TINH TAM LM NĂM 2015 GP. HƯNG HÓA - ĐẠI HỘ GIỚI TRẺ TGP. HÀ NỘI; GIÁO ĐIỂM BẢO NHAI
GIÁO ĐIỂM BẢO NHAI |
CHÚA NHẬT 34 TN B – CHÚA KITO
VUA
1. Kitô Vua
2. Vua tình yêu
3. Một vị vua khác
thường – Guy Marin
4. Ai là vua của bạn?
– Charles E. Miller
5. Dung mạo của vương
quyền Đức Kitô
6. Vua Sự Thật – ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt
7. Làm Vua là làm chứng
– ĐGM. Vũ Duy Thống
8. Đức Giêsu Kitô Vua:
phục vụ là cai trị
9. Nước Cha trị đến -
Gm. Arthur Tonne
10. Tôi là Vua – Noel
Quesson
11. Thuộc về Chúa
12. Vua vĩnh cửu
13. Vạn tuế Vua Giêsu
14. Đứng về phía sự
thật
15. Vương quyền tình
yêu – Lm. Hồng Phúc
16. Hoàng tử và người
nghèo
17. Một giải pháp cho
nền hòa bình thế giới
18. Phục vụ
19. Làm chứng cho sự
thật – Lm. Tạ Duy Tuyền
20. Vua sự thật
21. Trung tín
22. Danh hiệu
23. Xét xử
24. Suy niệm của JKN
25. Chú giải của Noel
Quesson
26. Chú giải của Fiches
Dominicales
1. Kitô Vua
Trong lịch sử nhân
loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành quyết.
Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền hay bị
cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không còn được
nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì
thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với cái
tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp Chúa Giêsu
thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực
sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên
ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng
trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã
sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra thì Chúa Giêsu
không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với Philatô:
Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì
người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng quả
thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn nói
lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên
trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa
Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước tôi
không thuộc về thế gian này.
Cũng như các môn đệ
tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên
Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi vì
như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn
uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có nghĩa Nước
Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa lòng thế
giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần gian, do đó
người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước
ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương quốc của Chúa
Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người tin
theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những
ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương
mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác
tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình
xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức
Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.
Thế nhưng, không một
công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả
xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết trái,
thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy chính
thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc Ngài
muốn thiết lập.
Bởi thế, cây thập giá
chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài chọn cho lễ
đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của vương quốc
mở ra cho mọi người.
2. Vua tình yêu.
Ngày nay, người ta
thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó, chẳng
hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo các
loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng
đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua,
thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết
mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì Ngài
đứng đầu trong lãnh vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy, không một ai
đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta
là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là một đỉnh cao
tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ
vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã
hiến thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân
phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ
bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc
với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không nguyền
rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao
phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được phục
vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều
người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu
thương và phục vụ.
Và để cho việc yêu thương
không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt
buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều răn
mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới
răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu thương của
Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao
nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu
thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã
không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế.
Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa
Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là
đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực, trong lịch
sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót như Đức
Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi
tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song
Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ
lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu của
chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
3. Một vị vua khác
thường – Guy Marin.
Vua chúa trần gian có
một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng: Chúa Giêsu Kitô không có
nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền mang hình ảnh
của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán vậy; Chúa
Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh sát, bom
và súng đại bác, và sử dụng chúng khi cần, trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ có
hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm lớn ở đời này
cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ đoạn, thậm chí
đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể dùng
phương tiện nào trong những phương tiện cấy, vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên
Chúa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô
không có chút gì trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể thực sự xưng
Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời chúng ta... "vương quốc Ngài sẽ
vô cùng tận". Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ Gabriel loan
tin cho Đức Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit; Ba vua thờ lạy Ngài như
một vị vua; suốt ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy nhiên, các sách
Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với quyền
làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm Vua, Ngài đã từ chối.
Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu
lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho được vương quyền,
trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài
thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật: khi có thể dễ dàng làm Vua, thì
Ngài từ chối. Khi điều này không thể xẩy ra thì Ngài lại cố đòi cho được. Chúa
Giêsu quả là một vị Vua lạ lùng.
Chứng nhân cho sự
thật.
Trước mặt Philatô,
Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Vua ở điểm nào: "Tôi đến để làm chứng cho sự
thật". Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu rỗi của
Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi lần bằng
lời nói và và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài thực thi
quyền là vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời vương giả,
vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chữa
lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong cùi, nhưng hành động này đối với
dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã đến gần, tức là Thiên Chúa đang
can thiệp. Cũng vậy khi, bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là Ngài
minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài lui
tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là Ngài biểu
lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi Ngài
khóc thương Giêrusalem, Ladarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối với
những nỗi khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm, Chúa Giêsu
tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu, bị
bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là
những người đầu tiên được hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị trói
buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói với một lời giải phóng: "Ngày sabat
được đặt ra vì con người...". Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về đứa con
hoang đàng, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương quan
của chúng ta với Thiên Chúa.
Làm chứng cho sự thật
bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái chết. Vì
những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì làm
chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen
thuộc, Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm
cho các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người
ta nói với một kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở
về lắc đầu mà nói: "Không tôi không thấy gì thay đổi cả". Kinh sư này
có lý, Chúa Giêsu là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết
là lòng con người. Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải theo các mối phúc
thật và từ bỏ các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột, bị
bách hại còn hơn là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ, thà khóc còn hơn
làm cho kẻ khác khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con người biết Tin
Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh vực chính trị. Họ
không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình đẳng, áp bức
kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng người Kitô hữu có một
cái nhìn phê phán trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối quyền bính
chính trị, nhưng Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm chính trị.
Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta sống theo
chân lý của Ngài mà thôi.
4. Ai là vua của bạn?
– Charles E. Miller.
(Trích trong 'Mở ra
những kho tàng')
Vào năm 1925 Đức Giáo
Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa
nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua
trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập
một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ
nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng Piô XI
đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết
của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng
Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như
đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn
còn đang đến: "Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa
Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến". Đấng sẽ mang lại vương quốc của
Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh
chung.
Theo sắc lệnh của Đức
Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả
thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng
dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý
đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người
đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta
có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, "ngay cả những chàng trai đánh
giày" cũng như một sử gia đã nói "cũng lao vào chợ hàng hóa".
Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất là đau buồn khi
nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là
bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài.
Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài trong cuộc khủng
hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả
khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong
những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách
đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ
thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn
tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu
của Đức Kitô Vua.
Chủ nghĩa thế tục nhấn
mạnh rằng, đất nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi hình thức
của đức tin tôn giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo lý tìm sự
an ủi, vui thú và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời sống. Chúa của
chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân đến thánh giá
hy sinh nhưng là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi dâm dật.
Trái lại, làm nhân chứng
cho sự khôn ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân của Nước Trời. Họ
trình bày cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh phúc còn con đường
tham lam là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và những tạm bợ của
những chủ nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng tuyệt đối còn chủ
nghĩa vật chất là không.
Kinh Tiền Tụng ngày
chúa nhật hôm nay tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc đời đời,
một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân
sủng, một vương quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương quốc
ngự trị mãi mãi.
Một lời nài xin cho
được trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày chúa nhật hôm nay
là thời gian thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua. Theo hình thức
đề nghị được rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể trong lễ trọng này
có thể dùng tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những lời nài xin theo
sau vị linh mục chủ tế của họ.
Chúng con nài xin sự
trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúng con trân trọng
vương quốc đời đời và phổ quát của Người.
Chúng con nhận biết
vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự sống.
Của sự thánh thiện và
ân sủng.
Chúng con ước mong làm
những gì chúng con có thể làm trong cầu nguyện và hành động.
Để mang lại cho thế
giới này vương quốc của Người. Một vương quốc của sự công chính và tình yêu
bình an.
5. Dung mạo của vương
quyền Đức Kitô.
(Trích trong 'Lương
Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm hôm nay
cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philatô lên án
tử hình. Để hiểu rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai mức độ khác
biệt. Khi Philatô nói lên tiếng 'vua', ông nghĩ đến một vương quyền chính trị.
Khi Chúa tự nhận là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người. Chúng ta
diễn giải rõ hơn. Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng rộng lớn
so với quan niệm của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình ông, ông
nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết rằng Người
là Vua, nhưng không theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính của người
Do Thái. Vì thế, sau câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không thuộc về thế
gian này. Thật là một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị kết án vì
Người tự nhận từ 1 thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai đến. Đối
với Philatô, đó không phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do Thái đưa ra
một cớ khác, mà trớ trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không muốn chút
nào, là làm một ông vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án theo hai
thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế gian, tuy
nhiên Philatô nhận thấy Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý Do Thái
buộc tội Chúa vì lẽ Người tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn đề pháp
lý này lại chẳng liên quan gì đến Philatô.
Minh định xong điểm
rắc rối đó, chúng ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn vinh điều
gì?
1) Vương quyền của
Chúa làm chứng về sự thật.
Chúa không phải là Vua
của thế gian. Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian Người làm chứng cho
một thực tại thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa 'sự thật' ở đây. Trong Phúc
Âm theo thánh Gio-an, sự thật không chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ phù hợp với
điều có thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người
do đó được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời mình. Tuy nhiên muốn được
như vậy, phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa. Nghênh đón không chỉ bằng trí
tuệ mà cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả bản thể mình. Chúa làm chứng
cho sự thật, bởi vì trong tư thế một con người được thấm nhuần và biến hóa nhờ
một cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị với tất cả mọi người hãy tiến tới
một sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ
Người đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua khi mà trong nhân loại, quá
nhiều phen làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn còn những kẻ nghênh đón 'lời
chứng', nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm ai thuộc về sự
thật thì nghe tiếng Tôi
Vậy 'thuộc về sự thật'
là gì? Là có tâm hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do Chúa đem đến cho
loài ngừoi. Về thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là sự ăn ở ngay
thẳng đối với Lời Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong Phúc Âm,
trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền Chúa
chẳng giống chút nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương quyền đó
trở nên hữu hiệu khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội, trong đời
sống thật sự, đạt tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và về với
Thiên Chúa, để rồi trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho nhân
loại nhận biết sự thật với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời của
Tình yêu.
6. Vua Sự Thật – ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt.
Chúa Giêsu thật là
ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi,
muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi.
Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót
đường, cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận
lợi. Thế mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay,
phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma
dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là
vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối
diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong
hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật mà Đức Giêsu
làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi
tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này
còn có một cuộc đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là
vương quốc của Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ
không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng
vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc
của Ngài "không thuộc thế gian này". Sự sống trần gian này chẳng đáng
giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của
Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Đức Giêsu
làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng
vẫn hiên ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã
bao trùm thiên hạ, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của
mọi quyền năng như Ngài đã trả lời Philatô: "Ông có quyền không bởi tự mình
mà có, nhưng từ thành công ban cho". Thánh nữ Xêxilia cũng nói:
"Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó
không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim
cũng làm nó xẹp xuống". Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng của
Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu không xưng vương khi tràn đầy
uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân chúng
tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín, thì
vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng hôm
nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng vương
để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế gian.
Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn vào
vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Đức Giêsu
làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với
những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là
tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu
thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó
là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: "Không có tình yêu nào lớn lao
hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu". Dù những thù hận
vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây
của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến
thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã chiến
thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức
Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những ai
thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến
thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần
gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta
mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật
sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu là Vua
của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước
Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Chúa Giêsu cho biết
gì về vương quốc của Chúa?
2- Chúa Giêsu cho biết
gì về quyền năng của Chúa?
3- Chúa Giêsu cho biết
gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận?
4- Muốn sống trong
vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
7. Làm Vua là làm
chứng – ĐGM. Vũ Duy Thống.
(Trích trong 'VỚI CẢ
TÂM TÌNH')
Không còn nữa hình ảnh
của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng
thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không ngai vàng
mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng
đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà
vua riêng của mình.
Thuật ngữ
"Vua" xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh
hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua
lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải
chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay
là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm
chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa Kitô không làm
Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý cho
treo tấm bảng "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái" lên đầu Thập giá,
Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể
phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ
tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo,
đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể
xoá nhoà.
Chúa Kitô không chỉ
làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có lần Người
đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của
một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng
trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ
hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là
Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình
còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn
thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người
vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa
Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người
trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không
phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế
giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt
trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của
Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt
trên tất cả.
Người là Vua phổ quát
vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người
là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: "Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ
kéo mọi sự lên cùng Ta".
Và nếu theo nhãn giới
của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của "Đấng đến giữa mây
trời" thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các
vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất
cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất
cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô tình mà
phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính trong tư
thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý
mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế
còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là
Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu
đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian,
nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó
trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo
của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm
vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho
cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng
qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về
trật tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh
cửu.
2) Chúa Kitô làm Vua
bằng cách làm chứng.
Dẫu vào Giờ Tử Nạn,
Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới trong
"sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an
bình" (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa
chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật:
"Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật". Nếu sự
thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là "Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi ban Con Một mình" như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn
cứu độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã
mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình
thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận cái
chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được khi
Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của "Người
Tôi Tớ đau khổ".
Rõ ràng là nơi Đức
Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng
chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh.
Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và
làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và
chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và
viên thành.
Thảo nào vương quốc và
vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết
lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo
tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc trong
không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không phải
bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho
sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát và
vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy, bài
đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống
trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm
Vua muôn vua.
3) Ai thuộc về sự thật
thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô, Người làm
Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là:
"tôn vương" Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ
Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương
quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban
hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi
thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong
Vương quốc của Đức Kitô.
Không thể nhận mình là
dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng theo lối
sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có
nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
Cũng không thể nhận
mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn dửng
dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường nhân
phẩm, khinh rẻ người nghèo... càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc
Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian
tham, bất công, gương xấu, tội lỗi...
Càng không thể nhận
mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một cách
nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng,
Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho
đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh
hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai thuộc về sự
thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên
trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính
mình cũng cần nỗ lực "làm chứng" sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên,
mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết
và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là
"tôn vương" Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với
mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm "quy tụ mọi sự
trong Chúa Kitô".
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có
một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay
giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra
khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ
cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc
sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để
định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương
Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy Chúa Kitô, cùng
với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương Quyền của
Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi quyết tâm
xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân cho Chúa
giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
8. Đức Giêsu Kitô Vua:
phục vụ là cai trị.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Truyện cổ Nga thuật
lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống
trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống
trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi cơ cực của
thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một tí thời giờ để thăm họ. Nhưng
dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân.
Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người
lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh săn sóc những
người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát
thuốc miễn phí cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy trở thành
người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp
những cuộc cãi vã, tranh giành, hòa giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng
với phẩm giá con người.
Bác sĩ trẻ ấy chính là
Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với thần dân nghèo
khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Anh chị em thân mến,
Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Nhưng Ngài đã trở nên giống như
chúng ta, để có thể yêu thương và phục vụ chúng ta. Ngài đã tuyên bố: "Con
Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến sống
làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28). Trong Tin Mừng hôm nay, khi bị
Philatô tra hỏi: "Ông là Vua ư?" Chúa Giêsu không phủ nhận, Ngài chỉ
nói: "Chính quan nói rằng tôi là vua". Vua vẫn chỉ là một từ ngữ gây
hiểu lầm mà Đức Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói đến Nước
của Ngài. Ngài "sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài... trong Nước của
Ngài" (Mt 16,27-28). Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: "Nước tôi
không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài nhớ
đến anh "khi Ngài đến trong Nước của Ngài", Chúa Giêsu đã không từ
chối: "Hôm nay anh sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi" (Lc 23,41-43). Vào
ngày tận thế, Ngài sẽ đến phân xử người lành kẻ dữ trong tư cách một vị Vua (Mt
25,34-40).
Chúa Giêsu là Vua vũ
trụ. Ngài đã được Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt
28,18). Nhưng Ngài đã sống như một người tôi tớ phục vụ. Trong cuộc sống trần
thế, Ngài vẫn luôn ý thức về vai trò quan trọng của mình trong việc cứu độ nhân
loại. Ngài biết mình là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự
phục vụ không ngừng. "Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và
những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân... Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ
hầu bàn, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống
giữa anh em như một người hầu bàn" (Lc 22,25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình
là người phục vụ như một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực khách được ngon miệng.
Kiểu làm vua của Chúa Giêsu là phục vụ, chứ không phải là được người ta phục
vụ. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ:
"Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng
phải rửa chân cho nhau" (Ga 13,14). Với Chúa Giêsu, cử chỉ đó là một việc
làm bình thường gắn liền với quyền bính đích thực. Qua cung cách của Ngài, Chúa
Giêsu đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền bính. Quyền bính đích thực đồng nghĩa
với phục vụ và phục vụ cho đến hy sinh mạng sống.
Cử chỉ phục vụ cao cả
nhất và khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên thập giá. Cần
chiêm ngưỡng vị vua bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm vua của Ngài.
Trên đầu Ngài có gắn tấm bảng ghi dòng chữ: "Giêsu Nagiaret Vua dân Do
Thái", được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp, để ai cũng
đọc được. Một vị vua lạ lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương
miện, chỉ có vòng gai. Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan
quân đứng hầu, chỉ có người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị
vua không có chút quyền lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và
yêu thương tha thứ tất cả. Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm, vừa nâng
Người lên cao. Chúa Giêsu trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con
đường tử bỏ mình để khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng không phải là con
đường cùng, mà là con đường dẫn đến vinh quang. "Khi nào Ta được đưa lên
cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta" (Ga 12,3). Vua Giêsu hôm nay
vẫn tiếp tục thu hút cả vũ trụ nhân loại với Ngài. Nước của Ngài đã được khai
mạc và nước ấy vẫn lan rộng không ngừng nhờ có những người dám "đứng về
phía sự thật" và "nghe được tiếng Ngài mời gọi" (Ga 18,37).
Nước của Vua Giêsu
không có trên bản đồ, bởi lẽ Nước ấy "ở trong thế gian này" nhưng
"không thuộc về thế gian này". "Ở trong thế gian", nghĩa là
không xa cách, nhưng hòa quyện với thế gian như men trong bột, như muối ướp
thức ăn. Nhưng "không thuộc về thế gian này", nghĩa là không chạy
theo những thần tượng của thế gian: quyền lực, tiền của, khoái lạc... Thế gian
sa đọa là thế gian chống lại Nước Chúa và cũng chống lại quyền lực của con
người. Thế nên, xây dựng Nước Chúa cũng là xây dựng một xã hội công bằng, bác
ái, tôn trọng con người. Chúng ta cầu nguyện: "Xin cho Nước Cha trị đến",
được mọi người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành tựu khi Chúa Giêsu Kitô được
mọi người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và
Nước Chúa Kitô là một. "Vào lúc tận thế, Chúa Kitô sẽ trao lại Nước cho
Chúa Cha, sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực sự dữ, để cuối cùng,
Thiên Chúa làm mọi sự cho mọi người" (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô, một vị vua
dùng thập giá ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn của
Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối tình yêu luôn tuôn tràn cho nhân loại đang
khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu, đó là món
quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống đích thực
là người, con người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và trao ban cho
đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền bính cai trị.
Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm
quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương
quyền của Ngài trong Nước của Ngài, vì "Phục vụ là cai trị" vậy.
9. Nước Cha trị đến -
Gm. Arthur Tonne.
Thánh Gioan Cantio
sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông minh và tử
tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm. Người ta
nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người nghèo khó. Người
đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong
cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh
trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.
Đi được một quãng xa,
ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại, đưa vàng
cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ.
Bọn cướp ngỡ ngàng,
lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả tiền nong đã
lấy của ngài.
Hôm nay chúng ta tôn
thờ Đức Kitô là Vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với Philatô:
"Vương quyền của tôi không thuộc về trần gian". Chúa Giêsu nhận rằng
Người là Vua nhưng không phải là Vua của các Vua.
Người không phải là
một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự. Người không phải là một ông vua giàu
có, danh vọng và quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc Người ở đâu?
Vương quốc Người là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ hôm nay trả lời các
câu hỏi ấy.
"Người hiến thân
trên thập giá... Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại... Người đã
quy phục mọi loài dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của Chúa.
Một vương quốc sự thật và sự sống, một vương quốc thánh thiện và ân sủng, một
vương quốc công bình, tình thương và hòa bình".
Mỗi lần chúng ta hành
động vì những điều quý giá này: Chân lý, sự sống, sự thánh thiện, ân sủng, sự
công bình, tình thương và hòa bình, là chúng ta hành động cho Chúa Kitô, làm
cho Chúa Kitô là Vua của chúng ta.
* Sự thật: Như Thánh
Gioan Cantio, bạn hãy nói sự thật dù phải trả bằng mọi giá và bạn phục vụ Chúa
Kitô –Vua sự thật.
* Sự sống: Chúa Kitô
đến để chúng ta được sống, những kẻ theo Chúa phải phát triển sự sống. Thí dụ:
Bạn hãy làm mọi cái có thể, để ngăn ngừa sát hại hàng triệu em bé vô tội vì phá
thai.
* Thánh thiện và ân
sủng: Mọi cái chúng ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong chúng ta. Thí
dụ: Tham dự Thánh Lễ này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn mạch sự thánh
thiện.
* Công bình: Khi chúng
ta cố gắng khiêm nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với chúng ta. Chúng
ta bỏ phiếu bầu Chúa Kitô là Vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
* Tình yêu: Mỗi lần
chúng ta cố gắng làm đẹp lòng Chúa, giúp đỡ anh em chúng ta minh chứng dấu chỉ
đặc biệt việc phục tùng Chúa Kitô là Vua.
* Hòa bình: Bạn hãy cố
gắng xây dựng hòa bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc về vương quốc hòa
bình của Chúa Kitô. "Nước Cha trị đến" chúng ta cầu nguyện trong kinh
Lạy Cha. Trong ngày lễ Chúa Kitô là Vua, chúng ta thề hứa phát triển trong đời
sống cá nhân và cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng liêng này để thực sự
nhận Chúa Kitô là Vua.
Xin Chúa chúc lành
bạn.
10. Tôi là Vua – Noel
Quesson.
Đức Hồng Y Deschamps,
Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang của vua Bỉ. Từ
cửa sổ một cao ốc, Deschamps đứng xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn hành
trang trọng của hoàng gia và đoàn tùy tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, các
nẻo đường phố trở lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói: Thế là
một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục
vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ
tới Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh
mục và một niên trưởng Giáo Hội nước Bỉ.
Chúa Giêsu đã nhận
mình là Vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án người ta đang
xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi Chúa: Ông có
phải là Vua không? Thì Chúa lại quả quyết Người thực là Vua. Danh hiệu Vua có
thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một vị Vua
theo quan điểm chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách thống trị và
đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị Vua theo quan điểm Đấng Thiên Sai
mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị ngai tòa Đavid. Người sẽ chiến
thắng quân thù và giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa Giêsu nói
với Philatô: Tôi là Vua, thì chức vị Vua ở đây lại hoàn toàn khác biệt. Chúa là
Vua mà không hề bó buộc ai theo mình, một vị Vua để người ta bắt nộp mà không
chống cự, không có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc như vậy làm ngạc
nhiên các chính trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu không phải
một người yếu đuối, Chúa đã từng xua đuổi ma quỷ, đã triệt hạ khổ đau bệnh tật.
Người đã lên tiếng nạt sóng gió và khiến bão tố im lặng. Người đã cải tổ Luật
Do Thái với tư thế quyền uy. Tuy Người là Chúa và là Thày chúng ta mà vẫn để chúng
ta hoàn toàn tự do.
Chúa Giêsu thực là
Thiên Chúa: "Ai thấy Ta là thấy Cha". Chúa đến để thiết lập một vương
quốc nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu ẩn như hạt cải
nhỏ xíu nhưng rồi sẽ phát dậy men... như hạt lúa mì mục nát trong đất và đem
lại mùa màng tốt đẹp. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ
nhiên không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh Vịnh ca tụng (Tv 46,9; 54,20;
58,14; 92,1; 96,1). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho "Nước Chúa trị
đến". Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc con người tin theo.
"Người cho mặt trời soi chiếu cho người công chính và kẻ bất lương, cho
người vô thần cũng như cho các tín hữu" (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu những
kẻ không yêu mến Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi: "Vậy
ông là Vua sao?". Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của Chúa khác với
quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô: "Ông nói đúng, tôi sinh ra
để làm Vua, để làm chứng cho chân lý". Chúa làm Vua theo lối khác, Chúa
không nói khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta giết Chúa, Chúa
vẫn cai trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc Chúa đăng
quang, là lúc Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần dân của
Chúa? Chúa bảo: "Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi". Chúa cai
trị những người nghe tiếng Chúa, những người tin thác vào Lời Chúa, tin hoặc
không tin. Như vậy, cả nhân loại là công dân của Nước Chúa, không một ai có thể
thoát khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức Kitô Vua,
không phải là dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô... Nhưng trước hết là nghe
tiếng Chúa, và điều chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã hội theo
Lời Chúa.
Lạy Chúa là Vua Vũ
Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa, để tất
cả được trở nên công dân trong Nước Chúa. Nước yêu thương, an bình bất diệt.
Amen.
11. Thuộc về Chúa.
Trước mặt Philatô,
Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian
này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước Chúa không
có một thế lực chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước Chúa không
có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước thiêng liêng
triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm hồn chúng ta.
Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng, đó là chúng
ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như thế nào?
Chúng ta không thuộc
về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu là
người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu
của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi vì: xét theo
tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo đời sống,
thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh
nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để
ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin Chúa, nhưng
họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức Kitô là vua,
nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến anh em lương
dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ chỉ là một
thứ Kitô hữu "dổm", hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống như mồ mả bên
ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí, nhưng bên trong
thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ chỉ là như một
bộ quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và treo và tủ. Họ
chỉ giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ
là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa kiếp thành một
loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác... Với chúng ta thì khác. Giữa một
xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ, thì những người
Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải
trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải trở nên nắm men làm
cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương,
phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối, phải trở nên ánh
sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả những điều ấy muốn
nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống động, thì mới có
thể cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa khỏi quỹ đạo của
Thiên Chúa.
Trong cuộc sống này,
không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng lại
thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin, thì tôi
chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm chi? Với
chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu chúng ta có
thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc rước lễ được
hay không? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm điểm lại đời
sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi tại
tôi, lỗi tại tôi mọi đàng... Bởi vì chúng ta mới chỉ là những người Kitô hữu
trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ chưa thực sự là
những người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một đức tin mạnh mẽ và
nhiệt thành.Với lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu, nhưng với việc làm
chúng ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta là những người có
đạo, nhưng với đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng
ta là những người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng ta lại là những
kẻ chối bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô,
bụng bồ dao găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói,
phải làm và phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên
xưng vương quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công
dân Nước Trời.
12. Vua vĩnh cửu.
Trong một ngày lễ Chúa
Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa Giêsu bằng
những tiếng chúc tụng và ca khen "Chúa Kitô muôn năm". Khi tung hô ai
như vậy, chúng ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ. Đó vừa là
lời chúc mừng vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu và cũng là
một cử hành tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng ta nói:
"Chúa Kitô muôn năm", chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn cầu, một
lời kính tôn đối với Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng diễn tả
trong câu đó một lời tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng diễn tả
một nỗi khát vọng, mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn chúng ta
cũng như trong tâm hồn mọi người tin vào Chúa.
Thầy Brian Morton có
kể lại câu chuyện sau đây:
"Một nữ tu trẻ
khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng.
Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang
đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.
Bất thình lình Mẹ
Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: "Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị
gặp một người". Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một
cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy
giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng
duy nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt
của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ
tu trẻ tuổi: "Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu".
Chúng ta cần mời gọi
Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở
thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và
với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong
mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy
sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
Chúa Kitô muôn năm!
Xin Chúa sống mãi mãi trong tâm hồn chúng con.
13. Vạn tuế Vua Giêsu.
Cách đây hai ngàn năm,
nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt cay, sống
dưới chế độ hà khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái, những người
đế quốc đã đặt Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để tận diệt vương
tộc Đavid, còn ở Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ, dưới sự thống
trị của tổng trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các nước bị chiếm
đóng, đô hộ, người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng chống đối nhau
và kình địch nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng Sađốc thì cộng
tác với quân đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết với nền độc lập
quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui đế quốc,
họ luôn nhắc nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã
hứa.
Trong khi đất nước
đang bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực vô song,
Ngài đã làm những việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự kiện đó,
người Do Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa gửi đến
và ngày giải phóng đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón rước Chúa
vào thành đô như một vị đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ lượt kéo
nhau đi như biểu tình, miệng ca hát: "Vạn tuế con vua Đavid". Như
vậy, dân chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn, ngồi trên lưng
lừa, đúng như ngôn sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ reo vang hô lớn:
"Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, Người chính là vua". Hôm ấy
Chúa Giêsu không cải chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như vậy.
Nhưng dân Do Thái đã
thất vọng, vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ chối việc
giải phóng dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là Đấng
Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như người
Do Thái quan niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước nữa,
Ngài công khai chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì phải
đến đã đến: ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo mừng
tung hô Ngài trước đây, bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến nhà
cầm quyền để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô ra
gặp họ, Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông đang
gào thét và hỏi họ: "Các ngươi tố cáo người này về tội gì?". Nếu họ
tố cáo Chúa là đã nói xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm
cười bỏ qua, nhưng lời tố cáo của họ là "Chúa đã xúi giục dân nổi loạn,
cấm nộp thuế cho Xêda, và tự xưng mình là vua". Nghe vậy, Philatô hỏi
Chúa: "Ông là vua à?". Chúa trả lời: "Ông nói đúng, tôi là
vua". Nhưng Ngài nói thêm ngay: "Vương quyền của tôi không đến từ thế
gian này", vương quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc "làm chứng cho sự
thật". Đây là điều Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa Giêsu
không phải là vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền thế với
hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người ta vào
sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì
nghe tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật. Nói
khác đi, Chúa Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do Thái
và nhân loại khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát
chúng ta khỏi đói khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng
chúng ta khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người
để bộc lộ vương quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do
đó, tất cả những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống
theo những lời Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước
của Ngài.
Trong thời đại này,
chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời, hợp tình, hợp
lý. Vấn đề là chúng ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền của Chúa.
Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự thật. Sự
thật đây là ơn cứu rỗi và hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau
vung tay lên hô lớn: "Vạn tuế Chúa Giêsu là vua" như người đàn bà
trong câu truyện sau: Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới
mang về đây thi thể của một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu
đạn nổ tung làm cho xác người chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó
nên đem về chôn cất tử tế, trước khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở
quan tài ra, bà ta có một người con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài
ra, bà chỉ thấy có một đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh
tay đó đưa lên cao và nói: "Anh con trước khi chết đã kêu lên: "Vạn
tuế Chúa Giêsu là vua", nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như vậy, thì bây
giờ con hãy kêu lên với mẹ". Nói xong, bà giơ cánh tay con mình lên và hô
ba lần: "Vạn tuế Chúa Giêsu là vua".
Xin Chúa cho chúng ta,
dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua, Ngài luôn
quan tâm đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài sẽ trợ giúp
chúng ta luôn đi trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với điều kiện
chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng
Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua
sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự
thật ấy. Có lẽ chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao giảng, chưa
làm chứng cho sự thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy lo toan,
vất vả, bon chen dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng
ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt
người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn
độc địa, thô bỉ nữa... Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành,
bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti
tiện... có lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược dòng nước,
nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại là
cách làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị nhất.
14. Đứng về phía sự
thật.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Từ sau vụ nổ big-bang,
vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một
hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là hành tinh
được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình
trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô
là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ của hơn
6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả
sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho
Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu không
nói rõ mình là vua, cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình, nhưng Ngài lại
nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng
có gì phải sợ. Một nước không có quân đội để chiến đấu, không có lãnh thổ trên
bản đồ, không thuộc về thế gian. Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự.
Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi
lời chứng của Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước. Có những
người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là
Nước của sự thật. Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng. Kẻ trung thực thường
thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan.
Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
"Ai đứng về phía
sự thật thì nghe tiếng tôi".
Chúng ta không nghe
được tiếng Chúa, chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật, như Philatô
muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng
hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của
mình, của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô
là Vua vũ trụ, ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề: ô nhiễm môi
trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói,
lạc hậu, bất công... Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế, ích kỷ, hận
thù, bạo lực tung hoành khắp nơi. Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau
đến, mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian: chính trị, xã hội,
nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật
và tình yêu thắng thế thì Nước Chúa càng lớn dần lên cho đến lúc thành tựu viên
mãn vào ngày tận thế.
Xin Đức Giêsu làm vua
cả vũ trụ loài người nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các bạn trẻ thường có
một thần tượng để tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua nhạc rock
Michael Jackson... Bạn có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như thần tượng đó
ra sao?
Vũ trụ vật chất là quà
tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng gia
tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói, tiếng ồn...?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu
ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn
bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để
hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết
cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và
hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho
cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi
chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì
chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
15. Vương quyền tình
yêu – Lm. Hồng Phúc.
"Ta là
Vua..."
Lịch sử nước Anh có kể
rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là vua của
một cường quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm
trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: "Thánh Thượng" là vua
trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả.
Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển.
Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên
đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng
nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều
thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc
vương miện đội lên đầu Chúa và nói: "Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết
các Vua, là Chúa trên hết các Chúa".
Hôm nay, Giáo hội kêu
mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia đình và xã
hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn vinh Chúa,
như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm về Chúa,
mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của
các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh. Nên để kết
thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của
vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức Chúa Cha:
"Mọi sự đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành sự" (Ga
1,3). Ngài là Vua vũ trụ.
Trước mặt Philatô,
Chúa Giêsu đã xác định: "Ta là Vua". Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên
Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ,
nhờ sự chết và sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài
không phải ở trần gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực.
Vương quyền của Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại
vang bóng một thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn
chiến thắng, vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi
hỏi, nhưng cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các
Thánh Đồng Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua vinh hiển
ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy "như Con Người đến trong đám mây trời...
quyền năng vĩnh cửu" (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: "Đấng là Alpha và Ômêga là
nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Đấng là Thiên
Chúa" (Kh 1,8). "Ngài làm cho chúng ta thành một vương quốc tư tế, để
phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài".
Christus Vincit: Chúa
Kitô toàn thắng.
Christus Regnat: Chúa
Kitô cai quản.
Christus Imperat: Chúa
Kitô thống trị muôn đời. Amen.
16. Hoàng tử và người
nghèo.
Mark Twain viết trong
cuốn "The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo" về hai
người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra
trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn
tả: "Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ
thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu cũng
như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng."
Cùng ngày đó, một cậu
bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp
xụp tại London :
"Nó là một đứa bé mà không ai muốn." Không một ai trông đợi sự ra đời
của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không
ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả hai đều lớn lên
trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế
giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong
vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con
trai khác.
Một ngày nọ, Tom Canty
đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi
nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên
lính bắt nó và quăng xuống đất.
Cùng một lúc đó, vị
hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó,
các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong
cung điện để thăm quan.
Sau đó, hoàng tử nảy
ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách
rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo
khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một thời gian, khi
hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về
thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà
tù.
Để rút ngắn câu
truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong
tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi
nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế
nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở
thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất
trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu truyện Hoàng Tử và
Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta.
Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là
Vua của tất cả tạo vật.
Chúa Giêsu đã thay đổi
chỗ của mình với chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc thiên tính của mình
để đổi lấy những áo quần rách rưới của thân phận con người chúng ta.
Giống như hoàng tử
trong câu truyện của Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế nào là kiếp
sống con người nghèo nàn và bị chà đạp.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu
khác với hoàng tử là Ngài đã chịu chết trong tay loài người, sống lại từ cõi
chết, và trở nên Vua các vua trên khắp vũ trụ.
Đây là một mầu nhiệm
cao cả mà chúng ta mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta mừng kính Chúa
Giêsu, Vua của toàn thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của chúng ta bởi vì
Ngài đã trở thành một người trong chúng ta và cảm nghiệm được những gì mà chúng
ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa, chúng con
suy tôn Chúa là Vua Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng con.
17. Một giải pháp cho
nền hòa bình thế giới.
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Vương quốc Fanxica là
một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh
được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm
của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày
gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước
láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm
thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi
thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi
mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử
kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị
hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt
được hoàng tử em là Faram.
Sau khi hay tin em
mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm
em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam
hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về
số phận của người kia.
* * *
Theo thông lệ hàng
năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những
con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân
chúng.
Năm nay, thay vì cho
ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người
mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết
đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la
vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu
trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như
hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn
cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy
hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người
đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi
làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao
người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi
mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ!
Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ
lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh
em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm
chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt
cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà
chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức
tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì
đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước
hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em
ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một
minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân
loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến
tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù
nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên
con người lốt sư tử, lốt chó sói. "Người là chó sói của người - homo
homini lupus". Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng
loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho
mình.
Đứng trước thảm cảnh
đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều
không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu
chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với
nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng
gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên
có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào
để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên
tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải
là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không
là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến
thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: "Tôi đã
sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật". Sự
thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa
là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh
chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để
lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu
Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự
thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể
giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn,
nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành
một đại gia đình huynh đệ.
18. Phục vụ.
Thế nào là một ông
vua?
Dưới chế độ quân chủ
thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với quyền hành lớn
lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải cung phụng cho
mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc dù chế
độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp tục
dùng danh từ vua để chỉ một người thành công vượt bực trong một phạm vi nào đó,
chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi...
Những ông vua thần
tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có, nhưng lắm
khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng.
Đành rằng trong lịch
sử có những bậc minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có nên gọi Đức
Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay không?
Lần kia, sau phép lạ
bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất cờ giải phóng
dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi một
mình.
Còn đoạn Tin Mừng sáng
hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: - Vậy ông là vua ư?
Đức Kitô đã không từ
chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo: - Chính quan nói rằng tôi là vua.
Thế nhưng rất nhiều
lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là vua, thì chắc
chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ vua chúa trần
gian nào.
Thực vậy, sinh ra nơi
máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một hòn đá tựa
đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua không ngai
vàng, không cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực Ngài là một
vị vua không giống ai.
Nét đặc sắc của vương
quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:
- Con Người đến để
phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài cũng xác
quyết:
- Thày sống giữa anh
em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng cách
cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là
cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn
vinh:
- Ngày nào Thày bị
treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh Phaolô đã xác
quyết:
- Ngài đã vâng phục
cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng
ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Với chúng ta thì sao?
Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục
vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu các con gọi Ta
là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa
chân cho nhau.
Nơi khác Ngài cũng xác
quyết:
- Vua chúa trần gian
thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các
con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Chính nhờ tinh thần
phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột,
hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
19. Làm chứng cho sự
thật – Lm. Tạ Duy Tuyền.
Có 4 bà mẹ ngồi tán
ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình. Một bà khoe:
- Thằng Tí nhà tôi thế
nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì nó cũng tìm
cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ nhì nói:
- Thằng Tèo nhà tôi,
đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi cho bằng được!
Bà thứ ba than:
- Thằng con tôi có lẽ
cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không có nốt vẽ của
nó!
Bà cuối cũng góp
chuyện, sau khi suy nghĩ:
- Thằng nhỏ nhà tôi số
nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả bao giờ nó tới
ngay cho người ta nhờ!
Vâng, mong con thành
đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho con mình mau
khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau công thành danh
toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn học. Nhiều gia
đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt cho
con được một thứ hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực lực với tài trí
con mình. Xem ra con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu
hiệu "tiên học lễ, hậu học văn" đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo
ngữ không còn phù hợp với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu tư vào giáo
dục đức dục con người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự khép mình trong
hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân đức không được
trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau "có lý mà không có
tình". Mọi quan hệ giữa người với người đều phải hạch toán, lời mất, được
thua. Con người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống tương thân
tương ái, "tối lửa tắt đèn có nhau" mà chỉ là "đèn nhà ai - nhà
ấy rạng" hay an phận thủ thường theo chủ nghĩa "mackeno" cho
xong.
Một xã hội đang chuyển
mình như thế, liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược dòng để sống theo
đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha nhân như
chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giê-su Ngài đã đến không
phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp nhận
tan biến đời mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay, lễ suy tôn
Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước
Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp
nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự
hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa
bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người
với người. Mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi
làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải cùng
nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật
giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương còn
mời gọi chúng ta sống tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia sẻ
vui buồn với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời hôm nay
có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ
bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có
thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì
thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền
công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia
Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc
trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của
Ngài.
Vì thế, dù rằng chúng
ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế giới đầy bóng
tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng đời này. Ánh
sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái
yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh sáng của bao dung
để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ
hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt
nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có
ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình cũng cần có ánh sáng
tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống
đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người tín
hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho
tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
20. Vua sự thật.
Chúa Giêsu có phải là
vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta
những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng
trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân
Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người
Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô hỏi Chúa:
"Ông có phải là vua dân Do thái không?". Để trả lời, Chúa hỏi lại:
"Ngài tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?"
Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô tự ý hỏi như
vậy tức là Philatô muốn hỏi: "Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám
chống lại chính quyền Rôma không?". Đối với Philatô, là vua Do thái chỉ có
nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là "không".
Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà
lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do
thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa
là "có". Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do
thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là
vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Vì
thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần
thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương
tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật.
Chính chúa đã khẳng định với Philatô: "Tôi là vua, nước tôi không thuộc về
thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng
cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
Như vậy, chúng ta có
thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Philatô
đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc
Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu
độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền
tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà
Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ
này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa
Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong
chặng đường thánh giá... Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được
ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn
khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương
bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ
dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng
của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan
khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta
không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt
người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn
độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng
sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa
Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự
thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật
ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận
hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không.
Một khi chúng ta trả lời "có" cho một người, tức là chúng ta trả lời
"không" cho người khác. Khi chúng ta trả lời "có" cho Thiên
Chúa, là chúng ta trả lời "không" cho ma quỉ cám dỗ. Không thể có
trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối.
Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực
hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng,
dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta
phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc
làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người
khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ
bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác... cũng
đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật
buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một
người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy
những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện... có lẽ sẽ bị đánh giá là một người
không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính việc lội
ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mà
mỗi người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh
sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
21. Trung tín.
Chúng ta hẳn đã nghĩ
rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu tượng.
Sự thật không phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu tượng của họ.
Và họ tôn thờ các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu tượng phổ biến
nhất hôm nay. Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác: tài sản, lạc thú, thành
công, danh vọng, quyền lực... Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn người ta
đến một đời sống phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách, đê tiện.
Nhưng tai hại to lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm cho người
ta quên đi Thiên Chúa chân thật.
Người ta có thể lấy
mình làm ngẫu tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu tượng. Một
trong những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là "tôn thờ lãnh tụ".
Các lãnh tụ đặt chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng thấy những
hình ảnh, tranh tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với Sadam
Hussein). Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị giật sập
và đập vỡ. Những quái vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự đàn áp và
khủng bố.
Trong lúc mà những bức
tượng bị đổ nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc động. Bức ảnh
được chụp ở Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu nguyện xung quanh
một bàn thờ đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người ta đặt một tượng
bán thân của Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các thần tượng bị
lật nhào, Đức Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương phản biết bao
giữa qui luật của Người và qui luật của những thần tượng. Các thần tượng chỉ
huy; Đức Kitô mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi, Đức Kitô chỉ
huy thông qua tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết chóc; Đức Kitô
đem đến tự do và sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng ta giữ lòng
trung tín, trung kiên với Người, điều mà chúng ta không làm đối với một người
khác hoặc một cơ chế trên trần gian.
Tin Mừng cho chúng ta
thấy Đức Giêsu đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm tổng trấn một
tỉnh thuộc Lamã, Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có hàng ngàn binh
lính dưới quyền ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một người lính để bảo
vệ. Tuy nhiên, Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh bằng. Và mặc dù
Người có thể bị tổn thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm chủ.
Quyền lực chính trị là
khả năng ép buộc những người khác làm theo ý muốn của người ta. Khả năng này
chủ yếu là do một địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người chiếm giữ
địa vị ấy. Quyền lực chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự khôn ngoan.
Nhiều người ngu ngốc và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác, quyền bính
tinh thần hoàn toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng ép buộc
những người khác. Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang và đôi
khi chiếm những vị trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và không có
quyền lực chính trị.
Chúng ta phải phân
biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự chỉ huy
người khác. Một số người với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn toàn không
có quyền lực và phần lớn người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những người mà
họ có ảnh hưởng. Đức Giêsu làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của Người một
cách đơn giản bởi tính cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng trong mọi
việc Người nói và làm.
Đức Kitô là niềm tin
hy vọng của loài người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và làm cách
nào để giữ Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không phải là
một khuôn mặt xa lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Đấng
gần gũi với chúng ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với Người.
Đức Kitô không đến để
thiết lập một quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho chân lý về
quyền tối thượng của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
22. Danh hiệu.
Trong mọi danh hiệu mà
chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu thì danh hiệu "Vua" xem ra không thích
hợp nhất. Nó có vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi chúng ta nghĩ
đến một ông vua, chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương miện, một cung
điện, sự giàu sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các tôi tớ, và dĩ
nhiên một quân đội.
Khi chúng ta nhìn vào
Đức Giêsu, chúng ta thấy gì? Không có ngai vàng, vương miện, cung điện, quân
đội. Chúng ta thấy Người đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ Palestien với
một nhóm môn đệ. Chen chúc xung quanh Người là những người nghèo và người bệnh,
những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó là những loại
người mà ở trong vương quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung để ngó vào,
còn hoàng cung thì khép lại trước mắt họ.
Tuy vậy, danh hiệu
"Vua" vẫn thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật với Đức
Giêsu. Trên hết, nó có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa của mọi
loài, Vua của vũ trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng cai quản
và phán xét mọi sự.
Nhưng ngay cả trên
bình diện con người, danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối nguồn cao cả
nhất của điều thiện hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới tối tăm. Đức
Giêsu có một quyền bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất cao cả của
Người. Sự hiện diện của Người có thể thay đổi những người ở xung quanh Người
vượt qua sự nhận biết của họ. Thái độ của Người đối với những tội nhân là lòng
nhân hậu và sự thuyết phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi người cảm
thấy họ nhỏ bé. Nhưng một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy họ cao cả.
Trong ý nghĩa đó, Đức Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt chúng ta phải
phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ huy ở mặt kia.
Có người có quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có quyền lực, và
người có ảnh hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những người chịu ảnh
hưởng của họ. Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực trên dân; Đức
Giêsu có ảnh hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy sự hiện diện
của Người một cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một quyền bính thầm
lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Và Người đã nói về một
Nước Trời – một Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người thể hiện mọi
điều mà thế gian này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt. Đó là tất cả
những gì đúng và chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương quốc Người sẽ
đến khi ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật được thành tựu.
Mặc dù Vua Kitô không
cần hoặc không muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có những chiến sĩ –
những người sẵn sàng "chiến đấu" cho công lý, sự thật, hòa bình. Có
một cuộc chiến đã tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh sáng, vua dối trá với
vua chân thật, vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở về phía nào?
23. Xét xử.
Chính trong Chúa nhật
sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự phán xét
sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin Mừng hôm nay làm
chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là chính Đức Giêsu,
Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong một
phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi khi chính
khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy trường hợp của
Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng
năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho
cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai
lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi
ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật
sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise
là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel,
ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được
đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc
lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án
ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ
đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn
thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội
ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy.
Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong
nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản
án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao.
Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh
tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước
Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người
Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là
sai lầm.
Tuy nhiên, Philatô đã
sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô tội trước nhà lãnh
đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp lực chính trị trên
ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho một người mà họ xác
nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây sự chú ý
chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử. Ông có
thấy rằng công lý phải được thực hiện không? Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên
dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không đe dọa
Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông
cố làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu
bằng roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng
bộ áp lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết điều ông
đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy sạch khỏi những
vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần một cái búng
tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của mình,
ông đã để cho một người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến cái chết.
Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức Giêsu.
Ngày nay các nhà lãnh
đạo chính trị thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi phối họ, đe
dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó. Cũng có lúc,
tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử.
Bởi cách chúng ta
sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý, chúng ta
tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc chúng ta
giống như Philatô, đi theo con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể có thái
độ trung lập.
Ai xét xử Philatô? Ông
là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng chờ đến ngày
phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi ngày, trong
những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng trăm, ngàn
cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình, theo hoặc
chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một điều gì mới.
Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên chúng ta
đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở trung tâm
Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó, mà chỉ để
chúng ta sẵn sàng cho ngày đó.
Vui biết bao khi thuộc
về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta được thần khí
Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở rộng nước của
Người – một vương quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công
lý, tình yêu và hòa bình.
24. Suy niệm của JKN.
Đức Giêsu, Vua vũ trụ,
cũng là vua mọi tâm hồn, Ngài thống trị bằng tình yêu
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Giáo Hội
lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì trên vũ
trụ vạn vật?
2. Ngài là vua, nhưng
có gì khác biệt với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng gì?
3. Ngài là vua của vũ
trụ, nhưng điều ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua tâm hồn tôi?
Vậy tôi phải làm gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư gợi ý:
1. Chú giải đoạn Tin
Mừng
Philatô hỏi Đức Giêsu:
«Ông có phải là vua dân Do Thái không?». Nếu người Do Thái hỏi Ngài câu ấy, thì
câu ấy nghĩa là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi Philatô hỏi, thì
câu ấy có nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do Thái phản loạn
không? Theo não trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu Tinh của dân
tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng
dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống
lại Rôma, thì dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người
nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư
tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng
họ không dám ra tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người Rôma để giết
Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra
ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để chống lại Rôma, thì
họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa Giêsu chỉ hỏi cho có lệ,
chứ ông ta đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho
ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân
lý quan trọng: Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không phải là vua của một
nước trần gian. Chính Ngài xác nhận: «Tôi được sinh ra để làm vua». Thật vậy,
có những dấu hiệu báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức Giêsu vừa sinh ra, đã
có ngôi sao lạ ở phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ đến chiêm bái Ngài như
một vị vua mới sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô như một vị vua khi vào
thành Giêrusalem (x. Mt 21,4.9).
2. Đức Giêsu là vua
Nếu Đức Giêsu không
phải là vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của
ai?
Làm vua có thể có
nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều
đình... mới là vua. Người ta vẫn nói: «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng
đá», v. v... mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức
Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu
theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước hết, Ngài là
vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là
Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong
vũ trụ. Thánh Kinh viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài
thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới,
nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư
cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều
nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên
Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
3. Ngài thống trị bằng
tình yêu
Đức Kitô là vua. Nhưng
Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn
Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của
Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con
chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga
10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình
yêu» (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ
nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
4. Đức Giêsu là vua
các tâm hồn
Đức Giêsu không chỉ là
vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì
yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn
sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp,
mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy
thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ
không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng
ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành
động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm
vua tâm hồn mình, bằng cách:
– Trước tiên, phải
thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý thức
rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng
làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý thức
Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
– Vì thế, ta nhường
quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta
không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
– Vì Ngài yêu thương
ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những
gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng là luôn
luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và
phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này
yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ
quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở
nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: «Thiên Chúa làm
cho mọi sự phối hợp lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28).
Nắm vững điều đó, ta
sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần»
trong tay, một «bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu, một
«người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung
sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng
ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13).
CẦU NGUYỆN
Lạy Đức Kitô, Chúa là
Vua của vũ trụ, của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con xin phó thác tất
cả mọi sự của con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát
vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai của con, v.
v... Con xin phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa quyết định mọi sự
theo ý muốn của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền
năng của Chúa hơn. Amen.
25. Chú giải của Noel
Quesson.
Đây là Chúa nhật cuối
cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công chúng trong
đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa "thời tai họa", Người sẽ đến quy tụ
toàn thể loài người để hưởng "một mùa hè tươi đẹp" Đức Giêsu đề cập
đến cái chết của người và Người bước vào cuộc thương khó: Đó là phần kết và là
đỉnh cao của "Tin Mừng" theo Thánh Máccô, mà chúng ta đã đọc suốt năm
nay.
Chúa nhật cuối cùng
này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh Gioan,
nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng một kết
luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó, vừa đau
khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp ông nói về "Vua",
"Vương quyền" (Ga 18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là
một ông Vua bị đóng đinh mà vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ
ràng là "Vương quyền" của Đức Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn
khác với bình diện chính trị.
Ông Philatô trở vào
dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do thái
không?
Đức Giêsu bị buộc tội.
Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong mọi thời đại!
Thẩm phán là ông
Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn quyền của
một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự trị
nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy Lạp,
Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc.
Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô là quan toàn
quyền có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong dân Do Thái.
Người ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng ngàn người đã bị
treo lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo hôm đó; đối với
Philatô là một "ông Giêsu nào đó" Mà cách đây ba năm chỉ là một anh
thợ mộc giản dị và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng
không biết tới họa chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn ngắm hai
người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi lại ông
ấy.
Thật là một điều quá
đáng? Bị cáo bây giờ lại "hạch hỏi quan tòa". Có phải vai trò bị đảo
ngược không? Táo bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là ai vậy?
Đức Giêsu đáp:
"Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu thật tuyệt
vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông có
một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp lý, để bày
tỏ một lập trường của riêng ông, "này, ông Philatô, có phải chính ông nói
rằng tôi là Vua không?". Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ thuật, hệ
thống hóa, hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ trên đây
của Đức Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ "quan tòa -
bị cáo" để bước sang tương quan "người và người". Chúng ta không
ngừng đóng những vai trò" và ưa đeo mặt nạ: Chủ - thợ, y sĩ - bệnh nhân,
thông gia - khách hàng, trợ lý xã hội với người được trợ giúp linh mục - con
chiên, cha mẹ - con cái, thầy dạy - học trò, Giáo Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ
huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói,
ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những bài đã học ở kẻ khác. Chính ông phải
có lập trường. Chính ông phải "tuyên xưng Đức tin".
Ông Philatô trả lời:
"Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông
cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm thấy quan tòa
hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn bị kêu gọi bước
vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với "mặt nạ"
của mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là để xử vụ án.
"Ông đã làm gì?" Đức Giêsu đã cố gặp "một người". Nhưng
Philatô đóng vai trò "một nhân vật" Dù sao thì Philatô cũng đang
"thống trị ", chính ông mới có uy quyền. Người thợ ở làng Nagiarét
không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng, không phải là
César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở nên khuôn mẫu
cho thế giới mai sau... nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị khinh khi. Từ
người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn năm.
Đức Giêsu trả lời:
"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này,
thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật
ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu không trả
lời câu hỏi của quan tòa "ông đã làm gì?". Chính Đức Giêsu không có ý
thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn
bàn cãi.
Đức Giêsu giải tỏa mọi
sự hiểu lầm về tước hiệu "Vua" mà Philatô đang tìm cách điều tra ít
nhất có ba cách làm "Vua". 1. Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu La
Mã: Người ta thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
2. Vua theo nghĩa
Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng dõi Vua
Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel , của
Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
3. Sau hết, Vua theo
cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai
"bạn có muốn theo tôi không?" "Các bạn cũng muốn bỏ đi hay
sao?". Một vương quyền mà lại để "Vua" bị "Giao nộp" cho
kẻ thù mà không kháng cự một tổng thống mà không có "vê binh" để bảo
vệ mình, không có cận vệ để bao bọc trước đám đông. Một vương quốc không quân
đội, không thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh tụ Xô Viết
trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao nhiêu sư đoàn
thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn hành
động như Đấng có "Toàn quyền": Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người,
đã đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới cách giảng
dạy Luật Do Thái với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong khi làm như
vậy, Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy đã để
cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn tự "Giao nộp" để cho chúng
ta tấn công Người. (Tôi suy niệm về từ "Giao nộp" mà chính Chúa đã
dùng ở đây). Đức Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên
Chúa vô hình (2 Cr 4,4). "Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga
14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã thấy được Thiên Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải
Người cho chúng ta" (Ga 1,18). Trong nội dung rao giảng của Người được ghi
lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã không ngừng nói về "Nước
Trời", "Nước của Thiên Chúa", nhưng đó không phải là một vương
quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một vương quốc
ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm men, người
đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang lại bông
hạt. Đức Giêsu là "Vua", vâng, nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ
ràng Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa "trị
vì", Thánh Vịnh đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1;
98,14; 145,10) và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha "Xin cho
Nước Cha trị đến". Thiên Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người. Thiên Chúa
không bắt buộc con Người phải tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc lên trên cả
người công chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác cũng như người lành, trên
người vô thần cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu thương
những người không yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy.
Người không phải là "Vua"! Không, tuyệt đối không phải là
"Vua"! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của trần gian.
Nhưng không! Nước Tôi
không thuộc về thế gian này.
Sau khi đã phân biệt
rõ ràng vương quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ Đức Giêsu có
thể tuyên bố Người là Vua..., bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có thể hiểu lầm
về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì với những
quyền lực dưới thế gian này.
Người quả quyết, Vương
quyền này từ "nơi khác" đến. Người cảm thấy không cần nói rõ
"nơi khác" mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa
vẫn thắng, vẫn hiển trị. Cái nghịch lý của "nơi khác" thần thiêng này
là Vinh quang của Người không thể bị suy giảm bởi những thử thách hay thất bại
trên thế gian. Vương quyền (thần thiêng!) của Người không tránh cho Người phải
chết về mặt thể xác. Vinh quang của Người là vinh quang được "nâng lên
khỏi mặt đất" trên thập giá, và lên ngự bên phải của Chúa Cha.
Ông Philatô liền hỏi:
"Vậy ông là vua sao?
Trên môi miệng của
Philatô, đại danh từ "ông" được đặt sau động từ, trong bản văn Hy Lạp
rất có ý nghĩa: "Vua ông".
Sao? ông, người mạo
danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp
cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương không thể tự vệ được:
Đức Giêsu đáp:
"Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm
mục đích này: làm chứng cho sự thật.
"Đã đến".
Người đã nói "Tôi đã đến", từ một 'nơi khác', đã đến thế gian.
Trong bài đọc 2 được
đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu như là
"nhân chứng trung thực". Chữ "Chứng nhân" này dịch từ chữ
Hy Lạp "Martyr" do đó có chữ Pháp là "Martyr" có nghĩa tử
đạo.
Người đã trả giá cho
vương quyền của Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng về phía sự
thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì vương quyền
của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng nghe "một
giọng nói" tất cả những ai thuộc về sự thật". Người "trị
vì" nhờ Đức tin mà chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác mà chúng
ta đặt vào Lời của Người, nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù hợp với
"Tiếng nói của Người. Không ai có thể thoát khỏi "Vương quyền"
này.
Là con người, chúng
phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại "Sự thật". Làm vinh danh
Chúa Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là tổ chức
những lễ long trọng mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các Vua
Chúa trần gian. Nhưng chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao cho
cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với
"Tiếng nói đó"
26. Chú giải của
Fiches Dominicales.
VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC
KITÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đức Giêsu Vua,
nhưng khác với vua trần thế.
Ta đang tham dự vụ án
xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô ông làm
tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu cuộc thẩm
vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức
Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của
là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: "Ông có phải là
vua dân Do Thái không?".
X. Léon-Dufour giải
thích: "Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường
xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do
Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ
bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra
nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy "vị Ngôn sứ" để tôn lên
làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau
khi Chúa cải tử hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với
Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng
trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là "Vua Israel",
vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự
bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn
một con lừa nhỏ để cỡi." ("Lecture de l'evangile selon Jean",
tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết, Chúa dùng
một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: "Ngài tự ý nói điều
đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?". Philatô nhìn nhận đó là
cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: "Tôi là người Do
Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm
gì?".
- Sau đó, Chúa đã dùng
câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần gian
này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước
khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ
của Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc
thế trần: "Nước tôi không thuộc về thế gian này".
A. Marchadour quảng
giải: "Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như
Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh
quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi
khác, đến từ "xứ sở" nơi Đức Giêsu "sinh ra", và từ đó
Người "đã đến thế gian", vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy
được thiết lập không nhờ sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai
đến nhận Lời thì trở nên công dân của Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay
lúc này" ("L'evangile de Jean", Centurion, trang 227).
2. Đức Giêsu là vua,
nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì Philatô gạn
hỏi: "Vậy ông là vua ư?", Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu
xác quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là "làm chứng cho chân
lý" (từ "làrn chứng" trong tiếng Hy lạp là "martyr":
tử đạo). Chân lý này chính điều đã được nói đến trong chương Nhập đề của Tin
Mừng thứ bốn ("Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý"): Chân lý
về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là tình thương,
Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người đã đến trần gian để đề
nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh. Người làm chứng bằng
hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng. Đức Giêsu không chỉ
đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu "bất cứ ai thuộc về chân
lý".
Sứ mạng của Người, và
có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động
ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào Chân lý về
Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng lên khỏi
đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường: " Hễ
ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi" Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính,
thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức
tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện
đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân
lý là gì?" ("Célébrer" tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc,
số 243, trang 42).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Đức Giêsu, một vị
vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn.
(x. Léon-Dufour, trong
"Lecture de l'evangile selon St Jean", cuốn 4, Seuil, trang 21).
Phụng vụ tung hô Đức
Kitô là "Vua Vũ Trụ", một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là
"một cuộc hiển linh của vi vua" Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa
nào, đó là điều mà Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái
đến theo truyền thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã
chu toàn việc chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của
Người, vương quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc
này, đối diện với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của
Người không đến từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua
là "người"vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều
thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép người ta
khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo lên thập
giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi giới hạn địa
lý hoặc dân tộc: bởi vì "chân lý" mà Người công bố, liên quan đến mọi
người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về cuộc phán xét
cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua " ấy ở đâu: Vua vinh quang
phán: "Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các người thân của
Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40): để có thể tìm thấy
"vua", tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người
Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu.
Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ
đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu "vua dân Do Thái" phản ánh theo
cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu
rằng lời hứa về "vị vua" đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi
Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với
loài người đã được đóng ấn.
2. Đức Giêsu, phản vua
(L'antiroi)
"Nước tôi không
thuộc về thế gian này", Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh
thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do
việc trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần
thế cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn
tự phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã không hiểu
gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh cãi để chiếm
địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao nhiêu.
Ngày nay cũng vậy,
chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó hơn
để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-anh-hùng
(antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và
thân thiện.
Lòng tôn kính đối với
Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là những
định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của
tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời
gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân
lý... giống như Người.
Thành công của Người,
cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất bại
thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ, phúc
thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân thể,
không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của Người
cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn là
thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống
rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài - chân lý bị lừa gạt.
Vương quyền của Đức
Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương quốc
là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những
đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha .
Sưu tầm
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG
NIÊN B
GÓP PHẦN KIẾN TẠO
"TRỜI MỚI ĐẤT MỚI"
Lễ Đức Giê-su Ki-tô
Vua Vũ Trụ
Đn 7,13-14 ; Kh 1,5-8
; Ga 18,33b-37
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
18,33-37
(33) Ông Phi-la-tô trở
vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: "Ông có phải là Vua dân Do
thái không?" (34) Đức Giê-su đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những
người khác đã nói với ngài về Tôi?". (35) Ông Phi-la-tô trả lời: "Tôi
là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thương tế đã nộp ông cho tôi.
ông đã làm gì?" (36) Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế
gian này. nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho dân Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn
này". (37) Ông Phi-la-tô liền hỏi: "Vậy ông là Vua sao?" Đức
Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì
nghe tiếng tôi".
2. Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã
cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc
về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giê-su cũng khẳng định
Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân
của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 33-34: + Ông
Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su: Đức Giê-su đã bị dân quân Đền thờ
bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau
khi bị bắt Đức Giê-su đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thương tế Cai-pha kết
án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rôma
truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức
Giê-su đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình cho Đức
Giê-su. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật,
mà ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô
đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã
vào trong phòng thẩm vấn Đức Giê-su + "Ông có phải là Vua dân Do thái
không?": Người Do thái đã tố cáo gian cho Đức Giê-su tội phạm chính trị là
xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô quy tội phản lọan và
kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô tra vấn Người về việc này. +
"Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về
tôi?": Đức Giê-su không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng
Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự vu cáo bịa
đặt?
- C 35: + Tôi là người
Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo,
vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thương tế đã nộp
ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do
thái đã tố cáo như thế để yêu cầu ông xét xử. Ông hỏi Đức Giê-su đã làm gì
chống lại họ để đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?
- C 36: + "Nước
tôi không thuộc về thế gian này": Đức Giê-su không chối điều họ tố cáo,
nhưng Người xác định mình không phải là ông vua trần tục. Vì Nước của Người
không thuộc về thế gian này. + "Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc
hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái": Lời này cho
thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác
về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều
kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa
vua với dân (x Ga 13,12-15).
- C 37: + "Vậy
ông là vua ư?": Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về
chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giê-su, chứ ông không nghĩ
Người là vua thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giê-su không làm loạn, vì Người
không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + "Chính ngài
nói: tôi là vua": Đức Giê-su xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu,
Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên
(x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy
sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến "để cho
chiên được sống và sống dồi dào" (x. Ga 10,10). + "Tôi đã đến thế
gian là để làm chứng cho sự thật": Sứ mệnh của Đức Giê-su là đến để làm
chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giê-su
làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật
không có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời mà Người
loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ
qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là trong biến cố Tử nạn và Phục sinh của
Đức Giê-su. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi": Đức Giê-su đến
không những để cứu độ dân Do thái là dân được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn
đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là
Hội Thánh hôm nay và là Thiên Đàng mai sau.
4. CÂU HỎI: 1)Tại sao các đầu mục Do Thái lại phải giải Đức Giê-su đến
tòa án của quan Phi-la-tô? 2)Tại sao người Do thái không vào trong nhà làm cho
quan Phi-la-tô phải đi ra ngòai hành lang để tiếp họ đứng dưới sân? 3)Đức
Giê-su cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào
khác với nước thế gian? 4)Khi hỏi Đức Giê-su: "Ông là Vua ư?",
Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái tố cáo Đức Giê-su không? 5)Đức
Giê-su nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào? 6)Đức Giê-su
đến để "Làm chứng cho Sự Thật" nào và làm chứng bằng cách nào?
7)Ngòai dân Do thái ra, Đức Giê-su còn đến cứu độ những ai?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: "Tôi
là Vua" (Ga 18,37):
2. CÂU CHUYỆN:
Lịch sử nước Anh có
câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là U
3. SUY NIỆM:
1) Hôm nay là ngày
Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ. Giáo Hội long trọng mừng kính lễ Chúa
Giê-su Ki-tô là Vua Vũ Trụ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đã khẳng định trước
mặt quan Phi-la-tô: "Phải, tôi là Vua".
2) Đức Giê-su là Vua,
vì Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Đấng đã dùng Lời quyền năng sáng tạo nên
vũ trụ vạn vật như sau: "Phải có ánh sáng! Liền có ánh sáng" (x. St
1,3). Đức Giê-su thực là Vua, vì Người đã chiến thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết
bằng Lời quyền năng như sau: "Câm đi và hãy xuất khỏi người này!" (Mc
1,25-27) ; "Này con, con đã được tha tội rồi" (Mc 2,5) ; "Anh
La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!" (Ga 11,43).
3) Người từng tuyên
bố: Nước Người không thuộc về trần gian này. Vương quyền Người không dựa trên
sức mạnh của vũ khí quân đội mà dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao
nhiêu triều đại xưa đã từng xuất hiện một thời trên trần thế, thì nay đều đã bị
diệt vong. Chỉ duy Vương Quyền của Đức Giê-su vẫn luôn tồn tại và hiển trị
trong các tâm hồn.
4) Chúa Ki-tô chiến
thắng! Chúa Ki-tô trị vì! Chúa Ki-tô hiển trị muôn đời! ("Christus vincit.
Christus regnat. Christus... imperat"): Ngày nay các tín hữu chúng ta tôn
kính Vua Giê-su không phải chỉ bằng nghi lễ trong nhà thờ, bằng việc ca hát tung
hô Người ... Nhưng quan trọng hơn: Chúng ta phải tích cực góp phần xây dựng
Nước Trời yêu thương an bình hạnh phúc ngay từ trong gia đình đến khu xóm, chợ
búa, trường học, xí nghiệp, sở làm và mọi lúc mọi nơi... Chúng ta phải làm thế
nào để mọi người nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha, sống chan hòa yêu
thương nhau như anh em trong đại gia đình của Thiên Chúa, dưới quyền cai trị
của Đức Giê-su Vua vũ trụ, như Người đã phán trước khi lên trời: "Thầy đã
được trao tòan quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18b-20)..
4. THẢO LUẬN: 1)Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su làm Vua
gia đình mình? 2)Chúng ta cần làm gì để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho anh em
lương dân, hầu mở rộng Vương Quyền của Vua Giê-su đến tận cùng thế giới?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU:
Ngày nay các bạn trẻ thường hay chọn cho mình một thần tượng để tôn sùng và bắt
chước: Người thì mê vua bóng đá Pê-lê; Có người lại chạy theo vua nhạc Rốc
Mai-côn Giắc-sân (michael jackson ).
Có những cô gái cố trang điểm, ăn mặc giống như cô ca sĩ này, hay người mẫu nọ...
còn chúng con là môn đệ của Chúa, chúng con có Chúa là vị thần tượng ưu việt
duy nhất. Ước chi chúng con nói được như thánh Phao-lô: "Đối với tôi, sống
là Đức Ki-tô" (Pl 1,21)- Từ nay "tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20).
- Lạy Chúa. Xin giúp
chúng con biết noi gương Chúa là Vua của sự thật. Xin cho chúng con biết yêu sự
thật và nói thật để mưu ích cho tha nhân, (nhưng không phải mọi sự thật đều nên
nói ra). Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo. Trong giao tiếp xã
hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và
kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36). Trong quan hệ làm ăn
buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách,
không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ
tin. Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng
đáng là con dân của Vua Giê-su "là đường, là sự thật và là sự sống"
(Ga 14,6).
X) HIỆP CÙNG MẸ
MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH
VUA treân thaäp giaù
Năm phụng vụ mở đầu
bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt
lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở
rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch
sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời
gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Giêsu đăng quang
làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua
chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc
hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của
mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: " Hôm nay, anh sẽ được
ở với Tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Người trộm bên hữu đã nhận ra vị
vua tình yêu, nên anh đã xin với Ngài nhớ đến anh khi vào vương quốc của
Ngài.Anh đã tuyên xưng vị vua tình yêu chiến thắng.Tình yêu đã chiến thắng
mọi trở ngại: từ những lời thách thức của những người đòi một vị vua uy
quyền đến cái chết khổ đau. Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả
tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng
của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên
Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết : "Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập
giá, Thiên Chúa đã giao hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên
trời"(Cl 1,20).
Trong tất cả những gì
đã viết về Chúa Kitô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gioan ở lời tựa sách
Tin Mừng: "Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận"
(Ga 1,11). Bêlem không có chỗ cho Ngài sinh hạ, Nadarét không có chỗ cho Ngài
sinh sống, Giêrusalem không có chỗ cho Ngài chết.
Bốn mươi ngày sau khi
Ngài sinh hạ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ Maria : "Ngài sẽ là dấu gợi lên
chống đối"(Lc 2,34). Đó là một kiểu nói khác chứng thực điều Thánh Gioan
đã nói. Chưa được hai tuổi, Ngài đã bị binh lính Hêrôđê lùng sục để sát hại.
Suốt những năm tháng rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng bị hiểu lầm, bị ghen ghét,
bị kết án loại trừ và bị đóng đinh khổ giá.
Chúa Giêsu Kitô đã
chọn Thập giá làm phương thế thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thập giá được tạo nên do hai
thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự hận thù
ghen ghét của thế gian; thanh đứng tượng trưng cho tình yêu và sự sống vươn
cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự
chết; giữa vui và buồn; cười và khóc; hận thù và thứ tha; ghen ghét và yêu
thương; giữa ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa. Đặt thanh sự sống
và tình yêu lên thanh sự chết và oán thù là cách duy nhất để làm nên một thập
giá.
Chúa Kitô lên Ngôi Vua
vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa.
Nói đến vua, chúng ta
thường nghĩ đến con người uy quyền, đầu đội vương miện, mình mặc cẩm bào, ngồi
trên ngai vàng xét xử trăm họ.Ngày nay, người ta còn nói đến vua xe hơi, vua
bóng đá, vua dầu lửa, vua vi tính... Đó là những thần tượng giàu có, sang trọng
của con người thời đại. Chúa Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, vương
quyền của Ngài không theo kiểu chính trị. Chúa Giêsu là vua sự thật, vua tình
yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và
hoan lạc trong Thánh Thần.
Bài Tin Mừng đưa chúng
ta về với Chúa Giêsu trên Thập giá.Vị Vua bị lăng nhục, các thủ lãnh thế gian
cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng tranh thủ nhục
mạ. Những lời chế diễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt. Chẳng lúc
nào Chúa làm Vua rõ ràng bằng lúc này. Tấm bảng trên Thập giá ghi bằng tiếng
Hípri, Latinh và Hylạp chữ INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu
Nadarét là Vua dân Do Thái.
Nhưng kiểu làm Vua của
Ngài thật khác thường : không có vương miện mà chỉ có vòng gai, không có cẩm
bào mà chỉ có trần trụi nhơ nhuốc, không có câu tán tụng mà chỉ có lời nhạo
báng khinh chê. Bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc rất
ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Satan buổi đầu: "Nếu ông là
Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình.Hãy xuống khỏi thập giá" (Mt 27,40). Chỉ cần
xuống khỏi Thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới lãnh đạo đến những
người chưa tin.Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được một thành công rực
rỡ. Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi Thập giá. Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng
hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con của Chúa Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi
Thập giá, như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn
chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì
Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Mừng Lễ Chúa Giêsu
Kitô, Vua vũ trụ, người Kitô hữu muốn khước từ những thần tượng trần thế, muốn
để Ngài làm vua của lòng mình.Người Kitô hữu muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực
của cuộc sống: văn chương, khoa học nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội
...để xây đắp hoà bình và tình thương cho trần thế.
Vương quốc Chúa Giêsu
không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và
tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong
trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới
thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình
Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho
Ngài tuyên bố : "Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người
đến với Ta".
Qua hơn 2000 năm, lời
ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần
gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không
chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu
làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời
gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên
thì nói như Thánh Gioan Phaolô II : "Con người sẽ không bao giờ loại bỏ
Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình". Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với
Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi
người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp
nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và
tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn
sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và
tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và
tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên
trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc
của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng
một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài
cho người trộm lành : "Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của
Ta".
Mỗi người tự xét mình
xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn
trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và
việc làm của ta chưa?
Lạy Chúa Giêsu, Vua
Tình yêu, Chúa đã yêu thế giới đến nỗi đã ban chính sự sống mình, xin Chúa
chiếm trọn con người chúng con từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, để chúng con
không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương
quyền của Chúa, là vương quyền của sự sống và chân lý, của ân sủng và thánh
thiện, của công lý và hoà bình. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ(Ga 18, 33b-37)
Chúa Nhật cuối cùng
của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với
niềm vui khôn tả, đồng thời quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta.
Đã từ lâu, trong ngôn
ngữ thông thường, người ta đã gán cho Chúa Giêsu Kitô tước hiệu Vua ;
Đúng, Người là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, trổi vượt trên
hết mọi loài, thống trị lòng người, Người hiển trị đến muôn đời. Chúa Giêsu là
vua lòng người, với tình yêu và lòng trùi mến, Người lôi kéo mọi con tim đến
với mình. Người là "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận thần tính
và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang..." (Ca nhập
lễ).
Lễ Chúa Kitô Vua tương
đối mới, nhưng có nền tảng Thánh Kinh và thần học sâu xa. Từ tước hiệu vua,
được áp dụng cho Chúa Giêsu thật quan trọng trong các Tin Mừng, chính Tin
Mừng cung cấp cho chúng ta một bài đọc đầy đủ về dung mạo cũng như sứ vụ của
Đấng Cứu Thế. Khởi đi từ "Vua người Do thái", dẫn đến tước hiệu
"Vua của thế giới", "Chúa của vũ trụ và lịch sử", vượt qua
mọi kỳ vọng của dân Do thái.
Trọng tâm tiến trình
mạc khải về vương quốc của Vua Giêsu, còn tiềm ẩn bí mật về cái chết và sự phục
sinh của Người. Khi bị treo trên thập giá, các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão
nhạo báng Người rằng : "Nếu ông là vua Do thái ; thì hãy xuống khỏi
thập giá đi để chúng ta tin nào" (Mt 27, 42).
Trong thực tế, Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa đã tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết trên cây
Thánh Giá, một nghịch lý của Vua Giêsu thể hiện thánh ý Chúa Cha trên sự bất
tuân của tội lỗi. Chính sự hiến mình làm của lễ đền tội này mà Chúa Giêsu đã
trở thành Vua vũ trụ, như Người đã tuyên bố với các tông đồ sau khi sống lại,
"Thầy đã được trao mọi quyền năng trên trời dưới đất" (Mt 28, 18).
Quyền bính của Chúa
Kitô Vua ở đây là gì ? Hẳn không phải là quyền bính của các vua trần thế
và những kẻ có thế lực ; nhưng là quyền năng thiêng liêng có thể ban sự sống
thần linh để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, đánh bại sự thống trị của thần chết.
Ðây là quyền năng yêu thương, một quyền năng có thể rút từ sự ác ra sự lành,
làm cho tâm hồn chai đá ra mềm mỏng, mang lại hòa bình cho những cuộc xung đột,
biến tăm tối thành hy vọng. Vương quốc của Chúa Kitô không hề áp đặt bất cứ
điều gì và luôn tôn trọng tự do của con người. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng
: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" (Ga 18, 33) Bị hỏi, nhưng
với tư cách là Vua, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Philatô, mà Chúa hỏi
lại ông : "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về
tôi?" (Ga 18, 35)
Khi thi hành sứ mạng
công khai, đã có lần đám đông dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Người
lại chốn khỏi Vương quốc thế trần, đúng như Chúa nói với Philatô : "Nước
tôi không thuộc về thế gian này"(Ga 18, 36). Chúa là Vua không có quân
đội, không khí giáp.
Cung điện Người ở
đâu ? Thưa, Người ngự trị trong lòng chúng ta. "Vua không có cung
điện" nhưng toàn trái đất thuộc về Người. Nhờ Người mà thế giới này được
tác tạo. Trước Philatô, kẻ có quyền ra án tử cho Chúa, Chúa khẳng định,
"Tôi đến trần gian để làm chứng cho Chân Lý" (Ga 18, 37).
Vậy chúng ta theo ai :
Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay giả dối? Tùy chúng ta lựa chọn. Chọn theo
Chúa Kitô không bảo đảm cho chúng ta sự thành công theo những tiêu chuẩn thế
gian, nhưng bình an và niềm vui thì chỉ mình Người mới có thể mang lại cho
chúng ta. Với Người, chúng ta có thể xây dựng yêu thương và an bình. Chúa là
"Vua, của một vương quốc gồm những người tội lỗi!" Chúng ta phải
thường xuyên lặp lại : Xin thương đến con là kẻ tội lỗi, để chúng ta nhìn anh
em mình với lòng từ bi. Họ cũng là những tội nhân nghèo như chúng ta. Chúa là
Vua của những người nghèo! Chúng ta biết tình yêu đầy ân sủng của Thiên Chúa là
sự giàu có của chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu nó. Chúa là "Vua
của một vương quốc huynh đệ!" Hãy là những người anh em yêu thương nhau!
Trong mắt Chúa Giêsu, Bình an và Tình yêu lan tỏa. Vì vậy, Tin Mừng trình bày
Chúa Giêsu, Vua vũ trụ bị kết án, Philatô là kẻ xét xử Người.
Khi nói : "Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"
Chúa Giêsu đáp : "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế
gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng
Tôi"(Ga 18, 36-37).
Chúng ta đang ở trong
thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu,
sự dịu dàng, hiền lành, vẻ đẹp trở lại vương quốc này. Chúa Giêsu là Đấng Cứu
Thế, Người đã không đến để xét xử nhân loại, nhưng là để cứu. Người là Đấng
công chính duy nhất, thế chỗ cho tội nhân.
Để phục vụ Đức Giêsu
Vua, chúng ta phải chấp nhận làm việc mỗi ngày cho Triều Đại cánh chung
đang đến... điều ấy không xảy ra mà không có chiến đấu : Vâng, Vua chúng ta yêu
cầu chúng ta cầm sẵn vũ khí trong tay để chiến đấu, chống lại "các thế lực
của bóng tối" (Cl 1, 13). Cùng với Người, chúng ta nắm chắc phền thắng (x.
Ga 16, 33), nhưng với điều kiện là chúng ta cũng tham gia chiến đấu, chiến đấu
hàng ngày với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt... vì "những ngày là
xấu xa! "(Ep 5, 16) và rằng "cả thế giới nằm dưới sự thống trị của ma
quỷ"(1 Ga 5, 19).
Làm cho Chúa hiển trị,
tiên vàn vẫn là làm cho Chúa hiển trị trong lòng chúng ta... khi tuyên xưng đức
tin trong cuộc sống hàng ngày cách cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta không xấu
hổ! (LG •31). Lời Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói cùng dân chúng
ngày 15 tháng 6 năm 1993 vẫn còn vang vọng : "Hãy đi đến các ngả đường,
sống đức tin của chúng con với niềm vui vẻ, hãy mang đến cho mọi người Ơn cứu
độ của Đức Kitô, ơn ấy phải thâm nhập vào trong gia đình, trường học, trong các
nền văn hóa và đời sống chính trị!" Đừng sợ phải đi ngược dòng! Làm cho
Đức Kitô hiển trị, là trở nên tông đồ lôi kéo nhiều linh hồn về với Chúa là Vua
Vương Quốc Yêu Thương và An Bình.
Lm. Antôn Nguyễn Văn
Độ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét