Lm Carôlô
SỢI CHỈ ĐỎ
CÁC CHỦ NHẬT NĂM A
* Một chủ đề xuyên suốt Thánh lễ
* Nhiều gợi ý làm cho Thánh lễ sống
động
* Một hình minh họa cho mỗi Thánh
lễ
* Nhiều gợi ý giảng và cầu nguyện
Ý NGHĨA MÙA CHAY
* Đối với Giáo Hội cách
chung : Mùa Chay là thời gian 40 ngày để chuẩn bị mừng Lễ Phục sinh.
* Đối với các dựï tòng :
Mùa Chay là thời gian chuẩn bị lãnh nhận các Bí tích khai tâm Kitô giáo.
* Đối với các tín hữu :
Mùa Chay là thời gian dọn tâm hồn cử hành mầu nhiệm Vượt qua, nhờ sống ý nghĩa
Bí tích Rửa tội và Bí tích hòa giải.
Những bài đọc của 5 ngày
Chúa nhựt Mùa Chay là một khóa giáo lý gồm 5 bài căn bản nhằm chuẩn bị cho
người dự tòng lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy vào Đêm Thứ Bảy Tuần Thánh. Mỗi Chúa
nhựt là một bài giáo lý, được triển khai theo 3 khía cạnh qua 3 bài đọc :
- Bài đọc Cựu Ước triển
khai chủ đề giáo lý ấy theo lịch sử cứu độ thời Cựu Ước.
- Bài Tin Mừng tường thuật
một nét trong đời Đức Giêsu làm sáng tỏ điểm giáo lý ấy.
- Bài đọc Tân Ước rút ra
một kết luận về mầu nhiệm Đức Giêsu.
-
Chúa nhựt thứ I : Chọn lựa căn bản.
-
Chúa nhựt thứ II : Hành trình theo Chúa.
-
Chúa nhựt thứ III : Theo Chúa sẽ tới được nguồn nước trường sinh
-
Chúa nhựt thứ IV : Theo Chúa sẽ tới được ánh sáng
-
Chúa nhựt thứ V : Theo Chúa sẽ tới được sự sống
CHỦ ĐỀ :
SÁM HỐI
"Hãy
sám hối"
(Mt 4,17)
Sợi chỉ
đỏ :
- Bài đọc 1 : Ngôn sứ
Gio-en kêu gọi dân do thái sám hối.
- Đáp ca : bày tỏ tâm
tình của người tội lỗi sám hối.
- Tin Mừng : Đức
Giêsu cảnh giác các môn đệ về mối nguy của thói hình thức ngay khi họ thực hành
những việc đạo đức như ăn chay, cầu nguyện và bố thí
- Bài đọc II : sám
hối là "làm hòa lại với Thiên Chúa"
Minh họa
-
Hình : Mille images 133 C
-
Câu Thánh Kinh : "Hãy sám hối" (Mt 4,17)
Với ngày Lễ Tro hôm nay,
Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay. Có lẽ hai tiếng "Mùa Chay" làm chúng ta sợ
hãi vì nó khiến ta nghĩ đến một thời gian khắc khổ, buồn rầu. Đành rằng Mùa
Chay là thời gian ăn năn sám hối, hy sinh hãm mình. Nhưng tất cả những việc đó
đều cần thiết để có được niềm vui tái sinh với Chúa trong Lễ Phục sinh. Cũng
như người nông dân phải cực nhọc gieo vãi cấy cày thì mới có được mùa thu hoạch
dồi dào.
Vì vậy ngay từ đầu mùa
Chay này, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo Hội, Mẹ nhân lành của chúng
ta, mà bước vào thời gian này với tất cả tâm hồn quảng đại và chân thành.
- Thân xác chúng ta chỉ là
tro bụi và sẽ trở về với bụi tro, thế mà chúng ta lại quá chìu chuộng nó đến
nỗi nhiều lần phạm tội hại đến linh hồn mình.
- Biết bao lần chúng ta
giả điếc làm ngơ trước những tiếng cảnh cáo của lương tâm, để buông mình theo
tội lỗi.
- Ngay cả những khi làm
các việc đạo đức, chúng ta cũng làm theo hình thức bề ngoài chứ không vì lòng
mến Chúa yêu người thực sự.
Nhân dịp nạn châu chấu
hoành hành gây nên nạn thất mua đói khát (Ge 2,3-9), ngôn sứ Gio-en lên tiếng
kêu gọi dân do thái sám hối :
- Sám hối là quay trở về
với Chúa.
- Sám hối phải xuất phát
tự cõi lòng chân thực chứ không phải chỉ có những việc làm bề ngoài ("Đừng
xé áo, nhưng hãy xé lòng")
- Vì Thiên Chúa là Đấng
rất từ bị, chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho kẻ thực lòng sám hối.
Tv này bày tỏ tâm tình của
người tội lỗi sám hối :
- Một mặt, tội nhân ý thức
rõ về những tội lỗi của mình.
- Mặt khác, tội nhân cũng
quyết tâm trở về với Chúa.
- Và tội nhân tin chắc
mình sẽ được Thiên Chúa thứ tha.
Đức Giêsu cảnh giác các
môn đệ về mối nguy của thói hình thức ngay khi họ thực hành những việc đạo đức
như ăn chay, cầu nguyện và bố thí :
- Những việc đạo đức ấy
vừa tốt vừa cần thiết.
- Nhưng điều quan trọng
nhất là tâm tình khi làm những việc đó : chỉ nên làm vì lòng mến Chúa yêu
người.
- Nếu chỉ làm vì mong được
tiếng khen của người đời thì tất cả sẽ trở nên vô ích.
Thánh Phaolô hiểu sám hối
là "làm hòa lại với Thiên Chúa" : tội lỗi đã phá huỷ những liên
hệ hài hòa giữa con người với Thiên Chúa. Sám hối là tái lập những liên hệ ấy.
Thời gian sám hối chính là "thời Thiên Chúa thi ân, thời Thiên Chúa cứu
độ".
Các bài đọc hôm nay đều
quy vào một chủ đề là quay về. Mỗi bài đọc triển khai một phương diện của sự
quay về :
- Bài đọc 1 : từ bề
ngoài quay về bề trong : "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo".
- Bài đọc 2 : quay về
với Thiên Chúa : "Hãy làm hòa với Thiên Chúa"
- Bài Tin Mừng : từ
cách làm những việc đạo đức cốt cho người ta thấy quay về với cách làm chỉ cốt
cho Thiên Chúa thấy.
Tại sao trong bài Tin Mừng
mở đầu Mùa Chay, Chúa Giêsu nói về cầu nguyện, ăn chay và bố thí ? Thưa vì
3 việc này, nếu được làm một cách đạo đức thật sự – nghĩa là làm không phải để
được tiếng khen của người đời mà làm vì lòng mến Chúa yêu người chân thành – sẽ
giúp chúng ta quay về chứ không còn lạc lối nữa (nghĩa chính xác của "sám
hối" chính là "quay về").
- Chúng ta thường quá chìu
theo ý mình, đến nỗi không biết đến ý Chúa. Cầu nguyện chân thành sẽ giúp chúng
ta khám phá và làm theo ý Chúa.
- Chúng ta thường quá lo
cho những nhu cầu vật chất, đến nỗi không để ý đến những nhu cầu tinh thần. Ăn
chay sẽ giải thoát chúng ta khỏi quá bận tâm đến các nhu cầu vật chất, tự nhiên
và sẽ thoả mãn những nhu cầu tinh thần, siêu nhiên.
- Chúng ta thường quá quan
tâm đến bản thân mình đến nỗi quên để ý tới người khác. Bố thí là một cách giúp
ta hy sinh bản hân để biết chia sẻ với người khác.
Mọi người chúng ta đều có
kinh nghiệm về sự đổ vỡ, bất hòa… Hai người bạn trở thành lạnh nhạt, hai người
tình trở thành xa lạ, hai vợ chồng trở thành người dưng…
Đổ vỡ và bất hòa sinh ra
đau khổ, tiếc nuối cho các đương sự, và còn ảnh hưởng tới một số người khác như
con cái, anh em, bạn bè…
Thánh Kinh đã không ngại
dùng hình ảnh loài người để mô tả Thiên Chúa : Thiên Chúa là một người
tình, một người chồng hết mực yêu thương loài người. Nhưng mối tình này mang
tính đơn phương nhiều hơn là song phương, và đã bao lần đổ vỡ.
Khi đổ vỡ, phía nào yêu
tha thiết hơn sẽ tích cực tìm cách làm hòa hơn. Thiên Chúa chính là phía này.
Ngài đã làm rất nhiều cách. Và cách cuối cùng vượt quá sức tưởng tượng của loài
người : Ngài đã cho Con Một thân yêu của mình hạ mình đến với loài người,
ngỏ lời yêu thương với loài người, sống chung với loài người, tha thứ hết mọi
tội lỗi của loài người và chết thay cho loài người.
Thiên Chúa đã đi bước
trước và Ngài đã làm tất cả những gì có thể làm. Chỉ còn chờ chúng ta. Chúng ta
sẽ làm gì để làm hòa lại với Ngài ?
a/
Bố thí
Có
một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang
thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp
tâm sự :
-
Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như
lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi.
Nghe
thế, con chuột kia nói :
-
Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có
người quấy rầy, yên tĩnh lắm.
-
Ô thế bạn ở đâu vậy ?
-
Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo. (Trích "Món quà giáng
sinh")
b/
Cầu nguyện
Một
tài xế và một linh mục chết cùng lúc. Bác tài thì được vào thiên đàng ngay, còn
vị linh mục phải chờ ở luyện ngục. Ngài than phiền : "Việc ông tài
vào thiên đàng tôi chẳng nói làm gì. Nhưng tôi là linh mục, tại sao tôi lại
phải chờ đợi như thế này ?" Từ trời cao có tiếng đáp : "Cha
ơi, khi cha giảng, mọi người ngủ gục. Còn khi bác tài lái xe, mọi người lo cầu
nguyện".
c/
Ăn chay hãm mình
Hai
thợ săn lên núi bắt chim. Họ cẩn thận đặt bẫy trước khi rời đi. Khi trở lại,
lưới đầy chim. Họ thích thú vì được nhiều chim, nhưng không hài lòng lắm về
những con chim bắt được, một anh nói : "Ai mà mua những con chim gầy nhom
thế này".
Anh bạn gật đầu : "Chỉ cần đầu tư một số
lúa và trong ít ngày chúng ta sẽ được những con chim xinh đẹp và bụ bẫm".
Hàng
ngày, hai người cho chim ăn uống và chúng ăn ngấu nghiến. Chúng lớn dần mỗi
ngày. Chỉ duy một con không chịu ăn. Khi những con khác béo mập, con chim ngoan
cố này trở nên gầy nhom, nhưng vẫn vùng vẫy tìm lối thoát.
Đến
ngày bầy chim được mang ra chợ bán, con chim không chịu ăn cố vùng vẫy, xoay sở
lọt qua lưới và bay đi. Một mình nó được tự do.
CT : Anh chị em thân mến
Với tâm tình sám hối chân thành, chúng ta cùng dâng
lên Chúa những lời nguyện sau đây :
1- Hội Thánh là một người mẹ hiền
không bao giờ ghét bỏ những đứa con tội lỗi lầm lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho những hoạt động mục vụ của các mục tử trong Mùa Chay này / dẫn đưa được
nhiều con chiên lạc về đoàn chiên của Chúa.
2- Thế giới ngày này đang đầy dẫy bạo
lực, chiến tranh, vô luân, tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh
đạo các nước / biết đề ra những biện pháp hữu hiệu / để giảm bớt những sự xấu
trong xã hội.
3- Chúng ta đặc biệt hiệp lời cầu xin
/ cho những người nguội lạnh bỏ mùa phục sinh / những cặp vợ chồng rối rắm /
những kẻ trụy lạc bê tha / biết ăn năn tội lỗi / và quay về với tình thương của
Chúa.
4- Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi
người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / một mặt canh tân đời sống / mặt khác
nhiệt tình làm việc tông đồ / để hoán cải những anh chị em nguội lạnh trong xứ
đạo.
CT : Lạy Chúa, Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải
chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được tha thứ và được sống. Tất cả chúng
con đều là những người tội lỗi. Chúng con thành tâm sám hối muốn quay về với
Chúa. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con sống sốt sắng trong Mùa
Chay thánh này. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng
con. Amen.
- Trước kinh Lạy Cha :
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện không phải để cho người ta thấy, mà chỉ
để Thiên Chúa là Cha chúng ta thấy. Vậy chúng ta hãy hướng trọn tâm hồn lên
Ngài và dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha sau đây.
Mùa Chay đã bắt đầu. Anh
chị em hãy bắt đầu quay về : quay về với lương tâm trong lòng mình, quay
về với tình nghĩa anh chị em vả quay về với Thiên Chúa là Cha nhân lành của
chúng ta.
CHỦ ĐỀ :
CHỌN LỰA
"Bấy
giờ Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ"
(Mt 4,1)
Sợi chỉ
đỏ :
- Bài đọc 1 : Ngay
khi vừa được tạo dựng, các nguyên tổ loài người đã được đặt trước một sự chọn
lựa (cám dỗ) : hoặc làm con Thiên Chúa và làm theo ý Ngài, hoặc theo ý
riêng để hòng "trở nên như Thiên Chúa". Tiếc thay, nguyên tổ đã chọn
theo ý riêng và đã phạm tội.
- Đáp ca : Lời nguyện
sám hối của kẻ biết mình có tội "Lạy Chúa, xin dủ lòng xót thương, vì
chúng con đắc tội với Ngài".
- Bài Tin Mừng : Vừa
bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu cũng được đặt trước một chọn lựa căn
bản : làm một Messia uy quyền hiển hách theo ý loài người, hay một Messia
Tôi Tớ vâng ý Chúa Cha để chịu nạn chịu chết mà cứu chuộc nhân loại.
- Bài đọc 2 : Nhờ
chọn vâng theo ý Chúa Cha, Đức Giêsu trở thành Ađam mới mang lại tương lai mới
cho loài người : "Chỉ vì một người không vâng lời Thiên Chúa mà muôn
người bị liệt vào hạng tội nhân, thì nhờ một người đã vâng lời Thiên Chúa mà
muôn người cũng sẽ được kể là công chính".
Minh họa
-
Hình : Mille images 52 D
-
"Bấy giờ Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám
dỗ" (Mt 4,1)
Chúng ta đã bước vào mùa
chay, mùa sám hối. Sám hối là quay về nếu như mình đã đi lạc. Thực ra, ngay từ
đầu, nguyên tổ loài người đã đi lạc do đã chọn lựa sai : chọn ý riêng thay
vì ý Chúa. Rất may là Đức Giêsu, Ađam mới, đã sửa lại cái sai đó : trong
những cơn cám dỗ khi bắt đầu sứ vụ của Ngài, Ngài đã nhất quyết chọn làm theo ý
Thiên Chúa.
Cuộc đời chúng ta cũng dệt
bằng một chuỗi những chọn lựa. Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về sự chọn lựa của
nguyên tổ và của Đức Giêsu. Chúng ta xin Chúa soi sáng và trợ lực để khi đứng
trước những cám dỗ thường xuyên trong đời, chúng ta luôn biết chọn lựa như Đức
Giêsu.
- Chúng ta là con cái
Thiên Chúa vì chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Ngài. Lẽ ra chúng ta phải
luôn sống trước nhan Ngài và vâng phục thánh ý Ngài. Nhưng chúng ta lại thường
làm ngược ý Ngài và sống như không có Ngài.
- Chúng ta là em của Đức
Kitô. Lẽ ra chúng ta phải luôn ghi nhớ và làm theo Lời Ngài. Nhưng chúng ta
thường quên Lời Ngài, nhất là khi đứng trước những cơn cám dỗ.
- Chúng ta có ý thức về
thân phận tội lỗi của mình và quyết tâm chiến đấu với khuynh hướng ích kỷ, tham
lam, kiêu ngạo, ươn lười của mình không ?
Đây không phải là một bài
tả chân đúng y sự việc đã diễn ra, mà là một vỡ tuồng mà trong đó tác giả sử
dụng nhiều hình ảnh tượng trưng để chuyển đạt những ý tưởng giáo lý về tình
thương của Thiên Chúa, về cám dỗ, về quyền tự do chọn lựa của con người và hậu
quả của sự chọn lựa ấy. Ta có thể coi bài tường thuật này như là một vở bi
kịch, vở bi kịch đầu tiên trong lịch sử loài người.
Vở bi kịch gồm 3
màn :
- Màn 1 là tình thương của
Thiên Chúa : Ngài đã dựng nên loài người từ hai yếu tố là vật chất
("bụi đất") và thần linh ("hơi thở" của Ngài). Ngài lại còn
ban cho con người một cuộc sống hạnh phúc ("vườn Êđen").
- Màn 2 là cám dỗ :
Satan ("con rắn") khéo léo lái con người sang một hướng lệch
lạc : không nhớ đến tình thương Thiên Chúa mà chỉ nghĩ đến sự cấm đoán của
Ngài ; không thấy những ân huệ của Ngài mà lại nghĩ rằng Ngài ganh tị sợ
con người bằng Ngài ; thay vì vâng lời Thiên Chúa thì lại làm theo ý riêng
để tự mình "biết lành biết dữ". Cám dỗ đã len vào con người qua các
giác quan (mắt nhìn, miệng thèm, đưa tay hái).
- Con người được đặt trước
một sự chọn lựa căn bản : hoặc làm con Thiên Chúa và vâng theo ý Ngài,
hoặc "muốn bằng Thiên Chúa" nên theo ý riêng mình.
- Tiếc thay, nguyên tổ
loài người đã chọn sai, gây hậu quả tai hại cho cả loài người.
Thánh vịnh 50 là tiếng kêu
van thống thiết của loài người con cháu nguyên tổ : ý thức thân phận tội
lỗi của mình nhưng vẫn trông cậy vào tình thương xót thứ tha của Thiên Chúa.
Cũng là một vở kịch với
những hình ảnh tượng trưng ("sa mạc" khô cằn đối lập với "vườn
Êđen" xanh tươi, những hòn đá, mỏm núi cao, tháp đền thờ). Vở kịch này
tương phản với vở đầu tiên và đi đến một kết thúc tốt đẹp.
- Sau tội nguyên tổ, thân
phận loài người đổi thay hẳn : không sống trong vườn Êđen tươi mát mà phải
sống trong sa mạc khô cằn.
- Cám dỗ vẫn đeo bám Đức
Giêsu để xúi Ngài chọn sai : a/ chuộng những thứ vật chất thỏa mãn cho nhu
cầu cuộc sống thân xác (bánh) mà bỏ quên lương thực nuôi dưỡng cuộc sống thần
linh (Lời Chúa) ; đối với Thiên Chúa thì không chú ý vâng theo ý Ngài mà
lại bắt Ngài phải chìu ý mình ; b/ không thờ phụng một mình Thiên Chúa
nhưng lại tôn thờ những vinh hoa lợi lộc của thế gian.
- Đức Giêsu là Ađam mới đã
cương quyết chọn vâng phục Thiên Chúa nên đã chiến thắng tất cả các cơn cám dỗ
ấy.
Thánh Phaolô đã nhìn lại
hai vở kịch ấy và rút ra kết luận : Đức Giêsu là Ađam mới mang lại một
tương lai mới cho loài người : "Chỉ vì một người không vâng lời Thiên
Chúa mà muôn người bị liệt vào hạng tội nhân, thì nhờ một người đã vâng lời
Thiên Chúa mà muôn người cũng sẽ được kể là công chính". Kết luận này
khuyến cáo hãy coi chừng nguy hiểm lớn nhất là sự không vâng phục, đồng thời
kêu gọi một người học theo gương Đức Giêsu luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Một tục lệ : ngày
thôi nôi của một đứa bé, người ta quen đặt trước mặt nó nhiều món đồ (thí dụ
một cây viết, một cái cày nhỏ, một cây súng v.v.). Người ta hồi hộp xem nó chọn
món nào và từ đó suy đoán về tương lai của nó (chọn cây viết : sẽ là nhà
trí thức ; chọn cái cày : sẽ làm ruộng ; chọn cây súng : sẽ
đi lính). Tuy hơi dị đoan, nhưng tục lệ này nói lên hai ý tưởng khá sâu
sắc : a/ con người luôn phải lựa chọn ; b/ đã quen chọn thế nào thì
sẽ tiếp tục chọn thế ấy. Người ta nói "cuộc sống là một chuỗi của lựa
chọn". Quen chọn đúng thì sống tốt, quen chọn sai thì sống xấu.
- Chúng ta đừng nuôi ảo
tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con người là sống giữa
thế gian mà trong đó thiện ác, lành dữ lẫn lộn.
- Chính vì thế, khi Con
Thiên Chúa xuống thế làm người, chính Chúa Thánh Thần đã dẫn Người vào sa mạc
để đối diện với các cơn cám dỗ.
- Người ta sống tốt không
phải bằng cách che mắt dấu mặt để khỏi nhìn thấy điều xấu, mà trái lại bằng
cách nhìn thẳng vào điều xấu và chiến đấu để chiến thắng nó.
- Trong Mùa Chay, mỗi
người hãy nhìn thẳng vào nội tâm mình. Không phải chỉ nhìn những mặt tốt, mà
nhất là phải nhìn thẳng vào những mặt xấu, những thứ "tham, sân, si"
đang âm thầm nhưng mãnh liệt khống chế mình.
- Và hãy nhìn vào cuộc
chiến đấu của Đức Giêsu. Người đã thắng nhờ đâu ? Nhờ làm theo Lời Thiên
Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
- "Người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh…" : Qua lời này, Chúa không bảo chúng ta đừng
tìm cơm bánh, nhưng Ngài nhắc chúng ta đừng chỉ tìm cơm bánh.
- Bị quay cuồng trong cuộc
sống vật chất, con người dễ bị cuốn hút theo vật chất : từ tình trạng quân
bình dành mối quan tâm đồng đều cho những nhu cầu tinh thần và vật chất, chúng
ta dần dần bị cám dỗ xén bớt phần tinh thần để vun đắp thêm cho phần vật chất,
và cuối cùng chỉ còn có vật chất và vật chất.
- Mùa chay là khoảng thời
gian thích hợp cho chúng ta lùi lại để có một khoảng cách sáng suốt mà nhận
định lại các bậc thang giá trị đời mình, theo tiêu chuẩn mà Đức Giêsu đưa
ra : "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ mọi lời miệng
Thiên Chúa phán ra".
- Những việc làm được Giáo
Hội khuyến khích trong Mùa Chay cũng nhằm giúp chúng ta tái lập lại các bậc thang
giá trị : tự ý giảm bớt ăn uống, làm chủ những khuynh hướng của mình, quan
tâm tìm hiểu ý Chúa và lắng nghe Lời Chúa hơn v.v.
- Ý muốn là động cơ và là
sức mạnh. Bởi đó người ta nói "Ý lực". Không có những hành động ngẫu
nhiên vô tình. Mọi hành động đều đi theo sau một ý muốn dẫn dắt.
- Muốn điều đúng và tốt
thì sẽ hành động đúng và cuộc đời sẽ tốt.
- Nhưng ý muốn riêng không
hẳn là luôn luôn đúng và tốt. Bởi thế con cái còn khờ dại thì nên làm theo ý
muốn của cha mẹ, học trò còn non kém thì tốt nhất nên theo ý hướng dẫn của thầy
cô. Trong những trường hợp này, vâng lời trở thành con đường khôn ngoan nhất và
tốt đẹp nhất.
- Ađam Evà đã theo ý của
ma quỷ và theo ý riêng dẫn đến kết quả bi thảm cho cả loài người. Ngược lại Đức
Giêsu dù là Con Thiên Chúa nhưng đã quyết luôn làm theo ý muốn của Chúa Cha và
đã cứu chuộc loài người : "Chỉ vì một người không vâng lời Thiên Chúa
mà muôn người bị liệt vào hạng tội nhân, thì nhờ một người đã vâng lời Thiên
Chúa mà muôn người cũng sẽ được kể là công chính".
Một cuốn phim đã làm xôn
xao dư luận một thời (khoảng năm 1989) là phim "Cơn cám dỗ cuối cùng của
Đức Kitô" (The last temptation of Christ), phỏng theo quyển tiểu thuyết
cùng tên của nhà văn hy lạp Nikos Kazantzakis. Cuốn phim và quyển tiểu thuyết
mô tả lúc Đức Giêsu bị treo trên thập giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời bỏ
thập giá để trở lại cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm lại nàng Mađalêna, cưới
nàng làm vợ. Sau đó Ngài lại tìm đến với hai chị em Matta và Maria và cũng cưới
luôn hai người này. Ngài có rất nhiều con và sống rất hạnh phúc.
Báo chí và các đài phát
thanh đưa tin rằng khi cuốn phim được trình chiếu lần đầu, những người có đạo
đã đập phá rạp chiếu bóng tan tành, đến nỗi lần chiếu sau phải chiếu ở một rạp
đặc biệt được cô lập bởi chung quanh toàn là nước để khỏi bị đập phá lần nữa.
Thực ra cốt chuyện cũng
chẳng có gì xúc phạm cho lắm. Tuy tác giả có nói Đức Giêsu rời khỏi thập giá và
cưới 3 người vợ, có nhiều con, nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Ngài mà thôi.
Cuối cùng Ngài đã lắc đầu không theo cơn cám dỗ đó. Sau đó Ngài tỉnh lại vẫn
thấy mình đang bị treo trên thập giá, và Ngài hô lớn một tiếng kêu chiến thắng
"Thế là đã hoàn tất", rồi Ngài tắt thở, hoàn tất đời mình trong tâm tình
luôn trung thành với Chúa Cha. Trong đoạn mở đầu quyển tiểu thuyết của mình,
Nikos Kazantzakis đã trình bày rõ ý hướng của ông : Ông tin Đức Giêsu vừa
là Chúa vừa là người. Và ông muốn nhìn Ngài dưới khía cạnh làm người, vì thế
ông đã tưởng tượng những cơn cám dỗ và những cuộc chiến đấu vô cùng cam go mà
con người Giêsu đã phải đương đầu và đã anh dũng chiến đấu như thế nào. Mục
đích là để càng thấy rõ hơn Đức Giêsu chính là mẫu mực cho con người chúng ta,
để chúng ta cảm phục Ngài hơn và để khuyến khích chúng ta can đảm hơn trong khi
chiến đấu với những cơn cám dỗ của chính chúng ta. Tác giả đã thổ lộ :
"Trong khi viết, tôi đã cảm động đến phát khóc. Tôi chưa bao giờ cảm thấy
máu của Chúa rơi từng giọt vào tim tôi với sự ngọt ngào như vậy, với nỗi đớn đau
như vậy".
Có
3 người mục tử, mỗi người coi sóc một đàn chiên.
Một
đêm mùa đông vừa gió vừa mưa. Khi 3 người đang ngủ thì nghe có tiếng chó sói.
-
Người thứ nhất tung chăn thức dậy định ra ngoài xem xét tình hình. Nhưng nghe
tiếng mưa rơi gió rít, anh ngại ngùng và trở vào giường ngủ tiếp.
-
Người thứ hai cũng thức dậy, mặc thêm quần áo mở cửa đi ra. Nhưng một đợt nước
mưa quất ngay vào mặt anh làm anh bỏ ngay ý định ra ngoài. Anh cũng trở vào
giường nằm xuống, kéo chăn đắp kín và ngủ tiếp.
-
Người thứ ba cũng thức dậy, cũng mặc quần áo, và cũng ra ngoài. Dù gió lạnh, dù
mưa ướt, anh vẫn cố chịu đựng, đi đến tận chỗ đàn chiên của anh để xem. Khi đã
thấy chiên mình an toàn, anh mới trở vào nhà ngủ tiếp.
Trong
3 người đó, ai là người hiểu biết rõ nhất về sự khắt nghiệt của gió và
mưa ? Dĩ nhiên là người thứ ba.
Cũng
thế, người hiểu rõ nhất về cám dỗ là người đã chiến đấu và chiến thắng nó.
Vì
vậy, nếu ta muốn học cách đương đầu với cám dỗ, đừng học với những kẻ tội lỗi,
mà hãy học với những vị thánh.
Như
trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đừng học với dân Israel trong thời xuất hành ở sa
mạc, mà hãy học với Đức Giêsu.
Chủ tế : Anh chị em thân mến
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để người kitô hữu
sám hối tội lỗi và quay trở về với Chúa, vì Chúa không muốn cho người có tội
phải chết, nhưng muốn họ sám hối ăn năn để được sống. Với quyết tâm xa lánh tội
lỗi và đổi mới đời sống, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Ngày xưa / Chúa đã sai ngôn sứ
Giona đến kêu gọi dân Ninivê ăn năn hối cải / Ngày nay Chúa cũng bảo Hội Thánh
khuyên nhủ các kitô hữu sám hối lỗi lầm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín
hữu / biết sống trọn vẹn tinh thần khắc khổ của Mùa Chay / để đền tội và tôi
luyện xác hồn.
2- Miếng ăn / danh vọng / địa vị /
tiền bạc / thú vui / nhiều khi làm đảo điên lòng người / băng hoại xã hội / xói
mòn niềm tin / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / đặc biệt là giới trẻ
chưa có kinh nghiệm sống / biết khôn ngoan tránh xa những cám dỗ bất chính /
những cạm bẫy tinh vi đầy dẫy trong cuộc sống thường ngày.
3- Dù đã có nhiều cuộc tranh đấu cho
sự bình đẳng giữa người nam và người nữ / nhưng trong thực tế / ở nhiều nơi
trên thế giới này nay / người phụ nữ vẫn bị coi thường / nhân phẩm bị chà đạp /
thân xác bị xem như một món hàng kinh doanh / thậm chí bị đày đọa / bị đối xử
thô bạo ngay trong gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai có trách
nhiệm / biết luôn tìm cách giúp người phụ nữ sống xứng với nhân phẩm của mình.
4- Chúa Giêsu nói / "Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh / nhưng nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra"
/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống
theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng / nhờ đó mà trở nên những công dân gương mẫu.
CT : Lạy Chúa, xin cho chúng con thấm nhuần lời
Chúa dạy, để chúng con biết chế ngự những đam mê và dục vọng trần thế, nhờ đó
mùa chay thánh này đem lại nhiều lội ích cho chúng con. Chúng con cầu xin…
- Trước kinh Lạy Cha :
Hôm nay khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý đến lời xin cuối
cùng : "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho
khỏi sự dữ".
- Sau kinh Lạy Cha :
Chủ tế đổi giọng khi đọc đến câu "Xin đừng chấp tội lỗi chúng con,
nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa ; xin đoái thương ban cho
Hội Thánh được bình an và hiệp nhất theo thánh ý Chúa"
Anh chị em sắp trở lại
nhịp sống bình thường, với bao cám dỗ và bao điều phải chọn lựa. Cầu chúc anh
em sẽ biết chọn ý Chúa theo gương Đức Giêsu. Anh chị em hãy ra về bình an.
CHÚA NHỰT II
CHỦ ĐỀ :
HÀNH TRÌNH THEO CHÚA
"Người
biến đổi hình dạng trước mặt các ông"
(Mt 17,2)
Sợi chỉ
đỏ :
Sau khi đã chọn Chúa (tuần
I Mùa Chay), con người bắt đầu hành trình đi theo Ngài :
- Bài đọc Cựu Ước :
Hành trình của Abraham.
- Bài Tin Mừng : Hành
trình theo Đức Giêsu là đi trên con đường thập giá, nhưng sau đó sẽ tới vinh
quang.
- Bài đọc Tân Ước :
Hành trình của người tông đồ mang Tin Mừng đến cho mọi người.
Minh họa
-
Mille images 69 B
-
"Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông" (Mt 17,2)
Lời Chúa hôm Chúa nhựt
tuần trước kêu gọi chúng ta chọn lựa : đừng chọn ý riêng nhưng hãy chọn ý
Chúa. Lời Chúa hôm nay mời chúng ta hành trình đi theo Chúa : như tổ phụ
Abraham, như các tông đồ. Riêng bài Tin Mừng cho thấy nếu ta dám hành trình
theo Chúa trên con đường thập giá thì sẽ được cùng Ngài đến vinh quang.
Chúng ta hãy cất bước theo
Người.
- Chúa vẫn luôn kêu gọi
chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng vì quá bận rộn với những việc trần
tục, chúng ta ít khi lắng nghe tiếng Chúa.
- Đi theo Chúa thì phải từ
bỏ. Nhưng chúng ta ít quảng đại không dám từ bỏ như lời Tin Mừng mời gọi.
- Nhân chi sơ tính bản
thiện. Nhưng do tội lỗi nên chúng ta đã làm cho hình ảnh tốt đẹp ban đầu của
chúng ta bị biến đổi ngày càng xấu xa.
Văn mạch xa : 11
chương đầu sách Sáng thế cho biết Thiên Chúa đã tạo dựng loài người, ban cho
loài người một cuộc sống hạnh phúc (hình ảnh vườn Eden), nhưng loài người đã
chọn lựa sai và phạm tội nên bị đuổi ra khỏi nơi hạnh phúc đó, và tội tiếp tục
lan tràn, hậu quả của tội tiếp tục bành trướng, hầu như vô phương cứu chữa.
Nhưng từ chương 12, một tia sáng hy vọng loé lên : Thiên Chúa nhớ đến loài
người, Ngài chọn tổ phụ Abraham để thực hiện chương trình đưa loài người trở về
hạnh phúc ban đầu.
- Tổ phụ Abraham đang sống
ở Ur , một cuộc
sống an cư lạc nghiệp cùng với bà con, với tài sản.
- Thiên Chúa hiện ra với
ông và bảo ông bỏ hầu hết những thứ đó để ra đi.
- Cuộc hành trình này rất
phiêu lưu vì Chúa chưa cho biết ông sẽ đi tới đâu. Ông chỉ cần phó thác đi theo
sự chỉ dẫn từ từ của Chúa : "Hãy
đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi".
- Tại sao Chúa bảo
thế ? Vì con người vốn có khuynh hướng bám lấy sự an nhàn sẵn có (cụ thể
là cuộc sống vật chất, cuộc sống hiện tại - đời này). Thực ra cuộc sống đó
không phải là tốt nhất, mà là cuộc sống khổ sở của thân phận bị đuổi khỏi vườn
địa đàng. Do đó Thiên Chúa mới bảo Abraham ra đi. Nhìn bằng cặp mắt loài người,
đó là một cuộc phiêu lưu bỏ mồi bắt bóng, nhưng thực ra đó là cuộc hành trình
rời bỏ nơi khổ sở để trở lại vườn diệu quang.
Đây là tâm tình hoàn toàn
trông cậy phó thác vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Tâm tình này rất hợp cho
những người đang dấn bước trong cuộc hành trình do Chúa dẫn dắt.
Văn mạch : Phía trước
Bài Tin Mừng này (Mt 17,1-9) có câu nói của Đức Giêsu "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Đây cũng là một cuộc hành trình của
người làm môn đệ Chúa. Một cuộc hành trình cũng gian khổ và đầy tính phiêu lưu
như Abraham xưa. Nhưng bài Tin Mừng Chúa Nhựt này cho ta thoáng thấy một chút
về cái tương lai của cuộc hành trình ấy : Đức Giêsu biến hình ra vinh quang.
Nghĩa là sau khi qua gian khổ thì sẽ tới vinh quang. Và trong khi Ngài biến
hình, có tiếng Chúa Cha từ trời phán "Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe Lời
Người". Ý Chúa Cha cho biết Ngài muốn các môn đệ Đức Giêsu cũng hãy
dấn thân vào cuộc hành trình của Ngài, và như thế Ngài rất hài lòng, Ngài cũng
sẽ cho họ được biến hình ra vinh quang.
Chẳng những mỗi người phải
dám dấn thân vào một cuộc hành trình phiêu lưu theo Chúa, mà còn phải hành
trình mang Tin Mừng đến cho người khác. Cuộc hành trình thứ hai này cũng gian
khổ, nhưng cũng đáng thực hiện. Bởi thế Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu :
"Anh em hãy đồng lao cộng khổ với
tôi để loan báo Tin Mừng" (câu 8b).
Muốn đi theo tiếng Chúa
gọi, Abraham đã phải bỏ quê hương và những người thân
Muốn đi theo Chúa, các môn
đệ phải "từ bỏ mình và vác thập giá hàng ngày"
Để đi loan báo Tin Mừng,
các tông đồ phải chịu biết bao gian khổ.
Họ đã bỏ rất nhiều. Bù lại
họ được gì ? Abraham nhận được lời Chúa hứa ban cho một dòng dõi đông đảo,
các môn đệ được Đức Giêsu cho thoáng thấy vinh quang ở cuối cuộc hành trình, và
người tông đồ được hứa "tên các con được ghi trong sổ trời". Tin theo
những lời hứa về một tương lai xa vời như thế đúng là phiêu lưu.
Thông thường, người khôn
ngoan không nên phiêu lưu, thà giữ lấy cái hiện tại tuy bình thường nhưng chắc
chắn, còn hơn bỏ nó để theo đuổi một tương lai chi mới có trong lời hứa. Nhưng
đó là lối cư xử giữa loài người với nhau vì loài người thì rất khó tin. Nhưng
đối với Thiên Chúa thì rất đáng phiêu lưu như vậy, vì đã có nhiều bằng chứng
cho thấy lòng trung tín thực hiện lời hứa của Ngài. Hơn nữa, Ngài có kêu gọi
chúng ta từ bỏ để phiêu lưu theo Ngài cũng chỉ vì Ngài muốn đưa chúng ta trở về
hạnh phúc thuở ban đầu mà thôi. Thực ra phiêu lưu theo Chúa không phải là phiêu
lưu, chỉ cần có đức tin vào lòng trung tín của Chúa là có bảo đảm.
Rất nhiều người đã dám
phiêu lưu như vậy : Abraham (2 lần : bỏ quê hương, giết con một), Đức
Maria (khi thưa vâng với Thiên thần), các môn đệ (lập tức bỏ thuyền, bỏ lưới và
gia đình để theo Đức Giêsu)
Hình ảnh con rùa :
nếu nó cứ rụt đầu rút chân vào vỏ thì xem ra an toàn đấy nhưng nó cứ mãi ở lì
một chỗ, không bao giờ tiến đến đâu cả. Chỉ khi nào nó dám thò đầu thò chân ra
để bước thì, tuy có thể gặp nguy hiểm đấy, có thể bị đau đấy, nhưng có thế nó
mới tiến được.
Chuyện tổ phụ Abraham cho
ta thấy được điều quan trọng này : đức tin là một cuộc lên đường.
- Tại sao ? Vì "đạo"
là đường, con đường Thiên Chúa dẫn dắt để chúng ta từ tối tăm tới ánh sáng, từ
cõi chết đến cõi sống. Trong Thánh Kinh, mỗi lần Chúa gọi ai thì Ngài đều bảo
họ lên đường đi theo Ngài.
- Mà muốn lên đường thì
phải từ bỏ, vì hành trang càng gọn nhẹ thì bước hành trình càng nhanh. Thiên
Chúa đã bảo với Abraham : "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha
ngươi".
- Hành trình đức tin luôn
bao hàm ý nghĩa phiêu lưu : Abraham hành trình lên đường nhưng không biết
mình sẽ đi tới đâu, ông chỉ biết mình đang đi theo sự hướng dẫn của Thiên
Chúa : "đến đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi".
- Rất nhiều tín hữu chỉ lo
gìn giữ những tín điều giáo lý và các lễ nghi. Đó chỉ là "giữ đạo"
chứ không phải "sống đạo".
Linh mục Mark Link (trong
quyển Sunday homilies, Year A) đã so sánh việc Đức Giêsu biến hình và việc Ngài
hấp hối :
- Cả hai việc cùng diễn ra
trên núi : biến hình trên núi Tabor, hấp hối trên núi Cây Dầu.
- Ở hai nơi, Đức Giêsu đều
biến hình : trên núi Tabor Ngài biến từ hình dáng loài người thành hình
dáng Thiên Chúa ; trên núi Cây Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa vinh quang
thành hình dáng con người yếu đuối. - Hai việc biến hình đều xảy ra lúc Đức
Giêsu đang cầu nguyện.
- Và cả hai biến cố này
đều xảy ra trước mắt 3 nhân chứng Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Dáng vẻ yếu đuối của Đức
Giêsu là hình ảnh của Ađam cũ, còn dáng vẻ uy nghi sáng láng là hình ảnh của
Ađam mới. Thân phận của chúng ta cũng thế : Có những lúc chúng ta sốt sắng
ngất ngây, như Đức Giêsu trên núi Tabor. Khi ấy chúng ta cảm thấy mến Chúa yêu
người quá ; chúng ta muốn ở mãi trong tình trạng ngây ngất đó ; Nhưng
rồi lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng, như đang ở núi Cây Dầu. Khi
ấy, phần Ađam cũ trong ta nổi dậy mãnh liệt. Chúng ta cảm thấy chán nản, không
ai thương mình và mình cũng không muốn thương ai. Hình như Thiên Chúa cũng xa
lánh mình.
Nhưng có một chi tiết quan
trọng là Đức Giêsu đã luôn cầu nguyện trong cả hai biến cố đó. Chính sự cầu
nguyện đã liên kết thống nhất 2 phương diện ngược hẳn nhau trong cùng một con
người của Ngài.
Mark Link đã kết thúc bài
suy gẫm của mình bằng lời kinh sau đây (dịch thoáng) :
Lạy Thiên Chúa, xin cho
con được nếm những giây phút ngất ngây như Đức Giêsu trên núi Tabor. Trong
những lúc đó xin cho con biết làm như Đức Giêsu xưa : con sẽ hướng về Chúa
để cầu nguyện, và con sẽ được nghe lời Chúa nói "Con là con yêu dấu của
Cha".
Lạy Thiên Chúa, khi con
gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Đức Giêsu xưa : con
cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi,
nâng đỡ và xoa dịu con. Amen"
a/
Biến hình
Không
phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai : biến hình nên tốt hơn và biến
hình thành xấu hơn, tuỳ vào tác nhân gây nên sự biến hình ấy.
Trong
các môn đệ Đức Giêsu, Gioan là thí dụ của lối thứ nhất và Giuđa là thí dụ của
lối thứ hai.
Những
tác nhân ảnh hưởng giúp biến hình nên tốt là những gì ta yêu, những gì nâng tâm
hồn ta lên cao, những gì làm ta thức tỉnh, những gì kêu gọi ta bước tới, những
gì mở rộng cửa lòng ta ra…
b/
Hiếu động
Phêrô
là một con người hiếu động, luôn cần làm một cái gì đó.
Trên
núi biến hình, thay vì thinh lặng chiêm ngưỡng, ông lại muốn dựng 3 chiếc lều.
Không
phải mọi thời trong cuộc sống đều phải dùng để làm một cái gì đó.
Có
thời phải yên tĩnh
-
để nghỉ ngơi
-
để suy nghĩ
- để lắng nghe
-
để kinh ngạc
-
để chiêm ngưỡng
-
để tôn thờ
CT : Anh chị em thân mến
Hôm nay Đấng Cứu độ chúng ta tỏ vinh quang Người
cho ba môn đệ được thấy. Chúng ta hãy tôn vinh Người và tin tưởng cầu xin.
1- Trước khi chịu khổ hình Thập giá /
Đức Kitô đã tỏ vinh quang cho các môn đệ được thấy / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian / được nhìn thấy vinh quang trong
Thánh giá / và tin thật Chúa đã chiến thắng khải hoàn.
2- Mỗi ngày qua màn ảnh truyền hình /
qua báo chí / chúng ta chứng kiến biết bao đau khổ trong cuộc sống / đau khổ vì
thiên tai / vì chiến tranh / vì sự độc ác của người khác / đau khổ do bệnh tật
/ do quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho những anh chị em
đang gặp thử thách / một niềm tin yêu và hy vọng để vui sống.
3- Ước mơ tha thiết của con người ở
mọi thời đại / là được sống hạnh phúc / mà thái độ của Thánh Phêrô trong bài
Tin Mừng hôm nay là một ví dụ điển hình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả
mọi người / đều tìm được hạnh phúc trong đời sống riêng tư của mình.
CT : Lạy Chúa, Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã chuẩn
bị cho các tông đồ khỏi hoang mang trước mầu nhiệm thập giá, nhưng luôn vững
tin vào sự tất thắng của Người. Xin cũng ban cho chúng con một niềm tin sắt đá,
để chúng con có thể đứng vững trước mọi giông tố phũ phàng của cuộc đời. Chúng
con cầu xin…
- Trước kinh Lạy Cha :
Chúng ta được Thiên Chúa nhận làm con. Vậy trong tâm tình hiếu thảo, chúng ta
hãy dâng lên Ngài lời Kinh lạy Cha do chính Đức Giêsu đã dạy.
- Trước lúc Rước lễ :
"Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng làm biến đổi cuộc sống chúng ta khi xoá tội
lỗi trần gian. Phúc cho ai được mời đến…"
Anh chị em đã được biến
hình nên giống Đức Giêsu. Anh chị em hãy ra về bình an và tỏa chiếu ánh sáng
Đức Giêsu cho mọi người chung quanh.
CHỦ ĐỀ :
THEO CHÚA SẼ TỚI ĐƯỢC
NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG
NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG
"Ai
uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa"
(Ga 4,14)
Sợi chỉ
đỏ :
- Bài đọc Cựu Ước :
Vâng lệnh Thiên Chúa, Môsê lấy gậy đập lên tảng đá, và nước đã vọt ra.
- Bài Tin Mừng : Đức
Giêsu nói với người phụ nữ Samari : "Ai uống nước tôi cho, sẽ không
bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy
vọt, mang lại sự sống muôn đời".
- Bài Thánh thư :
Thánh Phaolô giải thích "nước" ấy chính là Thánh Thần và tình
yêu : "Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng ta, nhờ Thánh Thần Ngài ban
cho ta".
Minh họa
-
Mille images 113 D
-
"Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa" (Ga 4,14)
Hôm nay chúng ta họp nhau
lại như dân do thái ngày xưa trong sa mạc. Họ đã trải qua nhiều gian khổ, nhất
là cái khổ thiếu nước. Trong sa mạc của cuộc sống ngày nay, chúng ta cũng chịu
nhiều gian khổ và cũng cảm thấy khát, khát vì biết bao ước vọng không được thỏa
mãn. Lời Chúa hôm nay cho biết Đức Giêsu là nguồn nước hằng sống. Vậy chúng ta
hãy đến với Ngài và mở rộng lòng ra để Ngài giải khát cho chúng ta.
- Như dân do thái ngày xưa
trong sa mạc, nhiều khi chúng ta cũng hoài nghi nghĩ rằng Thiên Chúa đã vắng
mặt.
- Như dân do thái ngày
xưa, nhiều lần chúng ta đã trách móc Thiên Chúa, nhất là khi Ngài không thỏa
mãn ước muốn của chúng ta.
- Chúng ta thường khao
khát những sự trần gian chứ không biết khao khát những điều thuộc về Thiên
Chúa.
Thiên Chúa đã giải phóng
dân Israel
khỏi ách nô lệ Ai cập bằng những hành động diệu kỳ, nhất là biến cố Thiên Thần
vượt qua các gia đình do thái và biến cố vượt qua Biển. Ban đầu dân Israel
rất phấn khởi và sùng mộ Thiên Chúa. Nhưng những khổ cực và thiếu thốn trong
cuộc hành trình qua sa mạc đã dần dần khiến họ nản lòng : họ thường càu
nhàu, đòi trở lại Ai cập, nhiều khi còn nổi loạn. Tuy nhiên Thiên Chúa kiên
nhẫn đã dùng chính hoàn cảnh thiếu thốn ấy để giáo dục họ hiểu biết đâu là điều
thiết yếu trong cuộc sống.
- Điều thiết yếu thứ nhất
là đức tin : Ngài muốn họ tin rằng sự cứu rỗi của họ ở đàng trước chứ
không phải ở đàng sau : đàng trước là Đất hứa, đàng sau là ách nô lệ Ai
cập. Do đó họ có dám tin cậy vào Ngài để tiến tới phía trước không mặc dù hiện
tại họ chỉ thấy toàn khổ cực thiếu thốn. Hay họ thà quay lại đàng sau để sống
kiếp nô lệ với cơm thừa canh cặn ở Ai cập.
- Điều thiết yếu thứ hai
là đức cậy : từ trước tới nay Thiên Chúa chăm lo cho họ đủ mọi điều :
muốn bánh thì có manna, muốn thịt thì có chim cút. Nay Ngài để họ thiếu nước,
thế là niềm trông cậy của họ lung lay, họ hỏi một cách thách thức "Có thực
có Thiên Chúa hay không ?" Sở dĩ họ hỏi vậy là vì họ nghĩ rằng Thiên
Chúa là một kẻ có nhiệm vụ lo lắng cho họ. Nói cách khác, họ coi Thiên Chúa như
một người đối diện với họ (le vis à vis). Thực ra Thiên Chúa không phải là một
người đối diện, dù người đó có quyền lực bao nhiêu đi nữa. Thiên Chúa còn hơn
thế nhiều. Bài Tin Mừng hôm nay mạc khải Thiên Chúa thực ra là thế nào.
Thánh vịnh này nhắc lại
cuộc nổi loạn của dân do thái trong sa mạc khi họ thiếu nước. Chỉ vì khó khăn
trước mắt, họ đã quên hết biết bao việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm cho họ.
Thánh vịnh kêu mời con người nhớ lại những ơn lành của Thiên Chúa. Đó chính là
những tiếng kêu gọi của Ngài, mỗi người hãy nhận ra và ngoan ngoãn đáp lại.
- Đức Giêsu ban đầu xin
người phụ nữ Samaria
cho Ngài uống nước, sau đó tự mặc khải Ngài chính là Nước trường sinh "Ai uống nước này sẽ không bao giờ khát
nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự
sống đời đời".
- Qua lời trên, Đức Giêsu
cho biết Thiên Chúa không phải là một kẻ đối diện mà là Đấng muốn ở tận trong
con người chúng ta, để làm thành một nguồn nước vọt ra sự sống muôn đời. Ai tin
vào Ngài và trông cậy nơi Ngài thì có Ngài ở trong người ấy. Ngài ấy sẽ có một
sức sống phong phú chẳng những cho chính bản thân mà còn cho người khác nữa.
- Câu chuyện người phụ nữ Samaria là một thí dụ điển
hình : Khi bà đã tin vào Đức Giêsu thì bà trở thành người loan Tin Mừng
cho những người khác trong làng. Những người này ban đầu tin vì nghe theo lời
chị. Nhưng sau đó trong lòng họ cũng có một nguồn nước sống. Họ nói "Không
còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và
biết rằng Ngài thật là Đấng cứu độ trần gian" : Đức Kitô đã cự ngụ
ngay trong lòng họ.
Thánh Phaolô là người đã
sống cái cảm nghiệm của người phụ nữ Samaria .
Từ khi tin Đức Kitô, ngài đã nói "Không phải tôi sống mà Đức Kitô sống
trong tôi". Với Đức Kitô sống trong mình, thánh Phaolô đã trở thành một
nguồn nước phong phú cứ muốn vọt ra. Ngài đi khắp nơi loan báo Tin Mừng về Đức
Giêsu Kitô. Mặc dù gặp bao gian khổ, Ngài không thể không loan báo Tin Mừng ấy
được.
Phaolô diễn tả nguồn nước
sống trong con người là :
- Thánh Thần :
"Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà
Ngài ban cho chúng ta" (câu 5).
- Ơn sủng của Thiên Chúa
ban nhờ Đức Giêsu : "Ơn sủng nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu
Kitô, còn dồi dào hơn (tội lỗi do Adam) biết mấy cho muôn người" (câu 15)
Chúng ta khao khát rất
nhiều điều :
- Khao khát chân lý vì
cuộc sống nhiều gian dối
- Khao khát tự do trong
một xã hội nhiều trói buộc
- Khao khát công bình
trong một môi trường đầy dẫy bất công
- Khao khát yêu thương
trong cuộc đời nhiều thù hận
- Khao khát hạnh phúc
trong cảnh sống bất hạnh
- Khao khát niềm tin giữa
cảnh đời nhiều nghi kỵ…
- v.v.
Tất cả những khao khát đó
đều là biểu hiện của một khát vọng thâm sâu : "Linh hồn con khao khát
Chúa Trời hằng sống".
"Bên bờ giếng, có một
khách bộ hành mỏi mệt dừng chân. Chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói.
Cũng bên bờ giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ
nay nó chẳng giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Cái vò nước bỏ
quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam
hãm trong đủ thứ công việc hằng ngày, trong những quan hệ chẳng tới đâu với một
loạt đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức
Giêsu, qua những trao đổi với Người (…)
Như thế, chính qua những
chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung với một người đàn ông, cố
gắng quay về với Thiên Chúa… mà con người nghe được tiếng nói của Thánh Thần.
Nhưng ở đây và lúc này, Người lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn
lường của lời nói, qua thái độ chân thành của các bên đối thoại, qua những
khoảnh khắc thinh lặng để cho chân lý lên tiếng nói" (J.Cl. Giroud, được
trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 86).
Những người Samari thờ
phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Những người do thái thờ phượng Thiên Chúa
trên núi Sion. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Phải chăng đó là những
chuyện đời xưa ? Không. Ngày nay vẫn có những người chỉ muốn dự Thánh lễ ở
nhà thờ này chứ không phải nhà thờ nọ ; và có rất nhiều người chỉ thờ
phượng Thiên Chúa trong nhà thờ mà thôi.
Đức Giêsu nói với người
phụ nữ Samari : "Đã đến giờ - và chính là lúc này - những người thờ
phượng đích thực sẽ thờ phượng trong thần khí và sự thật". Thờ phượng
"trong thần khí" là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần ; thờ phượng "trong sự thật" là thờ phượng với tâm tình kết
hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.
Nước vô cùng thiết yếu cho
sự sống. Không có nhà cửa, áo quần, người ta vẫn có thể sống. Không có ăn,
người ta vẫn còn sống một thời gian khá dài. Nhưng không có nước, người ta sẽ
chết sau một vài ngày.
Bởi thế, khi nói về Thiên
Chúa, Thánh Kinh thích dùng hình ảnh nước : Sách Sáng thế mô tả vườn địa
đàng có một con sông tỏa ra 4 nhánh mang nước đi nuôi sống các sinh vật ở 4
phương trời. Tổ tông loài người sống trong khu vườn dồi dào nước ấy đã rất hạnh
phúc. Nhưng rồi khi nguyên tổ phạm tội và bị đuổi khỏi vườn địa đàng thì cuộc
sống vô cùng vất vả trên đất đai khô cằn sỏi đá. Ngụ ý của tác giả đoạn sách
Sáng thế ấy là : khi con người sống trong tình thân với Thiên Chúa thì
cũng giống như sống bên nguồn nước tươi mát ; còn khi họ tách rời Thiên
Chúa thì phải khốn khổ như đang ở trong sa mạc khô cằn. Vì thế sách Khải huyền
khi muốn diễn tả hạnh phúc thời cứu độ đã vẽ lên hình ảnh một thành Giêrusalem
mới, trong đó cũng có một dòng sông hằng sống, nước sông tưới mát một cây hằng
sống làm cho nó trổ sinh hoa quả suốt 12 tháng quanh năm, trái cây cho người ta
ăn, và lá cây dùng làm thuốc chữa hết mọi chứng bệnh.
Người thiếu phụ xứ Samari
mặc dù đang ở bên giếng nước nhưng cõi lòng vẫn khát khao. Nàng thèm khát một
tình nghĩa đậm đà. Nàng tưởng rằng tình đời sẽ thỏa mãn được cơn khát ấy nên
nàng đã lăn xả vào những cuộc phiêu lưu tình ái. Nhưng đã trải qua 5 đời chồng
rồi, nay đã là đời chồng thứ 6 mà nàng vẫn còn khát. Chỉ sau khi gặp được Đức
Giêsu, trò chuyện với Ngài và được Ngài ban cho thứ nước siêu nhiên là tình
nghĩa với Chúa thì nàng mới hết khát. Nàng còn chạy vào làng rủ thêm nhiều
người đến với Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống đích thực.
"Như nai rừng mong
mỏi
Tìm về suối nước trong
Hồn con cũng trông mông
Tìm đến Ngài, lạy
Chúa"
Ngày xửa ngày xưa có một
người ăn mày ngồi bên vệ đường để ăn xin, bên cạnh ông là một túi vải đựng vỏn
vẹn vài hạt lúa. Bỗng ông thấy chiếc xe chở Nhà Vua đang đi tới. Ông mừng lắm,
tự nhủ rằng thế nào Nhà Vua cũng bố thí nhiều tiền cho ông. Ông chạy ra đón
đường
- Muôn tâu bệ hạ, xin dủ
lòng thương xót bố thí cho kẻ thần dân nghèo khổ này một ít tiền để sống qua
ngày.
Nhà vua xuống xe, đến gần
người ăn mày, và nói một câu khiến ông hết sức ngạc nhiên và thất vọng :
- Ông có thể dâng cho
hoàng thượng của ông một món quà gì không ?
Không cách nào từ chối được,
người ăn mày lục lọi trong túi vải một hạt lúa nhỏ nhất đưa cho nhà vua.
Khi nhà vua đi rồi, người
ăn mày tiếc rẻ mở túi vải ra đếm lại số hạt lúa của mình. Lạ thay, thay vào chỗ
hạt lúa đã cho đi là một hạt vàng sáng lóng lánh, cũng bằng y hạt lúa ấy. Lúc
đó người ăn mày vô cùng tiếc rẻ : phải chi mình cho hết những hạt lúa đi
thì bây giờ mình đã có một túi đầy những hạt vàng !
Ý nghĩa chuyện này :
- người xin trở thành
người cho và người cho trở thành người nhận, như Đức Giêsu và người phụ nữ Samaria vậy.
- chính lúc cho đi là lúc
nhận lãnh ; chính khi xẻ chia là khi trở nên giàu có.
CT : Anh chị em thân mến
Chúa ban cho chúng ta những phương thế tuyệt hảo để
chữa lành vết thương tội lỗi trong tâm hồn : đó là ăn chay hãm mình, siêng
năng cầu nguyện và chia sẻ cơm áo cho những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. Tin
tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Nước hằng sống Đức Giêsu ban chính
là Mặc Khải / là lời giáo huấn / là Thánh Thần của Ngài / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh / để nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng / mọi
người biết thành tâm trở về cùng Chúa / để đền bù những tháng ngày bội nghĩa
vong ân.
2- Hằng năm / ở nhiều nơi trên thế
giới / đặc biệt là tại những vùng đang có chiến tranh / đang gặp thiên tai / dù
được cứu trợ khẩn cấp / vẫn có một số khá đông người bị chết vì đói khát / vì
bệnh tật / do phải uống nước bị ô nhiễm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho những ai đang gặp hoạn nạn / được giúp đỡ đầy đủ và kịp thời.
3- Chúa đã ban cho người kitô hữu Mùa
Chay thánh để đổi mới đời sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết mọi tín hữu
/ biết chuyên tâm cầu nguyện và làm nhiều việc lành phúc đức.
4- Giảm bớt chi tiêu ăn uống / để chia
cơm xẻ áo cho những anh chị em đói rách nghèo nàn / là ưu tiên số một của người
kitô hữu trong Mùa Chay này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ
chúng ta / biết thực thi bác ái / không những trong việc lớn / mà còn trong
những chuyện nhỏ của đời sống hằng ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải thờ
phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. Xin cho tất cả chúng con biết thờ
phượng Chúa cho phải đạo làm con. Chúng con cầu xin…
- Trước kinh Lạy Cha :
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta nên đã đổ tràn Thánh Thần Ngài vào lòng chúng
ta. Trong tâm tình hiệp nhất với Thánh Thần Tình yêu ấy, chúng ta hãy dâng lên
Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
- Sau kinh Lạy Cha :
Chủ tế thêm đôi lời vào lời kinh sau đó "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi
mọi sự dữ, và giúp chúng con khỏi tái
phạm tội lỗi, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình
an…"
Sau khi gặp được Đức
Giêsu, người phụ nữ Samari đã vui mừng chạy đi loan tin vui cho những người dân
làng. Anh chị em cũng đã gặp được Đức Giêsu. Bây giờ anh chị em hãy ra đi loan
tin mừng của Chúa cho mọi người mà anh chị em sẽ gặp gỡ hôm nay. Chúc anh chị
em được bình an.
CHỦ ĐỀ :
THEO CHÚA SẼ TỚI ĐƯỢC ÁNH SÁNG
Đức
Giêsu chữa một người mù
(Ga 9,1-41)
Sợi chỉ
đỏ :
- Bài đọc Cựu Ước :
Thiên Chúa soi sáng cho Ông Samuel chọn xức dầu phong vương cho Đavít.
- Bài Tin Mừng : Đức
Giêsu chữa một người mù bẩm sinh.
- Bài đọc Tân Ước :
"Xưa anh em đã từng là bóng tối, nhưng bây giờ, nhờ kết hợp với Chúa, anh
em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng".
Minh họa
-
Mille images 109 B
-
Đức Giêsu chữa một người mù (Ga 9,1-41)
Mỗi sáng thức dậy, chúng
ta mở mắt ra, chúng ta nhìn cuộc đời, nhìn những việc sẽ phải làm trong ngày,
nhìn những người chung quanh… Nhưng có khi nào chúng ta nhìn tất cả những điều
ấy bằng ánh sáng của Chúa không ? Nếu nhìn bằng ánh sáng của Chúa, chúng
ta sẽ thấy mọi sự một cách rất tuyệt vời như anh mù được Đức Giêsu chữa sáng
mắt trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ước gì sau Thánh lễ này,
mắt chúng ta cũng được mở ra để thấy mọi sự theo một cái nhìn mới.
- Nếu trong đời sống chúng
ta có những điều gì còn mờ ám, hãy nhận diện chúng và nhìn chúng bằng cặp mắt
của Chúa.
- Nếu ánh sáng lương tâm
của chúng ta đã quá lu mờ, thì hãy xin Chúa chữa lành.
- Nếu chúng ta cố tình che
đậy ánh sáng chân lý, thì hãy sám hối và xin Chúa thứ tha.
- Saul là vua đầu tiên của
Israel .
Nhưng vì Saul nhìn và giải quyết các vụï việc theo quan điểm chính trị và ý
riêng hơn là ý Chúa nên Chúa bỏ ông. Chúa bảo Samuel đến nhà ông Giêsê để xức
dầu phong một người khác làm vua.
- Giêsê có tất cả 8 con
trai. Thoạt đầu Samuel đã muốn xức dầu cho Êliab một người cao lớn khoẻ mạnh.
Nhưng Chúa bảo "Không phải người phàm nhìn sao, Thiên Chúa cũng nhìn thế,
bởi người phàm chỉ trông thấy điều lộ trước mắt, còn Yavê trông thấy điều ẩn
đáy lòng" (c 7). Cuối cùng, theo sự soi sáng của Chúa, Samuel đã chọn xức
dầu cho Đavít, đứa nhỏ nhất, đứa mà Giêsê coi thường nên ban đầu không đưa ra.
- Câu chuyện cho thấy ý
nghĩa chính : cái nhìn của Thiên Chúa không giống cái nhìn của loài người,
vì loài người quen nhìn vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng.
Thánh vịnh này minh họa ý
tưởng "Chúa là Ánh sáng" bằng hình ảnh "Chúa là mục
tử" : Ngài dẫn dắt chúng ta như mục tử dẫn dắt đoàn chiên. Cho dù có
khi Ngài dẫn ta qua những chỗ u tối, khô cằn, gập ghềnh… nhưng nơi đến cuối
cùng là suối nước, bóng mát và đồng cỏ.
Câu chuyện Đức Giêsu chữa
một anh mù bẩm sinh. Một số chi tiết đáng lưu ý :
- Đức Giêsu đã làm tới 2
phép lạ : chữa cặp mắt thể xác cho anh này có cái nhìn loài người, và chữa
cặp mắt đức tin cho anh này có cái nhìn Thiên Chúa. Cái nhìn thứ hai quan trọng
hơn, chính do cái nhìn này mà anh đã quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu (cử chỉ tôn
thờ : "Người chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi") và
tuyên xưng "Lạy Chúa, con tin" ; và Gioan viết bài từng thuật
này cũng vì muốn trình bày cái nhìn đức tin ấy.
* Bài học : nhìn bằng
cặp mắt thể xác là một điều quý, nhưng biết nhìn bằng cặp mắt đức tin mới quan
trọng hơn.
- Cái nhìn đức tin của anh
thanh niên này sáng từ từ : a/ Bước thứ nhất anh chỉ thấy Đức Giêsu là
"một người" tên là Giêsu (c 11) ; bước thứ hai, anh thấy Ngài là
"một vị ngôn sứ" (c 17b) ; bước cuối cùng, anh nhìn nhận và
tuyên xưng "Lạy Chúa, con tin" (c 37).
Thánh Phaolô giải thích
thế nào là nhìn mọi sự theo ánh sáng đức tin :
- "Xưa anh em là bóng
tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em là ánh sáng" (c 8)
- "Mà ánh sáng đem
lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật" (c 9)
- "Anh em hãy nhìn
xem điều gì đẹp lòng Chúa" (c 10).
Con đường đi tới ánh sáng
của người mù gồm nhiều bước. Nhưng đáng chú ý là đó không chỉ là những bước đi
của con người mà còn là những bước đi của Đức Giêsu : Ngài đi những bước
trước, người mù bước theo, và bước sau cùng cũng là của Ngài :
- Bước 1 "Đức Giêsu
nhìn thấy" (câu 1) : Cuộc hành trình bắt đầu bằng cái nhìn này, cái
nhìn của Chúa đi trước cái nhìn của con người.
- Bước 2 "Đức Giêsu
thoa vào mắt người mù" (câu 7) : sự tiếp xúc giữa Ngài với bệnh nhân
chính là thần dược.
- Bước 3 "Ngài
bảo : Hãy đi rửa ở hồ Silôê" (câu 7a) : Đức Giêsu sai ta đi đến
một nơi đã có sẵn từ lâu trước khi ta cần đến nó, và nơi này thực ra chỉ có
năng lực cứu chữa nhờ Ngài mà thôi.
- Bước 4 "Người mù đi
đến đó" ( (câu 7b) : Bước đầu tiên của con người là sự vâng phục và
phó thác. Đây là bước rất cần thiết.
- Bước 5 "Tôi đã nhìn
thấy" (câu 11), "Ngài là một ngôn sứ" (câu 17) : Liền theo
sau hồng ân nhận được là việc làm chứng cho Đấng mà ta tin, cho dù việc này dẫn
đến cái giá phải trả là bị đuổi ra ngoài (câu 34).
- Bước 6 "Đức Giêsu
đến gặp anh" (câu 35) : Đến đây Đức Giêsu ban cho anh một thị giác
còn quý hơn thị giác của cặp mắt anh, đó là thị giác của đức tin : anh
tuyên xưng "Lạy Chúa, con tin".
Đó cũng là những bước mà
chúng ta phải cùng đi với Đức Giêsu trên cuộc hành trình của chúng ta.
Để thấy rõ, chỉ một đôi
mắt sáng chưa đủ, bởi vì không chỉ có mỗi một thứ bệnh mù là mù đôi mắt, mà còn
nhiều thứ bệnh mù khác do nhiều nguyên nhân khác :
Tính ích kỷ làm ta mù
không thấy nhu cầu của tha nhân
Tính vô cảm làm ta mù không
thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù
không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù
không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù
không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù không
thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm
ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù không
thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
"Người phàm chỉ nhìn
thấy ngoài mặt, còn Chúa thì thấy tận cõi lòng" (Bài đọc 1) : Đối
diện với người mù, các môn đệ chỉ thấy đây là một kẻ có tội nên bị phạt ;
các người pharisêu tìm đủ mọi ngõ ngách để trốn thoát khỏi phải nhìn nhận sự
thật về người mù ; dân chúng thì không thể tin nổi sự việc mà họ vừa nhìn
thấy. Còn Đức Giêsu, Ngài nhìn thấu cõi lòng của từng hạng người kể trên. Ta
hãy tìm hiểu kỹ hơn cái nhìn của Đức Giêsu.
- Một cái nhìn ưu
ái : Ngài không nhìn người mù bằng ánh mắt bàng quan, mà nhìn với lòng
thương.
- Một cái nhìn không bị
che mờ bởi những thành kiến (như các môn đệ), những hoài nghi (như dân chúng),
những đố kị (như pharisêu), những định chế xã hội xếp loại giai cấp con người.
- Một cái nhìn phát sinh
hiệu quả : Ngài nhìn người mù và làm cho anh được thấy.
Chúng ta cần có cái nhìn của
Chúa, như lời Thánh Phaolô trong bài đọc thứ 2 : "Anh em hãy xem xét
điều gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con
cái bóng tối, nhưng hãy vạch trần những việc ấy ra mới phải".
Cách nay nhiều năm, vào
một đêm kia có hiện tượng nguyệt thực toàn phần.
Ai nấy đều bàn tán về nó.
Rất nhiều người đứng ngoài
sân chờ nhiều tiếng đồng hồ để cuối cùng được nhìn ngắm nó trong một số phút
ngắn ngủi.
Tôi tự hỏi : sao
người ta lại quá chú ý đến sự biến mất của mặt trăng mà không chú ý đến sự xuất
hiện của nó ?
Và tôi nhớ đến một lời của
Emerson :
"Người ngu ngạc nhiên
trước sự bất thường
Còn người khôn ngạc nhiên
trước sự bình thường" (Flor MacCarthy)
a/
Đãng trí
Một
học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm
một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông
lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính
ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ
trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận : "Ông bạn của ta cẩu
thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả." Vợ ông bước ra
tiếp lời : "Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính
ông". Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những
khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).
b/ Làm sao phân biệt này
với đêm
Một
đạo sư hỏi các môn đệ họ có thể xác định như thế nào cái giây phút mà đêm chấm
dứt và ngày bắt đầu.
Một
người nói :
-
Khi người ta thấy một con vật ở đàng xa, và người ta có thể nói đó là con bò
hay con ngựa.
Đạo
sư bảo :
-
Không phải vậy.
-
Khi nhìn một cây ở đàng xa và người ta có thể nói đó là cây mận hay cây xoài.
Đạo
sư vẫn bảo :
-
Vẫn không phải.
Rồi
ông nghiêm nghị nói :
-
Khi các ngươi nhìn thẳng vào mặt một người đàn ông và các ngươi có thể nhận ra
nơi ông ta một người anh em của mình ; khi các ngươi nhìn thẳng vào mặt
một người phụ nữ và các ngươi có thể nhận ra nơi bà ta một người chị em của
mình. Nếu các ngươi không làm được như vậy thì dù mặt trời có mọc tới đâu cũng
vẫn còn là đêm. (Anthony de Mello, "Lời kinh của con ếch")
CT : Anh chị em thân mến
Đức Kitô là ánh sáng thế gian. Nhờ mầu nhiệm nhập
thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức
tin. Với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời nguyện
xin tha thiết của chúng ta.
1- Hội Thánh là dấu chỉ ơn cứu độ muôn
dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thanh tẩy / và đổi mới Hội Thánh trong
những ngày hồng phúc này / để Hội Thánh ngày càng nhiệt thành làm chứng cho
Chúa.
2- Y học ngày nay tiến bộ vượt bực /
đã diệt trừ hẳn một số bệnh hiểm nghèo / mang lại niềm vui sống cho nhân loại /
Thế nhưng tại các nước chậm phát triển / vẫn còn một số người bị mù lòa vì bệnh
tật / vì nghèo đói / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người quảng đại /
tận tình săn sóc và giúp đỡ những anh chị em kém may mắn ấy.
3- Bệnh đui mù tinh thần còn đáng sợ
hơn nữa / vì nó khiến con người trở nên mù quáng / không còn phân biệt phải
trái / cũng không còn khả năng nhận ra Chúa hiện diện trong tha nhân nữa /
Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / chữa các kitô hữu khỏi chứng bệnh hiểm nghèo
này.
4- "Thưa Ngài tôi tin" / anh
mù mạnh dạn tuyên xứng niềm tin của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng
đoàn giáo xứ chúng ta / cũng biết luôn hiên ngang sống trọn vẹn niềm tin đã
lãnh nhận / bằng những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con sống như
con cái sự sáng, mà theo Thánh Gioan tông đồ, sống như con cái sự sáng là sống
bác ái yêu thương. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn
tình với Chúa và vẹn nghĩa với anh em. Chúa hằng sống và hiển rị muôn đời.
- Kinh Tiền Tụng :
Dùng Kinh Tiền tụng riêng cho ngay hôm nay. Nhấn mạnh chỗ : "… Nhờ
mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhan loại đang lần bước trong u tối đến nguồn
sáng đức tin…"
- Trước kinh Lạy Cha :
Là con của Thiên Chúa thì cũng là con của ánh sáng. Chúng ta hãy xin với Chúa
là Cha chúng ta giúp chúng ta thoát khỏi sự mù tối trong tâm hồn, và cùng với
Đức Giêsu chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng cho thế giới hôm nay.
- Sau kinh Lạy Cha :
"Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là sự mù lòa về đức
tin, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"
Anh chị em đã được biết
Thiên Chúa là ánh sáng. Hãy luôn bước đi trong ánh sáng của Ngài.
CHỦ ĐỀ :
THEO CHÚA SẼ TỚI ĐƯỢC SỰ SỐNG
"Ta
là sự sống lại và là sự sống"
(Ga 11,25)
Sợi chỉ
đỏ :
- Bài đọc Cựu Ước :
Thiên Chúa cho dân Ngài sống lại.
- Bài Tin Mừng : Đức
Giêsu làm cho Ladarô sống lại.
- Bài đọc Tân Ước :
Thánh Thần ban sự sống cho mọi xác phàm.
Minh họa
-
Mille images 71 C
-
"Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25)
Chúng ta đang ngày càng đi
sâu vào Mùa Chay. Trong thời gian này, nhiều tín hữu đã sám hối trở lại cùng
Chúa, nhiều dự tòng đang chuẩn bị đón nhận cuộc sống mới. Chúng ta có thực sự
tin rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta không ?
Hy vọng rằng qua Thánh lễ
này Ngài sẽ ban thêm đức tin cho chúng ta, một đức tin đủ mạnh để chúng ta can
đảm đối diện với những khó khăn trong cuộc sống này và dẫn chúng ta đến cõi
sống muôn đời.
- Chúng ta là những người
tội lỗi vì đã nhiều lần hoài nghi tình thương của Chúa khi chúng ta gặp những
khó khăn trong cuộc sống.
- Chúng ta là những người
tội lỗi vì đã coi trọng sự sống phần xác hơn sự sống linh hồn.
- Dân Israel đang bị lưu
đày bên Babylon ,
tâm trạng chán chường tuyệt vọng. Họ nói "Xương chúng tôi đã khô. Hy vọng
tiêu ma". Nói "xương" nhưng phải hiểu là toàn thể con người. Cho
nên câu này có 2 nghĩa : a/ Họ bị chết về tinh thần : hoàn toàn tuyệt vọng
rồi. b/ Thân xác của họ cũng như chết luôn, vì sống nô lệ thì cũng như chết mà
thôi.
- Thiên Chúa bảo ngôn sứ
Êdêkien an ủi họ : "Ta sẽ đem các người lên khỏi mồ, hỡi dân Ta. Ta
sẽ dẫn các ngươi về lại thửa đất của Israel ... Ta sẽ ban Thần khí của Ta
xuống trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống". Câu này là một lời tiên
tri hứa ban sự phục sinh và cũng mang 2 nghĩa : a/ Phục sinh tinh
thần : họ sẽ được hồi hương ; b/ Phục sinh thể xác.
-
Lịch sử sau này cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện ý nghĩa thứ nhất : họ đã
được hồi hương vào năm 539. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu sẽ thực
hiện luôn ý nghĩa thứ hai.
Trong cơn gian nan, tác
giả Thánh vịnh tưởng như mình bị rơi xuống một vực thẳm tối tăm. Tác giả còn
tưởng mình như đã chết. Nhưng tác giả tin tưởng Thiên Chúa sẽ kéo mình lên và
ban lại cho mình sự sống.
- Đức Giêsu thực hiện lời
hứa phục sinh theo nghĩa thứ hai : phục sinh thể xác.
- Việc cứu sống Ladarô là
sự phục sinh thể xác cho chính Ladarô, và còn báo trước sự phục sinh thể xác
của Đức Giêsu và của mọi người.
- Hai bài đọc Cựu Ước và
Tân Ước cho thấy : Thiên Chúa "là sự sống lại và là sự sống"
(câu 25a) ; và "ai tin vào Ngài thì dù đã chết cũng sẽ được
sống" (câu 25b).
Thánh Phaolô triển khai giáo
lý về sự sống :
- "Anh em không bị
tính xác thịt chi phối, mà được Thần khí chi phối" (c 9) : con người
có hai sự sống : sự sống theo xác thịt và sự sống theo Thần khí. Sự sống
theo Thần khí quan trọng hơn.
- "Nếu Đức Kitô ở
trong anh em thì dù thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần khí cũng
ban cho anh em được sống" (c 10)
- "Đấng đã làm cho
Đức Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần khí của Ngài đang ngự trong
anh em mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới" (c 11) : sự sống
thần khí có thể chết vì tội, nhưng có thể sống lại nhờ Thiên Chúa.
- Hầu hết những quan tâm
của chúng ta đều là lo cho cuộc sống thể xác : ăn uống, tiền bạc, thuốc
men, sung sướng. Và rất nhiều tội ta phạm cũng vì quá lo cho cuộc sống thể xác
này.
- Thánh Phaolô nói sự sống
thần khí quan trọng hơn sự sống thể xác ; và chúng ta vẫn tuyên xưng
"Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Nhưng hình như ta không
sống đúng theo niềm tin ấy. Nếu ta thực sự tin như thế thì :
Ta đâu có quá sợ chết
Ta đâu có quá bám víu vào
những thứ nuôi cuộc sống thân xác này
- Đức Giêsu nói "Ai
dám liều bỏ sự sống (thể xác) thì sẽ được sự sống đời đời".
- Được ban ngày ta lãnh
nhận bí tích Rửa tội.
- Được lớn dần lên nhờ cầu
nguyện, nhờ Thánh Thể, nhờ kết hợp với Chúa hàng ngày.
- Ta có lo bồi dưỡng nó
không ?
- Thông thường, thứ tự của
lời ta cầu xin là : a/ Trình bày nhu cầu của mình ; b/ Xin Chúa
giúp ; c/ Nếu được Chúa ban thì ta cám ơn. Thứ tự lời Đức Giêsu cầu nguyện
ngược hẳn lại : a/ Tạ ơn "Lạy Cha, con cảm tạ Cha" (c
41a) ; b/ Không cần trình bày yêu cầu (vì hiểu ngầm Chúa Cha đã
biết) ; c/ Tin chắc lời xin của mình đã được nhậm lời "vì cha đã
nhậm lời con" (c 41b).
- Tại sao ? Đức Giêsu
và Chúa Cha kết hợp mật thiết nên một : Đức Giêsu muốn cũng là Chúa Cha
muốn, người xin cũng là người ban, nên chắc chắn lời xin sẽ được thực hiện.
- Chúng ta có được như thế
không ? Được, nếu như ta cũng kết hợp mật thiết với Đức Giêsu và qua Ngài
với Chúa Cha, và do đó ta chỉ muốn điều Chúa muốn.
* Mùa Chay chuẩn bị chúng
ta chia sẻ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Cuộc sống thần linh của chúng ta có
thể đã chết hay chưa sống dồi dào. Ta hãy kết hợp với Đức Giêsu mà xin được
phục sinh. Và hãy tin chắc ta sẽ được, miễn là ta thực sự muốn mình phục sinh.
Đức Giêsu là bạn thân
thiết của Ladarô. Điều này hiển nhiên vì chính Ngài đã khóc trước mồ Ladarô, và
dân chúng hôm đó đã xác nhận như thế ("Kìa xem, ông ta thương Ladarô biết
mấy").
Nhưng dù vậy, Ngài đã
không làm gì để ngăn chận Ladarô khỏi chết : "Sau khi được tin ông
Ladarô lâm bệnh, Ngài còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở". Thái độ
của Ngài đã khiến Matta phiền trách : "Nếu có Thầy ở đây thì em con
đã không chết". Chúng ta cũng giống Matta : khi gặp gian nan, thử
thách, khổ đau, chúng ta bị cám dỗ phiền trách Chúa, thậm chí nói phạm tới
Ngài.
Tuy nhiên, không ngăn chận
Ladarô khỏi chết không có nghĩa là để cho ông đi vào ngõ cụt, không có nghĩa là
không cứu sống ông. Bài đọc I hôm nay cho thấy Thiên Chúa cũng hành xử như thế
đối với dân Israel :
Ngài không ngăn chận những diễn biến tất nhiên phải đến theo lôgic lịch sử cứu
độ : họ đã bất trung, đã băng hoại nên đất nước họ sụp đổ, họ phải đi lưu
đày. Thế nhưng con đường đó không phải là con đường dẫn đến ngõ cụt mà là con
đường cứu độ : cuối cùng thì Israel đã được hồi hương và Ladarô
được sống lại. Khoảng thời gian "chết" của Israel và của Ladarô chính là thời
gian người ta học được rất nhiều bài học quý giá. Tác giả Tv 116 đã hiểu thế
nên đã hát lên : "Quý thay trước mắt Yavê, cái chết của những ai
thành tín với Ngài" (Tv 116,15).
Chết và sống liên đới chặt
chẽ với nhau : Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại. Nhưng chính sự sống
lại của ông lại là cớ khiến Đức Giêsu phải chết (x. Ga 11,47-50 : sau
chuyện này, Thượng Hội Đồng do thái quyết định giết Đức Giêsu).
Chúa chết để chúng ta được
sống.
Phần tội lỗi trong con
người chúng ta phải chết để cho phần thần linh sống mạnh.
"Ai muốn cứu mạng
sống mình (mạng sống thể xác) thì sẽ mất mạng sống (mạng sống thần linh) ;
còn ai liều mất mạng sống mình (mạng sống thể xác) vì Thầy thì sẽ tìm được mạng
sống (mạng sống thần linh)" (Mt 16,25).
Là một nhà diễn thuyết hấp
dẫn : "Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy
như một đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư" (Mc 1,21).
Là một vĩ nhân đầy quyền
phép : "Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau :
Thế nghĩa là gì ?.. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân
lệnh" (Mc 1,27).
Nhưng không phải chỉ có
thế, bài Tin Mừng này cho ta biết thêm Ngài chính là sự sống : "Ta là
sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống
và tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ" (câu 25-26). Sau khi tuyên bố
như thế, Đức Giêsu hỏi Matta : "Con có tin như thế không ?"
(câu 27). Đó cũng chính là câu Ngài hỏi chúng ta.
Tôi tin vào sự chết
Tôi tin rằng sự chết là
một phần của sự sống
Tôi tin rằng chúng ta được
sinh ra để chết, chết để có thể sống trọn vẹn hơn.
Tôi tin rằng chúng ta được
sinh ra để chết, mỗi ngày chết một phần : một phần ích kỷ, một phần tự
phụ, một phần tội lỗi.
Tôi tin rằng mỗi khi chúng
ta bước từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của cuộc đời, thì đều có một cái
gì đó chết đi và một cái gì đó mới sinh ra.
Tôi tin rằng chúng ta nếm
mùi sự chết trong những lúc cô đơn, phiền muộn, thất vọng, thất bại, bị ruồng
bỏ.
Tôi tin rằng mỗi ngày
chính chúng ta tạo ra cái chết cho mình bằng cung cách chúng ta sống.
Với đức tin của người tín
hữu, tôi tin rằng cái chết không dập tắt được ánh sáng, mà chỉ là tắt đèn đi
ngủ (Anon, "I believe in death")
CT : Anh chị em thân mến
Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ai tin
Người thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người thì sẽ không
bao giờ phải chết. Tin tưởng vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại, chúng ta cùng dâng
lời cầu xin.
1- Đức Kitô đã hiến mình trên thập giá
/ lấy máu cùng nước từ cạnh sườn mà thanh tẩy và thánh hoá Hội Thánh / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh không ngừng canh tân / và mãi mãi tinh tuyền /
nhờ lòng thống hối ăn năn.
2- Chết chóc gây ra biết bao cảnh chia
ly làm tan nát cõi lòng / đem đến vô vàn đau khổ cho những người còn đang sống
/ lắm lúc còn làm cho đức tin của người kitô hữu bị lung lay dữ dội / Chúng ta
hiệp lời cầu xin / cho những anh chị em đang gặp tang tóc buồn phiền / biết
luôn vững tin vào tình thương và sự quan phòng của Chúa.
3- Đối với người kitô hữu / chết không
phải là hết mà là bước sang một thế giới khác / và cuộc sống trần gian hôm nay
quyết định số phận mai ngày của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho các tín hữu / biết tích cực chuẩn bị cho cuộc sống đời sau / bằng một nếp
sống thắm đượm tình bác ái yêu thương.
4- "Vui với người vui và khóc với
người khóc" / phải là những việc làm thường xuyên của người kitô hữu /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống
theo lời dạy của vị tông đồ dân ngoại.
CT : Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã hiến thân chịu khổ hình thập giá. Xin ban ơn trợ giúp để chúng con biết
noi gương Chúa mà hết lòng yêu thương anh chị em chúng con. Chúa hằng sống và
hiển trị muôn đời.
- Trước kinh Lạy Cha :
Có người cha nào mà không thương con mình ? Huống chi Thiên Chúa, người
Cha vừa nhân lành vừa quyền năng của chúng ta. Chúng ta hãy hết lòng tin tưởng
dâng lên Ngài những lời nguyện xin của chúng ta.
Đức Giêsu là sự sống lại
và là sự sống. Chúc anh chị em ra về bình an trong niềm tin tuyệt vời ấy.
CHỦ ĐỀ :
ĐỨC GIÊSU LÀ NGƯỜI TÔI TỚ
CỦA THIÊN CHÚA
CỦA THIÊN CHÚA
"Chúc
tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến"
(Mt 21,9)
Sợi chỉ
đỏ :
- Bài Tin Mừng khi kiệu
lá : Tuy Đức Giêsu xuất hiện như một vị Vua, nhưng là một vị Vua ngồi trên
lưng lừa, hiền hòa và khiêm tốn.
- Bài đọc Cựu Ước :
thái độ vâng phục của Người Tôi Tớ.
- Bài đọc Tân Ước :
sự hạ mình của Người Tôi Tớ Giêsu.
- Bài Thương khó :
cuộc chịu nạn của Người Tôi tớ Giêsu.
Minh họa
-
Mille images 147 C
-
"Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến" (Mt 21,9)
(Dùng bài dẫn vào phụng vụ Lễ Lá được soạn sẵn
trong Sách Lễ Rôma)
- Đã bao lần chúng ta nghe
đọc bài Thương Khó, nhưng có khi nào chúng ta cảm được tình thương bao la của
Đức Giêsu khiến Ngài phải chịu bao đau khổ như thế vì chúng ta không ?
- Trong cuộc Thương khó,
Đức Giêsu đã hạ mình xuống đến mức thẳm sâu nhất. Phần chúng ta, chúng ta lại
thường thích nâng mình lên.
- Đức Giêsu đã phán
"Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình và vác thập giá mà theo". Chúng ta có
thực hiện lời Ngài dạy không ?
Trong trình thuật của
mình, Thánh Matthêu giới thiệu một Đấng Messia mà toàn dân trông đợi. Nhưng đó
không phải là một Đấng Thiên sai sử dụng quyền lực để thống trị, mà là một vị
Thiên sai khiêm nhu, hiền hậu, không một vũ khí trong tay. Hình ảnh Đấng Thiên
sai hiền hòa đó đã được ngôn sứ Dacaria miêu tả : "Hãy bảo thiếu nữ
Sion : Kìa Đức vua của ngươi đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa
con, là con của một con vật chở đồ". Thánh Matthêu cố ý không trích dẫn
câu "Ngài là người công minh và hiển hách" để tránh cho người nghe ý
nghĩ về một Đấng Thiên sai quyền lực lẫm liệt uy phong. Đối với Matthêu, Đức Giêsu
là Đấng Thiên sai khiêm tốn, giản dị, hiền hòa như con cừu người ta đem đi sát
tế. Ngài luôn luôn vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha với tất cả tâm tình của người
con thảo. (Trích số đặc biệt của Báo Công giáo và dân tộc, Giáng sinh 98, trang
140-141).
Đây là phần đầu bài ca thứ
ba của Người Tôi Tớ trong sách Isaia. Có 3 ý chính :
- Người Tôi Tớ không chống
lại Thiên Chúa. Ngược lại luôn tỉnh táo nghe Lời Ngài.
- Người Tôi Tớ không dùng
bạo lực để chống lại bạo lực.
- Người Tôi Tớ đặt trọn
niềm tin cậy phó thác vào Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
Tv này là tiếng than van
của người đang phải chịu khổ đến cùng cực, đến nỗi có lúc người đó tưởng như
Thiên Chúa cũng bỏ rơi mình. Dù vậy, tác giả cũng vẫn một niềm trông cậy vào
Chúa, nên sau những lời than thống thiết đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa và còn
kêu gọi mọi người hãy cùng mình chúc tụng Chúa.
Trong lúc bị đóng đinh
trên Thập giá, Đức Giêsu đã dùng Tv này để cầu nguyện.
Bốn bài thương khó trong
các sách Tin Mừng đều có chất liệu và bố cục gần giống nhau, nhưng mỗi quyển
Tin Mừng nhấn mạnh một ý tưởng khác nhau : Mc sử dụng như một bài giảng
truyền giáo ; Lc nhấn mạnh đến lòng nhân hậu của Đức Giêsu ; Ga nhấn
mạnh đến sự tự do và vương quyền của Đức Giêsu ; còn bài thương khó của Mt
thì giống như một bài giáo lý cho biết Giêsu là ai.
Bài thương khó trong Mt có
thể chia làm 2 phần : Đức Giêsu với các môn đệ, và Đức Giêsu với các nhà
cầm quyền do thái và rôma.
- Đức Giêsu với các môn
đệ : phần này diễn ra trong phòng tiệc ly và vườn Cây dầu. Mặc dù Ngài rất
thương mến các ông, nhưng Phêrô chối Ngài, Giuđa nộp Ngài và các môn đệ kia bỏ
Ngài.
- Đức Giêsu với các nhà
cầm quyền : Mt muốn cho thấy trách nhiệm của các nhà cầm quyền đối với cái
chết của Đức Giêsu. Giuđa đã mang tiền trả lại cho các thượng tế nhưng các ông
không nhận và tiếp tục ung dung xúc tiến vụ án. Bà vợ của Philatô khuyên chồng
đừng nhúng tay vào vụ án. Nhưng sự can thiệp này không kết quả.
Khi Đức Giêsu tắt thở, lời
của viên đại đội trưởng chính là câu trả lời cho câu hỏi giáo lý ("Giêsu
là ai") : "Quả thật người này là Con Thiên Chúa".
Đức Kitô có thể làm một
Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải công nhận uy quyền của mình. Thế
nhưng Ngài muốn làm một Người Tôi Tớ hạ mình cho đến tận cùng.
Đáp lại thái độ hạ mình
khiêm tốn ấy, Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
Đoạn thư Philipphê ngầm so
sánh Đức Giêsu với Ađam và nói lên cái nghịch lý giữa "lên" và
"xuống" : Ađam đã muốn lên "bằng Thiên Chúa" và kết
quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu "tuy vẫn là Thiên Chúa
mà không nhất quyết phải đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã
khước từ tất cả, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn". Kết quả là "Thiên Chúa
đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh
hiệu…". Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ
xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên".
Chúng ta cũng thường theo
con đường của Ađam, tưởng rằng khẳng định được mình khi nâng mình lên trước mặt
những người khác. Nhưng cái "mình" mà ta khẳng định ấy chỉ là những
dáng vẻ bề ngoài chứ không phải là bản thân thực sự của mình.
Hãy theo con đường của Đức
Giêsu, con đường vâng lời và từ bỏ. Qua con đường này, Ngài đã được Thiên Chúa
tôn lên làm Đức Chúa.
Thánh Phanxicô Assisi đã
xác tín điều ấy : "Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân".
Chúng ta nghĩ gì khi nghe
bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu ? Phải chăng chúng ta xúc
động vì một người vô tội mà phải gánh chịu biết bao đau khổ như thế ? Phải
chăng chúng ta giật mình nhìn lại bản thân để xem coi mình thuộc về loại
"cây khô" gồm những kẻ lạnh lùng hành khổ Ngài, hay "cây
xanh" đang vui lòng chịu khổ như Ngài ?
Nhưng còn một bài học khác
đáng chúng ta để ý hơn : Đức Giêsu đã tha thứ cho tất cả những kẻ làm khổ
Ngài, những người có mặt hôm đó cũng như những người của các thế hệ về sau,
trong đó có chính chúng ta nữa. Bài học Chúa dạy là phải liên kết lại cả 3 yếu
tố : đau khổ, tình yêu và tha thứ.
Trong trại tù Auschwitz , một trại tù nổi
tiếng của Đức Quốc Xã giam giữ những người do thái, người ta đã tìm được một
lời cầu nguyện rất cảm động như sau :
Lạy Chúa, xin đừng chỉ nhớ đến những người thiện chí, mà hãy nhớ cả những
kẻ ác tâm.
Đừng chỉ nhớ những nỗi khổ đã đổ dồn xuống chúng con. mà cũng hãy nhớ đến
những hoa trái mà các đau khổ ấy đã sinh ra cho chúng con : tình bạn chân
thành, sự khiêm tốn, lòng can đảm, tính quảng đại và con tim nhân ái.
Khi những người hành hạ chúng con phải ra trước toà Chúa phán xét, xin cho
tất cả những hoa trái ấy thành những lời xin ơn tha thứ cho họ.
Tôi có một giấc mơ. Tôi mơ thấy ngày tận thế. Hàng tỉ tỉ người tập trung
tại một cánh đồng rộng lớn trước toà Thiên Chúa để chờ Ngài xét xử. Nhiều người
sợ hãi. Nhưng nhiều khác nổi giận.
Một phụ nữ nói : "Sao Chúa có thể xét xử chúng tôi được ?
Ngài có biết gì về đau khổ đâu ! Chúng tôi đã phải chịu khủng bố, đánh
đập, tra tấn và giết chết." Vừa nói bà vừa vạch tay áo cho thấy một con số
do một trại tập trung Đức quốc xã xâm vào cánh tay bà.
Tiếp theo, một người đàn ông da đen cúi đầu xuống, để lộ một sợi dây thừng
đang quấn quanh cổ ông : "Tôi đã bị buộc cổ như thế này chỉ vì tội
làm người da đen, bị rứt khỏi những người thân yêu, rồi bị dẫn xuống chiếc tàu
chật cứng như nêm, bị bán làm nô lệ, làm việc nặng nhọc cho đến chết".
Sau đó, một cô gái với dòng chữ "con hoang" khắc trên trán lên
tiếng : "Tôi phải chịu đựng sự sỉ nhục này vượt sức… vượt sức…".
Cô nghẹn ngào không nói tiếp được.
Nhiều tiếng nói khác tiếp theo… Mọi người đều trách Chúa vì những khổ đau
họ đã gánh chịu khi còn sống. Ngài sung sướng quá vì cứ sống ở trên trời chỉ
toàn ngọt ngào và sáng láng, chẳng hề có một chút mồ hôi, nước mắt, đói khát,
sợ hãi, hận thù. Bởi vậy Ngài có biết gì về những nỗi khổ của loài người
đâu !
Thế rồi họ nhất trí xử Ngài phải xuống sống ở trần gian. Tuy nhiên phải làm
sao cho Ngài sống y như một người thường không ai biết Ngài là Thiên Chúa, và
cũng không cho Ngài sử dụng quyền phép Thiên Chúa của Ngài. Rất nhiều góp ý
được đưa ra :
- Hãy cho Ngài làm một người do thái.
- Làm sao cho người ta nghĩ Ngài là một đứa con hoang, để
không ai biết Cha thật của Ngài là ai.
- Ngài phải làm việc rất bận rộn đến nỗi bà con Ngài
tưởng Ngài bị mất trí.
- Ngài phải nếm nỗi đau bị những bạn thân nhất phản bội.
- Ngài phải bị đưa ra một toà án có sẵn bảng luận tội
Ngài.
- Ngài phải bị kết án là tay lừa đảo và bị xử tử.
- Trước khi chết, Ngài còn phải nếm mùi tra tấn và lăng
nhục.
- Cuối cùng phải cho Ngài biết cảnh chết trong hoàn toàn
cô đơn là khủng khiếp đến mức nào.
Lời góp ý cuối cùng đưa ra xong, mọi người im lặng… Và bỗng nhiên họ nhận
ra rằng Chúa đã thi hành bản án ấy của họ từ lâu ! (Flor McCarthy)
CT : Anh chị em thân mến
Để chuẩn bị Tuần Thánh, trong suốt Mùa Chay chúng
ta đã cầu nguyện, thống hối, chia sẻ tình thương và cơm áo cho nhau. Hôm nay
phụng vụ tung hô Chúa Giêsu khải hoàn, đồng thời mời gọi ta bước theo Người
trên con đường thập giá. Với tâm tình biết ơn và chia sẻ sự đau khổ của Đức
Giêsu, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Đức Kitô đã lên Giêrusalem chịu khổ
hình để cứu độ nhân loại và bước vào vinh quang / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
Hội Thánh Chúa / sau khi vượt qua cõi đời này / được đạt tới vinh quang bất
diệt.
2- Hiện nay / bạo lực vẫn tràn lan
trên khắp thế giới / người ta sẵn sàng lao vào giết chóc nhau / nhiều khi chỉ
vì những lý do rất nhỏ nhặt / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / thay lòng đổi dạ
con người trên trái đất hôm nay / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng
nhau hơn.
3- Không nên tự phụ vào sức riêng mình
/ nhưng phải trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp / Đó phải là điều tâm niệm hằng
ngày của mọi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / đừng tự
cao tự đại / nhưng phải khiêm tốn / tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa / vì bản
tính con người vốn yếu đuối mỏng dòn.
4- Bước theo Đức Kitô trên con đường
thập giá / là điều xem ra không phải lúc nào cũng dễ dàng thuận lợi / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng vượt qua mọi thử
thách gian nan / để có thể dấn thân theo Chúa đến cùng.
CT : Lạy Chúa Giêsu, xin cho mầu nhiệm thập giá
là mầu nhiệm của tình thương luôn sống động trong cuộc đời chúng con, để trong
cuộc sống thường ngày, lúc nào chúng con cũng biết yêu thương và tôn trọng lẫn
nhau, đồng thời không bao giờ trở nên thánh giá cho người chung quanh. Chúa
hằng sống…
- Trước kinh Lạy Cha :
Đức Giêsu đã hiến mình làm lễ vật tình yêu nên đã thiết lập Nước Thiên Chúa.
Xin cho Nước Thiên Chúa mau trị đến nhờ những hy sinh của chúng ta.
Chúng ta đã bắt đầu tuần
lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ. Chúng ta hãy sống tuần này một cách hết sức
sốt sắng trong tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, với Đức Mẹ và với toàn thể Giáo
Hội. Hãy cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
CHỦ ĐỀ :
BỮA TIỆC VƯỢT QUA
Đức
Giêsu rửa chân cho các môn đệ
(Ga 13,1-5)
Sợi chỉ
đỏ
- Bài đọc I : Lễ vượt
qua đầu tiên của dân do thái.
- Đáp ca : Lời nguyện
tạ ơn sau bữa ăn vượt qua.
- Bài đọc II : Bữa ăn
vượt qua của các kitô hữu
- Tin Mừng : Tường
thuật bữa tiệc vượt qua của Chúa Giêsu với các môn đệ.
Minh họa
- Mille images 149 A
- Đức Giêsu rửa chân cho
các môn đệ (Ga 13,1-5)
Anh chị em thân mến. Ba
ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh được gọi là Tam Nhật Vượt Qua và là
đỉnh cao của năm phụng vụ. Thời gian cao điểm này bắt đầu bằng Thánh lễ chiều
hôm nay, nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh thể và Chức Linh mục. Mỗi
lần chúng ta dâng Thánh Lễ là chúng ta hiện tại hóa hy tế Thập giá, nhất là
Thánh lễ chiều hôm nay.
Ngày xưa các tông đồ đã
vây quanh Chúa Giêsu bên bàn Tiệc ly. Chiều nay chúng ta cũng thế. Chúng ta hãy
có cùng một tâm tình, cùng một đức tin và cùng một lòng mến như các tông đồ để
dâng Thánh lễ này.
- Mỗi khi dâng Thánh lễ,
chúng ta tuyên xưng rằng "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu
chết". Nhưng chúng ta có dâng Thánh lễ với tâm tình của người chứng kiến
cái chết đau đớn của Chúa Giêsu không ?
- Mỗi khi dâng Thánh lễ,
chúng ta tuyên xưng tiếp rằng "… và tuyên xưng việc Chúa sống lại".
Nhưng chúng ta có thực sự xác tín rằng Chúa đã sống lại và đang sống với chúng ta
cách thân thiết trong Thánh Thể không ?
- Mỗi khi dâng Thánh lễ,
chúng ta còn tuyên xưng tiếp rằng "… cho tới khi Chúa lại đến". Nhưng
chúng ta có thực sự hợp tác với Chúa để biến đổi thế giới này trong khi chờ đợi
ngày Chúa lại đến không ?
Hàng năm dân do thái vẫn
kỷ niệm ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ ai cập bằng một bữa tiệc gọi là
Tiệc Vợt qua. Đoạn sách Xuất hành này ghi lại những quy định tỉ mỉ về việc chọn
con chiên vượt qua và về những nghi thức trong bữa ăn đó.
Thánh lễ mà Chúa Giêsu lập
làm cho bữa tiệc vượt qua thêm đầy đủ ý nghĩa : chính Chúa Giêsu là Con
Chiên vượt qua, cái chết của Ngài đã giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô
lệ tội lỗi.
Tv này là lời cầu nguyện
sau bữa tiệc vượt qua. Tín hữu tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn lành đã lãnh nhận.
Lời nguyện tạ ơn này có
được trọn vẹn ý nghĩa trong Thánh lễ, vốn được gọi là "Lễ Tạ ơn".
Trong bữa tiệc vượt qua
cuối cùng Chúa Giêsu ăn với các môn đệ, Ngài đã rửa chân cho họ. Việc này có
rất nhiều ý nghĩa :
- Chúa Giêsu đã yêu thương
các môn đệ "đến cùng", nghĩa là yêu thương cho đến giây phút cuối
cùng của cuộc đời trần thế của Ngài, mà cũng là yêu thương đến mức không thể
nào yêu thương hơn được nữa : Vì yêu thương Ngài đã hiến mình làm lương
thực cho họ ; vì yêu thương, Ngài đã chịu chết cho họ.
- Tình yêu thương phải
được biểu lộ ra bằng hành động. Vì thế, Ngài không ngại quỳ xuống trước các môn
đệ và rửa chân cho họ như một người đầy tớ quỳ xuống rửa chân cho chủ.
Có nhiều lệch lạc trong
cộng đoàn Côrintô trong việc cử hành bữa tiệc vượt qua kitô giáo, tức là Thánh
lễ. Thánh Phaolô viết đoạn thư này để nhắc các tín hữu ý nghĩa của Thánh
lễ : Thánh lễ vừa là tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, vừa là hiện tại
hóa những ơn ích của cái chết đó. Vì thế ta phải dâng Thánh lễ với tâm tình yêu
mến và biết ơn Chúa, đồng thời phải yêu thương đoàn kết với nhau.
Trong bữa tiệc ly, Chúa
Giêsu dạy các môn đệ mình những bài học sâu sắc bằng việc làm và lời nói của
Ngài :
- Bằng việc làm :
Trước khi hiến thân chịu chết trên thập giá và trước khi hiến mình làm của ăn,
Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. 3 việc làm này liên kết với nhau
và đều dạy bài học phục vụ : phục vụ như Người Tôi tớ mà ngày xưa ngôn sứ
Isaia đã tiên báo ; phục vụ cách khiêm tốn, phục vụ với tình yêu và phục
vụ đến nỗi hy sinh bản thân mình.
- Bằng lời nói :
trong bầu khí thân mật của gia đình, Chúa dạy một điều răn mới. Điều răn này
mới không phải ở nội dung ("chúng con hãy thương yêu nhau") mà ở cách
thức và mức độ thi hành (hãy yêu hương nhau "như Thầy yêu thương chúng
con" ; "Thầy đã làm gương để chúng con cũng bắt chước mà làm như
Thầy đã làm cho chúng con").
Cử hành Lễ Vượt qua với
Chúa Giêsu trước hết là chấp nhận để cho Chúa Giêsu phục vụ chúng ta và yêu
thương chúng ta. Có như thế chúng ta mới được thực sự rửa sạch, như lời Chúa
Giêsu đã nói với Phêrô xưa.
Cử hành lễ Vượt qua với
Chúa Giêsu còn là phải noi gương Ngài để trở thành người tôi tớ yêu thương và
phục vụ những người khác theo cách của chính Chúa Giêsu.
Thánh lễ ngày nay là hiện
tại hóa bữa tiệc ly đêm thứ năm tuần thánh đầu tiên. Nó có hai ý nghĩa
chính :
- Đó là một bữa ăn gia
đình : mọi người cùng ngồi một bàn với nhau, cùng ăn những món chung nhau,
cho nên phải đoàn kết yêu thương nhau. Đó là chiều ngang. Nhưng nếu chỉ lưu ý
tới chiều ngang này thì Thánh lễ hầu như chỉ còn như một bữa giỗ.
- Thánh lễ còn loan báo
việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại và hiện tại hóa những ơn sủng dồi dào do
việc Chúa Giêsu chết va øsống lại ban cho loài người. Đó là chiều đứng.
Khi dâng Thánh lễ chúng ta
phải để ý đến cả hai chiều kích ấy và phải có đủ cả hai tâm tình ấy : vừa
liên kết với Chúa vừa liên kết với anh em. Sai lầm thường mắc phải là chỉ chú ý
đến chiều kích này mà quên đi chiều kích kia.
Phêrô không hiểu ý nghĩa
việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, nên Chúa Giêsu nói "Việc Thầy
làm, bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu".
Về sau, Phêrô đã hiểu
gì ? Thưa hiểu rằng đó không phải chỉ là một việc làm vệ sinh, mà ý nghĩa
còn sâu sắc hơn nhiều.
Khi tay chân mình dơ thì
mình làm gì ? Chặt bỏ đi ư ? Không, không ai muốn chặt tay chặt chân
mình bao giờ cho dù nó dơ bao nhiêu đi nữa. Nó dơ thì mình rửa cho sạch. Bởi vì
nó là một phần của thân thể mình, một phần của sự sống mình.
Chúa Giêsu rửa chân cho
các môn đệ, bời vì họ là anh em của Ngài ("Anh em như thể tay chân").
Ngài dạy chúng ta rửa chân cho nhau vì chúng ta cũng là anh em của nhau, tay
chân của nhau.
Khi chúng ta chặt bỏ ai
thì đó là dấu chúng ta không còn coi người đó là anh em của mình nữa. Chặt bỏ
bằng kết án, khai trừ.
Còn nếu chúng ta vẫn còn
coi người đó là anh em của mình thì dù người đó dơ bao nhiêu đi nữa, mình sẽ cố
gắng rửa cho sạch.
Dòng nước tẩy rửa rất nhẹ
nhàng, trong lành, êm ái…
- Trước kinh Lạy Cha :
Mọi người chúng ta là anh em của nhau, Chúa Giêsu là anh cả, và Thiên Chúa là
Cha. Trong tâm tình gia đình thân thiết, chúng ta hãy dâng lên Cha chúng ta lời
kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
- Trước lúc rước lễ :
Thánh lễ hôm nay diễn lại đúng nghĩa nhất Thánh lễ đầu tiên của Chúa Giêsu
trong đêm Thứ Năm tuần Thánh đầu tiên. Chúng ta hãy rước lễ sốt sắng như các
tông đồ ngày xưa.
(Hôm nay không có)
Nghi thức Chiều Thứ Sáu
Tuần Thánh không phải là Thánh lễ mà chỉ là một lễ nghi phụng vụ tôn kính
Thánh giá Chúa Giêsu và tưởng niệm việc Ngài chịu chết.
CHỦ ĐỀ :
TÔN KÍNH THÁNH GIÁ,
TƯỞNG NIỆM ĐỨC GIÊSU CHỊU CHẾT
TƯỞNG NIỆM ĐỨC GIÊSU CHỊU CHẾT
"Này,
Tôi Tớ của Ta sẽ thành đạt, sẽ được nhắc lên cao"
(Is 52,13)
Sợi chỉ đỏ
-
Bài đọc I : Ngôn Sứ Isaia tiên báo về Người Tôi Tớ.
-
Đáp ca : Lời cầu nguyện của người Công chính bị bách hại "Con xin phó
linh hồn con trong tay Cha"
- Bài đọc II : Chúa
Giêsu là Vị Thượng Tế chịu chết để cứu nhân loại.
-
Tin Mừng : Bài Thương khó theo Thánh Gioan.
Minh họa
-
Mille images 156 A
-
"Này, Tôi Tớ của Ta sẽ thành đạt, sẽ được nhắc lên cao" (Is 52,13)
Đây là bài ca thứ tư về
Người Tôi Tớ trong sách Isaia, bài tiêu biểu nhất trong 4 bài. Có 3 ý
lớn :
- Người Tôi Tớ ấy phải
chịu rất nhiều đau khổ về cả thể xác lẫn tinh thần.
- Nhưng bản thân Người Tôi
Tớ thì vô tội. Sở dĩ Người chịu khổ như thế là vì tội của người khác.
- Vì thế những đau khổ của
Người đem lại ơn tha thứ và ơn cứu rỗi cho nhiều người khác.
Đây là lời cầu nguyện của
tín hữu trong lúc bị đau khổ. Người tín hữu bày tỏ niềm trông cậy vào Thiên
Chúa và phó thác đời mình trong tay Chúa.
Trong lúc tắt hơi, Chúa
Giêsu đã cầu nguyện bằng một câu của Tv này "Con xin phó linh hồn con
trong tay Cha" (Lc 23,46).
Tác giả thư Do thái coi
Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết là Vị Thượng Tế tự nguyện chịu khổ để mang ơn cứu
độ cho nhân loại.
Những ý tưởng mà Thánh
Gioan muốn nhấn mạnh đặc biệt trong bài tường thuật này :
a/ Chúa Giêsu là người tự
do : Ngài biết trước mọi việc sắp xảy đến, nhưng Ngài không trốn tránh,
trái lại hoàn toàn ý thức và tự nguyện đi vào những biến cố bi thảm đó. Như thế
cuộc chịu nạn chịu chết của Ngài là một chuỗi những hành đông tự do.
b/ Chúa Giêsu là
Vua : trong vụ án này, bề ngoài xem ra Chúa Giêsu là tội nhân, là bị cáo.
Nhưng Gioan đã nhận ra Ngài là Vua, là kẻ chủ động và là quan tòa.
c/ Qua việc chịu chết,
Chúa Giêsu tuôn đổ Thánh Thần xuống cho các môn đệ.
Có
thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được
người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha
thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy,
chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên
Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.
Triết
gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau : thường là họ
chửi rủa : chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rũa những kẻ đứng xem,
có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh
ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho
biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung
dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong
cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm
bị đóng đinh chung với Đức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Giêsu là
người chẳng thù oán gì với hắn.
Chiều
hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức
Giêsu : những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành
hình Ngài : các Tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động
kết án xử tử Ngài ; dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng
Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay
ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin
chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng : Hãy thương
yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình" giờ đây sắp nói khùng, sẽ
quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa
thậm tệ.
Thế
nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải
những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất "Lạy Cha, xin
Cha tha cho họ" ; câu thứ hai "Tôi hứa thật với anh, ngay hôm
nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi" ; và câu thứ ba "Thưa
Bà này là con Bà".
Ngoài
giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa yêu thương của những câu nói đó,
chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng : câu thứ nhất "Lạy
Cha..." là nói đến những kẻ thù ghét Ngài ; câu thứ hai "Ngay
hôm nay..." là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài ; câu
thứ ba "Thưa Bà..."là nói với Đức Mẹ, một người thánh thiện. Nghĩa
là : cho đến phút sắp chết, tình thương của Đức Giêsu vẫn bao la, và còn
bao la hơn bao giờ hết. Tình thương đó dành cho ai ? Trước hết là cho kẻ
thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là
Đức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước
lúc chết.
1.
Hôm nay chúng ta đã thấy Đức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước
nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của
Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa.
Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hoà thuận lại với nhau.
2.
Hạng người thứ hai được Đức Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những
người tội lỗi. Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ
người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng
ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó
khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì
người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Đức Giêsu trong những phút giây trước khi
Ngài chết.
3.
Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành
thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa
chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng
yêu thương những người tội lỗi.
Bài
tường thuật cuộc thụ nạn của Đức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả
tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Đức Giêsu. Và bây giờ chúng ta
hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.
Sáng
Thứ Sáu, Baraba đang ngồi trong tù thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi
Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử
tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta
không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người
tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai
ra trước công chúng và hỏi : Trong hai người này : Một là Giêsu, hai
là Baraba, các người muốn ta tha ai ? Baraba cảm thấy nhẹ nhỏm ; thì
ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn
không ? Tuy nhiên chỉ nhẹ nhỏm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo
sợ : thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết
hắn : tội hắn quá rõ và quá lớn mà. Thế nhưng Baraba không tin vào tai
mình khi nghe dân gào to : Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu. Đến khi
Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thư hai y như lần
trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi.
Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn,
vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn
quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mãi mê gào thét đòi giết Giêsu. Khi đó
hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng
đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường.
Giêsu là ai vậy ? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên
mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập
giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình :
chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyền rủa những kẻ hành hạ mình. Hai bên
Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn. Tương truyền
tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý
hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng. Còn
Đicma thì nói với đồng nghiệp : Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông
này có làm chi nên tội đâu. Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa : Giêsu là
người vô tội bị kết ánh oan. Đicma lại quay sang Giêsu và nói : Thưa Ngài,
khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo. Và Giêsu đáp : Tôi hứa với
anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đàng với tôi. Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm
một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Đicma đầu trộm đuôi
cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thì nghe Giêsu kêu
lớn : Lạy Cha, xin Cha tha cho họ. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn
nữa : Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Đicma, mà còn muốn cứu tất cả những
người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn : Lạy Cha,
con xin phó linh hồn con trong tay Cha. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên
đại đội trưởng lên tiếng : Đúng thật người này là Con Thiên Chúa. Baraba
thầm nghĩ : Đúng vậy, chỉ có Con TC mới có được một tấm lòng như vậy.
Baraba rời đồi Golgotha , vừa đi vừa tiếp tục
suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa
mà trở nên một người lương thiện.
Chúng
ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều
về Luật :
.
Trước hết là luật công bình : theo Luật này thì cả hắn, cả Đicma và Ghetta
nữa đều phải bị xử tử vì cả 3 đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm
nay Luật này đã không được thực hiện.
.
Kế đến là Luật rừng, luật bị thúc đẩy bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình
không ưa. Đức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.
.
Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là Luật tình thương. Luật Giêsu đã thực
hiện : do luật tình thương này mà Đức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng
nhờ luật này mà Baraba được thả, Đicma được lên thiên đàng và những kẻ thù của
Đức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội
trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.
Tối
thứ Năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ
"Thầy ban cho chúng con một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu
nhau. Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người dám thí mạng sống
vì người mình thương. Và Đức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó.
Không nên sống theo Luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà
người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.
Chúng
ta là môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.
Trong những giây phút đau
đớn nhất và buồn phiền nhất, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha và tha thiết cầu
nguyện với Ngài. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu và cầu nguyện với
Chúa Cha bằng lời kinh do chính Ngài dạy.
(Dùng "Lời nguyện
trên dân chúng" trong Sách Lễ Rôma)
CHỦ ĐỀ :
CÔNG BỐ TIN MỪNG PHỤC SINH
"Ngài
đã sống lại rồi"
(Mc 16,6)
Minh họa
-
Mille images 175 A
-
"Ngài đã sống lại rồi" (Mc 16,6)
(Như trong sách lễ Rôma)
Anh chị em thân mến, trong
đêm cực thánh này, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã vượt qua từ sự chết đến sự
sống, Hội Thánh mời gọi con cái tản mát trên khắp địa cầu họp nhau canh thức
cầu nguyện. Nếu chúng ta kính nhớ lễ Vượt qua của Chúa, nghe lời và cử hành mầu
nhiệm của Người, thì chúng ta có hy vọng được thông phần vào cuộc toàn thắng sự
chết của Người và được sống với Người trong Chúa.
Khi lãnh nhận phép rửa,
tín hữu được tham dự vào sự chết và sống lại của Chúa Giêsu :
- Thánh Phaolô nói theo
nghi thức Rửa Tội thời Giáo Hội sơ khai : người dự tòng được dẫn đến giếng
rửa tội, rồi dìm toàn thân vào nước, sau đó đứng lên.
- Nghi lễ ấy mang ý nghĩa
vượt qua : việc dìm mình xuống nước có nghĩa là để cho con người cũ (xác
thịt, tội lỗi) chết đi ; việc chỗi dậy có nghĩa là sống lại thành con
người mới, con người thuộc về Thiên Chúa.
Thánh vịnh này là tâm tình
của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền
năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc.
Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
Sáng sớm ngày thứ nhất
trong tuần, một số phụ nữ vội vàng ra mộ để xức thuốc thơm cho xác Chúa Giêsu.
Nhưng các bà thấy tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên, không có xác Chúa trong
mộ. Một thiên sứ báo cho các bà biết Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà hãy
đi loan Tin Mừng ấy cho các môn đệ.
Chủ tế : Anh chị em thân mến, hôm nay toàn thể Hội
thánh long trọng mừng Chúa Giêsu Kitô sống lại vì đó là nền tảng cho niềm tin
của Hội thánh, là nền tảng cho Tin mừng Người loan báo. Chúng ta hãy phấn khởi
dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sau đây :
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi
người trong Hội thánh / đã được chết cho tội lỗi và sống lại trong Đức
Kitô nhờ Bí tích Thanh tẩy / biết mau mắn từ bỏ tội ác / và sống theo
đời sống mới của con cái Thiên Chúa.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho những
người không tin Chúa, chống lại Chúa và sống trong tình trạng tội lỗi /
biết mở lòng mở trí đón nhận ánh sáng của Chúa Phục sinh / để tìm được
chân lý và hy vọng cho đời mình.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những
người đang sống trong nghèo đói, thất nghiệp không nhà không cửa / gặp
được nhiều người giúp đỡ ủi an / và nhận ra Chúa Giêsu là đã chết và sống
lại vì yêu thương họ.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị
em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / đặc biệt là anh chị em tân tòng / biết
dùng lời nói và việc làm để làm chứng về Chúa Giêsu Phục sinh / cho những
người lương dân sống chung quanh chúng ta.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã đem
niềm vui phục sinh đến cho chúng con hôm nay, xin cho chúng con biết chia sẻ
niềm vui và niềm tin ấy cho mọi người chúng con gặp để tất cả được chung hưởng
niềm vui của con cái Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trước kinh Lạy Cha :
Chúa Giêsu phục sinh đã thiết lập cơ sở vững chắc cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta
hãy cầu xin cho Nước ấy được mở rộng khắp nơi, trong lòng mọi người.
- Chúc bình an :
Chúa Giêsu phục sinh đã mang bình an đến cho chúng ta. Chúng ta hãy thành thật
chúc nhau được hưởng bình an của Chúa.
Đức Kitô đã sống lại và
đang sống mãi. Ngài sống trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới này. Chúng
ta hãy làm những chứng nhân nhiệt tình cho Ngài, mang niềm vui và an bình đến
cho mọi người. Halleluia, Halleluia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét