PHÒNG NGỪA BỆNH SÁN CHÓ
Sán chó (còn gọi là giun đũa chó) có tên khoa học là Toxocara
canis. Sán chó có hình tròn, dài giống như giun đũa ở người. Trên thực tế, đa
số người bị nhiễm sán chó thường không có các triệu chứng điển hình à rất dễ
nhầm lẫn với các bệnh khác như da bầm tím, nổi những mụn nhỏ, mệt mỏi, đau
bụng, ăn không ngon, giảm cân, ho, khò khè như bị suyễn...; chỉ khi có các biến
chứng, tổn thương, viêm nhiễm một cơ quan nào đó trên cơ thể và xét nghiệm máu
mới biết được. Gần đây trong kiểm tra sức khỏe, có những trường hợp chẩn đoán
không ra bệnh, siêu âm cũng không phát hiện được và chỉ xét nghiệm máu mới phát
hiện bệnh nhân bị nhiễm sán chó. Chị Nguyễn Thị Thu Trang (huyện Ea Kar) thấy
cơ thể mình thỉnh thoảng nổi đầy hạt như bị rôm nên chị đã đi khám da liễu
nhưng không phát hiện bệnh gì. Theo tìm hiểu trên mạng Internet, chị tới Viện
Sốt rét - côn trùng - kí sinh trùng Quy Nhơn làm các xét nghiệm máu và kết quả
chị bị sán chó. Trường hợp khác là chị Phan Thị Hoa ở TP. Buôn Ma Thuột. Khi thấy
hai cánh tay thỉnh thoảng lại nổi mụn li ti và gây ngứa, chị đi xét nghiệm máu
và phát hiện mình bị sán chó. Chu trình tuần hoàn. Lây bệnh: Một nghiên cứu của
Bệnh viện Nhi Đồng 2 cho thấy, đa số bệnh nhân nhập viện có biểu hiện về thần
kinh. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất trong giai đoạn đầu và khi phát bệnh
là nhức đầu và động kinh, tiếp đến là bầm da, yếu liệt, rối loạn tiêu hóa, mờ
mắt... Biểu hiện lâm sàng của bệnh dễ bị nhầm với một dạng ung thư võng mạc. Sán
chó trưởng thành sống trong ruột non của chó. Trứng sán theo phân ra đất phát
triển thành ấu trùng, phát tán trong môi trường rồi nhiễm vào thức ăn, nước
uống của người. Trong cơ thể người, trứng sán chó nở thành ấu trùng nhưng không
phát triển thành sán trưởng thành do cơ thể con người không phải là ký chủ của
nó. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, ấu trùng sẽ chui qua thành ruột non theo đường
máu đến các cơ quan nội tạng khác như gan, phổi, mắt,... và gây bệnh ở các nơi
này. Ấu trùng di chuyển đến phổi gây viêm phổi, đến mắt gây viêm xung quanh mắt
hay gây bệnh ở võng mạc của mắt làm giảm thị lực, có thể làm mù mắt. Các cơ
quan như mắt, não bộ…bị tổn thương có khi phải giải phẫu nhưng nhiều thì khó
chữa khỏi hoàn toàn. Ấu trùng cũng có thể xâm nhập qua da (nhất là da non) gây
hội trứng “ấu trùng di chuyển ngoài da”. Để chẩn đoán có bị nhiễm sán chó hay
không phải xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán Elisa tìm kháng thể chống lại sán
chó. Không xét nghiệm phân vì trứng của sán chó không có trong phân người. Sau
khi điều trị, làm thử nghiệm Elisa có thể cho kết quả dương tính (+) hằng năm
do kháng thể ký sinh trùng sán chó có thể tồn tại trong máu vài năm sau đó. Vì
vậy, khi bị nhiễm sán chó, sau khi điều trị cần làm xét nghiệm máu 3 tháng/1
lần cho đến khi kết quả hoàn toàn âm tính (-). Vấn đề điều trị cần tùy thuộc
vào diễn biến lâm sàng của bệnh nhân. Khi dùng thuốc, bệnh nhân phải tuân thủ
theo sự chỉ dẫn của bác sĩ, không tự ý mua thuốc về uống. Sán chó có thể điều
trị khỏi nhưng sẽ bị tái phát nếu bị nhiễm trở lại. Để phòng ngừa bị nhiễm sán chó, cần:Giữ gìn vệ sinh cá nhân: Rửa tay sạch trước khi
ăn, nhà cửa phải được lau dọn sạch sẽ, ăn sạch, uống chín, nếu ăn rau sống phải
rửa sạch dưới vòi nước đang chảy.Không
cho trẻ chơi đùa hay ngủ chung với chó, mèo và nên có nơi nuôi chó, mèo riêng
biệt.Nên tắm và xổ giun định kỳ cho chó.Thu gom, xử lý phân chó như phân người,
không để chó ỉa bậy khắp nơi. Khi nghi ngờ mình hoặc người thân bị sán chó nên
đưa đến các cơ sở y tế để được khám và hướng dẫn nơi điều trị. Tại khu vực miền
Trung, Tây Nguyên, bệnh nhân nên đến Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng
để khám và điều trị.
MỤC LỤC
1. Mẹ Maria
2. Tiệc cưới
3. Họ hết rượu
rồi
4. Mời Chúa đến
nhà - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Suy niệm của
Achille Degeest
6. Giao ước mới
của sự phong phú phong nhiêu
7. Hãy mời Chúa
vào nhà
8. Cana –
McCarthy
9. "Ngài có
bảo gì, hãy làm theo!"
10. Dấu chỉ tiệc
cưới Cana – Radio Veritas Asia
11. Chúa đến xây
dựng hạnh phúc cho con người
12. Bình an, êm
xuôi là ơn Chúa
13. Vị khách
14. Hạnh phúc
mong manh – Thiên Phúc
15. Chúa Giêsu
thay đổi tất cả
16. Chuyện bất
ngờ
17. Hiện diện
18. Tiệc cưới
Cana
19. Tiệc cưới
20. Quan tâm đến
tha nhân - JKN
21. Chú giải của
Noel Quesson
22. Chú giải của
Fiches Dominicales
23. Chú giải của
Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Mẹ Maria.
Đám cưới ở Do
Thái là một dịp vui mừng. Thay vì tuần trăng mật, thì họ tổ chức tiệc tùng kéo
dài cả tuần lễ. Vì thế số lượng rượu phải được tính toán cẩn thận kẻo bị thiếu
hụt. Và sự kiện này lại xảy ra ở Cana, một thành phố nhỏ năm giữa Nadarét và
biển hồ Tiberiat, là quê hương sinh trưởng của Nathanael, là nơi Chúa cho con
của một sĩ quan gần chết được khỏi bệnh. Dù sao thì bữa tiệc hôm ấy không còn
một giọt rượu nào, mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria lại có mặt ở đó, vì có lẽ là chỗ
bà con họ hàng.
Bấy giờ người ta
chưa biết gì về uy quyền của Chúa, họ chỉ nhận ra Ngài là một người thợ mộc
chân thành, không tiếng tăm. Nhưng mấu chốt là nơi Mẹ Ngài. Các bà mẹ thường
nhìn thấy những điều cần thiết. Huống chi là Đức Mairia. Mẹ ân cần thưa lên với
Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi. Bên ngoài, câu nói này có vẻ như xa vời, nhưng bên
trong là cả một lời van xin thầm kín, không nài ép nhưng đầy lòng tin tưởng.
Trông thâm tâm, Mẹ nghĩ rằng có lẽ con mình sẽ giúp được gì cho họ, chứ chưa
hẳn đã là một phép lạ. Cũng vì tin tưởng, Mẹ đã rỉ tai các gia nhân: Hễ Ngài
dạy sao thì cứ làm như vậy.
Sau những lời
thưa trình của Đức Mẹ, Chúa Giêsu trả lời một cách hững hờ: Tôi với bà có liên
can gì. Câu trả lời hàm ý một sự chối từ. nhưng ở đây, một lần nữa, qua lòng
tin nổi bật của Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã ra tay cứu giúp đôi tân hôn bằng một
phép lạ lẫy lừng.
Sau này, Chúa
cũng làm như vậy trong trường hợp người đàn bà xứ Canaan, ở đó Chúa tuyên bố
Ngài không đến cho dân ngoại, nhưng cũng vì đức tin của bà mà Chúa đã ban phép
lạ. Phải chăng Chúa Cha muốn Đức Kitô làm pháp lạ, theo lời Mẹ Maria cầu xin.
Vì thế Công đồng Vat. II đã nói: Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ
Ngài chỉ xuất hiện vào lúc đầu trong tiệc cưới Cana. Mẹ đã động lòng trắc ẩn và
nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ. Chúa Giêsu đã khai mạc bằng phép lạ của Ngài.
Thực vậy, sau
những lời trao đổi giữa hai mẹ con, mà không một ai để ý đến. Khách khứa, thì
bận ăn bận nói. Chúa Giêsu đến gần các gia nhân và bảo họ: Hãy múc nước đổ đầy
6 chiếc chum bằng đất vốn đựng nước để ráy. Mỗi chum khoảng từ 60-80 lít. Các
gia nhân đã lập tức vâng nghe, không ai trong họ đã phản đối, hay nghĩ thế này
thế khác. Sự vâng phục này đã là một dịp tốt đưa đến phép lạ.
Dưới khía cạnh
tín lý, biến cố này chứng tỏ rằng Mẹ Maria có một sứ mạng đặc biệt. Sứ mạng này
gồm có sự bầu cử và trung gian của Mẹ cho loài người trước tôn nhan Chúa. Thế
nhưng, chúng ta có biết chạy đến với Mẹ, nhất là trong những giờ phút tăm tối
và u buồn, để xin Mẹ bầu cử và nâng đỡ hay không?
2. Tiệc cưới.
Có nhiều người
cho rằng: niềm vui không thể đi đôi với niềm tin. Chỉ có ăn chay hãm mình mới
là sống đạo. Chỉ khi nào chấp nhận những hy sinh gian khổ thì mới có công phúc.
Còn vui tươi hớn hở không phải là thái độ trọng kính đối với Thiên Chúa. Quan
niệm sai lầm này khiến họ sống đạo một cách khô khan, nhăn nhó và phục vụ Chúa
với nét mặt sầu thảm.
Thế nhưng, qua
đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy hoàn toàn khác hẳn. Dấu chỉ tiệc cưới Cana
cho hay Thiên Chúa muốn chúng ta sống vui tươi, hồn nhiên và trong sáng, bởi VÌ
cái tin mà Ngài đem đến không phải là tin buồn, tin sầu, nhưng là một tin vui,
tin mừng. Và nếu chúng ta thực sự sống niềm tin ấy, thì khuôn mặt chúng ta sẽ
rạng lên nét vui mừng. Đúng như một câu danh ngôn đã bảo:
- Un saint
triste, triste saint. Một ông thánh buồn, là một ông thánh đáng buồn vậy.
Dấu chỉ tiệc
cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng để gặp gỡ Đức Kitô chúng ta không cần phải
là người thoát tục, trở nên như các thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ và trở
thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta theo gương
Chúa Giêsu nhập thể.
Và để có thể
thực hiện ơn gọi làm người, thì cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi
ngày. Càng biết sống sâu đậm các nhân đức tự nhiên ấy, chúng ta càng trở nên
giống Chúa Giêsu làm người.
Đó là nền tảng
vững chắc đầu tiên của ơn gọi Kitô hữu, bởi vì nếu thiếu các nhân đức nhân bản
này, người tín hữu sẽ mất quân bình, dễ trở thành cuồng tín và lệch lạc. Trước
khi trở thành người Kitô hữu, thì chúng ta phải là người, theo đúng ý nghĩa của
nó.
Ngoài ra dấu chỉ
của tiệc cưới Cana còn cho chúng ta biết rằng của cải trần gian và các tiện
nghi vật chất chúng không có gì là xấu xa và nguy hại. Chúng chỉ xấu xa và nguy
hại khi làm cho chúng ta đánh mất chất người, biến chúng ta trở thành ích kỷ
độc ác và bất công.
Thật ra chỉ có
con người là đáng chê trách, chứ không phải là của cải. Chính vì thế, thánh
Phaolô đã khuyên nhủ mọi người phải biết sử dụng đúng đắn tất cả những ơn sủng
Thiên Chúa ban cho. Kẻ ít người nhiều, ai cũng nhận được một số ơn sủng tuỳ
theo sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Cần phải tận dụng tất cả các ơn
sủng đó, để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân. Chính các ơn sủng này
làm thành sự phong phú của cộng đoàn dân Chúa.
Tóm lại ý thức
được những ơn Chúa ban, chúng ta hãy biết tận dụng để phục vụ Thiên Chúa trong
anh em, theo mẫu gương của Đức Kitô.
3. Họ hết rượu
rồi.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đức Giêsu, Mẹ
Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Đám cưới là
một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Đức Giêsu
đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài
trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.
Tin Mừng Gioan
hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa.
Những dấu lạ vén
mở con người Đức Giêsu.
Làm bánh hóa
nhiều cho thấy Đức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Đức
Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Ladarô cho thấy Đức Giêsu là sự Sống Lại.
Dấu lạ ở tiệc
cưới Cana cũng cho ta biết Ngài.
Thứ nước dùng
cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Đức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một
lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.
Ngài biến nước
của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới,
thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ.
Đức Giêsu cho
thấy mình chính là Đấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và
phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.
Cựu Ước không
làm con người mãn nguyện. Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng
hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh.
Đức Giêsu đã dự
tiệc cưới ở Cana. Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người. Ngài muốn
chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ.
Đừng để Đức
Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn. Đừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm
vui bạn có.
Nếu bạn nghe lời
Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng, bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.
Dấu lạ Cana chủ
yếu cho ta thấy Đức Giêsu là ai, nhưng Đức Maria cũng có một vai trò đáng kể.
Mẹ hiện diện
trong tiệc cưới như thân mẫu Đức Giêsu.
Mẹ thấy rõ sự
lúng túng lo âu của chàng rể.
"Họ hết
rượu rồi": Mẹ chỉ nói với Con như vậy. Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài
xin kín đáo. Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ. "Người bảo gì,
các anh hãy làm."
Quả thật Đức
Giêsu có bảo và các gia nhân có làm, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện. Qua sự
đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và
lớn lên.
Hôm nay Mẹ vẫn
nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!
Niềm vui chợt
tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ... Cần biết bao sự hiện diện của Chúa
và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.
"Người bảo
gì, các con hãy làm": Đó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa muốn
con người hạnh phúc ngay từ đời này. Theo bạn, thế nào là một con người hạnh
phúc? Hạnh phúc đích thực dựa trên những yếu tố nào?
Đâu là những
điều đe dọa hạnh phúc bình thường của một người?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà
Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền
thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài
đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để
đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người
hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy
Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con
đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng
con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù
phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng
con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con
người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
4. Mời Chúa đến
nhà - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Những ngày tháng
cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ
ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói
chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh
phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt
đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh
phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.
Đám cưới Cana
hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết
rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến
bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không
xa.
Đám cưới Cana
thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự
bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa
yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài
người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành
với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một
Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến
chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia
đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong
chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua
được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong
đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu
của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những
thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho
con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh
thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu
kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là
những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt
sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong
gia đình.
Đời sống gia
đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo
như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng
nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn
và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai
cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời
Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh
đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh
tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như
Đức Mẹ dạy các gia nhân: "Người bảo gì thì phải làm theo". Nhờ làm
theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được
bền vững.
Gia đình muốn
sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc
Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng
nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều
khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải
là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời
Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa,
hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung
thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên
trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon
trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin
đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với
chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1. Gia đình bạn
có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
2. Gia đình bạn
có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
3. Bạn đã có
kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?
4. Có bao giờ
bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất
bại?
5. Suy niệm của
Achille Degeest.
ĐỨC MARIA QUAN
TÂM ĐẾN HẠNH PHÚC CỦA NHỮNG ĐÔI LỨA.
(Trích trong
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Người ta nghĩ
rằng Chúa Giêsu dự tiệc cưới Cana là vì mẹ Người được mời đến, dường như vì có
liên hệ thân thuộc với họ nhà trai hoặc nhà gái. Thần học thiêng liêng rút ra
một kết luận ít nhất cũng phù hợp với kinh nghiệm của Giáo Hội: Việc Đức Maria
can thiệp khiến cho nhiều tâm hồn mở rộng nghênh đón Chúa Giêsu. Danh từ 'bà'
mà Chúa nói với mẹ Người là theo phép lịch sự Do thái thời đó, chẳng có gì đáng
cho ta khó chịu. Trong bài tường thuật có hai yếu tố chính của lịch sử Chúa
Giêsu: quyền năng của Chúa được Người sử dụng để biểu lộ lòng nhân hậu của
Người. Chúa xen vào đời sống nhân loại hằng ngày, Chúa can thiệp vào những công
việc tầm thường nhất của con người. Một số nhà phê bình nào đó cho rằng việc
Chúa làm phép lạ là một việc rất khó xảy ra, Chúa đắn đo cân nhắc rất nhiều
trước khi tỏ quyền uy của Người. Như vậy chúng ta thấy rằng về phương diện đạo
đức con người có hai nhược điểm: dễ đi đến chỗ thái quá, sinh ra mê tín – hoặc
trái lại, dễ sa vào thái độ thần thoại hoá. Chúng ta chấp nhận thiên ký sự tiệc
cưới Cana như thể đón nhận ánh bình minh báo hiệu một ngày đẹp trời. Chúng ta
mở mắt đón lấy nguồn sáng đang lên.
1) Từ phép lạ
Cana trở đi, Chúa đến nơi nào là nơi ấy có một sự biến đổi, bao giờ cũng vậy.
Đức Maria ở đâu, nếu lúc đó chưa có mặt Chúa thì chắc chắn Chúa đang trên đường
tới đó. Chúng ta quan niệm đời sống Kitô giáo không như một hệ tư tưởng áp dụng
cho thế giới, nhưng là một sự nghênh đón Chúa Kitô đến với chúng ta, cho nên
bao giờ chúng ta cũng có lý do mời Đức Maria (Mẹ chúng ta) đến chung vui hoặc
chia sẻ lo âu với chúng ta. Thế là mau mau Chúa cũng sẽ đến. Mặt khác, Chúa làm
gì trong tiệc cưới? Chúa biến đổi nước thành rượu. Nước là chất tượng trưng cho
thực tại thường nhất của đời sống chúng ta. Sự hiện diện của Chúa Kitô trong
đời sống của một người tầm thường làm biến đổi, thần hoá đời sống ấy. Ở đây
rượu tượng trưng cho mạch nhựa lưu thông trong cây nho và cành nho, tức là ân
huệ đời sống thần linh do Chúa Kitô ban cho.
2) Phép lạ Cana
xảy ra giữa một tiệc cưới. Những bậc giáo phụ (là những tác giả thời khởi thuỷ
đã đóng góp thành lập kho tàng truyền khẩu trong Giáo Hội) từng nghĩ rằng chính
sự kiện Chúa dự đám cưới Cana nâng phép hôn phối Kitô giáo (trong đó Chúa hiện
diện) lên hàng một bí tích. Dẫu sao, Chúa đã tới chung vui với đôi tân hôn trẻ
tuổi. Chắc chắn lúc đó Chúa thấy rõ điều mà Thần Trí Chúa sau này sẽ mặc khải
cho Giáo Hội của Người: Chúa, vị tân lang của Giáo Hội, Chúa muốn cho Giáo Hội
có hạnh phúc. Đối với Giáo Hội, quyền năng thần kỳ của Chúa vô hình, thường
không lộ ra bên ngoài, nhưng có thật: Chúa can thiệp, xen vào đời sống nhân
loại hằng ngày của người Kitô hữu, thành phần của Giáo Hội. Sự hiện diện của
Chúa là một sự thật, đòi hỏi người ta dâng lời cảm tạ trong niềm vui sướng cao
độ nhất.
6. Giao ước mới
của sự phong phú phong nhiêu.
(Trích trong 'Mở
Ra Những Kho Tàng' – Charles E. Miller)
Hai người bạn
trẻ cử hành đám cưới tại Cana, họ là những người vô danh nhưng đã trở nên bất
tử trong Phúc Âm bởi vì Chúa Giêsu là khác trong đám cưới của họ. Bất cứ cặp
hôn phối nào cũng ghen tỵ với họ. Câu chuyện này được kể bởi thánh Gioan đã
được tuyên bố với chúng ta trong lễ nghi phụng vụ, có một ý nghĩa rộng lớn hơn
là sự hợp nhất của một người nam và một người nữ Do Thái vào hai mươi thế kỷ
trước.
Bài đọc thứ I
ngày hôm nay của tiên tri Isaia đã dọn sẵn cho chúng ta ý nghĩa rộng lớn hơn
này. Bài đó được đặt nền tảng trên hình ảnh yêu thích của Thiên Chúa trong Cựu
Ước như là vị hôn phu của dân Người. Vị tiên tri nói: "Như một thanh niên
kết hôn với một trinh nữ, Đấng sáng tạo ngươi sẽ kết hôn với ngươi, như là một
chú rể vui hưởng nơi cô dâu thì Thiên Chúa của các ngươi sẽ vui hưởng nơi các
ngươi". Câu chuyện Cana đã nhắc lại hình ảnh này là biểu tượng tỏ hiện
Giao Ước mới và đời đời giữa Chúa và dân của Người.
Hôn nhân của xã
hội ngày hôm nay được xem như là một hợp đồng mà nó được trói buộc bởi luật.
Theo cái nhìn của Thiên Chúa, hôn nhân là một Giao Ước mà nó được trói buộc bởi
tình yêu, sắp xếp của Phúc Âm ngày hôm nay làm cho chúng ta nghĩ rằng Giao Ước
của Thiên Chúa với chúng ta là một Giao Ước của tình yêu trung thành giống như
của những đôi vợ chồng dâng hiến cho nhau.
Chi tiết của câu
chuyện Phúc Âm tỏ lộ cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa thì quảng đại và
phong nhiêu. Gần đó có sáu chum đá, mỗi chum chứa được mười lăm đến hai mươi
lăm thùng nước khoảng sáu trăm lít. Chúa Giêsu đã hướng dẫn cho những người
giúp việc đổ nước đầy tới miệng. Cana là một thành phố nhỏ, có lẽ đó chỉ có
khoảng năm mươi khách bao gồm cả môn đệ của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu biến
nước thành rượu, những người khách không những đã có đủ uống mà còn dư thừa, vì
tới gần sáu trăm lít rượu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu giống như
thế. Theo Thần học, Cana có quan hệ với lễ Hiển Linh. Ý nghĩa của lễ Hiển Linh
là dân ngoại cũng như dân Do Thái đều được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa
Giêsu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu đủ để bao gồm tất cả mọi người
trong Giao Ước mới của Người.
Rượu mới ở Cana
không chỉ phong nhiêu mà nó còn tuyệt hảo nữa. Người quản tiệc sau khi nếm rượu
đã nói với chú rể: "Anh đã giữ rượu ngon cho tới giờ này?" Thiên Chúa
cũng sẽ giữ rượu ngon cho chúng ta trong kỷ nguyện Kitô giáo một loại rượu ngon
và phong phú trong Giao Ước mới của Người.
Sự hiệp nhất
thật sự của Thiên Chúa và dân Người đã chờ đợi khoảnh khắc ở bên kia tiệc cưới
Cana. Do lời khẩn cầu của Mẹ Maria khiến Chúa Giêsu bắt tay vào những biến cố
đời sống công khai của Ngài, giờ của mầu nhiệm Vượt Qua và cái chết cùng sự
Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu đã mở rộng vòng tay của Ngài trên thánh giá để
âu yếm chúng ta bằng một tình yêu phong phú và quảng đại, tình yêu ấy lớn đủ để
bao gồm toàn thể nhân loại. Đó là khoảnh khắc sự hiệp nhất của chúng ta.
Chúng ta đổi mới
quan hệ tình yêu của chúng ta khi cử hành Thánh Thể. Tại Cana Chúa Giêsu chuyển
đổi nước thành rượu. Trong khi cử hành Thánh Lễ Người đã biến bánh và rượu
thành Thịt và Máu Người như để tưởng nhớ lại sự chết và sự Phục Sinh của Người.
Trong tiếng đọc của Linh mục chúng ta nghe những lời của Đức Kitô: "Đây là
chén Máu Ta, Máu Giao Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều
người...".
Kể từ ngày đẹp
trời ấy tại Cana, mỗi tiệc cưới sẽ nhắc nhở chúng ta về tình yêu phong nhiêu
của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và mỗi đôi hôn phối sẽ làm cho chúng ta nghĩ
đến sự trung thành của Thiên Chúa. Trên hết, chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh
Thể mà chúng ta cử hành là một Giao Ước mới, là sự hiệp nhất của chúng ta với
Chúa và những người khác trong Giáo Hội.
7. Hãy mời Chúa
vào nhà.
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ)
Cách đây ít lâu,
có một bài báo thú vị của một phụ nữ kể lại việc trang hoàng nhà cửa của gia
đình bà. Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho
đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo bức hình
Chúa Giêsu kích thước khoảng: 40x50 cm vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố
gắng thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang
lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời Chúa Giêsu: "Bất cứ ai
nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha
Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe theo ý kiến của
chồng.
Giờ đây bà nói
rằng bà rất vui đã nghe theo ý chồng vì bà nghĩ rằng bức hình Chúa Giêsu đã gây
được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa nữa. Chẳng
bạn ngày nọ có người khách lạ sau khi chăm chú nhìn vào bức hình liền nói với
bà: "Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức hình đó không nhìn vào bà đâu,
Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!". Và đêm nọ, một người bạn, sau khi
ngồi ngắm bức hình cũng thốt lên: "Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị
rất bình an". Tuy nhiên, -người phụ nữ nói thêm – ấn tượng mạnh mẽ nhất
tác động trên bạn bè khách khứa của tôi là mỗi khi nhìn tấm hình Chúa Giêsu thì
tâm hồn họ luôn được nâng lên cao.
Cuối cùng, người
phụ nữ nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những
nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà tâm sự: "Theo ý của
tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không
còn như trước nữa".
Thưa anh chị em,
Đôi tân hôn trẻ
trong Tin Mừng hôm nay hẳn đồng ý với người phụ nữ trên. Họ đã mời Chúa Giêsu
vào nhà họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên ở đó khi họ thiếu rượu. Nhờ phép lạ
hóa nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu đã cứu vãn tình thế lúng túng của nhà đám
và đem lại niềm vui tràn đầy cho mọi người.
Thực tế mà nói,
mỗi cặp vợ chồng thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống
hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm... và đôi
khi thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Bạn hết tiền, bạn
không có việc làm, bạn thiếu sức khỏe... bạn hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi
tân hôn ở Cana, bạn sẽ được giúp đỡ những gì bạn cần để hôn nhân bạn hạnh phúc
hơn. Bạn phải làm phần của bạn: bạn phải làm việc nhiều hơn, hy sinh nhiều hơn,
suy tín nhiều hơn. Giả sử hôn nhân của bạn điêu đứng vì thiếu kiên nhẫn, bạn
hãy bàn hỏi, lập kế hoạch để bạn có thể kiên nhẫn làm sao và khi nào? Rồi – đây
là điều quan trọng – bạn hãy xin Chúa Giêsu giúp bạn kiên nhẫn. Bạn thiếu hụt
tài chánh ư? Bạn lập kế hoạch làm sổ chi tiêu. Rồi – đây là điều quạn trọng thứ
nhất – bạn xin Chúa Giêsu giúp bạn đủ chi tiêu.
Sự sai lầm của
các cặp vợ chồng là đã không xin Chúa giúp giải quyết các vấn đề. Đức Cha
Tihamer Toth đã hỏi các bạn trẻ: "Các bạn có biết cái tội đầu tiên mà đôi
bạn Công giáo đã phạm không? Và Ngài đã trả lời: đó là khi làm đám cưới, các
bạn đã mời tất cả, nào là bà con, bạn hữu, phụ dâu, phụ rể, cả thợ trang điểm,
thợ may, mời luôn dàn nhạc, mời hết chỉ trừ Chúa Giêsu là không có trong danh
sách được mời. Đó là cái tội đầu tiên của đôi tân hôn. Và cái tội đầu tiên nầy
là khởi điểm của một cuộc phiêu lưu dẫn đôi bạn trẻ vào một con đường vô định,
một con đường đầy bóng tối...".
Một em bé gái
mới lên năm, vừa cùng mẹ đọc kinh trước khi ăn cơm. Mẹ em thường ứng khẩu những
lời kinh nguyện rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy nên vị khách
quý của bữa cơm hôm nay". Bà cầu nguyện chưa xong, thì bỗng em bé nhìn mẹ
và nói: "Nhưng thưa mẹ, con không muốn Chúa Giêsu làm người khách của
chúng ta". Bà mẹ hoảng hốt hỏi lại: "Tại sao lại thế"?. Em bé
trả lời: "Vâng, thưa mẹ, là người khác, Chúa chỉ đến một vài lần thôi. Con
muốn Chúa Giêsu đến đây và ở lại luôn mãi với chúng ta" (Knight).
Anh chị em thân
mến,
Chúa Giêsu phải
có mặt trong đám cưới của anh chị em, Chúa Giêsu phải là một phần tử của gia
đình anh chị em. Ngài sẵn sàng giúp đỡ. Ngài đang chờ anh chị em xin Ngài, như
Đức Maria đã làm tại Cana. Tốt nhất anh chị em hãy cầu xin qua Đức Maria những
gì anh chị em cần trong đời sống hôn nhân, gia đình của anh chị em. Như vậy sẽ
không có gì thiếu nữa.
Giáo dân Châu Âu
xưa kia có một câu tục ngữ như thế nầy: "Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ,
bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc
hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh
Kính Mừng". Phải, đời sống hôn nhân gia đình đâu phải chỉ là một chuyến du
lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện diện của Chúa,
không có Đức Mẹ, vợ chồng khó lòng trung thành với nhau trọn tình vẹn nghĩa
thủy chung được, nhất là những khi thiếu rượu nồng tình yêu.
Thiên Chúa nhập
thể đã làm đám cưới với nhân loại, vì yêu thương nhân loại, để nhân loại bắt
tay nhau. Động cơ của hợp nhất, đầu mối của hạnh phúc lứa đôi là tình thương
yêu. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù,
chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Đã là bất bình thường thì mọi
người phải tìm cách giàn xếp để cùng nhau trở lại tình trạng bình thường là yêu
thương nhau, hiêp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong
đời sống hôn nhân và gia đình, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của
tình yêu. Chúa Giêsu phải có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình
phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách,
thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và
đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc.
Để kết thúc,
chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con. Xin chúc lành cho cánh
cửa nhà chúng con. Ước chi những cánh cửa nầy luôn biết mở ra cho kẻ tha phương
và người hiu quạnh. Xin chúc lành cho phòng ốc gia đình chúng con, để chúng
tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi
người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời
Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở cho những kẻ nghèo khó, và trái tim luôn luôn
biết hướng về Chúa. Amen.
8. Cana –
McCarthy.
(Trích trong
'Phụng Vụ Chúa Nhật – Chúa Nhật và Lễ Trọng')
Suy Niệm 1. KHI
NGƯỜI TA THIẾU RƯỢU
Điều đã xảy ra ở
tiệc cưới Cana sớm muộn gì cũng xảy ra trong mỗi cuộc hôn nhân – người ta thiếu
rượu. Qua đó chúng ta muốn nói điều gì? Một cuộc hôn nhân mẫu mực bắt đầu bằng
một bữa tiệc vui và nồng nhiệt. Đôi tân hôn được bạn hữu vây quanh và những
người đến mừng cùng với quà cưới không ngớt lời chúc tụng họ. Hy vọng và mơ ước
tràn đầy, họ lên kế hoạch cho tuần trăng mật. Rượu uống thỏa thuê.
Rồi sau tuần
trăng mật họ trở về và công việc làm ăn thật sự bắt đầu – sắp xếp nhà cửa và
học cách sống chung với một người khác. Lúc ban đầu họ tìm thấy niềm vui to lớn
được sống bên nhau. Họ tin rằng tình yêu của họ đã được tiền định trên trời và
có ý nghĩa là sẽ kéo dài muôn thuở. Rượu vẫn còn dồi dào.
Nhưng khi con
người ở cận kề với một người khác, sẽ có những vấn đề nảy sinh. Căng thẳng xuất
hiện. Họ khám phá rằng họ đã không cưới một thiên thần, nhưng một con người đã
bị tội lỗi và vị kỷ làm tổn thương. Họ ngạc nhiên về sự nghèo nàn mà họ khám
phá nơi người kia. Tuần trăng mật đã hết. Người ta thiếu rượu. Tất cả những gì
còn lại là "nước" của một tiềm năng còm cõi.
Những sự việc
như thế cũng xảy ra trong chuyên môn, nghề nghiệp và cả trong những ơn gọi như
đời sống linh mục hoặc đời sống tu trì. Ở đây cũng hết rượu. Niềm vui, còn lại
là nước của thói quen, của sự tẻ nhạt và có thể là sự vỡ mộng. Nhưng chúng ta
hãy trở lại với vấn đề hôn nhân.
Giờ đây rượu ban
đầu đã cạn, họ phải làm gì? Có những người bị cám dỗ "cạn" theo với
rượu: "Không còn gì cho tôi nữa". Thái độ này tưởng chừng có lý nhưng
nó bao hàm một tính vị kỷ đáng sợ. Đối với những con người như thế, hôn nhân
chỉ là một sự liên kết của hai con người vị kỷ vì thế, trong lúc họ lợi dụng
lẫn nhau, họ bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác những hoa quả mà người ta có thể hái
và ăn mà không vất vả và bỏ công sức.
Nhưng một cặp vợ
chồng phải làm gì? Họ phải biết rằng rượu ban đầu đã cạn. Trong một lúc, họ
phải tìm cách xoay xở với nước. Nhưng họ không nên sợ hãi hay thất vọng khi điều
đó xảy ra. Họ phải chống trả cơn cám dỗ bỏ rơi mối tương quan và đánh mất chính
mình trong một nghề nghiệp hoặc một đời sống xã hội cuồng nhiệt. Điều họ phải
làm là phải nỗ lực cải thiện tương quan giữa họ qua đó, họ có thể trưởng thành
như những con người khám phá ý nghĩa thật sự của tình yêu. Khủng hoảng ấy có
thể trở thành một cơ hội.
Và đây là một
điều làm người ta ngạc nhiên: rượu ban đầu cần phải cạn. Nếu không rượu mới
không thể đến được tình yêu lúc ban đầu cho dù đẹp và lãng mạn không thể kéo dài
được. Chắc chắn nó phải trôi qua. Nhưng trôi qua không phải là một điều xấu.
Thật vậy, nó phải trôi qua để một tình yêu mới mẻ và sâu đậm hơn được sinh ra.
Tình yêu mới này chủ yếu là đặt người khác đứng trước mình. Người ta phải quên
chính mình và tìm thấy niềm vui khi mình yêu thương hơn là khi mình được yêu
thương, khi mình cho hơn là khi mình nhận.
Tình yêu là một
cuộc phiêu lưu khó khăn. Bước vào hôn nhân là bước vào một trường học tình yêu
ở đó mọi người đều là những học viên chậm chạp. Chính vì thế, chúng ta cần có
sự hiện diện của Đức Kitô.
Rượu mới không
chỉ có ý nghĩa đối với cặp hôn phối mà còn có ý nghĩa đối với mọi người. Điều
này có nghĩa là chúng ta phải thay đổi. Đức Kitô phải cảm hóa tâm hồn chúng ta
và giúp đỡ chúng ta yêu thương vô vị lợi. Đối với những người tìm kiếm sự giúp
đỡ của Người thì phép lạ Cana vẫn còn xảy ra – nước của lòng vị kỷ được biến
đổi thành rượu của tình yêu chân chính. Và điều kỳ lạ là rượu nho mới lại ngon
hơn rượu nho cũ.
Suy Niệm 2. MỘT
KIỂU MẪU CỦA SỨ VỤ
Thánh Gioan mô
tả Đức Maria như người đã tham gia vào lúc Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ của Người
(ở Cana), và rồi vào cuối sứ vụ ấy (trên núi Canvariô). Vì thế Đức Maria liên
kết với toàn bộ sứ vụ của Người. Người ta chỉ cần nhìn vào Tin Mừng để thấy
rằng Mẹ luôn có mặt vào những lúc quan trọng của cuộc đời Người.
Trong lúc Truyền
Tin, sứ thần hỏi Mẹ có muốn trở thành Mẹ của Đấng Cứu Chuộc không. Mẹ đã dẹp
qua một bên những dự tính của Mẹ và đáp lại đề nghị của Thiên Chúa bằng tiếng
"xin vâng" quảng đại. Một đôi khi tác vụ có ý nghĩa là sẵn sàng đặt
những kế hoạch của chúng ta qua một bên và đáp lại lời kêu gọi bằng cách giúp
đỡ một tay.
Trong lúc đi
Thăm Viếng, Mẹ chủ động có sáng kiến. Khi nghe bà Elizabeth, một bà chị họ lớn
tuổi đang chờ ngày sinh con, Mẹ đã thăm viếng bà, ở lại với bà cho đến khi đứa
bé được sinh ra. Tác vụ một đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến, khi nhìn
thấy một nhu cầu và khi đáp ứng nhu cầu đó.
Trong tiệc cưới
Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự
làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không
thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và
Người đã thực hiện với sự quảng đại. Có những lúc, tác vụ có nghĩa là nhận ra
một nhu cầu và biết rằng chúng ta không thể xử lý một mình.
Vì thế chúng ta
cần đưa đến cho những người khác. Nhưng, không phải là đổ trách nhiệm cho người
khác.
Trong suốt đời
sống công khai, Đức Giêsu luôn được đám đông vây quanh. Đức Maria không biết
Người ra sao. Mẹ sợ người ta bắt Người đi. Là một bà mẹ, Mẹ cảm thấy bắt buộc
phải giải cứu. Mẹ đã hiểu sai hoàn cảnh. Người luôn chủ động. Người có một việc
phải làm và có thể tự mình xử lý. Tác vụ có thể gồm cả việc phạm sai lầm và cảm
nghiêm bị sai hỏng, thất bại. Nhưng điều đó không do thiếu quan tâm mà do thiếu
hiểu biết.
Trên Núi
Canvariô, Đức Maria đứng dưới chân thập giá nhìn Đức Giêsu chết. Dù Mẹ rất muốn
cứu Người, nhưng một cách tuyệt vọng, Mẹ không có khả năng làm được điều đó.
Một đôi khi trong tác vụ, chúng ta không thể làm được điều gì. Vì thế tác vụ
của chúng ta giống như Đức Maria đứng dưới chân thập giá. Một sự hiện diện
thinh lặng chịu đựng. Và sự hiện diện chịu đựng và trấn an là cả một thế giới
cho người đau khổ. Nó cứu người ấy khỏi viễn cảnh đau buồn phải chết một mình
và bị bỏ rơi.
Dù chỉ là những
cái nhìn thoáng qua. Nhưng một hình ảnh nổi bật của Đức Maria là một người ân
cần tận tuỵ. Trên nhiều phương diện, một bà mẹ điển hình. Đức Maria là một kiểu
mẫu của tác vụ. Nhưng vai trò của Mẹ phải luôn luôn được nhìn trong tương quan
với vai trò của Con Mẹ. Vai trò của Mẹ giờ đây là vai trò của một người mẹ chăm
sóc cho những người đi theo Đức Giêsu.
Một cách nào đó,
tất cả chúng ta đều ở trong tác vụ: đối với những người khác, hoặc ở trong gia
đình, hoặc trong một cộng đoàn rộng lớn hơn. Ngay cả công việc chúng ta làm
cũng có thể được coi như một tác vụ và một phục vụ. Torng lúc các bà dường như
có ơn đặc biệt hơn, tất cả chúng ta đều có khả năng làm tác vụ.
Tác vụ phải có
nghĩa là ban tặng những sự vật (như ở tiệc cưới Cana), nhưng thường là sẵn sàng
ban tặng chính mình. Chúng ta phải sẵn sàng đón nhận thất vọng, hiểu lầm, thất
bại, sự bất lực. Nhưng điều duy nhất chúng ta phải sợ là sự thờ ơ. Những kỹ
năng đặc biệt không cần thiết. Vào cuối mỗi ngày, cái còn đọng lại là tình yêu
thương. Tác vụ là một sự biểu lộ của tình yêu.
Trong tác vụ,
điều chúng ta làm giống việc làm của các gia nhân ở tiệc cưới Cana. Họ chỉ là
những người thừa hánh của Đức Giêsu. Họ múc nước đã hoá thành rượu và đem đến
cho khách dự tiệc. Kể từ đó, những thừa tác viên của Đức Kitô đã rút ra từ cùng
một suối nguồn. Họ chia sẻ những ơn lành của Đức Giêsu cho Giáo Hội người và
cho thế giới. Từ sự viên mãn của Người, chúng ta tiếp tục đón nhận và chia sẻ.
9. "Ngài có
bảo gì, hãy làm theo!"
(Trích trong
'Tin Mừng Chúa Nhật')
Sở dĩ gọi Cana
trong miền Galilê là để phân biệt với Cana miền Coelo-Syria. Đây là một làng
rất gần Nadaret. Thánh Hiêrônimô, người từng ở Palestine bảo rằng, từ Nadaret
ông có thể nhìn thấy Cana. Tại đó đang có một đám cưới, Đức Maria được mời đến
dự và giữ một vai trò đặc biệt, chắc liên quan đến việc tổ chức nên bà đã tỏ ra
lo lắng khi thấy thiếu rượu. Bà cũng có đủ quyền để ra lệnh cho đầy tớ làm bất
cứ điều gì Chúa bảo.
Tại xứ
Palestine, lễ cưới là một cơ hội thật sự quan trọng. Theo luật Do thái, lễ cưới
của một trinh nữ phải tổ chức vào ngày thứ tư. Điều này rất thú vị, vì nó cho
chúng ta căn cứ để tính lui lại: nếu đám cưới nhằm ngày thứ Tư, thì ngày Chúa
Giêsu gặp Anrê và Gioan lần đầu tiên phải là ngày sa-bát, và cả hai đều ở với
Ngài trọn ngày đó. Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính
thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được
đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng,
dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Họ được đưa theo con đường càng dài càng tốt để
có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Tại Palestine vợ chồng mới cưới không đi
hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương
miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu, và lời nói
của họ là luật. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một
tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người.
Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Nhưng đã có trục trặc xảy ra.
Trong đám tiệc
của người Do thái, rất cần rượu. Các Rabi vẫn nói: "Không rượu thì không
vui". Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng bên Đông phương món rượu
thật quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống
pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có
vấn đề, vì ở Đông phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức
ăn, thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn
chú rể. Vì thế Đức Maria đã báo cho Chúa Giêsu biết sự việc này. Mà Chúa Giêsu
đã bày tỏ quyền năng của Ngài để cứu gia đình mộc mạc này khỏi bị tổn thương
nhục nhã. Ngài đã hành động vì lòng ưu ái, tử tế, thông cảm với những người mộc
mạc đơn sơ.
Câu chuyện đã
được kể lại cách sống động nên rõ ràng phải là do người đã chứng kiến tận mắt
ghi lại, nhưng không phải là ghi lại ngay sau khi xảy ra mà là bảy mươi năm
sau, và cũng ghi lại tác dụng của phép lạ ấy: "Đức Giêsu làm dấu lạ đầu
tiên này tại Cana và bày tỏ vinh quang của Người." Chúa làm phép lạ này
bày tỏ vinh quang của Người. Chúng ta cố gắng tìm biết các nguyên tắc bày tỏ tỏ
vinh quang này.
- Bước đường
cùng khiến người ta quay về với Chúa, cung cấp dịp tiện cho Người hành động, ân
huệ của Chúa được ban cho ai thành khẩn kêu cầu Ngài. Dầu có người chê cầu
nguyện là mê tín, hay bình thường thì chẳng bao giờ cầu nguyện, nhưng một khi
đã lâm vào cảnh khốn cùng, chẳng ai không ngước mắt lên trời mà kêu cầu.
- Đức Maria là
người thân trong gia đình này, được mới tới dự tiệc cưới, khi thấy rượu đã hết,
biết ngay chủ nhà sẽ rất bối rối, sẽ bị bẽ mặt, và các thực khách sẽ mất vui.
Không kể đến địa vị làm mẹ, đến với Đức Giêsu mà cầu khẩn: "Họ hết rượu
rồi." Làm mẹ, mà hạ mình cầu cứu con, không phải dễ lắm đâu. Đàng khác chưa
biết ý Chúa ra sao, đường đột đưa ra một lời cầu như vậy mà không thăm dò trước
có khi rước lấy tai họa. Thế nhưng đến nước này, nếu không kêu cầu Chúa thì còn
biết trông cậy vào ai nữa!
Lời cầu nguyện
của Đức Maria bị thôi thúc vì hoàn cảnh mà Mẹ đảm trách lấy, là kiểu mẫu cho
những lời cầu bầu của chúng ta.
Vì chúng ta thấy
lời cầu của Đức Maria là lời cầu "Ý Cha thực hiện" vì Ngài chỉ nói:
"Họ hết rượu rồi" chứ không thêm gì vào nữa! Một lời cầu nguyện tốt
nhất là "trình lên Chúa các nhu cầu của mình" rồi để Ngài làm theo ý
Ngài. Đức Maria đã làm như thế; còn phần chúng ta, ngoài việc trình nhu cầu lên
Chúa, thường hay bày thêm cách này cách kia, đôi khi còn đòi Chúa phải làm theo
ý của mình. Đức Maria không ép Chúa, Ngài để Chúa tự do địnhh liệu. Trong Tin
Mừng, chúng ta thấy có người đã làm theo gương Đức Maria, khi Ladarô đau nặng,
hai chị em Matta và Maria sai người đi thưa Chúa "người Thày yêu đau
nặng."
- Lời cầu nguyện
của Đức Maria là lời cầu nguyện hạ mình: đây là lời cầu xin của bà mẹ đối với con.
Nếu còn giữ thể diện thì không dễ gì một bà mẹ sẵn lòng hạ mình kêu cầu con; đã
thế lại còn nhận được một lời đáp ứng dường như cứng cỏi của Chúa Giêsu:
"Thứa bà, chuyện đó can gì đến bà và con, giờ của con chưa đến." Thế
nhưng, Đức Maria đã từ bỏ mình trước rồi, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp chứ
không nghĩ đến thể diện cá nhân. Lời câu xin không kể đến thể diện mình quả là
phép mầu để Chúa được vinh hiển. Chẳng những tại đây, do lời cầu của Đức Maria
mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua Kinh Thánh đều thấy Chúa làm phép lạ là
do có người kêu cầu.
- Này, có một
người phong đến gần Ngài thưa: "Lạy Chúa, nếu Chúa ưng, xin cho con được
lành mạnh. Chúa giơ tay sờ đến anh phá: Ta muốn, anh được lành sạch. Tức thì
người phong được sạch."
- Khi Chúa vào Caphanaum,
có một sĩ quan đến thưa Ngài: "Con gái tôi đau gần chết, xin Thày đến đặt
tay trên nó, để được sống." Chúa bèn đứng dậy đi theo ông."
- Phêrô hòng
chìm xuống nước la lên: "Thầy ơi cứu con với, tức thì Chúa giơ tay ra cứu
ông."
- Hai người mù
thưa: "Lạy Chúa, xin cho mắt chúng tôi được sáng. Chúa động lòng thương,
liền sờ đến mắt và hai người thấy được"
Có thể trưng
nhiều hơn, nhưng cũng đủ để thấy Chúa thường hay mượn cớ người ta cầu nguyện để
ban ơn, để tỏ bày vinh hiển của Ngài. Nguyện lời cầu của chúng ta cũng giống
thế.
Thấy nhà chủ hết
rượu Đức Maria trình lên Chúa nhu cầu, thì nhận được một lời đáp ứng không mấy
tích cực: "Chuyện đó can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến."
Làm thân bà mẹ mà phải hạ mình xin con đã là khó, nay lại nhận được một câu trả
lời như thế, rất dễ nản lòng, mất hết cậy trông. Đức Maria không thế, Ngài vẫn
bình tĩnh bảo những người giúp việc Đức Giêsu bảo gì cứ làm theo đó. Tại sao
Đức Maria biết Chúa sẽ ra lệnh cho các kẻ giúp việc? Đó chỉ do bà tin. Bà chẳng
vì cảm xúc mà nghi ngờ điều mình xin, nhưng lấy đức tin mà nắm lấy lời hứa của
việc cầu nguyện: "Cứ xin thì được." Chính vì đức tin mà Maria dặn bảo
các người giúp việc phải tuân theo lệnh Chúa.
Trình bày nhu
cầu xong, phải tin vào lời hứa của Chúa mà chắc chắn mình được nhận lời. Thiếu
đức tin thì không bao giờ thấy vinh hiển của Chúa. Các vĩ nhân trong lịch sử
thánh đều là những anh hùng đức tin: bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi, bởi đức
tin có thể qua sông Giođan, bởi đức tin có thể đánh lui toán quân của ngoại
bang, bởi đức tin có thể khiến thành Giêricô sụp đổ, khiến người mù được sáng,
què được đi, kẻ phong được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Có việc nào
không bởi đức tin mà tỏ bày vinh quang của Chúa đâu. Thế nên, Chúa từng phán
với Matta rằng: "Ta đã chẳng nói với con rằng nếu con tin con sẽ xem thấy
vinh quang của Thiên Chúa." Giả như lúc này Đức Maria không dặn bảo những
người giúp việc sẵn sàng làm theo lệnh Chúa thì Chúa cũng chẳng bảo họ làm gì
nữa, mà dầu có bảo họ cũng chẳng nghe theo. Thế thì đã không có phép lạ nước
hóa ra rượu... nhưng vì đức tin của Đức Maria quá lớn, nên phép lạ đã xảy ra.
Sở dĩ chúng ta
không được thấy vinh hiển Chúa trong đời sống, không phải vì chúng ta không cầu
xin, nhưng vì cầu xin trong sự không tin. Hãy bắt chước Đức Maria, nghĩa là
phải lấy đức tin mà nhận điều mình cầu xin dầu hoàn cảnh là thập phần khó khăn,
cảm giác thập phần lạt lẽo, nhưng phải làm xong điều gì phải làm như Đức Maria
đã từng làm thì Chúa sẽ phải giữ lời Ngài đã hứa mà ban ơn cho ta để tỏ vinh
quang Ngài.
Với lòng đầy tin
tưởng, Đức Maria nói gì: "Người bảo gì cứ làm theo đó." Phải ghi chặt
vào lòng câu nói đó. Vì đó là việc buộc phải làm về phương diện loài người. Nếu
ta không chịu vâng phục mà làm theo, vinh quang của Chúa có thể bị cản trở vì
bất tuân của loài người. Các bạn có tin Thiên Chúa rẽ đôi nước Biển Đỏ không?
Tin chứ, nhưng nếu bất tuân mà không giơ cây gậy lên thì nước Hằng Hải đâu có
phân đôi tả hữu; các bạn có tin nước Giođan nhưng chảy không? Tin chứ, nhưng
nếu vì bất tuân mà không đặt chân vào dòng sông thì nước không dồn lại thành
đống. Bạn có tin Chúa có thể làm sụp đổ tường thành Giêricô không? Tin chứ,
nhưng nếu không nghe lời Chúa mà đi vòng quanh thành đủ bảy ngày, thì tường
thành không tự nhiên đổ xuống đâu. Người teo tay phải vâng lời Chúa mà giơ tay
ra, mới được lành; người phong phải vâng lời Chúa đem thân đến cho thấy tư tế
khám nghiệm mới được sạch phong; người mù phải vâng lời Chúa đi xuống ao Silôê
mà rửa mới xem thấy được. Trong Kinh Thánh có rất nhiều bằng chứng cho thấy
rằng sự vâng phục là điều kiện buộc phải có để Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài.
Trong tiệc cưới,
các gia nhân đang bận rộn, vậy mà Chúa bảo họ phải đổ đầy nước vào sáu cái chum
đá, thế mà họ vâng lệnh "đổ đầy tới miệng". Rồi tiếp theo lệnh thứ hai:
"Bây giờ hãy múc đưa cho người quản tiệc. Họ liền đem cho ông." Chữ
'liền' ở đây rất ý nghĩa, đây chính là thái độ tỏ rõ vinh quang Chúa. Có gì
buộc mà họ phải vâng lời Ngài, Ngài đâu có phải là chủ của họ, họ đang bận rộn,
gặp lúc thiếu rượu lại còn quýnh lên; lại nữa lời bảo của Chúa chẳng hợp lẽ
chút nào: đổ nước vào chum đá đã là phiền hà, lại còn múc đem cho người quản
tiệc để làm gì? Bảo làm thế, để làm gì trong tình thế khó khăn này? Thế nhưng
gia nhân đã vâng theo không hề phản kháng càu nhàu, Chúa bảo làm gì họ làm thế.
Họ đem lại cho Chúa cơ hội hoàn toàn tự do để bày tỏ quyền năng là biến nước
thành rượu. Nếu người ta không chịu vâng phục mà đổ nước vào rồi lại múc nước
ra, hay tuy là vâng theo, nhưng không trọn vẹn, chỉ để lưng chừng, thì thế nào
cũng giảm bớt hay làm bế tắc vinh hiển của Chúa. Thế mới biết vâng lời không
cần lý do mới khó làm sao! Nhưng vâng phục không cần lý do quả thực là điều
kiện duy nhất của những ai giúp việc Chúa!
Đến với Chúa,
chúng ta chỉ có sự cầu xin thì không đủ, cần phải có đức tin nữa; chỉ có đức
tin cũng chưa đủ, còn phải có sự vâng phục nữa. Chắc có nhiều người nói mình đã
có đức tin rồi, nhưng thử hỏi thật lòng mình đã có vâng phục hoàn toàn chưa.
Chúa bảo bạn làm điều gì cứ làm ngay điều đó, đừng nhìn xen hoàn cảnh, đừng đòi
lý do, "cứ làm theo đi" một người đi theo Chúa, quả có nhiều bài phải
học, mà bài khó học hơn hết là vâng phục, có thể nói rằng hễ ai tiến bộ trong
sự vâng phục là có tiến bộ trong đời thuộc linh. Vâng phục là đem chủ quyền của
mình mà nhường cho Chúa, để Chúa cai trị, khi nào người môn đệ hoàn toàn vâng
phục Chúa, Chúa mới hoàn toàn làm chủ người môn đệ. Phải biết chắc rằng bạn có
vâng phục Chúa, Chúa mới vâng phục bạn (nghe lời bạn cầu xin).
10. Dấu chỉ tiệc
cưới Cana – Radio Veritas Asia.
(Trích trong
'Suy Niệm Lời Chúa')
Alkasami, một
nhà thần bí người Ba Tư qua đời năm 1330, đã viết về tình yêu của Thiên Chúa
như sau: "Cái đẹp đích thực, tình yêu đích thực chính là Thiên Chúa. Và
tất cả những gì là đẹp, là dễ yêu trên thế giới này đều tỏ lộ trọn vẹn về tình
yêu của Ngài. Mỗi lần chúng ta nhận ra một người đẹp, đôi mắt trí tuệ của chúng
ta phải hướng vọng lên Chúa và tấm lòng của chúng ta phải hướng về Ngài. Cuộc
đời của Kitô hữu phải là mọt cuộc chiêm ngắm triền miên về Ngài. Cuộc đời của
Kitô hữu phải là một cuộc chiêm ngắm triền miên vẻ đẹp tuyệt vời là Thiên Chúa,
và phải là tiệc cưới tươi vui vì có Chúa Giêsu Kitô là vị hôn phu là rượu mới
thơm ngon của thời cứu thế".
Đó là sứ điệp
Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay. Bắt đầu vào
thế kỷ thứ XIII trước tây lịch, với tiên tri Môisê, mối tương quan giữa Thiên
Chúa và dân Israel không còn được trình bày trong thứ ngôn ngữ chính trị ngoại
giao của Giao ước nữa, mà được diễn tả trong thứ ngôn ngữ của hôn nhân, của
liên hệ vợ chồng, của cuộc gặp gỡ đối thoại thân tình và tươi vui như trong một
tiệc cưới. Tiên tri Isaia III, một đồ đệ của trường phái Isaia sống vào sau
thời lưu đày đã muốn ca tụng các liên hệ thân tình ấy của Thiên Chúa với dân
Israel. Các chương từ 56-66 là một bài ca cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã lại đoái
nhìn đến Israel và cho họ được trở về quê hương sau 50 năm lưu đày bên Babylon.
Trong Kinh
Thánh, thành Giêrusalem bị tàn phá và dân Israel phải sống kiếp lưu đày được
giải thích như hâu quả cuộc sống tội lỗi của dân Chúa chọn, vì Israel đã chạy
theo tôn thờ các thần linh giả tạo khác, không nhận biết Chúa và không kêu cầu
Ngài nữa, nên phải sống kinh nghiệm đắng cay sự làm thinh của Thiên Chúa. Thiên
Chúa rút bàn tay đỡ nâng lại và giấu cánh tay phải trong lòng không dang ra trợ
lực họ nữa. Nhưng trong chương 62, tiên tri Isaia III cho thấy Thiên Chúa lại
bắt đầu ngỏ lời với dân Israel.
Trong ngôn ngữ
Thánh Kinh, nếu sự thinh lặng diễn tả cảnh hoang tàn buồn thảm, nếu thinh lặng
là sa mạc trống vắng vực thẳm, không có sự sống, thì lời nói diễn tả sức sáng
tạo. Thành Giêrusalem được tái thiết và đổi mới lại trở thành người đối thoại
với Thiên Chúa y như người nam và người nữ đã từng được chuyện vãn thân tình
với Thiên Chúa vào thời khai nguyên vũ trụ. Giêrusalem tái thiết, là dấu chỉ
của sự tạo dựng hữu hiệu của Thiên Chúa bị tàn phá vì tội lỗi bất trung của
mình. Giêrusalem đã trở thành biểu tượng của con người được Thiên Chúa phục hồi
vẻ trong sáng và hình ảnh của Ngài. Và Kinh Thánh diễn tả tình trạng cuộc tái
sinh ấy của con người trong ơn thánh Chúa thứ ngôn ngữ của hôn nhân, Giêrusalem
không bị bỏ rơi nữa mà trở thành hôn thê của Thiên Chúa, đầu đội vương miện,
phẩm giá mới cao trọng của một nữ hoàng và được Thiên Chúa gọi là niền vui của
Ta.
Cuộc sống của
chúng ta ngày nay tuy chúng ta có lỗi, nhưng Thiên Chúa trao ban cho chúng ta
cuộc sống mới và phẩm giá mới là con cái của Ngài. Và còn hơn thế nữa, Thiên
Chúa biến đổi chúng ta thành người yêu, niềm vui của Ngài. Qua tường thuật tiệc
cưới làng Cana, thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu cũng tỏ lộ con người và sứ mạng
của Ngài trong khung cảnh một bữa tiệc cưới. Khác với các thánh sử của ba Phúc
Âm nhất lãm hay dùng từ phép lạ, thánh Gioan dùng từ "dấu chỉ". Trong
Kinh Thánh, rượu là dấu chỉ của thời cứu thế và của niềm vui mà Đấng Cứu Thế
khơi dậy nơi tâm lòng con người. Khi biến đổi nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu
cho thấy Ngài là thứ rượu hảo hạng của tiệc cưới thời cứu thế mà Thiên Chúa ban
cho loài người. Đây là dấu chỉ, qua đó Chúa Giêsu cho thấy trước vinh quang của
Ngài để các môn đệ tin vào Ngài. Nhưng trong nhãn quan thần học của thánh
Gioan, vinh quang đích thực của Chúa Giêsu sẽ chỉ được tỏ hiện trên thánh giá
và trong sự Phục sinh của Ngài mà thôi. Thánh Gioan gọi là giờ của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, ngay lúc này đây, dấu chỉ ấy đã bắt đầu tỏ hiện. Lời xin của Mẹ
Maria diễn tả cái lo lắng vật chất. Câu trả lời và kiểu cách làm của Chúa Giêsu
diễn tả viễn tượng cứu thế trong tương lai. Và cũng giống như đoàn tông đồ, Mẹ
Maria được Chúa Giêsu dẫn đưa vào con đường lòng tin, con đường mà mỗi một môn
đệ đều phải đi theo, để có thể hiểu biết toàn vẹn bản chất đích thực con người
của Chúa Giêsu.
Trong khung cảnh
của tiệc cưới Cana, bên cạnh Chúa Giêsu là rượu mới của thời cứu thế, là vị hôn
phu của cộng đoàn Giáo Hội và là chủ tiệc Thánh Thể, Mẹ Maria cũng là một dấu
chỉ. Mẹ không cho chúng ta thấy một vị Thiên Chúa nghiêm nghị khắc khổ, mà giúp
chúng ta hiểu Chúa Giêsu, con Mẹ là vị Thiên Chúa của sự sống, của niềm vui và
của tình bạn hữu.
Có rất nhiều
Kitô hữu gồm cả các vị lãnh đạo cộng đoàn quan niệm rằng, niềm vui không thể đi
đôi với nỗ lực sống nghiêm chỉnh lòng tin Kitô, chỉ có ăn chay hãm mình mới là
sống đạo. Chỉ khi chịu đựng những gì nặng nề, nhàm chán và khó chịu, mới có
công phúc và mới là sống đạo, còn tươi vui hớn hở không phải là thái độ nghiêm
trang kính trọng đối với Thiên Chúa. Quan niệm sai lầm nay khiến cho tín hữu có
kiểu sống đạo khô khan, nhăn nhó và phục vụ Thiên Chúa với gương mặt cau có khó
thương, chịu đựng hy sinh, tốn kém cho cái dịch vụ thờ phượng như với gương mặt
sầu thảm làm sao. Do đó họ không cảm hứng vui lên trong Chúa khi phụng sự Ngài
trong tiếng đàn ca.
Dấu chỉ tiệc
cưới Cana cho thấy Thiên Chúa yêu thích cho chúng ta sống vui tươi hồn nhiên và
trong sáng, bởi vì Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, chỉ là
tin vui thật sự nếu chúng ta có thái độ sống lòng tin thật sự, nếu gương mặt,
ánh mắt và cuộc sống chúng ta phản ánh niềm vui đó. Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy
cho chúng ta biết rằng, để gặp gở Chúa Kitô chúng ta không cần phải là người
thoát tục trở thành thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ thành loài người hơn,
sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta hơn theo mẫu gương của Chúa Giêsu
Kitô nhập thể. Và để có thể hiện thực ơn gọi làm người, cần phải tập và sống
các nhân đức nhân bản mỗi ngày, càng biết sống sâu đậm các nhân đức căn bản tự
nhiên, chúng ta càng giống Chúa Giêsu làm người. Đó là nền tảng vững chắc đầu
tiên, cần thiết trong cuộc sống ơn gọi Kitô. Thiếu các nhân đức căn bản này,
người tín hữu mất quân bình, thường trở thành cuồng tín, có thái độ sống đạo
lệch lạc.
Ngoài ra dấu chỉ
của tiệc cưới Cana còn dạy cho chúng ta biết rằng, của cải trần gian và các
tiện nghi vật chất tự chúng không có gì là xấu xa và nguy hại, chúng chỉ xấu xa
nguy hại và đáng khinh, khi chúng khiến cho chúng ta đánh mất đi chất người của
mình, và biến chúng ta trở thành ích kỷ hàm hồ, ác độc, bất công và nô lệ
chúng. Nhưng thật ra, chỉ có con người là đáng chê trách vì ta trở thành xấu xa
và gian tham ác độc chớ không phải của cải. Cũng chính vì thế, nên trong chương
12, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyến khích mọi người hãy
biết sử dụng đúng đắn tất cả mọi đặc sủng mà Thiên Chúa rộng ban cho họ. Kẻ ít
người nhiều ai cũng nhận được một số đặc sủng tùy theo sự khôn ngoan quan phòng
của Thiên Chúa. Cần tận dụng tất cả mọi ơn đó, tất cả mọi đặc sủng và tài khéo
đó mà Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho
tha nhân và trong cộng đoàn. Chính các đặc sủng khác nhau ấy làm thành sự phong
phú của dân Chúa, những ơn Chúa ban đều có mục đích giúp cộng đoàn trở thành
vững mạnh.
Tóm lại sống
lòng tin Kitô có nghĩa là ý thức được ơn Chúa ban cho chúng ta, là luôn tươi
vui tận dụng để phục vụ Thiên Chúa trong thân nhân theo mẫu gương của Chúa
Giêsu Kitô.
11. Chúa đến xây
dựng hạnh phúc cho con người.
(Trích trong
'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúng ta thường
nghĩ rằng sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian là hiến thân cứu độ nhân
loại để cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau và chỉ có chừng ấy mà thôi, ngoài
ra, Ngài không còn bận tâm nào khác.
Thật ra không
phải thế, vì ngoài việc tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho con người được
hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa Giêsu còn thiết tha đem lại hạnh phúc cho mọi
người ngay trên cõi đời nầy nữa.
Chính vì xem
việc đem lại hạnh phúc đời nầy cho con người là điều quan trọng và cần thiết
nên Chúa cứu thế đã đến tham dự tiệc cưới tại Cana để chúc lành cho đôi tân hôn
được trăm năm hạnh phúc. Việc nầy xem ra quan trọng đối với Chúa Giêsu nên Ngài
không chỉ đi một mình mà cùng đi với Đức Mẹ và các môn đệ để cho niềm vui của
đôi hôn nhân được nhân lên.
Thế rồi, điều
bất ngờ đã xảy ra, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Thật là chuyện không may
và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày đau khổ vì cô dâu chú rể
sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng mọi
người.
Trước tình thế
đó, Mẹ Maria chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài cứu vãn. Thế là mặc dù giờ
chưa đến, Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu với số lượng
lớn không ai ngờ: đến những sáu chum nước lã được hoá thành rượu thật ngon để
đem lại niềm vui và hạnh phúc chan hoà cho mọi người.
Phép lạ đầu tay
vào lúc khởi đầu sứ vụ đã được Chúa Giêsu thực hiện nhằm đem lại niềm vui và
hạnh phúc cho cô dâu chú rể cũng như cho khách dự tiệc tại Cana cho thấy Ngài
rất quan tâm đem lại hạnh phúc cho người khác. Nhiều phép lạ khác được Chúa
Giêsu thực hiện sau nầy cũng không ngoài mục đích đó.
Cũng vì muốn đem
lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Naim mà Chúa Giêsu đã cho con trai
bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin.
Cũng vì muốn đem
lại niềm vui và hạnh phúc cho chị em Matta, Maria ở Bêtania đang sầu thảm vì
mất em, Chúa Giêsu đã cho Ladarô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả
gia đình được chan hoà niềm vui.
Cũng vì muốn đem
lại niềm vui cho hai môn đệ Emmau đang sống trong sầu đau tuyệt vọng, Chúa
Giêsu phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, giảng giải kinh thánh
cho các ông, làm cho lòng các ông bừng cháy lên niềm vui và hi vọng vào Đấng
cứu thế. (Lc 24, 32)
Và rất nhiều
phép lạ khác Chúa Giêsu thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người
điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được
nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng... cũng đều nhằm
đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Hơn nữa, Chúa
Giêsu không chỉ muốn mang lại hạnh phúc và niềm vui cho một số người Ngài đã
từng gặp đây đó trên đất Do-Thái năm xưa, Ngài còn muốn dành điều ấy cho hết
mọi người.
Biết rằng con
người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu sống mà thiếu vắng tình thương, rằng tình
thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên
Chúa Giêsu đã nhóm lên ngọn lửa yêu thương trên mặt đất: "Thầy đã đến ném
lửa (tình thương) vào mặt đất và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng
lên" (Lc 12, 49) và Ngài không ngừng kêu gọi mọi người chung tay góp sức
xây dựng một thế giới mà mọi người đều được sống trong yêu thương: "Thầy
ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương các con".
Như thế, đem lại
niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng
là một việc làm đạo đức, bác ái và cao đẹp chẳng khác gì cho người đói ăn, cho
người khát uống, cho người đau bệnh được thuốc men.
Là kitô hữu, là
cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Chúa
Giêsu để xây dựng niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng
cách khơi bùng lên ngọn lửa tình yêu mà Chúa Giêsu đã mang xuống thế gian, tức
là quyết tâm sống theo luật yêu thương của Ngài, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm
và giáo xứ chúng ta được chan hoà hạnh phúc.
Đó cũng là con
đường nên thánh, là chìa khoá thiên đàng của mỗi người chúng ta.
12. Bình an, êm
xuôi là ơn Chúa.
(Trích trong
'Cùng Nhau Suy Niệm – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường
mong Chúa làm phép lạ. Ai cũng muốn nhìn thấy phép lạ. Kẻ cần phép lạ để tin.
Kẻ muốn có phép lạ để củng cố lòng tin. Xem ra phép lạ đối với phần đông nhân
loại là những chuyện khác thường, những chuyện kinh thiên động địa. Phép lạ là
những biến cố xảy ra ngoài tự nhiên tựa như con lừa của Baal biết nói tiếng
người. Con gà mái gáy giữa ban ngày. Xem ra phần đông nhân loại đang cần những
phép lạ tương tự như vậy rồi mới có thể tin vào sự hiện diện của Chúa.
Thực ra, Thiên
Chúa không làm phép lạ để những sự kiện xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Phép lạ
đúng nghĩa là Ngài làm cho nó trở lại với trạng thái ban đầu tạo dựng. Ngài làm
phép lạ để cho những sự kiện được diễn ra bình thường, không gây xáo trộn. đi
sai tới quy luật tự nhiên.
Từ tạo thiên lập
địa Thiên Chúa đã nhìn thấy mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp. Ngài đã đặt để
những quy luật tự nhiên để muôn loài thọ tạo được lớn lên và phát triển hầu đạt
đến đỉnh cao của sự sung mãn. Thế nhưng, tội lỗi đã đi vào thế gian. Tội lỗi đã
phá huỷ những trạng thái tốt lành ban đầu, gây xáo trộn cho muôn loại tạo dựng.
Sự dữ là nguyên nhân gây nên những xáo trộn trong thế gian. Vì lẽ đó, Thiên
Chúa vẫn tiếp tục can thiệp vào thế gian để đưa mọi sự trở về với tình trạng
tốt lành ban đầu của tạo dựng.
Phúc âm kể lại
rằng có một lần Chúa Giêsu đang ngủ trên con thuyền có các môn sinh. Biển lặng
tư bề. Bỗng sóng gió nổi lên như muốn nhận chìm con thuyền. Các môn sinh hốt
hoảng. Kẻ cầm chèo. Kẻ giữ buồng. Kẻ chạy tới kêu cầu Chúa. Trong cơn bẫn loạn
đó, Chúa đã đứng dậy đe gió biển im lặng. Ngài đã làm phép lạ trước mắt các môn
sinh là truyền lệnh cho biển trở về với trạng thái ôn hoà.
Trong suốt ba
năm rao giảng, Chúa Giêsu đã chữa lành biết bao người bất hạnh đang bị sự dữ
hoành hành. Họ đang bị đau khổ bởi cơn đau của thể xác. Họ đang bị đau khổ bởi
nỗi bất hạnh, bởi tai ương dịch bệnh hay ngụp lặn trong thất vọng bởi phải chia
ly người thân. Chúa đã làm phép lạ bằng việc xua trừ sự dữ. Chúa chữa lành họ
để giúp thân xác họ trở về với tình trạng nguyên tuyền ban đầu. Chúa giúp họ
trở về với cuộc sống bình thường như bao người khoẻ mạnh khác.
Hôm nay trong
tiệc cưới Cana, tiệc rượu đang diễn ra êm xuôi. Mọi người đều vui vẻ với chén
rượu, với nụ cười hân hoan. Tiệc sẽ mất vui nếu thiếu rượu. Tiệc sẽ dở dang nếu
rượu dự trữ không đủ cho đến khi tàn tiệc. Tiệc dở dang cũng đồng nghĩa niềm
vui không trọn vẹn. Chúa đã làm phép lạ để tiệc rượu diễn ra bình thường. Không
gián đoạn bởi thiếu rượu. Chúa đã làm phép lạ để tiệc vui được tiếp diễn đến
nỗi người quản tiệc cũng không hay biết. Khách dự tiệc vẫn tiếp tục cuộc vui.
Người người vẫn nâng ly rượu mừng trong tiếng cuời, tiếng hoan hô chúc tụng.
Xem ra ai cũng thoả mãn với chén rượu nồng nàn. Đôi tân hôn hôm nay đã có một
niềm vui trọn vẹn. Ngày hôn lễ được diễn ra một cách êm xuôi. Gia đình họ thật
hạnh phúc. Hạnh phúc vì có Chúa và Mẹ Maria cùng hiện diện trong gia đình họ.
Hạnh phúc vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria mà Chúa đã ban cho gia đình một niềm
vui trọn vẹn trong ngày thành hôn.
Ngày hôm nay
nhiều gia đình đang đổ vỡ. Có biết bao gia đình đang bị xáo trộn bởi cơm chẳng
lành canh chẳng ngọt. Có biết bao gia đình đang ly tán bởi "ông ăn chả, bà
ăn nem". Có biết bao gia đình rượu ngon đã cạn chỉ còn đọng lại một chút
rượu lạnh nhạt và chua cay. Thiếu rượu nồng của tình yêu nên dẫn đến đổ vỡ,
nghi kỵ, hiểu lầm và ghen tương. Ngày hôm nay nhiều gia đình đang bất hoà vì
đói nghèo, túng cực. Nhiều gia đình đang thất vọng bởi công việc làm ăn chẳng
thuận buồm xuôi gió. Nhiều gia đình đang thiếu tình yêu, thiếu thốn tiền bạc,
thiếu cả sự cảm thông và tha thứ đã gây nên biết bao xáo trộn trong các gia
đình.
Ước gì mỗi gia
đình trong giáo xứ chúng ta cũng biết mời Chúa đến trong gia đình của mình. Hãy
dành cho Chúa một vị trí xứng đáng trong gia đình chúng ta. Hãy dâng gia đình
cho Chúa. Nếu có Chúa hiện diện, Ngài sẽ tiếp tục gìn giữ gia đình chúng ta
trong an bình hạnh phúc. Và trên hết mọi sự, hãy biết sống theo lời dặn của Mẹ
Maria: "Người bảo gì anh em hãy làm như thế". Sống theo lời Chúa, gia
đình sẽ không thiếu niềm vui, không thiếu rượu ngon của hạnh phúc yêu thương.
Sống theo Lời Chúa thể hiện qua sự phó thác tin tưởng vào sự quan phòng của
Chúa, và nhất là luôn sống đạo tình thương, mỗi người hãy biết mến thương nhau
như chính mình. Nếu mình muốn có hạnh phúc hãy làm cho gia đình mình hạnh phúc.
Nếu mình muốn được mọi người tôn trọng hãy biết đối xử tốt với nhau. Nguyện xin
Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an
và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
13. Vị khách.
Có một đôi vợ
chồng trẻ được cha mẹ cho ra riêng. Trong khi trang hoàng ngôi nhà mới, họ đã
bất đồng với nhau về chỗ để treo bức ảnh Chúa Giêsu. Người chồng thì muốn treo
bức ảnh ấy ở một vị trí nổi bật nhất trong nhà. Cuối cùng thì người vợ đành
phải nhượng bộ, bởi vì chị bỗng nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán:
- Ai xưng tụng
Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên
trời.
Chính bức ảnh
này đã gây được một ấn tượng mạnh đối với gia đình và khách khứa đến thăm.
Ngày kia, một
người bạn, sau khi nhìn ngắm bức ảnh đã nói với chị:
- Chúa Giêsu
không phải chỉ nhìn vào chị, mà còn nhìn xuyên qua tâm hồn chị.
Người khác thì
cho biết:
- Lúc nào tôi
cũng cảm thấy gia đình chị luôn bình an.
Chính chị đã tâm
sự:
- Một khi bạn
biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi, không còn như trước nữa.
Đôi tân hôn tại
cana, hẳn sẽ đồng ý với người vợ trong câu chuyện trên, bởi vì họ đã mời Chúa
Giêsu đến nơi gia đình họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên, cho nước lã biến
thành rượu ngon, để họ khỏi bị bẽ mặt với khách dự tiệc.
Đọc lại Phúc âm,
chúng ta sẽ thấy được một nhận xét nho nhỏ và thú vị, đó là nhiều lần Ngài đã
làm phép lạ ở trong gia đình của dân chúng. Chẳng hạn khi Phêrô mời Ngài đến
nhà thì Ngài đã chữa lành cho bà mẹ vợ đang sốt nặng. Cũng tại nhà Giairô, Ngài
đã cho con gái ông được sống lại. Khi dùng bữa tại nhà ông Biệt phái, Ngài cũng
đã chữa lành cho một bệnh nhân. Đặc biệt là với Giakêu và Matthêu, sự hiện diện
của Chúa Giêsu đã làm thay đổi cuộc sống của hai ông, Matthêu thì đã trở nên
tông đồ của Chúa. Còn Giakêu thì nhất quyết làm lại đời mình và đền bù những
thiệt hại mình đã gây ra.
Từ những hình
ảnh trên, chúng ta hãy tự hỏi xem:
- Chúng ta đã
thực sự mời Chúa Giêsu vào nhà chúng ta hay chưa?
Một người khách
khi bước chân vào nhà chúng ta, liệu họ có nhận ra chúng ta thuộc về Chúa qua
cách bài trí trên bàn thờ, trên tường vách, hay là người ấy sẽ bình phẩm:
- Tôi thấy con
cái của ông bà là những đệ tử ruột của Lý Hùng, của Thu Hương, của Diễm My...
bởi vì khắp nơi trong nhà được dán la liệt hình ảnh của những tài tử này.
Liệu một người
khách sau vài ngày viếng thăm và ở lại trong gia đình chúng ta, khi ra về họ sẽ
nói:
- Gia đình bạn
thực là một gia đình Kitô giáo. Mình không thể nào quên được những lời kinh ban
tối và ban sáng, trước và sau mỗi bữa ăn. Cũng như chẳng bao giờ quên được tình
thương yêu đầm ấm trong gia đình bạn. Ngoài ra mình cũng nhớ là mình chưa hề
nghe những người trong gia đình bạn nói hành nói xấu ai cả.
Như thế, việc
mời Chúa Giêsu vào nhà là một bổn phận thật quan trọng của mỗi người chúng ta.
Cách thức mời Ngài vào nhà, có thể là bằng việc treo lên bàn thờ một tượng chịu
nạn, hay một bức ảnh về Chúa. Có thể là việc kính cẩn đọc kinh tối và sớm,
trước và sau mỗi bữa ăn. Nhất là bằng việc đối xử với nhau một cách yêu thương
và chân thành, cũng như không bao giờ oán hận và thù ghét ai cả.
Cùng với sự hiện
diện của Ngài thì bản thân chúng ta sẽ được đổi mới và gia đình chúng ta sẽ
được đầm ấm và hạnh phúc.
14. Hạnh phúc
mong manh – Thiên Phúc.
(Trích trong
'Như Thầy Đã Yêu')
Ở đất Vũ Bình có
giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai
mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc
nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được,
mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn
mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống,
xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn
quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu
gào thương xót, chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà,
cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu
gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
Tình mẫu tử của
giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động. Tuy nhiên, chúng ta cũng
có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó
chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một
trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về
"Tiệc cưới Cana". Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc
tình mẫu tử của Người.
Theo tập tục Do
thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến 'ngày thứ ba' thì tiệc cưới
Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó
xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhảy cảm và lòng
thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: "Họ
hết rượu rồi" (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp
trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: "'Tôi với bà có can
chi? Giờ tôi chưa đến" (Ga 2,4). Qua câu này, Chúa Giêsu chỉ muốn xác
quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ Maria cũng
không hiểu rõ chữ 'Giờ' tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và
phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ. Mẹ mong Con
làm một điều gì đó: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga
2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa
Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao
giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy 'Giờ' tôn vinh chưa
đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người
sắp thực hiện để "Các môn đệ tin vào Người" (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp
của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng
cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp
của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành bảy trăm lít rượu ngon, để niềm vui
của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn
nói nhỏ bên tai Chúa: "Họ hết rượu rồi".
Để cho bao mối
tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia
đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm
hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa
Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu Ước thành rượu ngon của Tân Ước, để mở ra
một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta
biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha
nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu Chúa Giêsu
đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập
một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này
thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng
con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong
manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho
chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria
luôn là Đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn
bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen.
15. Chúa Giêsu
thay đổi tất cả.
Sự náo động
chung quanh việc thiếu rượu, cuộc đối thoại đáng kinh ngạc giữa Chúa Giêsu và
Mẹ Maria, phép lạ làm sững sờ, sự hài hước ('Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi
cho đến bây giờ'), thật là sống động! Biết bao nhiêu hoạ sĩ thích vẽ đám cưới
Cana, và chúng ta cũng bị cám dỗ biết mấy là dừng lại ở nơi sự thu hút của đám
cưới này.
Nhưng chúng ta
đang đọc Tin Mừng của thánh Gioan. Ngài là người kể chuyện tài tình và là thần
học gia Tin Mừng đang mặc khải các mầu nhiệm bằng cách tiên phong sử dụng những
từ ngữ với một nghệ thuật tinh vi. Bạn hãy nhìn xem các từ 'vinh quang' và 'dấu
chỉ' đang chiếu sáng. Bạn hãy xem nước và rượu tương phản nhau biết bao, giờ
('Giờ của tôi chưa đến') và sự bắt đầu ('Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này
tại Cana': tại Cana, khởi đầu các dấu chỉ). Bạn hãy đọc kỹ trang mặc khải này
và bạn sẽ gặp được hai câu chính yếu: "Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá
thành rượu"... "Các môn đệ đã tin vào Người".
Mỗi đoạn Tin
Mừng thánh Gioan là một lời kêu gọi tin vào một điều mà điều này là một bước
tiến gần tới toàn bộ đức tin. Tin vào điều gì ở đây? Đó là Chúa Giêsu thay đổi
tất cả. Ngài đến Cana và nước hoá thành rượu. Đây là một 'phép lạ-dấu chỉ'. Chúa
Giêsu đến và thế giới được biến đổi: "Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô
đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi" (2Cr 5,17).
Chúa Giêsu đến trong cuộc sống của chúng ta và nếu chúng ta tin, theo nghĩa rất
mãnh liệt của thánh Gioan, thì cuộc sống của chúng ta được biến đổi. Chúng ta
đi từ cuộc sống hơi tẻ nhạt đến một cuộc sống mạnh mẽ. Cuộc sống này nhảy múa
ca hát và bẻ gãy những bó buộc sai trái: Rượu của Chúa Giêsu Kitô! Ngài nói:
rượu mới của ta làm vỡ những bình cũ (Mc 2,22).
Than ôi! Người
ta còn có thể nói rằng tôn giáo là rượu ngon của cuộc sống nữa hay không? Chúng
ta đã làm cho Kitô giáo trở thành một cái gì buồn tẻ, thật sự không làm cho say
sưa. Nước của Cana! Nước trong Thánh Kinh, nước trong thánh Gioan vọt ra, tẩy
sạch, biểu tượng của sự sống: nước hằng sống. Nhưng không phải nước tại Cana.
"Ở đó có
đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái". Đây
là nước mà Chúa Giêsu sẽ biến đổi, nước biểu tượng của một tôn giáo hình thức.
Tôn giáo hằng sống của người Do thái trở nên quá tỉ mỉ, giả hình. Đó là căn
bệnh của mọi tôn giáo. Cuối cùng người ta tin rằng để làm vui lòng Chúa, chỉ
cần thốt lên những câu nói, rửa ráy, làm những việc bề ngoài là đủ.
Tôn giáo của
Chúa Giêsu thay đổi tất cả: đó là rượu say đắm của tình yêu. Chúng ta làm Chúa
vui lòng nếu các nghi thức của chúng ta là những dấu chỉ và là sự trỗi dậy việc
chúng ta trao ban cho tha nhân, nếu chúng ta thay đổi, ít ra là xoa dịu nỗi khổ
nhọc của một người anh em thành niềm vui. Chúa Giêsu mang lại khả năng chưa
từng có này: từ nay tất cả sẽ có thể là tình yêu. Ngài nói với Mẹ Maria: 'Thưa
Mẹ, Mẹ chờ đợi gì ở con? Con sẽ làm hơn thế nhiều khi đã tới giờ!'.
Nhưng ở đây nổ
ra khả năng sinh hạ của Mẹ Maria: Mẹ đã sinh hạ ra con trai của Mẹ cho cuộc đời,
Mẹ đã sinh hạ con trai đó cho cuộc sống công khai của Ngài, với những phương
tiện của một người mẹ của Đấng Duy Nhất: sự kín đáo và niềm tin.
Có gì kín đáo
hơn thế? "Họ hết rượu rồi" (Tôi thích câu này 'hết rượu rồi' của các
nhà chú giải, thay vì 'còn ít rượu': Chúa Giêsu sẽ không cho thêm rượu, Ngài sẽ
cho rượu).
Và đức tin rất
mạnh mẽ: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo". Rất ít lời, vừa đủ
để sự nhục nhã của một cặp vợ chồng trẻ được biến đổi thành niềm vui. Và để
chúng ta muốn xin Mẹ Maria ân sủng của tiệc cưới Cana: cuối cùng chúng ta hãy
tin rằng Chúa Giêsu thay đổi tất cả.
16. Chuyện bất
ngờ.
Người ta thường
bảo:
- Mấy ai học
được chữ ngờ.
Có những điều
chúng ta không bao giờ nghĩ đến, thì lại xảy ra. Đó cũng là trường họp của đoạn
Tin mừng hôm nay. Thực vậy, Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng
cách tham dự một đám cười ở Cana và thực hiện phép lạ đầu tiên cũng tại đây.
Là Con Thiên
Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, chúng ta thích Ngài chọn lựa
một hoàn cảnh khác, trang trọng hơn để tỏ mình ra cùng thiên hạ.
Đúng thế, chúng
ta thử tưởng tượng một vị Giám mục hay một vị Hồng y chẳng hạn như Đức Hồng y
Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, ngay sau khi vừa được tấn phong, đã vội vã cùng
với những người thân cận nhất của mình, đi tham dự một đám cưới.
Bữa tiệc kéo dài
tới tận khuya thì thiếu rượu, vị Giám mục hay vị Hồng y ấy bèn sai người về lấy
những chai rượu lễ, mang tới để đãi khách và kéo dài tiệc vui. Nếu sự thật đã
xảy ra như vậy, thì khi nghe biết, chúng ta chỉ còn cách lắc đầu, nhún vai và
không thể nào hiểu nổi.
Thế nhưng đối
với Chúa Giêsu thì đó lại là một chuyện bình thường. Ngài ngồi giữa đám khách
dự tiệc và làm phép lạ đầu tiên, biến nước lã trở thành rượu ngon. Sáu chum
đựng nước, chứa từ ba trăm đến bốn trăm lít, đã được chủ tiệc xác nhận là một
thứ rượu ngon tuyệt vời. Vậy đâu là mục đích và đâu là ý nghĩa của việc Chúa
Giêsu đã làm?
Trong Phúc Âm,
chúng ta thấy Chúa Giêsu ít khi đề cập đến vấn đề hôn nhân, cũng như về tình
yêu gia đình. Tuy nhiên đây chắc chắn phải là một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc
bấy giờ, bởi vì như chúng ta đã biết lúc bấy giờ quân đội La Mã đang chiếm đóng
xứ này. Và cùng với họ, là những xáo trộn về đạo đức và những suy thoái về luân
lý.
Hơn thế nữa, xứ
Palestine lại nằm giữa những dân tộc ngoại giáo với những quan niệm sai lạc về
hôn nhân và gia đình. Hẳn rằng Chúa Giêsu có nhiều lý do để trình bày về đề tài
này, nhưng Ngài lại nói rất ít.
Còn chúng ta hôm
nay, chúng ta đã bàn bạc, đã viết lách rất nhiều. Nào là sự khủng hoảng của đời
sống gia đình. Nào là sự sụp đổ của tình yêu hôn nhân. Nào là những khác biệt
tâm lý trong liên hệ vợ chồng...Thế nhưng ngày hôm nay lại có nhiều đổ vỡ trong
hôn nhân và gia đình hơn hết.
Người ta tính
trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm
đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50%
tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một
cặp thất bại, phải ly dị nhau. Ấy là chưa kể tới biết bao thai nhi đã bị giết
chết một cách oan uổng. Mới đây người ta đã xếp Việt Nam chúng ta vào một trong
ba nước có con số nạo phá thai cao nhất thế giới...
Còn Chúa Giêsu
thì khác. Ngài không nói nhưng Ngài đã làm. Ngài ở giữa đôi tân hôn tại Cana,
tham dự đám cưới của họ và thánh hóa mái gia đình họ vừa mới gầy dựng. Hành
động khởi đầu cho sứ mạng của Ngài không phải là một thông điệp gửi đến cho
toàn thể thế giới, cũng không phải là một cuộc biểu dương lực lượng, nhưng là
một đám cưới nhà quê, qua đó Ngài tỏ cho chúng ta biết Ngài chính là suối nguồn
đem lại bình an và hạnh phúc, cảm thông và trung thành cho đôi tân hôn.
Đúng thế, hôn
nhân không phải chỉ là một giao ước mang tính cách xã hội, mà còn là một bí
tích, một sự kết hợp thiêng liêng trong ơn sủng và Đức Kitô chính là sợi dây
nối kết họ lại với nhau. Tình yêu của họ là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu
giữa Đức Kitô và Giáo hội, như tại Cana Ngài đã giúp cho họ vượt qua mọi khó
khăn. Hơn thế nữa, hôn nhân còn là một cơ may để họ cộng tác với Thiên Chúa
trong việc hình thành và giáo dục những người con cái Thiên Chúa.
Có nhìn hôn nhân
và gia đình như thế, chúng ta mới tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống lứa đôi
và sức mạnhg giúp chúng ta trung thành cùng nhau trong liên hệ vợ chồng, bởi vì
Đức Kitô đang ở giữa chúng ta.
17. Hiện diện.
Trong đại hội
giới trẻ thế giới tại thủ đô Manila nước Phi Luật Tân (10-15/1/1995), có một sự
kiện khá ngộ nghĩnh tương tự như câu chuyện của ông Giakêu tìm cách nhìn xem
Chúa Giêsu. Sự kiện đó là: khi xe của Đức Thánh Cha đang di chuyển trên đường
phố có hàng triệu người đứng ở hai bên đường chào đón Người, người ta thấy một
phụ nữ trèo lên cột điện chờ xe Đức Thánh Cha đi qua để được nhìn thấy Người.
Khi được phỏng vấn tại sao lại liều lĩnh thế, chị đã trả lời: "Tôi nghĩ
rằng đây là cơ hội duy nhất trong đời tôi có thể nhìn thấy Đức Thánh Cha. Và
được nhìn thấy Đức Thánh Cha một lần thôi tôi cũng mãn nguyện rồi". Người
phụ nữ này là một người Tin Lành.
Được nhìn thấy
Đức Thánh Cha, được Đức Thánh Cha viếng thăm đã trở thành một ước mơ, một niềm
vui lớn đối với nhiều người, bất kể lương hay giáo. Điều đó dễ hiểu, bởi sự
hiện diện của Đức Thánh Cha là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa chứ chưa
phải là chính Thiên Chúa. Người chỉ là sứ giả đi trước để dọn đường cho Thiên
Chúa đến với các tâm hồn. Nhưng nếu sự hiện diện của sứ giả Thiên Chúa đã đem
lại niềm vui to lớn dường ấy, thì sự hiện diện của chính Thiên Chúa sẽ mang lại
niềm vui to lớn đến độ nào?
Câu chuyện Tin
Mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình
có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm
vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ
các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và
gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của
ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.
Sự hiện diện của
Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các
Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi
ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài
hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các
Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua
mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.
Sự hiện diện của
Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân
phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và
trong cuộc đời của mình hay không?
18. Tiệc cưới
Cana.
Phép lạ hóa nước
ra rượu tại tiệc cưới làng Cana có một ý nghĩa Kitô học rất sâu xa, ý nghĩa đó
được tóm gọn trong câu kết luận của thánh sử Gioan: "Chúa Giêsu tỏ hiện
vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài".
Rượu mới tuyệt
hảo và dư đầy là chính Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, là giao ước mới
giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước mới thay thế giao ước cũ và trổi vượt
hơn giao ước cũ trên tất cả mọi phương diện. Hình ảnh rượu mới được các tiên
tri của Cựu ước như Amos và Giêrêmia diễn tả như là dấu chỉ của cuộc sống hạnh
phúc, an lành thịnh vượng của dân Thiên Chúa trong thời cứu rỗi.
Ba thánh sử nhất
lãm: Marcô, Matthêu và Luca cũng dùng hình ảnh rượu mới để định nghĩa lòng tin.
Tin là hoán cải, là từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, mặc lấy Chúa
Kitô, mặc lấy giáo huấn của Ngài. Định nghĩa trên đây đã đặc biệt được thánh
Phaolô khai triển. Dù giờ của Ngài chưa đến, nhưng Chúa Giêsu đã chiều theo ý
Mẹ Ngài, tỏ hiện vinh quang của Ngài để các môn đệ tin. Giờ và vinh quang mà
Chúa Giêsu muốn tỏ hiện ra cho các môn đệ ngay từ lúc làm phép lạ cho nước hóa
ra rượu tại tiệc cưới Cana chính là giờ thập giá, là cái chết và sự sống lại
của Ngài.
Theo thánh sử
Gioan, chúng ta chỉ có thể hiểu được bản chất đích thực và sâu xa của vinh
quang được bắt đầu thể hiện tại Cana đó dưới ánh sáng của giờ sau hết, nghĩa là
lúc Chúa Giêsu bị treo trên thập giá để rồi chết đi và sống lại. Chính qua thập
giá với cái chết khổ nhục của mình mà Chúa Giêsu chiến thắng quyền lực tội lỗi
và sự dữ. Ngài bẻ gãy cái vòng luẩn quẩn của bạo lực, giải thoát con người khỏi
ách gông cùm của sự dữ.
Những dấu chỉ
bắt đầu từ dấu chỉ của phép lạ tại tiệc cưới Cana có nhiệm vụ mạc khải mầu
nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trên đường tiến lên thập giá. Con đường Chúa Giêsu đi
tiềm ẩn và sự chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa sẽ được tỏ hiện trong cái
chết và sự sống lại của Ngài. Vinh quang của Thiên Chúa đối với loài người được
tỏ hiện rõ ràng nhất trên thập giá, qua cái chết của Chúa Giêsu. Thập giá là
bảo chứng tuyệt đỉnh của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Trong Chúa
Giêsu, vinh quang đó là sự tùng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa Cha để hoàn
thành chương trình cứu độ và đổi mới trần gian.
19. Tiệc cưới.
Nếu chúng ta
hiểu phép lạ ở Cana theo nghĩa đen, chúng ta sẽ giản lược nó thành một điều kỳ
diệu chỉ trong nháy mắt là xong và giới hạn ý nghĩa của nó.
Thật ra, vấn đề
không phải ở chỗ quyền năng làm biến đổi nước thành rượu. Chúng ta đã biết làm
điều ấy như thế nào – việc ấy xảy ra mỗi năm trong các vườn nho và các nhà máy
của chúng ta. Phép lạ có một ý nghĩa sâu xa và rộng lớn hơn và ý nghĩa này có
giá trị ở mọi thời đại. Nó còn quan trọng hơn một điều kỳ diệu.
Trong nỗ lực mô
tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Người. Kinh thánh dùng hình ảnh của hôn phu
và hôn thê. Và để mô tả niềm vui mà Thiên Chúa tìm thấy ở giữa dân Người, Kinh
Thánh dùng hình ảnh của tiệc cưới.
Bài đọc 1 chứa
một sứ điệp về niềm hy vọng của dân Thiên Chúa trong những thời kỳ suy sụp nhất
của lịch sử họ. Giêrusalem bị tàn phá và nhiều người dân đi đày qua Babylon.
Israen, một thời là tân vương của Thiên Chúa, giờ đây giống như một quả phụ bị
lấy mất con. Tuy nhiên, hôn phu của nàng là Thiên Chúa đã không quên nàng. Sẽ
có một tiệc cưới mới. Thiên Chúa sẽ phục hưng dân Người.
Lời hứa này đã
được thực hiện khi dân chúng trở về từ chốn lưu đày, nhưng đặc biệt hơn khi Đức
Giêsu đến. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công
khai ở một tiệc cưới. Ở tiệc cưới ấy, người ta thiếu rượu. Cách nói này muốn ám
chỉ tôn giáo cũ, giao ước cũ vẫn còn thiếu sót. Đã đến lúc mọi lời hứa phải
được thực hiện, cũng là thời kỳ của luật mới và tinh thần mới.
Các ngôn sứ đã
nói trước về việc rượu chảy dồi dào trong ngày của Đấng Mêsia. Ở Cana, chính
Đức Giêsu đã ban phát rượu ấy. Và mọi người nếm hưởng rượu ấy đều đồng ý rằng
rượu này ngon hơn rượu cũ. Chúng ta nhận thấy sự quảng đại tuyệt đối của phép
lạ. Sáu cái chum đá, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi
lít nước. Chúng ta thoáng thấy lòng ấm áp của Người. Trật tự mới bắt đầu với
một hành động xót thương.
Điều Đức Giêsu
đã thực hiện ở Cana không phải là một việc làm hời hợt, qua loa. Nó nói lên
điều phải xảy ra trong suốt sứ vụ của Người. Hóa nước thành rượu là một biểu
tượng của việc Người cần phải thực hiện. Bất cứ nơi nào Người đến, cái cũ được
đổi thành cái mới. Người đã đổi nước mắt của bà góa ở Nain thành niềm vui, tính
vị kỷ của Giakêu thành sự yêu thương. Trên núi Canvariô, Người đổi sự tuyệt
vọng của tên gian phi thành niềm hy vọng. Và trong buổi sáng Phục sinh, Người
đổi cái chết thành sự sống.
Sự hiện diện của
Người có thể làm thay đổi đời sống của những người đã được tiếp xúc với Người
cả khi họ không nhận ra. Và Người tiếp tục làm điều đó cho những ai tin tưởng
và đi theo Người. Người biến đổi đời sống chúng ta thành một điều kỳ diệu.
Người cho ta tham dự vào đời sống thần linh – không thua gì trạng thái xuất
thần do hiệp thông với Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều đó vẫn còn ở lại
trên bình diện lý thuyết nếu chúng ta không cảm nghiệm điều đó trong đời sống
chúng ta, và nếu Đức Giêsu không hóa nước thành rượu một cách nào đó trong đời
sống chúng ta.
Nước là một chất
cần thiết và có ích cho sự sống còn của cơ thể. Tuy nhiên, dù nước đem lại sự
thỏa mãn nhưng nó không đem lại niềm vui. Mặt khác, rượu làm say sưa và phấn
chấn tinh thần.
Phúc cho những
người khát khao thứ "rượu" mới mà Đức Giêsu cung cấp. Rượu cũ là lời
hứa; rượu mới là sự hoàn thành. Của cải vật chất không đủ. Đức Giêsu đem lại
một chiều kích mới cho đời sống. Người mang lại một niềm vui mà thế gian không
thể mang lại.
Người yêu cầu
các gia nhân múc nước đã hóa thành rượu và đem đến cho người quản tiệc. Đức
Giêsu đã dùng những người trung gian để chuyển giao những ơn huệ của Người.
Người yêu cầu chúng ta chia sẻ với những người khác các ơn lành mà Người đã
chia sẻ với chúng ta.
20. Quan tâm đến
tha nhân - JKN
Chủ đề: Thiên
Chúa cứu chữa điều hư hỏng nên hoàn hảo hơn cả tình trạng ban đầu
Câu hỏi gợi ý:
1. Hôn nhân hay
bậc sống đời gia đình - cùng với những vui thú, trách nhiệm, vất vả của nó - có
phải là một lối sống được Thiên Chúa mong muốn và chúc lành không? Hay đó là
một bậc sống thấp hèn?
2. Trường hợp
đám cưới này, nhờ sự can thiệp cứu độ của Đức Giêsu, sự thiếu rượu cuối cùng
lại biến thành có rượu mà rượu ấy lại còn ngon hơn rượu trước, khiến cho đám
cưới trở nên tốt đẹp hơn dự tính. Điều đó hàm ý nghĩa gì khi có sự cứu chữa hay
can thiệp của Thiên Chúa?
3. Vai trò của
Đức Mẹ trong bối cảnh này quan trọng thế nào? Sự thường trong hoàn cảnh này,
nếu không có Đức Mẹ, thì Chúa Giêsu có ra tay cứu chữa không?
4. Lý do gì
khiến Đức Mẹ nhận ra họ thiếu rượu? Mẹ có nhậy bén trước nhu cầu của người khác
không? Tại sao Mẹ lại nhậy bén như vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu
tham dự tiệc cưới và cứu chữa thế kẹt cho đám cưới
Ngay từ khởi
thủy, «Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ» (St 1,27), để từng cặp nam
nữ sống thân thiện yêu thương nhau, trở nên một với nhau, «cả hai trở thành một
xương thịt» (St 2,24). Thiên Chúa muốn họ sống với nhau thành một tổ ấm, một
gia đình, để yêu thương nhau, nâng đỡ nương tựa nhau, xây dựng hạnh phúc cho
nhau, và để sinh con cái hầu duy trì nhân loại đến muôn đời. Vì thế, đôi nam nữ
yêu thương nhau, kết hợp với nhau thành vợ chồng, thành gia đình. Họ còn cộng
tác với Ngài trong công cuộc tiếp tục sáng tạo con người. Đó là điều hết sức
tốt đẹp và thánh thiện, nằm trong kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, đời sống
hôn nhân hay gia đình nằm trong kế hoạch đầu tiên - có thể nói kế thượng sách -
của Thiên Chúa, tức kế hoạch sáng tạo. Do đó, ơn gọi sống đời hôn nhân và gia
đình là một ơn gọi hết sức cao quí. Chính vì thế, phép lạ mở đầu cuộc đời công
khai của Chúa Giêsu, là phép lạ dành cho tiệc cưới Cana. Cả Chúa Giêsu, Đức Mẹ
và các môn đệ của Ngài cùng tham dự tiệc cưới này. Điều đó nói lên rằng Thiên
Chúa - qua con người Đức Giêsu - đã đánh giá bậc sống hôn nhân gia đình rất cao
quí, đáng được ủng hộ và chúc phúc.
Có điều đáng
tiếc là kế hoạch đầu tiên này đã bị tội nguyên tổ làm hư hỏng, nên Thiên Chúa
đã đưa ra một kế hoạch thứ hai là kế hoạch cứu chuộc. Ơn gọi linh mục hay tu sĩ
nằm trong kế hoạch cứu rỗi này. Trong kế hoạch cứu chuộc này, theo suy nghĩ của
Giáo Hội, thì Đức Giêsu đã lập bí tích hôn nhân trong tiệc cưới Cana này.
2. Kế hoạch cứu
chuộc làm kế hoạch sáng tạo thành công tốt đẹp hơn
Trong đám cưới,
rượu được đưa ra ban đầu chắc chắn cũng là loại rượu ngon, ngon nhất trong khả
năng kinh tế của gia đình đôi tân hôn. Nhưng sự trục trặc đã xảy ra khiến cho
nếu không có sự can thiệp cứu chữa của Chúa Giêsu, gia đình đôi tân hôn sẽ bị
mất mặt hay mang tiếng, và đám cưới sẽ mất vui đi rất nhiều. Nhưng chính nhờ có
sự trục trặc đó mà Đức Giêsu mới ra tay cứu chữa. Và một khi Ngài ra tay cứu
chữa thì bữa tiệc lại trở nên vui hơn, tốt đẹp hơn, hơn cả khi không có trục
trặc xảy ra. Rượu sau này là loại rượu ngon hơn, chắc chắn khiến khách dự tiệc
vui hơn, uống được nhiều hơn, và hài lòng hơn bình thường rất nhiều. Điều này
có một ý nghĩa rất thâm sâu.
Công trình sáng
tạo của Thiên Chúa hết sức tốt đẹp. Nhưng rồi có sự trục trặc xảy ra do tội lỗi
con người. Nhưng sự cứu chuộc của Chúa Giêsu không phải chỉ là sửa chữa cho
tình trạng đó đỡ xấu đi, mà chắc chắn sẽ làm cho kết quả cuối cùng còn tốt đẹp
hơn là khi không xảy ra trục trặc nào cả. Chính vì thế, trong lễ đêm Phục sinh,
Giáo Hội đã không ngần ngại tuyên bố: tội nguyên tổ là một tội hồng phúc. Vì
chính nhờ có tội đó mới có kế hoạch cứu chuộc. Và theo sự khôn ngoan và toàn
năng của Thiên Chúa, chắc chắn kế hoạch cứu chuộc này không chỉ sửa chữa lại kế
hoạch sáng tạo đã bị hư hỏng, mà còn làm cho kế hoạch sáng tạo ấy thành công mỹ
mãn, tốt đẹp hơn lên gấp bội. Có hành xử như thế, Thiên Chúa của chúng ta mới
đúng là Thiên Chúa cao cả vĩ đại, đầy quyền năng. Và chỉ Ngài mới có thể làm
cho điều xấu nhất trở nên tốt nhất mà thôi. Đó chính là lý do để người Kitô hữu
luôn luôn sống hân hoan và tràn đầy hy vọng vào tương lai.
3. Sự đồng công
của Đức Mẹ trong công việc của Chúa Giêsu
Sự hiện diện của
Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ, và sự can thiệp đặc biệt của Ngài để cứu nguy
cho đám cưới ấy là một dấu hiệu hết sức ý nghĩa. Cuộc hôn nhân hay đám cưới
(vốn thuộc kế hoạch thứ nhất) đã lâm vào tình trạng nguy khốn (hình ảnh của sự
trục trặc gây ra do tội nguyên tổ) đã được Chúa Giêsu cứu chữa một cách hết sức
tốt đẹp (kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa đã thành công).
Sự cứu chữa ấy
có sự đóng góp hết sức quan trọng của Mẹ Maria: Chúa Giêsu đã thực hiện sự cứu
chữa ấy theo yêu cầu đầy lòng thương người của Mẹ mình. Trong công việc cứu
chữa đám cưới này, Đức Mẹ đã tỏ ra tư cách của mình là người Đồng Công Cứu
Chuộc với Chúa Giêsu một cách hết sức rõ ràng và cụ thể. Công việc chính yếu là
do Chúa Giêsu, nhưng nếu không có Mẹ Maria thì sự cứu chữa ấy có thể đã không
xảy ra.
Người Kitô hữu
cần ý thức hơn về vai trò rất quan trọng của Mẹ Maria trong việc nên thánh và
sống đời Kitô hữu của mình. Trong việc nên thánh, những Kitô hữu nào biết cậy
nhờ vào sự bảo trợ của Mẹ Maria thì thường là dễ thành công hơn.
4. Mẫu gương
quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nơi Mẹ Maria
Lý do khiến Đức
Mẹ trở nên Đấng Đồng Công với Chúa Giêsu, chính là tình yêu thương chan hòa của
Ngài đối với mọi người, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo. Tình yêu thương ấy
đã khiến Đức Mẹ trở nên hết sức nhậy cảm trước nhu cầu, nỗi khó khăn, sự đau
khổ cũng như niềm vui, niềm hạnh phúc của người khác. Vì thế, trong đám tiệc,
khi chủ nhà sắp hết rượu, Đức Mẹ đã nhận ra ngay nỗi lo lắng của họ, cho dù
theo lẽ thường họ cố gắng không biểu lộ ra. Chắc chắn có biết bao phụ nữ cùng
đi dự đám cưới ấy đã không nhận ra điều ấy.
Sự nhạy bén đó
Mẹ có được là do lòng yêu thương của Mẹ khiến Mẹ luôn quan tâm đến người khác,
quan tâm đến từng chi tiết của đời sống. Có thể nói tình yêu luôn luôn phải
được biểu lộ bằng sự quan tâm. Mặc dù quan tâm không phải lúc nào cũng là dấu
chứng của yêu thương, nhưng chắc chắn rằng không quan tâm thì cũng đồng nghĩa
với không yêu thương.
Chúng ta thường
nghĩ rằng mình đang yêu thương, đặc biệt những người gần gũi ta nhất: cha mẹ,
vợ con (hay chồng con), anh chị em ta. Nhưng có đích thật là ta yêu thương
những người ấy không? ta có thật sự quan tâm đến niềm vui, nỗi buồn, niềm mong
ước, hy vọng hay nhu cầu của họ không? ta có sẵn sàng thỏa mãn những nhu cầu ấy
bất chấp phải hy sinh ít nhiều thì giờ, tiền bạc, sức lực của ta không? ta sẵn
sàng tới mức độ nào?
CẦU NGUYỆN
Lạy Mẹ Maria,
xin cho con biết bắt chước Mẹ, biết biểu lộ tình thương của con đối với những
người chung quanh một cách cụ thể bằng sự quan tâm thật sự đối với những niềm
vui, nỗi buồn, những thuận lợi cũng như những bất lợi của họ. Xin đừng để con
thường xuyên vô tình, hay cố tình làm ngơ trước những nhu cầu hay những đau khổ
của người khác.
21. Chú giải của
Noel Quesson.
Bài trình thuật
tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm
sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không
có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch
sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho
Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta
phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích
"tượng trưng" sâu xa: Sự kiện ấy là một "dấu chỉ". Nó có
một "ý nghĩ" ẩn giấu.
Ngày thứ ba, có
tiệc cưới tại Cana miền Galilê.
Khi Gioan viết
những từ "ngày thứ ba" ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên
khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại "ngày
vinh quang" của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 - 17,23 - 20,19; Lc
9,2-18 - 33-24, 7; Cv 10,40).
Trong tiệc cưới
có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Trong phần đầu
Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở
Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá...mà không cho
biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu...
đó là "Mẹ Người "!
Khi thấy thiếu
rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi." Đức Giêsu
đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến"
Giờ của Đức
Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 - 8,20 - 13,1 - 16,25 -
16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh
quang: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con
vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian" (Ga 17,l-5).
Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người
được "nâng lên" về mặt thể xác và một cách tưởng tượng... đó là sự
sống lại, Người được "nâng lên" bên hữu Chúa Cha... và đó là sự tuôn
đổ của Thánh Linh cho các tín hữu... (Ga 3,14 - 8,28 - 12,32 - 17,11 - 17;13 -
17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một
ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá "hữu thể" sâu xa của
Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người.
Người nói rằng "Giờ của Người" chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi
người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo
Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa.
Thân mẫu Người
nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
Bề ngoài kiểu
nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành.
"Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói
với mọi người Ai Cập: "Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm
theo" (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí
Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ
đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.
Giờ đây, chính
Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính:
"Người bảo gì các anh cứ việc làm theo". Ở đó, đang thiếu rượu... và
có lẽ, nào ai biết được, "tình yêu' cũng thiếu... Cuộc vượt qua là sự ra
khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự
chết: "Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có
rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta "không thể còn làm được
gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc
đó... Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng
duy nhất có thể cứu: "Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo".
Ở đó có đặt sáu
chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được
khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: "Các
anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với
họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho
ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ
đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)
Không một chi
tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.
Chúng ta thử
hiểu một nửa chữ thôi...
"Sáu chum
đá... Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số
của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.
"Dùng vào
việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc
phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các
tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn
giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!
"Họ đổ đầy
tới miệng...". Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng
Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong "dấu chỉ" đầu tiên này, quả thật là
điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!
"Rượu"...
Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v...) Trái nho là
một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự
sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người". Các thời đại của Đấng Mêsia
được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: "Đức
Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu
nồng"(Isaia 25,6; A-mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3
1., 12; Diễm ca 2,4 v.v...)
Vả lại chúng ta
chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu
mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ
nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ "rượu'" mầu nhiệm được róc ra.
Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ
đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người... trong sự
chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: "Từ nay Thầy không
còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc
của Cha Thầy".
Phúc thay cho
những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.
Mỗi lần bạn uống
được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một "dấu
chỉ" về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta
thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí
tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.
Ông mới gọi tân
lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà
mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây
giờ".
Sự lầm lẫn này
có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã
lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng
"tân lang" đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).
Chúng ta thấy ở
đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana...".
Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta".
Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc
của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!
Một truyền thống
lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân
loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta "sự
ngỏ lời tình yêu" nóng bỏng như một đam mê của người si tình: "Người
ta sẽ không còn gọi em "cô gái bị bỏ rơi" nhưng người ta sẽ gọi em là
"cô gái được yêu thích", người ta sẽ gọi xứ sở của em là "Tân
nương của Ta"... Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây
dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng
thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em" (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien
16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh
21,2 - 22,17 v.v...).
Vả lại như bạn
đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng
ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân
nương thật sự là người "phụ nữ" mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang
tính tượng trưng sâu sắc: 'Thưa Bà!". Tân nương của Thiên Chúa, chính là
Israel chờ đợi "giao ước mới" khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa.
Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo
Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là "con gái của Israel" và
khuôn mặt của Giáo Hội". Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc
cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn... Thiên Chúa đã cưới nhân
loại trong Đức Giêsu Kitô... trong khi vui cũng như trong lúc buồn!
Chúng ta sống
trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình
yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta
sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không
muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra...
Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng
rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những
cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn
rượu nữa!". Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban
lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của
Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu
thương cho đến cùng" (Ga 13,1).
Trong nhiều thế
kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống
"hôn nhân" hay cuộc sống "độc thân". Tuy nhiên chúng ta chớ
nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa - Tình Quân. Chúng ta
hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn,
vợ chồng bạn là "dấu chỉ", nghĩa là "bí tích", "sự
biểu lộ" của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn
"không có tình yêu", bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả
nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn
như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin
Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được "dấu chỉ" của tiệc cưới Cana,
điều đó chẳng cần thiết hay sao?
Đức Giêsu đã làm
dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các
môn đệ đã tin vào Người.
Bên ngoài tính
giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu
chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người... các môn đệ đã bắt đầu
bước vào đức tin... "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng
ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha
ban cho Người".(Ga 1,14).
22. Chú giải của
Fiches Dominicales.
TIỆC CƯỚI Ở CANA
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI:
1. Từ một tiệc
cưới làng quê... đến những tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người.
Chúa nhật trước
chúng ta đã chú ý đến bài tường thuật của Mátthêu về ba nhà đạo sĩ, một bài rất
giàu ý nghĩa biểu tượng. Bài tường thuật của Tin Mừng Gioan về tiệc cưới ở cana
mở đầu cho "Cuốn sách về các Dấu chỉ" cũng giống như vậy. Và như A.
Marchadour cảnh giác, chắc chắn rằng qua câu chuyện được kết cấu như thế,
"tốt hơn ta nên, từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế
nào. Thánh Gioan là người vốn thích nhìn từ một sự việc cụ thể đích thực để
nhận ra ý nghĩa thần học tiềm ẩn, cột làm cho lịch sử có được nét sáng giá
hơn" (L'Evangile de Jean, Centurien, 1992, tr. 55).
Việc giới thiệu
các nhân vật và quan hệ hỗ tương của họ là chìa khoá thứ nhất dẫn vào lối đọc ý
nghĩa biểu tượng của trình thuật này.
+ Thực vậy, các
nhân vật mà người kể chuyện nói đến là "Đức Giêsu", "thân mẫu
Đức Giêsu", các "môn đệ" Người, rồi ở phần tiếp của đoạn văn có
người "quản tiệc" và "tân lang".
+ Theo A.
Marchadour nhận xét, tất cả những nhân vật này, đều được giới thiệu quy chiếu
về Đức Giêsu: thân mẫu Người, các môn đệ Người. Các môn đệ sẽ không có vai trò
chủ động nào, nhưng lại quan trọng, đồng thời là chứng nhân của cảnh tượng và
là những con người được biến đổi: cuối chuyện các ông trở thành những con người
có lòng tin (Sđd.)
+ Còn chính tân
nương sẽ không có vấn đề gì hết.
- Một chìa khóa
khác đó là sự lặp đi lặp lại từ "tiệc cưới" ở đầu bản văn (c.1.2) rõ
ràng là có ý làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của câu chuyện, tiệc cưới chỉ là
cái khung để lồng những biểu tượng ấy.
Qua khắp cả Kinh
Thánh, từ sách tiên tri Ô-xê cho đến sách Nhã Ca, Thiên Chúa luôn được trình
bày như tân lang của dân Người là Israel. Giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và
Israel là một giao ước hôn nhân, nghĩa là bền chặt, không thể tiêu huỷ được;
giao ước ấy dựa trên nền tảng là tình yêu trọn vẹn và hỗ tương. Chính Tân Ước
cũng thường xuyên sử dụng chủ đề này.
Chính chủ đề này
được quảng diễn ở đây, trong bài tường thuật của thánh Gioan. Bên kia buổi lễ
cưới của những cặp vợ chồng trẻ ở cana, thánh sử muốn hướng tầm nhìn của ta vào
cảnh khai trương một cuộc lễ khác, cho những tiệc cưới khác: Lễ cưới của Thiên
Chúa với dân Người trong Đức Giêsu Kitô Con Người, mà các ngôn sứ đã loan báo.
2. Từ nước của
luật cũ... đến rượu nho của giao ước mới.
Càng chú ý đọc
bài tường thuật này, người ta càng thấy rõ góc độ biểu tượng này.
- Gioan đã đặt
biến cố vào "ngày thứ ba". Có phải coi biểu xác định thời gian vắn
vỏi được nói ở đây, theo J.B. Michaud hiểu, là muốn đưa về mạc khải mà Gioan có
ý nói đến ở 1, 51 chăng? Nói cho đúng, theo như X. Léon-Dufour, há người ta
chẳng đọc thấy ở đây ý hướng của người kể chuyện là rnuốn cho câu chuyện này có
liên hệ với những biến cố vĩ đại của lịch sử thánh cũng xảy ra vào "ngày
thứ ba" như: hiến tế Isaac, trong St 22,4, Chúa hiện ra trên núi Sinai
trong Xh 19, 11 đấy sao? Việc "xác định ngày tháng" này có lẽ muốn
loan báo "một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giao ước"
(Lecture de l'Evangile selon Jean, cuốn 1, tr. 222). Sau cùng, như A.
Marchadour gợi ý, phải chăng việc ghi chú "ngày thứ ba" như thế muốn
gợi nhớ lại biến cố Phục sinh, ngày thứ ba lúc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang, và
lúc ấy các môn đệ đã tin.
- "Họ hết
rượu rồi", lời nói này của "thân mẫu Đức Giêsu" bỗng dưng khiến
người ta phải chú ý.
+ Ta đừng quên
rằng rượu nho là đồ uống trong ngày lễ, nhất là lễ cưới thường kéo dài nhiều
ngày nên phải lo dự trữ sao cho đủ rượu nho cũng là biểu tượng các tiệc cưới
mang tính thiên sai giữa Thiên Chúa với dân Israel mà các ngôn sứ hằng ca ngợi
và trông đợi.
+ Sự cố thiếu
rượu là điểm khởi đầu câu chuyện. Tác giả không quan tâm đến lý do của sự thiếu
rượu cho bằng ý nghĩa biểu tượng của sự kiện đó: nỗi khốn khó và lòng dân
Israel trông đợi ân huệ Chúa ban.
+ Chính Đức
Maria "thân mẫu Chlía Giêsu" - Gioan luôn dùng từ này để gọi Đức
Maria - có sáng kiến báo cho Đức Giêsu biết nhà đám thiếu rượu.
- "Thưa Bà,
chuyện đó can gì đến Bà và con". Câu trả lời là khá bí ẩn.
+ Trước hết Đức
Giêsu xưng hô với mẹ Người không phải bằng tiếng "má" (imma), tương
đương với tiếng "ba" (abba), mà lại dùng tiếng "Bà".
Ta đừng coi đây
như một lời lẽ thiếu kính trọng nào đó, cũng đừng coi đó là một lúc bực mình
bột phát. Kiểu gọi Đức Mẹ như thế ở đầu Tin Mừng Gioan và một lần nữa ở cuối
Tin Mừng, khi ở trên Núi Sọ thiết tưởng nên được đặt ở một bình diện tương quan
khác với bình diện của đời thường và của gia đình.
+ Rồi phần tiếp
theo của câu trả lời càng củng cố điều ta vừa nói ở trên: "Chuyện đó can
gì đến Bà và con". Đó là một kiểu nói Do Thái nhằm từ chối một sự can
thiệp chưa hợp thời, chưa đúng lúc, đồng thời cho thấy có sự hiểu lầm giữa
người nói và người nghe. Các dịch giả và các nhà chú giải Kinh Thánh thì cố
gắng lựa lời để làm dịu đi vẻ cứng cỏi của kiểu nói này. Như A. Marchadour gợi
ý, cách trả lời của Đức Giêsu, phải chăng là "tạo một khoảng cách: Chúa
muốn thúc giục thân mẫu Người đi xa hơn, vượt lên chức năng làm mẹ theo huyết
nhục, để sinh ra làm người môn đệ nữa" (Sđd, tr. 56).
- "Người
bảo gì, các anh cứ việc làm theo", Đức Maria nói ngay với những gia nhân.
Hưởng ứng lời kêu gọi của con, Đức Maria đã vượt khoảng cách để trở thành người
môn đệ đầu tiên.
Mấy lời trên đây
mà bài tường thuật đặt vào môi miệng Đức Maria chứa chất biết bao ký ức xa xăm
về Kinh Thánh:
+ Nó gợi nhớ lời
vua Pharaô nói với dân Ai Cập đến xin lương thực: "Hãy đến cùng Giuse,
Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (St. 41,55). Hình ảnh Đức Maria mờ
nhạt đi trước Đấng đang làm ứng nghiệm những lời tiên tri loan báo, một Giuse
mới đang cho dân ăn, đưa dân từ thiếu thốn đến sung túc.
+ Nó gợi nhớ lời
đáp lại của dân Chúa trước đề nghị của Giao Ước khi tụ họp ở núi Sinai:
"Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo" (Xh. 19.8). Ở
đây, ngay lúc khởi đầu Giao ước mới, thánh sừ đặt vào môi miệng Đức Maria lời
tuyên xưng đức tin của dân đượlc tuyển chọn. Thánh sử giới thiệu Ngài là hình
ảnh của Israel mới.
Bài tường thuật
tiếp tục "Ở đó, có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục
người Do thái". Thật là kỳ lạ, thay vì những vò đất nung hay những bình da
người ta dùng đựng rượu trong tiệc cưới Cana, và những bình ấy chắc hẳn đã cạn
hết rượu rồi, thì Đức Giêsu lại bảo những người giúp việc đổ đầy nước vào các
chum đá vốn không đựng rượu, mà đựng nước dùng vào việc "thanh tẩy theo
thói tục người Do Thái". Và chính từ những cái chum đá đổ đầy nước
"tới miệng" này (chừng 700 lít) mà các gia nhân sẽ múc rượu ngon ra,
thứ rượu ngon hơn rượu đãi lúc đầu, "người quản tiệc" xác nhận như
vậy.
Việc nước hóa
thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê tượng trưng cho Luật cũ chuyển qua
Luật mới. Rượu nho của thời đại cứu thế thay thế cho nước của giao ước đầu
tiên.
3. Từ khởi đầu
các dấu lạ ... đến "Giờ" thực hiện.
- Bài tường
thuật về tiệc cưới Cana mở đầu "Sách các dấu lạ" sẽ kết thúc ở 12,50,
để từ đó sẽ khởi đầu "Sách về Giờ của Đức Giêsu".
+ Thánh sử lưu
ý: chúng ta đang ở vào thời kỳ "khởi đầu các dấu lạ". Khi làm
"dấu lạ" đầu tiên này, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các người thân của
mình biết thân thế và sứ mệnh của Người. Cana đánh dấu bước thứ nhất trên con
đường đức tin của các môn đệ: "Các môn đệ đã tin vào Người".
Nhiều "dấu
lạ" khác sẽ theo sau: hóa bánh ra nhiều (Ga 6), chữa người mù bẩm sinh (Ga
9), cho Ladarô sống lại (Ga 11) sẽ triển khai mạc khải ban đầu kia và góp phần
làm nên những chặng đường trong hành trình đức tin của các môn đệ. + Nhưng
"Giờ Người chưa đến", Đức Giêsu tuyên bố như thế. Giờ nhiệm mầu ấy sẽ
đan xen cả giờ khổ nạn, giờ được tôn vinh, lẫn giờ tràn đầy ơn ban của Chúa
Thánh Thần. Để rồi trong ánh sáng rạng ngời của mầu nhiệm Vượt qua, mọi ý nghĩa
đều được sáng tỏ và các môn đệ sẽ trở thành những con người gắn bó hoàn toàn
với Đức Giêsu, nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
+ Về phần
"thân mẫu Chúa Giêsu", Người "ở đó" để chứng kiến dấu lạ
khai mào Giao ước mới: "Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con?",
cũng như Người sẽ "ở đó, gần thập giá" (19,25) lúc "Giờ"
đóng ấn Giao ước mới trong máu, sẽ điểm, lúc ấy, Đức Giêsu sẽ nói với thân mẫu
Người rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà". Thân mẫu Đức Giêsu có mặt
lúc "khởi đầu" thì Người sẽ có mặt khi "hoàn tất" (cf.
19,30: "Thế là đã hoàn tất").
- Bài tường
thuật này được viết sau biến cố Phục sinh.
A. Marchadour
kết luận: "Phép lạ ở Cana, được viết cho các tín hữu đọc, vì họ là những
người đã có kinh nghiệm về niềm tin Chúa phục sinh là đã đoạn tuyệt với Do Thái
giáo. Kết cấu câu chuyện cho ta thấy rõ điều đó. Mở đầu và kết luận đặt người
đọc trong bối cảnh phục sinh... Toàn bộ bài tường thuật mô tả việc chuyển từ Do
thái giáo sang Kitô giáo được thực hiện như thế nào trong Đức Giêsu.
Thân mẫu Đức
Giêsu có mặt ở đó có nghĩa là nhờ Người mà lễ hội giao duyên giữa Thiên Chúa và
loài người trở thành khả dĩ. Người dẫn đưa Israel mới (mà các gia nhân ở đây là
biểu tượng) đến cùng Đức Giêsu. Nhưng khi nói với gia nhân: Người bảo gì, các
anh cứ việc làm theo", thì chính Người lại đóng vai người phụ nữ, hình ảnh
Israel mới phải phục tùng con mình. Rượu vừa nhiều vừa ngon ám chỉ rằng thời
đại Đấng Cứu Thế vui như ngày hội đã bắt đầu và từ nay rượu sẽ không bao giờ
thiếu. Một giáo phụ tự hỏi: "Người ta đã uống cạn chăng? Không, vì hiện
giờ chúng ta vẫn còn uống" (Sđd, tr. 58).
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Rượu
nho mới"
(G. Bessière,
trong "Dieu si proche. Năm C", DDB, trg 83-84).
Đức Giêsu có mặt
trong tiệc cưới mừng cho tình yêu của cặp trai gái làng Cana. Người sắp làm
phép lạ đầu tiên trong tiệc vui này. Bài tường thuật của thánh Gioan về tiệc
cưới ấy dọi một tia sáng vào quá khứ của Israel, vào tương lai của Đấng Chúa
sai đến và vào đời sống của Giáo Hội.
Thời Môsê, Êlia,
Êlisê, Thiên Chúa đã làm những dấu lạ để củng cố sứ mệnh của các vị ấy thế nào,
thì Người cũng sắp chứng thực sứ mệnh của Đức Giêsu như vậy khi cho Người thực
hiện những tiệc lạ lùng: đó chính là những "dấu chỉ". Trong Kinh Thánh,
rượu nho thường là biểu tượng ơn khôn ngoan do Lời Chúa ban cho. Rồi đây Đức
Giêsu sẽ là Người được ban tặng ơn ấy một cách dồi dào và triệt để.
Đức Giêsu hóa
nước thành rượu trong sáu chum đá dùng cho nghi thức thanh tẩy mà người Do Thái
vốn tuân giữ rất cặn kẽ; chi tiết này ám chỉ rằng Đức Giêsu sắp mang đến một sự
canh tân cho Do Thái giáo. Lúc ấy, ở đó có sáu cái chum: số sáu được coi như
con số không hoàn toàn muốn chỉ tỏ rằng quá khứ phải nhường chỗ cho một tương
lai mới.
Sách các Ngôn sứ
thường ví dân được tuyển chọn như một hôn thê bất trung, bội tín. Nên với sự
hiện diện của Đức Giêsu, bây giờ là lúc những tiệc cưới giữa Thiên Chúa và nhân
loại đã dứt khoát bắt đầu. Đây là những tiệc cưới mà "Giờ" chưa đến:
tiệc của rượu nho trong bữa Tiệc ly và của máu trên thập giá, tiệc Thánh Thể,
trung tâm đời sống của Giáo Hội vẫn tiếp tục ca tụng thứ rượu nho của những
tiệc cưới đời đời.
Đức Giêsu chính
là rượu nho được Thiên Chúa ban một cách hào phóng là là giao ước luôn luôn
mới.
2. Vương quốc
mới được khai trương
Ta phải vượt lên
Cana là buổi lễ ở làng quê hôm đó để có thể nắm bắt được những luồng tư tưởng
lớn của các ngôn sứ vẫn xuyên suốt lịch sử Thánh. Phải tìm lại những dấu chỉ
của giao ước là tất nhiên là những tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Việc Đức Giêsu
khởi sự làm những dấu lạ, rõ ràng loan báo vương quốc mới, triều đại của Đấng
Mêsia. Ngày ấy được ngôn sứ Isaia mô tả là ngày mà Chúa toàn năng sẽ khoản đãi
một bữa tiệc thịnh soạn đầy thịt cùng các món hảo hạng với rượu ngon nổi tiếng...
Ngày ấy người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta. Chính Người là Đức Chúa
chúng ta từng trông đợi" (Is 25, 9).
Vương quốc mới
được khai trương Đấng cứu độ được loan báo và được hứa cuối cùng thì cũng đã có
mặt đây rồi. Đã hết rồi những lề luật khắc khe, những nghi thức thanh tẩy được
tượng trưng bằng sáu cái chum, một con số nói lên sự bất toàn. Từ nay những cái
đó không còn giá trị nửa. Phải nhường chỗ cho một giao ước tình yêu; với giao
ước đó; Thiên Chúa trở nên rất gần gũi, gần gũi đến độ trở nên một người ở giữa
chúng ta. Phải nhường chỗ cho những niềm vui của tiệc cưới và cho thứ rượu nho
mới của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đến làm đảo lộn những tập quán, phá bỏ những
truyền thống và không quan tâm đến những thói vụ luật.
23. Chú giải của
Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TIỆC CƯỚI CANA
1. "Phúc âm
các dấu lạ" (2,1-12,36) bắt đầu với chủ đề mà phần cuối của lời tựa đã
loan báo: "Luật đã được ban nhờ Môisen, ân sủng và chân lý thì nhờ Đức
Giêsu Kitô mà có" (1,17). Chủ đề này gắn liền với việc canh tân phổ quát
mà thời thiên sai phải sống (Kh 21,5: "Này đây Ta dựng vũ trụ mới").
Nhưng đây không phải là một trật tự cổ xưa được hoàn thiện nhờ trật tự mới
(nhãn giới của Phúc Âm nhất lãm, nhất là của Mt); hai trật tự này đối nghịch
nhau, để làm nổi bật siêu việt tính của trật tự mới. Văn mạch cho thấy cuộc
tranh luận với dân Do thái là những kẻ luôn bám vào Môisen và không chịu nhìn
nhận Môisen là người chuẩn bị cho Chúa Giêsu (5,45t; 9,28t). Trật tự mới được
đức Kitô thiết lập, không phải là sự thành tựu của trật tự cũ, nhưng đối nghịch
với lề luật của Môisen mà dân Do thái lấy làm đủ. Trong đoạn này, trật tự mới
và cũ được xét đến trong toàn thể (2,1-11), hay trong những yếu tố chính yếu:
việc phượng tự (2,13tt; 4,20tt), việc tái sinh (3,5tt; 4,14).
Thật vậy, trong
4 chương đầu tiên, Chúa Giêsu cố gắng cho thấy, chính Ngài có bổn phận thiết
lập một nhiệm cục mới trổi vượt giao ước cũ. Trong lời tuyên bố long trọng cùng
Nathanael (1,51): "Người Israel đích thực không có gian dối trong
mình" (1,47), Chúa Giêsu hứa cho Israel mới thấy các thiên thần lên xuống,
không phải lên một nơi nào đó như ở Béthel (Stk 28,10-17), nhưng trên con người
được tôn vinh, Đấng sẽ là "nhà Thiên Chúa và cửa thiên đàng" trong
nhiệm cục cứu rỗi Kitô giáo. Trình thuật tiệc cưới Cana nhắm đến giao ước mới,
và rõ ràng hơn nữa nhắm tới rượu thiên sai của bí tích Thánh Thể; việc đuổi dân
buôn bán ra khỏi đền thờ làm nghĩ đến ngôi đền thánh hoàn hảo là thân xác Đấng
phục sinh: cuộc đối thoại với Nicôđemô bàn đến vấn đề tái phát sinh phát xuất từ
Thánh Thần; cuộc tiếp xúc với bà xứ Samaria đặt đối nghịch phụng tự cổ xưa với
phụng tự mới trong tinh thần và chân lý.
2. Đoạn văn đơn
sơ của chúng ta (xảy ra trong bối cảnh buổi lễ cưới nhà quê) xem ra đơn sơ, và
người ta có khuynh hướng đồng hóa nó với những trình thuật phép lạ trong phúc
âm nhất lãm. Tuy nhiên câu kết luận (2,11) tiềm tàng những dấu hiệu đặc thù của
Gioan - "dấu lạ đầu tiên" "Ngài tỏ vinh quang"; "Các
môn đệ tin vào Ngài" - Những đặc điểm này mời gọi độc giả, qua những hình
thức bề ngoài, khám phá tầm mức đích thực của hoạt động Chúa Giêsu. Ngoài câu
trả lời của đức Kitô với mẹ Ngài (2,4) xem ra bí mật và nghiêm khắc, và người
ta cũng không hiểu gì hơn sau việc can thiệp của Maria. Tuy nhiên, xem ra Maria
không lo lắng, và Chúa Giêsu cuối cùng đã làm phép lạ, mà thoạt tiên tưởng như
Ngài từ chối.
Về đoản văn này,
có nhiều cách giải thích, thường hoàn toàn xa lạ với nhãn giới Gioan. Các nhà
chú giải công giáo đã nghiên cứu đoản văn này dưới khía cạnh thánh mẫu học
(mariologique). Để có thể hiểu đoạn này cần phải tôn trọng hai nguyên tắc hiển
nhiên: một là đoản văn phải được soi sáng nhờ văn mạch của Gioan, hai là phải
phân biệt cách thức trình bày (niveau rédactionnel) và thực tế cụ thể (niveau
anecdotiquec) của các sự kiện lịch sử. Chúng ta thử xem đâu là những đặc điểm
của nhãn giới Gioan (trình độ biên tập).
a/ Ý nghĩa biểu
tượng của phép lạ này. Gioan gọi phép lạ này là một dấu chỉ (c.11), như những
phép lạ khác. Dĩ nhiên các dấu lạ khác của phúc âm thứ tư cũng có một giá trị
biểu tượng: việc hóa bánh ra nhiều minh chứng Chúa Giêsu ban bánh hằng sống và
chính Ngài là bánh ấy (6,36.51), việc chữa lành người mù từ khi mới sinh nhằm
biểu lộ Chúa Giêsu như "ánh sáng trần gian" (9,5); việc Lazarô sống
lại minh xác Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống (11,25). Như vậy, nước,
rượu và việc hóa nước thành rượu phải ám chỉ những thực tại vượt quá bề ngoài
hữu hình. Nước biểu thị trật tự tôn giáo Do thái: như thánh Gioan lưu 6 chum đá
được "dùng theo tục lệ thanh tẩy của người Do thái" (c.6) và chúng ta
biết những nghi lễ thanh tẩy là một trong những đặc tính chính việc sống đạo
của dân Do thái (Mc 7,3t). Ngược lại, chính Chúa Giêsu đã nói đến rượu thuộc
trật tự tôn giáo mới mà Ngài thiết lập (Mc 9,17 và song song); chén rượu, trong
bữa tiệc ly, được liên kết với việc thiết lập giao ước mới (Mt 26,27-29 và song
song); Cựu Ước đã biết đến rượu, biểu tượng của hạnh phúc cánh chung (Stk 49,
11t; Is 21,6; J 14,18). Do đó dấu lạ Cana biểu thị việc thay thế toàn trật tự
tôn giáo cổ xưa, bằng trật tự tôn giáo mới. Lượng rượu trùng hợp với sự phong
phú của ân sủng (1,16) và sự sống (7,38) mà Gioan đề cập như là đặc điểm của
trật tự mới được đức kitô thiết lập.
b/ Những người
đối thoại với Chúa Giêsu thường không hiểu. Trong phúc âm thứ tư, những người
tiếp xúc với Chúa Giêsu thường chỉ lưu tân đến vấn đề vật chất: dân Do thái chỉ
thấy đền thờ được xây cất từ 46 năm (2,20); Nicôđem hạn hẹp trong sự sinh sản
thể lý (4,13-14); bà xứ Samari chỉ nghĩ đến nước giếng Giacop (4,11-12.15); dân
Do thái xin phép lạ bánh Manna (6,30tt). Chúa Giêsu cố gắng đưa các đối thoại
viên đến một trật tự khác, nhưng thường không mấy ai hiểu Ngài. Tại sao? Vì
Ngài là con người siêu việt "từ trời xuống" (3,13.31). Con người và
sứ điệp của Ngài vượt quá trí hiểu loài người. Họ chỉ có thể hiểu, nhờ sự trợ
giúp của Thánh Thần (16,12-14), Đấng chỉ được ban sau khi đức kitô hiển vinh
(7,39).
Vì thế, không lạ
gì khi mẹ Chúa Giêsu không hiểu điều con mình nói (2,4). Lc 2,48 cũng ghi lại
một chuyện tương tự. Cũng như các đối thoại viên của Chúa Giêsu, trong phúc âm
thứ tư, Maria một cách nào đó ở vào một bình diện xa cách Con mình. Do đó, khi
gọi mẹ là "Bà", Chúa Giêsu muốn đồng hóa mẹ với các người Ngài gặp.
c/ Sáng kiến làm
phép lạ. Những phép lạ Chúa Giêsu ghi lại không bao giờ được thực hiện theo ý
người xin. Viên sĩ quan xin Chúa đi chữa lành con mình, phải tin Ngài, dù ở xa,
đã chữa lành bằng lời Ngài phán (4,50). Người bất toại chỉ mong có người giúp
anh đi xuống hồ nước, và này Chúa Giêsu đã chữa lành anh bằng lời Ngài (5,7-9).
Chính Chúa Giêsu tự quyết định nuôi dân (6,5-13) và chữa lành người mù từ khi
mới sinh ra (9,3-7). Chị em Lazarô nài xin Chúa Giêsu đến chữa lành em mình,
nhưng Ngài vẫn ở lại chỗ thêm hai ngày (11,3-7), để rồi sau đó cho Lazarô sống
lại.
Đức Kitô trong
phúc âm Gioan không bao giờ trói buộc vì lời con người nài xin. Đường Ngài phải
đi, và ngay cả những hoàn cảnh nhỏ nhặt, đều được Cha Ngài chỉ định, chứ không
phải ai khác. Do đó, Chúa Giêsu không thể dễ dàng chấp thuận sự "chạy
chọt" của mẹ Ngài. Ngài làm phép lạ, do sáng kiến của Ngài, hay đúng hơn
dưới sự hướng dẫn của Cha. Vì thế trước tiên Chúa Giêsu không chịu làm theo ý
Maria (2,4), được khi xem ra sau đó Ngài hành động theo ý mẹ xin. Phép lạ làm
Maria phỉ nguyện, nhưng không phải phép lạ được làm vì đã được xin.
3. Do đó, đây là
ý nghĩa tổng quát có thể gán cho đoạn này. Ở câu 3, Maria trình bày một sự kiện
để xin Chúa Giêsu giúp. Việc trình bày này có hai ý: bề ngoài, là xin Chúa
Giêsu giúp đôi tân hôn về mặt vật chất; nhưng việc hóa bánh thành rượu nói lên
việc thay thế trật tự tôn giáo cổ xưa bằng trật tự tôn giáo mới. Chắc chắn
Maria chỉ thấy ý nghĩa thứ nhất của lời nài xin của mình.
Tất cả mọi cố
gắng hòa dịu câu 4 đã làm mất siêu việt tính của Chúa Giêsu và lòng vâng phục
tuyệt đối của Cha Ngài. Câu trả lời của Chúa Giêsu rõ ràng là lời từ chối hành
động theo sự can thiệp của mẹ Ngài. Dù cho mẹ là người thân nhất, xét theo mặt
thể lý, tuy nhiên theo bản tính bà thuộc trần gian này, còn Ngài thuộc thế giới
trên cao. Do đó, Ngài có thể gọi mẹ là "Bà" như mọi người ở dưới thế
này và nói lên sự bất liên quan giữa hai người. Chắc chắn là vì Maria còn ở
dưới thế này, Bà không thể hiểu rằng việc thay đổi mà Bà nài xin cách vô thức
chỉ có thể thực hiện theo quyết định của Chúa Cha, vào giờ tôn vinh Con Ngài.
Tuy nhiên, không
nên hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu như một lời trách mắng mẹ Ngài. Đức Kitô
chỉ xác quyết siêu việt tính của Ngài và cách mặc nhiên sự lệ thuộc hoàn toàn
đối với Cha Ngài. Vì thế, Ngài từ chối thi hành điều Maria xin cách vô thức.
Dù không hiểu,
Maria luôn tin tưởng vào Con và trao phó cho Ngài tất cả công việc (c.5). Bấy
giờ Đức Kitô hoàn thành cách tự phát phép lạ, vì Cha Ngài ưng muốn và chuẩn y.
Phép lạ này chưa phải là dấu chỉ tuyệt hảo được thực hiện vào giờ tôn vinh Chúa
Giêsu nhưng là một tiền dấu chỉ. Để nhấn mạnh tầm mức của hình ảnh tiền trưng
này, Gioan nhắc đến phẩm và lượng của thứ rượu mới.
Vai trò của
Maria trong đoạn này xem ra đáng ngạc nhiên. Chắc chắn rằng Maria hoàn tất một
nhiệm vụ phụ thuộc. Mẹ không chỉ cho Chúa Giêsu thái độ phải có, nhưng lời nài
xin của Mẹ dù sao cũng trở nên cơ hội cho dấu chỉ đầu tiên của Chúa Giêsu, tiên
báo sẽ có một dấu chỉ ở tột đỉnh của sứ vụ Ngài. Vào giờ tuyệt đỉnh này, Gioan
lại giới thiệu Maria nhưng lần này như là mẹ của mọi môn đệ. Sự hiện diện của
Maria ở đầu và cuối sứ vụ của Chúa Giêsu - hai lần duy nhất mà mẹ xuất hiện
trong phúc âm thứ tư - có thể ám chỉ một thứ trung gian trong việc thiết lập
một trật tự mới.
KẾT LUẬN
Khi trình bày
hành vi khai mạc sứ vụ ấy của Đức Kitô, Gioan đã gợi cho chúng ta thấy Đức Kitô
có sứ vụ chính yếu là thiết lập giao ước mới và vĩnh viễn với Israel đích thật:
Ngài là vị hôn phu thần linh sửa soạn cho vị hôn thê thiêng liêng "quang
vinh, không một tì ố hay nét nhăn, nhưng thánh thiện vô tì vết" (Eph 5,27)
để giới thiệu nàng vào Ngày sau hết, hầu sống với tân nương cuộc Hôn nhân vĩnh
cửu. Nhưng cuộc hôn nhân trên trời này đã được khai mào ngay từ bây giờ, vì Hôn
phu đã có mặt và đã có tân nương - Giáo hội (3,29), được nhân cách hóa trong
Maria và các môn đệ.
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1. Trong Cựu
Ước, Thiên Chúa tự xưng là hôn phu của Israel như bài học thứ nhất ngày hôm
nay. Từ đó, Cựu Ước đã trình bày việc chọn lựa những không của Thiên Chúa, sự
ân cần chăm sóc của Chúa đối với Israel, lòng nhẫn nại vô bờ của Ngài, Lời Ngài
mời gọi hối cải tâm hồn, mời gọi sống thân mật tuân phục và yêu mến. Đức Kitô
là vị hôn phu của Giáo hội (Eph 5,22-23), điều mà Khải huyền cũng diễn tả khi
nói đến tiệc cưới giữa Con Chiên (Đức Kitô) với Giêrusalem lý tưởng từ trời
xuống (Giáo hội). (Kh 21,9). Đức Kitô chọn Giáo hội làm hôn thê thiêng liêng
của Ngài. Ngài hiến cuộc sống mình cho Giáo hội, thanh tẩy Giáo hội bằng nghi
thức tắm hôn lễ (tục lễ cổ xưa của lễ nghi hôn nhân), ban đầy ơn cho Giáo hội,
dưỡng nuôi Giáo hội nơi bàn tiệc Thánh Thể. Chính khi cử hành bàn tiệc Thánh
Thể mà Giáo hội chuẩn bị dự tiệc thiên quốc và việc biểu lộ vinh quang của
Chúa.
2. Chúa Giêsu
sửa soạn việc thiết lập hôn nhân Kitô giáo bằng sự hiện diện ở tiệc cưới Cana,
cũng như sau này Ngài sẽ thiết lập bí tích rửa tội bằng việc dìm thân xác thánh
hiến của Ngài trong nước sông Hòa giang, khi được vị Tiền hô làm phép rửa.
Người ta thấy tính cách tả chân của Gioan: Ngôi Lời Thiên Chúa chia xẻ niềm vui
của hôn lễ thôn quê.
3. Chúa Giêsu
hiện diện ở mọi lễ hôn phối cử hành trong Giáo hội, vì chính Ngài là Đấng thông
ban ân sủng cho đôi tân hôn nhận lãnh bí tích. Maria cũng tham dự với tư cách
trung gian của mọi ân sủng. Đây không phải là hình ảnh của Giáo hội, trong đó
đang cử hành nghi thức hôn lễ sao? Bàn tiệc cưới thật sự là bàn tiệc Thánh Thể.
Với bàn tiệc thánh này, đôi tân hôn được mời đến tham dự, để luôn giữ mình sống
đúng những lời đoan hứa.
4. Sự lưu tâm tế
nhị của Chúa Giêsu và mẹ Maria đã làm cho đôi tân hôn ở Cana khỏi mất mặt, minh
chứng cho những người sống bậc vợ chồng, biết rằng Chúa quan phòng luôn nhìn
đến gia đình của họ, bằng hành động của Chúa Cứu thế và mẹ Ngài.
5. Maria xuất
hiện ở Cana như mẹ Chúa Giêsu, Hôn Thê của Chúa và như là người Phụ Nữ tham gia
vào công cuộc cứu rỗi thay thế cho Evà thất trung. Sự hiện diện của mẹ Maria
trong đời sống chúng ta là một chú ý thường xuyên của Mẹ đến các nhu cầu của
chúng ta nhờ sự hiểu biết mà Mẹ có được trong Thiên Chúa về những hoạt động, tư
tưởng và tình cảm của chúng ta, và nhờ tình thương của mẹ đối với chúng ta.
Chúng ta hãy vui sống dưới ảnh hưởng của Mẹ và hãy đón nhận Mẹ trong nhà chúng
ta.
6. Can thiệp của
Mẹ Maria bên Chúa Giêsu: Maria là người trình bày cho Thiên Chúa và Con của
Người những nhu cầu của loài người. Bài ca Salve Regina gọi Người là trạng sư
của chúng ta.
7. Mệnh lệnh của
Mẹ Maria "Ngài có bảo gì, hãy làm theo": biểu lộ cho con người thánh
ý Thiên Chúa. Qua những lời khuyên cũng như gương sáng của Người, mẹ Maria chỉ
cho chúng ta đường dẫn đến Con của Người.
8. Maria góp
phần vào việc hình thành nhóm môn đệ đầu tiên của Con mình, khi ôm ấp họ cùng
với Con của Người trong tình mẫu tử. Là tín hữu của Đức Kitô, cũng là môn đệ
Ngài, chúng ta hãy biết rằng mình là con cái của đức Maria - điều này đã được
nói rõ ràng trên thập giá, khi Chúa Giêsu trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Ước gì
mẹ Maria dẫn đưa chúng ta, với một đức tin được canh tân, vào mầu nhiệm của Đức
Kitô, cho đến ngày chiêm ngưỡng vinh quang Ngài.
23.- Ngữ cảnh
TIEC CUOI
Về đoạn văn Ga
2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana mở ra một phân
đoạn mới (gọi là "Sách các dấu lạ", ch. 2–12) hoặc khép lại một bài
tựa mang tính tường thuật (1,19–2,12)?
Chúng tôi chọn
đặt truyện Cana vào cuối bài tựa tường thuật. Trong ch. 1, sau Bài Tựa
(1,1-18), tác giả giới thiệu gương mặt vị Tẩy Giả, vị chứng nhân, "bạn của
chàng rể" (3,29), người ban phép rửa để "Người [= Đức Giêsu] được tỏ
ra cho dân Ít-ra-en" (1,31). Sứ mạng của Gioan là bày tỏ chân tính thiên
sai của Đức Giêsu. Vì lý do này, Anrê và một môn đệ nữa đã đi theo Thầy
(1,35-40). Anrê lại đi gặp Simôn và bảo: "Chúng tôi đã gặp Đấng
Mêsia" (1,41); chuyện cũng như thế đã xảy ra với Nathanaen (1,45-51). Tất
cả kết thúc tại Cana, với việc chính Đức Giêsu tỏ vinh quang ra (2,11).
Còn có những lý
do khác khiến phải đi theo chiều hướng này. Có thể kể ra hai lý do: 1) Cách
tính các ngày làm thành một tuần. "Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến
về phía mình" (1,29). "Hôm sau ông Gioan lại đứng đó" (1,35).
"Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê" (1,43). Cuối cùng,
"ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền Galilê" (2,1). Đây đúng là
một tuần, và tiệc cưới đã xảy ra vào ngày thứ bảy. 2) Cần ghi nhận việc tác giả
tích lũy các danh hiệu Kitô học. Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa"
(1,29.36), "Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần" (1,33), là
"Rabbi" (1,38.49), là "Đấng Mêsia" (1,41), là "Con
Thiên Chúa, vua Ít-ra-en" (1,49). Rõ ràng các danh hiệu này là một tổng
hợp việc mạc khải mầu nhiệm Đức Kitô. Điểm tới của cụộc tỏ mình này là Cana:
"Đức Giêsu tỏ vinh quang của Người" (2,11). Việc Đức Giêsu tỏ mình ra
tương ứng với việc các môn đệ đáp lại: "Và các môn đệ đã tin vào Người"
(2,11). Tới đây, cộng đoàn các môn đệ gồm những người tin đã thành hình; Đức
Giêsu có thể bắt đầu đời sống công khai.
Vậy có thể coi
đây là Dẫn nhập bằng một dấu lạ lịch sử: Truyện Tiệc cưới Cana kết thúc phần
Dẫn nhập và đưa vào "Sách các dấu lạ của Đức Giêsu", nên có thể gọi
là đoạn văn "làm cầu".
2.- Bố cục
Bài tường thuật
được giới thiệu như là một "dấu lạ", nên có thể tìm bố cục theo cách
cấu trúc cổ điển của các phép lạ. Nhưng chúng ta có thể tìm ra bố cục theo cấu
trúc đồng tâm sau:
A = Phần tường
thuật (2,1-3);
B = Các đối
thoại (2,4-8):
Thân mẫu Đức
Giêsu và Đức Giêsu,
Thân mẫu Đức
Giêsu và các kẻ hầu bàn,
Đức Giêsu và các
kẻ hầu bàn;
A'= Phần tường
thuật (2,9-11).
3.- Vài điểm chú
giải
- Ngày thứ ba
(1): Chi tiết thời gian này có mục đích nối kết phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu
với núi Sinai (Xh 19,1.10-11.16) và cuộc Phục Sinh (Ga 2,19-22; x. 7,30;
8,20...).
Như thế, Cana
một đàng là phiên bản của những gì đã xảy ra tại núi Sinai, đàng khác, là một
lời tiên báo mào đầu cho mạc khải tối hậu phát xuất từ cuộc Phục Sinh của Đức
Kitô.
- tại Cana miền
Galilê (1a và 11a): Trong Tân Ước, thành này chỉ được Ga nhắc tới (x. cả 21,2).
Thông thường người ta nghĩ đến Khirbet Qana, cách Nadarét 15 cây số. Đây là nơi
hẻo lánh, không mấy quan trọng.
- Có tiệc cưới:
Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần (ba ngày:
trường hợp một quả phụ tái giá). Khung cảnh tiệc cưới nối kết câu truyện Cana
với đề tài quen thuộc trong Cựu Ước: hôn lễ của Đấng Mêsia với Dân Người. Trong
TM IV, Gioan Tiền Hô sẽ giới thiêu Đức Giêsu là chàng rể (3,29); còn trong các
TMNL, Đức Giêsu tự coi mình là chàng rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34), và đã mô
tả Nước Trời như một tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng, sách Kh cũng vận dụng
tới đề tài này để diễn tả sự kết thúc thời hiện tại và sự khai mở thời tương
lai (Kh 19,7-9; 21,2; so với Ep 5,22tt). Theo tập tục, chính chàng rể cung cấp
rượu (x. c. 10).
- có thân mẫu
Đức Giêsu: Đức Trinh Nữ được giới thiệu là "thân mẫu Đức Giêsu", rồi
ở c. 4, Đức Giêsu lại gọi mẹ là "bà". Một sự cố tương tự lại xảy ra
trên Núi Sọ trong Ga 19,25-27; như vậy, câu truyện Núi Sọ có những điểm chung
với câu truyện Cana. Có thể coi hai câu truyện này làm nên một thứ cấu trúc
"đóng khung".
- Họ hết rượu
rồi (3): Người ta đã muốn coi lời này chỉ là ghi nhận một sự kiện. Tuy nhiên,
có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ
với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin
Đức Giêsu một điều gì đó.
- Thưa bà
(gynai) (4): Một người Do Thái gọi mẹ là 'immâ, "mẹ của con". Vì thế
danh hiệu "bà" (gynê; femme, woman) được Đức Giêsu dùng mà gọi Đức
Maria có vẻ kỳ lạ. Trong thực tế, Đức Giêsu cũng sử dụng danh xưng ấy để gọi
các phụ nữ khác trong TM IV (4,21: bà Samari; 20,13: bà Maria Mácđala) và trong
các TMNL (Mt 15,28; Lc 13,12). Dù sao, đối chiếu với Ga 19,25-27, danh xưng này
không thể có một ý nghĩa tiêu cực. Rất có thể qua tiếng "bà" (E.
Farahian đề nghị dịch trong tiếng Ý là "signora"), Đức Giêsu đề ra
một cách công khai hơn để gọi mẹ ruột của mình tại nơi công cộng. Ngoài ra, với
từ ngữ này, chắc chắn ở bình diện biểu tượng, có một gọi ý đến cuộc tạo dựng:
Đức Maria xuất hiện ra như là Evà mới, hoặc hơn nữa, như là đại diện của dân
Israel, hoặc tốt hơn nữa, như là Israel đích thật.
- Chuyện đó can
gì đến bà và con? (4): dịch sát: "Giữa tôi và bà, nào có việc gì?"
(NTT). Ti emoi kai soi (Hp: mah-li wâlâk): Đây là cách diễn tả quen thuộc trong
văn chương Hy Lạp, Rô-ma và Sê-mít để diễn tả sự ưng thuận hoặc bất thuận giữa
hai hoặc nhiều người. Chỉ có văn cảnh mới giúp thấy rõ các sắc thái của mỗi
trường hợp.
- Giờ của con
chưa đến (4): Nếu quan tâm tới ý nghĩa của thuật ngữ "Giờ của Đức
Giêsu" theo TM Ga, và tới giá trị biểu tượng của rượu, chúng ta sẽ thấy
rõ. "Giờ của Đức Giêsu" là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh; còn rượu tượng
trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn
khi đến "Giờ" Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga
13,1).
- Rượu (3): Cựu
Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho
chúng ta các ý nghĩa của "rượu".
* Thời thiên sai
và cánh chung:
Các ngôn sứ nói
rằng khi Thiên Chúa quy tụ con cái tản mác lưu đày về và cho họ được định cư,
rượu và các sản phẩm khác sẽ được ban cho họ dư dật (Am 9,13; Ge 2,24; Gr
31,12; Ge 2,19-16). Rượu này lại có phẩm chất rất tốt (Hs 14,8; Is 25,6; Dcr
9,17). Rượu và sữa được tặng không (Is 55,1). Trong Hs 2,21-22 và Is 62,5, sự
phì nhiêu của hoa mầu ruộng đất được ghép vào hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên
Chúa và Dân Ngài. Cuộc hôn nhân này tượng trưng Giao Ước mới ký kết với con cái
Israel, được quy tụ về (Ge 31,8-10.31-37). Có hai bản văn trực tiếp mang tính
thiên sai, St 27,28-29 và St 49,10-12: Thời đại thiên sai được mô tả bằng một
giọng văn đầy hình ảnh: "rượu mới dồi dào" (St 27,28); muốn buộc con
lừa, Đấng Mêsia chỉ có dây nho; muốn giặt áo, Người chỉ có rượu; và rượu làm
cặp mắt Người ngời sáng (St 49,11-12).
Trong Diễm ca,
"rượu" được dùng 8 lần để tượng trưng tình yêu nồng nàn của đôi nam
nữ (Dc 1,2-4; 2,4; 4,10; 5,1; 7,3-10; 8,2).
* Rượu và Lời
Thiên Chúa:
Trong Cựu Ước,
Luật Môsê (hoặc Lời Thiên Chúa) được đặt trong quan hệ với rượu, trong hai
đoạn: Gr 23,9 và Cn 9,25. Sự Khôn Ngoan đã dọn tiệc và mời khách, thật ra là
Luật Môsê. Theo truyền thống Kinh Thánh, vị hiền nhân là người suy gẫm và đào
sâu Torah. Và rượu của sự Khôn Ngoan là Luật Thiên Chúa. Trong Hc 24,17, sự
Khôn Ngoan lại tự ví mình với một cây nho (x. Ga 15,1). Như vậy, ta có chuỗi
các khái niệm: Torah = Khôn Ngoan = cây nho = rượu.
* Rượu là biểu
tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích:
a) Truyền thống
Do Thái giáo:
Rượu còn được
coi như là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích: Vị này được người
ta chờ mong như một vị thầy chuyên môn về Luật Môsê (x. Targ Dc 8,12). Còn khi
bản Midrash St R 98,9–49,11 nói rằng Đấng Mêsia "... giặt áo mình trong
rượu" (St 49,11), điều này có nghĩa là Người sẽ viết lại những câu Luật
cho người nhà mình, tức sẽ đề nghị những ý nghĩa và lối giải thích Torah. Còn
Người giặt "áo choàng trong máu của nho", có nghĩa là Người sẽ sửa
chữa các lối giải thích sai lạc.
b) Tân Ước: x.
Mt 5,17.21-22.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44. Các TMNL ví giáo huấn của Đấng
Mêsia với rượu mới, Đức Giêsu là chàng rể của lễ cưới thiên sai. Rượu mới tượng
trưng cho Tin Mừng của Người, Mạc khải của Người; rượu này không thể pha trộn
với rượu cũ của Do Thái giáo (Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39).
* Giá trị biểu
tượng của rượu Cana:
Trong thần học
Gioan, Lời của Đức Giêsu là "Sự Thật" (Ga 8,31-32; 18,37;
17,8.14.17..), và điều quan trọng là Lời này được đồng hóa với chính Đức Giêsu:
"Thầy là Sự Thật" (14,6; x. 8,32-26). Tin Mừng của Đức Kitô được nhập
thể cách rõ ràng nhất nơi bản thân và trong những biến cố liên hệ tới bản thân
con người đang loan báo Tin Mừng này, là Ngôi Lời làm người: "Thầy là ánh
sáng, bánh ban sự sống, sự sống lại, sự sống...". Vậy, Lời của Đức Kitô là
Mạc khải của Người, Tin Mừng của Người.
Chúng ta nói
"rượu" tượng trưng Lời Đức Kitô là do những nhận định sau:
1) Cặp mẫu Sinai
– Cana:
Chuỗi những ngày
khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục
vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo
truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan (1,19-2,12). Theo một
chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với chóp đỉnh là việc Thiên
Chúa ban Torah tại Sinai, vào "ngày thứ ba".
"Ngày thứ
ba" của Cana tương ứng hoàn toàn với "ngày thứ ba"của Sinai.
Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào
"ngày thứ ba", thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người
khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào "ngày thứ ba"; rượu này tượng
trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người.
2) Động từ
"giữ" (c. 10):
Người quản tiệc
nói với tân lang: "... Còn anh, anh lại giữ (HL. tetêrêkas) rượu ngon cho
đến mãi bây giờ". Động từ "giữ" là động từ tiêu biểu của từ vựng
Gioan khi đề cập đến Lời–Điều răn của Đức Giêsu, và Lời này là Lời của Chúa
Cha. Tác giả Gioan đã dùng động từ ấy theo nghĩa này ít ra 25 lần (8,51-52;
14,23; 15,20; 17,6; Kh 3,8 / Kh 3,10 / 14,24 / 1 Ga 2,5 = 8,55 / Kh 1,3; x.
22,7.9 / Kh 2,26 / 1 Ga 2,3; 3,22.24; 5,3 / Kh 12,17 / Kh 14,12. Lưu ý: Mc chỉ
dùng 1 lần (Mc 7,9); Mt 3 lần (Mt 27,36.54; 28,4); Lc 1 lần (Cv 15,5).
3) Nước thanh
tẩy của tập tục Do Thái:
Rượu Đức Giêsu
ban lại lấy từ nước đựng trong các chum dùng vào "việc thanh tẩy theo thói
tục người Do Thái" (c. 6). Nước này không phải là nước phàm tục, mà là
nước dùng trong nghi lễ, để thanh tẩy các thực khách (x. Mc 7,2-5; Mt 15,2; Lc
11,38-39). Chính nước này được Đức Giêsu biến thành rượu. Điều này có nghĩa là
kể từ nay, "việc thanh tẩy" không còn được nối kết với việc giữ Luật
Môsê nữa (tượng trưng bằng nước trong sáu chum), mà là với việc giữ Tin Mừng
của Đức Kitô, giữ Lời của Người (tượng trưng bằng rượu ngon).
Thật ra, đây là
giáo lý của tác giả Ga về việc "thanh tẩy". Các môn đệ được
"thanh tẩy" nhờ Lời Đức Giêsu đã loan báo cho họ (15,3). Sứ điệp mạc
khải của Đức Kitô là Sự Thật có thể giải thoát các môn đệ khỏi nô lệ tội lỗi
(8,32.34-36). Người nào ở lại trong Đức Giêsu, bằng cách đón nhận Tin Mừng của
Người (Ga 15,7; 1 Ga 3,6) thì không phạm tội nữa, mà được thánh hóa (1 Ga 3,6).
Lời Đức Giêsu giống như một hạt giống (1 Ga 3,9; x. Lc 8,11; 1 Pr 1,23; Gc
1,18; 1 Cr 4,15). Nhờ tác động của Lời, người môn đệ có thể thắng sự dữ và ít sa
vào tội lỗi hơn (1 Ga 2,14). Đây là cách Đức Giêsu "xóa bỏ tội trần
gian" (1,29): Người "thanh tẩy" con người bằng Lời Sự Thật của
Người.
4) Rượu Cana,
biểu tượng của mạc khải cánh chung của Đức Kitô:
Rượu Cana không
những là hình ảnh của Lời mạc khải của Đức Giêsu, mà còn diễn tả chiều kích
cánh chung của Lời này, trong tư cách là Lời tối hậu và vĩnh viễn.
Chẳng hạn Ga
1,45: Philípphê nói với Nathanaen: "Đấng mà Sách Luật Môsê và các Ngôn Sứ
nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét".
Từ Môsê và các Ngôn sứ, ta chuyển qua Đức Giêsu. Đây là điều đã được nói ở
1,16-17. Dấu lạ Cana là một sự chuẩn nhận mang tính ngôn sứ cho niềm chờ mong
cánh chung xoáy vào con người Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu ra
lệnh đổ các chum "đầy tới miệng" (c. 7), điều đó không chỉ có nghĩa
là đổ nhiều tối đa, nhưng đặc biệt có nghĩa là "hoàn toàn". Sau Đức
Kitô, không còn có chuyện "còn nữa", "sau đó" hoặc
"thêm nữa". Lời Người làm đầy mức Mạc khải. Lời Người là "nguồn
sung mãn" (1,16). Tuy nhiên, sự sung mãn của Đức Kitô được thêm vào cho
một mức độ có trước (x. Dt 1,1). Rượu Người cung cấp được lấy từ nước của Do
Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Nhiệm cục Luật Môsê bị vượt quá về
chất lượng bởi Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn "mới" (Ga
13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô
hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa
Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn
tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng
có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú
giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là
"ngon (tốt)" (HL. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém
hơn (c. 10; HL. to elassô).
Những gì xuất
hiện tại Cana là như hình ảnh của một mở đầu, thì được kiểm chứng trong TM IV
bởi những mẩu đối thoại khác, trong đó nhắc lại sự cao trọng của Đức Giêsu và
những ân ban của Người, so với những nhân vật hoặc những định chế của Cựu Ước:
hơn Giacóp (4,12), Môsê (5,46; 6,32-35), Abraham (8,58), Đền Thờ (2,19-21; x.
4,21-23), Gioan Tẩy Giả (1,26-33), như Gioan đã tuyên bố (3,29-30): "...
Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi (Hl. elattousthai; từ này cùng
một ngữ căn với elassô, 2,10)".
Tóm lại, rượu
mới Cana, được giữ lại "cho đến mãi bây giờ" (c. 10), là dấu chỉ cho
thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ
"cho đến bây giờ" (HL. eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng
kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những
chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến
khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ
cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân
Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối
hậu (x. Ga 4,10).
5) Quan hệ giữa
rượu Cana với "ngày thứ ba" và "Giờ của Đức Giêsu":
Cuối cùng, các
thuật ngữ "ngày thứ ba" (c. 1) và "Giờ của Đức Giêsu" đưa
lại cho dấu lạ Cana một ý nghĩa cánh chung: cả hai thuật ngữ quy hướng về những
biến cố cuối đời của Đấng Cứu thế, về cuộc Khổ Nạn quang vinh của Người.
Yếu tố
"rượu" cũng có một vai trò trong chiều hướng cánh chung này. Chúng ta
nói rằng "rượu" tượng trưng cho Sự Thật Phúc Âm đã được Đức Giêsu rao
giảng, và đã nhập thể nơi chính bản thân Ngôi Lời nhập thể. Thế nhưng lời cuối
cùng của sứ điệp này, nghĩa là việc mạc khải hoàn toàn về chân tính của Đức
Kitô, chỉ nên rõ khi Đức Giêsu đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1).
"Vào ngày ấy", các môn đệ biết rằng Đức Giêsu bằng Cha Người trong
thần tính (14,20a; x. 10,31-33; 5,18), và Người liên kết họ với Người trong sự
hiệp thông với Cha Người (14,20b). Đây là ngày xảy ra Giao Ước Mới được ký kết
giữa Thiên Chúa và loài người để tiếp nối và hoàn tất Giao Ước cũ.
Sau Phục Sinh,
Tôma nhận biết Đức Giêsu là "Đức Chúa và Thiên Chúa" của ông (20,28);
nơi Người, được thực hiện lời hứa thường được các Ngôn sứ nhắc lại: "Các
ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".
Trong thời của
mầu nhiệm Phục Sinh ấy, Mạc khải không còn được truyền đạt bằng dụ ngôn hoặc
hình ảnh nữa (16,25). Nay đã được Thánh Thần hướng dẫn (16,13-14), các môn đệ
không còn dám hỏi: "Người là ai?" nữa (21,12; x. 16,23). Kể từ nay,
các ông biết Người là "Đức Chúa, Kyrios" (21,12).
Lời Phúc Âm
(được tượng trưng bằng rượu Cana) nay rực sáng lên nơi Đức Kitô quang vinh.
- Người bảo gì,
các anh cứ việc làm theo (5b): Có lẽ Đức Maria không hiểu những lời Đức Giêsu
nói. Mẹ cũng giống như những người khác trong TM IV, ở tại một bình diện hết
sức cách biệt với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn
của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở
ra với vô định.
- Mỗi chum chứa
được khoảng hai hoặc ba thùng (6. NTT): Một metrêtês (mesure) khoảng 40 lít
(Hp: êpah, éphah).
- Người quản
tiệc ... không biết rượu từ đâu ra (9c): Dọc theo TM IV, ý tưởng này: 'không
biết nguồn gốc Đức Giêsu và Vương quốc của Người (x. 18,36)' tái xuất hiện dưới
nhiều hình thức. Chẳng hạn: 3,8; 4,10; 6,41; 9,29.30; 7,26-27 (x. 19,9).
Đức Giêsu vén mở
cho thấy mầu nhiệm bản thân Người khi xảy ra biến cố Khổ Nạn–Chết–Sống lại (x.
Ga 7,33-35; 8,21-23; 23,36; 16,5.28). Đây sẽ là một mạc khải vĩ đại có sức soi
sáng các tín hữu và làm cho những kẻ không tin phải bẽ mặt (1,51; 2,18-19;
3,11-15; 5,17.20; 6,62; 8,28; 12,32; 14,19-20).
- Còn gia nhân
đã múc nước thì biết (9d): Câu này không chỉ là một ghi nhận về sự kiện. Các
"gia nhân" là những người đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của
Đức Maria (cc. 7-9).
Sự vâng phục
chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa cho
người giữ các điều răn của Người (14,21). Như vậy, Đức Giêsu tỏ mình ra cho ai
yêu mến Người bằng cách đưa Lời Người ra thực hành. Người sẽ cùng với Chúa Cha
đến lập cư nơi người ấy (14,23). Ai yêu mến Đức Kitô là gia nhân đích thật của
Người, Chúa Cha sẽ "quý trọng" (tôn vinh) kẻ ấy (12,26).
Ba thành ngữ sau
đây liên hệ với nhau: "phục vụ Đức Kitô – Vâng theo Lời Người – Đức Kitô
tỏ mình ra". Ai "phục vụ" Đức Giêsu, "vâng theo điều răn
của Người" (và ngược lại), Đức Kitô sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Gia nhân ở
Cana đã chứng nghiệm điều trên rõ ràng. Họ được biết "rượu ngon" (=
một phương diện của thực tại Đức Kitô) "từ đâu đến", chính là vì họ
đã vâng lời Đức Giêsu mà múc nước đổ đầy các chum. Thánh Gioan có nói:
"Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là
chúng ta tuân giữ các điều răn của Người" (1 Ga 2,3).
Trong TM IV, hai
viễn tượng lịch sử và thần học thường lồng vào nhau. Như vậy, các câu 7c, 8d,
9d đã giới thiệu các "gia nhân" ở Cana như là điển hình cho đời
"phục vụ–vâng lời" mà Đức Kitô đòi hỏi trong Giao Ước mới (x. Ga
13,34; 15,14).
- ông gọi tân
lang lại và nói...(9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang
khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính
Người đã giữ rượu ngon lại "cho đến mãi bây giờ".
Trong TM Ga
(3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong
đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm
"bạn của tân lang" (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ
cưới (x. "được sai đi trước": c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26;
x. 1,31). Nay Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan
thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30).
Sách Khải huyền
cũng ca tụng lễ cưới của Chiên Con với Giêrusalem mới (19,7-8; 21,2).
Vì tác giả TM
trình bày Dấu lạ Cana phỏng theo những truyền thống về Núi Sinai, ta có thể nhớ
rằng Giao Ước Sinai đã được trình bày dưới biểu tượng hôn lễ kể từ nền văn
chương ngôn sứ (x. Hs 2,16-25; Is 50,1; 54,4-8; 62,4-5; Gr 2,1-2; 3,1-13...).
Trong khối Tân Ước có trước Ga, ta có thể kể ra: Mt 22,1-14; 25,1-13 (Các dụ
ngôn về Nước Trời như tiệc cưới); Mc 2,18-20 (Đức Giêsu tự giới thiệu như là
"Chàng Rể"); 2 Cr 11,2; Ep 5,25-33 (Đức Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền
Thê).
Loại hình ảnh
biểu tượng này được dùng rất phổ biến trong truyền thống Do Thái giáo. Chính
thánh Âutinh đã viết: "Hôn phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của
Đức Chúa hiện thân...".
- Đức Giêsu đã
làm dấu lạ đầu tiên này (11a): Nhiều nhà chú giải (C.K. Barrett; Olsson) ghi
chú rằng tác giả TM coi phép lạ Cana không những như là dấu lạ "đầu
tiên", mà còn như điển hình của các dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện. Bởi vì
Người đã viết: "Tautên epoiêsan archên tên sêmeiôn Iêsous ..." (NAB:
Jesus did this as the beginning of his signs; TOB: Tel fut ... le commencement
des signes de Jésus; NTT: Dấu lạ đầu hết này, Đức Giêsu đã làm ...). Từ ngữ
archê (khởi đầu, bắt đầu) gây ra một số khó khăn; vì thế người ta đã đưa vào
những dị bản, chẳng hạn prôtên (= thứ nhất).
Dường như trong
Ga, từ archê không có nghĩa là khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, như
trong Lc (3,23; Cv 10,37), cũng không phải là lời rao giảng của Gioan Tiền Hô
trong hoang địa (Mc 1,1), thậm chí cũng không phải là lời kêu gọi các môn đệ
đầu tiên (Ga 1,35-51). Nhưng từ ấy có nghĩa là khoảnh khắc chính xác mà Đức
Giêsu bắt đầu tỏ mình ra cho các môn đệ (x. Ga 15,27; 16,4; 1 Ga 1,1-3). Vậy
việc mạc khải tiệm tiến của Đức Giêsu khởi sự tại Cana miền Galilê, và được
tiếp tục dọc theo sách Tin Mừng (x. Ignace de la Potterie). Origiênê gọi dấu lạ
Cana là "prohêgoumenon sêmeion", một dấu chỉ "ưu việt".
Zerwick & Grosvenor giải thích: "such was the first of the signs that
Jesus did; Jesus did this as his initial sign".
Vậy rượu mới ở
Cana không chỉ là "dấu lạ đầu tiên", mà cũng còn là "điển
hình", "nguyên mẫu" (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như
dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm "bày tỏ" vinh quang của Đức
Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của "ngày
thứ ba", của "Giờ của Đức Giêsu", nghĩa là cái chết và sự sống
lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc
của Người.
- và bày tỏ vinh
quang của Người (11b): Động từ "bày tỏ" (HL. phaneroô; manifester;
make clear/visible, show) cũng là động từ tiêu biểu của từ vựng Ga. Tác giả ưu
tiên dùng động từ này để nói về "mạc khải" (x. Ga 1,31; 2,11; 3,21;
7,4; 9,3; 17,6; 21,1; 1 Ga 1,2; 2,19; 3,2; 4,9).
Còn ý nghĩa của
từ "vinh quang" (HL. doxa) được rút từ Cựu Ước. Theo nghĩa đen, từ
Híp-ri kabôd hàm chứa một ý tưởng về "trọng lượng" (động từ kabêd:
cân nặng). Theo nghĩa bóng, từ này có nghĩa là "trọng (quan trọng, trọng
đại)", nghĩa là "giá trị", "tầm quan trọng" của một
hữu thể, "sự tôn kính" mà hữu thể ấy gợi ra; tóm, là "bản
tính", "bản lĩnh (nhân cách)" của kẻ ấy, dù kẻ ấy là ai.
Thế mà trong
truyền thống Cựu Ước, Đức Chúa (Yhwh) mạc khải "vinh quang" của Ngài
ra bằng những biểu lộ bên ngoài của chính bản thân Ngài, nghĩa là xuyên qua
"những việc vĩ đại", "những việc kỳ diệu" (= phép lạ) được
thực hiện trong cuộc Tạo dựng và trong Lịch sử Dân Ngài (x. Tv 19/18B,2; Ds
14,21.22; Xh 14,18; 16,7; 24,25t; 29,43; 40,34; 1 V 8,10t...). Con người có thể
hiểu rõ hơn Đức Chúa là ai hoặc "vinh quang" của Ngài là thế nào, khi
suy nghĩ về sự tỏa rạng của bản thân Ngài trong công cuộc tạo dựng và trong
lịch sử Dân Thiên Chúa tuyển chọn.
Tại Cana, Đức
Giêsu làm dấu lạ đầu tiên như một biểu lộ đầu tiên về "vinh quang"
của Người, một khởi đầu cho công cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Người. Các
tông đồ có hiểu gì chăng ?
* Trước Phục
Sinh, và chính xác hơn, vào ngay ngày các môn đệ được chứng kiến dấu lạ Cana,
dĩ nhiên các ông không thể hiểu thấu bí mật sâu xa của chân tính Đức Kitô. Các
ông không thể nắm được tính siêu việt của chân tính này. Cứ cho đi là niềm tin
của các ông được khơi lên bởi một phép lạ–dấu chỉ, thì muốn hợp lý, nên suy ra
là cũng như đối với Nathanaen, niềm tin ấy có đối tượng là tư cách Mêsia của
Đức Giêsu (x. Ga 1,47-50; rồi 7,31; 10,41-42; 12,37-42).
* Sau Phục Sinh,
Hội Thánh được soi sáng trọn vẹn về mầu nhiệm Đức Giêsu. Thế là khi nhớ lại
những gì đã xảy ra tại Cana, tác giả Gioan (cũng như toàn thể cộng đồng Kitô
hữu) đã hiểu rằng, ngay ở dấu lạ đầu tiên này, Đức Giêsu đã bắt đầu tự mạc khải
ra như "Hôn Phu thần linh của tiệc cưới thiên sai", tiệc cưới của
Giao Ước mới, trong đó sẽ được chứng thực "ngày thứ ba" của Phục
Sinh, khi "Giờ của Đức Giêsu"đã đến (x. Ga 14,20).
Phụng Vụ lễ Hiển
Linh chú giải thật đúng hình ảnh biểu tượng mang tính ngôn sứ của Cana, khi hát
lên Điệp ca của Thánh ca Benedictus: "Tân Nương là Giáo Hội, ngày hôm nay
được phối hiệp cùng Đức Kitô, vị Lang Quân thống trị Nước Trời... Nước hóa rượu
ngon, làm vui lòng thực khách".
- Các môn đệ đã
tin vào Người (11c): Trong TM IV, đề tài "đức tin" là đề tài căn bản.
Động từ "tin" (HL. pisteuô có 3 cách dùng:
- tin
"ai" (HL. pisteuein tini) nghĩa là chấp nhận lời người ấy là thật:
2,22; 4,21-50; 1 Ga 3,23;
- tin "vào
ai" (HL. pisteuein eis tina) hàm ý gắn bó với người ấy: 2,11; 3,16.18.36;
4,39;
- tin "vào
danh ai" (HL. pisteuein eis to onoma tinos): đây là cách diễn tả hoàn hảo
nhất về đức tin.
Tác giả Gioan là
người duy nhất đã dùng cách này trong Tân Ước (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13).
Đây là sự gắn bó với một người theo nội dung của tên người ấy. "Tin vào
danh Con Một Thiên Chúa" (Ga 3,18) có nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư
cách là "Con Một Thiên Chúa".
- Sau đó (meta
touto ...) (12a): Một vài tác giả (J.H. Bernard; A. Feuillet) có lý mà cho
rằng, trong ngôn ngữ Ga, công thức meta touto (= sau việc ấy; après quoi) có ý
nhắm tạo ra một liên hệ lô-gích giữa những gì đi trước và những gì tiếp sau, y
như thể đoạn sau là một hậu quả hoặc một minh họa mới của đoạn trước. Tác giả
đã dùng 4 lần, luôn luôn trong quan hệ với Đức Giêsu (Ga 2,12; 11,7-11; 19,28).
Ý nghĩa rất gần với ý nghĩa của "tauta (hoặc touto) eipôn" (=
"khi đã nói những điều ấy xong"; hoặc: "sau khi đã nói những
điều ấy") (Ga 7,9; 9,6; 11,18.43; 13,21; 18,1; 20,20-22).
Còn thuật ngữ
meta tauta (= sau các biến cố ấy) thì khác: nó chỉ đóng vai trò chuyển mạch về
văn chương thôi, một chuyển mạch không xác định, giữa hai đoạn (Ga 3,22;
5,1.14; 6,1; 7,1; 13,7; 19,38; 21,1).
Vậy, tương quan
giữa 2,1-11 và 2,12 là thế nào? Phần tiếp của c. 12 sẽ cho thấy.
- Người cùng với
thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum (12bc): Ở đầu bài tường thuật,
Đức Trinh Nữ Maria ở một bên, Đức Giêsu và các môn đệ ở một bên, như là hai
nhóm đến dự tiệc cưới theo những nẻo đường khác nhau. Nhưng đến cuối bài, Đức
Trinh Nữ, các anh em và các môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ra như một nhóm duy nhất
siết chặt quanh Người. Chắc hẳn tác giả muốn nói rằng họ đã xích lại gần nhau
nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, mà Đức Trinh Nữ (c. 5) và các môn đệ (c. 11) đã
chứng tỏ. Hơn nữa, trên bình diện đức tin, không có khác biệt giữa bà con họ
hàng (thân mẫu và các anh em) và các môn đệ.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Phần tường
thuật (1-3):
Chi tiết thời
gian "ngày thứ ba" đánh dấu tuần lễ khai mạc hoạt động của Đức Giêsu;
nhưng chi tiết này cũng nhắc lại những sự kiện lớn thuộc lịch sử cứu độ xảy ra
vào ngày thứ ba: Đức Chúa tỏ mình ra cho Dân Ngài vào ngày thứ ba trên núi
Sinai (Xh 19,10-11; x. 19,16). Nhưng dựa vào Hs 6,2, chi tiết "ngày thứ
ba" còn có liên hệ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu ("theo lời Kinh
Thánh": Lc 24,46 và 1 Cr 15,4). Có thể nói tác giả Ga minh nhiên thiết lập
quan hệ giữa "ngày thứ ba" và "sự chết–sự sống lại" của Đức
Giêsu (x. 2,19-22). Trong TM IV, công thức "ngày thứ ba" cũng liên hệ
với "Giờ của Đức Giêsu" (x. 2,1-4): đây là kiểu nói để gọi ba biến cố
Khổ Nạn – Chết – Sống Lại của Đấng Cứu thế, coi như một thực tại duy nhất (x.
2,4; 7,30; 8,20; 13,1...).
"Tại Cana
miền Galilê" (1a và 11a): Đây là một chi tiết địa lý, nhưng hẳn cũng có
một lý do thần học. Những người Pharisêu hỏi Nicôđêmô: "Cả ông nữa, ông
cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào
xuất thân từ Galilê cả!" (7,52). Đấy là điều người ta gọi là "sự mỉa
mai thần học của Tin Mừng IV": Cho đến nay, người ta vẫn cho rằng không
thể có một ngôn sứ xuất thân từ miền Galilê; thế mà, bây giờ tại Cana miền
Galilê, lại xảy ra cuộc tỏ mình đầu tiên của Vị Ngôn sứ siêu đẳng, Đức Giêsu
Nadarét, Đấng được nói đến trong Luật Môsê và các Ngôn sứ (Ga 1,45). Vị Ngôn sứ
cánh chung (x. Ga 6,14) xuất thân từ Nadarét, một thôn làng mà người ta cho
rằng không thể có gì tốt phát sinh từ đó được (Ga 1,46).
Theo tập tục
thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần. Thân mẫu Đức Giêsu có
đến dự: tác giả không gọi tên bà ra, tương tự như ở 19,25-27: Rõ ràng tác giả
quan tâm đến vai trò của Đức Trinh Nữ được diễn tả ra bằng các danh hiệu
"thân mẫu Đức Giêsu" và "bà" hơn là đến tên thật của bà.
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh – Do Thái giáo, Dân Israel thường được hình dung như
một "phụ nữ" (x. Is 52,2; Dcr 9,9). Do đó, ta có thể hiểu lý do khiến
Đức Giêsu nói với thân mẫu như thế ("Thưa bà"): Đức Giêsu coi thân
mẫu chính là hiện thân Dân Israel đã tới thời viên mãn. Ta có thể nói rằng từ
ngữ "bà" trong TM Ga tương ứng với hình ảnh "thiếu nữ Sion"
được TM Lc gán cho Đức Maria (Lc 1,28; x. Dcr 2,14).
Tác giả TM ghi
nhận là sự cố đầu tiên khởi đầu hoạt động công khai của Đức Giêsu là một tiệc
cưới. Ngoài việc ghi lại một sự kiện, hẳn tác giả muốn vận dụng hình ảnh
"tiệc cưới" nhằm nhắc lại giao ước của Thiên Chúa với Dân Ngài, và
đặc biệt gợi tới sự thể hiện cánh chung, khi Thiên Chúa ký kết giao ước với
toàn thể nhân loại. Sâu sắc hơn nữa, hình ảnh lễ cưới nhắc lại giao ước của Đấng
Mêsia với Dân Người (x. Hs 2,16-25).
Đang giữa tiệc
cưới thì hết rượu ...
* Các đối thoại
(4-8)
(1) Thân mẫu Đức
Giêsu và Đức Giêsu
Thân mẫu Người
nói: "Họ hết rượu rồi" (3). Có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu
kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với
gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó. Chỉ có điều
là bản văn không đủ rõ để có thể kết luận rằng Đức Maria đã xin một phép lạ (x.
Ga 4,47; 11,3.21-22). Nhưng phải trợ giúp thế nào thì bà cũng không rõ. Bà
không xin rõ ràng một phép lạ. Có lẽ bà có biết sứ mạng thiên sai của Con mình;
nhưng bà có thể chờ đợi phép lạ như chuyện hết sức tự nhiên chăng? Vả lại, hẳn
là quá đáng nếu Đức Maria dám xin một phép lạ, lại là phép lạ đầu tiên, để chỉ
kéo dài một lễ hội trong làng? Có lẽ ở đây, với tấm lòng vừa đầy sự chú tâm ân
cần vừa đầy cảm thương của người phụ nữ, Đức Maria đã kêu đến Đức Giêsu, mà mơ
hồ hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ làm "một điều gì đó", rằng Người sẽ can
thiệp cách nào đó, mà Mẹ cũng chẳng biết thế nào cả.
Bằng câu nói
"Chuyện đó can gì đến bà và con?" (4), Đức Giêsu từ chối không làm
"phép lạ" mà Người gán cho Thân mẫu là có ý xin. Nhưng Đức Giêsu lại
liên kết điều Thân mẫu xin (cho có rượu) với thuật ngữ "Giờ" khiến
độc giả ngờ ngợ là ở đây có những biểu tượng.
"Giờ"
của Đức Giêsu là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh, là khoảnh khắc tối hậu trong đó Đức
Giêsu tỏ mình ra; còn rượu, theo truyền thống Do Thái giáo và các Giáo Phụ (vd:
thánh Âutinh), tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ
được tỏ lộ trọn vẹn khi đến "Giờ" Người đi qua thế gian này mà về với
Cha Người (x. Ga 13,1). Thân mẫu Người nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại
nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban
trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các
thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng
bởi những thực tại vật chất (như chẳng hạn, Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4;
nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thân mẫu nói về
rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời
mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đó là điểm
khác biêt giữa Đức Giêsu và Thân mẫu Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã chuyển
đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng
liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất. Đây là một đặc điểm của
lời Đức Giêsu rao giảng, mà TM IV minh họa rõ ràng (Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh:
3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thật ra, tác giả
không nói rõ ràng ý nghĩa của "rượu" (x. ngược lại Ga 2,21; 7,39),
nhưng ngài có gợi ý để ta coi "rượu" là biểu tượng của Lời Đức Kitô,
của Mạc khải, của Luật mới mà Đức Giêsu mang lại, của Tin Mừng của Người.
Đây không phải
là một cách giải thích mới. Nhiều Giáo Phụ đã coi "nước" trong các
chum ở Cana là hình ảnh của Lề Luật và các Ngôn sứ, được Đức Giêsu biến đổi
bằng Tin Mừng của Người. Thánh Âutinh đã viết: "Đức Kitô đã giữ rượu tốt
nhất lại cho đến bây giờ, điều ấy có nghĩa là Tin Mừng của Người". Trong
số các nhà chú giải hiện đại, Bultmann khẳng định: "Rượu không liên hệ tới
một ơn nào của Đức Kitô nói riêng, nhưng đúng hơn tới ơn là chính Đức Giêsu,
trong toàn vẹn bản thân của Người, tới Đức Giêsu trong tư cách là Đấng mạc
khải...".
Trong thực tế,
Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp
cho chúng ta nhiều ánh sáng.
Chuỗi những ngày
khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục
vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo
truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Ga (1,19–2,12). Theo một chiều
hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với đỉnh điểm là việc Thiên Chúa
ban Torah tại Sinai, vào "ngày thứ ba".
"Ngày thứ
ba" của Cana tương ứng hoàn toàn với "ngày thứ ba"của Sinai.
Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào
"ngày thứ ba", thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người
khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào "ngày thứ ba"; rượu này tượng
trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người. Động từ "giữ" ("giữ
rượu") cũng là động từ tiêu biểu của truyền thống Ga khi nói về Lời – Điều
răn của Đức Giêsu. Đàng khác, các chum đựng nước thanh tẩy theo tập tục Do Thái
tượng trưng Luật Môsê bất toàn (chỉ có sáu chum), giờ đây đựng rượu tuyệt hảo,
có thể giải thích đó là Tin Mừng, là Lời của Đức Kitô: Người "thanh
tẩy" con người bằng Lời Sự Thật của Người. Đức Giêsu cho thấy Luật của
Người có sự hoàn hảo khi bảo tôi tớ đổ các chum "đầy tới miệng" (c.
7).
Tương quan giữa
Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn
tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng
có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú
giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là
"ngon (tốt)" (HL. kalœn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém
hơn (c. 10; HL. to elassœ).
Tóm lại, rượu
mới Cana, được giữ lại "cho đến mãi bây giờ" (c. 10), là dấu chỉ cho
thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ
"cho đến bây giờ" (HL. [h]eœs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9).
Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là
những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung
đã đến khi Đức Kitô xuất hiện.
Trong các lễ
cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân
Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối
hậu (x. Ga 4,10).
(2) Thân mẫu Đức
Giêsu và các kẻ hầu bàn
Dù bị Đức Giêsu
từ chối, dù không hiểu các ý định của Con, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý
muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ
đang mở ra với vô định: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (c.
5b). Câu này khiến ta nghĩ đến lời của Pharaô: "Cứ đến với ông Giuse; ông
bảo gì, các ngươi hãy làm theo" (St 41,55). Chúng ta còn nghĩ đến các câu
nói của các vị trung gian trong Cựu Ước nói lên lập trường của mình để mời gọi
toàn dân chọn Đức Chúa: Tùy hoàn cảnh, vị trung gian ấy có thể là một vị ngôn
sứ (Er 19,3-8; 24,3-8 [Môsê]; Gr 42-43,4 [Giêrêmia]), một vị vua (2 V 23,1-3
[Giôsigiahu]; 2 Sb 15,9-15 [Axa]), một thủ lãnh (Gs 1; 24,1-28 [Giôsuê]; Nkm
5,1-13 [Nơkhêmia]; 1 Mcb 13,1-9 [Simôn]), một tư tế (Er 10,10-12 [Étra]), một
thiên thần (Lc 1,26-28 [Gabriel]). Vị này đóng vai trò sứ giả giữa Đức Chúa và
các anh em mình (Dnl 5,5). Vị này mời gọi chọn lựa, nhưng bắt đầu bằng việc
nhận lấy cho mình những yêu cầu của Đấng mà Người đại diện, để làm gương (x. Gs
24,15; Nkm 5,10). Do bản văn Cana gần với bản văn Sinai, chúng ta thấy Thân Mẫu
Đức Giêsu có vai trò như Môsê (so sánh Ga 1,3-5 với Dnl 5,5), để rồi tại Sinai,
ân ban Lề Luật đã được trao tặng sau khi Dân đã tuyên xưng đức tin; và tại
Cana, ân ban rượu mới (biểu tượng của Luật mới được Đức Giêsu mang đến) đã được
báo trước và tạo cơ hội cho xảy ra nhờ đức tin của Đức Maria được thông truyền
cho các gia nhân.
Bản văn có một
chỗ cắt ngang sau lời khuyên của Đức Maria ("Người bảo gì, các anh cứ làm
theo"), để tháp vào một đoạn mô tả giúp hiểu những gì xảy ra sau đó:
"Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do
Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước"
(c. 6). Đoạn văn này cung cấp cho độc giả hai thông tin: a) khối lượng nước khá
lớn; b) nghi thức thanh tẩy của người Do Thái. Với hai thông tin này, độc giả
sẵn sàng để hiểu khá hơn những gì sẽ xảy đến.
(3) Đức Giêsu và
các kẻ hầu bàn
Đức Giêsu đã bảo
những người hầu bàn hai câu: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi" và:
"Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc" (c. 7). Các gia nhân
không nói một lời, họ vâng lời thật chính xác, họ "giữ" đúng các lời
Đức Giêsu truyền. Trước tiên, họ "làm đầy", đưa đến mức hoàn hảo,
những gì còn vơi, những gì chưa hoàn hảo, trong truyền thống cũ. Kế đó, họ múc
nước từ những chum đá (tượng trưng Luật cũ bất toàn) đưa cho ông quản tiệc để
được chứng thực (nước đã hóa thành rượu hảo hạng). Đấy chính là dấu lạ.
* Phần tường
thuật (9-11)
Khi nếm nước đã
biến thành rượu, "người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (c.
9c)", vì ông khơng "làm" các lời Đức Giêsu truyền, ông không
"giữ" lời Người. Nhưng "còn gia nhân đã múc nước thì biết"
(c. 9d), bởi vì họ đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc.
7-9). Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức
Giêsu đã hứa: "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu
mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (14,21; x. 14,23; 12,26).
"Người quản
tiệc mới gọi tân lang lại và nói..." (cc. 9e-10a): Câu này khiến chúng ta
nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó
là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại "cho đến mãi bây
giờ". Trong TM IV (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân
Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò
của ông là làm "bạn của tân lang" (c. 29), người lo mọi công việc
chuẩn bị cho lễ cưới (x. "được sai đi trước": c. 28; làm chứng cho
Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay, Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các
môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng
tối (c. 30). Xem thêm Kh 19,7-8; 21,2.
Và tác giả kết
luận: "Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này" (c. 11a): Rượu mới ở
Cana không chỉ là "dấu lạ đầu tiên", mà cũng còn là "điển
hình", "nguyên mẫu" (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như
dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm "bày tỏ" vinh quang của Đức
Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của "ngày
thứ ba", của "Giờ của Đức Giêsu", nghĩa là cái chết và sự sống
lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc
của Người. "Các môn đệ đã tin vào Người" (c. 11c), nghĩa là gắn bó
với Người ấy, trong khi chờ đợi một ngày nào đó sẽ tin "vào danh
Người", nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là "Con Một Thiên
Chúa".
"Sau đó,
Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít
ngày" (c. 12). Câu này là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]
đưa sang đoạn sau.
+ Kết luận
Được mời đến
Cana dự tiệc cưới, Đức Giêsu đã đến trong tư cách người bạn, có các môn đệ cùng
đi theo. Thân mẫu Người cũng được mời dự tiệc. Tại đây, Người đã thực hiện
"dấu lạ đầu tiên": biến nước thành rượu ngon để cứu chữa một đám
cưới. Đối với tác giả Gioan, người đã viết trong Lời Tựa của Tin Mừng:
"Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời" (Ga 1,1), thì "khởi đầu các dấu
lạ" này, nghĩa là các việc kỳ diệu có chức năng chứng thực cho tư cách
Mêsia của Người, chính là cách tỏ bày trong thời gian vinh quang vĩnh cửu của
Người. Tác giả ghi lại "dấu lạ" này để chúng ta tin rằng Đức Giêsu là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để chúng ta tin chúng ta có sự sống đời đời nhờ
danh Người (x. Ga 20,30-31).
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Rõ ràng là
dấu chỉ tiệc cưới, nếu một đàng phong phú ý nghĩa, thì đàng khác cũng rất dị
nghĩa. Tiệc cưới, dấu chỉ tự nhiên của niềm vui và niềm hân hoan, bị đe dọa bởi
nỗi buồn do hết rượu. Giao ước giữa người nam và người nữ tự nó rất mỏng giòn,
và cũng như mọi thực tại dưới ánh mặt trời, nó bị đe dọa bởi bạo chúa khắc
nghiệt là sự chết. Tiệc cưới vẫn là một biểu tượng tích cực: nó gợi tới tình
yêu, sự chung thủy, sự phong nhiêu, sự sống. Nhưng nó cũng bị đe dọa bởi nỗi
buồn, sự thất trung, sự đau khổ. Bản văn Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Đức
Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết
lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân
sủng, rượu Thánh Thần.
2. Rượu là dấu
chỉ của niềm vui của Tin Mừng, của tình yêu, của Thánh Thần, của sinh lực mới
tuôn trào ra từ sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui sẽ đưa lễ cưới khỏi
nỗi buồn, khỏi sự chán chường do Lề Luật. Và rượu vừa chan hòa vừa hảo hạng.
Đời Kitô hữu không bao giờ thiếu rượu là phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên,
có ai trong chúng ta dám nghĩ rằng mình đã sống được ngang tầm với phúc lành
của Thiên Chúa? Ai dám nói rằng tính ích kỷ không bao giờ lấn lướt tình yêu nơi
mình? Ai lại không bị thương tích ngày qua ngày do tội lỗi? Do đó, sự trung
thành là một ơn ta phải hết lòng cầu xin. Chính ân huệ dồi dào Thiên Chúa ban
giúp ta thắng vượt nỗi lo sợ về các giới hạn của đời sống chúng ta. Chúng ta bị
dính cứng vào mặt đất, dễ mệt nhọc, bị đủ thứ sự dữ khống chế, chúng ta mỏng
giòn và dễ bị tổn thương, nhưng niềm tin vào Chúa sẽ chiến thắng mọi sự dữ và
ban cho chúng ta sự sống đời đời.
3. Có thể nói
lời Đức Maria nói với gia nhân ở Cana là "di chúc thiêng liêng của
Mẹ" (A. Serra), bởi vì đó là những lời nói cuối cùng của Mẹ được các tác
giả Tin Mừng ghi lại. Đức Maria sẽ không nói nữa, nhưng Mẹ đã nói được điều
chính yếu. Mẹ đâu có bổn phận mở cửa sổ khi Đức Kitô có vẻ muốn đóng các cửa ra
vào! Trong tư cách là "Mẹ" của Hội Thánh, Mẹ cầu nguyện và chuyển cầu
để con cái Mẹ thường xuyên mở lòng ra với các lời của Chúa Giêsu, những lời vừa
nặng ý nghĩa vừa có sức giải phóng. Đấy là "những lời ban sự sống đời
đời" (Ga 6,68).
Hôm nay, chúng
ta là những gia nhân của các đám cưới, chúng ta có khôn ngoan đủ để đón nhận
lời Mẹ đề nghị chăng?
4. Cha M.
Thurian (+1996) đã viết: "Đến cuối bài tường thuật, Đức Maria và các môn
đệ làm thành cộng đoàn thiên sai, hợp nhất trong niềm tin vào Con Thiên Chúa
đến biểu lộ vinh quang của Người; đó chính là nòng cốt của Giáo Hội đang vây
quanh Đức Chúa của mình, mà lắng nghe Lời Người và thực hiện ý muốn của Chúa
Cha. Đức Maria hiện diện với cộng đoàn Giáo Hội này và ta có thể tưởng tượng ra
Đức Kitô đang nhìn nhóm vây quanh mình mà nói: 'Đây là Mẹ tôi và đây là anh em
tôi ; bất cứ ai thực hiện ý muốn của Cha tôi trên trời, thì người ấy là một
người anh em, một người chị em, và một người mẹ đối với tôi' (x. Mt 12,49 và
các bản văn song song)".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét