PHÒNG CHA |
CUNG THÁNH BẢO HÀ |
XE ĐẠP CỦA THIÉU NHI DÂN TỘC |
BƯỚC ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO |
ĐỨC TỔNG GM. LEOPOLDO GIRELLI THĂM SAPA |
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24
MỤC
LỤC
1. Emmanuel
2. Chúa ở cùng
chúng ta
3. Dòng tộc –
Radio Veritas Asia
4. Trong kế
hoạch của Thiên Chúa – R.St.G
5. Đấng Emmanuel
6. Tâm tình của
Giuse với biến cố nhập thể – Anmai
7. Vâng theo Ý
Chúa – R. Veritas
8. Đừng ngại
9. Ngài từ đâu
đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
10. Truyền tin
cho ông Giuse
11. Thiên Chúa ở
cùng chúng ta
12. Emmanuel:
Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
13. Chúa Cứu Thế
giáng sinh – R. Veritas
14. Suy niệm của
ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
15. Giải quyết
một vấn đề nhờ đức tin
16. Mùa Vọng:
Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống
17. Công chính
18. Thiên Chúa
làm gì cho chúng ta?
19. Suy niệm của
JKN
20. Emmanuel
21. Emmanuel-
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
22. Điều xảy đến
bất ngờ - Lm Nguyễn Ngọc Long
23. Chú giải của
Noel Quesson
24. Chúa ở cùng
chúng ta – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
25. Emmanuel
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
26. Truyền tin
cho ông Giuse
27. Thiên Chúa ở
cùng chúng ta
1. Emmanuel
Đối với người Do
Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ
bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với
sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi
sẽ bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời
sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc
sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này.
Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng
sức sống lại.
Thế nhưng, như
lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư
tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các
ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao
hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.
Chính vì thế,
Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh
những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền
năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một
cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó
cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục
sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của
Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh
Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên
Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được
thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có
sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai
bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày
Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch
sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa
chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội
lỗi.
Giáo Hội hôm nay
chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế
giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng
liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện,
khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn
thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý.
2. Chúa ở cùng
chúng ta
Tại Việt Nam và
nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng
cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm "Vượt khỏi Đông và
Tây", tác giả John Wu đã mô tả như sau: "Trước đám cưới, vợ tôi và
tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường
lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng
tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi
khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi
cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy
nàng".
Từ đoạn văn trên
chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước
lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba
giai đoạn:
Giai đoạn thứ
nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn
đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ
hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen
biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc
dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long
trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba
là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người
ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi
muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng
chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri
Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên
Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh
Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở
cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng
ta như thế nào?
Trước hết, Ngài
hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ
của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại
trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài
còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh
ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha
biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa
cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài
hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng
với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để
đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng
nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên
Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người
bằng máu thịt của Đức Kitô.
3. Dòng tộc –
Radio Veritas Asia
(Trích từ 'Suy
Niệm Phúc Âm Hằng Ngày' - RVA)
Có một vị vua
kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh
mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này
sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và
yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê
xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng
muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng
cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng
sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Đến gần hoàng
cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông
lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng
thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa
thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần
áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của
chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang
ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng
không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: "Hỡi con
yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con"
Chàng thanh niên
đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của
anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một
người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xết về nguồn
gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng
Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo
trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống côn chính, mầu
giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và
công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ lập cho David
một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi".
Tuy nhiên, hậu
duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn
hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm
dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình
sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse
lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam.
Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang
thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do
thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném
đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài
chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn
để mặc cho nàng tự phận xử.
Đang khi định
tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để
cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã
soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ
thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái
chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù
cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha
thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã
thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây
cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài
không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn.
Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho
nàng cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc
đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa
quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế
nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu
thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì
chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu
thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong
rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim
chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
4. Trong kế
hoạch của Thiên Chúa – R.St.G
Ông đang toan
tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông
Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu
mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên
cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của
họ". (Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng
ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm.
Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giuse như chống lại đường lối huyền nhiệm
của Thiên Chúa.
Giuse bị đặt
trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị
hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được
chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người
công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không
theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh
thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giuse công chính vì ông kính trọng công
trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi
thánh Giuse chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của
Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng
giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ
ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đavít. Ông đã làm tròn vai
trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha
trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu
thế thuộc con dòng Đavít.
Khi nhận ra thân
phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch
sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế
hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính
như thánh Giuse không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú
ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?
5. Đấng Emmanuel
Giữa lúc dân
Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin
mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và
thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng
Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Ngay từ đầu,
Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã
ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở
với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng
chúng tôi.
Tuy nhiên, để có
thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là
người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế
hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ
mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho
biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của
Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình
cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên
giới mà không cần quan hệ giới tình.
Đấng Emmanuel-
Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố
kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình
yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ,
oán hận, tranh chấp.
Nhưng trên tất
cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng
lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng
Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.
6. Tâm tình của
Giuse với biến cố nhập thể – Anmai
Con người, dù
quyền cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn mang trong mình những giới
hạn của phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con người thường tìm đến vị thần
linh, vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.
Thiên Chúa là
Chúa, là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi Ngài luôn dõi mắt theo nhìn
hành trình đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn, lúc hiện, lúc đồng hành,
lúc khuất bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh dân riêng
của mình. Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình cứu độ, hành trình đi
trong sa mạc của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ, sự chết.
Hôm nay, chúng
ta được nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo
cho nhà Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy,
Akhát rúng động như cây rừng rung rinh trước gió như sách ngôn sứ Isaia diễn
tả. Akhát rúng động và không hề biết rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như
cứu dân. Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi
nghe Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở
bên dân của ông.
Thiên Chúa
thương dân Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ còn hỏi vua: "Ngươi cứ
xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc
trên chốn cao xanh." Đứng trước tình yêu bao la, sự chở che, sự quan phòng
của Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử
thách Đức Chúa."
Nếu tiếp tục
theo dõi những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta sẽ thấy một cách hết sức
thiết thực về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua Akhát cũng như cho dân. Thiên
Chúa đã cho dân chiến thắng và qua miệng của Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như
chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây
người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.
Tâm tình của vua
Akhát quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên
Chúa cho đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ, trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa
hứa ban cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và náo nhiệt, rúng động trước
những biến cố của cuộc đời thì lại có những người bình tâm để nghe tiếng Chúa
nói, nghe lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.
Giữa mùa Vọng
này, hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ Chúa đã hiện lên một cách hết
sức dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo
động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước
ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu
thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta "gốc tích" của Đấng
Cứu Độ trần gian.
"Đây là gốc
tích của Đức Giêsu...". Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì
đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa Giêsu, bám rễ sâu
vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh
Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra... Giuse đã đưa đứa trẻ
sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp một cách xác
tín, một cách âm thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh Giuse bước vào, nhập
cuộc vào chương trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.
Để Con Thiên
Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng
khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài
Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng
đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra,
nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Chúa
Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm
(x. 2Sm 7,13).
Thánh Giuse có
thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng Ngài không làm như vậy.
Giuse muốn trốn đi vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một
hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên bình diện siêu nhiên thì có thể
được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận
cho Giuse biết là: "Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang
thai là bởi phép Chúa Thánh Thần", và thiên thần mạc khải thêm về thân thế
của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse
cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền
của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu
huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng
làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có
thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền,
Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con
Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương
hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của
thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa,
thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho
Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn
đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân
tộc.
Thực tế, Hài Nhi
Giêsu đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò
là cha nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse không phải là chuyện đơn giản.
Phải hết sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời
của Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con
trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không
phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả
năng loài người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải
thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ
tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở
cùng chúng tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia
phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.
Khi đón nhận Đấng
Cứu Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ
để làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng
của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ
gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi Giuse,
Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói
với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài
đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: "Ai trong các anh, nếu đứa con xin
bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con
rắn?" (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con
cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài
học lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa Chúa Giêsu như được củng cố thêm
tình thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá một cách hiên ngang
hơn, một cách quyết liệt hơn.
Đối diện với
những thử thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse vẫn luôn giữ thái độ im lặng.
Một thái độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người không lên tiếng, ăn to nói
lớn, Người không bào chữa cho những hành động của Người, nhưng tất cả đều theo
ý Thiên Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù rằng người cũng rất trăn
trở, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc đời của thánh
Giuse đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu: Người hy sinh lợi ích
riêng cho kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sự thinh lặng
thánh, sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của thánh Giuse gợi lên cho nhân
loại, cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác
thẩm sâu nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với tất cả đức tin sâu xa, con
người mới nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng đại và tình thương vô biên
của Thiên Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có mặt trong mọi lúc nguy
biến mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ
công khai thì cuộc đời của thánh Giuse cũng bắt đầu chấm dứt nơi trần gian này.
Sự thinh lặng kéo dài suốt cuộc đời của thánh Giuse từ lúc Người được sinh ra
cho đến ngày Người nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh của thánh Giuse diễn
tả cuộc đời của một con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho Chúa và vì Chúa và như
thế, thánh Giuse là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người noi theo.
Những ngày chờ
đón Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều tâm tình, nhiều thái độ, nhiều
tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và trầm lắng của Thánh Giuse là tâm
tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong
âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ chúng ta mới có thể hiểu được Thánh
ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc đời mỗi người chúng ta.
7. Vâng theo Ý
Chúa – R. Veritas
(Trích từ 'Mỗi
Ngày Một Tin Vui')
Thiên Chúa là
Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của
Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời
tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người
và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu
độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và
thánh Giuse đã sống.
Thật vậy, Đức
Maria chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác, sống trong một
làng quê nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác biệt là người đã luôn vâng theo
ý Chúa trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù chưa biết rõ chương trình lạ
lùng của Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn,
nhưng có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân theo ý Chúa, điển hình là ngài đã
rước Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ thần cho biết là Đức Maria thụ thai
là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mỗi kitô hữu
chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con
người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương
trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của
chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua
giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên... Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta
sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui
tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô
khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của
chúng ta.
Ước gì chúng ta
ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc
làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho
nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa giáng sinh.
8. Đừng ngại
(Trích từ
'Manna')
Suy Niệm
Tin Mừng Luca
nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc
truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông,
khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền
năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận
thai nhi như con mình.
Giuse đã nói
tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.
Maria là một mầu
nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho
các mầu nhiệm vây bọc mình.
Cả cuộc đời
Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và
chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận
ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng
cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi.
Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức
Giêsu.
Bề ngoài, Giuse
vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai
biết.
Ông sống một
mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.
Giuse đã mau mắn
nói tiếng Xin Vâng.
Ông luôn bị đánh
thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông
bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi
Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.
Vâng phục một
cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.
Hôm nay có thể
Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư,
mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse,
tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.
Để Con Thiên
Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng
khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài
Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng
đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra,
nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Đức
Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm
(x. 2Sm 7,13).
Cùng với Giuse,
xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.
Cùng với cả vũ
hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận
thế.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm
của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào? Có khi nào bạn
xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?
Con Thiên Chúa
được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên
nào hơn cả? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho
Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy
đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt
tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết
chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám
ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo
những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm
nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã
sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
9. Ngài từ đâu
đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Bắt đầu bài
trích Phúc Âm hôm nay, Thánh Mátthêu đã giới thiệu: "Sau đây là gốc tích
Đức Giêsu Kitô...". (Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này - Et voici comment
Jésus Christ fut engendré...bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem) (Mt
1,18).
Khi thánh sử
Mátthêu mở đầu Phúc Âm của ngài, ngài đã trang trọng viết: "Đây là gia phả
Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham". (Gia phả Đức
Giêsu Kitô, con Đa-vít, con Abraham. – Généalogie de Jésus Christ, fils de
David, fils d'Abraham. Bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem).
(Mt.1,1-17).
Người xưa có
câu: "vô tri bất mộ". Không biết không yêu.Trong cuộc sống, cũng
không ai đặt niềm tin vào người mà mình không hề biết "gốc tích"
người đó. Làm sao ta có thể an lòng đặt niềm Tin Yêu vào một người mà ta không
biết gì về "lý lịch" ?
Nên, không phải
vô tình mà thánh Mátthêu mở đầu sách Tin Mừng, ngài đề cập đến hai lần
"gốc tích" của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì, để dọn đường cho Đức Tin độc
giả, thánh Mátthêu muốn độc giả hiểu rõ về Chúa Giêsu. - Đức Giêsu, Ngài từ đâu
đến?
Đức Giêsu: nhân
vật lịch sử.
Không một sử gia
nào ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử của Chúa Giêsu, khái niệm Ngài
không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong lịch sử không còn giá trị gì
trên phương diện sử học.
Ngay cả những
tranh luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai, Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ
nhiều lập luận chống lại Kitô giáo, dựa trên sự nghiên cứu sâu rộng về kinh
Thánh, về truyền thống truyền miệng; nhưng các ông không hề nghi ngờ gì về thực
tại của những lời chứng do các môn đệ đã biết Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những
lời của Phao-lô, chứng nhân và văn sĩ Kitô hữu đầu tiên. Sự sống lịch sử của
Chúa Giêsu cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền thống Do Thái, và ngay cả kinh
Coran cũng coi Ngài như một vị tiên tri loan báo đấng Mahomet của Hồi Giáo.
Trong những văn
kiện ngoài Kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la guerre Juive) và những Cổ truyền
Do Thái (les antiquités Judaiques), được soạn thảo bởi sử gia Do Thái Flavius
Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của Chúa Giêsu.
Trong những cổ
truyền Do Thái (XX & 200), Flavius nhắc đến cuộc tử đạo của Jacques năm 62:
Vị giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm phán để xử án jacques, anh em
của Giêsu còn gọi là Kitô, và một phạm nhân khác. Họ bị kết tội đã vi phạm Luật
Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn này cần hai chú thích sau: thứ
nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn
(acception sémitique), nó được dùng để chỉ những người cùng gia đình, họ hàng,
bạn bè; thứ hai là chữ Kitô, dưới ngòi bút của tác giả ngoại giáo và thân Roma
này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người hay gây rối loạn ở vùng Judée
thời đấy.
Trong chiến
tranh Do thái (Flavius Josèphe XVIII, &63-64), ông có viết: Trong thời đó
có Giêsu, một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như thế hay không, bởi vì đó
là một người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy đối với nhiều người muốn
tìm chân lý. Nhiều người Do Thái và Hy lạp theo ông. Đó là Đức Kitô. Khi ông bị
tố cáo và bị Philatô kết án đóng đinh trên thập giá, những người theo ông vẫn
không từ bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba; nhiều vị tiên tri thần linh
đã nói về những điều này và muôn vàn những điều kỳ diệu khác về ông. Cho tới
bây giờ, nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại. (Theo Le Figaro Magazine, 01.10.1999,
Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ).
Còn rất nhiều
bằng chứng, để có thể tin chắc một người mang tên Giêsu như Tân Ước ghi lại, đã
từng có mặt trong lịch sử nhân loại. Đó không phải là một nhân vật huyền thoại,
được tưởng tượng ra để phục vụ cho những lý do trần tục của nhân loại.
Vì Giêsu, Ngài
là một nhân vật từng có mặt trong lịch sử nhân loại, nên Ngài phải có "gia
phả", có "gốc tích" rõ ràng, Ngài là con ai, cha mẹ là ai, sinh
ra ở đâu, quê hương, cuộc đời và sự nghiệp Ngài như thế nào. Đó là "nhân
tính" của Đức Giêsu.
Nhưng, Chúa
Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử bình thường. Ngài không phải chỉ là một
vĩ nhân. Ngài còn là: Thiên-Chúa-làm-người.
Đức Giêsu:
"Thiên-Chúa-làm-người".
"Sau đây là
gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng
trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh
Thần." (Mt.1,18).
Lý lịch của Chúa
Giêsu rất hợp lệ theo thủ tục của con người, nhưng không tự nhiên theo kiểu con
người, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngôi Hai xuống thế làm người, Ngài là Thần Linh
Sự Sống, là nguồn sống, Ngài là Đấng ban phát sự sống, Ngài đến để tái tạo sự
sống cho con người, Ngài không thể được hình thành từ máu huyết phàm nhân.
Thánh Giuse là
"người công chính", chắc chắn đã được Thiên Chúa mạc khải chương
trình huyền nhiệm về Chúa Cứu Thế Giáng Sinh mà ngài có bổn phận nuôi dưỡng,
nhưng, trong sự hiểu biết hạn hẹp của một phàm nhân, hẳn ngài luôn cần Thiên
Chúa soi sáng hướng dẫn thêm, qua việc Thiên Thần đến với ngài trong giấc mơ,
để ngài an tâm thực thi sứ mạng cao cả của ngài, là cha nuôi của Đấng Cứu Thế.
"Này đây,
Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen,
nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm
như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà." (Mt.1,23-24).
Emmanuen,
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đây mới đích thực là "gốc tích" của
Giêsu. Giêsu, không phải chỉ là một "vĩ-nhân-ở-cùng-chúng-ta", nhưng
là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Và nhân loại phải nhận ra "gốc
tích" đích thực này của một con người lịch sử mang tên Giêsu.
Con người mang
tên Giêsu ấy, có "gia phả" từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con người
ấy là Thiên Chúa đã lặng lẽ đến với nhân loại để "ở với nhân loại",
"đồng hành với nhân loại", mà nhân loại đã không nhận ra "gốc
tích" thật sự của Ngài. Đó là "Thiên Tính" của Đức Giêsu.
"Ngôi Lời
là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa
thế gian, và thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người.
Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón
nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên
Chúa" (Ga.1,12).
"Ngôi Lời
đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14).
Đón tiếp Thiên
Chúa Giáng Sinh.
Lễ Giáng Sinh
ngày nay tưng bừng đèn hoa ngày hội và gần như cả cộng đồng nhân loại biết đến.
Nhưng phần lớn nhân loại mừng Sinh Nhật Chúa Giêsu khi chỉ được biết Chúa Giêsu
như một nhân vật lịch sử và dừng lại ở sự kính trọng Ngài như một vĩ nhân.
Nhưng, ngày lễ Giáng Sinh chỉ thật sự đúng ý nghĩa khi con người chào đón Ngài
là "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta". Niềm Tin
ấy chỉ có được khi con người nhận ra "gốc tích Đức Giêsu là Thiên
Chúa".
Và, như thế, đón
mừng Giáng Sinh, là đón mừng Tình Yêu Thiên Chúa dành trọn vẹn cho con người
với Mầu Nhiệm Nhập Thể.
"Emmanuen,
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt.1,23); hay "Ngôi Lời đã trở nên người
phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14), đó là hồng ân lớn lao vô bờ bến
mà không một ai trong kiếp nhân sinh đầy khổ ải này lại không mong mỏi đợi chờ.
Yêu nhau trăm sự
chẳng nề. Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Cao vời nào cao vời như Thiên
Chúa, thấp hèn nào như thấp hèn kiếp bụi tro, nhưng "một trăm chỗ
lệch" ấy đã được "kê bằng" để Thiên Chúa đến với con người, ở
giữa con người, sống như con người, chỉ trừ tội lỗi. Chỉ có Đức Giêsu Kitô với
hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài mới thật sự là nhịp cầu nối trời và
đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để con người được vươn lên tới Thiên
Chúa.
Không có Tình
Yêu nào không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng hành của Thiên Chúa dành cho con
người gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn thế được.
Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng
với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở
nên giống phàm nhân sống như người trần thế. (Pl.2,6-7).
Quả thực, chỉ có
Tình Yêu ngự trị vũ hoàn này, sức sống mới thật sự hồi sinh, và hạnh phúc mới
tìm lại được trong mọi con tim nhân thế.
Vì Chúa đến,
không phải đem lại cho con người những cuộc vui chóng tàn hay những lợi lộc
chóng qua, nhưng Ngài đến để đem lại cho con người những giá trị vĩnh cửu mà
nếu không có Ngài, tất cả chỉ là khát vọng.
Lòng chúng ta sẽ
trống rỗng nếu chúng ta không tiếp đón Ngài là Thiên Chúa Nhập Thể trong chính
tâm hồn chúng ta. Ngài đến để đi vào mọi ngõ ngách tâm hồn chúng ta, nơi mà
chúng ta chưa bao giờ dám chia sẻ cùng ai, đồng hành cùng ai. Và điều kỳ diệu
sẽ đến với chúng ta khi mỗi bước đi của chúng ta là mỗi bước an bình và đầy
hoan lạc trong ánh sáng Tình Yêu của Ngài. Vì như thế mới đúng với danh xưng
của Ngài: Em-ma-nu-el: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hiểu được Đức
Giêsu Kitô là ai, Ngài từ đâu đến, con người mới biết cách tiếp đón Ngài và đón
tiếp Ngài với trọn vẹn niềm Tin Yêu và hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Này đây Máng Cỏ
lòng con,
xin Ngài ngự
đến.
Nghèo hèn và bé
nhỏ,
không xứng với
Vua Trời Đất,
nhưng con tin
rất vừa
với Chúa Tình
Thương. Amen.
10. Truyền tin
cho ông Giuse
(Trích 'Sống Lời
Chúa' – Damiano)
Việc Chúa Ngôi
Hai đến trong thế gian là một khởi đầu cho một kỷ nguyên mới. Tuy nhiên cái mới
nối tiếp cái cũ chứ không hủy bỏ. Vì Cựu Ước đã chuẩn bị cho Tân Ước. Sự hiện
diện của Giuse là bản lề cho sự nối kết này. Nhờ Giuse mà Chúa Giêsu được thuộc
dòng dõi Đavít: "Đây là gốc tích của Chúa Giêsu... Đức Kitô con vua
Đa-vít, con của Abraham... Giacob sinh Giuse, chồng Maria, từ nơi bà sinh ra
Đức Giêsu, cũng gọi là Đức Kitô..."
Để cắt nghĩa vai
trò tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là chồng của bà Maria và cha của
Chúa Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc dĩ là vì ông là người công
chính. Công chính là người sống theo thánh ý Thiên Chúa. Giai đoạn này được coi
như một màn kịch: một hoàn cảnh bế tắc: sinh ra mà không có cha (người mẹ sẽ bị
ném đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc hay sao ?). Việc Giuse nhận
làm cha nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông , đã gỡ rối cho sự bế tắc
nầy (thế là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Bây giờ chỉ còn việc thực
hiện sứ mạng nữa thôi: Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền:
ông rước vợ về nhà mình. Vì thế, trong chương trình của Thiên Chúa, Giuse có
một chỗ đứng rất quan trọng: vừa làm vai trò bản lề giữa Cựu và Tân Ước, vừa là
công tác viên tích cực không thể thiếu được trong chương trình cứu chuộc của
Thiên Chúa.
Nhưng trọng tâm
bài Tin Mừng hôm nay không phải là ông Giuse mà chính Chúa Giêsu gọi là
Emmanuel (Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi). Ngài có hai nguồn gốc: nhờ Giuse và
Maria mà Ngài là con Đa-vít cách hợp pháp, nhưng đồng thời Ngài cũng ra đời bởi
phép Chúa Thánh Thần. Qua câu: Đây là nguồn gốc... Thánh sử Mátthêu muốn cho
thấy nơi Đức Giêsu có hai bản tính rõ ràng. Trong Ngài đất trời đã được nối lại
với nhau; Thiên Chúa và con người lại được giao hòa. Vì thế Chúa Giêsu gọi ông
Giuse là cha đồng thời Ngài cũng là con Đấng tối cao.
Giuse là cha
nuôi của Chúa Giêsu, điều đó nói gì với chúng ta hôm nay? nếu Giuse đã săn sóc
giữ gìn Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng vai trò trước mặt Thiên Chúa
cho chúng ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục
là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi chúng ta. Biết bao nhiêu lần
trong lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật sự là cha tinh thần của rất
nhiều con cái, khi họ kêu cầu người.
Thánh Giuse đưa
người lầm lạc trở về.
Một cha xứ ở
Pháp kể rằng: Từ 17 năm rồi, có một người lạc đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của
ngài, và ngài đã lui tới khuyên nhủ, nhưng vô hiệu.
Sau đó một thời
gian anh ấy lâm trọng bệnh. Nghe tin, cha lại đến khuyên bảo, nhưng cũng vô
hiệu. Đến giờ dâng lễ, cha phải trở về. Trước khi mặc áo lễ, cha ra quỳ trước
bàn thờ thánh Giuse, cầu nguyện cho kẻ lầm lạc. Lễ xong, cha lại trở lại thăm
anh ta. Và kỳ lạ thay, lần này, anh ta đã thay đổi rõ ràng. Cha vừa lên tiếng
chào thì anh đã vui vẻ đáp lại và tỏ dấu sám hối ăn năn thật lòng. Anh đã xin
chịu các bí tích cần thiết và sau nửa ngày thì anh ta qua đời cách bình an.
11. Thiên Chúa ở
cùng chúng ta
Bản văn này khơi
lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược
lại với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse chứ không phải của Maria như là
người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng
ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của
mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực này). Chúng ta một lần nữa có thể
đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình bày các chi tiết lịch sử ở đây
nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa của cuộc sinh hạ đó đối với
niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa của việc đặt tên và ý
nghĩa của cái tên Giêsu -"Chúa Cứu Thế"- chúng ta cũng có thể đặt vấn
đề đâu là ý định ban đầu của vị ngôn sứ qua trích dẫn Isaia 7,14 -một câu trích
dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh luận ở đây.
Song đó là những
vấn đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn này muốn đề cập đến.
Ở đây chúng ta
dành quan tâm đến cái tên "Emmanuel" -cái tên công bố rằng
"Thiên Chúa ở cùng chúng ta" nơi con người Giêsu này.
Rất đáng đề cập
một hàm nghĩa khác nữa của "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", một hàm
nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ. Khi chúng ta nói rằng con người –trong tư
cách là một tạo vật- chắc chắn có mối quan hệ với Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa
là Chúa và là cùng đích của con người -và nếu gạt Ngài ra thì cuộc sống của
chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là Đấng phù trợ và là Đấng Cứu Độ của
chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng hồng phúc của Ngài, rằng Ngài với lòng
nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta, rằng chúng ta phải trả lời về trách nhiệm
của mình trước toà phán xét của Ngài, rằng đối với những ai tin vào Ngài, trông
cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài dọn sẵn cho họ cuộc sống hạnh phúc vĩnh
cửu... Khi nói như thế là chúng ta đã giải thích "Thiên Chúa ở cùng chúng
ta" theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự thực ấy vào các chiều kích
khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất cả mọi người có thể nhận
ra ý nghĩa "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" ấy trong cuộc sống của họ.
Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều được quy hướng –trong niềm hy vọng- về
một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Nhưng không một
giải thích nào trong những giải thích nói trên lột tả được cảm thức tuyệt đối
Kitô giáo về ý nghĩa "Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Nếu cho rằng Thiên
Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn của Ngài, chỉ trong việc
Ngài đặt chúng ta –là những hữu thể có năng lực sáng tạo- vào trong thực tại
riêng của mình và trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy tới sự hoàn thành định
mệnh của nó xuyên qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự chuẩn nhận chung cuộc
tình trạng hiện hữu trưởng thành của chúng ta; nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi
chúng ta chỉ trong mức độ bởi vì tất cả những thực tại thụ tạo của con người
đều xuất phát từ Ngài và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc nhở chúng ta quy
hướng về Ngài trong thái độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái độ cầu nguyện chan
hoà cảm mến... nếu chỉ thế thì quả chúng ta đã sai lầm về bản chất nền tảng của
nhận thức Kitô giáo về "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Chính Thiên Chúa
ở cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ
bằng trung gian của những ân sủng hữu hạn ban cho một tạo vật hữu hạn. Thánh
Kinh và Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất độc đáo của huyền nhiệm chung
cục của cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên Chúa thông ban chính bản thân
Ngài cho chúng ta trong chính thực tại vô hạn và bất khả thấu hiểu của Ngài.
Ngài trao ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể hiện tư tưởng của Thiên
Chúa, Đấng chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Cha và Chúa Con
đến cư ngụ trong chúng ta, như Chúa Con là một với Chúa Cha từ đời đời. Chúng
ta tham dự vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là tôi tớ nhưng đích thực là
con ruột của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không
phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian tạo vật- nhưng là một cách trực
tiếp diện đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm bảo vệ cho bản chất nền
tảng của giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần về sau- đã nói về
"ơn phi tạo" của việc cảm nhận trực tiếp Thiên Chúa không thông qua
trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ điển nói về sự cư ngụ trực tiếp
của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân loại và về sự tự thông truyền của
Ngài.
Tất cả những
điều này thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự thật cuối cùng về con người
chúng ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó trong cuộc hiện sinh bình dị
hằng ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu hạn, khi chúng ta sống đóng
kín nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu hướng bất khả kháng để suy
nghĩ một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về sự hoàn thành của mình.
Chúng ta có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng nơi mình và từ đó thoả mãn
với những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu đây chỉ là vấn đề quan
điểm riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì sai trái khi cảm thấy
hài lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên trần gian đều có
chung một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho thấy sự hài lòng
nói trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta không dễ gì bứt
ra.
Chúng ta không
được phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ bởi một quy luật ngoại giới
nào đó không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ với chúng ta), mà còn bởi sự
kiện rằng Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của Ngài và với lòng khoan dung
nhân hậu siêu việt của Ngài, đã tự làm cho chính Ngài trở thành luật nội tại
khắc ghi trong bản tính chúng ta, trước khi ta ý thức về chính mình và sợ hãi
không dám gieo mình vào cõi vô hạn bất khả thấu hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy
chúng ta tận trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể mình, rồi chúng ta đi tìm náu
ẩn trong những vành đai hữu hạn của cuộc hiện sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của
mình ở đó. Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức
một cách đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao khát mấy cũng không vừa trong nỗi
khát khao mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho ta, trong khát vọng tự do, hạnh
phúc, trong khát vọng gần gũi thân tình, khát vọng hiểu biết, an bình và khát
vọng thành toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ
trong đời ta chung quy chỉ là một tình trạng thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi
một thực tại hữu hạn nào đó là cái không thể thiếu cho hạnh phúc của mình. Một
người như vậy là một người ở trong tội, bởi vì người ấy không dám thực hiện
bước nhảy –bước nhảy của niềm tin, của lòng trông cậy và của tình yêu- vào
trong cõi hạnh phúc đích thực khôn cùng và bất khả thấu hiểu, là chính Thiên
Chúa và chỉ là Ngài mà thôi.
Sự diễn giải có
tính trừu tượng như thế về ý nghĩa "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" của
bản văn Tin Mừng hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng có thể có lúc ban
đầu. Sở dĩ ta cảm thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với "siêu nhiên
tính" của chính mình, tức xa xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào
chúng ta nghe trong chính mình tiếng gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy
không chấp nhận điều kiện hay giới hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô
hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta
khắc khoải muốn yêu thương vô điều kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về
người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối
mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu
hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu mới là vô cùng... Trong những cảm nghiệm
như thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có
Thiên Chúa –chứ không phải bất cứ một thực tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy
cho một kiếp người hữu hạn.
Đó là ý nghĩa
của "ơn phi tạo". Ân sủng này được thông ban nơi Đức Giêsu Kitô, tuy
nhiên nó vẫn hoạt động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại
–biểu hiện nơi tiềm năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của chính ân sủng này. Vì
thế, nó là cốt lõi nền tảng của mọi cuộc hiện sinh.
Nhưng giáo
thuyết về "ơn phi tạo" không đóng khung ở chỗ chỉ nói lên một niềm
phấn khích khôn tả về tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng ta đạt đến
chiều sâu nhất của nhận thức Kitô giáo về con người. Vị "Thiên Chúa ở cùng
chúng ta" không còn chỉ là một mầu nhiệm mông lung, một mầu nhiệm cứ mãi
còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt Ngài; và con
người chỉ có thể cảm nhận được điều ấy khi chính nhận thức của họ được đổ tràn
tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có thể làm cho chúng ta hiểu ra rằng Thiên
Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả cõi lòng mình, một cõi lòng luôn luôn
bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.
Vị "Thiên
Chúa ở cùng chúng ta" này không phải chỉ là Thiên Chúa của sự tự do tuyệt
đối (của những quyết định không còn có thể bị phủ định, và của những sự sắp đặt
tất yếu phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô điều kiện của tình yêu –một
tình yêu biết cảm mến sự tự do thần linh này đến mức đó). Đúng hơn, chính sự
gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền tảng căn bản cho nền
"luân lý" Kitô giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong lịch sử loài
người và trong cuộc đời riêng mỗi người được thấy như là không thích đáng nếu
lấy bản tính của con người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo –vì thế,
những đổi thay ấy bị tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc đạo đức
của con người, nhưng chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực cuối
cùng với Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi chúng ta
đến mức không ngờ. (Có nhiều tội "khách quan" không bao hàm chút
"sai quấy chủ quan" nào và do đó không gây cản ngại cho ơn cứu độ
–thần học kinh viện đã khẳng định như thế).
Tuy nhiên, sự tự
do của con người (là cái tác động đến cơ cấu những nguyên tắc đạo đức thế trần)
không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không
tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có tội ("tội trọng") theo nghĩa
Kitô giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu khách quan của con người và thế
giới và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng muốn có
những cơ cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa không mâu thuẫn với bản tính
hữu hạn và có điều kiện của những cơ cấu này); tội còn là nói "không"
với chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi chúng ta. Đó là lời nói
"không" của sự tự do của con người, qua đó nó chối từ cuộc phiêu lưu
liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chính mình.
Sống trong sự
gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi
an. Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế –đến nỗi quà tặng đầu tiên và
cuối cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng vượt ngoài khả năng thấu hiểu
của ta. Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta
đây rồi!.
12. Emmanuel:
Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Ngày xưa, có một
chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi
thầy giáo: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?". Thầy giáo chỉ biết
gãi đầu và nói: "Nói thực là thầy không biết". Sau đó Emmanuel đi hỏi
các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: "Thiên Chúa nói
bằng thứ tiếng nào?". Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên,
Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các
quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận
được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố
tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ.
Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa
đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có
một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền
nói: "Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con".
Chú bé quá sửng
sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy
nói: "Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói
bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay
chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng
"ngôn ngữ của tình yêu" – "Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian
đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài" (Ga 3,16).
Trái tim
Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối xuống trước Hài nhi và mừng
rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình
yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có
thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và
Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin
Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình
yêu".
Lủi thủi một
mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: "Nếu tôi muốn kẻ cho mọi người
biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ
tiếng Chúa nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói
duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được".
Thưa anh chị em,
"Thiên Chúa
là Tình Yêu" (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên
Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của
tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMNUEL, nghĩa là "Thiên
-Chúa - ở –cùng – chúng - ta", tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ
Isaia cũng như qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: "Này đây, Trinh nữ
sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa
là Thiên- Chúa – ở – cùng – chúng - ta". Ngài đến ở cùng chúng ta để làm
gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa
bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang
đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu
Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu
thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta
sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta,
để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa,
nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn
thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.
Hơn nữa, Ngài
còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài
muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, để cho Thiên Chúa và
loài người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho
ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành
bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn
hữu. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở
thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng
với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người
nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.
Vì vậy, thưa anh
chị em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng
Sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu sống và thực hiện bài học
Giáng Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những anh em nghèo hèn
trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu
thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì
khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ
bừng lên trong ánh mắt chúng ta.
Anh chị em thân
mến, EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài
người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói
chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt
đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện
khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc
sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi
người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, "vinh quang
Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa yêu".
13. Chúa Cứu Thế
giáng sinh – R. Veritas
(Trích từ 'Sống
Tin Mừng')
Chúa nhật IV Mùa
vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa,
mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được
chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng
vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: "Con Thiên Chúa Nhập
Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh
Thần", theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.
Bài tường thuật
biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong
Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn
bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên,
tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng
Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác
giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh
nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa
được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa
Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích
cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng
bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Qua đó, Thánh
Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu
mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được
loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII
mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan
báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như
thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri
này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực
sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có
phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như
sau: "Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo". Luật Do Thái
phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse
có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang
thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể
cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép
Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không
hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng,
không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định
tâm rút lui.
Thánh Giuse có
thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông
muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành
động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được
hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho
Giuse biết là: "Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai
là bởi phép Chúa Thánh Thần", và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của
Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng
tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của
người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu
huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng
làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có
thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền,
Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con
Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương
hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của
thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa,
thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho
Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn
đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân
tộc.
Mùa Giáng Sinh
sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt
chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho
ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng
ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.
14. Suy niệm của
ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN
TIẾP CHÚA
Ngày 17 tháng 12
vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu
sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích
khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh
Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau
như thế?
Thánh sử Matthêu
không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa
Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ
thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên
phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức
Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác
động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa
Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của
thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một
đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi
trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn
chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là "Thiên
Chúa ở với chúng ta".
Nhờ đâu mà thánh
Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại
tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta
thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.
1) Các Ngài có
tâm hồn khiêm nhường sâu xa.
Đức Maria là một
thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế
vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng
Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả
gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin
làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: "Này là tôi tớ Chúa,
tôi xin vâng như lời thiên thần truyền". Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài,
Đức Maria đã đáp lại: "Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người
nâng cao những người bé nhỏ". Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được
ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương
xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa
làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng
thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.
Thánh Giuse cũng
có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse
luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công
việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài
Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse
đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu
Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo
nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống
đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa
những gì thuộc về Thiên Chúa.
2) Các Ngài mau
mắn vâng lời Thiên Chúa.
Các Ngài có
chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực
hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm
thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn
xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh
ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa "xin vâng" bất chấp những đau khổ,
khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa
chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.
Vì Chúa, các
Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống.
Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.
Thái độ của các
Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái
độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền
được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn.
Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.
Đồng thanh tương
ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong
một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm
đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng
lời.
Lạy Chúa Giêsu
bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa.
Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó
những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa,
Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1) Ngày càng có
nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa.
Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?
2) Sống khiêm
nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?
3) Bạn nghĩ gì
về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia
đình?
15. Giải quyết
một vấn đề nhờ đức tin
(Trích trong
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)
Nếu đây không
phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của
thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta
suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những
cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng
phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một 'phát minh' của tình
yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu
hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên
Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng
không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm
tốn.
Tác giả Phúc Âm
báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không
phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh
Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như
Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ 'trên cao' nghĩa là
bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp
dụng cho Giuse.
Thử rút ra từ
đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:
1) Maria đã để
cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.
Có những kinh
nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi
vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse
không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa
can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển 'cái
lý' của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn
nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô
hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ
dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều
kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo.
Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ
khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm
cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương
tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần
việc ta có thể sẽ tới sau.
2) Ta nên lưu ý
tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.
Người đã có thể
chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay
thẳng căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một
giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can
thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao
cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền
móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh
thần phục vụ, tấm lòng cởi mở... hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta
tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những
nền tảng nhân bản rất cao quý.
16. Mùa Vọng:
Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống
Trên chuyến xe
xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để
đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ
quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết
hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ
hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm
nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.
Đành lòng làm
thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học
tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm
thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết
truyện là đám cưới.
Truyện có hậu và
có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không
phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề "Tình yêu trong veo": trong
veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai
bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề
"Tình yêu trong veo" ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình
yêu.
1) Bằng tình yêu
trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.
Trong khi người
Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về
một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những
biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng
mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là
mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng
là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu
không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa
đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.
Người đến thật
gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế.
Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng
khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ,
chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp
nhận được làm người: "Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta"
(Ga 1,14)
Phải chăng khi
trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng
nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa
không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không
phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên
Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy
mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được
chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích
cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người,
Thiên Chúa đã làm người.
Chính hai Danh
xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh
xưng Emmanuel khẳng định "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", Danh xưng
Giêsu bộc lộ "Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ" (Mt 1,23-25). Nối kết hai
Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa
dành cho con người: Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và
Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta.
2) Bằng tình yêu
trong veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.
Nếu bằng tình
yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư
Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức
Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho
Thiên Chúa.
Đối với Đức
Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ
hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào
Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập
Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối,
thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất
làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu
trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa "Xin vâng"
(Lc 1,38) là cả một tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức
Maria đã gửi trọn phận mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm
chết người: trinh nữ mà lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới
đính hôn thôi mà sắp thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?
Còn thánh Giuse,
con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử
đến độ ray rứt, nhất là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như
Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp
kín đáo hào hùng về một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những
lựa chọn xé lòng. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển
biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để
rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. "Đào vi thượng sách"
là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp
nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà
người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm
(Mt 1,24).
Nhìn như thế, tình
yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không
chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm
của những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người
ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản
trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc
Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.
3) Cũng bằng
tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.
Hiểu như trên,
Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên
Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa.
Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng
trong ơn cứu độ.
Trên nền tảng
ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh.
Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh
quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây
thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với
muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao
giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần
giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là
màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh
hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực của mình.
Nếu ngày xưa
trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng "Ai được lên Núi Chúa?" đã
nhận được lời đáp "Chỉ những người thật thà ngay chính tay sạch lòng thanh
mới được bước tới Thánh Cung" (Tv 23,3-4), thì hôm nay cũng thế, trong bài
ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp cận lễ Giáng Sinh cả,
kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng trinh trong mới xứng
đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một lần đến sinh ra trên
trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như Người có đến sinh ra
nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn sàng một tình yêu
trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn như thế trước
lễ Giáng Sinh?
Hơn nữa, tình
yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với
những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha
nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối
tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.
Trong Phúc Âm,
Giuse biết tiếp nhận ý Chúa "qua giấc mơ", để rồi sau đó "tỉnh
dậy" ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu
thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ "vô tư". Nhưng đó lại là
bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần
trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình
trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu
Giáng Sinh.
Tóm lại, tình
yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy
con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín
hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón
Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa
là những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn
thăng tiến. "Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa
cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên
Đàng" (thơ Xuân Ly Băng).
Đến đây, xin
được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến
những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những
tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng
Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ
"Màu Vọng" để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím
gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.
17. Công chính
Qua phần chia sẻ
hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse.
Trước hết thánh
cả là người tin tưởng nơi cha mẹ và truyền thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu
sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo
phong tục Do Thái, đám cưới gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ
nhất là sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi cha mẹ hai bên hay bởi ông bà
mai mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã không biết nhau trước khi cam
kết. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này kéo dài cả năm để cho đôi trai
gái có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ được coi như vợ chồng, mặc dù
không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ
phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới: xảy ra vào cuối năm của giai đoạn
hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria
đã có thai như bài Phúc âm hôm nay tường thuật.
Tiếp đến, thánh
cả Giuse là người tin tưởng bạn mình, Maria. Trong thời gian hứa hôn, nếu người
vợ ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội "ném đá". Sự kiện Maria đã
có thai làm Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử lắm! Nhưng với tình
yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse "không muốn tố giác bà",
nhưng chỉ "định tâm bỏ bà cách kín đáo". Trong hoàn cảnh khó khăn
này, chính tình yêu đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ và con người để khám
phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin.
Maria đã xác tín
rằng, mặc dù nàng đồng trinh, nàng "đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh
Thần" như lời thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo trong giấc mơ
phù hợp với điều bạn mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm lòng thành thật
của Maria và "nhận Maria về nhà làm vợ mình". Họ đã thành thật tin
tưởng nhau.
Một trong những
điều sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là phải sống trong nghi ngờ và đố
kỵ. Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những khó khăn nhất của cuộc sống ở
mọi thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.
Sau cùng, thánh
cả Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người Do Thái quan niệm Chúa Thánh
Thần là người mang sự thật đến cho con người. Chúa Thánh Thần đã dạy cho các
tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm gì. Và cũng chính Chúa Thánh Thần sẽ
hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật khi gặp thấy. Bởi Giuse là người công
chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang sự thật đến. Ông đã nhận ra sự thật và
tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó, cho dù cách thức mạc khải chỉ là trong
giấc mơ.
Một câu ngạn ngữ
của người Nigeria nói rằng, "Hãy lắng nghe, và bạn sẽ nghe được những bước
chân của các con kiến". Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước
chân âm thầm của Thiên Chúa đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ
tới. Chính ở nơi Chúa Thánh Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: "Chính ở
nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu".
Chúng ta ca tụng
thánh Giuse là "Đấng công chính" đã nêu cao tấm gương nhân từ, thánh
thiện và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ trung tín. Vì thế trong
kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm bạn của Đức Trinh Nữ
Maria, và dưới dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm người thuộc dòng tộc
Đavid, đã âu yếm gọi ngài là "Cha".
Với lòng nhân
hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila
đã nói với chúng ta: "Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà
không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này
việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi
trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà
xem".
18. Thiên Chúa
làm gì cho chúng ta?
Trong Thánh Lễ
sáng Chúa Nhật, vị linh mục bước lên tòa giảng và đọc một đoạn trong sách Cựu
Ước. Cuốn sách này đã cũ kỹ, nhưng được cha dùng keo để gián lại. Vì vô tình
khi dùng keo để dán, cha đã để lại một chút keo ở trang đàng sau, và như thế
khi cha lật từ trang cha đang đọc sang trang sau, nó dính vô trang kế tiếp đó,
bởi thế nên cha đã đọc đoạn sách thánh đó như sau: "Vậy khi loài người bắt
đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, thì các con trai Thiên
Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ...
(chỗ này nhà giảng thuyết lật trang sau để đọc tiếp thì) chiều dài một trăm năm
mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước..."
(Gn 6:1-2,15). Sau một phút bối rối, nhà vị linh mục nói: "Tôi xin cáo lỗi
cùng Quí Vị. Tuy nhiên, theo một khía cạnh, tôi thấy rằng đoạn Thánh Kinh trên
diễn tả vẻ tuyệt diệu về con người chúng ta đã được Chúa tạo dựng."
Mỗi một người là
một món quà đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và tình yêu vô hạn. Ngài không
chỉ ban cho chúng ta món quà sự sống nhưng còn ban tặng chúng ta sự toàn năng
và tình yêu vô hạn của Ngài để giúp chúng ta có một cuộc sống sung mãn. Đó là
điểm mà đạo Công Giáo của chúng ta bắt nguồn. Căn bản của đạo chúng ta không
phải là điều chúng ta có thể làm cho Chúa, nhưng là Thiên Chúa làm gì cho chúng
ta.
Đó là tất cả ý
nghĩa của Kitô giáo. Đó là Tin Mừng của đức tin chúng ta. Đó là lý do tại sao
Chúa Giêsu đã sinh ra tại hang Bêlem. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã được
nuôi dưỡng trong gia đình thợ mộc nghèo khổ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đi
từ làng này sang làng khác rao giảng về sự siêu việt của Nước Chúa, chữa lành,
và bài trừ những người giả hình của phái Pharisiêu. Đó là lý do tại sao Chúa
Giêsu đã kiên nhẫn chịu đựng những khổ hình và chịu đóng đinh vào thánh giá. Đó
là lý do tại sao Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ và phán: "Bình an cho các
con." Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã thổi Thánh Thần vào thế giới qua
các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa Giêsu đã sống, đã chết, và đã sống lại để
làm tất cả mọi sự đổi mới bằng ngọn lửa thanh tẩy của tình yêu Thiên Chúa. Sứ
mệnh của Chúa Giêsu là chỉ cho chúng ta con đường biết hàng phục một cách vô
điều kiện với sự mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với tình yêu
bao la của Chúa, chúng ta chỉ có thể đón nhận, chứ không phải là kiếm được. Đó
là món quà của Chúa ban cho một cách nhưng không mà không bao giờ chấm dứt;
trước sau như một, bền bỉ, mãi mãi. Chúng ta không thể nào dứt bỏ được. Chúng
ta không thể nào làm cho Chúa ngừng yêu thương chúng ta. Chúng ta không thể nào
làm cho tình yêu ấy nhạt đi, biến mất, hoặc bắt buộc nó phải đi chỗ khác. Tình
yêu ấy không câu nệ gì đến việc chúng ta là ai, đang ở đâu, và là cái gì. Thiên
Chúa yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta có là cái gì đi chăng nữa. Câu hỏi
được đặt ra là "Ngay trong giây phút này, các bạn có trong sạch như Thánh
Gioan Tông Đồ hoặc Maria Mađalêna không? Các bạn có sẵn sàng để đón nhận món
quà của lòng từ bi vô biên của Chúa ở tận thâm tâm của các bạn chưa? Các bạn có
sẵn sàng để chấp nhận sự thật đó như là một điều khẩn thiết cho cuộc lữ hành
tiến tới sự sung mãn chưa?"
Không có một tội
nào ngăn cản Thiên Chúa không ban cho các bạn bất cứ điều gì, cả những điều các
bạn không tưởng tượng nổi. Không có một phản nghịch nào có thể làm cho Thiên
Chúa thất vọng với các bạn. Không có một buồn phiền nào có thể ngăn cản Thiên
Chúa không tiếp tục dẫn dắt các bạn. Ngài tiếp tục, trước sau như một, để đi
vào cuộc sống của bạn bằng cả ngàn cách thức. Ngài kiên cố và bền vững trong
cách thế đó, từ tình yêu vô bờ cho các bạn và lòng ao ước mạnh mẽ để đem các
bạn tới chỗ sung mãn.
Bài Phúc Âm hôm
nay bắt đầu cuộc truyền tin mà thiên thần loan báo cho Mẹ rằng Mẹ sẽ sinh ra
Đấng Cứu Thế. "Này tôi là nữ tỳ của Chúa," Mẹ đáp, "Xin hãy
thành sự nơi tôi theo như lời ngài truyền." Chúng ta sẽ không có Lễ Giáng
Sinh nếu Mẹ không mở rộng bàn tay để đón nhận món quà từ tình yêu vô bờ của
Thiên Chúa. Sự ưng thuận của Mẹ là trung tâm điểm của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau
khi thiên thần từ giã, Mẹ liền vội vã đi thăm bà dì Elisabét. Như là muốn nhấn
mạnh tầm quan trọng của sự nhậm lời của Mẹ, bà dì Elisabét đã chào Mẹ rằng:
"Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói
với em" (Lk 1:45).
Trong Sách ngôn
sứ Isaiah, Thiên Chúa phán: "Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn
tay Ta" (Is 49:16). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả thật đúng cách thức
Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài nhìn chúng ta trên bàn tay của Ngài đã dùng
để tạo dựng và ghi khắc. Chúng ta là một phần không thể tẩy xóa được trong sự
sống của Thiên Chúa bởi vì chúng ta được dựng nên bằng hình ảnh của Ngài. Thánh
Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa gần chúng ta như thế đó. Ngài không ghi khắc
chúng ta ở trong bàn tay Ngài như là một phần thưởng. Chúng ta không giành được
cái chỗ vinh dự như thế ở trong sự sống của Thiên Chúa. Thêm nữa, chúng ta
không thể nào thay đổi được. Chúng ta có thể xa cách Ngài nhưng đối với Ngài
thì luôn luôn trao ban cho chúng ta tất cả để chúng ta có thể đạt được sự sống
sung mãn trong tình yêu Ngài.
Thiên Chúa mong
muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Ngài trong lúc này. Sự hưởng
nếm ngọt ngào nhất về tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta bằng yêu và được
yêu. "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con," Chúa Giêsu đã ra
lệnh như thế.
19. Suy niệm của
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu gặp hoàn
cảnh của Giuse, tâm trạng của bạn sẽ thế nào? Bạn sẽ đối xử thế nào với người
yêu mà bạn ngỡ là đã phản bội bạn?
2. Trong trường
hợp này Giuse đã hành xử thế nào? Tình yêu của Giuse đối với Maria là thứ tình
yêu nào? vị kỷ hay vị tha? chiếm đoạt hay dâng hiến?
3. Tại sao Thiên
Chúa lại chủ trương Đức Giêsu phải được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh,
nghĩa là không do sự kết hợp với một người nam?
4. Giới răn yêu
thương của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho những ai? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Tâm trạng của
Giuse khi thấy Maria có thai
Theo tục lệ Do
Thái, để trở nên vợ chồng thực thụ, đôi nam nữ phải trải qua ba giai đoạn: (1)
Hai gia đình tiếp xúc với nhau, đồng ý cho đôi nam nữ tiến tới hôn nhân. (2)
Đính hôn hay hứa hôn: đôi nam nữ hứa hôn với nhau trước mặt hai gia đình, bà
con, bạn bè và mọi người. Kể từ đây, đôi nam nữ được coi như vợ chồng, nhưng
chưa được sống chung hoặc có quan hệ tính dục với nhau. Mối liên hệ này chỉ
được hủy bỏ khi một trong hai người qua đời, hoặc khi tuyên bố ly dị. (3) Lễ
cưới: đôi nam nữ chính thức là vợ chồng và bắt đầu sống chung với nhau. Khi
Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần và Giuse được sứ thần báo mộng, thì
hai người đang ở giai đoạn thứ hai: đính hôn.
Trước khi được
sứ thần báo mộng, Giuse thấy Maria – người bạn đã đính hôn với mình – có thai.
Cứ theo cách cắt nghĩa tự nhiên cũng là duy nhất, thì rõ ràng Maria đã ngoại
tình. Chắc chắn Giuse rất bối rối, buồn phiền, thậm chí thấy mình bị xúc phạm
mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này, Giuse có quyền từ hôn. Chàng
có thể tố cáo Maria về vụ việc này, và nhà cầm quyền Do Thái có thể xử tử nàng
bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật trong Đnl 22,23-24. Nhưng chàng
không làm như thế. Mặc dù cảm thấy như bị xúc phạm và phản bội, chàng chỉ định
tâm bỏ nàng cách kín đáo, cho đến khi được sứ thần báo mộng.
Mặc dù chỉ biết
qua giấc mộng – nghĩa là không chắc chắn và rõ ràng – rằng Maria thụ thai bởi
Thánh Thần, Giuse đã chấp nhận đem Maria về nhà mình, bất chấp dư luận không
hay về mình. Vì Giuse làm như thế, dư luận sẽ cho rằng: hoặc hai người đã quan
hệ vợ chồng một cách bất chính trước khi được phép, điều này chứng tỏ hai người
thiếu đạo đức; hoặc Giuse đã chấp nhận cái nhục «người ta ăn ốc, mình đổ vỏ».
Do đó, việc chàng chấp nhận Maria phải nói là can đảm, hy sinh, và tình yêu của
chàng đối với Maria quả là chân thật và mãnh liệt. Chàng đúng là một người công
chính, cao thượng, biết tuân phục thánh ý Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu
sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh
Việc Đức Giêsu
được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, không do ý muốn của người nam, là do
ý định khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều này rất quan trọng trong Kitô giáo. Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa, với sứ mạng giải phóng con người khỏi tội lỗi, Ngài phải
hoàn toàn không bị vướng vào tội lỗi. Nếu chính Ngài mà còn có tội, còn sống
dưới ách tội lỗi, thì Ngài có thể giải phóng tội lỗi cho ai? Mà mọi người sinh
ra bởi người nam, đều vướng tội tổ tông do Ađam truyền lại. Vì theo quan điểm
của xã hội phụ hệ Do Thái, sự kế thừa từ thế hệ trước sang thế hệ sau hoàn toàn
qua người nam. Do đó, nếu Đức Giêsu sinh ra từ một người nam, Ngài không khỏi
kế thừa tội tội tổ tông từ cha mình. Để Ngài không chịu ảnh hưởng tội tổ tông,
Thiên Chúa đã dùng quyền năng Thánh Thần của mình để Đức Giêsu chỉ được sinh ra
duy nhất từ một người nữ – vốn là điều cần thiết để trở nên một người trần – mà
không do sự kết hợp với người nam. Nhờ thế, Ngài không bị ảnh hưởng của tội tổ
tông, lại hoàn toàn và duy nhất là Con của Thiên Chúa, đồng thời vẫn là một con
người trọn vẹn.
3. Tình yêu đích
thực trong đời sống vợ chồng
Trong sứ mạng
cứu chuộc nhân loại, thì một trong những mục đích quan trọng của Đức Giêsu là
dạy con người sống yêu thương nhau. Ngài đã lập nên luật mới cho kỷ nguyên của
Ngài là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau;
anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Ngài đã
làm gương cho cả nhân loại bằng cách yêu thương đến tận cùng (x. Ga 13,1), hy
sinh cả mạng sống cho nhân loại mà mình thương yêu (x. Ga 15,13). Nhưng Ngài
không sống đời hôn nhân, nên Ngài không thể có một tấm gương cụ thể của một
người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng bù lại, cha nuôi của Ngài là thánh Giuse
đã cho nhân loại gương sáng ấy. Bài Tin Mừng cho thấy Giuse đã yêu Maria bằng
một tình yêu đầy tính vị tha và dâng hiến.
Tình yêu trong
đời sống vợ chồng có thể phân thành hai loại:
– tình yêu vị kỷ
hay chiếm đoạt: Trong thứ tình yêu này, người ta coi người mình yêu như một
phương tiện để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình, hay như một đối tượng mà
mình phải chiếm đoạt làm của mình. Với tình yêu vị kỷ, người ta coi người mình
yêu phải phục vụ cho hạnh phúc của mình. Và người ta đặt hạnh phúc của mình lên
trên hạnh phúc của người mình yêu. Khi có sự xung đột giữa hạnh phúc của mình
và của người yêu, thì họ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của người yêu cho hạnh phúc
của mình, sẵn sàng chấp nhận để người mình yêu đau khổ miễn mình được hạnh
phúc. Và họ không thể chấp nhận bị người yêu phản bội. Họ sẵn sàng đày đọa
người mình yêu vì sự phản bội ấy. Họ không thể chấp nhận cho người mình yêu
được hạnh phúc với một ai khác ngoài mình. Thực ra, đây không phải là tình yêu
đích thực. Người ta chỉ yêu chính bản thân mình một cách gián tiếp qua người
yêu của mình, chứ không phải yêu thương người ấy thật sự.
– tình yêu vị
tha hay dâng hiến: Với tình yêu này, người ta cảm thấy có nhu cầu ra khỏi chính
mình để hướng về người mình yêu, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá
trị hơn và được hạnh phúc hơn. Người ta sẵn sàng chấp nhận mình thiệt thòi để
người mình yêu được lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Với
tình yêu này, người ta sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi
người này lầm lỗi. Đây mới chính là tình yêu đích thực mà Thiên Chúa muốn mọi
cặp vợ chồng phải có đối với nhau. Giuse đã yêu Maria bằng thứ tình yêu này.
Người yêu bằng
tình yêu vị tha hay dâng hiến, gặp trường hợp tương tự như Giuse – thấy người
sắp kết hôn với mình có vẻ như phản bội – thì chỉ biết đau khổ cho mình, chứ
không hề muốn làm một điều gì có hại cho người mình yêu. Người ấy sẽ nghĩ: nếu
người mình yêu cảm thấy sống với người khác sẽ hạnh phúc hơn sống với mình, thì
mình cũng sẽ an tâm và sẵn sàng chấp nhận đau khổ, hy sinh để người mình yêu
được hạnh phúc.
4. Đối tượng
phải yêu thương hàng đầu là người trong gia đình
Giới răn yêu
thương của Đức Giêsu cần được áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù hay
người làm hại mình (x. Mt 5,44; Rm 12,20). Nhưng trước hết, nó phải được áp
dụng ưu tiên cho những người gần mình nhất, có quan hệ ruột thịt với mình, cùng
sống trong một gia đình hay một nhà với mình: cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con
cái, cháu chắt... Trong số đó không ai gần gũi mình cho bằng vợ hay chồng mình,
vì là vợ chồng thì «không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt» (Mt
19,5; x. St 2,24; Ep 5,31). Vì thế, giới răn yêu thương của Đức Giêsu phải được
áp dụng ưu tiên hàng đầu cho vợ hay chồng mình, rồi tới cha mẹ, con cái mình.
Nếu những người ruột thịt này mà ta không yêu thương được bằng một tình yêu
chân thật, vị tha, dâng hiến, thì ta không thể yêu ai khác bằng tình yêu này
được. Mọi thứ tình yêu ta có đối với người khác đều chỉ là tình yêu vị kỷ, hoặc
tệ hơn nữa, tình yêu môi miệng, tình yêu đóng kịch, tình yêu xây dựng trên sự
đổi chác quyền lợi... Đó không phải là tình yêu đích thực.
Thiết tưởng
trong việc chuẩn bị đón Chúa đến, không gì thích hợp và đẹp lòng Thiên Chúa cho
bằng canh tân, đổi mới lại tình yêu trong chính gia đình của mình. Hãy yêu mọi
người trong gia đình mình bằng một tình yêu chân thật, mãnh liệt, đầy tính vị
tha và dâng hiến. Tình yêu đối với gia đình sẽ là mẫu mực và là căn bản để từ
đó ta áp dụng đối với tất cả mọi người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho
con có được một tình yêu đích thực, thứ tình yêu vị tha, dâng hiến, chứ không
phải thứ tình yêu mang tính vị kỷ, chiếm đoạt, hay tình yêu giả hiệu, ngoài môi
miệng. Xin cho con biết áp dụng tình yêu đích thực ấy ngay trong gia đình của
con, để từ đó lan tỏa ra với tất cả mọi người.
20. Emmanuel
Đọc lại Cựu Ước,
chúng ta thấy được hình ảnh nào của Thiên Chúa? Theo tôi nghĩ, điều Cựu ước nhấn
mạnh cho dân Do thái, đó là một Thiên Chúa duy nhất đầy quyền uy.
Thực vậy, ngay
những trang đầu của sách Sáng thế ký, sau khi Adong Evà phạm tội, thì buổi
chiều Thiên Chúa đã tản bộ đi trong vườn địa đàng với làn gió nhẹ. Adong Evà đã
hoảng sợ và tìm kiếm chỗ ẩn núp, nhưng cũng không thể nào thoát khỏi cái nhìn
của Thiên Chúa, để rồi cuối cùng đã lãnh nhận bản án của đau khổ, của chết chóc
cho hành vi phản bội đầu tiên ấy.
Tiếp theo là
việc Thiên Chúa hiện ra và kêu gọi Maisen lên đường giải phóng dân tộc Do thái,
đang sống dưới ách nô lệ, dưới sự kìm kẹp của vương quốc Ai cập. Lúc bấy giờ
Maisen nhìn thấy một bụi gai bừng cháy, ông mon men tiến tới, thì được Giavê đã
phán:
- Chớ lại gần,
hãy cởi dép vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh.
Maisen đã phải che
mặt vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa.
Và sau cùng
trong cuộc xuất hành trở về miền đất hứa, Đức Giavê đã tàn sát các con trai đầu
lòng Ai cập, đã vùi dập binh đội của Pharaon nơi lòng biển cả. Và tại đỉnh núi
Sinai, Đức Giavê đã trao ban lề luật cho Maisen trong một cảnh tượng hùng vĩ.
Kinh thánh ghi lại rằng: Bấy giờ ngọn núi cuồn cuộn như bốc khói. Ngay cả sau
khi Maisen xuống núi, khuôn mặt ông vẫn còn chói lọi, đến nỗi dân chúng sợ hãi
không dám tiến lại với ông.
Bằng đó những sự
kiện chỉ có ý muốn nói lên rằng: Thiên Chúa trong Cựu ước là Thiên Chúa của uy
quyền. Ngài hiện ra trong sấm chớp hãi hùng, để truyền khiến, để sửa phạt. Đứng
trước vị Thiên Chúa toàn năng ấy, con người nhỏ bé của chúng ta chỉ có một thái
độ, đó là run sợ và khiếp hãi.
Thế nhưng, Cựu
ước chỉ nắm giữ vai trò chuẩn bị, vai trò sửa soạn cho Đức kitô xuất hiện. Tất
cả Cựu ước đều qui hướng về Đức Kitô và cùng với Đức Kitô, chúng ta có được một
hình ảnh đầy yêu thương của Thiên Chúa. Hình ảnh này đã được tiên tri Isaia
loan báo gần 700 năm về trước:
- Này đây một
trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Lời loan báo này
đã trở thành một sự thật trong Tân ước. Phải, đúng thế, Tân ước đã làm tròn
những hình ảnh được nói đến trong Cựu ước, nhờ đó chúng ta thấy rõ Đức kitô
chính là Thiên Chúa.
Qua bài Phúc âm
hôm nay, sứ thần đã nhắc lại cho Giuse trong một giấc mộng lời nói tiên tri
Isaia, để rồi một vài ngày nữa, trong đêm Giáng sinh, lời hứa về đấng Emmanuel
sẽ được thực hiện. Thiên Chúa đã đến ở giữa chúng ta, không phải trong uy quyền
với áng mây cột lửa, nhưng trong yêu thương với quang cảnh ngèo nàn và đơn sơ
của máng cỏ Bêlem.
Từ một Thiên
Chúa uy quyền và công bằng, Ngài đã trở nên một Thiên Chúa yêu thương và tha
thứ. Ngài đó, một hài nhi bé bỏng như muôn ngàn vạn hài nhi khác. Ngài không
đến trong sấm chớp, nhưng trong yên lặng của đêm khuya, trong rét mướt của mùa
đông và trong nghèo hèn của chuồng bò. Ngài không làm cho bụi cây trong sa mạc
bốc cháy, nhưng khi trông thấy Ngài các vì sao như rực sáng long lanh. Ngài
không đòi phải có đền thánh huy hoàng, nhưng một nắm cỏ khô đã đủ cho ngài.
Không phải là những biểu ngữ, những cổng chào của đám đông cuồng nhiệt đã tiếp
đón Ngài như một ngày hội lớn, nhưng là nụ cười hiền dịu của Đức Maria và tấm
lòng chân thành của thánh Giuse và các mục đồng, đúng như lời tiên tri Isaia đã
loan báo:
- Ngài sẽ không
la to, không nói lớn và người ta sẽ chẳng nghe thấy tiếng Ngài ngoài phố. Ngài
đã không bẻ gẫy cây sậy đã dập và không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Thiên Chúa của
chúng ta là như thế đó. Vậy đâu là nguyên nhân, là động lực thúc đẩy Ngài trở
thành một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Tôi xin thưa:
- Đó chính là vì
tình yêu.
Thực vậy, người
ta thường nói:
- Yêu nhau chẳng
quản xa gần,
Mấy sông cũng
lội, mấy ngàn cũng qua.
Nhìn vào kinh
nghiệm thường ngày chúng ta cũng thấy được như vậy. Chẳng hạn hai anh chị yêu
thương nhau, họ luôn mong muốn và làm mọi cách để có thể gặp nhau, để có thể
ngồi tâm sự vui với nhau giờ này qua giờ khác.
Chẳng hạn người
chồng phải đi học tập cải tạo tại, nhưng vì yêu thương, người vợ không bao giờ
quản ngại đường sá xa xôi. Mỗi tháng lếch thếch với đứa con nhỏ và những đồ
tiếp tế để đi thăm chồng.
Nếu quả thực là
như vậy, thì hẳn tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta phải lớn lao, phải vĩ
đại biết bao nhiêu. Bởi vì Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời
xuống đất, từ Thiên Chúa toàn năng đến một hài nhi yếu ớt. Khoảng cách ngàn
trùng ấy đã được Chúa Giêsu vượt qua cho đến đời đời, bởi vì Ngài đã ở lại với
chúng ta luôn mãi. Chúng ta có thể nói được rằng:
- Ngài đã kết
hôn với bản tính nhân loại chúng ta để ăn mày đến vô biên.
Điểm đặc sắc của
kitô giáo là ở chỗ đó: Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ý niệm trừu
tượng, một nhân vật hoang đường, nhưng là một con người cụ thể đã, đang và sẽ
còn sống mãi bên chúng ta suốt những chặng đường đời, để yêu thương và tha thứ.
Một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa đã đi
quãng đường dài nhất để đến với chúng ta, còn bây giờ chúng ta sẽ phải đi nốt
những bước chân còn lại. Ngài đến ở giữa chúng ta, nhưng có yêu thương và gắn
bó với Ngài hay là chúng ta đã lạnh nhạt và xua đuổi Ngài như hánh Gioan đã
viết: Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà đã chẳng đón nhận.
Nếu như bây giờ
Chúa trở lại, liệu Ngài có tìm thấy một nơi trú ngụ trong tâm hồn chúng ta hay
không?
21. Emmanuel-
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
(Suy niệm của Lm
Phêrô Bùi Quang Tuấn)
John P., một
linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo
trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như
"nước đổ lá môn."
Một lần kia, Mẹ
Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi
nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu
Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ
rời thành phố. Ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc mỗi
khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo
vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây
bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào: "Alô, con muốn xưng tội
với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội."
- "Chuyện
gì xảy ra cho anh vậy?" Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh
niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.
Nhưng anh ta trả
lời: "Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động
lòng con rất nhiều."
Vị linh mục ngạc
nhiên: "Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại
đâu có cơ hội để gặp riêng anh?"
- "Vâng
thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có
con. Mẹ nói rằng: "Chúa ở với các con."
Nghe thế, vị
linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa: "Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh
như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ
Têrêsa?"
Anh thanh niên
chậm rãi giải thích: "Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm
hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình."
Một câu nói
không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường
thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả
năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh
hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong một Thánh
lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: "Chúa ở cùng anh chị
em," nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước
sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có
cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện
hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và
nghe với tất cả tâm hồn?
Nếu thấu hiểu
được thế nào là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta," chắc chắn sẽ không có
một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa, khi
Môisen đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã
hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách
nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên
đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: "Ta sẽ ở với ngươi" (Xh 3:12).
Rồi khi Giêrêmia
được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái
thác: "Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con."
Nhưng Chúa nói: "Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi" (Gr 1:8). Với lời hứa
ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
Trong Tân ước,
khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất
đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo
đảm lại chỉ là một lời hứa: "Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận
thế" (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không lời hứa
nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa
"ở cùng người yêu," và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt
cho bằng được "sống chung với người yêu." Một chàng thanh niên có thể
hứa với người con gái: "Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà
Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này...,"
nhưng nếu không có lời hứa "ở cùng em" thì vô ích hết. Cao điểm hạnh
phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới
soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân
hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước
đó họ hứa "ở cùng nhau suốt đời."
Một linh mục đã
nhận xét: "ở cùng" chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai
người ta mới nghĩ đến "ở cùng."
Vì yêu nên mới
có việc Thiên Chúa đến "ở cùng" con người, mới có danh hiệu Emmanuel,
mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và
chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu thương
con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có
lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài
đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
Danh hiệu
Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành
cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ
đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và
tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình
người.
Như Thiên Chúa
đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên--giữa Tạo hoá và
loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng ta
cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để
việc tôi "ở cùng" tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét
khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
22. Điều xảy đến
bất ngờ - Lm Nguyễn Ngọc Long
Khi sống trong
trông mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành
thích thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn đầy niềm vui hạnh phúc.
Nhưng trái lại,
khi điều xảy đến bất ngờ, không những không như mong đợi mà còn đưa đến điều lo
âu suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo thất vọng. Thánh Giuse sau khi
kết hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều xảy bất ngờ mang lại nhiều suy
nghĩ bối rối.
Ông Giuse kết
hôn với cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô Maria đã có thai. Điều này xảy
đến thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ... Bao nhiêu câu hỏi diễn ra trong
tâm trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại sao cô Maria lại mang thai
trước khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không trung tín với người chồng
của cô, là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất trung với ta, thì ta bỏ cô
vậy, mặc cô muốn sống sao như ý cô?
Ông âm thầm suy
nghĩ ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ xảy đến nữa. Thiên thần Chúa
hiện đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông biết: con trẻ trong bào thai
cô Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần
tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của Thiên Chúa xuống trần gian làm
người!
Ông Giuse tuy là
người đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên Chúa, nhưng làm sao ông có thể
hiểu nổi điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng tượng của một bác thợ mộc chất
phác nơi miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông không hồ nghi. Ông âm thầm
chấp nhận cô Maria và những lời Thiên Thần nói cho ông về Con Thiên Chúa và để
bụng suy nghĩ tiếp về chương trình dự định của Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan
phòng của Người.
Điều xảy đến bất
ngờ lần này mang lại cho ông sự bình an trong tâm hồn.
Không chỉ Đức Mẹ
Maria và ông thánh Giuse sống trải qua những điều bất ngờ về chương trình của
Thiên Chúa, nhưng còn có những người khác nữa: các mục đồng. Họ là những người
quê mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng
họ cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên thần Chúa hiện đến báo tin cho
họ: "Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh hạ trong chuồng súc
vật của các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!"
Họ ngạc nhiên
nhưng trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ xảy đến mang lại cho họ nhiều
thích thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có khách cao trọng từ trời cao
đến thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến đổi cuộc sống của họ: từ
người chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy Thiên Thần của Chúa, được đến
thăm viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không chỉ với
biến cố Thiên Chúa xuống thế làm người mới có những điều xảy bất ngờ, nhưng
điều xảy ra bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời mỗi người. Điều đó có thể là
điều may lành an vui, nhưng cũng có thể là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến
độ lo âu suy nghĩ bối rối mất bình an.
Thông thường ai
cũng mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui hạnh phúc hơn điều mang đến sự
bất an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse đã trải qua, đôi khi những
điều xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối, không mấy ai muốn chấp nhận,
lại là tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an cho con người.
Những đau khổ,
bệnh tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó chịu là những điều xảy đến bất
ngờ và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh Giuse với một tâm hồn tin tưởng
vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng chấp nhận, điều đó có thể trở nên
giá trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và người khác nữa.
Đức Mẹ Maria
cũng đã vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa mang đến bất ngờ ngoài điều
mong muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh xuống trần gian. Ngài mang ánh
sáng tình yêu từ trời cao xuống cho con người. Và qua biến cố đó, nhân loại mới
có ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm người, để con người được làm con
Thiên Chúa.
23. Chú giải của
Noel Quesson
Những "Tin
Mừng về tuổi thơ" là những trang Tin Mừng kỳ diệu, rất khác với các Tin
Mừng khác: Matthêu và Luca là những người duy nhất nói cho chúng ta hay, lại
không phải là những chứng nhân trực tiếp. Các ông đã sưu tập lại những kỷ niệm
được lưu giữ trong các môi trường "Do Thái – Kitô" và nhất là trong
gia đinh Đức Giêsu. Và với dữ kiện cơ bản" này, các ông đã xây dựng một Dẫn
nhập thần học, có phần giống như một nhạc sĩ soạn một "Khúc dạo đầu"
mà ở đó nhạc sĩ làm cho người ta nghe thấy những chủ đề chính mà ông muốn khai
triển tiếp theo. Dưới vẻ bề ngoài thô thiển và vụn vặ, đó là những văn bản
phong phú những giáo lý sâu sắc, dĩ nhiên được viết sau khi Đức Giêsu sống lại
và cần phải đọc "trong đức tin". Điều ấy không có ý nói rằng,
"tính nhân bản không có trái lại là khác".
Matthêu, khác
Luca, không tập trung tuổi thơ của Đức Giêsu và Đức Maria, nhưng vào Giuse: 1.
Giả phả Đức Giêsu, theo dòng dõi Giuse; 2. Loan báo việc sinh Đức Giêsu cho
Giuse, và chấp nhận vai trò của mình: chồng Đức Maria và cha pháp lý của Đức
Giêsu; 3. Việc thờ phụng của các nhà chiêm tinh và vai trò chủ chốt của Giuse
bảo đảm an toàn hài nhi khi trốn sang Ai Cập; 4. Trở về Na-da-rét, theo lệnh
của một thiên thần luôn luôn nói với Giuse (Mt 1,1 - 2,23).
Chúa nhật này
trước lễ Giáng sinh. Giáo Hội đề nghị chúng ta nghe tin loan báo cho Giuse.
Đây là gốc tích
("khởi nguyên") của Đức Giêsu Kitô.
Nói "khởi
nguyên" là nói đến "bắt đầu". Đó là tiếng trang trọng lớn lao
của khởi đầu thế giới, trong sách đầu tiên của Kinh Thánh.
Đối với người
Sê-mít, quan niệm "nhân vị" như một cái toàn thể, vữa có tính thể xác
và linh thiêng, khác với những người Hy Lạp, coi "nhân vị" trước hết
như một linh hồn, thực tại linh thiêng, nhập thể vào trong một thân xác Đức
Giêsu Kitô "bắt đầu" ở chính khoảnh khắc mà người nhập thân vào
"lịh sử con người", vào biến cố này, vào tình huống mà Đức Gìêsu sinh
ra.
Bà Maria, Mẹ Đức
Giêsu đã thành hôn với ông Giuse.
A, tất cả mọi
người đều tin là biết lịch sử về con người của Giuse. Một con người trở thành
đề tài để giễu cợt trong trại lính và trong xưởng thợ. Người ta đã đặt thành
những bài hát dân gian diễu cợt con người ngây thơ và nạn nhân này; ông Giuse đáng
thương! không phải thế sao? Nhất thế là chế nhạo Tin Mừng và không biết tí gì
về cặp Maria và Giuse. Cặp này chắc chắn là cặp hạnh phúc nhất trong suốt lịch
sử. Người mà, trong tất cả các cặp được thành hình từ khi tạo thành thế giới,
được mang dấu ấn một lịch sử phổ quát! Cặp này cũng là cặp 'phong nhiêu nhất
trong các cặp'. Ban đầu, tình hình của họ thế nào: hai thanh niên ở giữa tuổi
15 và 20, đính hôn với nhau, vì cùng có một dự tính kỳ diệu là thành vợ chồng.
Bạn hãy nhớ đến cuộc đính hôn của các bạn! Cái thời hạnh phúc đó. Hãy, nhìn các
bạn trẻ đang lui tới với nhau và xây dựng ý định lứa đôi.
Nhưng trước khi
ông bà về chung sống, Bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần, ông
Giuse, chồng bà là người công chính là không muốn tố giác bà nên mới định tâm
bỏ bà cách kín đáo.
Đây là chặng thứ
hai: "dự tính tan vỡ"; khủng hoảng chuyện đôi lứa, khi Giuse thấy
người đính hôn của mình mang thai. Tất cả mọi giấc mơ đầu bị phá tan. Có lẽ ta
không thể hiểu được nỗi đau đớn tinh thần dày vò còn bị che khuất đằng sau đoạn
Tin Mừng vắn tắt này? Ở giai đoạn tình huống này, Giuse quyết định không cưới
Maria nữa. Và quyết định này là quyết định của người đàn ông công chính."
Người ta đưa ra
nhiều cách giải thích về sự công chính này của Giuse. Thánh Justin nghĩ rằng
Giuse công chính bởi vì người muốn áp dụng Luật (Đnl 22,23). Điều kỳ lạ và có
vẻ không đúng là người ta đã có thể nghĩ đến một sự nghi ngờ tội ngoại tình, mà
Luật Môsê đòi phải phạt. Thánh Giêrôm, chính người lại kết luận rằng Giuse
"công chính bởi vì ông muốn bỏ bà Maria một cách kín đáo". Nhưng cũng
ở chính đó, có phải là điều công chính khi bỏ mặc cho số phận một người vợ mà
người ta nhìn nhận là vô tội ư? Giải pháp thỏa đáng duy nhất cho vấn đề này
chính là điều mà bản văn đã gợi ra. Quả thế, ngay trước lúc diễn tả cuộc tranh
chấp tâm lý của Giuse, thì Matthêu, một cách rất rõ ràng, giả định là người ta
có biết việc "thụ thai mà còn trinh nguyên một con trẻ"; thụ thai bởi
tác động của Thánh Thần.
Do đó có lẽ
chính Đức Maria đã tiết lộ tâm sự với người mình đính hôn (hay đúng hơn, mẹ của
Đức Maria theo tập quán Phương Đông). Và Giuse, sau khi suy nghĩ bằng những
phương tiện nhân loại của mình, sau khi đã hiểu rằng con trẻ này do Chúa, mà
đến, ông không muốn đòi hỏi về quyền hành đối với đứa con không phải là của
mình; ông nhận ra 'quyền làm cha' của Thiên Chúa. Và ông nghĩ rằng, chính ông
Giuse, không được con như cha của đứa con đó. Thế là ông quyết định từ khước ý
định lứa đôi của mình. Cũng như Abraham, hy sinh cho Thiên Chúa, Giuse là
"người công chính", ông quyết định hy sinh mình.
Ông đang toan
tính như vậy thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông
Giuse, con cháu Đavít. đừng ngại đón bà Maria vợ ông về...
Như thế chính
Thiên Chúa can thiệp để thay đổi dự tính của Giuse. Để nhấn mạnh đến khía cạnh
"tôn giáo", thần linh", của quyết định mới mà Giuse có, Matthêu
để cho mạc khải" của mình chảy theo "thể loại văn chương" thoáng
thấy của việc "loan báo theo ngôn ngữ quen thuộc Kinh Thánh, Chúa dựng ở
đây sự can thiệp của "Thiên Thần của Chúa", và của "giấc chiêm
bao" loan tin.
Thường đó là vấn
đề về các giấc chiêm bao trong Kinh Thánh và đặc biệt trong cuộc đời của Giuse
(Mt 1,20; 2,13.22).
Giuse, một anh
thợ tầm thường, ở đây được gọi lên một cách trang trọng là "con nhà
Đavít". Chính là với danh nghĩa "dòng dõi của hoàng gia" Do
Thái, mà Thiên Chúa yêu cầu ông thay đổi ý định và nhận Maria làm vợ mình. Ông
đã quyết định' "bỏ" nàng' và như thế khước từ làm cha đứa bé mà Maria
mang thai... Tình hình cũng đúng như đại tổ phụ trong đức tin, Abraham tin điều
đó, khi ông chấp nhận hy sinh con trai Ixaác của mình, thì ông xem con trai
mình như một "của lễ của Thiên Chúa" (St 22). Với Giuse, người vừa
khước từ một đứa con trai, cũng thế. "Thiên Thần của Thiên Chúa đòi ông đón
nhận đứa con trai theo cách khác: Người phải nhận đứa con như một "của
lễ", trong đức tin. Đứa con mà ông đã khước từ theo xác thịt, thì ông lại
nhận đứa con đó như "con của lời hứa" (Gl 4,2-28).
Chắc chắn người
con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và
ông phải đặt tên con trẻ.
Câu văn bằng
tiếng Hy Lạp được xây dựng trên sự đối lập mà chúng ta đã nhấn mạnh; bộ phận
đầu tiên của câu nói bắt đầu bằng "gar", có nghĩa là "quả thế,
chắc chắn". Bộ phận thứ hai của câu nói bắt đầu "dé", có nghĩa
là "nhưng, tuy nhiên".
Vì thế thiên
thần không báo cho Giuse biết việc thụ thai đứa con còn trinh nguyên, mà ông đã
biết. Nhưng thiên thần yêu cầu ông, mặc dù ông đã biết, là thay đổi quyết định
của ông. Không những Giuse không biết mình đi như ông tính làm, nhưng trái lại,
Thiên Chúa cần ông. Thiên Chúa giao cho Giuse hai vai trò: 1. nhận lấy Maria về
nhà mình; 2. đặt tên cho con trẻ. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, theo thói quen
sêmít, điều ấy có nghĩa rõ ràng là "nhận lấy quyền làm cha pháp lý"
cho đứa con. Người ta hiểu tại sao Giuse đã được chào kính với danh hiệu: Con
Đavít. Chính do dòng họ Giuse mà Đức Giêsu lại trở nên con của Đavít, để hoàn
thành tất cả mọi lời hứa của Thiên Chúa" (Mt 1,1 - 9,27 - 12,28: 20,23 -
21,9).
Đối với ai hiểu
văn bản này một cách sâu xa, như đa chép, Giuse không hề thuộc về thứ nhân vật
xanh xao và thụ động mà người ta dã làm biến dạng một cách sai lầm Đó là một
"người công chính" thực sự. Một người can đảm thực sự đã thay đổi
quyết định mà mmh đã có với tất cả lòng thành. Một người tin tưởng vào người đã
đòi mình một "lòng tin", vào nhịp độ của biến cố khủng khiếp sắp xảy
ra. Và ta hãy thêm, "một người chồng" hoàn toàn hiệp thông với lòng
tin của người vợ mình. Ngày nay, tâm lý học hiện đại nhấn mạnh đến khái niệm
"đôi lứa", "đồng trách nhiệm". Bất chấp tất cả những cái bề
ngoài hờ hợ mà người ta có thể dừng lại, than ôi. Maria và Giuse sống, một cách
vượt hẳn thường lệ, một cuộc sống đôi lứa kết hợp một cách phi thường: họ
"đối thoại" ở mức độ sâu xa nhất, bằng cách mỗi người đi tìm ý của
Thiên Chúa, và bằng cách chấp nhận cùng một thái độ; phải vượt qua những cái
nhìn nhân loại đơn giản, để có thể tin tưởng vào một tương lai mà Thiên Chúa mở
ra trước mắt họ. Và còn điều này, bất chấp "cơn khủng hoảng", một lúc
nào đó một chuyện không thể tiên liệu được đã tạo ra giữa họ. Như vậy trong
cuộc sống chúng ta, có thể xảy ra một tình huống bắt buộc,bất ngờ, mà khi đó
dường như Thiên Chúa đến phá vỡ những dự tính của chúng ta, tức là, trong thực
tế, kêu gọi ta tiếp nhận ý chí mới của Thiên Chúa. Nhưng đó là trong đêm tối
đức tin; như trong một giấc chiêm bao ban đêm.
Ông phải đặt tên
cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất
cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn
sứ: Nây đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên
con trẻ là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hai từ này là cả
một nền thần học: Thiên Chúa cứu độ Thiên Chúa ở cùng chúng ta... Giuse, lúc
này, chỉ muốn có tên thứ nhất, "Giêsu-Thiên-Chúa-cứu-độ". Và chính
Đức Giêsu Phục sinh sẽ đảm nhận tên thứ hai hàm nghĩa Sê-mít ở cuối sách Tin
Mừng: "Còn tôi, tôi ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế" (Mt
28,20). Con trẻ mà tôi sắp mừng lễ ngày Giáng sinh, con trẻ ấy có đúng là Giêsu
kia không? Tôi có đón nhận người như Đấng giải thoát tôi khỏi tội lỗi của tôi
không? Tôi có đón nhận dấu chỉ nhiệm tích của người không?
Khi tỉnh giấc,
ông Giuse làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà, ông không ăn ở với bà cho
đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.
Cuối cùng bây
giờ, chúng ta tìm thấy lại cái dự tính đôi lứa muốn hình thành lúc đầu câu
truyện ("Maria thuận cưới Giuse"); dự tính này, trong khoảnh khắc bị
tan vỡ do tình huống đã gây ra khủng hoảng, và bây giờ thành hình (nhưng khác
hẳn với dự kiến ("không có quan hệ vợ chồng"), ông ấy chẳng hề biết
bà ấy"). Bản văn có một sự sáng tỏ làm lóa mắt, giống như tất cả những gì
thuộc về thần linh: Giuse. nhờ quyết định của Thiên Chúa được đồng thuận tự do
trong đức tin, đón nhận một chức năng làm cha đích thực mà không có quan hệ xác
thịt. Tôi tưởng tượng thấy điều đó, sung sướng, hồ hởi. Tất cả chuyện đó là
huyền nhiệm, như Thiên Chúa là huyền nhiệm, cũng như "Phục sinh", như
"Thánh Thể" đều là huyền nhiệm.
24. Chúa ở cùng
chúng ta – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa làm
người và ở giữa chúng ta, Chúa đã nhập thể làm người để con người làm con Thiên
Chúa. Ðây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Ngài
chính là Emanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn tự đồng hoá mình trong
những mảnh đời bất hạnh mà chúng ta gặp gỡ bên đường.
Người ta kể
rằng: có một người đạo đức thánh thiện kia, đêm ngày hằng ao ước được tiếp đón
Chúa một lần trong đời. Với ước nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nói với ông
qua giấc ngủ: "ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ông". Thế là ông đã bắt
đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui vì nỗi niềm khát khao của mình sắp được toại
nguyện. Ông chuẩn bị phòng ốc sạch sẽ, chuẩn bị tiệc tùng thiết đãi Chúa và ra
tận ngoài cổng để đón tiếp Chúa. Thế rồi khi ánh bình minh xuất hiện ông thấy
một lão ăn xin, rách rưới tả tơi đến xin ông chút cơm bánh lót dạ, ông đã vô
tình xua đuổi vì ông đang nóng lòng chờ đợi vị thượng khách. Rồi tiếp sau là
một người lữ hành, nỡ đường nỡ bước đang cần sự nâng đỡ của ông, nhưng ông vẫn
từ chối. Và khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu,
bệnh tật đến nương nhờ ông đã làm ngơ trước lời van xin. Cuối cùng, đêm về ông
trách Chúa, tại sao không đến thăm ông như đúng lời đã hứa. Chúa đã nói với
ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần nhưng đều bị ngươi khước
từ".
Vâng, Chúa đã
đến và ở giữa nhân loại đã được các tiên tri loan báo qua mọi thời đại, đến nỗi
một nhà thơ đã từng thốt lên: "Giêsu - Giêsu không bỗng dưng mà có - Cả
pho Cựu ước còn đó - Trăn trở bao đời mới sinh hạ Giêsu". Và khi thời gian
đến hồi viên mãn, ngài đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự
nhốt mình trong một cung điện nguy nga, tráng lệ, nhưng sinh ra giữa đám dân
nghèo cùng cực, Ngài ở giữa chúng ta để chia sẻ cảnh đời tha hương khốn cùng
nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư - chết vô địa táng". Ngài ở
giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi, con cáo có
hang, chim trời có tổ, nhưng chính Ngài lại không có nơi gối đầu". Ngài ở
giữa chúng ta để trao ban tình yêu của mình cho những người bất hạnh vì ốm đau,
bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho
những người tội lỗi là những người thu thuế và gái điếm, vì sứ mệnh của Ngài
đến trần gian là để cứu vớt những gì đã mất.
Kính thưa qúy
ông bà và anh chị em,
Lời báo mộng của
thiên sứ với thánh Giuse dường như vẫn vang vọng nơi tâm hồn chúng ta, Thiên
Chúa làm người và ở giữa chúng ta, ngài đang hiện diện nơi những người nghèo
đói, tật nguyện, nơi những người bất hạnh, bị ngược đãi, bị bỏ rơi, Ngài đang
cần chúng ta gạt ra ngoài những toan tính trần thế, những nghi nan, khó khăn để
mạnh dạn và quảng đại đón nhận những anh em hèn yếu, đói khổ đang cần sự trợ
giúp của chúng ta. Vâng chính Ngài đã đồng hoá mình với tất cả những người khốn
khó đó, vì chính Ngài đã nói: "Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào
hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các người, vì khi xưa Ta đói, Ta
khát, Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn cho uống
và tiếp rước.
Song le, Chúa
Giêsu cũng đang cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa giữa thế
giới hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã cần sự cộng tác của thánh Giuse để
ngài có một vị trí trong xã hội, được sinh ra trong một gia đình, một dòng tộc
vua Davít, thì ngày nay, Ngài cũng cần sự cộng tác của chúng ta để Ngài lại
tiếp tục sinh ra giữa dòng đời hôm nay. Nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó
có yêu thương, nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có an bình hạnh phúc.
Thực vậy, con người ngày nay đang cố gắng bon chen để dành cho mình có lắm của
nhiều tiền, có một địa vị cao trong xã hội đến nỗi sẵn sàng chà đạp lên anh em
mình, bất chấp lề luật của Chúa nên chính họ luôn mất bình an và làm cho cuộc
sống chung quanh trở nên nặng nề vì nghi kỵ, ghen tương và hận thù.
Hôm nay, Chúa
vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong
cuộc đời chúng ta, và trong môi trường sống quanh ta. Hãy để cho Chúa làm chủ
cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa, đừng sợ những nghi nan,
những khó khăn khi phải tuân theo thánh ý Chúa, vì chính Chúa sẽ tháo gỡ những
nghi nan và ban ơn bình an cho những ai thành tâm thiện chí sống theo lời Ngài.
Noi gương thánh Giuse, mỗi người chúng ta hãy biết đón nhận Chúa vào trong cuộc
đời mình và qua đời sống tuân hành thánh ý Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và
sự an bình của Chúa cho anh chị em chung quanh. Ước gì trong mùa giáng sinh năm
nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng
anh chị em chung quanh chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Ðấng Emmanul luôn hiện diện
sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm
vui ân thánh trong ngày mừng Chúa giáng sinh. Amen.
25. Emmanuel
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
(Suy niệm của
Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Việc đặt tên cho
con là việc quan trọng đối với các đôi vợ chồng. Khi có con sắp chào đời, hai
vợ chồng bàn bạc với nhau để chọn cho con mình một cái tên thật ý nghĩa, thật
đẹp, thật hay.
Qua việc đặt
tên, cha mẹ gửi gắm ước vọng của mình vào đó. Tỷ như khi đặt tên cho con là
Phúc, Đức, Tài, Lộc... cha mẹ cầu mong cho con mình sau nầy đạt được những điều
tốt đẹp y như tên gọi của các em.
Trích đoạn Tin
Mừng theo thánh Matthêu trong Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng nầy đề cập đến tên gọi
mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Lời nhập thể trước khi Người đầu thai trong
lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm
trước: "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ
gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là
"Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 18,23)
Đây là một tên
gọi thật ý nghĩa; tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa là muốn ở mãi với
loài người khắp mọi nơi, suốt mọi thời cho đến tận cùng thời gian.
Đức cha Gaillot
có nhận định rất hay: "Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với tốt hơn;
công việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn."
Đúng thế, dù
chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến
sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu
việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bên-cạnh
họ trong những lúc đau thương.
Vì yêu thương
loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn
hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn
ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người.
Ước vọng nầy
cũng được Chúa Giêsu khẳng định lại khi Người sắp từ giã các môn đệ: "Thầy
sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,20)
Để thực hiện ước
muốn ở với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách gần như vô
tận giữa trời và đất để ở cùng chúng ta, đã mang thiên tính cao cả của Thiên
Chúa hòa chung với nhân tính hèn yếu của con người, để chia sẻ thân phận đau
thương của kiếp người.
Ngay cả khi Chúa
Giêsu được Chúa Cha vinh thăng trên các tầng trời, chấm dứt sự hiện diện hữu
hình bị giới hạn bởi không gian và thời gian ở trên mặt đất, thì Người vẫn tiếp
tục hiện diện cách thiêng liêng trong tâm hồn của các tín hữu và trong Hội
Thánh.
- Chúa Giêsu
tiếp tục ở với chúng ta qua Lời của Người: chính Thiên Chúa ngỏ lời với ta khi
Giáo Hội công bố Lời Chúa.
- Chúa Giêsu
tiếp tục ở với chúng ta khi chúng ta họp nhau nhân danh Người: "Khi có hai
ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa những người đó."
Chúa Giêsu cùng
với Chúa Cha và Thánh Thần thường xuyên cư ngụ trong lòng những kẻ yêu mến và
tuân giữ Lời Người: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu
mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy." (Ga 14,23)
Thế nhưng bấy
nhiêu cũng chưa thoả lòng yêu thương nên Chúa Giêsu còn lập nên bí tích Thánh
Thể, hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu để cho chúng ta được rước Chúa vào
lòng, để chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa, được sống trong Chúa
và Chúa sống trong chúng ta.
Nguyện vọng tha
thiết nhất của Thiên Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều
đau lòng nhất của Thiên Chúa là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định
trong Tin Mừng thứ tư. "Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà
có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà
chẳng chịu đón nhận." (Ga 1, 10-11)
Mỗi ngày, chúng
ta đang giáp mặt với nhiều hạng người, kẻ xa, người gần, đang đến với chúng ta.
Họ là hiện thân của Đức Em-ma-nu-en. Ước gì chúng ta biết mở rộng trái tim để
đón tiếp Người và dành cho Người một chỗ đứng quan trọng trong lòng chúng ta.
26. Truyền tin
cho ông Giuse
(Suy niệm của
Lm. Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đã bước
vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Ở Chúa nhật này, Giáo hội mong muốn chúng
ta thực sự chuẩn bị tâm hồn xứng đáng cho Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Bởi thế,
Giáo hội đưa ra tấm gương rất tiêu biểu như là khuôn mẫu cho một tâm hồn được
chuẩn bị sẵn cho Con Thiên Chúa giáng trần. Khác Chúa nhật năm B và C, Giáo hội
đưa ra khuôn mẫu là Mẹ Maria. Chúa nhật IV Mùa Vọng năm A này, Giáo hội muốn
chúng ta hướng lòng về một khuôn mặt đặc biệt khác, đó là Thánh Giuse với biến
cố được gọi là "Truyền tin cho ông Giuse".
Vẻn vẹn chỉ 8
câu Phúc Âm ngắn gọn mà đã toát lên gần như trọn vẹn khuôn mặt mẫu mực và rất
đáng yêu của Thánh Giuse. Chuyện bắt đầu từ việc Mẹ Maria mang thai mà Thánh
Giuse không hay biết gì về nguồn gốc. Thánh Giuse thấy thế thế định bỏ Mẹ
Maria, nhưng Ngài được giải thích qua giấc mộng. Thế là Thánh Giuse không bỏ
Đức Mẹ nữa mà đón Mẹ về nhà mình. Chuyện chỉ có thế thôi nhưng qua sự kiện này,
nhân đức của Thánh Giuse được dịp tỏa sáng. Tỏa sáng như thế nào? Thánh sử
Matthêu đã trả lời cho chúng ta khi ngài nói về Thánh Giuse một cách rất ngắn
gọn: "Ông Giuse, chồng bà, là người công chính". Nếu không phải là
một người công chính, thì sự việc đã xảy ra khác nhiều. Nếu không phải là người
công chính thì không ai có thể biết số phận con trẻ trong lòng Mẹ Maria sẽ ra
sao? nếu không phải là người công chính thì chương trình cứu độ của Thiên Chúa
làm sao có thể tiếp tục một cách tốt đẹp?
Thánh Giuse là
người công chính, nên đã định tâm bỏ Đức Mẹ. Ông định bỏ Đức Mẹ ít là vì hai lý
do này: trước hết vì là người chồng, nên ngài hiểu vợ mình: "Ông Giuse,
chồng bà". Thánh Giuse hiểu Đức Maria hơn ai hết, nên ngài tin Đức Mẹ.
Ngài biết thai nhi trong lòng mẹ do một quyền năng siêu nhiên nào đấy can thiệp
và dường như càng lúc ngài càng cảm thấy Quyền năng ấy choáng ngập vợ mình, dành
riêng vợ mình cho một sứ mạng lớn lao khác. Là một người đạo đức, công chính,
ông lặng lẽ rút lui.
Lý do thứ hai:
chính vì là một người công chính, Thánh Giuse sớm nhận ra đâu là dấu vết của
Thiên Chúa và đâu là dấu vết của tà thần. Đó là tâm trạng chung của những tâm
hồn đạo đức thánh thiện. Càng đạo đức bao nhiêu thì càng dễ phân biệt đâu là
thánh đâu là tà, càng công chính bao nhiêu thì càng bén nhậy trước thánh ý
Thiên Chúa bấy nhiêu. Vì thế, Thánh Giuse sớm nhận ra bàn tay vô hình của Thiên
Chúa đang can thiệp vợ mình. Phản ứng của ông cũng giống tâm trạng của những
người công chính trong Cựu Ước, đó là rút lui. Ông sợ không dám tiết lộ với ai,
cũng không dám nhận một người như thế làm vợ, ông âm thầm bỏ đi.
Chính lúc đó,
Thiên Chúa can thiệp. Ngài cho Thánh Giuse hiểu rằng Ngài muốn dùng cả bản thân
Thánh Giuse cho chương trình vĩ đại của Ngài.
Thánh Giuse quả
là một con người vĩ đại. Ngài sớm nhận ra ngay chương trình của Chúa, ông
"làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình".
Thiên Chúa luôn
có sẵn chương trình của Ngài và chương trình nào cũng vì yêu và làm đẹp cho con
người. Đáng tiếc ngày nay người công chính ít quá, nên công trình của Chúa bị
hỏng nhiều.
Lạy Chúa, xin
soi cho con biết ý Chúa trong cuộc đời con và xin cho con đủ sức để mau mắn thi
hành.
27. Thiên Chúa ở
cùng chúng ta
(Suy niệm của
Phanxico Xavie)
Cô đơn là đe dọa
lớn nhất đối với hạnh phúc. Người cô đơn không tìm thấy lời đáp cho các vấn nạn
của đời mình. Họ trở thành người bất hạnh, tuyệt vọng, vì luôn phải đối diện
với cái phi lý. Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi niềm cô
đơn tuyệt vọng ấy, vì Chúa đến trần gian này để chia sẻ với chúng ta thân phận
làm người. Chính niềm tin ở Chúa, Đấng đến với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, sẽ
cứu chúng ta khỏi cuộc sống vô nghĩa. Thiên Chúa sẵn sàng can thiệp khi chúng
ta hoang mang trong tăm tối nếu chúng ta có lòng trông cậy vào Người.
Thời vua Akhaz
trị vì Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi
các nước láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri
Isaia khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào hòa ước với người Assyri hơn là
tin vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ
tà thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời
khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm tin cho nhà vua và dân chúng, một lần
nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là
dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm
một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ
ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của nhà
tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì
lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý
muốn của Người sẽ hiện diện giữa dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua
Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông, một người con sẽ chào đời, chính người con
này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu
tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta
thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của
Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại Messia. Người con này là Ezêkia, một
vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức
Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa
Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô - Đấng Emmanuel đích thực.
Trong trình
thuật của bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày
trước nhằm minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria để
thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia với vua Akhaz.
Đoạn Tin Mừng cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa
Giêsu theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập
thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính
của thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu đơn giản là sự công chính
theo lề luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn giáo, đó là vì Ngài biết tôn
trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và vâng nghe thánh ý Người. Mặc
dù đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Chúa không ủy thác. Nhưng sau
khi được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào
chương trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà trỗi đậy thực hiện lệnh
truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho thánh Giuse trở thành người
cộng tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, và nên người công
chính. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết
lắng nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình.
Thiên Chúa đến ở
với chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có
Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự
hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ
dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu nguyện và nhất là cần phải gắn
bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét