn quan tài và những đồ khâm liệm. Thậm chí,
họ còn sắp xếp để người thân yêu của mình không chết trong gia đình. Tốt hơn
nên để người đó chết ở bệnh viện, rồi từ đó đưa thi hài người quá cố, tới quàn
tại nhà xác trước khi đưa tới nhà thờ, và từ nhà thờ đưa thẳng ra nghĩa địa.
Còn Chúa Giêsu, Ngài nghĩ gì về cái
chết? Theo Cựu Ước, người Do Thái không quan niệm chết là hồn lìa khỏi xác, vì
đó là quan niệm của người Hy Lạp. Còn người Do Thái thì cho rằng chết là mất
hết sự sống. Với phép lạ cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu không quan tâm đến
việc tìm hiểu xem sự sống và sự chết là gì, nhưng điều chính yếu Ngài muốn gởi gấm,
muốn xác quyết: Ngài chính là sự sống lại và là sự sống.
Đây cũng là một chủ đề được đề cập đến
nhiều lần qua Tin Mừng theo thánh Gioan. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết:
Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều,
Ngài nói với người Do Thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là
ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài đã mạnh mẽ công bố: Ta là đường, là sự
thật và là sự sống. Mục đích của Ngài đến trong thế gian là gì, nếu không phải
là để cho chúng ta được sống và được sống một cách dồi dào.
Và để thực hiện mục đích này Ngài đã
phải trả một cái giá thật đắt bằng chính mạng sống của Ngài với cái chết trên
thập giá. Ngài đã sánh ví mình như hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, có mục nát
đi, thì mới sinh nhiều bông hạt. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân
lành, hiến mạng sống vì đàn chiên. Và chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy: Ta
đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình là
giá cứu chuộc cho nhiều người.
Qua cái chết của mình, Ngài đã đem lại
cho chúng ta ơn cứu độ, cũng như biểu lộ được tình yêu tuyệt vời Ngài đã dành
cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người liều mạng sống mình vì bạn hữu.
Để chuẩn bị bước vào tuần thánh, chúng
ta hãy suy gẫm lời thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu
chết vì tôi.
2. Mở cửa mộ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên
đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa
tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh
mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung
chuyển thế giới.
Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà
tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người
khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.
Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng
gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức,
sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm
hy vọng.
Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc
mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ
cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự
sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế
giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa
Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự
sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng
liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc
của tử thần.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa
niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung
của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin
của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái
chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống
lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung
tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.
Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa
niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn.
Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người
thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi
Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia
buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm
vui ấy trọn vẹn.
Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa
hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam
hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con
người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”,
“ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở
đến vô biên.
Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm
mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất
công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố,
tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những
tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng
thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em
chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như
định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1)
Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?
2)
Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn
vùi anh em?
3)
Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi
và cho anh em?
4)
Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại
có ảnh hưởng gì trên tôi?
3. Thầy là Sự Sống Lại.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bệnh tật và cái
chết đeo đẳng lấy đời người. Bệnh tật làm con người bị tê liệt. Còn cái chết
thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống. Ngay cả đối với
người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm họ run rẩy.
Đức Giêsu trong
Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết. Cái chết đưa đến chia ly nên có nước mắt,
tiếc thương, nhung nhớ. Hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết
của người em là Lagiarô. Cả hai đều tiếc vì Thầy không có mặt lúc ấy. Bốn ngày
đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn
chút hy vọng nào...
Bất chấp nguy
hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu vẫn trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có
lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính
Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn
thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ.
Trước ngôi mộ đá,
Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền
làm cho người chết được sống lại. Làm sao nói hết được niềm vui của ba chị em,
và sự kinh ngạc của những người chứng kiến.
Trong sứ điệp
nhân ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha đã yêu cầu các bạn trẻ
"hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình yêu, những ngôn sứ của niềm
vui."
Thế giới văn minh
nhưng có nhiều bóng tối sự chết: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, sida,
những vụ ám sát, đặt chất nổ, tai nạn giao thông...
Cái chết thân xác
phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, cái chết của tình yêu ở trong lòng con
người. Cái chết thắng thế khi con người sống buông xuôi, chán chường và khép
kín trong ích kỷ.
Đức Giêsu là sự
sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt
cho Macta và Maria. Khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông
truyền sự sống và niềm vui cho thế giới.
Thiên Chúa là
Thiên Chúa của sự sống, đời này và đời sau. Ngài say mê sự sống của con người. Ước
gì chúng ta dám cất đi những phiến đá che mộ để người chết có thể bước ra.
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Chẳng ai thích sự chết, nhưng mặt khác, con
người lại nghiêng chiều về bạo lực. Bạn có thấy khuynh hướng bạo lực ở nơi mà
bạn đang sống không?
·
Bạn đã làm gì để sống lời mời gọi này của Đức
Thánh Cha: "Kitô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em
cần giúp đỡ, có những giọt nước mắt phải lau khô, có những lời cầu cứu mong
được đáp ứng"?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho
chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng
con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng
con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng
con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về
Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng
trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta )
4. Tin vào cái gì, hay là tin vào ai? – Achille Degeest.
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu
rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can ngăn Người vì biết rằng ở đó
Người sẽ gặp sự kình địch của người Do Thái. Tin tức về bệnh tình của Lagiarô
gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng Chúa Giêsu tuyên bố: “Lagiarô
chết rồi Ta mừng cho chúng con vì Ta không có mặt ở đó, để chúng con được tin”.
Niềm vui của Chúa trong một hoàn cảnh như thế có thể làm ta ngạc nhiên. Người
vui vì Người sắp tỏ uy quyền của mình trên thế lực mù quáng của sự chết, và
đàng khác vì sắp tăng cường lòng tin của các môn đệ đối với Người.
1) Cái chết
của Lagiarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là
chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong
cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được
chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp
của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật.
Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh
động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây
giờ Người biểu dương quyền năng và cho Lagiarô sống lại. Điều này cho thấy rằng
tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng
Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người
yêu mến.
2) Nên để ý
tới câu trả lời của Martha. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều ấy không?”
Nghĩa là, con có tin rằng ai tin vào Ta sẽ được sống và hơn
nữa, sẽ
không phải chết bao giờ chăng? Chúa hỏi Martha về một chuyện
gì, về sự xác tín được sống. Nhưng câu trả lời của Martha nói về chính con
người Chúa Giêsu. Bà không đáp: ‘Dạ, con tin rằng con sẽ không chết’
nhưng: “Con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Hẳn là nhờ lời
tuyên xưng đức tin này (các môn đệ nghe rõ ràng) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các
môn đệ khi đi về Bêtania, rằng: Người vui mừng. Người đã muốn xảy ra việc
Lagiarô sống lại để những người chứng kiến nó, tin Người được Chúa Cha sai đến.
Điều này cho ta thấy: Đức tin không phải là một sự tin tưởng vào sự vật, dù là
vào một thế giới đã được phục hồi trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là tin
vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu, đó là điều
căn bản, mọi sự khác sẽ đến sau, và chỉ là thứ yếu.
5. Lưỡi hái hay chìa khóa vàng? – R. Veritas.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thánh Charles Borrômê sống ở Italia
trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị,
danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất
cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa
trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần
chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.
Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ
hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”
Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi
cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”
“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần
chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp
hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết
chiếc chìa khóa vàng.”
Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống
lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy
chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự
sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô
sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao
người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với
chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống.
Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không
thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để
đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông
Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống
như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng
không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay
bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã
sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua
cõi sống” (Ga 5,24).
Vậy là có một sự sống khác. Có một sự
sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời
đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội
lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi
là sống chưa hẳn là sống.
Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống
của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan
qua cái mà chúng ta gọi là chết.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay
(Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà
vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết;
ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một
ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống
theo Thánh Thần được sống lại”.
Thưa anh chị em,
Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi
đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết.
Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi,
phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy,
con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết,
nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?
Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và
sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác
không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự
sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây
trái đã bắt đầu trong hạt giống.
Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có
được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là
loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người
mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công
việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng
chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi
chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.
Như thế, đối với chúng ta, những người
đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống
Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy
nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết
chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang
vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà
đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người
chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo
đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.
Anh chị em thân mến,
Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh
cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu
gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng
lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không
thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang
chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết.
Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của
sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.
“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai
tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu
hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm
xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã
đến trong thế gian”.
Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi
kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc,
niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở
nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái
chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang
lại sự sống dồi dào cho anh em.
6. Lagiarô sống lại.
(Trích
trong ‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)
Hôm nay đã là Chúa Nhật V Mùa Chay và
Chúa Nhật tới đây là Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thánh. Tuần chúng ta được mời
gọi suy niệm nhiều hơn và cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa. Bài Phúc
Âm hôm nay như là một chuẩn bị cho chúng ta để cử hành mầu nhiệm chết và sống
lại của Chúa.
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại,
chúng ta cũng sẽ phải chết và được sống lại với Chúa. Khi nói về sự sống lại
thì nhiều người anh chị em chúng ta có lẽ nghe khó tin. Mới đây tập hợp điều
tra về niềm tin của những người công giáo bền Italia về sự sống đời sau sau cái
chết, kết quả cho biết rằng, mặc dù đa số tin có Thiên Chúa, nhưng khi được hỏi
về niềm tin của họ vào sự sống đời đời thì họ tỏ vẻ do dự. Quan tâm của họ về
sự sống đời đời xem ra như càng ngày càng ít đi, dường như có hai hoàn cảnh làm
cho con người dễ xa lìa Thiên Chúa, quên đi cuộc sống đời đời. Đó là khi con
người giàu sang, quyền quí hoặc khi gặp cảnh cùng cực thái qúa. Giàu quá dễ bị
cám dỗ quên Chúa và nghèo quá cũng làm con người tuyệt vọng.
Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại biến cố
Chúa Giêsu đến với gia đình chị em Martha, Maria và Lagiarô để mạc khải cho họ
sự thật căn bản về sự sống đời đời: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai
tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao
giờ".
Vào hoàn cảnh mà Chúa Giêsu chọn để
mạc khải sự thật này cho chị em Martha, Maria là cái chết của Lagiarô, người
được Chúa thương. Đây có thể nói là một biến cố không thuận lợi chút nào,
Lagiarô đã bị đau cần Chúa đến nâng đỡ chữa trị thì Chúa không đến, xem ra như
lơ là hai chị em đã nhắn tin cho Chúa Giêsu biết hoàn cảnh đau yếu của Lagiarô,
nhưng Chúa vẫn trì hoãn không đáp lại. Một thử thách cho người bạn của Chúa,
chờ đợi Chúa mau mắn đáp lại và ỷ lại vào tình bạn với Ngài, nhưng Chúa đã
không đáp lại như lòng họ mong ước: "Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con
không chết".
Rồi sau khi Lagiarô chết rồi, gia đình
Martha và Maria đang sống trong sự tang chế đau buồn thì Chúa lại đến, và thay
vì nói lời an ủi hay là một điều gì liền ngay theo như mong ước thường tình của
con người trong hoàn cảnh tương tự như vậy, thì Chúa Giêsu lại nói điều mà
Martha và Maria cả hai người đều không nghĩ đến, đó là Chúa mạc khải sự thật và
sự sống đời đời, kêu gọi hãy tin vào Chúa, tin vào sự thật Chúa mạc khải:
"Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết bao giờ".
Có thể nói là những lời chói tai,
không hợp thời, lạc đề xem từ phía con người đang phải chịu thử thách, đang gặp
phải những đau thương: "Nếu Thầy có mặt thì em con không chết". Sự
đáp trả của hai chị em Martha, Maria và của hai người Do Thái đến chia buồn lúc
đầu chưa được trọn hảo. Martha nghĩ đến sự sống lại ngày sau hết, còn hai người
Do Thái có mặt ở đó quan sát xem Chúa Giêsu có làm gì để thay đổi hoàn cảnh hay
không? Martha và Maria ra khỏi hoàn cảnh cụ thể của mình để đến với Chúa, để
gặp Chúa ở nơi mà Chúa muốn ở ngoài hoàn cảnh tang thương, tang chế của họ vào
lúc đó để được Chúa hoán cải, để tuyên xưng: "Lạy Thầy, con tin".
Chúng ta đã biết những gì xảy ra sau
lời tuyên xưng đức tin đầy khiêm tốn và can đảm của hai chị em Martha và Maria.
Sống mà không có niềm tin thì kể như là đã chết. Trong biến cố mà Phúc Âm thánh
Gioan ghi lại cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm phép lạ không
phải chỉ cho Lagiarô được sống lại mà thôi, mà cho ba người được sống lại, đó
là Martha, Maria và Lagiarô.
Sống lại đầu tiên đó là sống lại với
niềm tin vào Chúa, có thể nhiều người trong chúng ta cũng đã chết trong niềm
tin vào Chúa và không còn tin Chúa nữa. Chúng ta cần Chúa cho chúng ta sống
lại, sống lại trong niềm tin vào Ngài như Martha, Maria: "Lạy Thầy, con
tin". Nhờ lời tuyên xưng của Martha và Maria mà tiếp sau đó Chúa Giêsu cho
Lagiarô trở lại cuộc sống. Tất cả qui hướng chúng ta về quan điểm cuối cùng, đó
là Chúa Giêsu làm Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, Ngài là Chúa, là chủ của sự
sống và có quyền năng trao ban sự sống cho con người.
Vì biến cố phép lạ Lagiarô chuẩn bị
cho biến cố lạ lùng nhất sắp diễn ra là biến cố chính Chúa chết và sống lại mà
chúng ta sẽ cữ hành trong Tuần Thánh sắp đến. Chúa chết và sống lại để hoàn tất
công trình cứu chuộc con người, để ban cho chúng ta được sống và sống lại với
Chúa: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ
được sống, và ai sống và tin vào Ta sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó
không?" Chúa Giêsu sẽ hỏi chúng ta: phần con, con có tin điều đó hay
không?
Ước chi mỗi người chúng ta cũng được
khiêm tốn thưa như Martha, như Maria: Lạy Chúa, con tin. Đức tin làm cho con
được sống thật, dù chết hay sống nếu con tin thì không còn gì phải lo lắng nữa.
Xin Chúa hãy cho chúng ta được sống lại trong niềm tin của mình vào Chúa để rồi
chúng con được sống và sống lại với Chúa mai sau. Amen.
7. “Ta là sự phục sinh của ngươi” –
André Sève.
Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa
Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài:
- Ta là
sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống
và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không?
Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời
“Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống.
Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ
bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến
thắng sự chết.
Trong trần thuật dài và bi thảm nói về
sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết
của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới
nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người
Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn
đệ nói với Ngài như thế.
Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa
Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận
con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và
nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi
buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa,
Ngài yêu bạn mình biết bao!”
Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa:
“Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta
đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?”
hay sao?
Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho
chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta
và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng
cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh
quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!”
Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu,
phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa.
Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng
tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết
không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu
vượt lên trên sự sống lại đơn giản:
- Ta là sự phục sinh.
Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu
không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn
toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận,
mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác.
Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và
chiều kích khác biệt.
Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc
sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: “Ta
đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được
dùng ở thì hiện tại: “Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó
sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống” (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống
lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức
tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là
sự phục sinh như thế nào.
Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có
thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại”
của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt
đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình
yêu với Thiên Chúa và với anh em.
Đây không phải là những điều dễ nhận
thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống
yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng
ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi
vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ.
Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư
đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện
tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình
yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục
sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.
8. Đức tin.
Chúng ta thường nghe nói:
-
Chết là hết.
Những người chủ trương như thế là
những kẻ mang nặng đầu óc vật chất, không tin ở đời sau, không hy vọng gì ở một
tương lai vĩnh cửu. Còn chúng ta thì khác. Với cái chết, thì một cuộc sống khác
được khởi đầu. Có thể là hạnh phúc mãi mãi, nhưng cũng có thể là khổ đau đời
đời, tùy theo việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Đây là một vấn đề đòi hỏi chúng ta
phải tin, như đoạn Phúc âm sáng hôm nay đã diễn tả. Thực vậy, Martha và Maria,
đã sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay:
-
Lagiarô, bạn thân Chúa đang đau nặng.
Thế nhưng cơn bệnh này lại được xử
dụng để làm sáng danh Thiên Chúa. Cho dù Lagiarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn
nói:
-
Ta mừng vì không có mặt ở đó để các con được tin.
Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới
Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình:
-
Lạy Thầy, nếu Thày có mặt ở đây thì em con
không chết. Nhưng bây giờ vẫn còn kịp bởi vì con biết rằng: Tất cả những gì
Thầy kêu xin thì Thiên Chúa sẽ ban cho Thày.
Lagiarô em nàng đã chết nhưng nàng tin
tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho nó được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền
năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Martha:
-
Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta
thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và Tin Ta thì sẽ không phải chết
bao giờ.
Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại
vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải xác tín như lời
Ngài hỏi Martha:
-
Con có tin điều đó không?
Và Martha đã tuyên xưng:
-
Lạy Thày con tin, Thày là Đức Kitô Con Thiên
Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian.
Nàng biết Chúa Giêsu là Đấng quyền
năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng
nước. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Lagiarô sống lại bước
ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên
này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là bọn
Biệt phái và các thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ
hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa.
Cùng một sự kiện mà có người thì chấp
nhận, nhưng có kẻ lại từ khước. Đức tin, dĩ nhiên là một ơn huệ của Thiên Chúa,
thế nhưng nó không phải là một kho tàng được trao ban một lần thay cho tất cả
vì sẽ không bao giờ bị mất đi. Trái lại, đức tin giống như một bông hoa quí
nhưng lại dễ tàn và dễ héo, nếu chúng ta không biết chăm sóc cho nó.
Chúng ta nói nhiều về đức tin, nhưng
thử hỏi được mấy người đã thực sự vun trồng cho đức tin trong cõi lòng của
mình. Đức tin không phải là một món ăn được nấu chín và dọn sẵn cho chúng ta,
nhưng là một cây được trồng nơi thửa đất là tâm hồn chúng ta.
Bởi đó, hãy vun trồng và chăm sóc cho
cây đức tin của mình được đâm rễ sâu, vì rễ có sâu thì cây đức tin mới đứng
vững được trước những phong ba và bão táp.
9. Khóc.
Đức Kitô không phải chỉ là một vị
Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái
tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy những tình cảm dạt dào.
Thực vậy, trước sự ngoan cố của bọn
biệt phái, Ngài đã nổi giận. Trước sự giả hình của họ, Ngài đã đe loi. Trước sự
buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã nổi nóng và xua đuổi. Trước cảnh bơ vơ của dân
chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo
Ngài những ba ngày rồi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng
họ. Ngài đã chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền
để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng.
Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến
nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, đó là Ngài đã khóc. Khóc
vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót Lagiarô.
Tuy nhiên, Ngài luôn giữ được thế quân
bình trong đời sống tình cảm. Trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài
vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài
luôn nhớ tới mục đích mình theo đuổi. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp,
Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối.
Tóm lại, đời sống tình cảm của Ngài
hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được tình cảm của mình trong mọi
hoàn cảnh. Những tình cảm ấy luôn hướng thiện và không bao giờ quên lãng mục
đích. Luôn hòa hợp vâng phục lý trí và thúc đẩy cho việc làm.
Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước
nấm mồ Lagiarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách
riêng. Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì chính
Lagiarô sẽ là dịp cho người Do Thái ghen tức và vấp phạm. Chúa khóc vì sự ngoan
cố của bọn biệt phái, phủ nhận uy quyền của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin
của chị em Martha chưa được hoàn hảo.
Còn chúng ta, chúng ta đã khóc như thế
nào? Trước một đám tang, có người khóc chỉ vì a dua, khóc mướn, khóc theo kiểu
chặng đàng thứ tám. Khi một kẻ thân yêu chết đi, nhiều người trong họ hàng cũng
đã khóc. Cái khóc ấy chưa hẳn đã là vì thương người nằm xuống, mà có khi chỉ vì
thương chính bản thân mình, là kẻ còn lại phải đơn côi, phải bơ vơ không ai
nương tựa. Ay là chưa nói đến những hoàn cảnh mượn tiếng khóc để chửi xéo lẫn
nhau, nhất là đối với các bà các cô.
Thực vậy, người ta thường bảo nước mắt
các bà các cô có thể là một đập nước, nhưng cũng có thể là một trận lụt. Và tệ
hơn nữa, nhiều người đã đổ ra những giọt nước mắt cá sấu, tức là những giọt
nước mắt giả dối và lừa đảo, có thể ăn sống nuốt tươi kẻ khác.
Trong đời này, người ta thường khóc
khi vui cũng như lúc buồn. Ay là chưa nói đến những kẻ khóc trong lúc say xỉn,
khóc không có lý do. Tuy nhiên, lại có những kẻ chẳng khóc bao giờ, bởi vì
lương tâm họ đã chai lỳ, đã băng giá, không còn nhạy cảm trước những nỗi đau
thương. Họ không khóc đã đành mà tệ hơn nữa còn làm cho người khác phải khóc vì
họ.
Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta
khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ tâm hay một niềm đau đớn nào đó.
Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy
biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho
Chúa phải khóc và làm cho Giáo Hội đau buồn. Đó là những giọt nước lệ làm mờ
nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Và hơn thế nữa, trong Mùa Chay, hãy
biết khóc lóc ăn năn tội lỗi để được thứ tha.
10. Người bạn.
Có một câu chuyện huyền thoại kể lại
rằng: hàng năm bộ lạc kia phải hiến tế một người con gái cho thủy thần. Vị tộc
trưởng của bộ lạc là một người rất yêu quý gia đình, có một người con gái duy
nhất lại bắt trúng thăm phải làm vật hiến tế. Ông vô cùng đau khổ, nhưng không
thể vi phạm tục lệ của bộ lạc được. Phải làm sao bây giờ khi ngày phận số đã
gần đến và chính ông tộc trưởng cũng không thể nào chủ tọa nổi nghi thức hiến
tế này. Những người có uy tín trong bộ lạc nghĩ rằng ông sẽ không đủ can đảm
hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta đoán rằng
hoặc là họ sẽ phải cử hành nghi thức hiến tế mà không có mặt của ông tộc
trưởng, hoặc là truyền thống sẽ bị hủy bỏ. Họ đặt người con gái xinh đẹp của
ông tộc trưởng vào một con thuyền nhỏ, rồi đẩy ra dòng sông. Khi con thuyền
bồng bềnh trôi nổi trên dòng sông, với sự kinh ngạc, họ trông thấy một con
thuyền khác ẩn nấp trong những bụi cây cũng từ từ trôi ra dòng sông. Và trong
ánh sáng mập mờ, họ đã nhận ra người ngồi trong thuyền kia chính là ông tộc
trưởng của họ, cha của cô gái. Ngay lập tức, cả hai chiếc thuyền bị cuốn hút
mạnh mẽ vào dòng nước đang chảy xiết ra giữa sông. Cả hai cha con đã cùng rơi
xuống con thác chung với nhau!
Thiên Chúa cũng không thể chịu được
khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chấp nhận
cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Hôm nay trong bài Phúc âm, Gioan đã
diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và thương cảm
cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria khóc, và
những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao
xuyến”.
Với chủ đề “Thiên Chúa là Tình Yêu”,
Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu là một Thiên
Chúa có trái tim biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và thất vọng
của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và đau khổ
nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và Mátta
đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ nhắn tin
cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được cứu khỏi
bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu trên đường
gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng: “Thưa
Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.
Phải, cuộc sống nhân sinh bắt chúng ta
phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho Lagiarô sống
lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng: “Thầy là sự sống lại và
là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin
vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Có lẽ trong đau buồn vì mất mát, chúng
ta chưa hiểu được chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải
hy vọng vào Người.
Vào thời Chúa Giêsu, những người
Sađuxê không tin vào sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các người
không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các người
sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên
Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải Thiên
Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”.
11. Sống và chết.
Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu
thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết:
ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con
người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà
giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho,
tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng
Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm
được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? Và quả thực ông
đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn
người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là “hạng khờ dại”, vì lúc chết, tay
buông xuôi, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: “Vua Ngô ba mươi
sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Trăm năm nào có gì đâu,
chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du
trông thấy cũng nực cười”.
Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà
mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình
thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái
chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khỏe mạnh hay còn trẻ chưa cảm
thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y
khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian
cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết.
Mọi người đều bó tay trước cái chết.
Trước định luật nghiêm khắc ấy, con
người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng
ấy, dầu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc “trường
sinh” hay “bất tử”. Có một câu chuyện như sau: Thời Chiến Quốc, có một người
đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng
cung, viên quan canh cửa quát hỏi: “Vị thuốc này có ăn được không?”. Người ấy
đáp: “Dạ, ăn được”, tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai
vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van
rằng: “Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn
được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc,
hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà
hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được?
Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ
dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin”. Nhà vua nghe nói có lý nên tha
tội chết cho viên quan ấy.
Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm
ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng.
Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có
được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: “Ngươi sẽ trở về bụi đất”. Từ đó,
chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định
luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào
chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu
tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.
Nhưng qua cái chết và sự sống lại của
Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là
một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc
sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng
buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản
vậy thôi”. Hoặc như thánh Phaolô đã nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết
là một mối lợi”. Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói
của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: “Con ơi, ngày
con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống
thế nào để ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ”.
12. Chú giải của Alain Marchabour.
CHÚA GIÊSU LÀM CHO ANH LAGIARÔ SỐNG LẠI
Dấu lạ thứ bảy theo Tin Mừng Gioan là
dấu lạ vĩ đại nhất, đến nỗi có vài nhà chú giải xem dấu lạ này như là sự biểu
hiệu trước cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu hơn là đoạn kết phần
thứ nhất của Tin Mừng.
Luôn luôn như thế trong Tin Mừng
Gioan, đây là một bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Cả bài đều được sắp
đặt chung quanh Chúa Giêsu; chính trong tương quan với Người mà mọi nhân vật
được mời gọi thực hiện việc lựa chọn. Cảnh tượng xảy ra ở hai nơi. Ở bên kia
sông Giođan (10,40-11,16) nơi Chúa Giêsu ở ẩn cùng các môn đệ và tại Bêtania
(11,16-45) nơi ở của Lagiarô và hai chị. Theo Ga 1,28 thành phố bên kia sông
Giođan cũng gọi là Bêtania. Như vậy, có hai “Bêtania”, ngăn cách bởi dòng sông
Giođan, nơi này cách xa nơi kia trước tiên không phải về địa lý: có một Bêtania
tĩnh lặng, đầy sức sống và lòng tin và một Bêtania náo loạn, đầy chết chóc.
Bêtania, gần Giêrusalem, là nơi cư ngụ của Lagiarô, Matta và Maria, được giới
thiệu ở đây như ba chị em. Lagiarô –có nghĩa là “Éléazar” (Thiên Chúa đoái
thương) theo dạng thức Hy Bá- không được nhắc đến ở nơi nào khác. Cũng danh
xưng này còn gặp thấy trong dụ ngôn về anh Lagiarô và ông nhà giàu (Lc 16)
trong một tình huống không liên quan gì đến đoạn sách của chúng ta. Maria và
Matta cũng không xuất hiện nào khác ngoài Lc 10,38-42.
Phần Dẫn:
1-6
Bài trần thuật mở đề như một truyện
ngắn: “Có một người đau nặng”. Lagiarô được đề cập đến trong tương quan với hai
cô chị Maria và Matta. Chị Maria được đánh giá dựa vào việc xức dầu thơm cho
Chúa Giêsu. Bởi vì cô chị này được đặt quan hệ với “ngày mai táng” của Chúa
Giêsu, ta có thể hiểu điểm giải thích này như cách hướng dẫn để suy ngắm: Maria
được đặt liền bên cạnh sự tang tóc và sự chết.
Ở điểm này, hai chị em đều không khác
nhau. Cô này cũng như cô kia đều được Chúa Giêsu thương mến, cả hai cô đều cho
người đến báo cho Chúa Giêsu hay Lagiarô đau nặng. Có hai ghi chú khiến bài
trần thuật trở nên bi thảm: Chúa Giêsu thương mến, thế nhưng Người còn lưu lại
thêm hai ngày nữa! Điều trái nghịch này có thể là quan trọng. Nó còn lặp lại
trong 11,36-37 dưới dạng thức lời xác quyết của người Do Thái: Kìa xem ông ta
thương anh Lagiarô biết mấy!... Ông ta lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết
ư!
Phần dẫn nhập này tạo cho Chúa Giêsu
một tư thế duy nhất bởi lẽ người báo trước biến cố này như một căn bệnh không
phải đưa đến sự chết mà là tỏ hiện vinh quang của Thiên Chúa và của Chúa Con.
Chúa Giêsu
Và Các Môn Đệ: 7-16
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các
môn đệ tạo nên một sự toàn nhất. Hơn nữa sự thống nhất của bài trần thuật được
đánh dấu bằng sự bao hàm:
Người
nói với các môn đệ (c.7)
Nào
chúng ta cùng trở lại miền Giuđê
người
Do Thái tìm cách ném đá Thầy (c.8)
nào
chúng ta đến với anh ấy (c. 15)
Tôma
nói với các bạn đồng môn (c.16)
chúng
ta cùng đi và cùng chết với Thầy.
Trong phần này, các môn đệ hành xử như
thế theo hai thái độ. Trước tiên, các ông là đối tượng để Thầy dạy bảo. Quả
thực, đứng trước cái chết của anh Lagiarô và những lời Chúa Giêsu nói, các ông
tỏ ra không hiểu gì hết và cần lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chứng
tỏ mình thông hiểu và mời gọi các môn đệ cùng chia sẻ: đối với Chúa Giêsu, cái
chết của anh Lagiarô là một giấc ngủ: điều đó khiến hiểu rằng Người có thể
“đánh thức” nếu anh ta nghe tiếng của Chúa Giêsu. Sau nữa, các ông đi theo
Người và sau khi phản đối, cuối cùng các ông cùng tham gia vào chương trình của
Người: “Nào chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy”. Thực tế, các ông chứng tỏ
thế nào là môn đệ: lắng nghe Thầy và tiếp bước theo Thầy cho đến chết (các Tin
Mừng Nhất Lãm sẽ đề cập đến “vác lấy thập giá của mình”).
Người kể chuyện khéo léo đưa vào một
tựa đề thích hợp cho mỗi độc giả (mỗi người phải là môn đệ) và một sự quy chiếu
vào biến cố đặc biệt bằng cách nêu tên ông Tôma và nhờ vậy tạo nên một căn cứ
lịch sử cho bài trần thuật. Như vậy bài trần thuật vừa có tính lịch sử vừa có
tính tượng trưng.
Chúa Giêsu
Và Cô Matta: 17-27
Bài trần thuật chuyển ngay sang bên
kia sông Giođan nơi diễn biến cuộc đối thoại với các môn đệ, tại Bêtania gần
Giêrusalem. Tác giả tự do tóm tắt trì hoãn để đạt đến các mục tiêu của mình. Kể
từ câu 20, tác giả dùng bài trần thuật ngay tại cổng làng Bêtania để khai triển
hai cảnh song song trong đó mỗi chị em đều có một vai trò khác biệt nhau.
Cô Matta bỏ đám đông đang buồn thảm
gồm cô Maria và nhiều người Do Thái để đi đón Chúa Giêsu. Việc đi đón này đặt
cô Matta vào trong mối liên hệ đặc biệt tin tưởng khi đối diện với Chúa Giêsu.
Có Chúa Giêsu hiện diện, sự chết không thể lấn lướt được Người. Niềm xác tín
này của cô Matta được diễn đạt bằng ba dụng ngữ.
Trước nhất cô xác tin rằng Chúa Giêsu
có quyền trên sự chết. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là cơ hội để cô tuyên xưng
đức tin của mình vào Chúa Giêsu: “Con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên
Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Lời quả quyết giống như một lời cầu xin (như
trong 2,3). Về điểm này, cô nhận biết Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, theo
cung cách của Êlia và Êlisê, những vị mà Thiên Chúa ban cho quyền làm cho kẻ
chết sống lại (1V 17,17-24; 2V 4,18-37). Thế nhưng đối với một tín hữu Do Thái,
rõ ràng chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống, như lời của một kinh sư Do
Thái minh chứng: “Ôi lạy Chúa, Chúa nắm trong tay ba bí quyết: quyền năng làm
mưa gió, làm thụ thai trong lòng người nữ và làm cho kẻ chết sống lại”.
Khi Chúa Giêsu ẩn mình đi để nhắc cho
Matta niềm tin của người Do Thái vào việc làm cho kẻ chết sống lại (Ga 11,23),
cô liền tiếp theo Người để tin vào tín điều của dân Israel: “Con biết em con sẽ
sống lại trong ngày sau hết”.
Nhất là khi Chúa Giêsu tỏ hiện như là
sự sống lại và là sự sống, cô Matta liền vượt qua sự hiểu biết để tin: “Thưa
Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (11,27). Ở đây cô là dung
mạo của người nữ tín hữu nhận biết nơi Chúa Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa kẻ
sống vào giữa loài người. Ở đây Chúa Giêsu trổi vượt các ngôn sứ Êlia và Êlisê:
Người được nhận biết như Đấng ban sự sống, theo mẫu hình của Thiên Chúa. Quả
vậy, nhờ đức tin cô Matta đã hiểu rằng nơi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa ngự đến
giữa loài người. Thật hoàn toàn hợp lý để cô Matta tuyên xưng Chúa Giêsu trong
căn tính đích thực của mình, Đấng Mêsia của Thiên Chúa (cùng đích của Do Thái
giáo) và Con Thiên Chúa. Như thế, cô tổng hợp Do Thái giáo (Đấng Mêsia) và sự
mới lạ của Kitô giáo (Con Thiên Chúa).
Tiểu đoạn này đã đạt đến đích điểm
khiến cho việc anh Lazarô ra khỏi mồ sau này trở nên tương đối, bởi vì vận may
đặc biệt của anh đã trở nên thứ yếu: “Ở đây điều hệ trọng là “ai sống và tin
vào Chúa Giêsu” (11,25).
Chúa Giêsu
Và Cô Maria: 28-37
Người kể chuyện muốn nhấn mạnh đến sự
tương đồng giữa hai chị em: họ gặp Chúa Giêsu tại cùng một địa điểm và thưa với
Chúa Giêsu những lời như nhau. Thế nhưng lời đầu tiên của cô Maria chỉ lặp lại
phần tiêu cực của điều cô em đã nói –“Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây”- còn thiếu
phần tuyên xưng đức tin. Trong hành động và trong lời nói, cô Maria vẫn còn
chìm đắm trong tang chế: cô đang ở với người Do Thái đến chia buồn (cc. 31.33).
Cô đang khóc lóc thảm thiết.
Có một niềm tin quá mức nơi cô Matta
và một sự buồn thảm nơi cô Maria, ta có thể nói như vậy chăng? Các bản văn đều
phóng khoáng và cô Matta người phụ nữ đầy lòng tin lại xuất hiện ở câu 11,39
với những dấu hiệu của sự thiếu tin tưởng. Thế nhưng, theo cách thức của nhà mô
phạm, Gioan đã đánh dấu hai thái độ trước sự chết; cô Maria, được đề cập đến
ngay từ phần đầu của bài trần thuật với vẻ tang tóc và chết chóc (c.2), tiêu
biểu cho con người thất vọng vì sự từ biệt: sự buồn thảm thái quá khiến cô
không thể đón nhận nơi Chúa Giêsu Đấng mặc khải của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu
Đứng Trước Anh Lagiarô: 38-45
Cuộc hội ngộ với anh Lagiarô được đặt
liền sau đoạn đau thương khóc lóc và phiền muộn. Chúa Giêsu lặp lại địa vị Chúa
Tể của mình và tỏ bày bằng ba cách:
a. Bằng lời
nguyện xin cùng Chúa Cha qua đó biểu hiện sự kết hợp giữa Người với Chúa Cha và
niềm xác tín được lắng nghe: “Con biết Cha hằng nhậm lời con”.
b. Bằng quyền
năng của Người nơi các nhân chứng. Người ra lệnh hai lần: “Đem phiến đá này
đi”. Cô Matta còn do dự được hướng dẫn đến vinh quan của Thiên Chúa như Chúa
Giêsu đã loan báo cho các môn đệ (11,4). “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để
anh ấy đi”. Như thế đó, Chúa Giêsu không những giải thoát anh Lagiarô khỏi
xiềng xích sự chết, mà còn không ràng buộc con người vừa mới được cứu thoát
phải lệ thuộc vào mình. Người gởi trả anh Lagiarô về với sự sống.
c. Bằng sự can
thiệp ngắn gọn nhưng hiện hữu của Người: “Người kêu lớn tiếng: “Anh Lagiarô,
hãy ra khỏi mồ!”. Tiếng kêu này có tác dụng tạo được cho dấu lạ tính cách công
khai không? Tiếng kêu có nêu lên được ý nghĩa tiếng nói của Người có thể vang
đến xứ sở kẻ chết chăng? Cả hai ý nghĩa đều có thể, cùng với khả năng hướng đến
tiếng kêu thảm thiết của Con Người vào thời cuối cùng lôi kéo kẻ chết ra khỏi
mồ.
Anh Lagiarô
Khác hẳn với các nhân vật khác, nhân
vật Lagiarô khá dài dòng: anh xuất hiện xuyên suốt bài trần thuật: anh là
nguyên nhân làm phát sinh câu chuyện; anh là một câu chuyện của mỗi người và
tạo cho tất cả các nhân vật khác khả năng làm cho sự chết một ý nghĩa. Anh xuất
hiện với dáng vẻ thụ động, im lặng, một sự im lặng phong phú khiến cho mỗi nhân
vật của bài trần thuật, và qua đó mỗi độc giả, đều có thể lên tiếng. Anh là
người mặc khải cho mỗi người.
Thoạt đầu, không có một yêu cầu nào
đặc biệt: chính hai cô chị cho người đến nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, người
Thầy thương mến đang bị đau nặng. Sống lại ra khỏi mồ, anh Lagiarô tiếp tục im
lặng và rút lui theo lời nói bí ẩn của Chúa Giêsu: “Cởi khăn và vải cho anh ấy,
rồi để anh ấy đi”. Người kể chuyện quan tâm đến “phần để trắng” trong tiến
trình của anh Lagiarô: bốn ngày anh ở trong mồ có ý nghĩa gì? Sau khi sống lại
ra khỏi mồ, anh làm gì? Bài trần thuật đạt đến tột đỉnh cùng với việc tuyên
xưng đức tin của cô Matta. Anh Lagiarô đã được “đánh thức” bởi vì anh đã nghe
lời của Chúa Giêsu. Đấy là chỗ duy nhất trong bài trần thuật: “Anh Lagiarô, hãy
ra khỏi mồ!”. Tuy nhiên, về cuộc hành trình cá nhân của anh Lagiarô, không có
một dấu vết nào được thuật lại cho chúng ta ngoài sự kiện anh Lagiarô một trong
những người đồng bàn cùng với Chúa Giêsu trong 12,2: Orgiène đã nói: “Anh
Lagiarô đã trải qua một quãng đường dài, bởi vì anh đã đi từ ngôi mộ đến bàn
tiệc của Chúa”. Anh biến khỏi bài trần thuật khi mà thánh sử thông báo rằng các
vị thượng tế quyết định giết cả anh Lagiarô nữa (12,11): lời nói có hiệu quả
đáng kinh ngạc. Chúng ta sẽ không còn biết gì về anh nữa, ngoài những tục truyền.
Thánh sử đã đề cập khá đầy đủ về anh: từ nay cần phải nhường chỗ lại cho Chúa
Giêsu, Người mà anh có nhiệm vụ chuẩn bị sự chết và sự vinh quang.
Chúa Giêsu
Được Tỏ Hiện
Trọn bài trần thuật đều tập trung vào
Chúa Giêsu. Trong mỗi phân đoạn, Người đều là biểu tượng chính yếu và lần lượt
tỏ lộ một khía cạnh nhỏ về căn tính của Người, như được chứng mình khi ta nhìn
thoáng qua các phần khác nhau của bài trần thuật.
13. Chú giải của Noel Quession.
Có một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở
Bêtania làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ Xức
dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người (Ga 12,1-3). Anh Ladarô. Người bị
đau nặng, là em của cô.
Bêtania ngày nay vẫn luôn mang tên
bằng tiếng Ả Rập “El Azaneh", làng của Ladarô. Trong tiếng Do Thái
“Beithaneiah" có nghĩa là "nhà của người nghèo". Bêtania! ở
triền phía Đông của núi Ô-liu, ở 3 km phía Đông Giêrusalem, đó là phía mặt trời
mọc trên Giêrusalem.. Đó là đỉnh của ngọn núi mà dưới chân nó, trên phía có
bóng che, có vườn Ghết-sê-ma-ni ở phía thấp dưới. Bêtania! Đó là ốc đảo của ánh
sáng và tình bạn hữu. Ở đó, trong một ngôi nhà thân hữu, Đức Giêsu đã sống hạnh
phúc.
Hai chị em sai người nói với Đức Giêsu: “Thưa
Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng". Nghe vậy Đức Giêsu bảo: "Bệnh
này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa:
qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh". Đức Giêsu quí mến cô
Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.
Trong cuộc sống đầy xáo động và khó
khăn của Chúa Giêsu. Bêtania là chốn cõi lòng được nghỉ ngơi. Theo thói quen,
Tin Mừng giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn! được toả hào quang với địa vị Đức
Chúa Phục sinh (và sự cám dỗ "theo thuyết một bản tính" rõ ràng là
chỉ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa nơi Người). Vậy mà, Thánh Gioan, người trông
thấy rõ nơi Người Ngôi Lời, Con vĩnh cửu, cũng là người cho chúng ta thấy
"con người" nơi Đức Giêsu. Người đã có nhiều tình bạn với nữ giới;
như ta thấy rõ trong câu nói tinh tế và đơn sơ này: "Đức Giêsu yêu mến
Mácta và em gái của cô", người cũng sẽ, lát nữa run lên vì xúc động và
khóc.
Tuy nhiên sau khi được tin anh này lâm bệnh,
Người còn lưu lại thêm hai ngày lại nơi đang ở. Rỗi sau dó, Người nói với các
môn đệ: "Nào, chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê". Các môn đệ nói:
"Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn
đến đó sao?". Đức Giêsu trả lời: "Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó
sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban
đêm thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình".
Sự sống lại của Ladarô là "phép
lạ cuối cùng" của Chúa Giêsu, dấu hiệu cuối cùng mà người dành cho người
Do Thái trong vụ tranh tụng giữa ánh sáng và bóng tối: ngay sau dấu hiệu này,
trong Thánh Gioan, là cuộc Thụ Nạn bắt đầu (Ga 11,46-53). Khi đi sang miền
Giuđê để cứu anh bạn Ladarô của mình, Đức Giêsu đi đón nhận cái chết của mình.
Chúng ta chú ý là Đức Giêsu, mặc cho tình yêu của Người đối với hai người bạn
gái, đã cố tình chậm đến gặp lại họ: Dù vẫn hoàn toàn nhân bản, Đức Giêsu không
bao giờ để mình bị dẫn dắt bởi tình cảm của mình nhưng bởi ý muốn của Chúa Cha
(4,34; 7,18; 8,29).
Người đã đợi cho Ladarô chết vì người
biết thế, người không đến để tránh cho chúng ta khỏi đau khổ và tang chế, nhưng
thay đổi những đau khổ và cái chết này nhờ sự sống lại của Người, chính Người
cũng sẽ không tránh cái chết cho mình!
Nói những lời này xong. Người bảo họ: “Ladarô
bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy Thầy đi đánh thức anh ấy đây. Các môn
đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được anh ấy sẽ khoẻ
lại". Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng về giấc ngủ
thường. Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết, Thầy mừng cho anh em vì
Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi nào chúng ta đến với anh
ấy". ông Tôma, gọi là Đi-di-mô nghĩa là sinh đôi nói với các bạn đồng môn:
"Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”.
Đức Giêsu luôn luôn gọi cái chết là
một "giấc ngủ", và nhờ đó mời chúng ta thay đổi quan niệm của chúng
ta về cái thực tại không thể tránh được này (Mt 9,24: Ga 11,11) Cái chết thể
lý, đối với Đức Giêsu, là một giấc ngủ đơn sơ và tạm bợ; nấm mồ trở thành một
nơi người ta nghỉ ngơi trong lúc chờ đợi thức dậy. Và Thánh Phaolô sẽ ca lên:
"Hỡi người đang ngủ, hãy tỉnh giấc, ngày đã sáng rồi. Từ trong kẻ chết,
người hãy trỗi dậy, và được sáng ngời" (Ep 5,14). Lạy Đức Giêsu, xin hãy
giúp con hiệp thông thực sự ý tưởng của Chúa để cất khỏi sự chết cái đặc tính
bi thảm của nó, để xem nó như sự "phát tình của Thiên Chúa" huyền
nhiệm, khiến chúng con cuối cùng có thể tham dự vào cuộc sống hạnh phúc của nó:
Những ai đã ngủ yên trong Đức Giêsu, thì Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ cùng đi với
Người..." (1Tx 4,14), "bởi vì Đức Kitô đã sống lại từ kẻ chết, quả
đầu mùa của những ai đã ngủ yên..." (I Cr 15,20). Vâng Đức Giêsu có thể
"vui mừng" về cái chết của Ladarô. Ôi mạc khải! Mạc khải duy nhất có
ích lợi... về cái chết.
Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã
chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số.
Nhiễu người Do Thái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới
qua đời. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria
thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây,
em con đã không chết, nhưng bây giờ con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên
Chúa. Người cũng sẽ ban cho Thầy” Đức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống
lại". Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống
lại trong ngày sau hết. Đức Giêsu liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và
là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống lại. Ai sống và
tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?". Cô Mácta
đáp:Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô. Con Thiên Chúa, Đấng phải đến
thế gian".
Mácta, như một phần lớn những người Do
Thái thuộc thời cô, tin vào sự sống lại vào lúc tận thế... những ngày sau cùng!
Điều mới mà Đức Giêsu yêu cầu cô tin, chính là một sự sống lại "hiện
tại": "Thầy là sự sống lại!".
Đây là câu trả lời của Thiên Chúa cho
câu hỏi độc nhất nghiêm chỉnh của lời Người, câu hỏi đặt ra cho mỗi người trong
chúng ta khi đối diện với cái chết. "Ai tin vào Thầy dù đã chết sẽ
sống". Thật? hay không thật? hay bạn không tin điều đó? Kinh Tin Kính của
chúng ta đơn sơ và ngắn gọn: Đức Giêsu làng Nadarét, đã chết và đã sống lại!
Điều đó đơn giản như một buổi sáng Lễ Phục sinh. Trong khi chờ đợi chết. chúng
ta phải sống điều đó, phải tin điều đó. Bởi vì tất cả mọi người tin vào Đấng đã
sống lại không thể sống một cuộc đời không có tình yêu, không cậy trông, không
niềm vui được của sẻ. Nếu bạn phải chết chiều nay, bạn sẽ làm thế nào để có thể
trải qua ngày này trước khi ôm lấy Chúa? Cuộc đời của một tín hữu đầy sự sống
lại, đầy sự sống và đầy niềm vui. Thầy là sự sống lại và là sự sống Những lời
kiêu kỳ gây hốt hoảng? Đó là một thằng điên nói ra... hay chính là Thiên Chúa.
Cuộc sống mà Người nói đến, hiển nhiên có một bản tính khác với cuộc sống sinh
lý này, chết là hết; nhưng là cuộc sống của Thiên Chúa. Ai tin Thầy thì sẽ
không bao giờ chết. Đức tin, ngay từ bây giờ, là một sự vui hưởng trước đời
sống đó, đời sống không chết, chính là đời sống của chính Thiên Chúa.
Nói xong. Mácta đi gọi em là Maria và nói
nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy. Nghe vậy cô Maria vội đứng lên và đến với
Người... Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới
chân và nói: ' Thưa Thầy nếu có Thầy ở đây em con đã không chết”. Thấy cô khóc
và những người Do Thái đi theo cũng khóc, Đức Giêsu thao thức trong lòng và xao
xuyến. Người hỏi: "Các anh để xác anh ấy ở đâu?”. Họ trả lời: ' Thưa Thầy!
mời Thầy đến mà xem". Đức Giêsu liền khóc. Người Do Thái mới nói:
"Kìa xem! Ông ta thương Ladarô biết mấy". Có vài người trong nhóm họ
nói: "ông ta mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết
ư?". Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là
một cái hang có phiến đá đậy lại.
Thật là tai hại, lại một lần nữa, khi
những người phiên dịch đã không phán đoán tốt để cho người ta cảm thấy trong
bản (dịch của họ, một tiểu tiết thật đẹp trong bản văn Hy Lạp, mà hiển nhiên là
Gioan muốn thế. Ba lần, khi nói đến Mácta và Maria và những người Do Thái,
Gioan dùng tiếng "Klainein" có nghĩa chính xác là "khóc, nức nở
to tiếng" và chúng ta đoán những tiếng nấc và tiếng kêu ở Phương Đông, rất
chan hòa tình cảm của mình, mà người ta thoáng nghe thấy nơi những bà khóc mướn
chung quanh đám tang. Nhưng khi đến Đức Giêsu, Gioan thay đổi tiếng, và nói về
"dakruein", có nghĩa là "khóc thổn thức lặng lẽ”. Và từ này làm
cho tôi trông thấy những giọt nước mắt âm thầm rơi trên mắt của một Giêsu làm
chủ được mình, và cả khi Người đau khổ. Người vẫn khống chế được đau khổ riêng
của mình.
Đức Giêsu nói: "Đem phiến đá này
đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: 'Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em
con ở trong mồ đã được bốn ngày! Đức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với
chị rằng nếu chị tin, thì chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa
sao?". Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói:
"Lạy Cha, con cảm tạ Cha. vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha
hằng nhậm lời con. Nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin
là Cha đã sai con".
Câu truyện dài dòng này, dẫn nhập vào
cuộc sống lại của Ladarô, đi cho chúng ta hiểu là mục đích của trang này không
phải là sự "tỉnh dậy" của cái chết thể lý của Ladarô, nhưng chính là
sự tiến bộ trong đức tin của tất cả những người bao quanh Đức Giêsu. Và hành vi
cảm tạ của Đức Giêsu, ta hãy chú ý điều này, không nhắm đến phép lạ mà Người
sắp làm, nhưng đến sự kiện là phép lạ này sẽ giúp cho những người không tin hay
những người yếu lòng tin "tin tưởng":
-
Những môn đệ đã chống, không lên lại
Giêrusalem, họ nghi ngờ, họ sợ.
-
Mácta không muốn mở ngôi mộ, chị hoài nghi,
tử thi đã để quá trễ ngày.
Những người Do Thái, cho dù họ có
thiện cảm với ba chị em, không tới để khóc nức nở.
Đức Giêsu muốn cầu nguyện cho tất cả
họ, cho tất cả những người khó lòng tin tưởng, cho tôi, cho các bạn. Và đức tin
chính là gì vậy? Chính là nhìn nhận rằng Đức Giêsu đến từ chỗ khác. Đức Giêsu
được sai đi. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin cái chỗ khác từ đó Đức Giêsu
đến không? Trong trang này của Gioan, có 23 cuộc di chuyển nơi chỗ được nhắc
đến: bên ngoài Giu-đê, về hướng Giu-đê, về hướng Bêtania, về phía nhà, về phía
mộ, về phía Giêrusalem; nhưng trung tâm của tất cả những cuộc di chuyển này, dù
bề ngoài thế nào, không phải là "ngôi mộ" có thể cuốn hút chúng ta
nhìn vào, mà đó là một thế giới khác, thế giới của Chúa Cha, từ đó Đức Giêsu
được sai đi! Không có nơi đó, vấn đề cái chết không được giải quyết.
Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh
Ladarô hãy ra khỏi mồ!". Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải và mặt
còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy
đi". Đông đảo người Do Thái đã đến thăm cô Macta, và đã chứng kiến việc
Đức Giêsu làm. Họ tin vào Người.
Vấn đề chính yếu, đối với con người,
theo Đức Giêsu, trước hết không phải là có thể ra khỏi mồ một ngày kia, mà ngay
từ bây giờ, đi từ sự chết sang sự sống bằng một đức tin gắn bó vào bản thân Đức
Giêsu: "Họ tin vào Người", còn chúng ta?
14. Chú giải của Fiches Dominicales.
LAZARÔ SỐNG LẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI:
1. Từ
Bêtania của sự sống đến Bêtania của sự chết.
Cũng như cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu
với người phụ nữ xứ Samaria, bên bờ giếng Giacob, như bước chân của người mù
bẩm sinh tiến về ánh sáng, Phúc âm về sự Lazarô là một trong những bản văn quan
thuộc truyền thống Gioan mà Giáo Hội, ngay từ hai thế kỷ đầu tiên, đã dùng vào
việc khai tâm cho tân tòng.
Đi liến với trình thuật về quyết định
của Hội đường - dẫn đến việc kết án Đức Giêsu - trình thuật về sự phục sinh
Lazarô là một văn bản bản lề trong Phúc âm Gioan. Trình thuật này hoàn tất phần
một, với dấu chỉ thứ 7 (số 7 là số hoàn hảo) và cũng là
dấu chỉ cuối cùng của Đức Giêsu.
Trình thuật này cũng khởi đầu phần hai
vì sắp đề cập đến cái chết của Đức Giêsu khi nói với giới lãnh đạo Do Thái rằng
đã đến lúc kết thúc với Người.
Trình thuật này dẫn ta từ một Bêtania
này đến một Bêtania khác. Bắt đầu ở Bêtania bên kia sông Giođan, "nơi
Gioan làm phép rửa" (1,28). Đức Giêsu đã tĩnh tâm ở đó sau một cuộc tranh
luận vào dịp lễ Cung hiến Đền thờ và người Do Thái đã muốn ném đá Người (1,39
và 11,8). Trình thuật kết thúc ở Bêtania gần Giêrusalem nơi Matta và Maria đã
phát ra thông tin báo động: "Thưa Thầy, người Thầy yêu mến đang bệnh
nặng".
A. Marchadour nhận xét: Như thế có hai
Bêtania cách nhau bởi con sông Giođan, xa nhau bằng một khoảng cách không chỉ
đơn thuần là địa lý: Bêtania của yên tĩnh, của sự sống, của đức tin và Bêtania
của lo âu, của cái chết. Sự chậm trễ của Đức Giêsu sẽ là nguyên nhân cho truyện
kể - cho Người có cơ hội giải thích trước rằng cơn bệnh của Lazarô không nguy
đến tính mạng, nhưng chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa và Con Người. nếu Đức
Giêsu nói về cái chết của bạn Người là một “giấc ngủ” chính là để ta hiểu rằng
ông có thể thức dậy nếu ông nghe tiếng Người.
Trình thuật này là truyện kể về sự trở
lại đời sống hơn là về sự phục sinh theo đúng nghĩa. X. Leon Dufour viết:
"Thực vậy, từ ngữ "phục sinh" thường được dùng trong phép lạ này
là không chính xác, vì, theo dữ kiện Kinh Thánh, từ ngữ ấy được dành riêng để
chỉ sự vượt qua từ cái chết đến sự sống vĩnh viễn; nó không được dùng để chỉ
cuộc trở lại với đời sống ở trần gian này: Để nói về sự phục hồi sự sống gian
trần, ta có thể dùng từ ngữ hồi sinh, nhưng từ ngữ này có tính chất y học được
dùng. Vậy ta nên dùng kiểu nói "trở lại đời sống” để chỉ sự kiện
này".
2. Một hành
trình của nhận thức.
Một lần nữa Gioan lại đưa ta vào một
hành trình nhận thức.
Một lần nữa, ta có thể quan sát những
chuyển dịch có ý nghĩa biểu tượng rất cao của các nhân vật trong trình thuật.
X. Leon Dufour ghi nhận: "Mọi người đều rời nơi mình ở. Mọi người đều ra
đi. Đức Giêsu và các môn đệ từ bên kia sông Giođan; những người Do thái từ
Giêrusalem, Matta từ ngôi làng, Maria với những người Do Thái từ nhà nàng trong
làng; Lazarô từ nấm mộ. Nếu Đức Giêsu ngừng chân, khi đến Bêtania và không vào
nhà hiếu, chính là để lại lên đường cùng với cả nhóm, tiến tới nơi Người phá
tan sự chết, trong khi chuyển động của các nhân vật khác, kể cả Lazarô, đều
hướng tới gặp gỡ Ngài".
Một lần nữa, ta có thể nhận ra những
bí quyết luôn làm cho truyện kể thêm sinh động: Sự khinh thường của các môn đệ
về giấc ngủ cái chết của Lazarô. Sự khinh thường của Matta vế vấn đề thời điểm
phục sinh: ngày sau hết, ngay bây giờ. Phải đi xa hơn nữa để vượt qua mức độ
đầu tiên của ý nghĩa:
Về ánh sáng: ta sẽ được mời, cùng với
các chứng từ? vượt qua "ánh sáng của trần gian này đến với Đấng là Anh
sáng soi trần gian" (câu 9-10).
Về ơn cứu độ: ta sẽ được mời, cùng với
các chứng từ vượt qua thứ chữa khỏi bệnh một cách quá giản đơn, cả cuộc hồi
phục sự sống về phương diện sinh lý, đến sự tiếp nhận ơn cứu dộ của Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô.
3. Lên đến
tuyệt đỉnh trong lời tuyên xưng đức tin của Matta.
Tới Bêtania trong xứ Giuđêa này, Đức
Giêsu phải đối diện ngay với nỗi đau khổ của hai chị em của Lazarô. Trước hết
dó là cuộc gặp gỡ với Matta. Bà bỏ nhà ra đón Đức Giêsu. "Khi Matta hay
tin Đức Giêsu đến, bà chạy ra gặp Ngài, trong khi Maria ở lại nhà" A.
Marchadour cảm nhận: Matta rời bỏ nhóm đám tang gồm Maria và các người Do Thái
để đi gặp Đức Giêsu. Sự ra đi này đặt Matta vào một mối tương quan tin tưởng
đặc biệt, trước mặt Đức Giêsu. "Nếu Thầy có ở đây, em con đã không
chết" bà nói với Đức Giêsu như thế, vì biết Người có một sức mạnh rất hiệu
lực để chống lại cái chết và sự hiện diện của Người có thể cứu Lazarô thoát
chết. Bà cũng nhận biết Người có uy tín với Thiên Chúa nên lời cầu của Người sẽ
tác dụng? "Nhưng con biết rằng, ngay cả bây giờ, Chúa sẽ ban cho Thầy bất
cứ điều gì Thầy xin".
“Em con sẽ sống lại" Đức Giêsu
trả lời, bầng cách nhắc lại cho bà niềm tin của người Do Thái vào sự sống lại
ngày sau hết. Matta không ngần ngại phụ hoạ vào niềm tin Irael ấy: "Con
biết ngày tận thế em con sẽ sống lại”.
Ở đây Đức Giêsu lại vượt qua một
ngưỡng cửa mới. Ngưỡng cửa ấy là thuộc tính của Thiên Chúa: làm cho sống và làm
cho chết. Đức Giêsu tự nhận. Ngài long trọng tuyên bố: "Ta là Sự Sống lại
và là sự sống". Không cần phải đợi đến ngày tận thế. Cuộc sống mới là một
thực tại hiện diện nơi Người ngay lúc này. Sự sống ấy được ban tặng cho ai tin
vào lời Người. "Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống. Và bất cứ ai sống mà
tin Ta, sẽ không chết đời đời. "Con có tin không. Matta trả lời: Vâng thưa
Thầy, con tin Thầy là Đấng Messia, là Con Thiên Chúa đến trong trần gian”. A.
Marchadour bình luận "Ở đây Matta là khuôn mặt của kẻ tin nhận biết nơi
Đức Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa của người sống đến giữa con người. Ở đây
Đức Giêsu còn hơn Êlia hoặc Êlisêô: Ngài được nhận biết là Đấng làm cho sống,
theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, nhờ đức tin Matta đã hiểu rằng Đức Giêsu
chính là Thiên Chúa đến giữa nhân sinh. Thực là hợp lý khi bà tuyên xưng Đức
Giêsu trong căn tính của Người là Messia của Thiên Chúa (điểm tới của Do Thái
giáo) và là Con Thiên Chúa. vì thế, bà qui tụ Do Thái giáo (Đức Messia) và Kitô
giáo (Con Thiên Chúa).
Rồi, đó là cuộc gặp gỡ với Maria, vẫn
còn trong tang chế cả về thái độ lẫn lời lẽ: "Cô là một trong nhóm người
Do Thái chịu tang chế". Ngay từ đầu trình thuật, cô vẫn chìm đắm trong
tang chế với cái chết, cô tượng trưng cho con người bị sự chia lìa của cái chết
đánh gục: Sự buồn bực thái quá đã cả ngăn cô ra đón tiếp Đức Giêsu, mạc khải
của Thiên Chúa.
4. Và dấu
chỉ hồi sinh của Lazarô.
Xúc động sâu xa khi thấy Maria và
những người Do Thái theo cô cũng khóc, Đức Giêsu lại xúc động khi đứng trước mộ
của Lazarô bạn Người.
-
Dù đã tuyên xưng đức tin mạnh mẽ, Matta vẫn nghi ngại khi phải mở cửa mồ, bà
thưa với Đức Giêsu: "Nhưng thưa Thầy, chôn đã 4 ngày rồi. X. leon Dufour
lưu ý: khoảng thời gian 4 ngày chẳng phải là một lựa chọn ngẫu nhiên, nó liên
hệ đến niềm tin dân giả cho rằng kể từ ngày thứ bốn linh hồn bay lởn vởn quanh
xác chết nhưng không thể nhập vào được nữa. Lazarô phải thực sự chết và xác đã
bắt đầu có mùi như thế mới biểu lộ được chiến thắng của Đức Kitô. Matta tức
khắc ca ngợi vinh quang Thiên Chúa. Đức Giêsu bảo bà: "Thầy đã không nói
với con rằng nếu con tin con sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa sao?”.
Theo lệnh Người, tảng đá che cửa mộ
được mở ra, và lời cầu khẩn của Người quá vững chắc đến độ biến thành lời tạ
ơn: Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì Cha đã nhận lời con. Theo lệnh truyền oai
quyền của Người: Lazarô, hãy đi ra! Người chết ra khỏi mộ. Thần chết nắm giữ
ông trong vòng tay tượng trưng bằng các giải băng, nay không còn chút quyền
hành nào trước mặt Đức Giêsu, Người kết luận: Hãy cởi dây và để cho ông đi.
Đức Giêsu đến từ xứ sở sự sống đã ở
lại trong nhân tính bi đát nhất của Người, Đấng phá vỡ ranh giới chia Thiên
Chúa - con người, sự sống - sự chết. Cái chết của Lazarô mà Maria và các người
Do Thái coi như kết thúc ở đây trở thành một thoáng qua; các Kitô hữu đầu tiên,
những người tuyên xưng chờ đợi lâu dài của Israel đã hoàn tất nơi Đức Giêsu
Đấng được Cha Người phong làm Đức Chúa, đã cảm nghiệm rằng cái chết vẫn còn ảnh
hưởng tới các bạn hữu của Đức Giêsu; khi cái chết đe doạ, Đức Giêsu và Người
đến quá trễ không ngăn được thân xác huỷ hoại, tang chế và nỗi buồn. Trước
những lời chất vấn này, trình thuật đề nghị một lời giải đáp bằng mượn lối văn
kể chuyện để chuyển đạt một giáo huấn khá gần với giáo huấn của Phaolô trong
thư thứ nhất giở dân thành Thesalonica.
Truyện kể chấm dứt, để lại độc giả -
và cả chúng ta hôm nay - đối diện với Lazarô, đang sống, nhưng câm nín không
nói gì về những gì ông đã cảm nghiệm, sự im lặng của ông buộc mỗi người chúng
ta phải tự xác định mối quan hệ của mình với Đức Giêsu, trọng tâm của câu
chuyện đi đến cái chết và sự phục sinh của Người. Còn về những người Do Thái,
trong khi có nhiều người trong bọn họ tin vào Người, có vài kẻ đến tìm những
người biệt phái và kể cho họ nghe những điều Người đã làm. Tiến trình tiếp
diễn, sẽ dẫn đưa Đức Giêsu tới đồi Canvê nơi Người dâng hiến mạng sống để ban
sự sống thật cho tất chúng ta là những Lazarô.
BÀI ĐỌC
THÊM:
1. Lớn lên
trong đức tin (N. Quesson, Les entretiens du dimanche A. Droguet et
Ardant).
Trong câu chuyện này, cả Matta lẫn
Maria đều được mời gọi tiến triển thêm. Matta đã có đức tin ở một mức độ nào
đó, đức tin Do Thái: "Con biết rằng em con sẽ sống lại vào ngày tận thế.
Đức Giêsu mời bà tiến thêm một bước: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Con
có tin điều đó không. Phải tiến từ đức tin vào sự sống lại ngày tận thế đến đức
tin vào lời Đức Giêsu Đấng ban sự sống ngay hôm nay cho ai tin vào Người. Đó
chính là mục đích của phép lạ này: "Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã nhận lời
Con. Con nói ra đây chính là để cho đám đông chung quanh Con đây tin rằng Cha
đã sai Con”.
Kết thúc cuộc khám phá về Đức Giêsu,
và để chuẩn bị cho việc tuyên xưng đức tin, chúng ta đã cùng Matta và Maria
lãnh nhận bài giáo lý cuối cùng. Những người xứ Samaria đã nhận biết Người là
Đấng Cứu Độ trần gian... người mù bẩm sinh đã nhận Ngài là Con Người... Matta
và Maria đã tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Đối với nhiều trẻ em, những
thanh niên và cả lứa tuổi trường thành, Đức Giêsu trước hết là một người bạn như
thuở ban đầu Matta và Maria đã nhận biết. Có phải vào ngày phục sinh, ta sẽ
tiến triển trong đức tin khi nói lên, không chỉ bằng môi miệng mà bằng cả một
cử hành tạ ơn: "Vâng, lạy Chúa, Người là Đức Kitô, Đấng Messia, Con tin
Nguớì là Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong thế gian... Hôm nay, con muốn xin
Người đến lấp đầy lổ hổng của hữu thể con bằng Xác Thể hằng sống của Người,
lương thực chân thật cho đức tin của con".
2. Từ “Phục
Sinh” của Lazarô đến phục sinh của Đức Giêsu (Missel Communautaire).
Phép lạ đặt ngay trước cuộc khổ nạn
của Đức Giêsu đã tiên báo cái chết và sự phục sinh của Người. Thực vậy nếu
Lazarô rút tay chân bị trói ra khỏi giải băng và khuôn mặt bị che phủ khỏi tấm
chăn liệm, điều đó nhắc nhở một cách đầy biểu tượng rằng ông vẫn còn là một
người phàm hay chết. Đức Giêsu sẽ thoát ra vào ngày Phục sinh như một người bất
tử, được vĩnh viễn giải thoát khỏi sự chết. Nơi Đức Giêsu, sự sống đã khải
hoàn.
3. Thiên
Chúa của ta là một Thiên Chúa mở cửa mồ
Nhìn thế giới ta sẽ thấy nó thật bệnh
hoạn. Sự phát triển của phương Bắc đã bị xét lại về sự coi thường môi trường và
những nguy cơ nó gây ra cho tương lai của hành tinh và cho những thế hệ tương
lai. Sự phát triển ấy càng bị chống đối khi ta nhìn thấy những người nghèo mới,
số những người bị loại trừ chẳng bao giờ có thể tái hội nhập. Sự phát triển ở
phía Đông cũng thế, tàng sinh ra sự thù hận chủng tộc, bạo lực và nghèo khổ. Sự
phát triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba cũng bị công kích, vì nó không nuôi
được dân trong vùng một cách đúng đắn, cũng không phân phối các sản phẩm cho
công bình.
Đức Kitô đã nói: "Căn bệnh này
không đến nỗi chết, nhưng chỉ lành vinh danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Lời lẽ
lạ lùng, ngược hẳn với cái nhìn đầu tiên của ta: Hẳn Người đã cảm thấy điều
gì... Thực ra đã 4 ngày rồi... (Ga 11,39). Tuy nhiên đó là đức tin, là niềm hy
vọng của ta. Thiên Chúa của ta là một Thiên Chúa sự sống. Thiên Chúa của ta là
Đấng mở những nấm mồ. Đức Kitô của ta là Đấng, giữa đoạn đường từ làng tới
nghĩa trang, đã bảo đảm cho ta vượt qua từ sự chết đến sự sống. Chúa của ta là
Đấng kêu lên: Hãy đi ra. Người gọi chúng ta, những kẻ đang bị giam hãm. Người
cởi trói và giải thoát ta khỏi mớ quần áo sự chết, khỏi các giải băng sợ hãi.
Thế nên chiến đấu cho công lý trở thành có thể được Yêu thương là luôn luôn có
thể được" Con người có thể gặp được nhân tính của mình: anh em không còn
dưới áp lực của thân xác nhưng của thần linh vì Thánh Thần Thiên Chúa ở trong
anh em (Rm 8,9).
Thành viên của CCFD làm chứng về những
điếu đó mỗi ngày. Tình liên đới, đắt giá lắm, nhưng là suối nguồn vui tươi. Sự
phát triển rất phức tạp nhưng tiến tới là điều có thể được nếu ta biết hợp tác
với nhiều người: các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các xí nghiệp, các
trung tâm nghiên cứu, tư nhân, các Giáo Hội. Mỗi người có thể tham gia theo
cách của mình. Đối với chúng ta những kẻ tin, thì trong cố gắng của nhân loại
ấy có dấu vết của Thiên Chúa trong lịch sử hoạt động: các con sẽ biết rằng Ta
là Chúa khi Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi mồ (Ez 37,13).
Chính Thánh Thần của Đức Kitô và của
Thiên Chúa Cha cho ta đủ năng lực chiến đấu chống lại tất cá sức mạnh của sự
chết. Chính Người, một ngày kia, sẽ mở cửa đưa ta vĩnh viễn vào sự sống.
15.
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
PHỤC SINH LAGIARÔ
"Có một người ốm liệt, ông Lagiarô”: Chúng ta
chẳng biết nhân vật này ở nơi nào khác nữa, và hình như các độc giả Tin Mừng
cũng không, vì ông được gọi như là em của Matta và Maria. Tuy nhiên, ông mang
một cái tên tiền định mà trong tiếng Hy bá có nghĩa: "Thiên Chúa đến cứu
giúp", và, đàng khác ông là bạn của Chúa Giêsu.
"Người Bêtania": Chắc chắn
đây là ngôi làng mà ngày nay vẫn còn tồn tại với mỹ danh "El Azarich"
(tiếng rút từ chữ Lagiarô), cách Giêrusalem quãng 2km, và là nơi người ta còn
thấy ngôi mộ của Lagiarô đục sâu trong đá.
"Làng của Maria và Matta chị bà": Vì tác giả
không nói gì đặc biệt về hai phụ nữ này, nên phải giả thiết là độc giả đã biết
nhiều về họ. Người ta đã sớm đồng hóa họ với hai phụ nữ được nhắc đến trong lúc
10,38-42. Hình như họ có cùng một tính tình: Matta hoạt động, lanh lẹ, chủ gia
đình; Maria trái lại trầm tư, chiêm niệm hơn, thường bị chị xỏ mũi. Luca không
nói tên nơi xảy ra cảnh đó; cũng có thể là Bêtania lắm, nhưng chẳng có gì cho
phép ta đồng hóa một cách chắc chắn nhân vật của hai câu chuyện.
"Maria là người đã xức dầu thơm cho
Chúa": Hành động này được kể lại ở thì quá khứ, vì tác giả nhìn
từ thời gian biên soạn, nên sự kiện này là một sự kiện đã qua. Nhưng ông lại
tường thuật việc xức dầu ở chương 12, khi Chúa Giêsu sẽ trở về Bêtania, sau một
thời gian rút vào sa mạc Ephraim. Không có gì cho phép quả quyết đây là người
đàn bà tội lỗi mà Luca kể lại trong 7, 36tt.
"Chúa Giêsu yêu mến Matta cùng em bà và
Lagiarô": Câu này đính chính một lối giải thích sai lầm có thể
có, dựa trên sự kiện Chúa Giêsu hãy còn nán lại thêm hai ngày nơi Người đang ở,
dù đã nghe tin Lagiarô đau liệt.
“Ngày không phải có 12 giờ sao": Dù có vẻ
tượng hình và hai bí nhiệm, câu trả lời của Chúa Giêsu thật rõ ràng. Bao lâu
chưa đến giờ hoàng hôn? bấy lâu chưa có gì phải sợ; người ta có thể an toàn
bước đi cho đến hết thời hạn 12 giờ của ngày. Nói cách khác, Người phán cùng
các môn đồ vốn đang kinh hãi khi thấy Người lên Giêrusalem đáng sợ trước, chưa
đến giờ nguy hiểm đâu!".
"Và chúng ta cũng hãy đi qua để chết với
Người": Ngược lại với lối giải thích thông thường, hình như chữ
với “Người" ám chỉ Lagiarô, vì người ta vừa mới nói trong câu trước đó là
Lagiarô đã chết và Chúa Giêsu đã kết luận: chúng ta hãy qua gặp ông ấy. Trong
trường hợp này, Tôma nói cách đơn sơ: nếu Người muốn đi bất cứ giá nào, thì
chúng ta hãy tháp tùng theo để chung số phận với Lađarô là kẻ đã chết.
“Đã được chôn 4 ngày rồi ”: Vì khí hậu
ở phương đông, nên người chết được chôn trong cùng ngày chết (Ga 11, 39; Cv 5,
6). Chữ "4 ngày" có một tầm quan trọng trong trình thuật người Do
thái thời Chúa Giêsu tin rằng trong 3 ngày đầu tiên, hồn vía hãy còn lảng vảng
bên thây ma; chỉ từ ngày thứ tư, lúc thây ma bắt đầu thối rữa, chúng mới bỏ mà
di. Ngày thứ 4 là ngày chết thực sự.
"Ta là sự sống lại". Mấy chữ
"và là sự sống" bị P45 cũng như một số thủ sao của truyền thống
latinh và syria-sinai cũ xóa bỏ, cả Origène và Cyprien thỉnh thoảng cũng thế.
Nhưng tất cả các thủ sao và các bản dịch khác đều giữ lại. Thành ra không có lý
do gì để duy trì lối đọc vắn của BJ.
“Hãy cởi ra cho ông ấy". Đối với
Lagiarô, phải lăn hòn đá, cởi dải liệm; còn khi Chúa Giêsu phục sinh, các phụ
nữ nhận định một sự kiện đã rồi: đá được lăn đi, các cuộn băng nằm dưới đất,
còn khăn liệm được xếp lại ở một nơi riêng (20, 1-7). Các thiên sứ chỉ đứng đó
để giúp các môn đồ ý thức sự kiện mà thôi.
"Nhiều người Do thái...đã tin vào Người”: Gioan
không bảo bấy giờ Lagiarô thế nào, cũng chẳng nói đến sự thán phục của các
chứng nhân. Ông đưa ta đến điểm cốt yếu: nhiều người đã tin vào Chúa Giêsu. Đó
là điều mà tác giả Tin Mừng mời gọi ta.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã ghi nhận việc nhấn mạnh
đến đức tin trong Tin Mừng thứ tư, sự căng thẳng tăng dần theo các chương giữa
Chúa Giêsu, Đấng tự mặc khải chính mình trong các việc làm, và lòng cứng tin
của người Do thái. Giai thoại hôm nay thường xuyên nhắc đến đức tin. Động từ
“tin" được dùng 8 lần để chỉ việc con người đáp trả khi thấy vinh quang
Thiên Chúa. Lagiarô đã chết và được an táng từ 4 ngày rồi. Người Do thái hình
như hoài nghi quyền năng của Chúa Giêsu. Matta và Maria thì nói với Người: “nếu
Thầy đã ở đây...". Chứng cớ dứt khoát và không thể chối cãi mà
người Do thái đòi hỏi (10, 24) giờ đây được ban cho họ. Ai có quyền trên sự
sống, nếu không phải là chỉ mình Thiên Chúa? Chúa Giêsu làm phép lạ "để họ
tin" rằng Chúa Cha đã sai Người. Như thế chấm dứt sứ vụ của Chúa Giêsu
giữa người Do thái. Dấu chỉ này mặc khải một lần thay cho tất cả Chúa Giêsu là
ai. Vì thế người Do thái đã lên án tử hình Người. Đối với Gioan, cuộc Tử nạn
bắt đầu ngay sau phép lạ này với cuộc nhóm họp của hội đồng Công tọa và việc
xức dầu ở Bêtania, dấu chỉ khâm liệm Chúa Giêsu. Chính phép lạ chuẩn bị điều
đó. "Bệnh này... phải được nhằm để tôn vinh Con Thiên Chúa". Việc
phục sinh Lagiarô là dấu chỉ của thực tại sẽ diễn ra trong các chương kế tiếp
vậy.
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1. Trong thời
đại chúng ta, nhan nhản những dấu chỉ của sự sống và sự sống lại, chẳng hạn
việc hồi sinh con người mà chúng ta đã từng mục kích nhiều lần qua các cuộc
chúa bệnh thành công, là những dịp cho thấy cơ thể nhân loại có một sinh lực
mãnh liệt chừng nào. Và ta phải nói gì về cuộc chiến thắng lạ lùng của sự sống
trên sự chết như là việc sinh sản, rồi việc phát triển con người nên vóc trưởng
thành? Trong các thành công về kỹ thuật, nhà bác học đã vượt qua nhiều khó khăn
mà trước đây không thể khắc phục. Trong các lựa chọn dứt khoát, mỗi người chúng
ta đều đã lướt thắng các cám dỗ bi quan, thất vọng. Tất cả chỉ vì trong con
người có một khát vọng sống, có một động lực không ngừng thúc đẩy đi lên. Nhưng
đồng thời trong nhân tính chúng ta có một cái gì đó đã bị đổ vỡ. Cái chết bắt
chúng ta đương đầu với một giới hạn có thể bẻ gãy chúng ta. Gioan gợi lên nỗi
thất vọng, sự ê chề của kinh nghiệm, các giới hạn của con người. Những câu Chúa
trả lời: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra" mời gọi tất cả lướt thắng các
giới hạn đó. Bằng giáo huấn, cuộc sống, cái chết và sự sống lại của mình, Chúa
Giêsu cho thấy Người có thể khơi dậy sinh lực nào trong con người. Nhưng Người
chỉ hành động trong những ai, khi đối diện với sự chết, biết để cho sức mạnh Thần
khí đến “lay tỉnh" mình dậy.
2. Sự can
thiệp của Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là một Đấng vô biên xa vời,
dửng dưng với tạo vật. Thiên Chúa đã nhập thể trạng một trái tim con người,
Ngài cũng muốn có khả năng cảm xúc, bồi hồi, xót dạ? "Chúa Giêsu xao xuyến tâm
thần". Ngài cho thấy mình cũng chạnh lòng trước số mệnh thế nhân.
Người yêu thương các bạn hữu với tình âu yếm. Bởi đấy Người ra tay uy quyền cho
Lagiarô sống lại.
3. Hãy lưu ý
đến lời Matta đáp trả câu hỏi của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Con
có tin điều đó không?” nghĩa là có tin rằng kẻ tin vào Ta sẽ sống mãi
và không bao giờ chết chăng. Người hỏi Matta về một điều gì có, về niềm xác tín
được sống của bà. Matta đã trả lời nhắm vào con người Chúa Giêsu. Bà không đáp:
“Vâng, con tin rằng con sẽ không chết, nhưng "Con tin Thầy là Chúa Kitô,
Con 'Thiên Chúa". Chắc hẳn vì lời tuyên xưng đức tin đó (mà các môn đồ
từng nghe) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các sứ đồ của Người, khi đến Bêtania,
rằng Người đã vui mừng hoan lạc. Chúa Giêsu đã muốn có giai thoại phục sinh
Lagiarô để các chứng nhân tin Người là Đấng được Chúa Cha sai đến. Điều đó cho
ta thấy niềm tin của Kitô hữu không phải là niềm tin vào các sự vật, dù là vào
một thế giới được tái lập trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là niềm tin
vào con người Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Niềm tin vào Chúa Giêsu tuyệt đối
ưu tiên, sau mới đến những điều khác.
4. Sở dĩ Chúa
Giêsu phục sinh Lagiarô, là vì người là Lời sáng tạo của Thiên chúa Tuy nhiên
Người cũng sắp chết. Chúa tể sự sống sắp lụy phục tử thần... và đối thủ của
người sẽ không quên nhấn mạnh nét mâu thuẫn đó trong sự nghiệp của Người: “Nó
đã cứu được kẻ khác mà không thể cứu nơi chính mình". Nhưng Chúa Kitô đã
chẳng muốn cứu lấy một mình mà thôi. Khi mặc lấy thân phận con người chúng ta
cho đến cái chết, lời sự sống của Người không còn ở ngoài chúng ta nữa. Người
chiến thắng tử thần qua cái chết. Như thế, Người đã cứu rỗi tất cả nhân loại
cùng với chính bản thân Người.
5. Hoạt động
của con người bị hạn chế và thượng thất bại. Song các giới hạn và thất bại này
không thể triệt hạ sự tự do của kẻ tin vào Chúa Kitô. Cái chết đặt một giới hạn
rõ rệt cho sự sống của con người, nhưng đức tin của Kitô hữu vượt qua giới hạn
đó. Người Kitô hữu đã ở bên kia cái chết. Chắc chắn, sự chiến thắng cái chết mà
Chúa Kitô đạt được cho ta không miễn cho ta chết như Người. Kitô hữu không phải
là kẻ giảm thiểu hay đánh bóng sự chết. Đối với họ cũng như đối với Lagiarô,
cái chết không thơm tho gì. Và chẳng có hương thơm (thánh thiện hay đạo đức
nào) có thể ru ngủ sức kháng cự của con người đối với cái chết. tuy nhiên Kitô
hữu tin tưởng vào Thiên Chúa như Chúa Kitô đã tin tưởng vào Chúa Cha, vì biết
rằng Ngài luôn nhận lời mình xin. Ngài là vị Thiên Chúa hằng yêu con người và
muốn con người sống để tôn vinh Ngài. Tin vào tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện trong
Chúa Kitô tức là đã phục sinh và đã được bảo chứng sẽ sống mãi.
16. Suy niệm của JKN.
Câu hỏi gợi
ý:
1.
Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại, điều đó
chứng tỏ điều gì? Phải là ai mới có thể thực hiện được điều ấy?
2.
Bạn còn nhớ nội dung các bài Tin Mừng Chúa
Nhật mùa Chay vừa qua không? Loạt bài Tin Mừng mùa Chay muốn chứng tỏ điều gì
về Đức Giêsu?
3.
Đức Giêsu xúc động và khóc trước mộ Ladarô
cho thấy tình yêu và tình cảm của Ngài thế nào? Ta có cần biểu lộ tình yêu của
mình đối với tha nhân một cách cụ thể như thế không?
Suy tư gợi
ý:
1. Đức Giêsu có khả năng làm cho kẻ chết sống
lại
Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho
người bệnh nan y được khỏi bệnh thì có khá nhiều người làm được. Nhưng làm cho
người đã chết sống lại thì chỉ những người có sứ mạng đặc biệt của Thiên Chúa
mới thực hiện được nhờ quyền năng vô biên của Ngài. Trong Cựu Ước ta thấy ngôn
sứ Ê-li-a đã làm cho con trai của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (xem 1Vua
17,17-24), và ngôn sứ Ê-li-sa cũng làm như thế cho đứa con trai của bà Su-nêm
(xem 2Vua 4,32-37). Trong Tân Ước, ngoài Đức Giêsu ra, ta thấy có Phê-rô cũng
đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết sống lại (xem Cv 9,39-42). Còn Đức Giêsu, Ngài
đã làm cho người chết sống lại ít nhất 3 lần: cho con trai bà góa thành Na-in
(x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc
5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại
(x. Ga 11,34-45).
Nơi những trường hợp được hồi sinh vừa
kể, việc sống lại – hầu tiếp tục sự sống ở trần gian ít lâu nữa để rồi cũng lại
chết – chỉ là một hình ảnh hay dấu chỉ của sự sống lại vĩnh viễn để sống sự
sống đời đời. Sự sống lại để sống đời đời này chính Đức Giêsu đã thực hiện cho
chính mình (x. Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-7; Ga 20,1-10). Đó chính là bằng
chứng bảo đảm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta để hưởng sự sống
vĩnh cửu. Thật vậy, “nếu Đức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao
giảng của chúng ta là vô ích” (1 Cr 15,14), là hoàn toàn vô căn cứ, không dựa trên
một nền tảng nào. Và việc phục sinh của Ngài cũng chính là bằng chứng để ta tin
Ngài là Con Thiên Chúa, đồng thời cũng là Thiên Chúa. Vì trong lịch sử nhân
loại, sống lại để sống vĩnh cửu như thế – nghĩa là hiện nay, sau 2000 năm, Ngài
vẫn đang sống, và sẽ còn sống mãi – thì chỉ có một mình Đức Giêsu mà thôi.
2. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng
Mêsia, và cũng là con người như chúng ta
Các bài Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa
Chay muốn chứng tỏ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ngài chính là
Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã hứa, mà người Do Thái trông chờ hàng mấy trăm
năm.
Việc Đức Giêsu chịu cám dỗ (Chúa Nhật
thứ 1 mùa Chay) cho thấy Đức Giêsu là người đích thực, Ngài rất thông cảm với
sự yếu đuối của con người. Việc Đức Giêsu hiển dung (CN 2 mùa Chay) cho thấy
thần tính của Ngài, cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa, được chính Chúa Cha giới
thiệu. Câu chuyện về nước hằng sống với người phụ nữ Sa-ma-ri (CN 3 mùa Chay)
cho thấy Ngài có khả năng đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người, và Ngài tự
xác nhận mình là đấng Mêsia mà mọi người trông đợi. Việc làm sáng mắt người mù
từ khi mới sinh (CN 4 mùa Chay) cho thấy quyền năng đặc biệt của Ngài và cách
Ngài hành xử theo tình yêu hơn là theo lề luật.
Quyền năng ấy lại còn đặc biệt hơn nữa
với bài tường thuật Ngài làm cho kẻ chết đã 4 ngày sống lại trong bài Tin Mừng
hôm nay (CN 5 mùa Chay). Trong bài Tin Mừng này, Ngài còn tự xác nhận mình
chính là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời
đời.
Cuối cùng, Chúa Nhật kế tiếp (CN Phục
Sinh) thuật lại việc sống lại của chính Ngài sau khi chịu tử nạn làm hy tế đền
tội cho nhân loại. Sự sống lại này là dấu chứng vĩ đại và chắc chắn nhất chứng
tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh một
cách tổng hợp Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người, một con người đúng là
con người, hết sức nhân bản. Ngài là Thiên Chúa, vì có khả năng làm cho kẻ chết
sống lại. Là con người, vì khi đến nhà người mình yêu thương đã chết, Ngài cũng
“thổn thức trong lòng và xao xuyến” (câu 33b), Ngài đã khóc (câu 35) khi đứng
trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Ngài đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người
có mặt ở đấy đã phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”
(câu 36).
Như vậy, Ngài không chỉ yêu thương chúng
ta bằng thứ tình yêu đầy tính thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng
chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình
yêu ấy vẫn rất bao la, rộng rãi, và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ
thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến
cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai – kể cả Ngài –
có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của
người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
3. Hãy yêu thương như Đức Giêsu đã yêu thương
Đức Giêsu đã yêu thương ta và yêu
thương mọi người bằng trái tim con người thế nào, Ngài cũng mời gọi ta yêu
thương nhau, yêu thương tha nhân y như vậy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Có yêu thương như thế, ta mới chứng tỏ mình
theo Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh
em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Tình yêu nhân bản của Đức Giêsu được
biểu lộ ra bên ngoài bằng sự xúc động mãnh liệt như trường hợp đối với Ladarô,
nhất là bằng những hy sinh đến chết cho nhân loại. Tình yêu tuy ẩn sâu kín
trong lòng con người không ai thấy được, nhưng nếu là tình yêu đích thực thì nó
luôn luôn được biểu lộ ra ngoài thành những ánh mắt trìu mến, cử chỉ yêu
thương, lời nói dịu dàng, và nhất là bằng sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự
cho người mình yêu. Tình yêu không thể dấu kín. Tình yêu dấu kín trong lòng là
tình yêu đáng nghi ngờ. Nếu “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc
2,17.26), thì một cách tương tự, tình yêu không được biểu lộ cụ thể là tình yêu
giả hiệu. Chính “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và
lòng yêu thương của Người đối với nhân loại” (Tt 3,4), và “Tình yêu của Thiên
Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến
thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9). Vì thế,
chúng ta hãy biểu lộ tình yêu của mình đối với mọi người bằng những cử chỉ, lời
nói và hành động cụ thể.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã tỏ tình yêu của Cha
một cách cụ thể cho nhân loại qua việc sai Đức Giêsu là hiện thân của Cha đến
thế gian chịu chết để cứu chuộc họ. Đức Giêsu cũng biểu lộ tình yêu của Ngài
một cách rất cụ thể qua việc khóc thương Ladarô, và qua việc hiến mình đến chết
cho nhân loại. Xin giúp con cũng biết thật sự yêu thương những người chung
quanh con, và biểu lộ tình yêu thương ấy thật cụ thể qua ánh mắt, cử chỉ, lời
nói và hành động. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét