LỄ CHÚA GIÊSU
CHỊU PHÉP RỬA
Lời Chúa: Is
42,1-4.6-7; Cv 10,34-38; Lc 3,15-16.21-22
Khi toàn dân đã
chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì
trời mở ra,và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại
có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra
Con.
MỤC LỤC
1. Con cái Chúa
2. Chúa chịu
phép rửa
3. Phép Rửa
khiêm nhường - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Cuộc gặp gỡ
sâu xa với Đức Giêsu Kitô
5. Ơn gọi người
Kitô hữu – McCarthy
6. Chúa Giêsu
chịu phép rửa
7. Tình yêu cứu
thế – Thiên Phúc
8. Chúa Giêsu
chịu phép rửa – R. Veritas
9. Ơn gọi cao
trọng làm con cái Chúa – R. Veritas
10. Đấng gánh
tội trần gian – Lm. Ignatiô Trần Ngà
11. Trời mở ra
12. Suy niệm của
R. Gutzwiller
13. Cuộc gặp gỡ
ngắn ngủi với Thiên Chúa
14. Con Yêu Dấu
15. Phép rửa
16. Phép rửa
17. Con Chúa
18. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
19. Chú giải của
Noel Quesson
20. Chú giải của
Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Con cái Chúa.
Như chúng ta đã
biết: Geoge Wasinhton là vị tướng tài ba và là vị tổng thống đầu tiên của Hoa
Kỳ. Thế nhưng, rất ít người biết ông còn là một tấm gương sống động về lòng hiếu
thảo đối với người mẹ của mình.
Sau những trận
chiến cam go nhất, cũng như giữa những công việc bề bộn và nặng nề nhất của một
vị nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành thời giờ về thăm hỏi và trò chuyện lâu giờ
với người mẹ già. Một hôm mẹ đã hỏi ông như sau: Tại sao con dành nhiều thời
giờ thăm nom mẹ như vậy? Ông liền trả lời: Thưa mẹ, ngồi bên mẹ để lắng nghe mẹ
nói thực không phải là việc mất giờ. Chính sự bình thản và lòng tốt của mẹ dạy
con muốn tiếp tục sống.
Đoạn Tin Mừng
hôm nay, cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa Đức Kitô với Chúa Cha, cũng như
giữa chúng ta với Thiên Chúa. Trước hết là mối liên hệ giữa Đức Kitô và Chúa
Cha.
Như chúng ta đã
biết Đức Kitô chính là người con duy nhất của Chúa Cha. Vì vâng phục Ngài đã
xuống thế làm người để cứu độ chúng ta. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, nỗi ưu tư
số một của Ngài là chu toàn thánh ý Chúa Cha, đến nỗi thánh Phaolô đã phải
viết: Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chính vì thái độ
vâng phục vô điều kiện này, mà hôm nay bên bờ sông Giođan, cũng như mấy năm sau
trên đỉnh Taborê, chính Chúa Cha đã tuyên phong Ngài: Này là con Ta yêu dấu. Ta
hài lòng về con. Hãy vâng lời Ngài.
Còn mối liên hệ
giữa chúng ta và Thiên Chúa thì sao? Như chúng ta đã biết nhờ công nghiệp tử
nạn của Đức Kitô qua dòng nước của bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy xoá khỏi
mọi dấu vết tội lỗi, lấy lại được địa vị làm con cái Thiên Chúa. Thế nhưng để
xứng đáng làm con cái Ngài, thì chúng ta cần phải vâng phục, cần phải chu toàn
thánh ý Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta.
Thực vậy, một
người con ngoan sẽ không phải là một người con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ
sai bảo điều gì. Trái lại phải là một người con mau mắn vui vẻ tuân giữ những
điều cha mẹ chỉ dạy. Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Để xứng đáng làm con cái
Chúa, chúng ta cũng phải vui vẻ và mau mắn thực thi thánh ý Ngài. Thánh ý ấy
được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười điều răn Ngài truyền cho Maisen
trên núi Sinai, qua những điều Ngài truyền dạy trong Kinh Thánh, nhất là qua
giới luật yêu thương của Phúc Âm. Cũng như qua những điều Giáo Hội, thay quyền
Chúa mà chỉ dạy cho chúng ta.
Thế nhưng, nếu
như lúc này Ngài nhìn mỗi người chúng ta, liệu Ngài có thể nói lên như xưa Ngài
đã nói với Đức Giêsu bên bờ sông Giođan: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi
đàng hay không?
2. Chúa chịu
phép rửa.
Khi suy niệm về
biến cố Chúa Giêsu chịu phép Rửa, tôi thấy có một cái gì gần gũi với ý nghĩa
của hình ảnh "hoa sen nở trên bùn lầy".
Thực vậy, Đức
Kitô là Đấng thánh thiện tuyệt vời, nơi Ngài không hề vương vấn bất cứ vết nhơ
nào của tội lỗi, vậy mà Ngài đã làm một chuyện thật lạ lùng và khó hiểu, đó là
xin Gioan làm phép rửa cho mình tại sông Giođan.
Bấy giờ Gioan
đang kêu gọi người ta chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối ăn năn. Chuyện đó thật
bình thường và dễ hiểu đối với con người, bởi vì con người ai mà chẳng có tội.
Nhưng Đức Kitô thì có tội lỗi gì mà phải sám hối ăn năn và do đó, Ngài chẳng có
lý do để mà chịu phép Rửa.
Thánh Phêrô
trong bức thư thứ nhất, có nói một câu thật chí lý: Tội lỗi của chúng ta Ngài
đã mang lấy vào thân, hầu đưa lên cây thập giá. Đức Kitô đã không chỉ tha tội
và xoá tội cho nhân loại như người ta tha cho một tù nhân, hay như người ta xoá
bỏ một món nợ, nhưng Ngài đã gánh vác, đã nhận lấy cho mình mọi hậu quả của tội
lỗi.
Sen mọc trên
bùn, đã không tránh né cái nhơ bẩn của bùn, trái lại đã thu hút chính cái bùn
nhơ đó vào thân mà biến đổi nó thành hoa thơm. Đức Kitô cũng đã mang lấy, cũng
đã gánh lấy tội lỗi của loài người, đem nó vào thân thể Ngài, để biến đổi, để
gạn lọc, và làm cho nó trở thành hương thơm, trở thành vẻ đẹp. Ngài đã biến đổi
trong chính bản thân Ngài tất cả tội lỗi của trần gian, làm cho nó trở thành
thánh đức. Đó là ý nghĩa của việc Ngài chịu phép Rửa, bởi vì Ngài đã không chỉ
tha tội mà còn thánh hoá nhân loại, không chỉ xoá bỏ tội lỗi con người mà còn
làm cho con người tội lỗi trở nên thánh thiện và công chính.
Hay nói khác đi,
Con Thiên Chúa làm người không phải chỉ để chuộc tội, tha tội hay đền tội thay
cho loài người mà còn mang lấy kiếp người tội lỗi, để biến đổi chúng ta trở
thành con Thiên Chúa. Khi Đức Kitô chịu để cho Gioan rửa mình trong nước sông
Giođan chính là lúc, hơn bao giờ hết, Ngài ý thức mình đang ngụp lặn, đang chìm
sâu dưới dòng nước tội lỗi của nhân loại chồng chất từ thời Adong Eva. Ngài
chấp nhận cho tội lỗi ngập đầu ngập cổ mình để rồi biến đổi chính dòng nước tội
lỗi ấy thành một dòng sông của tình thương, một nguồn suối của ơn sủng. Ngài
quả là một bông sen mọc lên từ chính chỗ bùn lầy, vươn lên từ chính nước ao tù,
biến đổi bùn lầy và ao tù ấy trở thành hương sắc.
Nhập thể đối với
Đức Kitô không phải chỉ là việc đội lốt người, một cuộc dạo chơi trong xã hội,
mà thực sự là một việc hộp nhập, hơn thế nữa, phải nói là một sự dính dấp hoàn
toàn đối với thân phận và định mệnh con người, kể cả thân phận tội lỗi và số
kiếp tử vong.
Đức Kitô là Đấng
thánh thiện, nhưng đã tự ý chấp nhận thân phận tội lỗi của con người với tất cả
những hệ luỵ của nó. Bởi đó chấp nhận dìm mình dưới dòng nước Giođan, chính là
chấp nhận cái chết. Vì thế, chúng ta mới hiểu được tại sao Đức Kitô lại nói về
cái chết của Ngài như một phép rửa. Và hành động chịu phép rửa hôm nay có tính
cách quyết định cho cả sứ vụ của Ngài. Đây là một lời tiên tri loan báo ý định
dấn thân tới cùng sẽ dẫn đưa Ngài tới cái chết thập giá, thế nhưng cũng chính
nhờ đó mà Ngài đã được Chúa Cha tuyên phong: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta
mọi đàng.
3. Phép Rửa
khiêm nhường - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Sông Gio-đăng,
tiếng Do Thái là "yarad" có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát
nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không
ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước
biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các
tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp
tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước
biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Chúa Giêsu
bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không
chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước
xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác
người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng
Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống
ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra
Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng
Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người
bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa,
nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân
loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu
cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin
Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong
dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải
thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại
cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống
lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả
dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người.
Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh
em của mọi người.
Dòng nước sông
Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực
ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhướng là một
phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào
dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa
Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những
bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất" (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và
Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người:
"Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta
phải chịu không?" (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết
Người sẽ phải chịu.
Một câu châm
ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng
của tình yêu. Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh
làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ
những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Tình yêu đã thúc đẩy
Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng
cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường
của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta
cảm thấy mình cần được thanh tẩy. Nếu ta cảm thấy mình cần được ƠN THA THỨ…Đừng
ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa
Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong
cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa
khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước
khiêm cung. Như lời vua Đavit nói: "Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một
tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê" (Tv 50)/
Khiêm nhường sám
hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở
về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở
về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như
nói về Chúa Giêsu: "Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con".
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối.
Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1. Chúa Giêsu
không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm
người khác xuống?
2. Làm thế nào
để trở nên "Con yêu dấu" của Đức Chúa Cha?
3. Hằng ngày,
bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?
4. Cuộc gặp gỡ
sâu xa với Đức Giêsu Kitô.
(Trích trong
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)
Sự ăn năn sám
hối thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng là âm vang của truyền thống Do Thái. Chúng ta
trích dẫn đoạn văn tuyệt tác Ezêkiel sẽ đọc trong phụng vụ Phục Sinh (thật vậy,
việc Chúa chịu phép Rửa tiên báo mầu nhiệm Vượt Qua): "Trên các ngươi Ta
sẽ rảy nước trong sạch và các ngươi sẽ được trong sạch... Ta sẽ ban cho các
ngươi một tâm hồn mới, một tinh thần mới". Sự thanh tẩy bằng nước là một
chủ đề dễ hiểu, nhưng dẫu sao nguồn mạch phải trong sạch để cung cấp một thứ
nước trong sạch. Nguồn thanh tẩy thiêng liêng là Thiên Chúa. Mà tác động của
Người không chỉ ít hay nhiều nhắm vào bề ngoài con người. Sự thanh tẩy không
chỉ là một sự dội nước đơn giản, nó thấm sâu tâm hồn và thần trí như lửa vào
sâu trong vật bị nung đốt để loại bỏ tất cả những gì là cặn bã dơ bẩn. Phép Rửa
của thánh Gioan khuyên giục dân chúng cải thiện nếp sống, chuẩn bị tâm hồn để
gặp gỡ Chúa Giêsu. Phép Rửa của Đức Giêsu thấm sâu nội tâm, cho chúng ta một
tâm hồn đổi mới nhờ ơn Chúa Thánh Linh. Chúng ta có được hai kết luật:
1) Nhờ dấu chỉ
nào để trong thế giới ngày nay, nhận biết ai là tiền hô đích thật? Người ta nói
rất nhiều về thế giới đang đột biến, đang chuyển mình, từ mọi phía nổi lên
những tiếng nói tiên đoán về ngày mai của Giáo Hội. Trên bình diện đức tin,
người ta không lầm khi tự hỏi: những "tiên tri" ấy có hướng dẫn đến
với Đức Giêsu Kitô không? Tiếng nói của Gioan Tiền Hô hướng dẫn thính gỉa đến
với Đức Giêsu. Những "tiên tri" ngày nay hô hào thay đổi thái độ,
thay đổi điều kiện sinh hoạt, thay đổi cơ cấu xã hội, v.v... nhưng không hướng
dẫn người ta đến với Đức Kitô, nghĩa là không hô hào thay đổi tâm hồn nhờ tác
động Chúa Thánh Linh. Xét về bình diện Giáo Hội, tiếng nói của họ chẳng có giá
trị loan báo Tin Mừng. Những tiền hô đích thật thì hướng dẫn đến cuộc gặp gỡ
thật sự và thân thiết với Đức Kitô.
2) Con là Con
chí ái của Ta, được Ta hết lòng sủng mộ. Chúng ta đồng quan điểm với thánh Luca
rằng: Tiếng phán của Thiên Chúa trên con người của Đức Giêsu là một biến cố.
Trong bối cảnh chung là sự thanh tẩy dân chúng và bối cảnh riêng là lời cầu
nguyện của Đức Giêsu, thánh chép sử đặt lời phán của Thiên Chúa như một đoạn
kết thúc. Đây là một biến cố có hai diện. Trước hết là một sự tiên báo rõ ràng
về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Tiếng phán từ trời cao vọng xuống chính là
tiếng nói của Đức Chúa Cha chỉ định Đức Giêsu là Con và Chúa Thánh Linh ngự
xuống người ấy mà sau này đức tin sẽ nhận ra là Người –Chúa. Kế tiếp, biến cố
cho thấy Đức Giêsu được hưởng trọn vẹn niềm sủng ái của Thiên Chúa. Điều này có
nghĩa chúng ta làm đẹp lòng Thiên Chúa nhiều hay ít tuỳ theo mức độ hiệp thông
nhiều hay ít với Người –Chúa là Đấng duy nhất được Thiên Chúa hết lòng sủng ái.
5. Ơn gọi người
Kitô hữu – McCarthy.
Suy Niệm 1. ƠN
GỌI CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
Hiện nay, Giáo
Hội rất bận tâm với những ơn gọi. Nhưng ở đây, ơn gọi được hiểu theo một cách
rất giới hạn. Một cách cơ bản, chúng ta đang nói về ơn gọi trở thành linh mục.
Đây là một ơn gọi quan trọng, nhưng không phải là ơn gọi quan trọng nhất trong
Giáo Hội.
Ơn gọi đầu tiên
và quan trọng nhất, phổ biến đối với tất cả những người đã được rửa tội, đó là
ơn gọi trở thành người Kitô hữu, hoặc ơn gọi làm người môn đệ của Đức Giêsu.
Đây là ơn gọi cốt lõi. Tất cả những ơn gọi khác trong Giáo Hội đều phải được
coi như liên hệ với ơn gọi của Đức Giêsu "Hãy đến, hãy đi theo Ta".
Nói cách khác, chúng ta tiếp nhận ơn gọi trở nên người môn đệ của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, điều
đáng buồn là có nhiều người được rửa tội đã sống không khác biệt gì, so với
người không được rửa tội. Nếu họ thực hành lòng tin của họ, thì đó lại thường
là một lòng tin không trưởng thành, dựa trên cách thực hành thường lệ, không
dứt khoát. Điều cần thiết là tin tưởng với sự hiểu biết; và đi theo Đức Kitô
bằng lòng tin của cá nhân mình.
Lần kia, Đức
Hồng Y Newman đã hỏi cộng đoàn của ngài "Việc trở thành một người Kitô hữu
tạo ra sự khác biệt gì trong lối sống hằng ngày của chúng ta?". Câu kết
luận là "Tôi e rằng hầu hết chúng ta cứ tiếp tục làm những gì chúng ta đã
làm, nếu chúng ta cho rằng đạo Công giáo không hơn gì một câu chuyện ngụ
ngôn".
Ơn gọi làm người
Kitô hữu bao gồm cái gì? Theo những lời trong Tin Mừng, thì ơn gọi làm người
Kitô hữu là một tiếng gọi trở nên "muối đất, ánh sáng thế gian". Đạo
Công giáo nói về lối sống như thế nào, chứ không chỉ nói về lòng tin vào điều
gì. Không nên có sự phân biệt giữa sinh hoạt tôn giáo và những hoạt động thường
ngày. Lòng tin phải được chuyển thành hành động. "Đừng ngại loan báo điều
mà bạn tin tưởng, trừ phi bạn hành động một cách phù hợp" (Catherine de
Hueck Doberty).
Với tư cách là
người Kitô hữu, chúng ta đóng một vai trò rất tích cực trong thế giới. Chúng ta
có những thứ để hiến tặng, những thứ mà thế gian cần đến một cách tuyệt vọng,
mặc dù không nên e ngại hoặc biện hộ về vai trò của chúng ta. Điều này cần đến
một lòng can đảm và sự gan dạ nào đó.
Việc đi theo Đức
Kitô nghĩa là gì đối với người bình thường? Điều này có nghĩa là trở nên một
người Kitô hữu ngay tại nơi bạn sinh sống, và ngay trong nghề nghiệp mà bạn
chọn lựa. Có nhiều cách thức để phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Lời mời
gọi trong trường hợp đầu tiên không phải dành cho vai trò làm Tông đồ, mà là
vai trò làm người môn đệ của Chúa.
Chắc hẳn là nếu
không bao giờ nghe được tiếng gọi của Đức Giêsu, thì chúng ta sẽ có một cuộc
sống dễ dãi hơn. Nhưng liệu chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc hơn và
liệu chúng ta có được sống nhiều hơn thế nữa chăng? Đức Giêsu nói "Thầy
đến để anh em được sống và sống dồi dào". Tin Mừng đưa ra cho chúng ta một
lối sống chính đáng hơn và sâu xa hơn cho cuộc sống của chúng ta. Và Tin Mừng
gieo vào trong tâm hồn chúng ta những hạt giống của sự sống đời đời.
Ơn gọi là người
Kitô hữu tạo ra viễn tượng về một cuộc sống cao cả hơn và trong sạch hơn trước
mặt chúng ta. Đồng thời, ơn gọi này còn thông truyền cho chúng ta sự hy sinh và
phục vụ người khác. Ơn gọi này mở rộng những khả năng yêu thương và can đảm của
con người. Đó không phải là công việc chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà
còn dành cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu nữa. Khi lãnh nhận phép Rửa tội, chúng
ta được đón nhận vào một cộng đoàn những kẻ tin.
Ngày lễ Chúa
Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa
tội. Mỗi khi vào nhà thờ, và lấy nước thánh làm dấu, là chúng ta đang tự nhắc
nhở mình về phép Rửa tội của chúng ta, và tự cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi
của phép Rửa tội ấy.
Suy Niệm 2.
NGƯỜI KITÔ HỮU TRONG CƠN THỬ THÁCH
Trong một số
quốc gia, là một người Công giáo tức là mắc một trọng tội. Ông bà Moran bị kết
án là người Công giáo. Thay vì từ chối trách nhiệm, cả hai ông bà đều thừa nhận
điều này một cách cởi mở, và họ chuẩn bị đương đầu với những hậu quả. Họ bị đưa
ra toà, để bị xét xử trước một bồi thẩm đoàn. Vốn đã bỏ đạo, nên tất cả những
người trong họ hàng của hai ông bà đều mong muốn cứu thoát họ khỏi bị tù tội
hoặc tệ hơn thế nữa. Vì thế, họ thuê một luật sư, để biện hộ cho hai ông bà
khỏi phải chịu trách nhiệm. Lời bào chữa của ông ta ngắn gọn như sau.
"Hai thân
chủ của tôi bị cáo buộc là người Công giáo. Mục đích của tôi là muốn chứng tỏ
rằng trên thực tế, hai ông bà không phải là như vậy, mặc dù họ có thể cứ khăng
khăng tự nhận một cách can đảm rằng mình là người Công giáo. Các sự kiện đều đi
ngược lại hai người. Và tôi cần phải nói rằng, trường hợp này sẽ cần phải xét
xử dựa trên các sự kiện.
"Tôi xin
nói rằng: Hai ông bà Moran đều có lối sống tốt đẹp, chăm chỉ làm việc. Tôi biết
chắc chắn rằng cả hai người chưa bao giờ bị lôi cuốn vào bất cứ việc làm nào
phi pháp. Họ là những người đáng kính, theo bất cứ tiêu chuẩn nào.
Người ta có thể
thán phục nhiều điểm trong cuộc sống của họ. Họ là những con người chân thành.
Và người ta có thể thán phục sự trung thành của họ, về việc tuân giữ các lễ
nghi bên ngoài trong tôn giáo của họ, như tham dự Thánh Lễ và các phép Bí tích.
Trên thực tế, tôi cho rằng họ là những người Công giáo chỉ trên danh nghĩa. Họ
tham dự Thánh Lễ vào sáng Chúa Nhật, và là những người rất sốt sắng về mặt này.
Nhưng điều này vẫn chưa đủ.
"Ông Giêsu
đã nói trong Tin Mừng, và tôi xin trích dẫn "Cứ xem họ sinh quả thế nào,
thì biết họ là ai (Mt 7,6). Rõ ràng từ bối cảnh này, ông Giêsu ý muốn nói
"hoa quả" là "những hành động tốt đẹp". Tôi e rằng trong
trường hợp của ông bà Moran, hoa quả không đơn giản là điều đó.
"Tôi không
tìm được chứng cứ nào trong cuộc sống của họ, hoặc trong thái độ của họ, rằng
họ sống theo những lời rao giảng của ông Giêsu một cách nghiêm túc. Chẳng hạn,
liệu có bất cứ người nào có thể nghiêm khắc buộc tội hai thân chủ của tôi về
bất cứ mối quan tâm đặc biệt nào đối với người nghèo khổ, đau yếu, kém may mắn
hoặc bị khinh miệt chăng? Tôi cho rằng không hề có một chút chứng cứ nào xác
nhận cho một lời buộc tội như vậy. Họ đã không hề làm điều gì hơn bất cứ một
người nào trong chúng ta. Trên thực tế, họ lại còn làm ít hơn, so với một số
người nào không bao giờ mơ tưởng đến việc tự nhận mình là người Công giáo.
"Tuy nhiên,
đây đúng là mẫu người, mà chính ông Giêsu đã thực hiện theo cách thức của ông
ta, để giúp đỡ mọi người, khi ông ta còn tại thế. Và ông ta còn tuyên bố dứt
khoát rằng những kẻ đi theo ông ta sẽ bị xét xử, không phải vì số lần họ cầu
nguyện, hoặc những hành động thờ phượng mà họ tham dự, nhưng là do cách họ đáp
ứng những nhu cầu của những người như vậy.
"Các môn đệ
đầu tiên của ông Giêsu đều là những Tông đồ nồng nhiệt, mà ông ta sai đi để
biến đổi thế giới. Họ sẽ không thừa nhận rằng hai ông bà Moran thuộc về cùng
nhóm của họ đâu".
(Đến đây, ông
Moran nhảy dựng và la lên: "Nhưng chúng tôi đều là người Công giáo").
"Thưa ông
Moran, tôi chưa nói xong. Tôi xin đưa ra để quý toà xem xét rằng hai thân chủ
của tôi không phải là người Công giáo theo ý nghĩa thực sự –theo ý nghĩa dành
cho những người mà đối với họ, người hàng xóm của họ phải được thương mến như
chính bản thân họ vậy. Tất cả lỗi mà họ phạm phải, đó là họ đã tự lừa dối mình,
và đó không phải là một tội nặng. Do đó, tôi yêu cầu bãi bỏ lời cáo buộc chống
lại hai thân chủ của tôi, bởi vì thiếu chứng cứ rõ rệt".
Sau đó, thẩm
phán tuyên bố "Bồi thẩm đoàn sẽ rút lui, để xem xét lời phán quyết".
Ngày lễ Chúa
Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa
tội. Khi lãnh nhận phép Rửa tội, chúng ta được đón nhận lời mời gọi trở nên
những môn đệ của Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi mà chúng ta đều có thể hỏi là: Nếu trở
thành người Công giáo là một trọng tội, thì liệu đã có đủ chứng cứ trong cuộc
sống của tôi, để đảm bảo cho một niềm tin chưa?
6. Chúa Giêsu
chịu phép rửa.
(Trích trong
'Tin Mừng Chúa Nhật')
Trong lòng của
Hội Thánh, từ xưa tới nay, các tín hữu vẫn cố gắng đi tìm câu trả lời cho vấn
đề "Tại sao Chúa Giêsu lại đến với Gioan để chịu phép rửa?" Lễ rửa
của Gioan là để người ta ăn năn sám hối, và chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là
Đấng vô tội. Vậy tại sao Ngài tự động đến xin chịu lễ rửa này. Trong Hội Thánh
đầu tiên, có người gợi ý đầy tình cảm rằng Ngài làm thế nào để đẹp lòng Mẹ
Ngài, là người đã năn nỉ xin khuyên Ngài. Nhưng chúng ta cần một câu trả lời
đúng đắn hơn.
Trong cuộc đời
mỗi người, có những giai đoạn như trục chốt cho cả đời sống xoay quanh. Trong
đời sống Chúa Giêsu cũng vậy, thỉnh thoảng chúng ta phải ngừng lại để cố gắng
nhìn xem cả cuộc đời Ngài khi còn tại thế. Trục chốt thứ nhất là cuộc thăm
viếng Đền Thờ lúc Ngài mười hai tuổi, khi Ngài khám phá mối liên hệ độc nhất
của Ngài với Thiên Chúa. Đến lúc Gioan xuất hiện thì Ngài đã ba mươi tuổi. Như
vậy, mười tám năm trôi qua, suốt thời gian đó, hẳn Chúa Giêsu đã suy nghĩ và
nhận thức ngày càng rõ rệt về sự đặc biệt duy nhất của chính mình Ngài. Nhưng
lúc đó Ngài vẫn còn là một người thợ mộc vô danh ở làng Nadarét. Hẳn Ngài biết
có ngày Ngài phải rời bỏ Nadarét và ra đi cho một công tác lớn hơn, Hẳn Ngài
vẫn trong chờ một dấu chỉ báo hiệu cho ngày đó xuất hiện.
Bấy giờ Gioan
xuất hiện, dân chúng kéo đến nghe ông giảng và chịu phép rửa. Trong cả xứ nổi
lên một cuộc phục hưng chưa từng có, một phong trào quay về với Thiên Chúa. Khi
thấy điều đó, Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã điểm. Không phải Ngài cảm biết
tội lỗi và ăn năn, Ngài biết rằng hiện giờ Ngài phải đồng hoá mình với phong
trào quay về với Thiên Chúa này. Đổi với Chúa Giêsu, sự xuất hiện của Gioan là
một tiếng kêu gọi của Thiên Chúa và hành động, và hành động thứ nhất của Ngài
là đồng hoá mình với dân chúng trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng trong lễ
rửa của Chúa Giêsu có một sự kiện xảy ra. Trước khi Ngài có thể quyết định về
bước quan trọng này, Ngài phải biết chắc mình làm việc phải lẽ; và trong lúc
Ngài chịu phép rửa, Thiên Chúa đã phán với Ngài. Xin đừng lầm sự việc xảy ra
tại lễ rửa là một kinh nghiệm riêng tư cho Chúa Giêsu. Tiếng nói của Thiên Chúa
đã đến với Ngài và tiếng đó xác định rằng Ngài đã có một quyết định đúng. Nhưng
hơn thế nữa, chính tiếng đó chỉ cho Ngài thấy tất cả con đường của Ngài. Thiên
Chúa đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con yêu dấu của Ta." Câu này gồm
hai phần "Con là Con yêu quý của Cha" là câu trích từ Thánh vịnh 2,17
được coi là lời diễn tả về Đấng Cứu Thế hứa ban. Còn câu "Ta hài lòng về
con" là một phần của Isaia 42,1, diễn tả người Đầy tớ Đau khổ của Chúa
Gia-vê có hình ảnh trọn vẹn trong Isaia 53. Cho nên trong lễ rửa của Chúa Giêsu
có rất nhiều ý nghĩa: có ý nghĩa về Nước Trời đã đến vì lúc đó là lúc Chúa
Giêsu bắt đầu rao giảng Nước Trời. Cũng có nghĩa là lúc Đức Giêsu được xức dầu
tấn phong bằng Thánh Thần để thi hành một sứ mạng trọng đại. Cũng có nghĩa là
Ngài đồng hoá với loài người tội lỗi, dầu "vốn không biết tội lỗi nhưng
trở nên tội lỗi vì cớ chúng ta" và hạ mình nhận lấy phép rửa của Gioan.
Tiếng từ trời
"Con là con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về con "là tiếng nói của ân
phúc. Đó là tiếng nói thừa nhận. Còn ân phúc nào lớn hơn là được Thiên Chúa
thừa nhận. Aben dâng lễ tế được Thiên Chúa thừa nhận, đó là ân phúc đối với
Aben. Ngược lại, sự từ khước tế lễ của Cain là một lời nguyền rủa. Còn ân phúc
nào lớn hơn là khi được Thánh Thần đáp đậu và nhận lấy quyền phép từ trên cao.
Chúa Giêsu đã
đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định
ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu mới là Đấng làm phép rửa bằng
Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Thánh Tẩy cho những kẻ theo Ngài bằng
việc đích thân Ngài xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự
tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị
ngôn sứ cuối cùng –cao đẹp hơn tất cả các vị trước– với lời rao giảng của chính
Ngài để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Ngài đã biến đổi để có
thể thực sự khai mào cho bí tích Thánh Tẩy.
Như thánh Luca
kể lại cho chúng ta. Ngài kéo dài nghi thức bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện
này mang lại hiệu quả là trời mở ra. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa trời mở ra
như sau này trời cũng mở ra mỗi khi bí tích Thánh Tẩy được cử hành, vì bí tích
Thánh Tẩy không những chứng tỏ việc được tẩy sạch tội lỗi mà còn cho thấy ơn
phúc dư đầy trời tuôn đổ xuống cho. Hơn thế nữa, qua việc cầu nguyện, Chúa
Thánh Thần đến với Chúa Giêsu. Chính Thánh Linh này cũng hướng dẫn Chúa Giêsu
trong tất cả các hoạt động của Ngài, trong tất cả các công việc giáo huấn và
chữa lành bệnh tật... tượng trưng cho ơn cứu độ từ nay được ban cho nhân loại
hầu giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Việc đến của Chúa Thánh Thần tiên báo ơn
Chúa Thánh Thần sẽ được ban xuống cho mỗi thụ nhân để nâng lên hàng nghĩa tử
của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần
ngự xuống trên Chúa Giêsu trong hình dạng chim bồ câu. Hình ảnh này thật có ý
nghĩa khi chúng ta nhớ lại trong Cựu Ước, trong đại nạn Hồng Thuỷ, chim câu
được thả ra đã trở về mỏ ngậm lá ô-liu xanh tươi báo hiệu nạn lút đã chấm dứt
(St 8,11). Đến trong hình dạng chim bồ câu là đến mang lại bảo đảm sự hoà giải
giữa Thiên Chúa và loài người. Đến như vậy là dấu chỉ lòng nhân từ của ơn cứu
độ Thiên Chúa ban.
Trong bí tích
Thánh Tẩy, lòng nhân từ ấy được thực hiện, Chúa Thánh Thần ngự xuống trong thụ
nhân, bằng tác động tế nhị của tình yêu, chiếm hữu toàn diện con người hầu thúc
đẩy sự phát triển toàn diện. Chúa Thánh Thần trọng dụng tất cả mọi khát vọng và
khuynh hướng chính đáng của mỗi người và với mục đích duy nhất là thúc đẩy mọi
điều lành điều tốt hầu đưa đến toàn vẹn. Chúa Thánh Thần đã đánh tan mọi lo âu
sợ hãi đè bẹp hoặc khép kín tâm hồn không cho phát triển. Hình ảnh của chim câu
đặc biệt được lựa chọn để tránh bỏ mọi phản ứng lo âu sợ sệt này.
Điều kết thúc sự
hoàn thành trong lễ rửa của Chúa Giêsu là tiếng phán từ Cha: "Con là con
yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con" lời tuyên bố thần tính này mang lại
quan trọng chủ yếu cho Chúa Giêsu, mặc khải cho loài người chúng ta về thân vị
Chúa Giêsu, mặc khải ấy đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin nơi Ngài.
Theo như Phúc Âm
kể lại thì lời công bố này chỉ liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên lời công bố
ấy vẫn được coi như nguồn gốc của ơn nghĩa tử do bí tích Thánh Tẩy đem lại cho
mọi tín hữu. Đức Kitô chỉ được mạc khải là con của Chúa Cha với ý hướng thông
ban ơn nghĩa tử ấy cho tất cả mọi người đã liên kết với Ngài bởi niềm tin. Bí tích
Thánh Tẩy đặc biệt thực hiện ý định này. Những lời "Con là con yêu dấu của
Cha" luôn được vang lên khi có phép Rửa tội, dầu huyền âm này có được nghe
không. Do phép rửa của mình Đức Giêsu biết rằng mình đã ban cho mọi tín hữu ơn
làm con yêu quý của Cha trên trời.
Đối với Chúa
Giêsu, và đối với chúng ta ngày nay, phép rửa là một kinh nghiệm về ân phúc, mà
ân phúc liên hệ đến trách nhiệm. Sau khi nhận ân phúc từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu
tiếp tục con đường vâng phúc để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa phải liên tục
tranh chiến với cám dỗ đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa. Đám đông muốn tôn
Chúa làm vua, ngài cự tuyệt. Các môn đệ can ngăn Chúa đi đường thập tự, Ngài
khiển trách. Với trách nhiệm được giao cho, Chúa can đảm uống chén đau thương
mặc dầu không tránh khỏi trận chiến nội tâm giữa sự vâng phục và khước từ. Nhận
lấy ân phúc từ trời là lúc Ngài cam kết vâng phục Thiên Chúa, và thật sự, Ngài
đã vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập giá.
Là môn đệ của
Chúa Giêsu, chúng ta phải xem Ngài như một mẫu mực. Phép Rửa chúng ta nhận lãnh
là dấu hiệu cho thấy qua Chúa Giêsu, chúng ta được Thiên Chúa thừa nhận. Đó là
ơn phúc, nhưng không phải để chúng ta an nhiên ngồi hưởng nhưng đi kèm với
trách nhiệm. Nói cách khác, phép Thánh Tẩy hay phép Rửa cũng là sự cam kết vâng
phục ý muốn của Thiên Chúa và nhận lấy trách nhiệm Ngài trao. Bạn hãy tự vấn
lương tâm xem phép Rửa đã ảnh hưởng đến đời sống bạn như thế nào trong hiện
tại.
7. Tình yêu cứu
thế – Thiên Phúc.
(Trích trong
'Như Thầy Đã Yêu')
Một vị quan lớn
mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng
và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên
ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy
vậy phá lên cười.
Xấu hổ và cảm
thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông
cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ
vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông
quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo
nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý
do nào để chối từ.
Chỉ có hành động
cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Con Thiên Chúa
trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.
Đấng thánh thiện
vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.
Đấng xóa tội
trần gian, lại hòa mình trong đoàn người tội lỗi.
Đấng thanh sạch
vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông sám hối.
Đấng sẽ làm phép
rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.
Chính hành vi
rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa
dành cho con người.
Chính thái độ tự
hủy tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối
với con người cát bụi chúng ta.
Vâng, chính
Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hóa thân làm kiếp phàm
nhân:
Để chia sẻ thân
phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.
Để nếm cảm nỗi
ray rứt khắc khoải của tội nhân.
Để thấu hiểu
niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Vâng, chính Con
Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn mục ngay trước mắt con người,
Người đã muốn
nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận từ Cha: "Mọi sự
của Cha là của Con".
Người đã muốn
chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa: "Phàm là con cái thì
chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết nhục với chúng ta".
Người đã muốn
chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: "Vì bản thân
Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị
thử thách".
Chiêm ngắm Đấng
Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu: Một
tình yêu vui lòng tự hủy để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một tình
yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để
nâng anh em trỗi dậy cùng bước về nhà Cha.
Chiêm ngắm Đấng
Cứu Thế là cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giocđan, chúng ta hiểu được thế nào
là hiệp thông: Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này mà Người cảm nhận
được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: "Con là Con của
Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con".
Ngày nay, chúng
ta đã chịu phép rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi hiệp
thông thân mật với Ba Ngôi chí thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục
vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một tình yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao
ban trọn vẹn: Tinh yêu cứu thế!
Lạy Chúa, trong
con mắt Chúa chúng con là tất cả. Xin cho chúng con luôn nhìn anh em bằng cái
nhìn của Chúa, và yêu thương anh em chúng con bằng tình yêu trọn vẹn của Người.
Amen.
8. Chúa Giêsu
chịu phép rửa – R. Veritas.
(Trích trong
'Sống Tin Mừng')
Một hiện tượng
đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu Châu, đó là sự kiện con số những người
tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội Công Giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về
nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế
tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự
rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào các Bí tích và đời sống
của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghĩa với chối
bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.
Nhìn chung, thế
giới Tây phương vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng
truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô giáo,
phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta
chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây phương chỉ đến nhà thờ có
ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh
là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng
là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ
được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta
chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm
nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy
đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo
cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt
Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu
như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào
cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các
nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược
lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám
đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người
không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng
đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta
chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu
kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích
thực của lòng tin.
Khi đến nhận
phép rửa của Gioan tại sông Giođan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa
Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài muốn sống
trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này,
Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái
chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con
người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến
độ sẵng sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là
Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi
làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết
lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người Kitô hữu được mời gọi để
sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ
trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con
người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra
người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Anh chị em thân
mến,
Thập giá vừa là
biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép
rửa chúng ta được ghi dấu Thánh Giá trên người, chúng ta làm dấu Thánh Giá mỗi
ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo Thánh Giá
khắp mọi nơi, chúng ta đeo Thánh Giá trên người, và ước gì Thánh Giá ấy không
chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là
một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng
sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì Thánh Giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta
ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các
Thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua Thánh Giá để
chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn
trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chúng ta, đó là giá
trị của Tin Mừng.
9. Ơn gọi cao
trọng làm con cái Chúa – R. Veritas.
(Trích trong
'Suy Niệm Lời Chúa')
Châu Á là vùng
thường hay có bão lụt. Các trận bão lụt lớn trong các năm qua tại Philippines và
Trung Quốc khiến cho hàng chục ngàn người phải thiệt mạng. Hình ảnh các cuộc
tàn phá do nước lụt gây ra khiến cho người ta dễ đồng hóa nước với chết chóc và
quên rằng nước cũng là nguyên lý của cuộc sống mới, của sự thanh tẩy và tái
sinh, bởi vì nước là nguyên lý của sự sống. Sự thật này được Giáo Hội nhắc nhở
chúng ta qua các bài đọc lễ hôm nay.
Phép rửa Chúa
Giêsu lãnh nhận trong tình liên đới trọn vẹn với loài người chúng ta là hình
ảnh bí tích Rửa Tội trao ban cho chúng ta cuộc sống mới, cuộc sống làm con cái
Thiên Chúa. Isaia chương 40 loan báo Thiên Chúa giải phóng dân Israel khỏi cảnh
sống lưu đày bên Babylon, sau khi thành Giêrusalem bị vua Babylon đánh chiếm và
tàn phá thành bình địa năm 587 trước Tây lịch. Dân Israel bị đày sang Babylon,
50 năm sau đó, vua Cyrus cho họ trở về quê cha đất tổ tái lập quốc gia, xây lại
thành thánh và đền thờ. Tin vui của cuộc xuất hành thứ hai trong lịch sử Israel
ấy được tiên tri Isaia loan báo qua một vài hình ảnh biểu tượng và kiểu cách
đặc thù của ông. Sự kiện Thiên Chúa để ý xót thương dân Ngài được diễn tả qua
kiểu nói: Hãy nói với con tim của Thành Giêrusalem". Trong ngôn ngữ của
Kinh Thánh "nói với con tim" là kiểu nói diễn tả tình yêu thương và
mối liên hệ hôn nhân. Thiên Chúa đối xử với dân Israel dân Ngài như một vị hôn
phu âu yếm, to nhỏ với hôn thê của mình. Nếu trong cuộc xuất hành đầu tiên
Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng than khóc của dân Ngài, thì giờ đây, trong cuộc
giải phóng thứ hai này, Ngài nghiêng mình xuống trên dân Israel với tất cả lòng
dịu hiền, thương mến. "Nói với con tim của Giêrusalem", như thế có
nghĩa là Thiên Chúa Tạo Hóa, giờ đây lại mở rộng bàn tay nhân từ ôm ấp lấy
Israel với tất cả lòng thương mến.
Hình ảnh thứ
hai, tiên tri Isaia dùng diễn tả tin vui giải phóng khỏi kiếp sống lưu đày là
hình ảnh sa mạc. Trong cuộc xuất hành thứ nhất, sa mạc Sinai là nơi Thiên Chúa
giáo dục, thanh tẩy và chuẩn bị dân Israel bước vào vùng đất Hứa. Giờ đây sa
mạc Syria và sa mạc Giuđa, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm cũng không cản
ngăn được đôi bàn tay và con tim thương yêu, trìu mến của Giavê Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ biến chúng trở thành các con đường bằng phẳng, rộng rãi thênh
thang, tươi vui chào đón người bị đày trở về quê cũ.
Ngoài các hình
ảnh kể trên, tiên tri Isaia II còn dùng thứ ngôn ngữ quân sự và ngôn ngữ du mục
diễn tả tình yêu thương bao bọc của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Thiên Chúa đến
với sức mạnh, các chiến lợi phẩm đi trước Ngài và cánh tay vững mạnh của Ngài
nắm giữ quyền thống trị. Thiên Chúa của Israel, không phải chỉ với đôi tay
tượng trưng cho sự bênh đỡ và che chở, mà cả với con tim biểu tượng cho tình
yêu thương hiền dịu và cả với đôi cánh tay tượng ttrưng cho sức mạnh và quyền
uy của Ngài nữa. Và Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài như một mục tử chăn dắt đoàn
chiên, luôn yêu thương chăm sóc và hiện diện bênh đỡ, không khi nào rời.
Cuộc xuất hành
thứ ba trong lịch sử cứu độ được Chúa Giêsu Kitô hiện thực qua bí tích Rửa Tội,
là bí tích trao ban ơn giải phóng và cuộc sống ấy cho người tín hữu. Qua phép
rửa của Chúa Giêsu (Luca 3), nêu bật một vài biểu hiện thần học quan trọng.
Trước khi dầm
mình trong nước để lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã
trà trộn giữa đám đông dân chúng giống y như mọi người khác, khiêm tốn và chia
sẻ với mọi người nhu cầu sám hối và thanh tẩy. Con đường của Chúa Giêsu đi cũng
là con đường của tất cả mọi người. Đây là nét đặc thù diễn tả sâu đậm các hệ
lụy của biến cố nhập thể, Chúa Giêsu trở thành người và sống như mọi người,
giữa mọi người.
Lời thánh Gioan
Tẩy Giả xác định bản chất của bí tích Rửa Tội mà Chúa Giêsu trao ban cho con
người gồm hết mọi lễ nghi thanh tẩy của Cựu Ước, bởi vì Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy
con người với Chúa Thánh Thần và với lửa. Bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu hiện
thực là lửa đốt cháy sự dữ. Nó như lửa luyện lọc và như thuốc giặt thanh tẩy
tâm lòng con người như lời tiên tri đã báo trước trong chương 3. Nó như nước
tẩy mọi vết nhơ trong tâm hồn con người, trao ban phong phú và sự sống. Và điểm
đặc thù nổi bật nhất trong bí tích Rửa Tội Kitô Giáo, là sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần, nguyên lý trao ban sự sống thiêng linh của Thiên Chúa cho con
người.
Điểm thần học
thứ ba là thái độ cầu nguyện của Chúa Giêsu trong khi lãnh nhận phép rửa thanh
tẩy. Phúc Âm thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện. Ngài cầu
nguyện liên lỉ không những trước mọi biến cố quan trọng trong cuộc đời, mà
trong mọi lúc cho đến chết. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cầu nguyện và dạy các
ông nhiều điều liên quan tới lời cầu nguyện, là cách thế Chúa Giêsu sống mối
dây liên hệ yêu thương hiệp thông với Thiên Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.
Và sau cùng là
biến cố Chúa Giêsu được thánh hiến trong sứ mệnh cứu độ ấy. Nó được diễn tả
bằng lược đồ giải thích thị kiến, thường được các soạn giả Kinh Thánh dùng đến
để trình bày một chủ ý thần học hay một kinh nghiệm thiêng liêng nội tâm. Thị
kiến như tường thuật trong Phúc Âm là một lời giải thích biến cố Chúa Giêsu
lãnh phép rửa thanh tẩy. Biến cố này minh chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Ngài là hiện thân toàn vẹn của Thiên Chúa. Chính trong khi Chúa Giêsu cầu
nguyện, nghĩa là đối thoại thân tình với Thiên Chúa Cha mà Ngài nhận được tràn
đầy Chúa Thánh Thần, Đấng đã hoạt động trong sứ mệnh cứu độ. Sau này, khi các
tông đồ tiếp tục sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu, các ông cũng sẽ được tràn đầy Chúa
Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là ơn đầu tiên mà Chúa Giêsu Phục sinh trao ban cho
các môn đệ và cho mọi tín hữu sau này qua bí tích Rửa tội.
Trong thư gởi
cho Titô, chương 2,11-14 và chương 3,4-7, thánh Phaolô nhắc lại cho chúng ta
biết ơn tái sinh mà Chúa Giêsu Kitô đã trao ban cho chúng ta. Ơn thánh Chúa ban
giúp chúng ta tái sinh, nghĩa là có được cuộc sống mới và giúp chúng ta tiếp
tục canh tân cuộc sống mỗi ngày. Thánh Phaolô khuyên chúng ta biết sống trọn
vẹn ơn gọi Kitô bằng cách từ bỏ gian tà, từ bỏ các đam mê xác thịt thế gian,
nghĩa là từ bỏ tất cả những gì khiến cho chúng ta xa Chúa và đánh mất đi cuộc
sống mới mà Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta qua bí tích Rửa Tội. Muốn được
như thế, cần phải sống thanh đạm và công chính giữa thế giới này và nhất là
không bao giờ được quên rằng: Đích điểm cuộc đời chúng ta là được sống bên Chúa
Giêsu Kitô và tham dự vào cuộc sống thiêng linh vĩnh cửu rạng ngời với Ngài.
Lời khuyên trên
đây của thánh Phaolô rất là tích cực đối với xã hội chúng ta đang sống hiên nay,
là một xã hội bị lôi cuốn vào cơn lốc hưởng thụ và tiêu thụ, một xã hội không
còn nghĩ đến công lý nữa và không còn biết chừng mực là gì nữa. Tóm lại, phép
rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta ý thức được ơn gọi cao trọng làm con
cái Chúa của mình, ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Ơn
gọi đó đồng thời cũng bao gồm sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới
này. Và chúng ta chỉ có thể hiện thực được nó khi biết cố gắng sống theo mẫu
gương của Chúa Giêsu mà thôi.
10. Đấng gánh
tội trần gian – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thánh Gioan, vị
ngôn sứ cao cả bậc nhất thời cựu ước, đã từng giới thiệu cho các môn đệ của
mình biết Chúa Giêsu là "Đấng mạnh thế hơn Gioan", Đấng mà Gioan
"không đáng cởi quai dép cho Người" (Mt 3, 16), "là Chiên Thiên
Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian, là Đấng đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi vì
Người có trước tôi." (Ga 1,29-30)
Thánh Gioan còn
giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng sẽ cử hành một phép rửa vượt xa phép rửa của
Gioan: "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước. Còn Người, Người sẽ làm phép
rửa cho anh em trong Chúa Thánh Thần" (Mc 1, 7)
Thế mà Chúa
Giêsu lại đến với thánh Gioan như một người tội lỗi, hòa mình với đám đông
những người thu thuế, những người đàng điếm, những tên côn đồ đạo tặc và với
bao nhiêu người tội lỗi khác, chăm chú nghe Gioan rao giảng và để chờ đến
phiên, bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ thánh Gioan làm phép rửa cho mình.
Tại sao Chúa
Giêsu lại hạ mình đến thế? Hành động nầy xem ra không xứng hợp với một Đấng
thánh được Thiên Chúa sai đến, không xứng hợp với địa vị cao trọng mà ngay cả
thánh Gioan cũng thú nhận là mình không xứng đáng cởi quai dép cho Người, không
xứng hợp với Đấng sẽ làm phép rửa cho muôn dân trong Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu hoàn
toàn vô tội thì cần gì phải xin Gioan làm phép rửa cho mình? Vì như thế là
không chân thực.
Phải hiểu thế
nào về hành động hạ mình quá đáng nầy của Chúa Giêsu?
Chắc chắn Chúa
Giêsu đến chịu phép rửa không phải vì những tội lỗi do Người gây ra -vì Người
vốn vô tội - nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Cũng
thế, Chúa Giêsu chịu khổ hình thập giá không phải vì tội của Người mà vì tội
lỗi của thế gian mà Người đã gánh lấy.
Thánh Gioan đã
từng giới thiệu Chúa Giêsu là con "Chiên Thiên Chúa" (Gioan 1, 29)
được sai đến trần gian để làm chiên đền tội. Người Do-Thái làm lễ xá tội bằng
cách đặt tay lên đầu con bò hay dê, trút hết tội mình cho nó, rồi sát tế nó, để
nó chết thay cho người tội lỗi. (Lê-vi 8, 14-15)
Thế nhưng
"máu của các con bò, con dê không thể trừ khử được tội lỗi" (Do-thái
10, 4) nên Chúa Giêsu đã hiến mình làm Chiên mới, Con Chiên của Thiên Chúa, đến
mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân. Chính vì thế mà Người trở thành tội nhân,
như lời thánh Phao-lô dạy: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa
đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên
công chính trong Người." (2 Cr 5, 21)
Chính vì mang
lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành "hiện thân của tội lỗi" (2
Cr 5, 21), nên Chúa Giêsu hòa mình với những tội nhân khác, xin Gioan làm phép
rửa cho mình và cùng với bao tội nhân khác tỏ lòng ăn năn sám hối.
Chính vì mang
lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành "hiện thân của tội lỗi" nên
Chúa Giêsu đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để cứu chuộc loài người
tội lỗi, như lời thánh Phê-rô: "Tội lỗi của chúng ta, Người mang vào thân
thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc
đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa
lành." (1 Pr 2, 21-24)
Hình ảnh Chúa
Giêsu vô cùng tốt lành thánh thiện mà lại chen chúc với các tội nhân bên bờ
sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa của Gioan là
một lời mời gọi mỗi người chúng ta phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng tự phụ của
mình để biết thành tâm sám hối những tội lỗi mình đã phạm.
Chúa Giêsu đã
mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu thanh tẩy và chịu chết vì chúng ta. Vậy chúng
ta hãy thông phần vào công cuộc cứu độ của Chúa và hợp tác với Chúa trong việc
cứu chữa các tội nhân.
11. Trời mở ra.
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
Các Kitô hữu ở
thế kỷ đầu thật hết sức bối rối trước sự kiện Đức Giêsu lãnh phép rửa của
Gioan.
Tại sao Ngài lại
đến với Gioan như một môn đệ để chịu phép rửa, nhằm bày tỏ lòng sám hối? Ngài
có cần sám hối không nếu thật sự Ngài vô tội?
Đã có bao câu
trả lời cho vấn nạn này.
Chúng ta chỉ cần
nhìn ngắm Đức Giêsu bên bờ sông Giođan. Ngài đứng xếp hàng cùng với dân tộc của
Ngài. Ngài trà trộn với những tội nhân muốn sám hối. Ngài chấp nhận dìm mình
xuống cùng một dòng sông. Có ai nhận ra Ngài là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa
tội trần gian không?
Đấng thánh thiện
lại khiêm nhu đứng bên kẻ tội lỗi. Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần nay
lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Hành vi đầu tiên
công khai của Đức Giêsu lại là một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút...
Ngài chỉ là một
kẻ vô danh bên cạnh một Gioan tăm tiếng.
Nhìn Đấng Cứu Độ
cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là đồng hành và liên đới.
Đồng hành với
người khác đòi tôi phải đi chậm lại.
Liên đới với
người khác đòi tôi nhỏ bé đi.
Đồng hành đòi
tôi có chung một tâm tình với người khác.
Đấng vô tội nếm
được cái ray rứt của tội nhân và cảm được nỗi khát khao đổi đời của họ. Đức
Giêsu đã đồng hành với con người cho đến chết. Ngài đã chia sẻ thân phận của
người nghèo, người khổ đau, người bị bỏ rơi, bị thất bại, bị kết án và cả thân
phận khắc khoải của tội nhân.
Mầu nhiệm Nhập
Thể là mầu nhiệm đồng hành.
Thiên Chúa tập
làm người để hiểu được con người. Ngài cúi xuống để nâng con người lên.
Sau khi chịu
phép rửa, Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn gặp gỡ Cha trong tư
cách là Con. Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này mà Ngài cảm thấy được
Thánh Thần tràn ngập, và tự thâm tâm, Ngài nghe rõ tiếng của Cha. Cha âu yếm
gọi Ngài là Con và phong Ngài làm Mêsia:
"Con là Con
của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con."
Từ hôm nay, Đức
Giêsu hiểu rằng giờ lên đường đã điểm. Thời gian ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc.
Cha ban Thánh
Thần để ủy thác cho Ngài một sứ mạng.
Đức Giêsu đã
trải qua một kinh nghiệm tuyệt vời...
Sông Giođan, nơi
Ngài gắn bó với tội nhân, với dân tộc, đã trở nên nơi Ngài gắn bó với Cha trong
Thánh Thần.
Nơi đi xuống
cũng là nơi đi lên.
Nơi Ngài được
sai đến cũng là nơi Ngài đang hiện diện.
Chúng ta đã chịu
phép Rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần. Phép Rửa này có đưa chúng ta lên đường
phục vụ không?
Mỗi ngày, ta có
lại thấy mình được Cha sinh ra không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Càng lúc con
người càng cảm thấy mình không thể sống lẻ loi. Sống là đồng hành, liên đới với
người khác. Bạn nghĩ gì về khả năng sống với và sống cho người khác của bạn?
Khi Đức Giêsu
cầu nguyện thì Thánh Thần ngự xuống và Cha ngỏ lời với Ngài. Có khi nào bạn
được một kinh nghiệm tương tự như Đức Giêsu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước
của người phụ nữ Samari. Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa cần nhà
ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn
cúi xuống xin chúng con, để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng
con biết cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn
cháy sáng nơi lòng người tội lỗi. Ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt
của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người, và can đảm tin
tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản
hơn và thần linh hơn.
12. Suy niệm của
R. Gutzwiller.
ĐỨC MESSIA ĐẾN
Dân chúng coi
Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài nói:
'không phải ta đâu, mà là Đấng khác'. Vị tiền hô hướng họ tới Đức Kitô. Đó
không phải là người ích kỷ, vì người ích kỷ thì vẫn muốn chiếm đoạt tha nhân,
nhưng đây là người của Chúa, một người bất vụ lợi đưa đường tha nhân về với
Thiên Chúa. Phải, giữa Đấng Messia và Ngài có một sự cách biệt quá lớn lao như
người đầy tớ nghĩ mình không đáng cởi giây giày cho chủ mình.
Cả hai phép rửa
cũng khác nhau như vậy. 'Tôi, tôi rửa anh em trong nước, sẽ có Đấng quyền năng
hơn tôi: Ngài sẽ rửa các ông trong Thánh Thần và trong lửa'. Phép rửa của Gioan
chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu, bên
trong, như lửa thiêu huỷ tất cả, như Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu vào
tận đáy lòng và biến đổi tất cả.
CON THIÊN CHÚA
(3, 21-22)
Những gì xảy ra
ở bờ sông Giođan khi Thánh Thần hiện ra và Lời Chúa Cha phán mang hai ý nghĩa:
Trước hết đối
với chính Chúa Giêsu đây thêm môt kinh nghiệm lớn cho Ngài cũng như nơi đền thờ
lúc Ngài mười hai tuổi. Trời mở ra, đó đâu phải là chỉ là chi tiết bên ngoài,
mà trước hết là một hiện tượng tôn giáo thâm sâu. Ánh sáng chan hoà từ bản tính
Thiên Chúa tràn lan trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu. Tiếng nói của Chúa
Cha đến với Ngài và Thánh Thần trở nên hữu hình qua một biểu tượng; có thể nói
là Chúa Giêsu đứng ở giữa.
Như vậy, cả Ba
Ngôi Thiên Chúa đã được nhắc đến danh xưng ở đây: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa
Thánh Thần. Điều mà Chúa Cha gọi rõ ràng là 'Con yêu dấu của Cha' thì Chúa
Thánh Thần đã để hiện ra tỏ tường bằng cách riêng của Ngài. Chúa Giêsu là một
trong Ba Ngôi; Ngài biết, Ngài cảm thấy nơi mình con người được lôi cuốn vào
luồng lửa của đời sống Ba Ngôi. Ngài thấy hoàn toàn khác với người thường. Ngài
là Con độc nhất, ở trong tình yêu duy nhất và đặc biệt Chúa Cha trong sự phong
phú vô song và lạ lùng của Chúa Thánh Thần.
Vì thế, chẳng
ngạc nhiên gì khi thấy Người Con độc nhất này ưu thắng như vậy, khi thấy Vị phi
thường kéo được tất cả về với mình trong tình trạng xuất thần như vậy, khi thấy
Ngài được đưa vào sự dồi dào của tinh thần này như ngoài mình, là sa mạc có lẽ
người ta sẽ nói Con Thiên Chúa không thể giữ như vậy lâu hơn giưã nhân loại.
Chính Ngài, chỉ mình Ngài, được bao quanh bởi cả một đám đông.
Nhưng Đấng Thiên
Chúa, cũng hiện diện ở bờ sông Giođan cho họ. Đó là lý do họ nghe tiếng nói.
Tất cả phải biết là Ngài đã được cưu mang và đón nhận bởi Cha trên trời: như
vậy tất cả những cái Người Con sẽ nói phải được coi như là Lời của Thiên Chúa
Cha, tất cả những cái Ngài làm sẽ đầy Thánh Thần Chúa và được Thánh Thần kích
động.
Còn Thần khí
biểu lộ dưới hình bồ câu bay xà xà: Thần khí phong phú tràn lan trên nước Khởi
nguyên và trên Đức Maria cũng là chính Thần khí xuống trên Chúa Giêsu để, bằng
quyền năng sáng tạo của mình, biến đổi những lời giảng và các tác vi nhân tính
của Chúa Giêsu bằng một thế giới mới, một đời sống mới, một sự sáng tạo mới:
thế giới của siêu nhiên, thế giới thần thiêng giữa lòng nhân loại.
Biến cố hãn hữu
này sắp được thực hiện đây khi mà Chúa Giêsu mang một hình thức bình dị, đã
chọn con đường thông thường của muôn người khác và giao tiếp với các tội nhân.
Sự nâng cao lên
khỏi nhân tính này trong sự thanh khiết thần thiêng, sẽ được hoàn thành vào lúc
Ngài tự hạ nhận phép rửa thống hối giữa hạng tội lỗi và cho lớp tội nhân.
Rồi đây cả vũ
trụ sẽ thấy rằng Đấng bị hạ xuống, được nâng lên và là Đấng tinh tuyền, thánh
thiện, Đấng đó đang bước vào dòng sông chất đâỳ tội lỗi để cho những làn sóng
tội lỗi đổ tràn trên mình. Lần xuất hiện đầu tiên của Chúa Giêsu trong cuộc đời
công khai được thực hiện, coi bên ngoài thì hoàn toàn là âm thầm, ít giá trị,
không lôi kéo được chú ý gì mấy. Tuy nhiên, thực sự là đã để lộ ra những cái
khác thường và hấp dẫn mà mọi người từ nay phải lưu tâm. Chính Thiên Chúa đã
quyết định chọn việc khởi đầu này và chứng nhận sự kiện đó.
13. Cuộc gặp gỡ
ngắn ngủi với Thiên Chúa.
Một người mẹ đã
quyết định truyền dẫn lòng tự tin vào những người con của bà sớm bao nhiêu có
thể. Sau khi bà được người con đầu lòng, và tên nó là Matthêu, bà hỏi đi hỏi
lại nó rằng, "Tại sao mẹ yêu con?" Bà đã dạy cho nó phải trả lời mỗi
khi bà hỏi câu đó là, "Bởi vì con là Mátthêu." Sau khi đứa con thứ
hai ra đời, nó tên là Lillian, bà cũng dùng một chiêu thức lập đi lập lại câu
hỏi, "Tại sao mẹ yêu con?" Lillian không cần suy nghĩ và ngần ngại
trả lời ngay, "Bởi vì con là Mátthêu."
Tại sao Thiên
Chúa lại yêu tất cả các bạn, nào là Mátthêu, Lillian, Roberts, Mary, Alice...?
Bởi vì bạn là bạn! Bạn là con Chúa trong Chúa Giêsu.
Trong bài Phúc
Âm hôm nay, Thánh Luca nói cho chúng ta về biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa,
"Có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh
ra Con" (Lc 3:22). Điều này gợi lên một câu hỏi thách đố đó là: Bạn có thể
nào vượt qua khỏi những cách thức suy nghĩ quá quen thường nhật của mình để
lắng nghe lời Thiên Chúa nói với bạn, "Con là Con yêu dấu của Cha"
không? Bạn có thể nào phá đi cái hàng rào "người lớn" của bạn và trở
nên như một trẻ nhỏ để tin tưởng tuyệt đối vào lời hứa của Thiên Chúa chăng?
Trong một lớp
Thánh Kinh dành cho người lớn, vấn đề được bàn đến vào ngày hôm đó là việc cầu
nguyện. "Hãy xin, thì sẽ được", thầy giáo đã trích lời này từ trong
bài giảng trên núi của Chúa Kitô. Sau đó, thầy giáo hỏi các học sinh trong lớp
rằng các em có cầu nguyện hằng ngày không? Một học sinh đã giơ tay trả lời rằng
em cầu nguyện để được khỏe mạnh. Một người đàn bà trả lời, "Tôi cầu nguyện
cho được hạnh phúc." Một vài người khác thì cầu nguyện cho được ơn cứu độ
ở đời sau. Tuy nhiên, một bà cụ già vẫn cứ lắc đầu lia lịa với những câu trả
lời mà bà nghe được. Khi đến phiên của bà, bà đã nói, "Việc cầu nguyện rất
đơn giản. Tôi tin Chúa, và tôi cầu nguyện xin Chúa cũng tin tôi."
Tuy nhiên, bạn
có thấy không! Vấn đề không phải là chỗ mình cố gắng để thay đổi ý định của
Thiên Chúa về bản thân của mình! Ngài đã tin tưởng ở bạn! "Lúc khởi đầu đã
có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa"
(Ga 1,1). Chính Ngôi Lời đã nhập thể làm người để mặc khải cho chúng ta về tình
yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đối với con người. Các bạn đã có trong trí của
Thiên Chúa ngay từ ban đầu. Các bạn là một trong những thành phần của công cuộc
sáng tạo để đem nó đến chỗ viên mãn trong Nước Tình Yêu của Ngài.
Cho dù là bạn có
gặp khó khăn gì trong giây phút hiện tại, cho dù là bạn có gặp những nỗi gian
truân gì mà bạn không được người khác thông cảm, bạn hãy tin tưởng rằng sự hiện
diện của bạn trên trái đất này được Thiên Chúa quan phòng cách đặc biệt.
Bạn đừng tầm
thường hóa công trình kiệt tác của Ngài bằng cách là các bạn tự đặt mình vào
khuôn đúc của cuộc sống. Đừng hạn chế cuộc sống của mình vào một khuôn khổ nào
cả. Bạn hãy biết chấp nhận chính mình! Hãy vui mừng hân hoan vì bạn là bạn.
Một đứa bé đi
học về và đến nói với bố mình, "Thầy giáo con nói là tối mai sẽ có một
cuộc họp giữa phụ huynh và thầy giáo tại trường học." Ông bố lại hỏi lại,
"Bố có cần phải đi không?" "Con nghĩ là họ sẽ mong có sự hiện
diện của bố," đứa con trả lời lại, "bố biết không, đây là cuộc họp
nhỏ bao gồm thầy giáo, hiệu trưởng, bố và con."
Hôm nay, xin đề
nghị các bạn làm một cuộc họp nhỏ, sớm bao nhiêu có thể, giữa Thiên Chúa và
chính bạn. Bạn hãy nghe lời Chúa Giêssu nhủ bảo hôm nay và trở thành một em bé.
Hãy đàm thoại và tin tưởng vào Thiên Chúa, hãy lắng nghe lời Ngài, "Con
ơi, con là con của Cha. Con là con rất yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha. Cha
tin tưởng ở nơi con." Hãy cảm nghiệm tình yêu của Ngài. Hãy dìm mình vào
trong sự hiện diện của Thiên Chúa, và cảm nghiệm được sự vượt qua cái biên giới
đóng khung mà nó đã kéo bạn xuống.
Hãy để cho tất
cả những lo lắng phiền muộn trôi đi! Hãy tin tưởng vào lời phán quyết của Chúa
và đừng sợ hãi gì. Hãy tin tưởng vào Chúa và hãy xây dựng cuộc sống của mình
bằng cách này và bạn sẽ cảm nghiệm được một cuộc sống đầy đủ và tràn ra cho
những người chung quanh.
Bạn có thể trở
thành nhà giảng thuyết hiệu lực nhờ sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Để trở thành
cha mẹ tốt, người vợ và chồng tốt, người hàng xóm tốt, hãy biết dùng cái nguyên
liệu mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng bạn. Bạn cần phải tin tưởng vào cái nguyên
liệu đó. Nó sẽ ban cho bạn sức mạnh, hy vọng và trang bị cho bạn biết phục vụ
người khác trong sứ mệnh Chúa Giêsu đã truyền dạy.
Hãy phó mình cho
Thiên Chúa như một em bé. Hãy lắng nghe lời Ngài như một người con ngoan thảo.
Nếu bạn tin tưởng vào Chúa thì một sự việc lạ lùng sẽ xảy ra. Đó là bạn sẽ biết
kính trọng tất cả mọi người, và bạn sẽ biết phải sống với mọi người ra sao.
14. Con Yêu Dấu.
Theo các nhà chú
giải, Chúa Giêsu đã hạ mình xuống, chấp nhận thân phận tội nhân để xin Gioan
Tiền hô làm phép rửa. Thế nhưng, cũng chính nhờ đó, Ngài đã thánh hóa nước và
ban cho nước một hiệu quả kỳ diệu đó là trao ban ơn sủng. Hay nói cách khác,
chính nhờ đó Ngài đã thiết lập bí tích Rửa tội.
Đồng thời trong
lúc tự hạ mình xuống như vậy, Ngài đã được Chúa Thánh Thần tấn phong, như lời
tiên tri Isaia đã xác quyết: - Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ngài đã sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng
mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.
Hơn thế nữa,
chính trong lúc tự hạ mình xuống như vậy, Ngài đã được Chúa Cha nâng lên qua
lời truyền phán: - Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Với chúng ta
cũng vậy, kể từ khi lãnh nhận dòng nước thanh tẩy, chúng ta cũng đã được Chúa
Cha nhận làm con cái Ngài.
Để hiểu được
tình trạng của chúng ta, trước và sau khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, cũng như
để hiểu được ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của địa vị làm con cái Chúa mà
bí tích Rửa tội đem lại, thiết tưởng chúng ta nên đọc lại câu chuyện về ông
Maisen trong Cựu ước.
Thực vậy, lúc
bấy giờ Pharaon vua Ai Cập ra lệnh giết hết các trẻ nam của người Do thái, vì
sợ rằng họ sẽ sinh sôi nảy nở ra nhiều và trở nên một thế lực chính trị hùng
mạnh. Có một phụ nữ Do Thái, sinh được một con trai. Bà lén nuôi đứa bé trong
một thời gian, nhưng cảm thấy không ổn. Và thế là bà bèn làm một chiếc thúng,
trát nhựa, rồi đặt đứa bé nằm trong đó và thả trôi theo dòng nước.
Rất may có một
nàng công chúa xuống tắm, nghe thấy tiếng trẻ khóc trong đám lau sậy, bèn sai
nữ tì xuống vớt. Nàng công chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi và đặt tên cho là
Maisen, nghĩa là được vớt lên khỏi nước.
Trước khi được
vớt lên khỏi nước, Maisen sẽ phải chết và nếu có sống thì cũng chỉ là sống một
kiếp nô lệ đọa đày. Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Maisen trở thành con
của nàng công chúa, có một cuộc sống an nhàn trong hoàng cung...
Với chúng ta
cũng thế, trước khi lãnh nhận dòng nước rửa tội, chúng ta là những kẻ phải chết
do hậu quả của tội nguyên tổ. Còn sau khi lãnh nhận dòng nước Rửa tội, chúng ta
trở nên con cái Thiên Chúa và được quyền thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Thế nhưng để
xứng đáng với địa vị cao cả này, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa: - Chúng ta
phải làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách vâng theo thánh ý của Ngài.
Thực vậy, thế
nào là một người con ngoan trong gia đình? Một người con ngoan trong gia đình
chắc chắn không phải là người con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều
gì. Trái lại, phải là người con mau mắn vui vẻ vâng theo những lời chỉ dạy của
chạ mẹ.
Nếu Đức Kitô đã
được Chúa Cha tuyên phong: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, thì
chắc hẵn Ngài luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, nhìn
vào cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Trong suốt quãng đời
công khai, Ngài hằng băn khoăn để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ngài đã từng nói
với các môn đệ: - Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai ta.
Ngay cả trước
khi ra đi chịu chết, nỗi băn khoăn ấy vẫn còn được thể hiện: - Lạy Cha, nếu có
thể, xin cất chén đắng này cho Con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà
thôi.
Thánh Phaolô đã
diễn tả về thái độ này như sau: - Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết
trên thập giá.
Với chúng ta
cũng vậy, để trở thành người con yêu dấu của Chúa, chúng ta cũng phải chu toàn
thánh ý Ngài ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói
lương tâm, qua mười giới răn, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh, nhất là luật yêu
thương của Phúc âm, cũng như qua giáo huấn của Hội Thánh.
Có chu toàn
thánh ý Chúa giữa lòng cuộc đời, thì trong ngày sau hết, chúng ta mới được Chúa
Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã từng tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông
Giócđan:
- Này là con Ta
yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
15. Phép rửa.
Trong sinh hoạt
của Giáo Hội, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa vừa là một kết thúc, vừa là một mở
đầu. Kết thúc trong Mùa Giáng sinh và bắt đầu Mùa thường niên. Hôm nay với lễ
Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội bắt đầu tuần thứ nhất Mùa thường niên.
Trong cuộc đời
của Chúa Giêsu thì biến cố Chúa Giêsu đến lãnh phép rửa của Gioan tẩy giả nơi
sông Giócđan cũng là một kết thúc và là một mở đầu. Kết thúc cho quãng đời sống
ẩn dật âm thầm và bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, thực hiện
chương trình mà Chúa Cha đã trao phó cho.
Biến cố Chúa
Giêsu chịu phép rửa là một biến cố mạc khải quan trọng và ta có thể nói đây là
mạc khải đầu tiên công khai không những về thực thể, về sứ mạng của Chúa Giêsu,
nhưng còn là một mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một người đứng
xếp hàng giữa bao tội nhân thống hối đến lãnh phép rửa thống hối của Gioan để
chuẩn bị đón nhận ơn cứu rỗi không phải chỉ là một người phàm trần đơn thuần,
nhưng lại là Con Thiên Chúa, Con Thiên Chúa nhập thể làm người: "Đây là
Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng". Đó là lời mạc khải của Thiên
Chúa Cha về Chúa Giêsu Kitô, lời mạc khải long trọng và công khai cho nhiều
người trong lúc đó nghe được, đồng thời cũng chính lúc đó Chúa Thánh Thần ngự
xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu như bài Tin Mừng tường thuật lại.
Mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi được vén mở cho con người, để rồi sau này chính Chúa Giêsu sẽ
giảng dạy thêm cho các đồ đệ trong nhiều dịp khác nhau, mà dịp kết thúc cuối
cùng cũng liên quan đến phép rửa là phép rửa trọn hảo của Chúa Giêsu, đó là
phép rửa trong Chúa Thánh Thần khi Chúa Phục sinh ra lệnh cho các tông đồ: "Chúng
con hãy đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, dạy dỗ họ tuân giữ
những gì Thầy đã truyền cho anh em và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần".
Nơi phép rửa
chuẩn bị của Gioan, Chúa Giêsu đã vén mở cho dân chúng nhìn thấy trước phép rửa
trong Thánh Thần mà Ngài sẽ thiết lập và truyền cho các môn đệ thi hành. Chúa
Giêsu lãnh nhận phép rửa bằng nước nơi sông Giócđan của Gioan tẩy giả, Ngài
bước lên và tràn đầy Chúa Thánh Thần, nhưng Chúa Thánh Thần và Thiên Chúa Ba
Ngôi được mạc khải trong biến cố khởi đầu này.
Nhìn vào bài
tường thuật chúng ta vừa đọc trên, chúng ta có thể lưu ý đến một chi tiết đầy ý
nghĩa khác nữa, đó là chi tiết được tác giả Phúc âm diễn tả bằng từ ngữ
"Trời mở ra". Từ ngữ này nhắc nhớ đến hình ảnh Kinh Thánh Cựu ước nơi
thánh vịnh, chúng ta đọc thấy lời nguyện cầu tha thiết sau đây: "Lạy Chúa,
xin hãy xé trời ra mà ngự xuống trên trần gian này". Nơi sách tiên tri
Isaia, ngài đã cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, tại sao Ngài không xé trời
mà ngự xuống với chúng con trên trần gian này. Dân Israel cũng như mọi thành
phần trong dân chúng chắc chắn đều biết lời cầu nguyện này của tiên tri Isaia
và đã cầu nguyện như vậy, qua đó nói lên tâm hồn khao khát ơn cứu rỗi, khao
khát Đấng Thiên sai, Đấng Thiên Chúa Cha sai xuống để cứu rỗi con người.
Lời cầu nguyện
trên nói lên nỗi khát vọng của con người muốn gặp được Thiên Chúa, của một con
người cảm thấy thân phận mình yếu hèn cần đến sự trợ lực của Thiên Chúa. Người
Việt Nam chúng ta trong cơn khốn cùng cũng thường kêu lên: "Trời ơi, hãy
xuống mà xem". Như thế, chi tiết trời mở ra trong biến cố Chúa Giêsu chịu
phép rửa là một chi tiết mạc khải quan trọng, đó là đã đến lúc Thiên Chúa nhận
lời cầu xin của Con Người: "Đây là Con Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng".
Thiên Chúa trọn vẹn Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần đã đáp lại khát vọng của
con người, Ngài sai Con Một Ngài xuống trần làm người để thực hiện chương trình
cứu rỗi, dẫn đưa nhân loại trở về cùng Ngài, trở về trời.
Biến cố Chúa
Giêsu chịu phép rửa nhắc lại cho con người nhớ rằng, con người khao khát cần
đến Thiên Chúa, khao khát được cứu rỗi và Thiên Chúa đáp lại khao khát này
trong Chúa Giêsu Kitô Con Ngài, nơi một con người không phải là con người tầm
thường đã đến nhận phép rửa của Gioan nơi sông Giócđan, mà nơi một con người vừa
là Con Thiên Chúa: "Đây là Con Ta yêu dấu, Con là con của Cha, ngày hôm
nay Cha đã sinh ra Con".
Yếu tố thứ hai
của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, đó là Chúa Thánh Thần ngự xuống cũng mang
một ý nghĩa sâu xa. Khởi đầu sách Sáng Thế khi bắt đầu công cuộc tạo dựng,
Thánh Thần Chúa đã bay lượn là là trên mặt nước, và trong biến cố Chúa Giêsu
chịu phép rửa, Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu.
Dĩ nhiên, bay lượn xuống trên Chúa Giêsu, chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới
mà Chúa Giêsu thực hiện và phép rửa là điểm khởi đầu của công cuộc tái tạo nên
mới trong Chúa Thánh Thần.
Mừng lễ Chúa
Giêsu chịu phép rửa hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban cho ta được ơn biết lắng
nghe Lời Chúa, sống vâng phục với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
16. Phép rửa
Phép rửa của Đức
Giêsu nhắc nhở chúng ta về phép rửa tội của chính chúng ta. Có nhiều lễ nghi mà
người ta có thể giữ trong Giáo Hội. Nhưng tất cả những lễ nghi này đều trở nên
mờ nhạt, khi so sánh với ân sủng cơ bản đối với tất cả: Phép Rửa rội. Khi chúng
ta đứng trước ngai tòa Thiên Chúa, thì những lễ nghi khác không còn quan trọng
nữa. Phẩm giá của chúng ta sẽ chỉ tùy thuộc vào một điều mà thôi – mức độ chúng
ta sống ơn phép rửa tội của chúng ta.
Lễ nghi của phép
rửa tội là một lễ nghi tuyệt đẹp. Khi lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta được
chính thức nhận một tên, và được đón tiếp vào gia đình của dân Thiên Chúa.
Những lời cầu nguyện thật đáng yêu được đọc lên cho chúng ta. Thân thể chúng ta
được ghi dấu thánh giá, dấu hiệu tình yêu của Đức Kitô đối với chúng ta. Nước
được đổ xuống trên chúng ta. Nước là biểu tượng của sự tẩy rửa, chúng ta được
tẩy rửa khỏi tội lỗi. Nhưng đặc biệt hơn, nước còn là biểu tượng của sự sống.
Trong phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống không thể chết được của Thiên
Chúa.
Cơ thể chúng ta
được xức dầu thánh không chỉ một lần, mà đến hai lần. Giống như cơ thể của các
vận động viên được bôi một lớp dầu, để mang lại cho họ sức khỏe trong cuộc
tranh tài. Cũng vậy, chúng ta được xức dầu thánh, để ban cho chúng ta sức mạnh,
trong cuộc đấu tranh không thể tránh khỏi, nhằm chống lại sự dữ. Và cũng giống
như các vị vua, các ngôn sứ, và các linh mục đã được xức dầu, và do đó, đánh
dấu rằng họ trở thành những người rao giảng của Thiên Chúa đối với cộng đồng.
Cũng vậy, chúng ta được xức dầu, để trở nên những sứ giả của Đức Kitô, trong
thế giới này.
Thân thể của
chúng ta được phủ lên một chiếc áo trắng tinh, đó là dấu hiệu bên ngoài của
nhân phẩm người Kitô hữu. Chúng ta được trao cho một cây nến, được thắp sáng từ
ngọn nến Phục sinh, mang ý nghĩa ánh sáng quý giá của đức tin. Thiên Chúa kêu
gọi chúng ta ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng kỳ diệu nơi Con của Người.
Những gì diễn ra
trong lần Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa, cũng xảy ra cả cho chúng ta nữa. Thiên
Chúa kêu gọi đích danh chúng ta. Người nói với mỗi người chúng ta "Con là
con trai yêu dấu của Ta", hoặc "Con là con gái yêu dấu của Ta".
Và thần khí Chúa đáp xuống trên chúng ta, để giúp chúng ta sống đời sống của
một Kitô hữu, và để tham gia vào sứ vụ của Đức Giêsu.
Từ quan điểm
thiêng liêng, phép rửa tội là một điều vĩ đại nhất có thể xảy ra cho chúng ta.
Được lãnh nhận phép rửa tội là được kitô hóa, nghĩa là được trở nên giống như
Đức Kitô. Nhưng điều này không xảy ra một cách tự động, như là kết quả của việc
được lãnh nhận phép rửa tội. Người ta phải học hỏi ý nghĩa của việc trở nên một
người Kitô hữu là gì, và phải lớn lên trong ý nghĩa này. Đây là công việc của
cả một đời người. Đến cuối cuộc đời, người ta hỏi một vị thánh, xem ngài đã là
người kitô hữu chưa, thì ngài đáp lại chưa.
Trong Giáo Hội,
có nhiều ơn gọi. Nhưng ơn gọi quan trọng nhất vượt lên trên tất cả các ơn gọi,
phổ biến đối với tất cả những người đã được chịu phép rửa tội, đó là ơn gọi mà
chúng ta đã được đón nhận vào lúc rửa rội – ơn gọi trở thành người môn đệ của
Đức Giêsu. Đây là ơn gọi cốt lõi. Tất cả những ơn gọi khác trong Giáo Hội đều
phải được coi như liên hệ với ơn gọi này.
Chúng ta tổ chức
thật lớn ngày sinh nhật của mình. Cũng vậy, chúng ta nên cử hành ngày lễ rửa
tội của chúng ta một cách long trọng, bởi vì đó là ngày mà chúng ta được sinh
ra làm con cái Thiên Chúa. Mỗi khi vào nhà thờ, và lấy nước thánh làm dấu, là
chúng ta đang tự nhắc nhở mình về phép rửa tội của chúng ta, và tự cam kết sống
trọn vẹn với ơn gọi của phép rửa tội. Sống theo ơn gọi của phép rửa tội, là
sống tư cách người môn đệ của Đức Giêsu.
17. Con Chúa.
Khi lãnh nhận bí
tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa. Thế nhưng, chúng ta có cảm
thấy hạnh phúc khi được làm con cái Chúa hay không? Chúng ta có lấy Chúa làm chọn
lựa căn bản, làm cùng đích của cuộc đời hay không? Nói đến điểm này, tôi nhớ
lại câu chuyện giữa chàng thanh niên và thánh Philipphê Nêri như sau:
Ngày kia, chàng
thanh niên đến khoe với thánh nhân: mừng quá cha ơi, con vừa mới đậu vào đại
học. Thánh nhân bèn hỏi: Rồi sao nữa? Con sẽ tốt nghiệp. Rồi sau nữa? Con sẽ
làm thẩm phán, ra ứng cử và biết đâu con sẽ làm tổng thống. Rồi sao nữa? Thì
chết, chứ còn làm sao. Nhưng thánh nhân vẫn hỏi tiếp: Rồi sao nữa? Chàng thanh
niên không trả lời được.
Chính cách đặt
câu hỏi của thánh nhân cho chúng ta thấy cùng đích của cuộc là gì nếu không
phải là làm con cái Chúa. Và chọn lựa căn bản trong đời sống làm con Chúa là gì
nếu không phải là chọn chính Chúa. Khi nói chọn Chúa thì không có nghĩa là phải
đi tu, phải từ bỏ những chọn lụa khác. Ai đang yêu thì cứ yêu cho thật chân
thành, nhưng phải làm sao cho tình yêu ấy trở nên thanh cao. Ai học tập vẫn cứ
tiếp tục học tập, nhưng phải làm sao cho việc học tập ấy trở nên nghiêm túc. Ai
buôn bán vẫn cứ tiếp tục buôn bán, nhưng phải làm sao cho việc buôn bán ấy trở
nên công bằng.
Một khi đã chọn
Chúa, thì trong mọi việc chúng ta hãy làm trước sự hiện diện của Ngài, như lời
thánh Phaolô khuyên nhủ: Dù ăn, dù ngủ, dù làm việc gì, anh em hãy làm vì danh
Đức Kitô. Hay nói cách khác, chúng ta hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy,
chẳng hạn như hiền lành, khiêm nhường, yêu thương anh em, kể cả những kẻ thù
địch...
Làm con cái Chúa
như thế đòi hỏi rất nhiều cố gắng và hy sinh. Thế nhưng, chúng ta phải đi cho
tới cùng, bởi vì chịu phép rửa tội không phải chỉ là chuyện đổ nước xong rồi
thôi, nhưng là chấp nhận dìm mình trong sự chết của Đức Kitô để rồi giống như
Ngài từ cõi chết sống lại thế nào, chúng ta cũng phải đứng dậy trong sời sống
mới như vậy. Một phép rửa như thế, chúng ta không phải chỉ chịu một lần thay
cho tất cả, nhưng phải chịu mỗi ngày trong suốt cuộc đời.
Giờ đây, chúng
ta cùng nhau thinh lặng trong giây lát để nhớ lại bí tích rửa tội đã lãnh nhận
và tự hỏi: Tôi có cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc vì được làm con cái Chúa hay
không? Tôi có sống xứng đáng địa vị cao cả ấy không?
18. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin.
Cánh cửa chót
trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà
mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến
thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh
chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức...
Lúc đó vị Tẩy
Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận
chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô
sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch
chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục
một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ "Đấng đến sau tôi"
(x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan
đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời
gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán
vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh
viễn biến mất.
MẶC KHẢI THẦN
LINH SAU KHI ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA (3,21-22)
Khi toàn dân đều
đã chịu phép rửa và khi Chúa Giêsu Kitô đã chịu phép rửa và đang cầu nguyện,
thì trời mở ra và Thánh Thần ngự đến... Trong một câu duy nhất của bản văn Hy
Lạp, không có kết cấu giữa nghi thức tẩy rửa và hiển linh. Nghi thức tẩy rửa,
biểu lộ sự liên đới hoàn toàn giữa Đức Giêsu và dân chúng, được diễn tả bằng
thời quá khứ; sự hiển linh xảy ra đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện (động từ tính
hiện tại). Luca cũng không nói gì về nơi chốn của hoạt cảnh về nhân vật Gioan
(đã bị giam ngục!). Như thế, ông xóa bỏ những ràng buộc của mặc khải diễn ra
nữa. Thiên Chúa đáp lời Chúa Giêsu đang cầu nguyện, mà không tuỳ thuộc vào phép
rửa của vị Tiền hô. Như vậy, trong sách Công vụ, đã được loan báo mối liên hệ
chặt chẽ giữa việc cầu nguyện của cộng đoàn Kitô và ân huệ của Thần Khí, Đấng
ban sức mạnh để làm chứng.
Việc hiển linh
gồm ba yếu tố: trời mở ra để có được sự thông hiệp giữa thế giới thần linh và
con người, Chúa Thánh Thần hiện xuống và tiếng từ trời – Luca sẽ lấy lại những
yếu tố ấy một cách kín đáo hơn trong trình thuật lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-6), đối
xứng với cảnh hiện tại. Trong Mc 3,10-11, ba yếu tố trên hợp thành một thị kiến
chỉ dành cho Chúa Giêsu. Ngược lại, Luca trình bày hai yếu tố đầu như một biến
cố khách quan và còn đi tới chỗ thêm "dưới một hình dáng thể xác".
Những lý do có tính cách minh giáo giống như thế dẫn ông đến việc cũng
"nói quá" đi ở 24,11-13 để "chứng minh" cho Thêôphilê và
những người khác thấy cái thực tại của những gì vốn không diễn tả được.
Trái với những
gì xảy ra với Maccô, Thần Khí tiên tri ngự xuống Chúa Giêsu không phải là lần
đầu, bởi vì từ khi sinh ra Ngài đã được Thần Khí thánh hiển để phụng sự Thiên
Chúa (1,35). Đúng hơn phải nói đây là một cách cụ thể hoá sức mạnh của Thần
Khí; cũng thế, Phêrô và các bạn ông, đã được đầy Thần Khí và ngày lễ Ngũ tuần
(Cv 2,4), lại được như vậy một lần nữa trong những lần bị bách hại đầu tiên (Cv
4,31). Ý nghĩa của biểu tượng chim bồ câu ở Luca không giống như ở các tác giả
Nhất Lãm; ngược lại, ý nghĩa những lưỡi như lửa ở Cv 2-3 được giải thích dễ
dàng trong mối liên hệ với bối cảnh đó. Dù sao chăng nữa, trong hai trường hợp
tiếng "như" biểu lộ sự bất tương xứng giữa hình ảnh của con người và
thực tại không thể diễn tả nổi. Tiếp theo đó, Luca sẽ giải thích tới hai lần
việc Thần Khí ngự xuống Chúa Giêsu như một việc xức dầu tiên tri để hoàn tất
lời sấm của Is 61,1: trong bài giảng khai mạc ở Nagiaret (4,18) và trong một
bài diễn từ cuả Phêrô (Cv 10,38).
Tiếng từ trời ở
câu 22 nói gì? Trong Matthêu và Maccô- được một vài thủ bản của Luca bắt chước
– tiếng nói pha trộn Tv 2,7 và Is 42,1: "Chính Con là Con Ta rất yêu dấu,
Ta rất vui lòng chọn Con". Trong Luca, tiếng ấy chỉ trích dẫn Tv 2,7
"Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con", như vậy Chúa Giêsu được
phong làm Vua Mêsia. Nói với Người ở Ngôi thứ hai, tiếng ấy không chỉ về những
nhân vật khác trong trình thuật. Việc chỉ định Ngài là con thực ra không phải
là một mặc khải cho Chúa Giêsu vì ngay từ Lc 2,49 Ngài đã từng nói Thiên Chúa
như là Cha của mình; việc Chỉ định này cũng không làm độc giả ngạc nhiên, vì đã
học biết về tử hệ của Chúa Giêsu ở Lc 1,32-35. Thiên Chúa sẽ một lần nữa chỉ
định Chúa Giêsu là Con của Ngài (Lc 9,35); lúc đó sẽ nhắm tới sứ vụ thứ hai và
là sứ vụ chót của Người. Rốt cuộc, những lần tôn phong liên tiếp này, mà sẽ đi
đến tột đỉnh trong ngày Phục Sinh (Cv 13,33), chứng tỏ rằng vương quyền của
Giêsu, Đấng Mêsia, được thực hiện từng giai đoạn.
19. Chú giải của
Noel Quesson.
Tin Mừng theo
Thánh Luca kể lại cho ta giai đoạn đầu, đời sống công khai của Đức Giêsu theo
trình tự sau đây:
1. Gioan Tẩy Giả
rao giảng: Các ngươi hãy hoán cải ...Ngài đang đến (Lc 3,1 -18).
2. Gioan Tẩy giả
bị cầm tù (Lc 3, 19-20).
3. Đức Giêsu
chịu phép rửa (Lc 3,21 -22).
4. Gia phả của
Đức Giêsu (Lc 3,23-58).
5. Đức Giêsu
chịu cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh tại hoang địa (Lc 4,1-13).
6. Đức Giêsu bắt
đầu rao giảng, đặc biệt tại Na-gia- rét (Lc 4,14-30).
Một lần nữa,
chúng ta lưu ý rằng, trước hết Luca không tìm cách thông tin cho ta về một
chuỗi "sự kiện lịch sử". Nếu chỉ có Tin Mừng Luca truyền lại, thì ta
sẽ không biết "ai" đã làm phép rửa cho Đức Giêsu: vì Luca kể cho
chúng ta việc cầm tù Gioan, trước khi cho chúng ta chứng kiến phép rửa của Đức
Giêsu, mà trong nghi thức này, Luca cũng không nhác đến vị Tiền hô. Những người
thời xưa (cả Luca và mọi kẻ khác) không có quan niệm tân thời như chúng ta về
lịch sử. Mục đích của họ không phải là kể ra những sự kiện đơn thuần, nhưng
nhằm nói với lương tâm tín hữu.
Đối với họ, ý
nghĩa những sự kiện hoàn toàn thuộc về lịch sử. Do đó qua những thể thức văn
chương thường được dùng đi dùng lại trong Kinh thánh, thánh sử trình bày phép
rửa của Đức Giêsu vừa như một sự kiện lịch sử không thể chối cãi được (do đó có
một nền tảng chung với những trình thuật đối chiếu khác), vừa như một
"hành động tượng tương" (do dó, có những đặc điểm khác nhau trong mỗi
Tin Mừng). Giải thích một sự kiện, không phải là chối bỏ sự kiện đó, mà cho nó
là thực và định giá đúng tầm quan trọng của nó. Chẳng hạn, ở đây chúng ta thấy
một sự "giải thích" của Luca: "Đức Giêsu khai mở một kỷ nguyên
mới". Giao uỡc cũ đã chấm dứt... Gioan Tẩy giả là một vị đại diện cuối
cùng của giao ước cũ. Ong biến mất trước khi Đức Giêsu bắt đầu công trình của
Ngài. Sự diễn giải lịch sử như thế là diễn giải đúng theo lãnh vực đức tin,
nhưng chúng ta cũng không bị ngăn cản vận dụng trí tuệ để qua các chính sử khác,
biết ràng thực ra, sự cầm tù Gioan Tẩy gỉa xảy ra sau đó rất lâu, và thời gian
rao giảng của Đức Giêsu đã bị xén bớt rất nhiều (Mc 6,17; Mt 16,3).
Bài đọc phụng vụ
Chúa Nhật này đã xếp gần lại những pha cảnh sau đây: 1. Cuộc rao giảng của
Gioan (Lc 3, 15-16)... Và 2. Phép rửa của Đức Giêsu (Lc 3, 21 -22) bằng cách bỏ
qua các câu trung gian kể lại sự vắng mặt của Gioan. Sự giải thích trên đây đã
cho chúng ta hiểu tại sao. Phần chú giải lời rao giảng của Gioan, chúng ta gặp
ở Chúa nhật thứ III Mùa Vọng, hôm nay chúng ta bắt đầu bài Tin Mừng dành cho
Chúa Nhật này.
Khi toàn dân đã
chịu phép rửa.
Kiểu nói phổ
quát: "toàn dân" cũng là nét riêng của thánh Luca, mà ông thích dùng
(Lc 1,10; 3,4). Luca, vị phát ngôn viên của Thiên Chúa lặp lại ở đây rằng, ơn
cứu độ dành cho mọi người và sứ vụ của Đức Giêsu sắp bắt đầu sẽ dành cho tất
cả. Kiểu nói này cũng muốn nói lên từ trước đến giờ Đức Giêsu hành động
"như mọi người". Và lúc Người bước ra hoạt động không có gì phân biệt
Người với những công dân khác, với "toàn dân". Đó là một người Do
Thái tốt lành và tín trung, không cố tách riêng ra khỏi quần chúng Vì mọi người
đều xin chịu phép rửa, nên Đức Giêsu cũng xin lãnh phép rửa.
Chúng ta lưu ý
rằng, từ "toàn dân" này của Luca đúng thực biết bao: đó là đặc điểm
mà ông nhấn mạnh và cũng là nét riêng của ông, so với trình thuật của các thánh
sử khác.
Lạy Chúa, con
nhận được sự mạc khải này, qua "từ" trên đã được linh hứng.
Tôi ngắm nhìn
Đức Giêsu đã hoàn toàn "nhập thể" làm "người" đến độ Ngài
làm "như toàn dân". Tôi dùng trí tưởng tượng quan sát Đức Giêsu lẫn
trong đám đông một cách vô danh. Ngài đang ở đó trong dãy dài những nam nữ bình
thường đang đợi đến lượt mình để nhận phép rửa. Tôi cầu nguyện nhờ suy niệm mạc
khải này.
Đang khi Đức
Giêsu cầu nguyện.
Cầu nguyện cũng
là nét riêng của trình thuật Luca thích minh chứng cho chúng ta thấy Đức Giêsu
đang cầu Nguyện (Lc 5,16 - 6,12 - 9,18. 28.29 - 10,21 - 11,1 – 22,23. 40,46 -
23, 34,46). Tôi cũng có thể ngừng lâu ở chi tiết này, để cầu nguyện.
Vậy thì theo
Luca "hành vi đầu tiên" đánh dấu đời sống công khai của Đức Giêsu là
cầu nguyện. Đây là việc đầu tiên mà chúng ta thấy Ngài làm với tư cách là một
người trưởng thành. Lần đầu tiên nói tới Đức Giêsu bước vào tác vụ của Ngài,
lại là nói đến việc Ngài: "đang cầu nguyện". Và trong lúc cầu nguyện
đó, Ngài sẽ nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Và khi kể lại giai đoạn đầu của Giáo
hội, đến lượt mình, cũng sẽ nhận lãnh Thánh Thần (Cv 1,4-2,1-11). Do đó cầu
nguyện là nhường chỗ cho Thánh Thần. Là dọn chỗ trống cho người ngự đến. Là tạo
điều kiện cho người xuất hiện. Trong một đoạn khác của Tin Mừng, Luca sẽ nói
với ta rằng, điều cần thiết chung nhất phải xin với Chúa, là xin người ban cho
"Thần khí của Người" như thế tất cả những cái khác sẽ đến thêm sau.
"Chúa Cha ngự trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người" (Lc
11-13). Tôi có cầu nguyện với ý đó không?
Tôi có xin
"phép rửa của Thần Khí" không? Theo lời loan báo của Gioan Tẩy giả:
Ngài (Đức Giêsu) sẽ rửa các ngươi (sẽ dìm các người) trong Thánh Thần và lửa
(Lc 3,16). Theo gương của Đức Giêsu cầu nguyện, tôi đã dành cho cầu nguyện vị
trí nào trong đời sống của tôi? Cầu nguyện để "xin Thánh Thần" mà
Chúa Cha sẵn sàng ban cho những kẻ kêu xin, có chỗ đứng như thế nào?
Sau khi Đức
Giêsu chịu phép rửa.
Trước tiên, sự
kiện trên hẳn làm ta dễ thắc mắc. Làm sao Đức Giêsu lại nhận "phép rửa tỏ
lòng sám hối"? (Lc 3,3). Làm sao, Ngài không có tội lại cần phải chịu phép
rửa? Câu trả lời ở phía sau, trong Tin Mừng này. "Đó là một thứ lửa mà
Thầy đã đến để ném vào mặt đất. Đó là một phép rửa mà Thầy sẽ bị dìm xuống, và
lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất (Lc 12,49-50). Phép
rửa thật sự của Đức Giêsu, đó là cái chết cứu chuộc của Ngài. Khi xin chịu phép
rửa "trong hàng ngũ các tội nhân" và trong suốt cuộc đời Ngài đã chấp
nhận thái độ của một "hối nhân", Đức Giêsu đã hoàn toàn liên kết với
khát vọng của con người muốn cầu xin Thiên Chúa "cứu rỗi" và thanh
tẩy mình. Ngài muốn thay thế cho ta là những tội nhân. Đức Giêsu không đến để
lên án thế gian tội lỗi, nhưng để cứu chuộc (Ga 3,17).
Đức Giêsu
"cũng chịu phép rửa", nên không đứng từ trên cao xét đoán những yếu
đuối đáng thương của tôi. Ngài liên đới với những yếu đuối đó. Phép rửa của Đức
Giêsu là mô hình cho phép rửa của các Kitô hữu.
Lúc đó trời mở
ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người.
Máccô nói: Bầu
trời "xé ra" (Mc 1,10). Còn Luca lại viết: Trời "mở ra"
không có vẻ gì là ác liệt của lối văn khải huyền cả, có thể nói còn mang tính
dịu dàng nữa.
Vâng, Đức Giêsu
bắt đầu một kỷ nguyên mới. Giao ước cũ đã chấm dứt. Thời Gioan Tẩy giả hăm dọa
nhân loại bằng "cơn thịnh nộ" của Thiên Chúa ("nòi rắn độc"
Lc 3,7) cũng đã chấm dứt. Một cuộc giao hòa mới được thiết lập giữa trời và
đất. Trời không còn đóng kính nữa, mà đã "mở" ra. Và Thần Khí Thiên
Chúa - phần của Thiên Chúa mà ta có thể thông hiệp được, đã được ban cho một
người, Đức Giêsu trước khi được ban cách dồi dào cho tất cả những ai chịu
"phép rửa trong Thánh Thần": Vào ngày lễ Ngũ tuần và mỗi khi cử hành
phép rữa. Tôi dành cho phép rửa của tôi một chỗ đứng nào? tôi dành cho phép rửa
của các con tôi vị trí nào? Tôi dành cho Chúa Thánh Thần chỗ đứng nào trong
cuộc sống thiêng liêng của tôi? Thánh Thần là Đấng không được biết nhiều ở
Phương Tây, là Đấng mà Phương Đông đã bắt đầu mang lại cho chúng ta.
Đức Giêsu chính
là "Đấng mà Thánh Thần ngự xuống" (Lc 4,1.4, 14.4,18).
Dưới hình dáng
như chim bồ câu.
Đã có nhiều cách
giải thích về câu chú thích về "dấu chỉ" dễ cảm nhận này. Phải chăng
đó là nhắc lại bồ câu của biến cố Đại hồng thủy, nhằm báo trước một thế giới
mới? (St 8,8). Phải chăng đó là tượng trưng cho tình yêu của Thiên Chúa trong
sách Diễm ca (Lc 2,14-5,2)? Phải chăng đó là nhắc lại cuộc sáng tạo thế gian mà
Thần Khí bay là là trên mặt nước? (St 1,1).
Mỗi cách giải
thích như thế, có thể trở nên khởi điểm cho một buổi cầu nguyện. Vâng, một tạo
vật mới đang phát sinh. Một nhân loại mà Thiên Chúa không muốn trừng phạt nữa,
vì người yêu thương nhân loại hết tình.
Lại có tiếng từ
trời phán rằng.
Thiên Chúa nói
với Đức Giêsu, một cách âu yếm như cha nói với con, đầy yêu thương.
Con là con của
Cha.
Ở đây theo Luca,
Đức Giêsu được xưng gọi theo Ngôi thứ hai. Trong khi đó, Mát-thêu kể lại cùng
cảnh này, lại dùng Ngôi thứ ba: "Đây là con yêu dấu của Ta" (Mt
3,17). Vậy theo lịch sử cách nói nào là đúng thực? Cả Luca lẫn Mátthêu đều không
lưu tâm đến việc đặt câu nói như thế của thời chúng ta. Truyền thống Do Thái từ
xa xưa vẫn khẳng định rằng, Thiên Chúa "duy nhất" chỉ nói bằng
"một cung giọng duy nhất" (bình luận của Rachi về thập giới: Mười
điều răn này được tuyên bố bằng cách chỉ phát ra một lời duy nhất, đó là điều
con người không thể hiểu được, Thiên Chúa nói "một lời" và loài người
nghe "nhiều lời". Họ hiểu theo nhiều cách.
Ngày hôm nay Cha
đã sinh ra con.
Hiển nhiên, Luca
diễn giải lời duy Nhất của Thiên Chúa bằng cách trích dẫn ngôn sứ Isaia 42,1 và
Thánh Vịnh 2,7. Trích dẫn Kinh Thánh này sẽ được dùng nhiều lần để diễn tả tư
cách "là con Thiên Chúa" và việc tái sinh của Đức Giêsu phục sinh,
dưới cùng ngòi bút của Luca (Cv 13,33) và của một môn đệ khác của Phaolô (Dt 1,5-5,5).
Nhờ cầu nguyện,
chúng ta hãy bước sâu vào mầu nhiệm của Đức Giêsu hôm nay, được sinh ra! Ở đây,
không đề cập đến noãn sào của Đức Maria vào lúc đầu thai, cũng không bàn đến
việc sinh hạ cậu bé còn quấn tã ở Bê-lem, nhưng lại nói về Đức Giêsu trưởng
thành, vào lúc 30 tuổi! Đây là thông điệp cấp bách nhất cho nhân loại ngày nay:
con người không thể mồ côi, không là kết quả của "ngẫu nhiên và tất
yếu". Nơi Đức Giêsu, nhân loại phát sinh từ một Thiên Chúa thương yêu nó.
Đó là ý nghĩa phép rửa của tôi. Tôi sinh ra từ Thiên Chúa.
20. Chú giải của
Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU CHỊU
PHÉP RỬA
1. Câu Lc 3,19
nói đến việc gioan tẩy giả bị tống giam tách biệt đoạn văn liên quan đến Gioan
tẩy giả khỏi bản văn liên quan đến Chúa Giêsu và qua đó, nó phân biệt hai thời
kỳ cứu độ, như nhận xét ở 16,16 sẽ cho thấy: "Cho đến thời Gioan, thì có
lề luật và các tiên tri, từ đó trở đi Nước Thiên Chúa được loan báo...".
Và vì thế từ đó về sau con đường mô tả Chúa Giêsu không còn vướng nữa. Sự kiện
hai tài tử chính cùng diễn suất chưa có thể hoàn toàn loại bỏ được, nhưng Luca
đã cất khỏi sự kiện này tất cả ý nghĩa hiện thực của nó. Theo 3,21-22, Chúa
Giêsu chịu phép rửa như một người dân, như bất cứ người Do thái nào khác. Luca
loại bỏ tất cả gì có thể làm cho độc giả tưởng rằng Gioan tẩy giả đóng vai trò
quan trọng trong biến cố này. Thực vậy, ông đã không nhắc đến tên của vị tiền
hô trong lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Điều này rất phù hợp với quan niệm của
ông về ý nghĩa cuộc đời vị Tẩy giả. Vẫn theo Luca 16,16, thì Gioan tẩy giả chỉ
là một tiên tri thuộc về thời kỳ cổ xưa. Điểm khởi đầu được đánh dấu bằng sứ vụ
của Chúa Giêsu, chứ không phải như ở Maccô, bởi sự xuất hiện của Gioan tẩy giả.
2. Vì thế Luca
không nói ai đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu. Ông chỉ nhắc đến việc Chúa Giêsu
chịu phép rửa trong một mệnh đề phụ về thời gian, và đồng hóa phép rửa Chúa
Giêsu như phép rửa các người khác (c.21) trong dân chúng. Dân chúng đã được
thanh tẩy, sứ mạng của vị tiền hô đã chấm dứt. Vì thế Luca rất ý thức về sự
liên đới của Chúa Giêsu với các tội nhân thống hối, nhưng ông không khai triển
ý tưởng này. Ông chú tâm vào việc trao ban Thánh Linh, là trung tâm điểm của
trình thuật. Đoản văn chúng ta đang nghiên cứu không mô tả phép rửa, nhưng mô
tả cuộc thần hiện của phép rửa. (Trong Phúc Âm thứ tư, phép rửa sẽ không được
nhắc tới nữa, Gioan không kể lại phép rửa, và thực sự mà nói, cũng không kể lại
cuộc thần hiện của phép rửa, nhưng đã tường thuật rất rõ ràng chứng tá của vị
Tẩy Giả tiếp liền sau cuộc thần hiện này).
3. Khi mô tả
thần hiện, Luca ghi lại điểm khách quan hơn, có tính cách lịch sử hơn:
"Xảy ra là.... thì trời mở ra và Thánh Thần xuống..." Khía cạnh
"thị kiến" không còn nữa. Với mục đích ấy, tác giả phúc âm nhấn mạnh
đến tính hiện thực bên ngoài của việc Thánh Thần ngự xuống: thay vì chỉ nói
"Thánh Thần như chim câu", ông nhấn mạnh: "Thánh Thần lấy hình
dáng thể xác như chim câu". Tuy vậy, ông vẫn giữ lại dấu chỉ của truyền
thống: trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống, lời Thiên Chúa phán. Nhưng sự can
thiệp của Thiên Chúa đáp lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thì chỉ có Luca ghi
lại thôi. Đối với Luca, cuộc đời Đức Kitô (Lc 5,16; 6,12; 9,18-29; 11,1;
22,32.41.44) là một đời cầu nguyện, trong giây phút đặc biệt đó, lời cầu nguyện
của Chúa Giêsu cũng không có gì lạ thường: phải chăng đó là việc chuẩn bị ám
hợp nhất đồng thời cũng là lời đáp trả thông thường đối với mối tiếp xúc của
Thiên Chúa? (Trong truyền thống Khải huyền, có các kinh nghiệm chuẩn bị đón
nhận sự mạc khải của Thiên Chúa: Đn 2,18; 9,3tt; 10,2-3; Lc 9,28-29; Cv 9,11;
10,30; 22,17).
Nhưng chỉ ghi
nhận lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là một đề tài được Luca ưa thích nhất vẫn
chưa đủ để giải thích sự có mặt của việc ấy trong biến cố này. Còn có một ý
nghĩa sâu xa hơn: theo Luca, lời cầu nguyện của Kitô hữu cốt yếu hệ tại ở việc
xin Thiên Chúa ban ơn Thánh Thần. Trong đoạn văn chỉ mình ông ghi lại nơi
chương 11,1-13, Luca dạy chúng ta về sự cầu nguyện đích thực và hiệu quả của
nó. Phần cuối của đoạn này cho chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan tâm của ông về
đề tài trên: "Vậy nếu các ngươi, tuy là ác, còn biết lấy của tất lành làm
quà cho con cái, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho ai xin
Người" (c.13).
Ta cũng nên chú
ý đến mối liên hệ giữa lời cầu nguyện của cộng đoàn với ơn Thánh Thần trong Cv
4,31: "trong khi họ cầu nguyện thì chỗ họ nhóm họp rung chuyển và hết thảy
được đầy Thánh Thần". Điều đó nhắc ta nhớ đến Chúa Thánh Thần hiện xuống
trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2) tiếp theo sau lời cầu khẩn của nhóm tông đồ (Cv
1,13-14), những kẻ đã từng chuyên tâm cầu nguyện. Chính việc chiếm hữu Chúa
Thánh Thần qua lời cầu nguyện làm cho các môn đệ của Chúa Giêsu khác biệt với
môn đệ của Gioan (Apollos và Phaolô ở Êpheso, Cv 19,1-6). Dưới cái nhìn của
Luca, thì việc thông ban ơn thiên sai và thần linh (Chúa Thánh Thần) khi Chúa
Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cho việc tuôn tràn phổ quát đã hứa ban cho thời đại
cánh chung. Một cách tương tự như thế, ông sẽ mở đầu sách Công Vụ bằng phép lạ
Hiện xuống.
4. Trong tâm
thức tôn giáo của cộng đoàn sơ khai, có một trào lưu đặc biệt, mà chỉ Luca ghi
nhận, đã xem việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép
rửa như là việc "xức dầu", việc hiến thánh Ngài với tư cách
"Đấng được xức dầu". Đó là phương cách mới để diễn tả ý nghĩa phép
rủa của Chúa Giêsu như một lễ phong chức của Đấng Thiên sai, họ dựa vào Is
61,1.
"Các ông
biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi từ Galilêa, sau phép rửa Gioan
rao giảng, Thiên Chúa đã xức dầu cho Chúa Giêsu, người Nazaret, bằng Thánh Thần
và quyền năng như thế nào" (Cv 10,37-38).
"Thánh Thần
ngự trên tôi, bởi Người đã xức dầu thánh hiến tôi, đã sai tôi mang Tin
Mừng..." (Lc 4,18).
Những bản văn
như thế nói lên đà tiến của suy tư thần học. Thay vì coi việc xức dầu được thực
hiện khi Chúa Giêsu Kitô phục sinh như một số văn bản cổ xưa đã làm (Cv 2,36;
4,27), người ta đã xem việc xức dầu đã được thực hiện khi Chúa Giêsu chịu phép
rửa: việc xức dầu đó làm Chúa Giêsu thành Đấng "Messia", "Đấng
Kitô", Đấng được xức dầu (l'Oint).
Lời nói phát
xuất từ trời giải thích rõ hơn điểm này. Đó là lời trích Tv 2, Tv Vương đế
(psaume royal) được khoa chú giải Do thái coi như có tính cách thiên sai
(psaume messianique). Câu thứ bảy của Thánh vịnh này đề ra một công thức được
qui định để thu nhận người nào đó làm con mình: ngày Thiên Chúa giao phó cho vua,
Đấng Messia, chức vụ đặt làm người đại diện của mình. Thiên Chúa tuyên bố từ
nay coi vua như con riêng của Ngài ("Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra
Con") việc đó nói lên lòng ưu ái của Ngài đối với vua, nói lên ảnh hưởng
thế lực và sức phù trợ của Ngài trên ông. Khi áp dụng câu Thánh Vịnh này vào
phép rửa của Chúa Giêsu, thì mầu sắc vương đế đã mờ nhạt đi; nhưng đây chính là
một lễ phong vương (thánh hiến cho chức vụ quan trọng qua việc thừa uỷ của
Thiên Chúa) và lễ phong tước cho thiên sai (theo ý nghĩa tổng quát: giao sứ
mạng cứu rỗi).
Câu Thánh Vịnh
này đặt ra một vấn đề văn bản khó khăn. Tiếng nói phát xuất từ trời được các
bản sao ghi lại theo hai cách khác nhau:
1. "Con là
Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ"
2. "Con là
Con Ta, hôm nay Ta sinh ra con" (Tv 2,7).
Các thủ sao khá
nhất và hầu hết các thủ sao theo câu thứ nhất; nhưng câu thứ hai, được nhóm thủ
sao và giáo phụ đông phương chứng nhận (Justin, Clément, Origène, Diognète,
Hilaire, Const, Apost, Audustin) thì rất cổ xưa, có thể đã xuất hiện từ giữa
thế kỷ II. Người ta đã thử cắt nghĩa: việc câu hai thay thế câu nhất, coi như
nguyên văn hơn, là do ý của những người sao chép muốn hòa hợp bản văn Luca với
Tv 2,7 (điều đó có thể đối với Justin, là người hay tìm cách hòa hợp với Cựu
Ước; biết đâu các thủ sao khác đã chép lại của ông ta). Ngược lại, việc câu
nhất thay thế cho câu hai hình như là do một khuynh hướng hòa hợp mạnh hơn, hòa
hợp bản văn Luca với Maccô. Cả hai lập trường đều có người ủng hộ. Dù sao, có
lẽ những người sao chép đã muốn hòa hợp Luca và Maccô hơn là với Cựu Ước. Do
đó, chúng tôi chọn hai câu, nghịch với BJ, nhưng đồng ý với TOB, Revised
Standard Version, New English Bible, Zurich Version...
Nếu câu hai là
chính trực, điều đó có nghĩa là Luca đã bỏ không muốn ám chỉ đến người tôi tớ Giavê
hay Người Con chí ái của Chúa Cha (tức là đến sứ vụ cứu chuộc). Ông tập trung
chú ý vào lời sấm phong tước thiên sai và tử hệ thần linh. Ý tưởng tử hệ thần
linh được nói qua vế thứ hai của câu thánh vịnh ("Hôm nay Cha sinh ra
Con"). Cũng trong ý tưởng đó, sau lời tuyên bố của Thiên Chúa đây, Luca sẽ
đem ngay gia phả Chúa Giêsu vào, gia phả đưa Ngài lên thấu Adam "Con Thiên
Chúa".
Trong Cv 13,33,
Tv 2,7 được áp dụng vào việc phục sinh của Đức Kitô: "Và chúng tôi loan
báo cho anh em Tin mừng: Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cho cha ông chúng ta
bằng cách cho Chúa Giêsu Phục sinh, như lời Thánh Vịnh 2: "Con là Con Ta,
hôm nay Cha sinh ra Con". Lời xác quyết này trước tiên là một tín điều; và
sau này, người ta đã áp dụng câu đó không chỉ vào việc Phục sinh của Chúa Kitô,
mà còn vào phép rửa của Ngài nữa.
5. Chúng ta đã
thấy tước hiệu "Kitô" (được xức dầu) được đề cao khi nói về phép rửa,
trước tiên đã áp dụng cho Chúa Giêsu ngày Ngài sống lại: "Thiên Chúa đã
đặt làm Kitô Chúa Giêsu mà các ông đã đóng đinh" (Cv 2,36; x.4,27). Sự
chuyển dịch từ biến cố Phục sinh lui biến cố phép rửa Chúa Giêsu mà (cùng với
sứ vụ của Vị Tiền hô) đã tạo nên "khởi đầu của Tin Mừng" (Mc 1,1; Lc
3,23; Cv 1,22; 10,37) cho ta chứng kiến việc khai sinh của một Kitô học tiên
khởi. Thật vậy, vào những ngày đầu của Giáo hội, sự sống lại của Chúa Giêsu là
khởi điểm quyết định cho đức tin vào thiên chức cao trọng và siêu việt của
Ngài. Rồi rất sớm, người ta đã đào sâu cái trực giác phong phú đó. Dưới ánh
sáng của Thánh linh nhắc lại trong lòng tín hữu những giáo huấn của Đấng cứu
thế và những biến cố trong đời công khai của Ngài (đối tượng của Tin mừng),
người ta suy thấy có những đặc quyền siêu việt hoạt động trong chính cuộc sống
của Chúa Giêsu: không phải chỉ khi sống lại, nhưng suốt thời gian hoạt động và
ngay lúc khởi đầu công trình cứu rỗi, khi chịu phép rửa, Ngài là Đấng Messia và
Con Thiên Chúa. Trong các phúc âm về thời thơ ấu, được soạn thảo về sau và ít
"truyền thống" hơn những tước hiệu đó đã được dùng ngay giây phút đầu
tiên của đời Chúa Giêsu (nhất là Luca). Như thế, ý nghĩa của việc Thiên Chúa
can thiệp vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa được xác định rõ hơn, và bài trình
thuật biến cố đã mang một hình thức như chúng ta đang có đây, dưới ánh sáng
Phục sinh.
Vừa giảm bớt
tính cách khải huyền trong cách trình bày, Luca, sử gia và tác giả Phúc Âm
chuyên về cầu nguyện, đã mặc cho việc thần hiện trong phép rửa ý nghĩa chính
yếu theo truyền thống sơ khai: là thánh hiến để bắt đầu sứ vụ, là phong tước
thiên sai - Con Thiên Chúa cho Chúa Giêsu. Hình như ông không muốn nói lên mối
liên quan với phép rửa của người Kitô hữu, nhưng ông đã nhấn mạnh hơn các phúc
âm khác về thực tại tử hệ thần linh của Đức Kitô.
KẾT LUẬN
Ý nghĩa phép rửa
của Chúa Giêsu được tỏ bày qua việc thần hiện xảy ra sau đó. Đấy là điểm chính
yếu đã làm Luca chú ý; đây cũng là điểm chúng ta phải suy ngắm.
Bước đầu tiên
được đời hoạt động của Chúa Giêsu (nối kết Ngài với vị tiên tri cuối cùng và
cao cả nhất được các tiên tri) trở thành việc thánh hiến biến Ngài nên đấng
thiên sai một cách long trọng: được mặc lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần,
vững chắc được tình thân mật đặc biệt và trong tương giao độc nhất với Chúa
Cha, từ đây Chúa Giêsu nhận lãnh sứ mạng thực hiện công trình cứu độ, phù hợp
với ý định Thiên Chúa đã vạch ra trong Kinh thánh. Ngoài việc mạc khải công
việc của Đấng thiên sai, câu chuyện này cũng hé mở cho thấy một mầu nhiệm sâu
xa hơn, là mầu nhiệm của chính con người Chúa Giêsu, vị thiên sai - Con Thiên
Chúa. Đó chinh là ý nghĩa căn bản được khám phá ra nôi biến cố này từ ban đầu,
ý nghĩa đã được làm nổi bật qua cả một mạng lưới đầy hoài niệm Thánh kinh,
trong phạm vi bối cảnh Khải huyền (trời mở ra, Thánh Thần xuống, tiếng phán từ
trời: đó là khung cảnh am hợp nhất để tỏ cho biết đối tượng của mạc khải trên cao
thôi: đối tượng đó là sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, đặt nền tảng trên địa vị
Con Thiên Chúa của Ngài).
Được tường thuật
vào lúc khai mào sứ vụ Đấng cứu thế, câu chuyện cho thấy là từ nay phải hiểu cả
cuộc đời công khai của Chúa Giêsu dưới ánh sáng này (là ánh sáng đi trước vinh
quang phục sinh). Và trong ngày đầu tiên ban Thánh Thần, trong ngày Con Thiên
Chúa xuất hiện, thời đại cánh chung đã khai trương, thời nước trời hiển trị đã
đến.
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1. Một ngày kia,
Chúa Giêsu "sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa" khi Ngài sai Thánh
Thần xuống trên các tông đồ họp nhau trong nhà hội và qua họ sẽ đổ tràn Thánh
Thần xuống trên mọi người. Nhưng trong lúc chờ đợi, Ngài khiêm tốn hạ mình nhận
phép rửa của Gioan tẩy giả như một người Do thái tầm thường thời đó. Vinh quang
của Ngài phải qua con đường tự hạ. Và chính lì Ngài, Con Một của Chúa Cha, đồng
hóa với đám đông không tên tuổi như thế nên Chúa Cha đã làm chứng cho Ngài nơi
sông Giodan bằng cách công bố Ngài là Con của Chúa Cha, Đấng Thiên sai được Chúa
Cha xức dầu bằng Thánh Thần. Biến cố này được tiên báo mầu nhiệm vượt qua, như
tất cả các mầu nhiệm khác của cuộc đời Chúa Giêsu. Vì thế đối với chúng ta, đây
là một giáo huấn về chính bản chất cuộc đời Kitô hữu, vì Kitô hữu nào cũng phải
sống mầu nhiệm vượt qua. Cuộc sống Kitô hữu nào cũng là tự hạ và vinh quang. Tự
hạ bằng cách chấp nhận phục vụ người khác trong vui tươi và yêu mến, qua cuộc
sống hàng ngày. Tự hạ trong cuộc sống tầm thường và buồn tẻ như Chúa Giêsu ở
Nazaret. Tự hạ của ý riêng bằng cách biết nhìn nhận lãnh vực của Thiên Chúa
trong cách cư xử của mình, tự hạ trong trường kỳ kháng chiến chống lại tính ích
kỷ tự nhiên, khuynh hướng thống trị anh em mình, khát vọng bẩm sinh muốn tiện
nghi, lười biếng, xa hoa, khoe khoang. Với Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta
phải chấp nhận địa vị tầm thường của chúng ta trong một đám đông tầm thường và
biến cuộc sống tầm thường đó trở thành đời sống khiêm hạ theo Chúa Giêsu. Nhưng
sự tự hạ đó chỉ kéo dài một thời gian thôi, vì một ngày kia, nếu chúng ta sống
cuộc sống tầm thường như con cái Cha trên trời, thì Ngài sẽ nói với chúng ta:
Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra con và sẽ dẫn đưa chúng ta vào trong cuộc
sống vinh quang thân tình vĩnh cửu. Và ngay từ bây giờ, nếu chúng ta cố gắng
sống trung thành cuộc sống hàng ngày như con cái của Chúa Cha, thì Chúa Cha sẽ
kéo chúng ta lại với Ngài và làm cho chúng ta vững tin cuộc sống tình yêu bằng
những lời an ủi, bằng ánh sáng và ơn thánh đủ loại của Ngài. Ngay bây giờ cuộc
sống theo gương Chúa Kitô làm cho chúng ta có thể nói với thánh Gioan:
"Hãy coi lòng mến Chúa Cha ban xuống cho ta lớn lao dường nào để ta được
gọi là con cái Thiên Chúa - vì thực sự chúng ta là thế (1Ga 3,1).
2. Khi Chúa
Giêsu chịu phép rửa thì trời mở ra: giữa con người với Thiên Chúa, một tình
thân mới có thể thành hình. Giữa Đức Kitô với Thiên Chúa, không có hàng rào
ngăn cách. Điều mới lạ là Chúa Giêsu, tuy vẫn còn dính liền với thế gian, hòa
lẫn trong đám tội nhân khi đến chịu phép rửa, lữ khách như họ trên đường về
trời đang mở ra, chính Đức Kitô đó có thể trò truyện với Thiên Chúa, Cha Ngài
mà không gì cản trở mối hiệp thông. Hàng rào mà tội lỗi dựng nên giữa Thiên
Chúa và chúng ta bây giờ đã được vĩnh viễn xóa bỏ, vì có một người luôn luôn ở
trước mặt Thiên Chúa. Các tầng trời xưa kia đóng lại vì tội lỗi, bây giờ lại mở
ra để tuôn trào Thánh Thần xuống trên một con người biết đón nhận Thánh Thần
không hạn chế. Và từ nay, qua con người Giêsu đó, mọi người đều có thể đến cùng
Chúa Cha.
3. Chính trong
lúc cầu nguyện mà Chúa Giêsu nhận được chứng từ của Chúa Cha và sự tỏ hiện của
Chúa Thánh Thần. Đối với chúng ta cũng vậy, cầu nguyện là lúc thuận lợi nhất để
gặp Chúa Cha và để lãnh nhận dồi dào hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét