GIÁO HỌ CỐC MỲ
|
ĐỨC
TỔNG LEOPOLDO GIRELLI CHỦ TẾ LỄ MẸ VÔ
NHIÊM BỔN MẠNG GP. HƯNG HÓA TẠI ĐỀN THÁNH TRUẬT GX. HÀ THẠCH
|
LM NGUYỄN ĐÌNH
ĐẬU MỪNG 30 NĂM LM
|
GIÁO HỌ BẢO HÀ ĐÓN MỤC TỬ TIÊN KHỞI - LM ANTÔN |
GIÁO HỌ BẢO HÀ ĐÓN MỤC TỬ TIÊN KHỞI |
CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is
35,1-6a.10; Gc 5,7-10; Mt 11,2-11
1. Đấng sẽ đến
Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay không?
Như chúng ta đã biết, Gioan
Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục. Từ thế giới tù
đày, ông đã sai hai môn đệ thân tín đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra câu hỏi: Thầy
có phải là Đấng sẽ đến, hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?
Câu hỏi này thoạt xem ra thì
có vẻ vô lý và mâu thuẫn với sứ mạng tiền hô, với sứ mạng dọn đường của Gioan.
Phải chăng ông đã chẳng long trọng giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa,
đây Đấng xoá tội trần gian đó sao? Phải chăng bên bờ sông Giođan ông đã chẳng
xác quyết: Ngài phải rửa cho tôi chứ không phải là tôi rửa cho Ngài. Tôi không
xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài? Rồi với những sự kiện lạ lùng sau
khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, với sự tỏ lộ đặc biệt của Chúa Thánh Thần, ông đã
tin chắc Chúa Giêsu người Nadarét chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ những
thế kỷ về trước. Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nghi ngờ và phản lại những lời
đã xác quyết? Theo tôi nghĩ vấn đề được đặt ra thật quan trọng. Quan trọng
không phải cho bản thân của Gioan vì ông không hề nghi ngờ chi nữa, nhưng quan
trọng cho các môn đệ của ông, bởi vì họ còn đang phân vân, lưỡng lự và chưa dứt
khoát được lập lập trường đối với Chúa Giêsu. Ông tin chắc câu trả lời và những
lý chứng của Chúa Giêsu sẽ là một thứ ánh sáng phán tan mọi thứ nghi ngờ còn
đọng lại trong cõi lòng của họ. Thực vậy, những phép lạ Ngài làm là một lý
chứng hùng hồn nhất về sứ mạng cứu thế của Ngài: Người mù được thấy, kẻ què
được đi, người chết sống lại và những kẻ nghèo túng được loan báo Tin Mừng. Và
sau đó Chúa Giêsu đã lên tiếng ca tụng Gioan Tiền hô.
Người Do Thái luôn trông chờ
một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng chắc chắn Chúa
Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở trước và chúng ta
là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta đặt trọn vẹn niềm
cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không vội vàng, không hấp
tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa trên
những nẻo đường chúng ta đi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII
thường nói: Chúng ta hãy tin tưởng vào thời gian bởi vì thời gian sẽ sắp đặt
mọi sự. Nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ bàn tay yêu thương của Chúa, cũng như giúp
chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chân lý này đã được thực hiện
trong chính cuộc đời của ngài. Với tính tình hiền hoà và đôn hậu người ta tưởng
rằng ngài sẽ chẳng làm được những việc phi thường trên ngôi giáo hoàng. Thế
nhưng Chúa đã dùng ngài để hướng dẫn Giáo Hội. Chính ngài đã quyết định triệu
tập Công đồng Vatican II và đã thổi vào Giáo Hội một tinh thần, một luồng sinh
khí mới.
Thánh Giacôbê tông đồ cũng đã
khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy kiên nhẫn trông chờ ngày Chúa đến. Như người
nông phu kiên nhẫn trông chờ những giọt nước mưa, và hoa màu của đồng ruộng.
Anh em cũng hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến.
Thánh Vincentê luôn cảnh giác
chúng ta: Đừng hấp tấp vội vã vì đó là mưu mô của ma quỷ, lừa dối những người
thiện chí để rồi cuối cùng chẳng làm được gì cả. Để kết luận chúng ta hãy nhớ
tới lời Chúa: Ai kiên tâm và bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát.
2. Dung mạo Đức Kitô – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tiền Hô là một vị
tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ
quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người
anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của
nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam
trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay
thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng
tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.
Thật lạ lùng đến khó hiểu.
Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình
giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân
ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.
Sự hoang mang của thánh Gioan
Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:
1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm
khác với lời Gioan loan báo.
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan
báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần
trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào
không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc.
Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp
quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa
Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu
tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị
dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt.
Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến
không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến
thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.
Ông bị ngược đãi, tất nhiên.
Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp
bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ
điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao
Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi
trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn
rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi
hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị
giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm
nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén
lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng
Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan
trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.
Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu
không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những
việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc
được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Với câu trả lời ấy, Chúa
Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng
thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế không phải là vị
vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ
sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Đấng Cứu Thế không phải là vị
vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn
sống trong một làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế không phải là vị
quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ
đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha
thứ kẻ tội lỗi.
Đấng Cứu Thế không đến trong
vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa
như một người bạn thân thiết.
Đấng Cứu Thế không đến trong
hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới
với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Câu trả lời của Chúa Giêsu
khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo
Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu
con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng
một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho
Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị,
thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền
lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc
âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng
tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy
cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có
những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ.
Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ
nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ
đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa
đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên
dung mạo của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con
nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng
Sinh năm nay. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Đức Thánh Cha đã
khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức
Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?
2)
Bạn muốn một Giáo
Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?
3)
Bạn nghĩ gì về
những lầm lỗi trong Giáo Hội?
4)
Bạn phải làm gì
để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng
ngày?
3. Mùa Vọng: Mùa màu hồng – ĐGM. Vũ Duy Thống
(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ – trg. 19)
Nếu khởi đầu Mùa Vọng là một
màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng vào mình và hành
trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc đời sám hối, thì ở giữa lòng Mùa
Vọng, đời người đã được đặt vào một vận hành mới với một năng lực mới cho một
cuộc đời mới. Những cái mới ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả bằng một niềm
vui và lễ phục minh họa bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng để cùng với Giáo Hội,
Chúa Nhật hôm nay xin được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.
Vâng! Màu hồng. Nhưng không
phải là một thứ ửng hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp gỡ, cũng không phải là
thứ bột hồng điểm trang của hương phấn trong ngày lễ hội, mà chính là màu hồng
của niềm vui chan hòa và những chí bền chiến đấu đã làm nên sức sống và sức
mạnh không ngừng gieo hưng phấn trên hành trình đức tin.
Qua cách gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng, xin được gợi ý về hiệu quả
của niềm hy vọng.
1) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một niềm vui
chan hòa.
Không phải vô cớ mà thánh
Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín hữu của mình “Hãy vui lên!” cũng chẳng phải tình cờ khi Phụng Vụ gọi Chúa Nhật
thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật của niềm vui, mà tất cả đã là một hữu ý dàn dựng
để làm nổi bật lên nỗi vui mừng và niềm hy vọng không phải như hai nỗi niềm đặt
cận kề nhau, mà như hai yếu tố tương tại vào nhau của cùng một nỗi niềm duy
nhất kết nên đời sống Kitô hữu. Có hy vọng là có niềm vui.
Bởi có hy vọng nên đời tín
hữu cũng có một vũ trụ quan tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc đời theo kiểu
“cũng liều nhắm mắt đưa chân” trôi nổi vật vờ theo dòng nước cuốn, mà là đón
nhận cuộc đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi. Họ không chấp nhận nhìn
môi trường mình đang sống như những sự kiện bên lề mà biết nhận ra đó chính là
nơi mình được kêu gọi đến để thể hiện ơn gọi làm người và làm con Chúa. Cho dẫu
cuộc đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy vọng vươn cao. “Trong khi chưa có
được điều mình thích, hãy bắt đầu bằng cách thích những điều mình đang có”. Tôi
muốn một cuộc đời rộng đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn chỉ là những mảnh đời chật
hẹp thì trong niềm hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng cách nới rộng đời mình ra.
Bởi có niềm hy vọng nên đời
tín hữu cũng có một nhân sinh quan
chan hòa. Trong đại dương không ai là một hòn đảo. Trong chuyến đi cuộc đời
chẳng ai là người lữ khách cô đơn. Thế nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu
là những kẻ đồng hành và đồng hành cũng có nghĩa là biết cho đi và nhận về.
Cũng giống như tình yêu, hy vọng là rộng mở, là biết cho đi. Trong đổi chác,
không ai có thể cho cái mình không có, nhưng trong niềm hy vọng, không ai có
thể có được điều mà mình không biết cho đi. Bởi lẽ bạc tiền cho đi sẽ có lúc
vơi cạn, nhưng niềm hy vọng biết cho đi thì ngược lại, bỗng trở nên phong phú lạ
thường. Nỗi vui cho đi sẽ thành nỗi vui lớn hơn của kẻ cho và người nhận gộp
lại, và niềm hy vọng biết cho đi sẽ nên niềm hy vọng vĩ đại của một sự sống
triển nở sinh sôi.
Rõ ràng là với niềm hy vọng,
cuộc sống đã biến thành niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở độ tinh ròng mà
vẫn còn đan xen với những nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc, nhưng đã hồng
hào lên một sức sống tươi trẻ vì đó chính là thành quả của niềm hy vọng.
Chắc cộng đoàn còn nhớ Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô I. Triều đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba mươi ba ngày
nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên. Đó là hình ảnh của một Giáo
Hoàng với nụ cười thật tươi, nụ cười trong hồn và nụ cười ngoài miệng. Chính
ngài là người đã lập lại quan điểm của thánh Tôma để chủ trương: vui vẻ là một
nhân đức. Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong mười phụ nữ được xếp vào hàng vĩ
nhân hiện đại, khi người ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống tốt hơn, Mẹ
bảo: “Hãy mỉm cười. Cười là thông điệp hòa bình. Cười là nếm cảm thực tại Thiên
Chúa”.
2) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một chí bền
chiến đấu.
Những lúc an bình, niềm hy
vọng mở ra một cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải thử thách, niềm hy vọng
lại trở nên sức mạnh kiên cường. Chính vì thế, hy vọng không chỉ được xem là
nhân đức của nụ cười mà còn được khẳng định là nhân đức của sự chiến đấu trước
những thách đố không thiếu trong đời.
Có những thách đố đến từ
những nghịch lý trong đời sống đức tin
thể hiện qua những câu hỏi “tại sao?” khó mà trả lời nếu không có niềm hy vọng.
Như câu hỏi tại sao của Cựu Ước: “Tại sao kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ dữ
lại cứ phây phây?”. Như câu hỏi của thánh Phaolô: “Tại sao điều tốt muốn làm
tôi lại chẳng làm, còn điều xấu muốn tránh tôi lại hay vấp phải?”. Như câu hỏi
về Giáo Hội: “Tại sao Giáo Hội bản chất là duy nhất mà trong lịch sử vẫn cứ mãi
ghi dấu bằng những cuộc phân ly?”. Như câu hỏi của các bạn trẻ Tây Ban Nha đặt
ra cho Đức Gioan Phaolô II năm 1982: “Tại sao Thiên Chúa tốt lành mà trong tạo
thành của Ngài lại có quá nhiều tội ác?”. Như câu hỏi của báo chí: “Tại sao
người ta cứ phải lo đề phòng đối phó mà không biết yêu thương nhau?”. Hay như
câu hỏi mỗi người thường đặt ra với lòng mình: “Tại sao nhân đức như lúa tốt
chăm hoài vẫn khó mọc còn nết xấu như cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?” Những câu hỏi
ấy được đặt ra và còn được đặt ra mãi mãi. Sẽ là hoang mang chao đảo nếu không
tìm được giải đáp; nhưng sẽ không có câu trả lời đích thực nếu không nại đến
niềm hy vọng vào điều toàn bích vốn chỉ có nơi Thiên Chúa và trong cuộc sống
mai sau.
Có những thách đố đến từ
những nghịch biến trong lối sống đạo
như sự ly thân giữa giáo lý tốt lành của đạo với đời sống kèn cựa của người tín
hữu, như cách sống thực dụng của một số thành phần có đạo, như xu hướng tục hóa
đang có nguy cơ tràn lan, và phổ biến nhất vẫn là thái độ “mackeno” dửng dưng
với đạo của một số kẻ tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng tốt hơn ai. Sẽ là dị
ứng co cụm nếu chỉ thở dài thất vọng, nhưng sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết
vươn lên khẳng định niềm tin.
Và cũng có những thách đố đến
từ những nghịch cảnh trong cuộc đời
như tai nạn bất ưng, như sức khỏe yếu kém, như hoàn cảnh không thuận lợi cho
ngành nghề, như những thất bại nhiều mặt. Sẽ là thất vọng nếu cúi gập trên nỗi
đau của mình, nhưng sẽ là hy vọng nếu biết vươn lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt
vọng đi nữa thì ở đó vẫn cứ sáng rỡ một niềm cậy trông.
Trọn trang Tin Mừng hôm nay
là một thách đố không nhỏ mà Gioan Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng về một sự
trừng phạt đến cận kề nhưng lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về Đấng Cứu Thế
như một vị Chúa oai phong đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan hòa nhân ái;
công bố về thời mở cửa cứu độ nhưng chính mình lại bị cầm tù vào giữa lúc mọi
người xôn xao hạnh phúc. Đã có lúc nóng lòng chờ đợi như việc gửi môn đệ đến
chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm nay, nhưng từ những thách đố ấy, nơi
Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường: ông không phải là cây
sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẽ
cậy trông.
Niềm hy vọng chính là sức
mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên
vững kinh qua tất cả.
Tóm lại, với hiệu quả của
niềm hy vọng là niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu, đời sống của tín hữu đã
được đặt vào một vận hành mới vươn tới một điều còn lớn lao hơn cả chính nỗi
niềm của mình. Đó không chỉ là chân lý cho trí ta đong đầy, không chỉ là thiện
hảo cho lòng ta mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn no thỏa mà
chính là một Đấng, Đấng ấy là Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta.
Và như thế, thiết tưởng đã
đến lúc đặt ra vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy chưa?
Bài đọc thứ nhất nhắc nhở “Đừng sợ”. Đừng sợ không có niềm hy vọng
vì trước khi ta có thể hy vọng thì Chúa đã hy vọng vào ta. Đó là một hồng ân.
Cũng đừng sợ mình mất niềm hy vọng như thể ta sống có một mình. Có một Đấng
cùng sống với ta và Đấng ấy không dễ gì để mất ta đâu. Cũng đừng sợ niềm hy
vọng của ta sao quá nhạt nhòa, bởi hy vọng là một công trình cả đời. Điều đáng
sợ đáng ngại và đáng đau khổ nhất là “thấy Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời
người”, nghĩa là người ta khước từ hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự
do hoặc danh lợi thú.
Bài đọc thứ hai khuyến khích “Hãy vui lên!” Vui vì ta là niềm hy vọng
trong mắt nhìn cứu độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là niềm hy vọng thắp
sáng cho anh em mình nữa, để không chỉ gây thắc mắc “nghĩ gì vui thế mà cười
một mình” như Trần Tiến trong ca khúc “Thành phố trẻ”, mà còn để chuyển tải đến
môi trường xung quanh một niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu.
Ai đã coi cuốn phim “Cuộc đời
Chúa Cứu Thế” chắc còn nhớ lúc kết, sau khi đã có biến cố lên trời và lời trao
sứ vụ đến với muôn dân, người ta cho xuất hiện trên màn ảnh một chân dung của
Chúa Giêsu thật lớn tươi cười với chiếc răng khểnh đàng hoàng. Không biết dụng
ý của đạo diễn thế nào, nhưng phải nói là có tác dụng phấn khích, vừa đem lại
nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa đem đến niềm vui chan hòa hy vọng.
Mong rằng nụ cười thật lạ ấy
cũng trở thành niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể hiện niềm hy vọng.
Được như thế, Chúa Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của niềm vui, và Mùa
Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng
hy vọng thật đẹp thật tươi thật nhiều nụ cười cho người người hạnh phúc.
4. Còn phải đợi ai?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Anh em ra xem gì trong
hoang địa?" Đức Giêsu đã ba lần đặt câu hỏi như thế. Hẳn không phải để xem
một cây sậy bị gió lay, vì Gioan chẳng phải là người dễ lung lay, khuất phục.
Cũng không phải để xem người mặc lụa là gấm vóc, vì Gioan chỉ có áo lông lạc đà
và dây lưng da. Nhưng để gặp một vị ngôn sứ cao trọng hơn cả, vì ông ở đỉnh cao
kết thúc Cựu Ước, đồng thời ông là người giới thiệu Đức Kitô cho dân Israel.
Đối với ông, Đức Kitô là Đấng
mạnh mẽ. Ngài đến sau ông, nhưng mạnh hơn ông (x. Mt 3,11). Ngài như người cầm
rìu chặt mọi cây không sinh trái và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Ngài còn như
người cầm nia sàng sảy (x. Mt 3,12), thóc lép thì cho vào lửa, thóc mẩy thì thu
vào kho. Ngài sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa (x. Mt 3,11).
Quả thực Ngài là vị thẩm phán
đáng sợ. Ngài trừng phạt tội nhân bằng ngọn lửa không hề tắt.
Khi ở tù, Gioan vẫn nghe biết
các việc Đức Giêsu làm. Thật chẳng có gì giống với những điều ông đã loan báo.
Ngỡ ngàng, hoang mang, ông sai môn đệ đến gặp Ngài.
Đức Giêsu kín đáo cho thấy
Ngài thật là Đức Kitô, vì Ngài làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ Isaia loan báo.
Ngài không phải là một Mêsia đoán phạt, báo thù, nhưng là một Mêsia xót thương
cúi xuống người đau khổ.
Gioan đứng trước một thách
đố. Ông có chịu đổi quan niệm của mình về Đấng Mêsia không? Nếu không đổi, ông
chẳng thể nào đón nhận Đức Giêsu, Đấng mà ông đã giới thiệu là Kitô, là Mêsia.
"Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
Phêrô cũng đã vấp ngã sau khi
tuyên xưng đức tin. Ông không thể nào chấp nhận một Đấng Mêsia chịu đau khổ.
Giona cũng nổi giận, vì Thiên Chúa không phạt dân Ninivê như lời ông loan báo
(x. Ga 3,4; 4,1). Như thế cả Giona, Gioan hay Phêrô đều phải mở ra để đón lấy
Thiên Chúa bất ngờ. Ngài không như điều ta tưởng, thậm chí có khi Ngài ngược
với điều ta rao giảng.
Gioan đã vượt qua chính mình khi
nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30). Ông đã giới
thiệu môn đệ và dân chúng đến với Đức Giêsu. Nhưng ông còn phải vượt qua chính
mình một lần nữa, khi chấp nhận thanh lọc cái nhìn của mình về Đấng Mêsia.
Mùa vọng là thời gian chờ đợi Chúa đến.
Ta nghĩ Chúa đến một cách ồn
ào, oai phong lẫm liệt, thì Ngài lại đến cách âm thầm lặng lẽ.
Ta tưởng Chúa đến qua những
đại lộ thênh thang, thì Ngài lại đến qua ngõ hẹp tăm tối.
Ta chờ Ngài những câu trả
lời, còn Ngài lại đặt câu hỏi!
Xin cho chúng ta đừng đi tìm
Ngài, khi Ngài đang ở kề bên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa thích chơi ú tim
với con người. Ta tưởng Ngài ở đây, thì Ngài lại ở kia. Ngài luôn vượt quá điều
ta nghĩ về Ngài. Vậy theo ý bạn, làm sao gặp được Ngài?
Đức Giêsu đã kể ra những việc
Ngài làm để cho thấy Ngài thật là Đức Kitô (x. Mt 11,5). Theo ý bạn, đâu là
những việc bạn phải làm để cho thấy bạn là Kitô hữu thật sự?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Nguời là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi
chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong
tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người
trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
5. Đấng
phải đến
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia
Sẻ’)
Gioan Tẩy Giả là một nhân vật
quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin Mừng Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe Gioan
Tẩy Giả loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến là một Thẩm Phán chí công, thưởng phạt
nghiêm minh. Ngày Đấng Cứu Thế đến sẽ là một ngày kinh hoàng đối với những
người gian ác, tội lỗi, không chịu hối cải.
Nhưng rồi, khi Chúa Giêsu
đến, Gioan Tẩy Giả đã thất vọng, vì ông chẳng thấy có gì là kinh hoàng như ông
đã loan báo trước. Đang lúc đó chính Gioan Tẩy Giả lại phải ngồi tù, vì đã ăn
ngay nói thẳng. Thật là trớ trêu!
- Gioan Tẩy Giả đã loan báo
sai chăng?
- Hay là Chúa Giêsu chưa phải
là Đấng Cứu Thế thực sự phải đến mà còn phải chờ đợi ai khác nữa?
Gioan sai các môn đệ đến hỏi
Chúa Giêsu một lần cho rõ: Xin Thầy nói thật cho chúng tôi: “Thầy có phải là
Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác nữa?”.
Để trả lời Gioan và các môn
đệ, Chúa Giêsu đã mượn lời Ngôn sứ Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế: “Người mù
được thấy, người què được đi, người phong hủi được sạch, người điếc được nghe,
người chết sống lại…”.
Thì ra Chúa Cứu Thế đến
“không phải để xét xử luận phạt, nhưng để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư
hỏng”. “Ngài đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người
tội lỗi sinh hoạt ăn năn”. “Ngài đến để cho con người được sống và được sống
dồi dào”. “Và Ngài còn đến không phải để được người ta hầu hạ phục vụ, nhưng để
phục vụ và thí mạng sống cứu chuộc loài người”.
Bao lâu còn quan niệm như
Gioan Tẩy Giả, còn chờ mong Chúa đến can thiệp kiểu vua chúa trần gian để áp
đặt một quyền lực, chúng ta sẽ mãi mãi ảo vọng. Trong khi Gioan Tẩy Giả và dân
Do Thái mong một Đấng Cứu Thế đến tái lập uy quyền và vinh quang Thiên Chúa,
thì Thiên Chúa lại chỉ mãi lo cho vinh quang của con người, ưu tiên cho những
con người bị coi rẻ nhất: người mù, người què, người điếc, là những hạng người
phải ăn mày để sống, ăn mày sự sống với những người quyền thế giàu có vẫn coi
thường khinh bỉ họ, và nắm quyền sinh tử trên họ. Ngài coi đó là trả lại sự
sống cho hạng người sống mà như chết dở, những người cùi hủi, những người bị
khinh tởm, bị xua đuổi khỏi xã hội, chỉ được sống trong những nấm mồ hoang giữa
người chết.
Ngày xưa, khi Chúa Cứu Thế
Giáng Sinh, các luật sĩ và cả vua Hêrôđê và dân thành Giêrusalem đã không nhận
ra Chúa Cứu Thế, vì họ quan niệm Chúa Cứu Thế phải đến trong oai phong lẫm
liệt, phải sinh ra ở lầu son gác tía, chứ không phải ở chuồng bò.
Chúa Cứu Thế phải xuất hiện
trong cung cách như thế đó. Chúng ta ngày nay phải hết sức tỉnh táo mới khỏi
đón hụt mất Chúa Cứu Thế. Bởi vì, vẫn như ngày nào, Chúa đang hiện diện ở giữa
chúng ta; không ồn ào giữa hàng lũ người tuỳ tùng hầu hạ kiểu vua chúa phong
kiến, mà ẩn mình trong thân phận những con người nghèo đói, ốm đau, bệnh tật…
Vẫn như ngày nào và sẽ mãi mãi cho đến tận thế. Ngài không dạy chúng ta đón
nhận Ngài bằng bất cứ một hình thức nào khác hơn là đón nhận chính con người
anh em, những người bé nhỏ, đói khát, mình trần thân trụi, không nhà không cửa,
ốm đau bệnh tật, tù đày… Vì vậy, nếu không hết sức tỉnh táo, chúng ta sẽ đón
hụt mất Ngài.
Anh chị em thân mến,
Hai ngàn năm rồi, Chúa đã
đến, nhưng cũng còn những người vãn đang mong chờ một Chúa Cứu Thế khác sẽ đến,
chứ Ông Giêsu này không phải là Chúa Cứu Thế. Thậm chí có cả những người Công
Giáo cũng nghi ngờ Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế của họ. Bởi vì, tại sao Chúa cứ
bắt tôi phải đói khổ, bệnh tật? Tại sao Chúa không trừng trị địch thù, những
bọn gian ác? Chúng tôi phải chờ một Đấng Cứu Thế khác. Ngài sẽ đến thanh trừng
với bạo lực, thống trị với quyền năng hiển hách như lời các ngôn sứ loan báo.
Chúa Giêsu Kitô chính là
“Đấng phải đến”. Ngài đã đến rồi. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay như đã là
niềm tin của Thánh Phêrô. Ngài nói: “Ngoài Đức Giêsu ra, dưới bầu trời này, ơn
cứu độ chúng ta không có ở một người nào khác, không có một ai khác có khả năng
cứu độ chúng ta” (Cv 4,12).
Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đã
đến, đã chết để cứu chuộc chúng ta, đã sống lại và đang sống ở giữa chúng ta.
Ng đã giải phóng chúng ta và bao nhiêu con người khác đang bị giam cầm trong
tội lỗi. Chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Ngài cứu độ và được sống
trong Ngài. Chúng ta không phải chờ đợi một ai khác nữa.
6. Chú giải của
William Barclay
GIỌNG NÓI CHÚA GIÊSU (11,1-6)
Sứ vụ Gioan Tẩy Giả kết thúc
trong nỗi đớn đau khốc liệt. Gioan chẳng có thói quen gia giảm chân lý cho vừa
ý người khác, cũng không thể nào thấy điều gian ác mà không quở trách. Gioan đã
nói rất mạnh dạn thẳng thắn đến luỵ cả bản thân.
Trong chuyến du lịch từ
Galilê đến Rôma thăm em trai, vua Hêrôđê Antipa đã quyến rũ vợ của em mình. Khi
trở về xứ, ông bỏ vợ chính thức để cưới em dâu mà ông đã dụ dỗ. Gioan công khai
và nghiêm khắc quở trách Hêrôđê. Dám chỉ trích một vị vua phương Đông thì không
bao giờ được yên thân. Hêrôđê đã trả thù: Gioan bị quăng vào ngục Machaerus,
trong vùng núi gần Biển Chết.
Đối với người bình thường số
phận đó là rất khủng khiếp; riêng đối với Gioan thì càng kinh khủng bội phần.
Ông là đứa con của hoang địa, cả đời sống ngoài trời bao la, với gió thoảng mây
ngàn, thế mà bây giờ phải chôn chân trong bốn bức tường chật hẹp dưới mặt đất.
Với Gioan, một người có lẽ chưa hề sống tù túng dưới một mái nhà nào, điều này
quả là một nỗi thống khổ không lường được.
Trong lâu đài Carlisle có một
phòng giam nhỏ. Ngày xưa có lần người ta tống giam một sĩ quan biên phòng vào
đó trong mấy năm liền. Phòng giam đó có một cửa sổ nhỏ trên cao, người đứng
dưới đất không thể nhìn ra ngoài được. Sau này người ta thấy trên vách đá bên
mép cửa sổ có hai dấu lõm vào. Đó là dấu tay của người sĩ quan biên phòng ngày
ngày đu mình lên đó để được nhìn ra giải thung lũng xanh rờn, nơi ông ta không
bao giờ còn hy vọng trở lại nữa.
Chắc Gioan cũng mang một tâm
trạng như thế cho nên không có gì đáng ngạc nhiên hoặc đáng chỉ trích khi ta
thấy những thắc mắc bắt đầu thành hình trong trí ông. Ông đã tin Chúa Giêsu là
Đấng phải đến, là Đấng Mêsia mà dân Do Thái nóng lòng mong đợi (Mc 11,9; Lc
13,35; Dt 10,37; Tv 118,26). Một người sắp chết thì không thể nào để cho lòng
mình vương vấn chút ngờ vực nào. Ông cần phải biết thật chắc nên ông sai môn đệ
đến hỏi Chúa Giêsu “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng? Hay chúng tôi còn phải
đợi Đấng khác?”. Câu hỏi đó có thể có nhiều lý do:
1. Một số người cho rằng câu đó không
phải là câu hỏi cho Gioan mà là cho các môn đệ của ông. Có thể khi Gioan đàm đạo với môn đệ mình trong tù, họ
hỏi ông Chúa Giêsu có thất là Đấng phải đến không, Gioan bảo họ: “Nếu các ngươi
nghi ngờ, chưa rõ Giêsu là ai thì hãy đi xem Ngài đang làm gì, và có thể làm
được những gì, lúc đó các ngươi sẽ hết nghi ngờ ngay”. Nếu có ai cãi lý với
chúng ta về Chúa Giêsu và thắc mắc về quyền năng tối thượng của Ngài, câu trả
lời hay nhất không phải là dùng lý luận chống lại lý luận, nhưng là: “Anh đã
giao phó đời sống anh cho Ngài thì sẽ thấy quyền năng hành động của Ngài”. Cách
tranh biện tốt nhất cho Chúa không phải là dùng lý lẽ tri thức nhưng là đưa ra
kinh nghiệm về quyền năng biến cải của Ngài.
2. Có thể câu hỏi của Gioan là do thiếu kiên
nhẫn. Sứ điệp của Gioan là sứ
điệp về nhận xét (Mt 3,7-12). Cái búa đã để kề gốc cây, việc sàng sảy đã khởi
sự, lửa phán xét thanh tẩy của Chúa đã bắt đầu chay. Có thể lúc đó Gioan nghĩ
rằng: “Khi nào Chúa Giêsu mới bắt đầu hành động? Khi nào Ngài mới bắt đầu tiêu
diệt kẻ thù, thiêu huỷ cái ác? Khi nào ngày huỷ diệt thánh của Chúa mới khởi
sự?”. Có thể Gioan đã mất kiên nhẫn vì Chúa Giêsu đã không hành động như ông
mong đợi. Một điều chắc chắn là người nào chờ đợi Chúa Giêsu giáng cơn giận bạo
tàn, sẽ luôn luôn bất mãn về Ngài, nhưng ai tìm kiếm tình yêu nơi Ngài sẽ không
bao giờ thất vọng.
3. Một số người cho rằng câu hỏi của
Gioan phát xuất từ niềm vui và hy vọng đang vươn lên. Ông đã thấy Chúa lúc Ngài chịu phép rửa, bây giờ ở
trong tù ông càng nghĩ nhiều hơn về Ngài. Càng suy nghĩ, ông càng tin chắc Ngài
là Đấng phải đến. Và bây giờ ông đặt tất cả hy vọng của mình vào câu hỏi trắc
nghiệm này. Có thể đây không phải là câu hỏi của một người thất vọng và thiếu
kiên nhẫn mà là câu hỏi của một người mà ánh mắt đang sáng ngời hy vọng, một
người hỏi chỉ cốt để xác minh hy vọng của mình.
Chúa Giêsu trả lời câu hỏi đó
với giọng đầy tin tưởng: “Hãy về đừng thuật lại cho Gioan những điều Ta nói,
nhưng hãy thuật lại những điều Ta làm. Đừng thuật lạ cho Gioan những gì Ta cao
rao, nhưng hãy thuật lại cho Gioan những điều xảy ra”. Chúa Giêsu bảo người ta
hãy dùng những trắc nghiệm gay go nhất để thử Ngài, trắc nghiệm về hành động và
kết quả. Chúa Giêsu là người duy nhất có thể thách thức người ta phê phán những
việc Ngài làm không cần giới hạn, không cần điều kiện. Lời thách thức của Ngài
vẫn không đổi thay. Ngài không kêu gào: “Hãy nghe những điều Ta phán đây”,
nhưng Ngài nói: “Hãy nhìn xem những điều Ta có thể làm cho các ngươi cùng những
điều Ta đã làm cho nhiều người khác”.
Những điều Chúa Giêsu làm ở
xứ Galilê thì Ngài vẫn còn làm ngày nay. Trong Ngài, những ai đui mù không thấy
được sự thật về chính mình, về người khác và về Thiên Chúa, đều được sáng mắt.
Trong Ngài, những ai có đôi chân yếu ớt, không đủ sức đứng vững trong đường
ngay nẻo chính đều được mạnh mẽ. Trong Ngài, những ai bị tì ố vì tội lỗi đều
được thanh tẩy. Trong Ngài, ai không nghe được tiếng nói của lương tâm và của
Chúa đều bắt đầu nghe được. Trong Ngài, những kẻ chết và bất lực trong tội lỗi
đều bắt đầu sống lại cuộc đời mới và thánh thiện. Trong Ngài, những người nghèo
được hưởng tình yêu sung mãn của Thiên Chúa.
Nhưng cuối cùng là lời cảnh
cáo: “Phúc thay người người nào không vấp ngã vì Tôi”. Chúa phán điều này với
Gioan vì Gioan chỉ nắm có phân nửa chân lý. Gioan rao giảng Tin Mừng về sự
thánh thiện, với sự huỷ diệt từ trời, Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng về sự thánh
thiện, với tình yêu từ trời. Vì vậy Chúa Giêsu nói với Gioan rằng: “Có thể Ta
không làm điều ngươi trông đợi Ta, nhưng những quyền lực tà ác đang bị đánh
bại, bị đánh bại không phải bởi sức mạnh vô địch mà bởi tình yêu vô hạn”. Đôi
khi người ta bị vấp phạm vì Chúa Giêsu bởi Ngài cắt ngang quan điểm của họ về
tôn giáo, Ngài không làm theo đúng suy diễn của họ về tôn giáo.
GIỌNG TÁN TỤNG (11,7-11)
Ít người được Chúa Giêsu ca
ngợi nhiều như Gioan Tẩy Giả. Mở đầu cho câu chuyện, Ngài hỏi dân chúng là họ
đi xem gì trong hoang địa khi họ đổ xô đi xem Gioan.
1. Có phải họ đi xem cây sậy trong gió
rung không? Điều này có thể mang
một trong hai ý nghĩa:
a.
Dọc bờ sông Giođan có những cây sậy dài và cây sậy bị gió rung là một thành ngữ
để chỉ những cảnh thông thường nhất. Khi dân chúng đổ xô đi xem Gioan, phải
chăng họ đi xem một cái gì bình thường, bình thường như những cây sậy vẫn bị
gió rung bên bờ sông Giođan?
b.
Cây sậy bị gió rung có thể chỉ “một người mềm yếu” một người không thể đứng
vững trước những ngọn gió thử thách hiểm nguy như cây sậy bên bờ sông không thể
đứng thẳng khi gió thổi qua.
Dù dân có đổ vào hoang địa để
xem gì đi nữa, chắc chắn họ cũng không đi tìm xem một người bình thường. Sự
kiện dân chúng đổ xô đi xem, cho thấy Gioan là người hết sức khác thường, vì
không ai lại băng ngàn lội suối vào tận hoang địa để xem một người bình thường
như mọi người mình gặp hằng ngày. Dù có đi xem chăng nữa, họ cũng không xem một
người chao đảo hèn yếu. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể
trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không
phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió.
2. Có phải họ đi xem một người mặc áo
đẹp chăng? Một người như thế phải
ở trong cung điện nhà vua và chắc chắn Gioan không phải là một người trong cung
điện. Ông không biết tí gì về nghệ thuật lấy lòng vua. Trái lại ông theo đuổi
nghề bạc bẽo hiểm nguy của một kẻ can gián vua. Gioan sứ giả của Chúa chứ không
phải là triều thần của vua Hêrôđê.
3. Có phải họ đi xem một ngôn sứ không? Ngôn sứ là người rao truyền chân lý của Chúa, là
người được Chúa tin tưởng: “Cũng vậy, Chúa chẳng có làm việc gì mà Ngài chưa tỏ
sự tín nhiệm Ngài ra trước cho tôi tớ Ngài là các ngôn sứ” (Am 3,7). Có hai
điều về ngôn sứ: đó là người mang sứ điệp của Chúa và là người can đảm nói ra
sứ điệp đó. Ngôn sứ là người có sự khôn ngoan của Chúa trong tâm trí, có chân
lý của Chúa trong miệng và có sự can đảm của Chúa trong lòng, đó là điều chắc
chắn Gioan có.
4. Nhưng Gioan có điểm vượt xa hơn một
ngôn sứ. Người Do Thái đã và vẫn
tin rằng trước khi Đấng Mêsia đến, Êlia trở lại để loan báo việc Ngài đến. Cho
đến ngày nay, khi cử hành Lễ Vượt Qua, người Do Thái vẫn còn chừa một ghế trống
cho Êlia “Nầy Ta sẽ sai ngôn sứ Êlia đến cùng các ngươi trước ngày lớn và đáng
sợ của Đức Chúa sẽ đến” (Ml 4,5). Vì vậy Chúa Giêsu nói Gioan chính là vị sứ
giả từ trời, là nhà tiên phong của Chúa, có nhiệm vụ và đặc quyền loan báo sự
xuất hiện của Đấng Mêsia. Gioan là một sứ giả của Chúa và không một người nào
có công tác lớn hơn công tác đó.
5. Chúa Giêsu dành cho Gioan những lời
ca ngợi chí tình như thế này, Ngài nói về con người đó bằng giọng tán tụng. Trong suốt lịch sử không hề có ai được tôn trọng hơn
Gioan, nhưng tiếp đó là một câu bất ngờ “Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời
còn cao trọng hơn ông”.
Đây là một chân lý chung cho
mọi đời. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu đem đến cho thế gian này một cái gì mới
mẻ. Các ngôn sứ là những người vĩ đại và sứ điệp của họ rất quý báu, nhưng sự
xuất hiện của Chúa Giêsu làm nổi bật lên một cái gì vĩ đại hơn, một sứ điệp
tuyệt diệu hơn. Ông C.G. Monterfiore, một người Do Thái không tin Chúa, viết:
“Kitô giáo đánh dấu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử tôn giáo và văn minh
nhân loại. Những điều thế giới nhận được từ Chúa Giêsu và Phaolô thật lớn lao.
Sự vật và tư tưởng con người không thể nào giữ y nguyên như trước khi hai vĩ
nhân này xuất hiện”. Ngay cả một người không tin Chúa cũng phải vô tư thừa nhận
rặng mọi việc bây giờ không thể nào giống như trước khi Chúa Giêsu đến.
Nhưng Gioan đã thiếu điều gì?
Cái gì người Kitô hữu có nhưng Gioan không bao giờ có thể có? Câu trả lời rất
đơn giản và cũng rất căn bản: Gioan chưa hề thấy Thập giá. Vì thế Gioan không
thể nào biết được sự mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa. Ông có thể
biết về sự thánh thiện của Chúa, có thể nói về sự công chính của Ngài, nhưng
ông không bao giờ có thể biết về tình yêu đầy tràn của Thiên Chúa. Nghe sứ điệp
của Gioan và đối chiếu với sứ điệp của Chúa Giêsu, không ai có thể gọi sứ điệp
của Gioan là Phúc Âm, là Tin Mừng. Ta thấy cái ý trong sứ điệp của Gioan là đe
doạ, huỷ diệt; còn Chúa Giêsu thì Thập Giá của Ngài bày tỏ cho người ta thấy
chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Thiên Chúa. Điều ngạc nhiên là
một Kitô hữu bình thường cũng có thể biết về Chúa nhiều hơn Đấng ngôn sứ thời
Cựu Ước. Chúng ta có thể biết nhiều về tấm lòng của Chúa hơn ngôn sứ Isaia,
Giêrêmia hoặc các ngôn sứ khác. Người nào thấy được Thập Giá là thấy được cả
tấm lòng của Chúa, theo một cách mà không ai sống trước Thập Giá lại có thể
thấy được. Chỉ trong Thập Giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được mặc khải
trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, quả thật kẻ nhỏ nhất trong Nước
Trời thì lớn hơn bất cứ người nào trước đó.
Gioan đã phải chịu một thân
phận hẩm hiu như một số người là ông chỉ dẫn cho người ta đi đến một chân trời
xán lạn mà chính mình lại chưa được đến. Một số người được dùng làm bảng chỉ
đường của Chúa, họ chỉ cho người ta đến một lý tưởng mới, một tầm cao mới để
người khác bước vào, còn họ thì chưa vào được. Những người đại cải cách có tên
tuổi gắn liền với các cuộc cải cách trong lịch sử thường không phải là những
người đầu tiên lao thân khổ trí vì những cuộc cải cách đó. Trước khi ông ta
xuất hiện trên sân khấu lịch sử, đã có nhiều người đi trước. Những người này
không nhìn thấy vinh quang của cuộc cải cách nhưng đã đổ công sức, đôi khi đã
chết vì nó. Có một người kể lại quang cảnh mà ông ta thường thấy qua cửa sổ nhà
ông ta mỗi tối. Đêm nào ông cũng chờ mong người thắp đèn đi dọc theo con đường
để đốt những ngọn đèn, nhưng người đốt đèn lại là người mù. Ông ta mang ánh
sáng đến cho mọi người mà chính ông ta lại không bao giờ thấy được.
Đừng ai thất vọng (dù trong
Hội Thánh hay trong bất cử nẻo đường nào của cuộc đời), nếu những điều mơ ước
và theo đuổi không thực hiện được trước buổi xế chiều của đời mình. Thiên Chúa
cần Gioan, cần những người làm dấu chỉ đường để cho người khác biết đường, mặc
dầu chính họ không đạt đến đích. Chỉ có người khác một mục tiêu, dù chính mình
chưa đạt đến mục tiêu đó, là một phận sự lớn lao trong đời sống.
7. Chú giải của Noel
Quesson
Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết
những việc Đức Kitô làm.
Trong diễn biến của Tin Mừng
của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả... và luôn có liên quan với Đức Giêsu.
Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả rao
giảng "Nước Thiên Chúa" và làm phép rửa cho Đức Giêsu …
Mt 4,12 Việc bắt giữ Gioan
Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu “khởi đầu”…
Mt 11,2-18 Gioan từ trong
ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về Gioan
cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:
Mt 14,1-13 Cái chết của
Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.
Ông liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải
đợi ai khác?"
Chính với lòng nhiệt thành mà
Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi sục của
quần chúng đã được khơi dậy do tiếng "kêu' của ông, do “Tin Mừng” của ông:
"Nước Trời đã gần kề!".
Thế mà này đây là Gioan, bây
giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái "hoài nghi”
này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị của Gioan. ông
đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo đài, khiếp đảm
và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của hoang mạc
Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù nhân bị
giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất: "đức
tin" bị nao núng... Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta: "tất
cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả... Giêsu của anh đâu phải Đấng
Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.
Vâng, Gioan Tẩy Giả, vừa nghĩ
đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến chúng: một Đức Ki
tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ giải phóng Do
Thái khỏi tay quân thù... một Đức Kitô siêu việt, Con người mà Đanien loan báo,
đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở từ miệng
người". Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người ở hoang
mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây nào
không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.
Sự thất vọng? Đức Giêsu đang
làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng. Thiên Chúa cũng hay làm thất vọng
chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa làm cho Người ta
chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong ước rằng Thiên Chúa
làm theo "ý muốn của chúng ta" và giống như hình ảnh mà chúng ta tạo
ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa lại để cho vị tiên báo
của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các bạn hữu của Người? Tại
sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người bị tù tội vì Người? Tại
sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng? Tại
sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê khóa miệng lại? Tại
sao Lời Chúa lại "quá lặng lẽ thế?
Tại sao Chúa ơi, Chúa yên
lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều xấu,
biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm nay,
xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng coi
mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người khác?
Chúng con có phải tiếp tục
tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình cho
những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở Macheronte. Đêm
tăm tối của Gioan Tây Giả.
Đức Giêsu trả lời: "Các anh cứ về
thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què
được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo
được nghe Tin Mừng.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp
cho câu hỏi đặt ra. Người không nói "Tôi là Người phải đến". Người
không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn phải tự mình tìm
câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia làm cho
người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ Isaia (Is
26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn là các đoạn khác,
Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là "loại Mêsia nào": Thiên Chúa Đấng
đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét và của người
hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người thất thế và
người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác... Và ý nghĩa sâu xa của
hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng được nói lên:
‘cái chết’ bị đánh bại... người nghèo được rao giảng Tin Mừng... Đấy chính là
niềm vui mới!
Những câu hỏi mà chúng ta đặt
ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ chính
chúng tại đem ta trở lại với "chính ta": bạn đã cáo giác Chúa, bạn
làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng những
người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt hơn?
Dấu hiệu đích thực là Thiên
Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta ‘không
phải đợi một ai khác nữa’.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho
Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki tô hữu, và đối
với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn tình yêu của
Đức Giêsu và của "Tin Mừng của Người cho người nghèo không hay chúng tôi
phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân cho những người
thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi an, cứu vớt, yêu
thương.
Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi
Bản văn Hy Lạp nói ở đây:
"Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi”. Tiếng "skandalon" là
hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ
những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một cơ hội "vấp
ngã" đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người rao giảng, hôm
Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ sông Giođan, bây
giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi tới một đức tin sâu
xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay trong cảnh tù đầy, bằng
cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này mà không phải là sự cứu
thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng... những cái chết của mình, hiệp thông với
cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập giá. Lòng tin của chúng
ta cũng thế, không phải là một "sự vật" chiếm hữu lấy một lần thay
cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một người khổ tu, một vị
thánh, "ngôn sứ vĩ đại nhất"... được mời để làm cho đức tin lớn lên,
được mời để không bị "vấp phạm" vì Đức Giêsu.
Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám
đông về ông Gioan rằng: "Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy
phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa
là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế
thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em
biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
Đức Giêsu bây giờ khen ngợi
Gioan Tẩy Giả.
“Giêsu, ông là ai? Đức Giêsu
hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi của Đức
Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây sậy? một
ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn gió nào
cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì thái độ
cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17). A, không, ông không
phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông này mặc
áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ, và còn hơn
là một ngôn sứ.
Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới
khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường
cho Con đến
Như trong phần thứ nhất, để
xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh Thánh để xác
định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng Đức Giêsu đã
sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã viết:
"Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta". Trong đoạn này
chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.
Đức Giêsu -khi giải thích
đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường, và
Đấng sẽ đến”; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: “trước mặt Con!".
Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mêsia đã được loan báo.
Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Malakhi tập trung vào
người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến "Đấng chuẩn bị sứ giả". Như thế
bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả, thì Đức
Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.
Tôi nói thật với anh em: trong số phàm
nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy
nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Chúng ta lặn ngụp, một lần
nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của Người trong
lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự. Có
"trước" người và "sau' người. Lịch sử thế giới đang ở một bước
ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ, thì
cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng cuộc
phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia cắt
lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có thể
nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn là
người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu... Một
cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của "những người bé mọn": tự
khi Thiên Chúa nhập thể làm "đầy tớ", thì sự vĩ đại quyền lực, chính
là trở nên "bé mọn". Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học được điều
đó.
8. Chú
giải của Fiches Dominicales
HÃY THUẬT LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ NGHE
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Vào một khúc quanh quyết định, một
cuộc đối thoại kỳ lạ:
Phúc âm Chúa nhặt vừa qua
trích dẫn thời gian đầu của sứ vụ của Gioan Tiền Hô, chương thứ bốn Phúc âm
thánh Matthêu. Ông loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Đấng
đến sau tôi thì quyển thế hơn tôi. Đốt giai đoạn, sách bài đọc hôm nay đưa
chúng ta đến chương thứ 11 của thánh Matthêu, nơi diễn ra cuộc đối thoại kỳ lạ
giữa vị tiên tri vùng hoang địa và Đức Giêsu. -Thực ra Gioan đang ở trong tù
(xem 4,12). Trong khi chờ đợi trả giá sự can đảm bằng chính mạng sống mình, ông
đành mất tự do vì đã tố cáo phẩm hạnh xấu của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê Cả
(ông ta sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphe, anh ông ta: 14,4-5). Về
phương diện thể xác, ông từ từ tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đã nhận lãnh sứ
mạng loan báo đang đến. Còn Đức Giêsu, sau nhiệt tình ban đầu của cuộc đời công
khai, Ngài đã có kinh nghiệm đau đớn về tính hay thay đổi của những đám đông xứ
Galilê. Lời giảng dạy của Ngài, thôi thúc thính giả phải chọn lựa, phải quyết
định, đã gây chia rẽ về con người của Ngài. "những công trình" của
Ngài không phải là những việc mà cách chung người ta chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế!
Và sự đối lập căng thẳng sẽ buộc Ngài phải khôn ngoan rút lui. Chính ở khúc
ngoặt quyết định này, đối với Đức Giêsu, cũng như với Gioan Tiền Hô, mà tác giả
Phúc âm đã đặt cuộc đối thoại kỳ lạ, qua trung gian những người được sai đến.
2. Câu hỏi của một tiên tri bị hoang
mang:
Như chúng ta thấy trong Chúa
nhật vừa qua, Gioan Tiền Hô không ngừng loan báo việc Đấng Cứu Thế sẽ đến,
"sức mạnh của Ngài giáng xuống" như sấm sét. Nhưng thái độ của Đức
Giêsu rất không phù hợp với những lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông. Không hề
có ý định tiêu diệt những người tội lỗi, Ngài đi từ làng này sang làng khác, mở
rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khổ cùng quẫn của con người, chữa
lành bệnh nhân (8 và 9), tha thứ tội lỗi (9,l-8), kêu gọi một người thu thuế
bước theo Ngài (9,9), đồng bàn với những người tội lỗi (9,10). Khác xa với vị
quan toà đáng sợ mà Gioan đã loan báo, Đức Giêsu xuất hiện như người tôi tớ kín
đáo, người ta không nghe tiếng Ngài trên quảng trường, Ngài không bẻ gãy cây
sậy bị giập nát và không làm tắt tim đèn còn bốc khói (12,19-20). Ở đây Gioan
đối đầu với cớ vấp phạm (scadale), nghĩa là đối đầu với một chướng ngại có nguy
cơ làm ông sụp ngả. Một Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa
với Đấng mà ông đã loan báo. Đó là thử thách đức tin của ông: đang chờ đợi một
sự biểu lộ công bình, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế,
từ trong tù ngục Machéronte, từ đáy sâu suy tư mà hoàn cảnh đã nhận chìm ông
vào, Gioan, vị tiên tri bị hoang mang, đã sai các môn đệ đến đặt cho Đức Giêsu
câu hỏi từ lâu thiêu đốt tâm hồn và môi miệng ông: ông có phải là Đấng phải đến
(một sự chỉ định Kitô-giáo về Đấng Cứu Thế, lấy từ Thánh vịnh 118,26), hay
chúng tôi còn phải chờ đợi "một Đấng khác?”
3. Câu trả lời của một Đấng Cứu Thế gây
hoang mang.
Đức Giêsu trả lời trong hai
hồi. Trước hết là nói với chính Gioan. Sau đó, là nói về Gioan. Trong hồi thứ
nhất, Đức Giêsu gởi gắm một sứ điệp cho những người được Gioan phái đến:
"Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù
xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được loan báo Tin mừng. Một sứ điệp diễn tả những hoạt động
từ thiện của Đức Giêsu ưu ái dành cho đám đông. Một sứ điệp thực sự đưa Gioan
Tiền Hô về lại với những lời loan báo tiên tri của sách Isaia; đặc biệt là
Is.35 của bài đọc thứ nhất Chúa nhật hôm nay: "Bấy giờ "mắt người mù
sẽ mở ra và tai người điếc..., và Is.61: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
Ngài sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó”. Như A.Marchadour giải thích
điều đó rõ ràng trong một tác phẩm mới xuất bản: "Trong kinh nghiệm của
dân Israel, phép lạ được định vị chủ yếu trong thời gian cuộc Xuất Hành... Dân
Israel hy vọng rằng, những dấu lạ này sẽ lại đến trong thời gian sau hết, khi
Thiên Chúa còn gần gũi với dân Ngài và sẽ bày tỏ điều đó ra bằng những dấu chỉ:
"Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, và tai người điếc sẽ nghe được. Bấy giờ
người què sẽ nhảy lên như nai, và lưỡi người câm sẽ kêu lên vui mừng! Bởi vì,
nước sẽ chảy vọt ra trong hoang địa và thác sẽ trào dâng trong thảo nguyên (Is
35,5-6). Đó là điều mà Đức Giêsu và Giáo Hội kế tiếp Ngài sẽ hiểu (xem
7,18,23). Chỗ đứng quan trọng của các phép lạ thời Đức Giêsu (và cũng một phần
trong thời Giáo Hội sơ khai) là sự hoàn thành của thời gian sau hết (Les
Evangiles au feu de la critique", Bayard Editions, Centurion 1995, trang
120-121).
Như vậy thời gian viên mãn đã
đến; Đấng Cứu Thế được mong đợi đã đến. Nhưng còn phải phân định những dấu chỉ
của sự hiện diện của vương quốc, và, như vậy là, như J.Radermarkers dã viết:
chấp nhận được kể vào số những người mù được nhìn thấy, người câm điếc được
nghe, người nghèo được Phúc âm hoá (‘Au fil de l’évangile selon saint Mathieu’
trang 154). Sau cùng, Đức Giêsu nói với Gioan: "Phúc cho ai không vấp phạm
vì Ta. Nói khác đi, phúc cho ai sẽ vượt qua chướng ngại, sẽ phá vỡ cạm bẫy được
giương ra, sẽ không vấp ngã? Ngoài Gioan, một thứ phúc thật có thể được áp dụng
cho tất cả các tín hữu, cho mỗi người chúng ta.
- Sau khi các sứ giả trở về
trại giam (pháo đài) Machéronte, sang hồi thứ hai, Đức Giêsu, đối chiếu sứ vụ
của Gioan với sự vụ của mình, đã khen ngợi Gioan Tẩy giả. Nếu những nhân chứng tuốn
về phía con người của sa mạc.
· Không phải là đến để xem "cây sậy phất phơ trước
gió" trên bờ sông Giođan, một con người nhu nhược ngả nghiêng trước gió:
can đảm trong việc giảng thuyết, Gioan đã tỏ ra không nao núng trong nghịch
cảnh và cơn bách hại.
· Cũng không phải là để đi xem. "một người mặc y
phục sang trọng", một nhân vật trần thế: nhà khổ hạnh của sa mạc mặc y
phục của tiên tri Êlia, vị tiên tri được mong đợi trong thời sau hết, kẻ phải
đến trước Đấng Cứu Thế;
· Chính là để đi đến với "một vị tiên tri", và
Đức Giêsu khẳng định: "còn hơn một vị tiên tri nữa": ông là "vị
sứ giả" cuối cùng, được tiên tri Malachia loan báo (3,1), "kẻ dọn
đường", Đấng tiền hô. Theo nghĩa đó, ông là vi tiên tri lớn nhất trong các
tiên tri, bởi vì ở nơi ông, tất cả sự trông đợi được diễn tả qua truyền thống
các tiên tri đã đạt đến đích điểm: Đức Giêsu long trọng tuyên bố: "Giữa
con cái loài người, không ai lớn hơn Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, ngay lập tức
Ngài nói thêm một cách ngược đời: "người nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn
hơn ông ta". Cl. Tassin diễn giải: "Theo lịch sử nhân loại, không có
ai lớn hơn ông. Thế nhưng, người bé nhỏ nhất, trong các Kitô hữu lại vượt qua
ông trong phẩm cách, với tư cách là thành viên của một vương quốc đảo ngược
những tiêu chuẩn nhân loại và ưu đãi những người bé mọn" (“L'evangile de
Matthieu, Centurion, trang l22).
BÀI ĐỌC THÊM
1.”Những dấu chỉ của sự hiện diện nước
Thiên Chúa không có ly kỳ"
Người ta chờ đợi một người
làm sáng tỏ công lý không biết thương xót và ở đây lại là một vị chuyên chữa
thân xác, một lương y của các tâm hồn. Người ta đã loan báo sự báo oán của
Thiên Chúa, thế mà ở đây lại là lòng thương xót được trao ban với sự dịu hiền và
khiêm nhường. Một nhà giải phóng kỳ lạ và rất khác biệt với dung mạo được tiên
báo!... "ông có phải là Đấng phải đến hay là chúng tôi còn phải đợi một
người khác. Đấng tiền hô sẽ thoả mãn với những dấu chỉ và bằng chứng. Thế nhưng
ở đây, không phải là vinh quang rực rỡ, cũng không phải là sự báo oán thẳng
tay. Cũng không là một lời giải đáp cho những hy vọng chính trị, tôn giáo, ái
quốc của một số đông. Đấng Cứu Thế đang ở đó sự giải phóng đã bắt đầu. Nước
Thiên Chúa đã khai mào. Một cách khác. Bất thình lình. Không ngờ. Đức Kitô thực
sự không đáp ứng dễ dàng những tiêu chuẩn tự nhiên, những cái nhìn quá chật hẹp
và quá khô cứng bởi những lợi lộc vật chất trần tục của chúng ta. Nếu Gioan đã
có thể hồ nghi, điều này cũng dễ hiểu, thì những người khác đã hiểu ngay tức
khắc, dù Thiên Chúa thinh lặng: những người được chữa lành, những người được
thanh tẩy, những người được biến đổi và đám đông những người nghèo hèn này sau
cùng được nhìn với sự yêu thương, được xem như là những con người được hoàn
toàn ưu ái, con cái của vương quốc, những người thừa kế thực sự. Có thể là họ
không biết tất cả những sắc thái của các lời tiên tri, không biết đến cả ngàn
thứ quy định của Lề Luật, dù là thuộc về giáo thuyết phụng vụ hay luân lý. Họ
không có kiến thức khoa học, không quyền bính, không tiền bạc và không cả sự
kính trọng. Phúc cho "những con người bé nhỏ này", nghèo túng rất
nhiều thứ, nhưng lại giàu sự hiểu biết của con tim. Họ hiểu biết mà không xét
nét, và đã trở nên bằng chứng sống động của sự thâm nhập của một thế giới khác.
Những nhân chứng đầu tiên còn lớn hơn cả Đấng tiền hô nữa.
Những dấu chỉ sự hiện diện
của Nước Thiên Chúa và của Đấng Cứu Tinh không cố gì là ly kỳ cả. Trái lại, kín
đáo và ẩn giấu trong khối bột của đời sống thường ngày, chúng dễ dàng lướt qua,
không ai để ý. Những bằng chứng về tính đích thực không bị đông cứng lại trong
những tuyên bố những nguyên tắc, những đe doạ và những vạ tuyệt thông ầm ĩ,
cũng không có trong sự rõ ràng của những tín điều được công bố. Chính Đức Giêsu
từ chối trả lời cho đấng tiền hô qua việc giới thiệu những danh hiệu của Ngài,
cho những thái độ khiêu khích gây kinh ngạc, đụng chạm và chia rẽ của Ngài.
Những bằng chứng ư? Những cử chỉ yêu thương và tha thứ, bằng chứng của một tinh
thần rộng mở và luôn luôn niềm nở, một trái tim không biên giới, một sự hoàn
toàn kính trọng tất cả mọi người, một sự say mê chân lý và công bình, một sự
trung thành không ngừng bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa và của con người.
Thiên Chúa và con người không thể tách rời nhau.
2. “Mở mắt mở tai… tâm hồn”
Tìm kiếm sự phi thường, kỳ
diệu luôn luôn là một cám dỗ; còn tế nhị hơn nữa, tìm kiếm sự thành công, sự
kính trọng, lòng khao khát lôi cuốn sự chú ý, thủ đắc uy tín xã hội cho chúng
ta hay cho Giáo Hội. Chúng ta muốn gây một ấn tượng tốt, nếu có thể gây nên cảm
giác, muốn giới thiệu nhưng dấu chỉ như là những thư giới thiệu. Thế nhưng,
những dấu chỉ đích thực của Đấng Thiên Sai lại chiếu cố đến những người bé mọn,
những người bệnh tật, nhưng người nghèo. Vì thế, dấu chỉ của ơn cứu độ thường
được giấu kín, không hiểu thấu được. Để có thể thấy được, phải tìm kiếm, phải
chú ý, lắng nghe và nhìn xem: "Hãy đi báo cho Gioan những gì các ông nghe
và thấy”. Đang ở trong tù, Gioan vẫn theo dõi những gì người ta nói về Đức
Giêsu: ông sai các môn đệ đến với Đức Giêsu để phỏng vấn Ngài: Cũng phải mở
rộng con tim để hiểu: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Chính những dấu chỉ
phải đương đầu với sự mâu thuẫn. Quả thật người ta có thể bỏ qua, quả thật
người ta có thể thấy chúng "không có gì đáng kể", hay người ta có thể
lầm lạc khi tìm kiếm những việc phi thường. Để nhận ra Đức Kitô, phải mở mắt,
mở tai... và mở con tim nữa.
3. “Phép lạ, dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên
Chúa cho con người"
"Không được cô lập phép
lạ ra khỏi toàn bộ Phúc âm. Đó là phần chính yếu của sứ mạng Đức Giêsu. Có
nghĩa là, ơn cứu độ do Đức Giêsu đem đến không phải chỉ là Tin Mừng suông, một
sự hiểu biết giúp thoát khỏi sự tối tăm ngu dốt, và chuyền thông một kiến thức
mới về Thiên Chúa; nhưng đó cũng là một sự giải phóng thân xác, một sự khôi phục
toàn diện cho những người què quặt cho những người sống bên lề, cho những người
bị đánh mất chính mình (bị ám ảnh bởi một người khác), cho những ngườibị loại
trừ ra khỏi xã hội. Phép lạ tượng trưng cho một chương trình cứu độ, chịu trách
nhiệm về những thực tại thân xác, vật lý, thiêng liêng và xã hội của con người.
Phép lạ luôn luôn xuất hiện như một sự phản kháng, chống lại một trạng thái nào
đó của những sự vật một sự từ chối chống lại tai ương, dù là sinh vật học,
thiên nhiên hay xã hội. Người có ơn đoàn sủng là người vượt qua những ranh giới
và giúp cho người khác vượt qua những ranh giới đó. Có thể chúng ta chạm ngón
tay vào một nét lớn của phép lạ, là phải nắm giừ lại khi chúng ta tự hỏi về
tính thời sự của phép lạ. Ngày nay, chúng ta ít thấy những phép lạ thuộc loại
sinh vật học; tuy nhiên, phải tự hỏi về những vươn lên, những vượt qua các giới
hạn mà chúng ta được mời gọi. Phép lạ giả thuyết hai người nghèo túng: người
thứ nhất là Đức Giêsu, "Ngài là Đấng vốn giàu có đã tự trở nên nghèo hèn
vì anh em" (2Cr 8,9). Người thứ hai là người đón nhận dấu chỉ của Đức
Giêsu, là người khốn quẫn đến nỗi đã để cho sức mạnh của Đức Giêsu hành động
trên chính mình và qua chính mình".
9. Đấng phải đến
Ngài có phải là Đấng sẽ đến.
Câu hỏi của Gioan làm cho chúng ta ngạc nhiên và phân vân hay là chính Gioan
cũng nghi ngờ không biết Đức Kitô có phải là Đấng Thiên sai hay không? Chắc hẳn
không phải là như vậy, chúng ta hãy nhìn vào con người và cuộc đời của Gioan sẽ
rõ.
Ngày sinh của ngài đầy những
việc lạ lùng nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Cuộc sống nơi hoang
địa đầy những khắc khổ mặc áo da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Người ta
đến để nghe Gioan, thì ông đã không đem lại một sự khen ngợi ủi an, lời lẽ của
ông thì ngăn đe và cảnh cáo: Hỡi nòi rắn độc. Cái rìu đã đặt dưới gốc, cây nào
không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Ông đã miễn cưỡng ban phép
rửa cho Chúa Giêsu vì ông nghĩ rằng mình không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài.
Ông đã giới thiệu Đức Kitô là con chiên Thiên Chúa sẽ xóa bỏ tội lỗi trần gian.
Qua những sự kiện ấy, nếu ông
nghi ngờ Đức Kitô thì đó là điều không thể nào chấp nhận được. Ông đã được Chúa
Giêsu khen ngợi là người cao trọng nhất trong số những con cái của người nữ
sinh ra. Chẳng lẽ ông lại là một kẻ đa nghi và thiếu lòng tin tưởng? Sự thật là
như thế này: Gioan có một lòng tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu, nhưng còn các
môn đệ của ông thì chưa được xác tín cho lắm, vì thế ông muốn soi dẫn và tạo
hoàn cảnh để họ nhìn rõ, nghe kỹ và tự nhận ra Ngài là Đấng Thiên sai đã được
tiên báo từ hàng trăm năm về trước.
Đức Kitô đã hiểu được ý nghĩ
thâm sâu của Gioan và Ngài muốn tế nhị chứng thực điều đó. Tiên vàn Ngài đã
chữa lành các bệnh tật trước sự quan sát của những người được sai đến, rồi Ngài
nói với họ: Các ngươi hãy đi thuật lại cho Gioan biết những điều đã nghe và đã
thấy: người mù được xem, kẻ què được đi, người phong hủi được lành sạch, kẻ
điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được rao giảng cho những người
nghèo khó.
Đó chính là dấu chỉ của vị
Thiên Sai mà các tiên tri, nhất là Isaia đã đề cập đến. Thực vậy, Ngài đã làm
các phép lạ, để biểu lộ quyền năng và sứ mạng của Ngài xuất phát từ Thiên Chúa.
Từ trước đến nay chưa một ai có thể chữa lành bệnh cùi và cho người chết sống
lại. Hơn thế nữa, tiên tri Isaia cũng bảo Tin Mừng được rao giảng cho người
nghèo khó, Đức Kitô đã giảng dạy cho mọi người không trừ một ai, từ những người
giàu sang quyền thế, đến những kẻ túng cực và bất hạnh, Ngài đã đặc biệt lưu ý
tới hạng người thứ hai này, vì nhiều lần Ngài đã phán: Tất cả những gì các con
làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho Ta.
Ngài đã hướng dẫn dân chúng
tới những chân lý cao siêu bằng những ngôn từ đơn sơ, rõ ràng, bằng những hình
ảnh sống động và cụ thể… Chính nhờ đó mà các môn đệ của Chúa không còn nghi ngờ
gì nữa. Con người này, Đức Kitô thành Nagiarét chính là Đấng Cứu Thế thiên hạ
đợi trông. Khi các người được Gioan sai đến đã trở về. Chúa Giêsu nói với dân
chúng: Các ngươi vào sa mạc để làm gì? Để tìm gặp một vị tiên tri.
Vị tiên tri ấy chính là
Gioan, ông đã can đảm nói lên sự thật, đã trình bày cho mỗi người biết bổn phận
của mình, và bây giờ ông đang bị tù tội. Ông còn cao trọng hơn một vị tiên tri
nữa vì Kinh Thánh đã nói về ông. Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con để dọn
đường cho con. Gioan chính là người đã được Chúa sai đi dọn đường trực tiếp cho
Đấng Cứu Thế. Ông được đặc ân chiêm ngưỡng Chúa và giới thiệu Chúa cho mọi
người. Hãy lắng nghe và thi hành sứ điệp mà Gioan gửi đến, để nhờ đó chúng ta
cũng nhận biết Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
10. Phi thường
Tể tướng lưng gù là một câu
chuyện huyền thoại về một vị tể tướng có hình thể dị dạng bị gù lưng, nhưng rất
anh minh trong việc trị nước.
Chuyện xảy ra vào đời nhà
Thanh: Lưu Dung là con của một thầy giáo, sở học và thú đánh cờ đều giỏi như
nhau. Tiểu thư Hà là con gái của vị tể tướng trong triều vừa xinh đẹp, vừa cao
thủ cờ tướng, được rất nhiều người yêu mến, trong đó có cả nhà vua. Tiểu thư lá
ngọc cành vàng ấy chỉ lấy làm chồng người nào vô địch trong cuộc tỉ thí cờ do
cô mở ra. Đúng lúc Lưu Dung về kinh thi trạng nguyên và chàng đã lấy được người
đẹp. Sau đó lại thi đỗ trạng nguyên, được làm tể tướng.
Tuy hình thù dị dạng nhưng tể
tướng họ Lưu là một người coi trọng công bằng và chính nghĩa. Ông đã lật tẩy
nhiều thói hư tật xấu của bọn tham quan, hương lý. Ông trở thành vị cứu tinh
của dân nghèo, những người bị hà hiếp và bị đàn áp. Tuy ở địa vị tể tướng nhưng
ông lại dùng mưu lược nhiều hơn là vũ lực để đối nhân xử thế, nên ông được dân
chúng đặt trọn niềm tin.
Tin Mừng giới thiệu cho chúng
ta một Gioan Tẩy giả có cuộc sống rất dị thường nhưng lại làm được những việc
phi thường: Ông chỉ mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng. Con người
khổ hạnh ấy lại kiên quyết ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy chị dâu là nàng
Hêrôđia làm vợ. Chính vì lòng can đảm thi hành vai trò ngôn sứ ấy, mà ông đã bị
bạo chúa Hêrôđê bắt giam trong tù.
Hôm nay, từ chốn lao tù ông
đã sai các môn đệ của mình còn ngờ vực về sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu, để
hỏi Người rằng: “Thầy có đúng là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng
nào khác?” (Mt 11,3). Đức Giêsu không muốn chứng minh sứ mạng của mình bằng lời
nói, nhưng Người đã trả lời bằng việc làm, mà chính việc làm này đã ứng nghiệm
lời tiên tri Isaia nói về Đấng Thiên Sai: “Người mù được thấy, kẻ què được đi,
người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được
loan báo Tin Mừng”.
Đây chính là một cuộc hành
trình đức tin của Gioan, của các môn đệ ông, và cũng là của mỗi người chúng ta.
Con đường đến với đức tin không phải là con đường tơ lụa, mà là con đường đau
khổ. Con đường ấy đi từ vùng tối tăm tới miền ánh sáng, từ dấu chỉ hữu hình đến
thực tại vô hình, từ các phép lạ đến quyền năng siêu việt của Thiên Chúa, nơi
Đức Giêsu. Con đường không dẫn người ta đến Rôma vinh hiển, Athêna thông thái,
Babylon kiều diễm, hay Giêrusalem thành thánh… Nhưng đưa họ đến một góc nhỏ của
thôn nghèo Nadarét, để thấy một con người khiêm hạ, một cuộc đời ẩn dật, một
trái tim yêu thương, và một cái chết ô nhục trên thập giá: “Phúc cho ai không
vấp ngã vì Ta”.
Trước dáng vẻ bề ngoài xem ra
tầm thường đó, có một con người không những chẳng hề vấp phạm; trái lại, can
đảm bất khuất đóng xuất sắc vai trò tiền hô cho Người: “Chính ông là người Kinh
Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con,
người sẽ dọn đường cho Con đến” (Mt 11,10). Đó chính là Gioan Tẩy Giả, người
được Đức Giêsu khen ngợi: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ chưa từng có ai
cao trọng hơn ông” (Mt 11,11a).
Ông cao trọng vì ông là ngôn
sứ chuẩn bị gần nhất cho Tân Ước, vì ông đã được nhìn thấy Đấng Cứu Thế và tin
vào các việc Người làm, và nhất là vì ông mang một sứ mạng cao cả. Tuy nhiên,
Gioan vẫn còn ở bên bờ của Cựu Ước, nên Đức Giêsu mới nói tiếp: “Kẻ nhỏ nhất
trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11b). Đây chính là một niềm vinh
hạnh cho chúng ta, những người sống trong thời Tân Ước, vì Cựu ước chỉ là thời
chuẩn bị, còn Tân Ước mới là lúc ban ơn cứu độ.
Được may mắn sống trong thời
cứu độ của Tân Ước cũng có nghĩa là chúng ta đang mang trên vai sứ mạng cứu
rỗi.
Nếu Đấng Cứu Thế đã đến với
chúng ta trước để cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không tận tình cứu giúp
anh em.
Nếu Đấng Cứu Thế đã muốn xây
dựng thế giới này thành một cộng đoàn yêu thương, lẽ nào chúng ta lại sống
trong hận thù ganh ghét.
Nếu Đấng Cứu Thế đã luôn ở
với chúng ta mặc dù chúng ta không luôn luôn sống với Người, lẽ nào chúng ta
lại không sống thuận hòa với nhau.
Sống Mùa Vọng có nghĩa là
trong trí ta phải thấy một rừng lửa rực cháy yêu thương, và trong tim ta phải
vang lên một tiếng gọi lên đường.
11. Một đức tin luôn luôn đứng vững
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày
Chúa Nhật’)
Gioan Tẩy Giả biết mình là sứ
giả đi trước Đấng Cứu Thế và vào thời ngài còn làm phép rửa tự do trong giòng
sông Giorđanô, ngài đã tuyên bố Đức Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa. Nay ở trong
tù dường như ngài có một thoáng hồ nghi. Ngài biết số phận mình lệ thuộc ở lòng
thù hiềm của một người đàn bà muốn ngài phải chết. Có thể là ngài bị cám dỗ ngã
lòng, trong đêm lâm nạn. Điều đó càng dễ hiểu, vì các môn đệ ngài còn bối rối
hơn ngài nữa. Những giờ phút trong sáng khi ngài và Chúa Giêsu gặp nhau bên
giòng sông Giorđanô, bây giờ dường như đã chìm sâu trong đêm đen của cơn thử
thách. Cần phải hỏi Chúa Giêsu. Chúa trả lời bằng cách trích dẫn tiên tri Isaia
về những người bệnh tật được chữa lành. Chúa Giêsu biết ý nghĩa mà Gioan sẽ gán
cho dấu hiệu đó; và Chúa chắc vị Tiền Hô sẽ được an ủi. Nhưng rồi Chúa Giêsu
nói lên hai câu khiến ta phải suy nghĩ:
1) “Phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta!”
Người ta có thể vì Đức Kitô
mà vấp ngã được không? Đức Kitô có thể làm cớ cho ai vấp ngã chăng? Vấp ngã nói
đây là thứ nào? Đối với Gioan Tẩy Giả, hiểm họa vấp ngã là hiểm họa hết tin vào
Chúa Giêsu. Sự vấp ngã trước cơn thử thách của đức tin, trước những khó khăn
làm sao kiên trì được trong đức tin khi mà ta sống trong một hoàn cảnh đau đớn
cùng cực dường như bị Chúa bỏ quên, sự vấp ngã đó chính là một mối nguy mà Chúa
nhắc tới. Và Chúa nói rằng hạnh phúc cho kẻ nào vượt qua khỏi mối nguy ấy.
Thánh Gioan ở trong một hoàn cảnh nhục nhã và phi lý khiến mạng sống ngài bị đe
dọa. Vì thế con người tự nhiên trong Gioan thắc mắc. Câu nói của Chúa Giêsu
cũng có nghĩa là: Phúc cho Gioan vì đã không hết tin. Nhưng lời của Người cũng
nhắn nhủ chính chúng ta nữa. Hạnh phúc cho ta nếu trên đường thử thách gian
truân, đức tin ta luôn vẫn đứng vững. Như Gioan, chúng ta cần chạy tới Chúa
Giêsu, truy vấn Người. Ở đâu? Thưa trong Hội Thánh Người, trong cuộc gặp gỡ
thân mật của lời cầu nguyện và các bí tích, nhất là Thánh Thể.
2) “Người nhỏ hơn trong Nước Trời lại lớn hơn ông”
Chúa nói như thế về Gioan sau
khi tuyên bố rằng trong những kẻ bởi người nữ sinh ra chẳng ai lớn hơn Gioan.
Câu nói của Đức Kitô cho biết rằng vai trò của Gioan nằm ở bình diện của lời
hứa và công cuộc chuẩn bị. Trên bình diện ấy không ai hơn Gioan. Nhưng khi Nước
Trời bắt đầu được thực hiện, sau công cuộc cứu độ, thì kẻ nhỏ nhất giữa đám tín
dân cũng vượt quá vị tiên tri lớn nhất, xét về lợi lộc ân sủng. Ta có thể rút
ra bài học cho hoạt động tông đồ của ta. Hoạt động tông đồ bao gồm khía cạnh
chuẩn bị con người gặp gỡ Đức Kitô. Trên bình diện chuẩn bị này, người ta có
thể hoạt động một cách hết sức đắc lực, nhưng hoạt động cần phải tổ chức thế
nào để kết thúc nơi Đức Kitô. Hành vi đức tin vào Đức Kitô, dù nhỏ nhất, miễn
là đích thật, vẫn đem lại giá trị thật cho tất cả những gì đã chuẩn bị nó.
12. Mùa Vọng của đức tin
Gioan Tẩy Giả là nhân vật nổi
bật của Mùa Vọng. Ông thể hiện tính cách rất khớp với Mùa Vọng của chúng ta.
Đời sống chúng ta há không phải là một Mùa Vọng đó sao – Mùa Vọng của đức tin,
của niềm mong đợi, của lòng kiên nhẫn và của nỗi khắc khoải về điều mình chưa
nhìn thấy? Đời Kitô hữu dựa trên cái gì nếu không phải là dựa trên cái mà mình
tin và hy vọng? Làm Kitô hữu đích thực là chấp nhận sự điên rồ của Thiên Chúa
để dám liều mất con chim trong tay mình hôm nay nhằm có thể bắt được hai con
chim khác trong bụi rậm trên trời.
Làm Kitô hữu đích thực là dám hy sinh những mối lợi tiền bạc, những khoái lạc
thân xác; là không khư khư cố bám các quyền lợi của mình, vì Nước Trời. Nước
Trời ấy, hỡi ôi, chưa từng mắt nào nhìn thấy được.
Gioan Tẩy Giả của bài Tin
Mừng hôm nay thuộc về một Mùa Vọng như thế: Mùa Vọng của nỗi mong chờ điều vẫn
còn đang đến. Ông quả là mẫu người mà chúng ta phải trở nên trong Mùa Vọng suốt
đời người. Con người ấy đã bị bỏ tù. Con người ấy đã điên rồ đến nỗi dám nói
lên “sự thật mất lòng” ngay cả với nhà vua. Có ai hành động khờ khạo về chính
trị như thế không? Ông ngồi đó, trong bóng tối ngục tù. Thật đáng đời ông.
Không ai cứu ông ra. Các bạn hữu ông không phát động một cuộc cách mạng. Họ làm
gì có khả năng đó. Họ chỉ thao thức với thần học và hoàn toàn ngu ngơ trong đời
sống thực tiễn - hay ít ra là có vẻ như thế.
Và cả Thiên Chúa nữa, cũng bỏ
mặc vị ngôn sứ rao giảng sám hối của Người. Cả Thiên Chúa cũng dường như đứng
về phía thế lực hùng mạnh của nhà vua. Thiên Chúa đang thực hiện các phép lạ
nơi Con của Người. Nhưng, bi kịch hay hài kịch đây, khi mà những phép lạ ấy chỉ
cứu chữa có vài kẻ bất hạnh xem ra chẳng giữ tầm quan trọng nào đối với Nước
Thiên Chúa. Những phép lạ ấy đã không giải thoát vị ngôn sứ thánh – là người có
liên hệ máu huyết và là vị sứ giả mở đường chính thức cho Đấng đang thực hiện
các phép lạ ấy. Gioan vẫn bị giam cầm trong ngục tối cho đến ngày bị chém đầu!
Đối với một ngôn sứ, thật
không gì khó chịu cho bằng phải ngồi trong tù chờ chết, bị xem là hết thời,
song lại phải quan tâm đến những phép lạ chẳng chút ích lợi gì cho mình.
Nhưng Gioan không phải là một
cây sậy ngả nghiêng trước gió. Ông vẫn tin, bất chấp mọi sự. Ông là sứ giả dọn
đường cho Chúa, trước hết bằng chính đời sống và tâm hồn ông. Ông dọn đường cho
Chúa, Đấng chần chừ mãi một cách bất nhẫn trước khi đến, và Người thậm chí
chẳng tỏ vẻ hối hả gì khi vị ngôn sứ của Người đang lâm nạn: Vị Thiên Chúa
dường như bao giờ cũng chỉ nghĩ đến khi đã quá muộn màng! Song Gioan Tẩy Giả
biết rằng Thiên Chúa luôn luôn có lý của Người, rằng Người chiến thắng bằng
cách nhận chịu thất bại, rằng Người sống và thông ban sự sống bằng cách trao
nộp mình chịu chết, rằng Người là tương lai đích thực cuối cùng của mọi thứ
tương lai.
Tắt một lời, Gioan Tẩy Giả
chỉ biết tin và tin. Và điều đó đối với ông thật không dễ. Lòng ông đắng cay và
bầu trời thì mù mịt. Nỗi khắc khoải cào cứa trong ông: “Có phải Người là Đấng phải đến?”. Có phải là chuyện tình cờ, khi
câu hỏi ấy được đặt ra với đúng đối tượng – tức vị Thiên Chúa làm người. Trong
cầu nguyện, người ta có thể trang trải ngay cả một cõi lòng đầy xao động với
Thiên Chúa, một cõi lòng mà trong thực tiễn chẳng còn điểm tựa và cũng không
biết nghị lực mình sẽ còn cầm cự được bao lâu. Bao lâu một tâm hồn còn là một
tâm hồn cầu nguyện, bấy lâu tâm hồn ấy vẫn còn đức tin và sẽ nhận được một câu
trả lời thỏa đáng: “Hãy đi và nói với
Gioan những gì các anh xem thấy… và phúc cho kẻ không đối đầu với Ta”.
Gioan đã nhận được tiếng trả lời của Chúa dẫu là ông đang ngồi trong ngục tối!
Cả cuộc đời chúng ta là một
Mùa Vọng, vì Kitô hữu là những người mong đợi một Đấng sẽ đến. Và chỉ khi Đấng
ấy đến, chúng ta mới được chứng minh là đúng đắn. Bao lâu còn phải đợi trông,
bấy lâu ta còn thấy dường như thế gian mới đúng. Thế gian sẽ vui cười, còn anh
em sẽ khóc lóc. Thầy Chí Thánh đã từng nói thế. Chúng ta cũng đang ngồi trong
một ngục tù, ngục tù của sự chết, của những câu hỏi còn bỏ ngỏ, của sự yếu đuối
nơi mình, của tính ích kỷ hẹp hòi của mình, của những cam go và những bi kịch
trong cuộc sống.
Nhưng mỗi ngày, bằng đức tin
và lời cầu nguyện của mình, chúng ta sẽ gửi các sứ giả của chúng ta đến với
Đấng sẽ đến xét xử người sống và kẻ chết. Và các sứ giả Mùa Vọng này sẽ trở lại
với câu trả lời: “Ta đang đến đây, phúc
cho kẻ không đối đầu với Ta”.
13. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà
Lạt
CÂU HỎI CỦA GIOAN TẨY GIẢ.
CHỨNG TỪ CỦA CHÚA GIÊSU
Câu hỏi gợi ý
1)
Làm sao giải
thích câu hỏi của Gioan (11, 2-3)? Gioan đã nghe biết các "việc" gì
của Chúa Kitô (11,2)? Phải chăng ông nghi ngờ, và nghi ngờ về điểm nào? Chúa
Giêsu đã đưa ra lý chứng ngôn sứ nào để trả lời ông (11, 4-6)?
2)
Câu hỏi của Gioan
(11,3) được đặt trong thế giới chúng ta và trong Giáo Hội hiện nay như thế nào?
3)
Chúa Giêsu đặt
Gioan Tẩy Giả trong tương quan thế nào với mình (11,7-15)? Sứ vụ của Gioan Tẩy
Giả liên tục hay đứt đoạn với trào lưu ngôn sứ của Cựu Ước? Sự cao cả của Gioan
nằm ở chỗ nào (c. 11)?
*******
1) Các cộng đoàn Kitô hữu đầu
tiên, vào thời Mt, đã gặp nhiều lôi thôi với đồ đệ của Gioan Tẩy Giả (x. Cv
19,1-7 chẳng hạn), với "người phái Gioan", những kẻ cứ mải lặp lại
câu hỏi của thầy họ: Đấng Thiên Sai mà thầy loan báo có đúng là Chúa Giêsu không?
Vấn đề thành ra còn mang tính cách thời sự khi Mt viết Tin Mừng, cũng như đối
với chúng ta ngày nay: Phải chăng chúng ta không là người phái Gioan một cách
nào đó khi còn mong chờ một Đấng Thiên Sai hùng mạnh khác đến thay đổi thế giới
và canh tân mọi cơ cấu, khi chẳng dám tin rằng Chúa Giêsu thật sự đã hoàn tất
mọi sự cho chúng ta? Và như vậy là Chúa Giêsu đã bị đặt lại vấn đề, vừa do câu
hỏi của Gioan, vừa do thắc mắc của người đời, xưa cũng như nay.
2) Chẳng có người nào được
Chúa Giêsu đề cập đến cách tỉ mỉ hơn Gioan Tẩy Giả. Một diễn từ rất sôi nổi,
với những câu hỏi ngắn móc nối nhau, tất cả đều cho thấy Gioan là một đại ngôn
sứ. Những điều Chúa Giêsu nói không chỉ mặc khải ý nghĩa vai trò của Gioan Tẩy
Giả trong diễn tiến lịch sử cứu rỗi, mà còn cho thấy Gioan đã gây ấn tượng sâu
xa cho Người đến chừng nào.
3) Câu hỏi mà vị Tẩy Giả nhờ
môn đồ đặt ra là một câu hỏi đích thực, trang nghiêm. Mt chứng minh điều đó
bằng cách cho biết Gioan hiện bị cầm tù, sống xa cách mọi người trong chốn lao
lung. Ông đã nghe nói về các việc Chúa Giêsu làm, nhưng không tài nào giải
thích được. Phải chăng ông đã chờ đợi những "việc" thuộc loại khác,
như một phong trào quần chúng bột phát, một cuộc phán xét công thẳng trên các
kẻ thù của Thiên Chúa chẳng hạn? Thế nhưng cuộc phán xét đầy sóng gió mà chính
Gioan đã cảm thấy được vài dấu hiệu đầu tiên (khi Chúa Giêsu chịu phép rửa) lại
đã chẳng xảy đến.
Chúa Giêsu không trả lời trực
tiếp không làm chứng về mình. Tuy nhiên, Người đã có thể đáp lại bằng một tiếng
"phải" rõ ràng, đánh tan mọi nghi ngờ, như khi đứng trước vị thượng
tế sau này. Song ở đây, Người tránh làm vậy, đồng thời lại chỉ cho Gioan con
đường phải theo, con đường của mọi môn đồ: đó là biết nhìn các dấu hiệu và biết
giải thích, biết nhận ra chúng như là "công việc" của Đấng Thiên Sai.
Đấy là con đường của đức tin, khởi hành từ những hậu quả hữu hình để đi đến chỗ
khám phá Chúa Giêsu. Đó là con đường đi từ tối tăm đến ánh sáng, từ dấu chỉ đến
thực tại.
Nếu biết nhìn các công việc
của Chúa Giêsu, nhất là nếu có khả năng liên kết chúng, ta sẽ chẳng chút nghi
ngờ. Chính Chúa Giêsu đã chỉ con đường đức tin bằng một câu tuyên bố lấy lại
một đoạn ngôn sứ Isaia: "Người mù được thấy” (Is 35, 5-6; 61,1). Thần Khí
xức dầu cho Đấng Được Chọn đã ban cho Người khả năng thực hiện mọi kỳ công đó.
Nhưng ta không được dừng lại nơi một trong các việc ấy, chỉ nhìn phép lạ này mà
không thấy phép lạ kia, chỉ lắng nghe lời nói mà chẳng quan tâm đến việc làm.
Không, tất cả đều bộc lộ khuôn mặt đích thực của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu
không chỉ là một nhà giảng thuyết lôi cuốn được quần chúng hay một tay chuyên
làm phép lạ. Người đã chẳng chữa lành như một y sĩ mà thôi, song còn phục sinh
được kẻ chết. Chính loàn thể công việc mới cho phép ta quyết đoán chắc chắn
Người là Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa đang hiện diện và hành động, Đấng mà
Isaia đã từng loan báo.
4) Mới thoạt nghe, câu trả
lời của Chúa Giêsu làm ta thất vọng, vì hình như nó chẳng trực tiếp mặc khải
con người của Người. Thật ra nó bắt Gioan nhìn vào chính Chúa Giêsu: "Phúc
cho người không phải vấp ngã vì Ta" (11,6) vì đã mách cho vị Tẩy giả biết
một "chân phúc" mà ông sẽ khám phá ra ý nghĩa qua chính cuộc đời của
ông. Tin rằng các dấu hiệu thiên sai vừa được nhắc lại cho ông (11, 5) đã thật
sự được hoàn tất trong con người tầm thường, khiêm tốn của Chúa Giêsu, điều đó
đòi hỏi một sự từ bỏ bản thân hoàn toàn, từ bỏ cho đến chết. Và đấy là điều mà
Gioan thấy mình đang được kêu mời thực hiện.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bấy giờ Gioan, đang ở trong tù...
": Gioan đã chẳng sợ phê bình
hạnh kiểm của Hêrôđê Antipas, kẻ đang sống với chị dâu. Để khóa miệng ông, vị
tiểu vương đã giam ông trong pháo lũy Makêron (lời chứng của F.Josèphe, Ant.
Jud. XVIII, 5,2) nằm trên bờ đông Từ Hải. Tuy nhiên nhà vua vẫn đối xử tử tế
với tù nhân và cho phép ông gặp môn đồ. Chính Gioan đã nhờ họ đi hỏi Chúa Giêsu.
"Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay
không?": Khi nghe câu hỏi
ấy, độc giả Tin Mừng không thể không nhớ lại lời Gioan đã nói về Chúa Giêsu: "Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn
tôi" (3, 11). Câu nói này là âm vang của Is 40, sấm ngôn mà Gioan cho
là lời định nghĩa về sứ mạng riêng của mình: "Tiếng của người hô trong sa
mạc: Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa cho thẳng lối Thiên Chúa ta" (Is 40,
3; x. Mt 3, 3); phần tiếp trong sấm ngôn ấy có loan báo: "Này đây Chúa đến
với uy hùng dũng lực và cánh tay Ngài sẽ thống trị" (c.10). Như thế sức
mạnh là đặc điểm của "Đấng sẽ
đến".
Về tính chất của sức mạnh sắp
biểu dương ấy, Gioan đã có những ý tưởng rất chính xác. Trước tiên ông so sánh
nó với sức mạnh của người nông phu cầm rìu đốn ngã thân cây không sinh trái và
ném vào lửa (3, 10). Ông cũng minh giải nó bằng hình ảnh người nông phu quét
sạch sân lúa, thiêu đốt những gì không phải là giống tốt (c.12). Gioan kêu mời
các tội nhân hối cải và ban cho họ phép rửa tha tội, mà họ phải mau mấn chịu
lấy trước khi xuất hiện Đấng sẽ làm phép rửa bằng Thần Khí và lửa, một phép rửa
hủy diệt (c. 11). Nói cách khác, Gioan thấy "Đấng sẽ đến" như là một
Thẩm phán đáng sợ lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu trừ mọi tội nhân không ăn năn
hối cải.
Ta cũng đi đến một kết luận
như vậy khi khởi từ Ml 3, 1, một bản văn cũng được dùng để định nghĩa sứ mệnh
Gioan (x Mt 11, 10): "Này Ta sai sứ giả Ta, và nó sẽ dọn đường trước mặt
Ta". Tiếp theo sứ giả, Chúa sẽ thân hành đến: “Ai chịu đựng nổi ngày Người
đến? Ai đứng vững được khi Người hiện ra? Vì người đến như lửa của thợ luyện
kim, như thuốc tẩy của người giặt ủi người sẽ ngự mà luyện kim, mà lọc bạc;
Người sẽ thanh luyện con cái Lêvi..." (Ml 3, 2-3). Hình ảnh có thay đổi
đấy nhưng bao giờ cũng vẫn là cuộc phán xét thanh luyện sẽ xô nhào tội nhân vào
lửa.
Vì thế Gioan tự coi mình như
có trách nhiệm chuẩn bị Israel đón chờ cuộc phán xét khủng khiếp; gương sáng và
lời nói của ông chỉ muốn đưa tội nhân hối cải và thoát khỏi hình phạt đời đời
đang đe dọa họ. Một khi "Đấng phải đến” xuất hiện, thì không còn giờ tránh
thoát sức mạnh hủy diệt của Người. Đàng khác, Gioan cũng ý thức vai trò phụ tá
của mình đối với Chúa Giêsu. Song những gì ông biết về cách thức Chúa Giêsu thi
hành sứ vụ Người hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng ông có về cuộc phán xét
sẽ phải xảy ra. Do đó mà câu hỏi của ông đầy vẻ ngạc nhiên.
Hơn nữa, có một tương quan
hiện sinh giữa câu hỏi của vị Tẩy Giả và thân phận tù đày của ông: Đấng Thiên
Sai mong chờ sẽ giải cứu những tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4, 18;
Is 61, 1); phải chăng ông không là người đầu tiên được giải cứu?
"Các ông hãy đi tin lại cho Gioan
mọi điều tai nghe mắt thấy":
Gioan biết các phép lạ Chúa Giêsu làm (c.2). Và Chúa Giêsu bảo ông hãy nhìn vào
phép lạ. Đâu là sức mạnh của lập luận? Theo quan niệm bấy giờ, dựa trên các
sách ngoại thư và truyền thống giáo sĩ Do Thái, thì ơn làm phép lạ tự nó không
phải là một trong những đặc điểm của Đấng Thiên Sai. Như thế Gioan có thể nghĩ
rằng Chúa Giêsu không đóng vai trò và nhiệm vụ Đấng ấy. Thế nhưng Chúa Giêsu
kêu mời Gioan suy nghĩ về những phép lạ đó bằng cách thu gộp chúng trong những
từ ngữ gợi lại các sấm ngôn thiên sai. Nên Người đã chu toàn ít ra là một phần
phận sự của Đấng Thiên Sai vậy.
Chúa Giêsu không phán trực
tiếp và với uy quyền: "Ta là Đấng Thiên Sai", song kêu mời Gioan hãy
cứu xét những gì mà các sứ giả của ông có thể thấy và nghe, tức là công việc và
lời nói của Chúa Giêsu: đấy là con đường duy nhất để đi tới đức tin. Thành ra
những kẻ không tin và người mù và điếc (23, 16), chẳng có khả năng giải thích
các dấu hiệu Chúa Giêsu ban ra (13, 13). Bởi vậy Chúa Giêsu có thể bảo với
những ai theo Người: “Mắt các ngươi có phúc vì thấy, tai các ngươi có phúc vì
nghe” (13, 16).
“Người
mù xem thấy...”: Câu Chúa Giêsu
trả lời không quy chiếu một bản văn nào nhất định (trừ Is 61,1) cho bằng quy
chiếu toàn bộ các lời tuyên sấm mà sách Isaia đã dùng để mô tả các việc thiện
của thời thiên sai... hơn là các hình phạt tiên báo. Gioan sẽ nhận ra lối ám
chỉ đó. Ông sẽ hiểu rằng Chúa Giêsu không chỉ muốn quả quyết Người là Đấng
Thiên Sai song còn đưa ra bằng chứng: hành động hào hiệp của Người thực hiện
những gì mà Isaia đã loan báo về thời thiên sai. Nhưng đồng thời - và đây hẳn
là cao điểm của câu trả lời – Chúa Giêsu kín đáo kêu mời Gioan quan niệm vai
trò Đấng Thiên Sai dưới một khía cạnh hơi khác khía cạnh mà ông đã lưu tâm.
Khía cạnh mới này thiếu hẳn tính chất uy hùng đến nỗi trở thành một cơ hội nghi
ngờ cũng như tin tưởng. Đấy là điều mà câu tiếp minh nhiên khẳng định.
“Phúc cho ngươi không phải vấp phạm vì
Ta”. Theo nghĩa đầu tiên,
"cớ vấp phạm" trong Hy ngữ ám chỉ việc giăng bẫy, rồi được áp dụng
cho chính cái bẫy, theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Trong bản Kinh Thánh Hy Lạp,
nghĩa của nó còn rộng hơn nữa, và được dùng để nói về bất cứ chướng ngại nào
trên đường, đặc biệt hòn đá vấp chân. Vậy “cớ
vấp phạm” là tất cả những gì có thể gây ra một sự vấp ngã, và nói theo ẩn
dụ, là nguyên nhân của một sa ngã luân lý hay tôn giáo. Trong Tin Mừng, thường
có đối ngẫu giữa "vấp phạm" và "tin": kẻ không chấp nhận tin
hoặc suy yếu đức tin sẽ phải "vấp phạm". Chúa Giêsu phát biểu cách
tổng quát: "Phúc cho người không
phải vấp phạm vì Ta". Người chẳng nhắm Gioan trực tiếp, nhưng rõ ràng
là lời ấy nhắc nhở ông vì nằm trong sứ điệp dành cho ông. Người tiên đoán câu
Người trả lời cho Gioan có thể làm ông thất vọng. Giữa quan niệm của Gioan về
Đấng Thiên Sai và quan niệm của Người, đối nghịch không phải nhỏ! Gioan có đi
đến chỗ chấp nhận được mặc khải về tình yêu bày tỏ trong khiêm cung và yếu đuối
chăng? Ta đừng ngạc nhiên về thử thách đang chờ đợi ông. Hãy nhớ lại phản ứng
của Phêrô tại Césarée Philipphê (16, 22-23) hoặc phản ứng của Giona khi Thiên
Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
“Các người đi ra sa mạc để coi cái gì?
cây sậy rung trước gió ư”. Ba
lần, Chúa Giêsu hỏi tại sao thiên hạ đi ra sa mạc? Việc chỉ nơi chốn có vẻ mơ
hồ. Nói đến sông Giođanô không rõ hơn. Nhưng việc nhắc đến sa mạc dễ gợi lên
ngay hình ảnh con người xuất hiện như “tiếng kêu trong sa mạc” (3,3). Chính
Gioan mà người ta nghĩ tới ngay từ đầu; con người của ông làm nổi bật các câu
hỏi liên hệ tới ông.
Thiên hạ không đi vào sa mạc
để nhìn xem một cây sậy phất phơ trước gió. Chắc hẳn Chúa Giêsu muốn đặt đối
nghịch cây sậy với sự kiên cố bất lay chuyển của Gioan. Đức tính này làm cho
Gioan gần giống với ngôn sứ Giêrêmia (Gr 1, 17-19), một con người bất khuất
trước mọi sự nhờ luôn ý thức sứ mệnh thần linh của mình và nhờ được sức mạnh
Thánh Thần Thiên Chúa nâng đỡ. Tính bất khuất ấy của Gioan là nơi đầu tiên nâng
ông vượt trên thiên hạ và đặc trưng sự cao cả của ông.
“Để thấy một ngôn sứ ư? Phải! Ta bảo các
người...”. Dòng dõi đứt đoạn của
các ngôn sứ (1 Mcb 9, 27; Tv 74,9) đã được nối lại với Gioan Tẩy Giả. Và xét
cho cùng, đó chính là cái lôi kéo mọi người đến với ông: Thiên Chúa lại bắt đầu
phán bằng lời ngôn sứ, như Ngài đã từng làm trong bao thế kỷ qua tất cả lịch sử
Israel. Những kẻ nghe Chúa Giêsu đều biết mọi điều ấy; lời của Người hẳn âm
vang sâu xa trong tâm hồn họ. Nhưng Người còn nói hơn thế nữa.
"Và còn hơn ngôn sứ nữa". Dân chúng đã nhận ra Gioan là một ngôn sứ; nhiều
người còn coi ông hơn cả một ngôn sứ, nghĩa là chính Đấng Thiên Sai (Lc 3, 15;
Ga 1, 20; Cv 13, 25); dĩ nhiên, ông lớn hơn một ngôn sứ, nhưng theo ý nghĩa
khác: ông là vị Tiền Hô. Đấng mà mọi ngôn sứ trước đây loan báo, thì Gioan đã
thấy và đã chỉ cho biết: ông vừa đứng ở tận điểm và cao điểm thời kỳ đoan hứa,
vừa đứng nơi ngưỡng của thời đại mới, thời đại Nước Trời.
“Kẻ nhỏ nhất trong Nước trời lại lớn hơn
ông”: Một câu khó hiểu từng phát
sinh nhiều lối giải thích khác nhau. Một số nhà chú giải, trong đó có các Giáo
phụ, cho rằng "kẻ nhỏ nhất"
là chính Chúa Giêsu. Văn mạch quả thật có trình bày Chúa Giêsu như là "bạn
của người thu thuế và tội lỗi " (c. 19), Người có được đồng hóa một cách
nào đó với các "kẻ nhỏ" ấy và nhờ vậy khác với Gioan (F.Dibelius,
F.Hanck, W.Grundmann...). Nhưng lối giải thích này vấp phải nhiều khó khăn. Khó
khăn lớn nhất là ta không thấy làm sao, mặc dầu đã cố ý tự hạ, Chúa Giêsu lại
có thể tuyên bố mình là "kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời". Thật vậy, Chúa
Giêsu không đi vào trong một Nước Trời đã được thành hình, nhưng là loan báo và
thiết lập Nước ấy trong chính con người của mình.
Đúng ra, có lẽ không nên đem
Chúa Giêsu vào mà so sánh. "Kẻ nhỏ nhất trong nước Trời" chỉ một
trong những kẻ đã chấp nhận sứ điệp của Người. Tuy nhiên cần phải lưu ý. Khó mà
cho rằng kẻ kém nhất trong họ về sự thánh thiện lại trổi vượt Gioan trong
phương diện ấy: như thế là bảo Chúa Giêsu đã phân biệt sự cao cả của sứ mệnh thần
linh (loan báo Đấng Thiên sai) và sự toàn thiện của người được trao sứ mệnh (sự
thánh thiện riêng của Gioan), một lối phân biệt chẳng phù hợp tí nào với tư
tướng Kinh Thánh: cao cả nhờ sứ mệnh được ủy thác, Gioan không thể bị xem như
thua kém người môn đồ tồi nhất của Chúa Kitô về phương diện trung thành được.
Thật ra ở đây không cố ý nói đến sự thánh thiện cá nhân, nhưng, như văn mạch
cho thấy, là nói đến hai trật tự, hai kinh nghiệm, hai thiên chức. Gioan đã
xuất hiện như một ngôn sứ cao cả vào lúc kết thúc thời gian hứa hẹn và chờ đợi,
song ông vẫn chỉ là một tiền hô; sau ông, khi Chúa Giêsu xuất hiện, là bắt đầu
thời đại cứu rỗi thiên sai mới mẻ và chung cục. Thuộc vào thời đại ấy là một số
phận may mắn, vượt xa những gì đi trước. Thành ra, kẻ trông nhỏ nhất giữa các
phần tử Nước Trời lại được cao cả hơn những ai thuộc về các thời trước vậy.
KẾT LUẬN
Tư tưởng thần học của đoạn
văn này không dừng lại nơi Gioan Tẩy Giả song còn đi xa hơn. Đi xa hơn trước
tiên bằng cách đối chọi sự cao cả trần gian với sự cao cả của Nước Trời sẽ đến.
Sau đó bằng cách cho thấy: vai trò của vị Tiền Hô được soi chiếu nhờ phẩm cách
thần linh của Chúa Giêsu, Đấng mà ông đi trước dọn đường. Phận sự của Gioan, và
của các thánh nói chung, không phải là làm người ta chú ý đến mình, nhưng là
dẫn đưa tới Chúa, Đấng họ đang làm chứng giữa loài người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Câu hỏi môn đồ Gioan đặt
ra cũng thượng được đặt do mọi thế hệ muốn đi tìm một thứ thiên sai chủ nghĩa
mới, có tính cách triết học, chính trị hoặc xã hội. Đó là câu hỏi đặt ra do
những ai mà đức tin trở nên do dự, mỏng dòn, do những ai thỉnh thoảng đi tìm
trong các khuynh hướng tôn giáo khác (chiêu hồn, dị đoan, giáo phái) một câu
trả lời cho bao mối lo âu của họ. Câu trả lời duy nhất nằm trong mặc khải về
một Thiên Chúa nhân từ hằng ngỏ lời cách riêng với những kẻ nghèo nàn, khốn khổ
để mang lại cho họ Tin Mừng cứu rỗi.
2) "Người què được đi":
Chúa Giêsu đem lại cho người lảo đảo sự vững lòng và sức mạnh, đặt họ lại trên
con đường ngay chính. Giáo Hội cũng không ngừng trả lại cho con người khả năng
bước đi trong con đường của Chúa Kitô để tiến đến sự sống sung mãn.
3) “Người mù được thấy”, họ
không còn phải tìm một Thiên Chúa vô danh cách mò mẫm trong bóng tối nữa (Cv
17, 23- 28). Những kẻ sống nhờ Chúa Kitô là những người "nhìn thấy ánh
sáng chan hòa" (Mt 4, 16) sau khi đã bước đi trong u tối.
4) “Kẻ phong cùi được sạch, người
chết sống lại”: Không ai bị loại ra khỏi Nước Trời: cho dù bị tội ác và
thất vọng bôi bẩn hay giết chết, người ta vẫn có thể sống lại nhờ đức tin vào
Đức Kitô, Đấng nâng dậy và tha thứ, chữa lành và tác sinh.
5) Sứ mạng của Kitô hữu giống
với sứ mạng của vị Tiền hô: chuẩn bị các tâm hồn sẵn sàng đón Chúa Kitô. Và như
Gioan Tẩy giả, Kitô hữu sẽ được kêu mời chịu đau khổ vì đức tin.
6) Giáo Hội tiếp tục công
việc của Chúa Giêsu. Nhờ Giáo Hội, "kẻ nghèo, tức chúng ta, “kẻ nghèo của
Đức Giavê, được nghe loan báo Tin Mừng", được phụng vụ Lời Chúa, bài
giảng, giáo lý và giáo huấn của các vị lãnh đạo Giáo hội dạy dỗ cho. Chính Giáo
Hội cũng chữa lành các tâm hồn và không ngừng bao bọc nỗi khổ thể xác của con
cái mình bằng việc thực thi bác ái, giáng phúc thi ân.
14. Gioan Tiền Hô
Một khuôn mặt không thể thiếu
vắng trong mùa Vọng, đó là khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Vậy Gioan Tiền hô là
ai?
Ông là con của Giacaria và
Isave, mở mắt chào đời khoảng sáu tháng trước Chúa Giêsu, tại làng Ain Karim,
gần Giêrusalem. Ông có họ hàng với Chúa Giêsu, bởi vì mẹ ông, bà Isave, là chị
họ của Đức Maria. Khi đã khôn lớn, ông vào trong hoang địa sống một cuộc sống
khắc khổ, mặc áo da lạc đà, ăn châu chấu với mật ong rừng. Sau đó, vâng lệnh
Chúa, ông rảo khắp vùng sông Gióc đan, rao giảng sự ăn năn và trao ban phép rửa
sám hối, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời giảng của ông thật đơn sơ: với người
thu thuế, ông đòi hỏi sự công bằng, với binh lính, ông đòi hỏi sự ngay thẳng.
Tùy theo từng lớp người, ông đưa ra những lời khuyên cụ thể. Ông loan báo cho
mọi người được biết Đấng Cứu đã gần đến, Đấng ấy sẽ tẩy rửa trong Thánh Thần và
trong Chân Lý, Đấng ấy sẽ rê sân lúa, nghĩa là sẽ làm một cuộc thẩm phán để
thanh lọc. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện, ông không ngần ngại giới thiệu Ngài với
dân chúng: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian. Sau cùng, vì can
đảm dám lên tiếng can ngăn Hêrôđê, ông đã bị tống ngục và bị chém đầu.
Nhìn vào cuộc đời của ông,
chúng ta thấy nổi bật một mẫu gương khiêm nhường. Chính nhờ thái độ khiêm
nhường này mà ông đã gặp được Chúa.
Thực vậy, sứ điệp ông loan
truyền bên bờ sông Giócđan là gì, nếu không phải là sứ điệp sám hối. Thế nhưng,
muốn sám hối thì điều kiện đầu tiên cần phải có, đó là sự khiêm nhường. Thái độ
khiêm nhường của Gioan Tiền hô còn được biểu lộ qua những lời ông nói với dân
chúng.
Khi được hỏi ông là ai, thì
Gioan Tiền hô đã trả lời một cách khiêm tốn:
-
Tôi chỉ là một
tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến.
Khi nhận ra Đức Kitô, ông đã
xác quyết:
-
Tôi không xứng
đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ
đi.
Sau khi đã giới thiệu Chúa
Giêsu với dân chúng, ông đã để cho các môn đệ thân tín của mình bước theo Ngài.
Chính vì thế, ông xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi:
-
Trong số những
người nam được sinh ra, không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sự khiêm nhường cũng chính là
điều chúng ta cần phải thực hiện trong mùa Vọng, bởi vì chỉ những người khiêm
nhường mới gặp được Chúa mà thôi.
Đúng thế, Kinh Thánh đã nhiều
lần nói về sự thật này. Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người
phận nhỏ. Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, thì sẽ
được nâng lên. Chính trong chiều hướng ấy, thánh Grêgoriô đã xác quyết:
-
Kiêu ngạo là dấu
chỉ chắc chắn nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Đúng thế, một Lucifer vì
không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa, nên đã bị đày đọa trong hỏa ngục. Một
Adong Evà, vì muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên phải lãnh nhận bản án của đau
khổ và chết chóc. Trong khi đó, một Maria khiêm nhường, chấp nhận thân phận tôi
tá, nên đã được Thiên Chúa cất nhắc và đặt làm mẹ Đấng Cứu Thế.
Kinh nghiệm cũng cho hay: một
người khô khan mà kiêu căng tự mãn khó trở lại hơn một trăm người sa ngã về xác
thịt., bởi vì người sa ngã do yếu đuối dễ nhận ra mình tội lỗi và trống vắng,
nên cũng dễ khiêm nhường trở về cùng Chúa.
Hơn thế nữa, muốn bỏ một vật
gì vào túi, thì tiên vàn chiếc túi phải rỗng, phải có chỗ. Nếu đã chặt rồi, thì
làm sao nhét vào được nữa. Cũng vậy, linh hồn muốn được Chúa ngự trị, cần phải
rỗng, nghĩa là cần phải nhận mình nghèo nàn và thiếu thốn. Trong khi đó, kẻ
kiêu ngạo tâm hồn chất đầy cái tôi với những tự cao, tự đại, tự mãn thì còn chỗ
đâu mà dành cho Chúa nữa.
Ngày kia, một du khách đang
đứng chiêm ngắm tượng Chúa chịu nạn của Thorwaldsen. Và hình như ông ta chẳng
khám phá ra được một vẻ đẹp nào cả trên bức tượng thời danh này. Bỗng ông ta
nghe thấy như có tiếng thì thầm bên tai:
-
Xin ông hãy quì
xuống và nhìn ngắm khuôn mặt của Chúa.
Ông ta đã quì xuống và khám
phá ra vẻ đẹp tuyệt vời của bức tượng. Chúng ta cũng vậy. Hãy quì xuống, có
nghĩa là hãy sống khiêm nhường và rồi chúng ta sẽ gặp được Chúa.
15. Sứ giả của Thiên Chúa
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại
Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ nhất
với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một cách
tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân tộc
nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế quyết định
ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi trước,
có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ chuẩn bị
cuộc đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính vị sứ
giả cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào lúc vị vua tối
cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng ta, Ngài
cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên tri
Malachia đã loan báo:
-
Này đây, ta sai
sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời nói này ám chỉ về Gioan
tẩy giả. Bởi vì ở bờ sông Giócđan, Gioan tẩy giả đã rao giảng và trao ban phép
rửa thống hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế:
-
Có tiếng kêu
trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho
phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan tẩy giả không bảo họ
treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh thần sám
hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn chặn không
cho Chúa đến với chúng ta.
Nếu không hoán cải, nếu không
quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây và cây nào
không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Gioan tẩy giả cũng tụ tập
chung quanh mình một số môn đệ. Nhưng rồi một ngày kia, khi Chúa Giêsu xuất
hiện và đi ngang qua. Gioan tẩy giả đã vội vã giới thiệu Chúa Giêsu cho họ:
-
Đây chiên Thiên
Chúa, đây đấng xóa tội trần gian.
Và lập tức các môn đệ ấy đã
rời bỏ Gioan tẩy giả để theo Chúa Giêsu. Đó chính là điều Gioan đã mong ước.
Chúng ta có thể nói được
rằng:
-
Khát vọng duy
nhất của Gioan tẩy giả là dẫn đưa các linh hồn về với Chúa Giêsu.
Phải chăng ông đã chẳng công
bố:
-
Đức Kitô phải lớn
lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Một sự từ bỏ dứt khoát đáng
cho chúng ta ca tụng và bắt chước, vì chúng ta không có quyền tìm kiếm cho mình
những vinh dự đã được dành cho Chúa Giêsu.
Hơn nữa, chính Chúa Giêsu còn
nói rõ qua đoạn Phúc âm vừa nghe: Gioan đã hoàn tất sứ mạng của mình mà không
lo lắng gì đến dư luận, Gioan đã mặc cho người nói ngược nói xuôi, còn mình vẫn
vững như kiềng ba chân. Phải chăng người ta đã trách cứ ông chỉ là một cây sậy
bé bỏng, một cái đạp nhẹ cũng sẽ làm cho nó bị dập nát? Hay chỉ là một ngọn cờ
bị cuốn theo chiều gió. Không, Gioan có con đường của mình, Gioan có sứ mạng
phải theo đuổi.
Sau khi đã tìm hiểu một vài
nét chính yếu về Gioan tẩy giả, mỗi người kitô hữu chúng ta cũng phải trở nên
một vị tiền hô, một vị sứ giả của Thiên Chúa. Mỗi người kitô hữu chúng ta cũng
có bổn phận phải đem Chúa, phải giới thiệu Chúa cho những người chung quanh.
Chúng ta phải làm chứng về
Chúa bằng lời nói và nhất là bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bái ái và
yêu thương của chúng ta. Tất cả những người đã lãnh nhận bí tích rửa tội đều
được mời gọi để chuẩn bị con đường cho chúa đến trong tâm hồn mình và trong tâm
hồn người khác, tùy theo cách thức và hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Có một em bé mới lên bốn đã
cảm hóa được người cha, để ông làm dấu và đọc kinh trước bữa ăn. Câu chuyện rất
đơn sơ. Trưa hôm đó, em đang chơi đồ hàng ngoài sân, thì người chị kêu về ăn
cơm. Ngồi vào bàn, em lén lút nhìn người cha, và khẽ nói:
-
Ba à, Ma-sơ bảo
phải đọc kinh trước khi ăn cơm.
Lúc đó người cha chỉ còn cách
làm dấu và đọc Kinh Lạy Cha, một thói quen mà ông đã bỏ từ lâu.
Có một bác sĩ giải phẫu đã ăn
năn trở lại chỉ vì một em bé đau yếu, em vừa mới được bảy tuổi và bị giải phẫu.
Ông bác sĩ ấy đã kể lại như sau:
Hôm đó, em được đưa vào phòng
mổ và trước khi gây mê cho em, tôi đã nói với em:
-
Chúng tôi sắp sửa
chữa cho cháu được khỏi, nhưng trước hết cháu cần phải ngủ.
Nhưng em bé đã trả lời với
tôi:
-
Vậy hãy để cho
cháu cầu nguyện một chút.
Nói đoạn em quỳ xuống bên
cạnh bàn mổ, hai tay chắp lại, đôi mắt ngước lên cao, em khẽ đọc một kinh lạy
cha. Lúc bấy giờ vị bác sĩ và những cô y tá đều cảm động đến nỗi rưng rưng như
muốn khóc. Vị bác sĩ đã kể tiếp: Sau đó, tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt, tôi đã
đi xưng tội, và mỗi buổi tối, tôi không bao giờ đi ngủ mà không đọc kinh, mà không
cầu nguyện.
Này ta sai sứ giả của ta đi
trước con để dọn đường cho con. Những lời nói này làm cho chúng ta liên tưởng
tới Gioan tiền hô, nhưng cũng được áp dụng cho mỗi người chúng ta. Phải, mỗi
người chúng ta đều được mời gọi để trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả của
Chúa.
Trong mùa vọng này chúng ta
hãy suy nghĩ và sống cái sứ mạng đó, bởi vì chúng ta chỉ có một nỗi băn khoăn
và bận tâm, đó là phải sống thế nào để Chúa đến trong tâm hồn anh em của chúng
ta?
16. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Tại sao Gioan Tẩy
Giả lại sai môn đệ mình tới hỏi Đức Giêsu xem Ngài có phải là Đấng Cứu Thế
không? Theo ông nghĩ, nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua Do Thái, thì ông sẽ
đóng vai trò gì bên cạnh Ngài?
2.
Đức Giêsu đến có
đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của Gioan Tẩy Giả và của những người Do
Thái thời đó không? Nếu Ngài đến lần thứ hai thì liệu có đúng theo sự suy nghĩ
và lòng mong ước của chúng ta không?
3.
Tại sao khi Đức
Giêsu đến lại có biết bao người vấp phạm vì Ngài? Vì họ thiếu thiện chí, hay vì
họ chấp nhất vào nguyên tắc? Có thể rút kinh nghiệm lần Ngài đến trước để khi
Ngài đến lần thứ hai ta khỏi vấp phạm vì Ngài không?
Suy Niệm
1. Thắc mắc của Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy Giả là người được
Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để dọn đường cho
Đấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách
hoàn hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám tố cáo những sai trái của
chính quyền đương thời là vua Hê-rốt. Tình trạng khó khăn và tuyệt vọng trong
tù dễ làm người ta xuống tinh thần, vì thế, đức tin của Gioan vào Đức Giêsu
phần nào bị thử thách.
Có thể lúc đó ông tự hỏi: Nếu
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài, thì tại sao ông
lại phải ngồi tù thế này? Nếu Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ắt hẳn Thiên Chúa phải
để ông ơ ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới chứ! Ông sẽ phải là
cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gioan cũng quan niệm như mọi người Do Thái
khác rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ trở thành một vị Hoàng
Đế cai trị toàn cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt mà ông vẫn còn phải
ngồi tù thế này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn đệ của ông đến gặp
Đức Giêsu để hỏi cho rõ. Và họ đã đến gặp Ngài.
2. Những điều ứng nghiệm nơi Đức Giêsu,
Đấng Cứu Thế
Đức Giêsu đã không trả lời
trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Đấng Cứu Thế, nhưng trả lời gián
tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên
báo về thời đại của Đấng Cứu Thế: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi
được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”
(xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a; 61,1). Đó là những điều mà Đức Giêsu đã dùng
quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi người.
Thử đặt mình vào địa vị Gioan
Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài là Đấng Cứu Thế
không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất nước Do Thái bằng
binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện tại trước mắt,
Ngài chỉ là một thầy đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao tin được Ngài là
Đấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như một tội nhân?
Chính vì thế, ngay từ lúc này
Ngài đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Liệu câu nói ấy có ứng
cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không? Nếu Ngài trở lại theo một cách thức
thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì
Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài
tiên báo là sẽ đến “như kẻ trộm” đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo
khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì Ngài.
3. Đức Giêsu đến để thực hiện một cuộc
cách mạng tôn giáo.
Tôi e rằng khi Ngài đến lần
thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần Ngài đến
trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt tư tưởng
và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn luôn tiến hóa
và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo - vốn là phương tiện phục vụ con người, dẫn
con người đến với Thiên Chúa - cũng phải thay đổi theo để phục vụ con người một
cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang thời đại
internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật hết sức
tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những chế độ độc
tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc lột dân chúng. Những quan niệm tôn
giáo cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan niệm
khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm và thể chế tôn giáo
không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ,
vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư” (Lc 5,37).
Đương nhiên trong tôn giáo có những điều cốt tủy không bao giờ thay đổi được.
Vấn đề quan trọng là phân biệt cái nào có thể thay đổi và cái nào là cốt lõi
không thể thay đổi được.
Tôn giáo và luật lệ của tôn
giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh, được hiểu là do Thiên Chúa thiết
lập, được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa bằng những lời chắc nịch trong Kinh
Thánh (chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b; Đnl 29,28; 1 V 8,13; Tv 98,5; và
vô số câu khác). Vậy thì con người nào ai dám thay đổi? Chỉ có những Đấng Thiên
Sai như Đức Giêsu mới có thể làm chuyện ấy. Chính Đức Giêsu đã thực hiện một
cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo. Và cũng chính vì làm cuộc cách mạng ấy Ngài
mới bị giết bởi tay các nhà lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế là, như ta đã biết, vô số
người đã vì Ngài mà vấp ngã!
4. Cuộc cách mạng tôn giáo của Đức Giêsu
Tôn giáo Do Thái do Thiên
Chúa thiết lập nhưng do Mô-sê hình thành. Những luật lệ do Mô-sê ban hành được
coi là linh thánh và vĩnh cửu, vì được hiểu là luật của Thiên Chúa. Nhưng thật
ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và tâm linh của dân Do Thái thời
thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi của dân chúng. Tương tự như khi
con người còn là một đứa trẻ, muốn nó sống tốt thì không thể chỉ dùng lời
khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà được. Lời khuyên hay mệnh lệnh
phải đi đôi với roi vọt. Đối với một đứa trẻ, chỉ cần nó sợ roi để làm theo
những mệnh lệnh của người lớn là đã đạt yêu cầu, và chỉ cần như thế nó đã được
coi là một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu Ước ứng với phương pháp giáo dục
dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức, hiểu biết, hay tình yêu
của con người được. Tiêu chuẩn của sự công chính vào thời này là chỉ cần giữ
luật cho đúng là được. Và người Pha-ri-siêu thời Đức Giêsu chính là mẫu người
được coi là trọn hảo của thời Cựu Ước. Không ai còn có thể giữ luật trọn vẹn
hơn họ!
Nhưng từ Mô-sê đến Đức Giêsu,
dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm linh của họ đã
thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi là “trẻ con” của họ để bước sang
một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo cũng phải thay đổi để thích hợp
với trình độ mới của họ, và chính Đức Giêsu là người có sứ mạng thực hiện sự
thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng trên sự sợ hãi nữa, mà xây
dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân loại lúc này được so sánh với
một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ không còn giáo dục anh chàng
theo kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh sự ý thức tự giác và tình yêu. Lúc
này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha mẹ đánh đòn, thì anh không còn
được coi là hay là tốt nữa, mà phải do một động lực khác thúc đẩy: chẳng hạn do
biết tự lo lắng cho tương lai, do biết yêu thương và làm hài lòng cha mẹ, muốn
làm nở mày nở mặt cho gia tộc. Vì thế, cách sống hay giữ đạo “vị luật” của
người Pha-ri-siêu không còn được Đức Giêsu coi là công chính nữa: “Thầy bảo cho
anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người
Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20).
Những cuộc cách mạng vĩ đại
về tôn giáo như Đức Giêsu đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng bị những
người đương thời chống đối vì chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ còn chấp vào
những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm từ nhỏ, và
được coi là những chân lý bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những chân lý
ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp phạm khi Ngài đưa ra những quan niệm mới,
nguyên tắc mới.
Để nói lên sự ưu việt của
thời “hậu cách mạng” do Đức Giêsu, Ngài đã đưa ra một thí dụ điển hình: “Tôi
nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao
trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao
trọng hơn ông”. Gioan Tẩy Giả là mẫu người công chính của Cựu Ước, sự công
chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của thời Tan Ước được.
Thật vậy, về tinh thần và phong cách sống đạo, giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu,
giữa các môn đệ của hai vị có sự khác biệt rõ rệt. Điển hình như: “Các môn đệ
ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng tôi và các người
Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”“ (Mt 9,14; Mc 2,18).
Vậy, chúng ta hãy tỉnh táo để
khi Đức Giêsu đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước được, chúng ta
không vấp phạm vì Ngài: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,6).
Cầu nguyện
Lạy Cha, lần trước Đức Giêsu đến đã có biết bao người
vấp phạm vì Ngài. Xin cho con rút ra được những kinh nghiệm và bài học quí báu
từ những sự kiện trong Tin Mừng để khi Ngài đến lần thứ hai, chính con nhờ đó
sẽ không vấp phạm vì Ngài. Xin giúp con sáng suốt nhận ra kinh nghiệm và bài
học ấy. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét