NHÀ THỜ GÒ MÂY TRONG TƯƠNG LAI |
GIÁO ĐIỂM PHONG HẢI |
GĐ. BẢ XEN |
Văn phòng TGM. Hưng Hóa
Kính báo:
Cha Giuse LƯU NGỌC TUẤN
Linh mục Hội Thừa Sai Việt Nam
Sinh ngày 5 tháng 8 năm 1970 tại Vĩnh Long
Gia nhập Hội Thừa Sai Việt Nam 10/2010
Thụ phong linh mục ngày 25 tháng 6 năm 2014 tại giáo phận Phú Cường
Được sai đến phục vụ tại giáo xứ Lào Cai, giáo phận Hưng Hóa từ tháng 6 năm 2015
Đã từ trần vì bạo bệnh lúc nhồi máu cơ tim tại bệnh viện Bạch Mai lúc 21g00 ngày 30 tháng 10 năm 2015.
Thi hài cha được đưa về trụ sở Hội Thừa Sai ViệtNam , Gò Mây thuộc Tổng giáo phận
Sài Gòn.
19g30 ngày 31.11.2015: giáo xứ Lào Cai, GP Hưng Hóa dâng lễ cầu nguyện cho cha Giuse tại nhà thờ Cốc Lếu.
17g00 ngày 01.11.2015: tẩm liệm và Thánh lễ đưa chân trụ sở Hội Thừa Sai Việt Nam, Gò Mây
10g00 ngày thứ Hai: Đức cha phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long dâng lễ đưa chân cho cha Giuse tại nhà thờ giáo họ Cam Đường, giáo xứ Lào Cai, Gp Hưng Hóa.
9g00 thứ Tư 04.11.2015: Thánh lễ An Táng tại giáo xứ Chúa Cứu Thế, Phú Dòng, Định Quán, Đồng Nai, giáo phận Xuân Lộc, do Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, Đặc trách Hội Thừa Sai VN chủ tế.
Giáo phận Hưng Hóa đón nhận thánh ý Chúa trong niềm thương tiếc cha, một vị thừa sai trẻ trung, nhiệt thành với sứ vụ, tuy chỉ mới đến làm việc trong cánh đồng truyền giáo của giáo phận được thời gian ngắn ngủi.
Xin thành tâm chia buồn với Hội Thừa Sai Việt Nam, cha quản xứ Lào Cai và các cộng sự viên, giáo xứ Lào Cai và giáo họ Cam Đường.
Xin mọi thành phần Dân Chúa hiệp ý cầu nguyện cho Cha Giuse được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Trong tình huynh đệ linh mục, xin các cha dâng 3 thánh lễ cầu nguyện cho cha Giuse.
Kính báo
Văn phòng Tòa Giám Mục Hưng Hóa
Linh mục Hội Thừa Sai Việt Nam
Sinh ngày 5 tháng 8 năm 1970 tại Vĩnh Long
Gia nhập Hội Thừa Sai Việt Nam 10/2010
Thụ phong linh mục ngày 25 tháng 6 năm 2014 tại giáo phận Phú Cường
Được sai đến phục vụ tại giáo xứ Lào Cai, giáo phận Hưng Hóa từ tháng 6 năm 2015
Đã từ trần vì bạo bệnh lúc nhồi máu cơ tim tại bệnh viện Bạch Mai lúc 21g00 ngày 30 tháng 10 năm 2015.
Thi hài cha được đưa về trụ sở Hội Thừa Sai Việt
19g30 ngày 31.11.2015: giáo xứ Lào Cai, GP Hưng Hóa dâng lễ cầu nguyện cho cha Giuse tại nhà thờ Cốc Lếu.
17g00 ngày 01.11.2015: tẩm liệm và Thánh lễ đưa chân trụ sở Hội Thừa Sai Việt Nam, Gò Mây
10g00 ngày thứ Hai: Đức cha phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long dâng lễ đưa chân cho cha Giuse tại nhà thờ giáo họ Cam Đường, giáo xứ Lào Cai, Gp Hưng Hóa.
9g00 thứ Tư 04.11.2015: Thánh lễ An Táng tại giáo xứ Chúa Cứu Thế, Phú Dòng, Định Quán, Đồng Nai, giáo phận Xuân Lộc, do Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, Đặc trách Hội Thừa Sai VN chủ tế.
Giáo phận Hưng Hóa đón nhận thánh ý Chúa trong niềm thương tiếc cha, một vị thừa sai trẻ trung, nhiệt thành với sứ vụ, tuy chỉ mới đến làm việc trong cánh đồng truyền giáo của giáo phận được thời gian ngắn ngủi.
Xin thành tâm chia buồn với Hội Thừa Sai Việt Nam, cha quản xứ Lào Cai và các cộng sự viên, giáo xứ Lào Cai và giáo họ Cam Đường.
Xin mọi thành phần Dân Chúa hiệp ý cầu nguyện cho Cha Giuse được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Trong tình huynh đệ linh mục, xin các cha dâng 3 thánh lễ cầu nguyện cho cha Giuse.
Kính báo
Văn phòng Tòa Giám Mục Hưng Hóa
CHÚA
NHẬT 33 – LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
MỤC
LỤC
1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
2. Hạt lúa gieo vào lòng
đất – Ga 12,24-26
3. Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà
4. Ai muốn theo tôi phải
từ bỏ chính mình
5. Sống chứng nhân – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Không thuộc về thế
gian.
7. Sống chứng nhân.
8. "Thà chết vinh
còn hơn sống nhục"
9. Để làm chứng cho vua
quan – Mt 10, 17-22
10. Truyền đạo.
11. Sống vì đạo – ĐTGM.
Giuse Ngô quang Kiệt
12. Con đường hạt lúa –
ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
13. Chứng nhân tình yêu
14. Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt.
15. Chúa Thánh Thần sẽ
soi sáng cho biết phải nói gì
16. Can đảm nói không với
tội lỗi – Lc 20, 27-38
17. Tử đạo hay sống đạo?
18. Suy niệm của Lm. Phạm
Thanh Liêm.
19. Những Đấng Bậc Anh
Hùng
20. Anh em làm chứng cho
Thầy.
21. Các Thánh Tử Đạo Việt
Nam
– Lc. 9, 23-26
22. Nhớ Ơn Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
23. "Đây Bài Ca Ngàn
Trùng"
24. Sống đạo và chết vì
đạo
25. Tử đạo, một chọn lựa
của lòng tin
26. Các thánh Tử Đạo Việt
Nam
27. Người chứng thứ nhất
– Ga 12,24-26
28. Làm chứng
29. Tham dự vào hy tế của
Chúa Giêsu
30. Tỉnh thức trước cơn
bách đạo mới
31. Những tên lý hình
thời đại – PM. Cao Huy Hoàng
NỘI
DUNG CÁC BÀI SUY NIỆM
1. Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam
Mừng kính các thánh tử
đạo Việt Nam ,
chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?
Trước hết các ngài là
những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm
Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ
thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao
nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách.
Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào
những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn
đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã
chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được
tông phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành
cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu
tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian,
thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các
ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không
làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất
linh hồn thì được ích chi.
Cùng với việc làm
chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn
là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn
bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình
yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn
hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ,
còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc
biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ:
Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các
thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài
vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người
đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.
Sau cùng các thánh tử
đạo Việt Nam
là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai
xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên
trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì
lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc
đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ
hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm
sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời
để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh
hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh
thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng
đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình
thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như
các Thánh Tử Đạo Việt Nam
là những bậc cha ông của chúng ta.
2. Hạt lúa gieo vào
lòng đất – Ga 12,24-26
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, có người nông
dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi
gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi
bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt
giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc
bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các
bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận
khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành,
còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được
tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi
chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên
vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào
quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời
thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi.
Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa
khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho
côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những
hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên
thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở
thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi
chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành
hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất
hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá
thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu
và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến,
nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ
ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không
chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp
dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp:
"Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở
đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa
Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường
khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp
trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời,
mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân
phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi
lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá
sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã
lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng
lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh
quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu,
các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các
ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng
vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm,
tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng
cho Đức Ki-tô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị
diệt vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống
mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin
ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế
giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã
khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua
thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho
lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn
đất như "hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo",
bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin
Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa
Giêsu như lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi
"Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."
3. Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà
KHÔNG ĐI THEO ĐẠO YÊU
THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU LÀ BỎ ĐẠO
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử
thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây
thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu
công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được
xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù
ngục, chịu hành hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên
quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi
dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở
lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì
Chúa.
Tất nhiên có nhiều
người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước
qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh
giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu
thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á
đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là
Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập
nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ
tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu
khẳng định rằng: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn
đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu
thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng
ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương
Quốc của Ngài: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương
Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa"; ai không sống
theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những
người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: "Quân
bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho
tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời
bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là
người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là
dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa
Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung
giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn
thương thanh danh, phẩm giá người khác... là người đã từ bỏ đạo yêu thương của
Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia
đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu
thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu
thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ
đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa
dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức.
Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa
dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái
không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu
thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta
theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp
những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ
những người chung quanh... là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa
Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã
rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa
Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các
ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh
dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo
đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên
vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.
Nguyện xin các thánh
tử đạo Việt Nam
là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu
thương của Chúa.
4. Ai muốn theo tôi
phải từ bỏ chính mình
Một bác tiều phu đi
đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình
sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình
vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo
tiền. Bác mới kêu lớn lên: "Ước gì tôi được gặp Thần Chết!"
Bác vừa nói xong thì
thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: "Ông lão
muốn điều gì?" Bác lập cập trả lời: "Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa
giùm lên vai tôi".
Thế đó, dù khổ đến
đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ
gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được:
"Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm
nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?" (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là
một thực tại cay đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự
tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần
Chết! Vì đó là người thổi tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những
quyến rũ hào nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận
cát bụi, để nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự
sống thực sự và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo
hình ảnh Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: "Căn cứ vào điều
này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng
ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em" (1Ga
3,16)
Vâng, ai cũng kính
phục một người sẵn lòng chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi
nữa: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã
dành cho chúng ta: Trên cây thập tự, Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng
ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một
nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của
Đức Kitô: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng
ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất
mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9,23-24).
Nhưng ai đi theo Đức
Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất
cả và không bao giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa
hướng con người đến một giá trị không tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi
bóng tối trong cuộc đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: "Những
thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, -
vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ
hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh
quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp
mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả,
rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con
người" (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300
giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra
chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải "khắc
tự" hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có
khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà
Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt
ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới
có được một đứa nhỏ ở ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp,
phải nằm ngủ dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm
bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ
đạo. Có một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra
ngoài mới tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông
nhất định không chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để
chịu chết vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên
Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại
quân Pháp nên phải rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả
bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng
thoát ra, có lính canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương
tình phá cửa cho họ chạy, một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo
là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết
trong niềm vui, chết trong hy vọng.
Được sinh ra, sống,
chết và chịu đau khổ là những gì không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong
cuộc sống sẽ nở hoa niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình
của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: "Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng
lưỡi này xin ca ngợi tán dương" (Tv 63,4)
Sống yêu thương có
phải là chọn lựa của tôi?
5. Sống chứng nhân –
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
"Tin đạo chứ
không tin người có đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng
đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói.
Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ.
Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng
lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là
người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là
vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không
tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không
còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ
đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm
chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù
oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một
mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp
của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng
không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam
năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người
mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em
vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như
trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội
lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật
ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh
Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những
tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị
đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp,
làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động
nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu,
còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm
quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh
Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ
xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ
đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải
đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các
thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận
kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các
ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang
bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống
lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà
quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo,
được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh
Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên
thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử
đạo Việt Nam
là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong
mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một
chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay
đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng
bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta
không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm
tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo
nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham
chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn
còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã
sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo
nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính
nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay
không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh
lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn
còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia
đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án
"tin đạo chứ không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm
tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo
Việt Nam ,
là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết
noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ
lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua
đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
6. Không thuộc về thế
gian.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30
năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước.
Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả
lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh
liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước.
Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì
xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá
cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều
đình.
Ông Hy đã chấp nhận
cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu
thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị
của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết
của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai
đầu dây cần phải giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai
họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh
Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài
đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên
như máu thịt của người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ,
và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc
về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng
không thuộc về thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không
coi thường mọi giá trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những
giá trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất
chính mình và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi
trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất
thành bột. Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ
buông một trong hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người
Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta
vào một thế đứng chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm
chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị
trường, cần có những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua
lương tâm mình để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài
ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám
chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và
tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng
hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều
đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm
chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho
Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử
đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào
thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai
chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau
lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ
được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để
đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ
mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng
bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt
Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu
thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được
diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
7. Sống chứng nhân.
Truyền thống Giáo Hội
bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như
vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin
Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn
đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài
đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương
cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng
của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ
rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói,
nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là
một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội,
như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó
cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta
đang sống trên đất nước Việt Nam ,
cùng với những người Việt Nam
khác, xây dựng một xã hội Việt Nam
tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao
chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn
cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong
đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi
nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi
cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin
của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng
ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho
chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi
trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống
sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã
dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy
chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu
thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước
mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp
người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh,
nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa
đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống
của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia
đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường
nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn
trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện
chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có
cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho
chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của
chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải
trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống
chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm
chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái
biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông
hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều
chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
8. "Thà chết vinh
còn hơn sống nhục"
(Suy niệm của Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày tổ tông loài
người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng
chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng
nó đã nói cùng Adam - Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông
bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng satan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam
từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm
kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên
Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con
Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời
đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp
với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc
phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa
hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ
chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt
thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng
kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền
nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế
kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì
lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế
gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là
cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì
được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần
gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo.
Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống
đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn
roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh
quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp
ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai
chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng
tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ
các đồng đạo rằng: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ
nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ
thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời,
không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu
có đau đớn quá thì hãy xin #ức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các
thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà
Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình
chữ thập xuống đất rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì
trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn
thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi
hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An,
ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình
phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở
bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô
đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản
ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước
qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không
chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi
qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói
lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng
Lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài
nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ
cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu
cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng
cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ
ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền
chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo
dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát
khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin
anh em đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh
tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống
niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả
hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những
con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó
những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo
hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì
tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật
Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con
xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó
những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo
hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo
Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức
tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú
trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
9. Để làm chứng cho
vua quan – Mt 10, 17-22
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh
nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra
trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những
gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh
nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là
bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng
trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo
cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu
đuối.
Chết vì Đạo là một
cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm
tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài
không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình
yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng
vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm
hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi
giáp mặt với Đấng tôi yêu. Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi
làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi
phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa
đọa.
Các vị tử đạo thường
bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn.
Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống.
Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua,
và cũng có người không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên,
như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là
trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có
người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae
Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá
là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp
dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện,
của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi,
giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng
được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta
cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc
sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng
về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua
thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo
Việt Nam ,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy
hiểm.
Sự hy sinh của các
ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất
diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến
thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con
là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế
giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời
hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức
tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ
Quốc Việt Nam .
Ước gì máu thắm của
các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa
trái.
10. Truyền đạo.
Người Công giáo Việt Nam thường coi
mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt
sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất
là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều
mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những
người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức
tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ
khác niềm tin của mình.
Không có việc trao
tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có
Giáo Hội Việt Nam
hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là
chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác,
tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một
cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực
hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt
giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa
đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất,
bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong
những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng
hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc
rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách
chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho
niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các
thánh Tử đạo Việt Nam
chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại,
nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục
sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ
mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời
mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày
nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi
giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi
trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu
Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo
theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết
cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người,
nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái
chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết
vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu
giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội
Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng
Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo
quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và
hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã
tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo
hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải
giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng
thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và
bình đẳng của người da đen... trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do
nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà
thôi.
Đức Tổng giám mục
Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi
dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục,
mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần
đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám
sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám
sống và dám chết như vậy hay không?
11. Sống vì đạo –
ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt
Chúng ta đang sống
trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an
nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác
thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa
muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết
từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta
đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý.
Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy.
Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ
quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể
chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta
đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu
bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh
thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: "Cọp chết
để da, người ta chết để tiếng". Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống
đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không
thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh
cửu.
Chúa chỉ cho ta đường
đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là
chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh
cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa.
Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt
được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con
đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã
thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu
chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo
thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh.
Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay
Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng
theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa.
Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng
chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất.
Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà,
chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh
phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất
mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các
ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau
đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống
cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm
thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh
cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt
đối.
Cuộc sống hôm nay cũng
đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải
chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những
hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng
chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều
khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc
đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa.
Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong
tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ
đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn
khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa.
Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con
cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống
đích thực.
Chính những lựa chọn
đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta
phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã
theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác
thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không còn
cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn
xưa không?
12. Con đường hạt lúa
– ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi
thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu
dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài
nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không
khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ
những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải
đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người.
Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong
3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong
những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như
thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu.
Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người
nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến
dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa
qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát
triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý
nghĩa của lời Chúa nói: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì
nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác". Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống
đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ
khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong
phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo
Hội Việt Nam ,
ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam , lập tức bị
các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình
thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là
xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly
cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình
ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ "tả đạo" trên má ngưới có
đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành
với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị
chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị
trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo.
Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi
chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã
dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế
kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày
càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6
triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi
sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng
ta lại xác tín lời Chúa dạy: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác".
Nhìn lại lịch sử, ta
càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta
hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ,
phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con
đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất
vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những
gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biế#7871;t chịu đựng
những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với
đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt
bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo
Việt Nam ,
xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi
hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh
Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này
dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế
kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam .
3- Muốn đạo Chúa phát
triển ta phải làm gì?
13. Chứng nhân tình
yêu
(Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thánh lễ hôm nay đỏ
một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn
phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại
Việt Nam .
Có điều máu lênh láng
nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn
chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình
yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan
chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo
oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin
mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín,
nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài
yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn
được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài
là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng
tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức
trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những
lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ
gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu
Chúa.
Tình yêu của các ngài
là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu
mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh
Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma
vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay
vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm
8,35-39).
Tình yêu của các ngài
là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các
ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng
như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã
hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những
người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống
với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng
liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho
vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng
khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống
không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh.
Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng,
để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài
minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến
Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê
thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài
lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người
cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng
oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài
phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài
sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét,
nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả
hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương
thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn
cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó
chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta
không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt
Nam
làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống
cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy
sống vì đạo.
Lạy các thánh Tử Đạo
Việt Nam , xin chúc lành cho
quê hương và Giáo Hội Việt Nam .
Amen.
14. Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt.
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN
MỪNG
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh
diện vì các thánh là người Việt Nam ,
không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh
góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh
diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam . Với 117 vị Thánh. Giáo Hội
Việt Nam
được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh
diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các
Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với
Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh
vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh
Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị
có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức
tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội
mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh
Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn
sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh
tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài,
đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả,
dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo
Việt Nam .
Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng
trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh
dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao
đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có
được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo,
giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng
chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh
hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp
những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo
trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó
là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và
gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc
cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ
ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi
hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy
thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không
có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo
hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ
sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra
phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung
thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để
nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là
kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo
gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời
sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã
không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc
phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế
giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và
ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn
vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận
những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất
đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy
theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới,
đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng
phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém
gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không
kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết
mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong
thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế
cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng
góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo
Việt Nam ,
xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc
Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để
làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
15. Chúa Thánh Thần sẽ
soi sáng cho biết phải nói gì
(Mt 10, 17-22)
Qua những lời Chúa
Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi
đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào,
vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số
phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người
đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo
thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như
sau:
"Nếu thế gian
ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con.
Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng
vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con
ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo:
"Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ
bắt bớ các con".
Người đồ đệ được đồng
hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình
như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn
của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết
lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh
Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu
tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem.
Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con
người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục
khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn
sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm
chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi
"đừng sợ" đến ba lần:
- "Các con đừng
sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là
sự thật".
Trung thành với sự
thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính
mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa
Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác,
làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng
can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người,
bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh
hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin
tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa
Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều.
Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì
huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay
sao".
Đó là ba lý do để đừng
lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa
yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm
chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận
Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở
trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên
ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay.
Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua
mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng
mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh
cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam , xin Chúa
ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của
Chúa trong mọi hoàn cảnh.
16. Can đảm nói không
với tội lỗi – Lc 20, 27-38
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Trong thời kỳ bách hại
đạo Công giáo tại Việt Nam ,
một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua
thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các
kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp
nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch
thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những
lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông
tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn
đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không
chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được
quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn
sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận
một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập
giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những
cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các
kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua
quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy
hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn
rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh
thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau),
và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải
chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém
đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử
đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu,
phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai
dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như
các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm
doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng
phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của
tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý
của Người.
Noi gương các anh hùng
tử đạo Việt Nam ,
chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu,
với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được
những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải
được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước.
Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức
thấp trước.
Tương tự như thế, để
có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những
cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không
với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh
hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi
gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải
chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh
vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
17. Tử đạo hay sống đạo?
Nếu như anh chị chúng
ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm
hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn
chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh
Tử Đạo Việt Nam ,
chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta
đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội
Việt Nam
đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào
hùng và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ
đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai,
trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến
triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm
cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người
muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo.,
hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội
sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế
Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta
thấy Giáo Hội Việt Nam
cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống
Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ
thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm
năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải
di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng
Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó,
có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm
sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín
hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam
đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là
trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện
mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà
tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh,
đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam . Hãy sống
thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất
thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ
cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế
nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền,
bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động
chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu
đã xác quyết:
- Không ai yêu hơn
người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và
tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm
nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một
vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống
sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay
mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ
chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã
hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng,
lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống
đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu
không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên
hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm
chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và
thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng
chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được
gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho
đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần
tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như
vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh
chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử
đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống
niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết
anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng
chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.
18. Suy niệm của Lm.
Phạm Thanh Liêm.
Ngày 24 tháng 11, là
ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội
hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt
Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa
Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là
những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là
dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu
đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng
đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong
sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn
thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành
thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết.
Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu
cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng
rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của
Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người
cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng
dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là
những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha,
người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các
ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và
những người thân.
Cái chết của các ngài,
làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên
tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên
người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn
trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các
ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử
đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết,
lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong
thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên
Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương
chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên
Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta
nữa?
Không có gì tách chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến
độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa
yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính
Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản
thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được,
nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. "Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô". Không ai, cho dù đó là thiên
thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên
Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa
yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất
cả. "Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa". "Đức
Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi
ai"! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho
dù "kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì". Thiên Chúa là Đấng trung
thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày
mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin
mừng theo thánh Luca: "ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng
ngày mà theo Ta". Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ
là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho
tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng
ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
"Được lời lãi cả
thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?" Điều quan trọng là phải
sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi
gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh
tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những
người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn
đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử
đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói:
"sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi". Bạn có đồng ý không? Tại
sao?
3. Để giúp nhau hiểu
thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam
và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo
Việt Nam !
19. Những Đấng Bậc Anh
Hùng
(Suy niệm của Lm.
Giuse Phạm Thanh Liêm)
Không kể 117 vị tử đạo
tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước
năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận
cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương
con người dầu phải chết.
Họ là ai?
Họ là những người cha
người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh
niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là
dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay.
Họ là những người "dường như" không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm
tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận
cái chết.
Họ là ai? Phải chăng
họ là những người điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những người không
còn bi#7871;t trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu? Phải
chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ không còn ý
thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi
họ? Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho
họ, mà "ngoan cố" không chịu bỏ đạo để phải chết?
Không! Họ là những
người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ
là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu
cha già mẹ yếu. Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những
"anh hùng" sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những
người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng "tình
người" chứ không phải là những người "vô cảm". Họ chết vì người
ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận
cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao họ kiên cường
và anh dũng như vậy?
Họ là những người rất
bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu
đuối mỏng manh.
Ai không sợ chết? Ai
không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo
"dường như" không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó
quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng
không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên
tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.
Qua các bậc anh hùng
tử đạo, người ta đọc thấy không phải "con người" anh hùng, nhưng
chính "Thiên Chúa" đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con
người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những "bức tường bằng sắt,
như những bức vách bằng đồng" và kiên vững không gì khuất phục được. Người
ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát
xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ. Thiên Chúa vô
hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù
người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.
Sống cho đúng là con
cháu của những bậc anh hùng
Chúng ta là con dân
đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để "con nhà
tông, không giống lông cũng giống cánh". Xin cho chúng ta có tình yêu đối
với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.
Ngày nay người ta
không còn nhiều dịp để "tử đạo" như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta
vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta
vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v..Ngày
xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể
lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ
máu "vô hình", vẫn phải hy sinh, phải chết "chính con người của
mình" thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Nên hát "Đây bài
ca ngàn trùng" trước khi chia sẻ)
1. "Ngày nay tử
đạo không đổ máu", bạn hiểu sao về câu này?
2. Với bạn, đâu là khó
khăn nhất của đời sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)?
3. Bạn biết gì về các
thánh hoặc chân phước tử đạo Việt Nam ? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm
nào đó mà bạn thán phục của một trong các vị mà bạn biết).
20. Anh em làm chứng
cho Thầy.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo
Việt Nam ,
được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà
Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh
hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân mẫu chúng tôi rất
chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo
lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của
cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các
linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân
bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép
phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến
thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an
ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng
đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng
chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh
nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một
người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng
phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ,
can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo
phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào
cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt
người đời.
Sống đức tin là một
loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả
tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta
thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các
vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã
bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại
càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây
ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối
diện.
Ước gì chúng ta không
để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta
không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm
chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước
mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở
nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm
nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê
nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam ,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy
hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa
mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ
nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các
ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng
Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục
vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam .
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền
giáo sinh nhiều hoa trái.
21. Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam
– Lc. 9, 23-26
(Suy niệm của Lm.
Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tử đạo, là từ ngữ dịch
của chữ martuV, marturew (martus, martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng.
Các vị tử đạo là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng sống của mình
để làm chứng cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong cuộc sống, người
ta có thể chỉ trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng
đáng tin nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình làm bảo đảm.
I. Hiện hữu một Thiên
Chúa tình yêu
Các vị tử đạo làm
chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ
đạo nếu không họ sẽ bị tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo
không có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết như các ngài đã
biết. Không chắc rằng những người có quyền thế này không tin có một Đấng tối
cao vượt trên tất cả mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những
người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là những người không tốt,
cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc
một tổ chức gây phương hại đến sự tồn vong của đất nước.
Khi trung thành với
chính mình, trung thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn
thờ, các vị tử đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy
rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực tại nào đó mà các
ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm
nghiệm, đã biết một cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không như
vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả kể cả những
người thân yêu vì Đấng đó!
Đành rằng có nhiều
người chết vì ý thức hệ, nhưng những người chết vì đạo là những người chết cho
tình yêu, không thù hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là những
kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả những kẻ hãm hại
mình. Chính tương quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác
với những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các vị tử đạo làm
chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi
tất cả để được chia sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài bước
lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình yêu.
II. Niềm vui và bình
an của các chứng nhân anh dũng
Các chứng nhân đã dám
hy sinh chính mạng sống để sống trung thực với chính mình, và qua đó cho con
người của mọi thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt, đã
làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là người, ai không sợ đau đớn và
gian khổ, ai không sợ chết, ai không muốn được sống gần những người thân yêu
của mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó, các ngài đã
chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi các ngài, người ta còn nhận ra có
một sự an bình nào đó mà những người ghét các ngài không thể làm mất được.
Đứng trước các ngài,
những người quyền thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một
phụ nữ chân yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền với những
tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy một sức mạnh
siêu vời tiềm ẩn mà thế gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng
sống của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết lại là
những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và ngay cả
giết người, là dấu chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa những đau đớn của
thân xác mà con người không thể tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng
nhân tử đạo một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc chết, các
chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên Yêsu, điều này cho
thấy tình yêu của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các
chứng nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất tất cả vì Ngài.
Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài chiến thắng tất cả.
Ngay cả giữa những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui
và hy vọng tràn ngập lòng các ngài.
III. Cuộc chiến vẫn
tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người
Ngày nay không còn
nhiều những cơ hội thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng con người của
mọi thời đại đều phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại trần
thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn quyền lợi và
ham muốn thể xác. Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi
và nhân phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn xu hướng ích
kỷ của mình.
Ngày nay, thân xác và
những khuynh chiều của thân xác vẫn luôn hiện diện với con người: bao nhiêu
người đã chọn vật chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã
chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù chà đạp nhân phẩm. Ngày
nay, con người vẫn được mời gọi để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn
trọng phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con người được mời gọi tôn
trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả qua việc tôn trọng công bình; con
người được mời gọi sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính
mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức Yêsu đã yêu thương.
Vượt qua chính mình
với những khuynh chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng. Con người phải
chết mỗi ngày cho những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con người
cũng trở thành chứng nhân "tử đạo": làm chứng có một đời sống
mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình mau qua này.
Con người được mời gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi yêu
thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao
cho xứng với các bậc cha anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa
tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào vì là
người Việt Nam
không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là
người Việt Nam .
Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).
2. Bạn có tự hào về
các bậc cha anh tử đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?
22. Nhớ Ơn Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Nguyễn
Minh Triệu)
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam , những
người anh hùng trong trái tim của mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là một dịp để
chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam , và cũng là
một cơ hội để chúng ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các
ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh
tử đạo Việt nam để lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận
được một kho tàng vô giá.
Trước hết, đời sống và
cái chết của các vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng
ta. Trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh hưởng nặng
nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của chúng ta không ngừng
bị đặt lại, chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của
Giáo hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin của mình. Tuy
nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo, chúng ta có một lời
chứng không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã
dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống vốn là điều quý
giá nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các
vị ấy đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám
từ bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa, các ngài đã
đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo của chúng ta
có tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể
chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự bản chất có
nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức
tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững
tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch nhất cho mọi
chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các Thánh tử đạo không
chỉ làm chứng về đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về
đời sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu thương, yêu thương
Thiên Chúa và yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã
chọn cái chết trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài không chỉ
yêu thương những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà còn yêu thương và
tha thứ cho kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì
các ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính trị, trước đau
khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự do hoàn toàn để đáp
trả lại tiếng mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận
ân phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng buộc của thế
gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương, tình yêu dành cho
Thiên Chúa và cho con người.
Như hạt giống gieo vào
lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật
chết đi, máu các ngài đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa
trái. Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không chỉ dừng
lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới chúng ta là con cháu các ngài. Là
những hậu duệ chúng ta chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ
máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu
phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo
truyền thống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam
vẫn giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người,
vẫn còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam đang được
một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời mình
cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh hùng tử đạo đổ ra
cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng đại của các ngài,
chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.
23. "Đây Bài Ca
Ngàn Trùng"
(Suy niệm của Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ các thánh
Tử Đạo Việt Nam .
Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng:
"Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng.
Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các
thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi
bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài
ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn,
nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì
tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời
ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian
nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả
tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc
đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung
kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là
một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay
và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang
tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời
tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể
nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược
lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các
ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày
luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người.
Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận
khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn
ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những
gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn
hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết
các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan
Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa
huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài
để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết
luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để
xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói:
"Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác
ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các
con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc
làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay
giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ
như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho
ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không
chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho
thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là
dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến
cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử
đạo Việt Nam ,
xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca
ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người.
Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các
thánh Tử đạo Việt Nam
dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
24. Sống đạo và chết
vì đạo
Theo truyện kể, thì
thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo
ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và
bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta
thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày
29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây
có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều
này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của
nhân loại.
Thật vậy, các vị tử
đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong
tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không
biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân
giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là "Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho
những kẻ ngược đãi mình". Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến
đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một
người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại
mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể
nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng
vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình
tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người
Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì
Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác,
nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình
bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một
cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt
Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng
trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình
yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình.
Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì
vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các
ngài.
Vua quan phong kiến có
thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài
thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc
tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai
trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ
anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống
cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái
chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì
muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự,
hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và
bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của
thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này
chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng
vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha
mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức
tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong
cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các
vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì
phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu
hiệu và tốt đẹp biết bao.
25. Tử đạo, một chọn
lựa của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân
hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam
mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam . Đây là một ngày vui mừng chung
của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu
Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha
Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ,
đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống
Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ "S" thân yêu này.
Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và
sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, "Tử
Đạo" theo nguyên ngữ là "Martyr" có nghĩa là "làm
chứng". Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất
cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các
ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm
chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở
đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho
thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh
cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: "sống gởi,
thác về". Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã
làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: "Nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
1. Chọn lựa của dân Do
thái:
Tuy nhiên, để có thể
sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một
cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc
đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những
vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước
vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một
cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: "Coi đây, hôm nay tôi
đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị
tai hoạ". Khi dân Do thái chọn lựa "yêu mến Đức Chúa,... và gắn bó
với Người", thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung
sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của
Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước
với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia
nghiệp.
2. Chọn lựa của cha
ông chúng ta:
"Trung thành với
Thiên Chúa" cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày
đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn
giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền
bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái
chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người
không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã
co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng
sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy,
Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông
mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: "Cho bay tự ý
chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay
ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển."
Đúng đây là một chọn
lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình.
Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài
hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: "Thánh giá tôi
kính thờ, tôi giẫm lên sao được". Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ,
chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách
thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá:
"Tôi đã suố#7889;t đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên
thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi
phải bỏ đạo mà mua!". Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái
nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này
trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng
ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp
mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi
tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: "Anh em
chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì
nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin
mừng". Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa,
nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc
sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước
qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng
đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này
và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi
tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không
có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6,
24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta
qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng
ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử
Đạo tại Việt Nam
hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của
mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi
ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì
để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể
không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ,
cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực,
hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một
giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi
Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu
bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh
Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ
đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta
như lời hứa của Đức Giêsu: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở
đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó". Amen.
26. Các thánh Tử Đạo
Việt Nam
Lễ kính các thánh tử
đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương?
Thưa vì người ta thường nghĩ "Không có gì quí hơn mạng sống". Khi
mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát
khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm
cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người
bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người
khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong
lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì
lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những
người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng
sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí
dụ:
- Trong trận động đất
ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình.
Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình
cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay
mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng
liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê
hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử
Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa
kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo
Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách
dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là
"Tôi chịu bỏ đạo" thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ
cần thưa "vâng" khi quan hỏi "có chịu bỏ đạo không?", hay
đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để
yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã
không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho
chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết
ấy nói lên một quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất
cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một
lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn
người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch
với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không
cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao
đẹp của mình.
Một trong những điều
tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên
ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền,
rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn
hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi
rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng
thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường... kết
quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào
xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều
hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo
một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta
kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là
sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có
Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã
tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là
các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các
ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay,
nhiều người không còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo
điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt
thòi...
Và điều thứ ba khiến
chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu
rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị
vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một
buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là
Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên
nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi
hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh
vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: "Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt
với các bạn", rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại,
nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận "Các bạn có thể thành công suốt cả
cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người
ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là
lúc chúng ta đều y như nhau". Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó
nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người
ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết
khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí
nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
27. Người chứng thứ
nhất – Ga 12,24-26
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Một thanh niên 19 tuổi
bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án
là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà
vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là
Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số
một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người
thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho
đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội
chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi.
Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng
cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên
Đàng.
Nhờ sự can thiệp của
cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng,
còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết
thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng
lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa
dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không
kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho
can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên
đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê
nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy
giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn
cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp
được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và
không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến
phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một
người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một
nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong,
toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói
lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa
về Macao chôn
cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu
danh. (theo "Người chứng thứ nhất" của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các
Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu
rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành
hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu
như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự
do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng
dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về
tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa
bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp
bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng
của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư
"Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba", Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu
gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì
"trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, - thường là âm thầm, họ như
thể là "những chiến sĩ vô danh" – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo
Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức
tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục,
linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em" (số 37).
Tại đất nước chúng ta,
giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117
năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu
Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền
Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng
cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại
miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ
mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh,
miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng
lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị
thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta
không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn
hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức
tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và
trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên
Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban
Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa
chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các
môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để
sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về
cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ
đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy
sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực
của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống
mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là
nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ
Tertulianô đã nói: "Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các
Kitô hữu".
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào
cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người
đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống.
Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu
y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức
tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại
êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta
không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì
chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương
Việt Nam
chúng ta.
28. Làm chứng
Hôm nay Giáo Hội cho
phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam . Đây thực
là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng.
Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho
đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm,
lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm
này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để
chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ
bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam
chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh
tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự
nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân
phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể
thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng
ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông,
dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với
Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là
những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng
biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn
sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có
một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế,
danh từ "Tử đạo" có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình
để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau,
nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng
đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là
những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một
câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các
ngài.
Người ta thường nói:
"Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hay "uống nước nhớ nguồn". Chúng
ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong
phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta
không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy,
chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng
đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có
những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn
phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra
những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng
ta?
Trước hết, máu tử đạo
nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối
với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến
nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử
đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe
dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối
cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp
thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ "trung" lên trên hết. Không
những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là
trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê
hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại
cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo
cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không
sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn
Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy
trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp,
xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao...
Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng
quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết
để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không
chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn
giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo
Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các
ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho
chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt
đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng:
tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm
chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm
chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của
mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu
thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người
không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt,
dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung
quanh.
29. Tham dự vào hy tế
của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu tiếp tục
hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội cho muôn người.
Cách đây hơn 2.000
năm, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương
trên thập giá để đền tội cho nhân loại.
Thế nhưng, trong những
thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi nhân loại tiếp
tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ ngày càng khủng khiếp nên sẽ
mang lại những hậu quả đau thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra
tội lỗi.
Thiên Chúa không nỡ để
cho bao người phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giêsu vẫn còn
phải tiếp tục chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian.
Như thế, cuộc khổ nạn
hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu không chấm dứt sau khi Ngài
tắt thở trên thập giá vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà
còn được tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua suốt dòng
lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều nầy: "Hy Tế Thập Giá
(của Chúa Giêsu) kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến."
Chúa Giêsu mời các
thánh tử đạo tham dự vào hiến tế của Ngài.
Chính vì công cuộc khổ
nạn và hy tế của Chúa Giêsu cần phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội
cho nhiều người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa Giêsu kêu
gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác thập giá, cùng
chịu khổ nạn với Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: "Ai muốn theo Thầy thì
hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo." (Mt 16, 24)
Thế là hàng hàng lớp
lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa Giêsu, khởi
đầu là máu của các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-bê
tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các tín hữu
tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho
đến máu của các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều dân
nước trên khắp thế giới trong suốt hơn 2.000 năm qua.
Trên quê hương Việt
Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến
khi vua Tự Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua cơn bách
hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp lời mời gọi của Chúa
cứu thế, chấp nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với Chúa Giêsu, khốc liệt
nhất là trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị
(1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ
được tuôn ban dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúa Giêsu mời chúng
ta tham dự vào hiến tế của Ngài.
Từ ngày lãnh nhận Bí
Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu (giáo lý
công giáo số 1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của Ngài
(sđd số 1268). Vì là "Thân Thể của Chúa Giêsu, chúng ta phải tham dự vào
hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của toàn thân." (sđd số 1368)
Thế nên mỗi ki-tô hữu,
không trừ ai, đều có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của
Chúa Ki-tô là Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc
tổ tiên của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta
không còn phải gánh chịu những cực hình, những đau thương và mất mát lớn lao
như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham
dự vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa
Giêsu qua những việc bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức,
tiền bạc... để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần đến bàn tay, con
tim và khối óc của chúng ta.
Có như thế, chúng ta
mới xứng đáng là con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam .
Có như thế, chúng ta
mới thật sự là chi thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời
mình cho đến ngày tận thế để đền tội muôn dân.
30. Tỉnh thức trước
cơn bách đạo mới
(Suy niệm của PM. Cao
Huy Hoàng)
Là người Công Giáo
Việt Nam , chúng ta rất hãnh
diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam . Không chỉ là 117 vị hiển
thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không
chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô
Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối
và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng
và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu
trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không
ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho
thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt
Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng
chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã
man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là
nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn
hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức
mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh
cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước
nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ
xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái
chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với
Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: "từ bỏ chính
mình": vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên
Chúa; "vác thập giá mình": chấp nhận tất cả những thương khó trong
đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho
mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử
Đạo Việt Nam ,
bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên
Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của
họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng
nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa
hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng
truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh
Tử Đạo Việt Nam , các tín hữu
Việt Nam
đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục.
Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý
thức hệ... nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng
trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên
tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ
các Thánh Tử Đạo Việt Nam ,
cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của
cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong
Giáo Hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt
mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến,
hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ
hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước
qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không
thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn:
chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy
mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi
vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta
vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta
không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh
cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng
trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển
hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta
đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho
chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang
bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của
ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc
bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn
bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách
đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng
mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm
xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế
giới.
Mục tiêu của cuộc bách
đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho
tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong
cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong
cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do
làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá
một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi
tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một
đời sau... để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn
giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào
trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa
tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô
giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là
một bức họa không hơn.
- Việc đóng cửa nhà
thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy
việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu
khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm
hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để
đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ
vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ
mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách về giáo dục không
Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây,
lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn
cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự
sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ
một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những
khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà
tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải
cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không
hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ
internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô
luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim
ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm
quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà
phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần
ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần
thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không
đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh
Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông
với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh
Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức
mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào
Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã
không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh
Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của
mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn
cảnh xã hội Việt Nam .
Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập
giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng
nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước
qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến
đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn
tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ
thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không
hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói:
"Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối
nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần"
(Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam ,
thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng
vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm
chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng
thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết "không bước
qua Thập Giá" và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, Giáo Hội lữ
hành, và đặc biệt Giáo Hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao
vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu
buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban
cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc
không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời
sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với
ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay
và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa,
để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi
xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
31. Những tên lý hình
thời đại – PM. Cao Huy Hoàng
Mừng kính lễ các Thánh
Tử Đạo Việt Nam trong Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tự hào về Đức Tin kiên
cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của các Thánh
Tử Đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ
tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực
hơn, chúng ta cần noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là Tử Đạo hằng ngày.
Nếu cha ông ta đã sống
trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt
bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng
trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù...thì thời chúng ta, "những tên lý
hình thời đại" với cách bức bách Đức Tin của ta còn kinh khủng hơn nữa:
làm cho con người không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài.
Những tên lý hình thời
đại: Ngoài ta
Những người chủ trương
không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo,
đưa Giáo Hội Việt Nam
vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có
Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của
họ?
Tư tưởng "Tôn
giáo là liều thuốc phiện" vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và đã chỉ đạo
cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút
"qui tiên", họ cũng chẳng chấp nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc
đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện
hữu của thân xác mà không tin có linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn
mực Chân, Thiện, Mỹ nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo đức
xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất cho xã hội mà chính mình
là trước tiên!
Thời đại này, họ không
đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta và yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho
họ là chúng ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những
chủ thuyết vật chất, và như thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt
đầu qua việc không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học sinh ở
nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ,
bài học không có Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác sinh...như "Con
chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói".
- Các em thanh niên
nam nữ vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội
mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử – nhưng
sinh con thật – giết người thật.
- Các gia đình công
giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được
đạo, và để ổn định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không
giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ
trong trứng nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn nhân
thời nay đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ...tạo
điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về
đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng,
con bỏ, con nuôi... hỗn độn.... Biết như thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các
gia đình công giáo phải tử đạo khi dứt khoát không bị cuốn vào trào lưu tục hóa
giá trị hôn nhân.
- Khi có của ăn của
để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và
việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã
tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu
Thánh Thể qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta muốn giam
các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn
phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng
...để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng... nhưng
không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và
sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình...
- Giữa những băng
hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa
không đành lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời
sống cầu nguyện, có sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu
suy đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội.
Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối
của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết
tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn
Chiên Tử Đạo khắp nơi trên đất nước.
Chúng ta tin rằng các
Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến
đấu trong cuộc bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước
quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý hình thời đại:
Trong ta
Truyện rất ngắn
"Lòi Cái Tôi Ra" của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa cha khi chủng
viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng
nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà
giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
- Không phải lòi nhà
ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì
kể cả cây thập giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì?
" ... Tôi đến để
chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10)
Chiến đấu với những
tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và
chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm tốn mà nhận
ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã không bước qua thập
giá của những tên lý hình thời đại ngoài ta, nhưng ngược lại, vì cái tôi, mà ta
đã chặt và quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà
bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô
và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh
thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ... đã "lấn sân" tâm linh, tạo
cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập
giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây
mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của
sự an thân, an vị, an nhàn, và ... rồi an nghĩ trong trại giam ấy tới ngàn thu.
Bỗng dưng, chính ta,
đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và xử trảm mọi người
khi cách sống "không Kitô", "không Thập Giá" trở thành
gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến nhiều người.
Vâng, không ai bắt ta
làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì
ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và
Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu
mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc
bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng
phúc tử đạo hằng ngày, giúp chúng ta trung thành với Đức Tin Công Giáo.
Xin chia sẻ một phần
câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng,
thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ
Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho.
"Bị điệu ra trước
tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung
dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: "Trong nhà tôi không có đạo trưởng.
Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin
quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây
Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn
thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc". Không tìm ra chứng cớ về các điều
cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm "quá khóa", tức
là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: "Kín
đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội".
Ông Trùm đáp:
"Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế
nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng
vậy".
Lạy Chúa, xin cho
chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài, để được hồng
phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc đời chúng con. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét