GIÁO ĐIỂM PHONG HẢI MỚI |
Thêm chú thích |
Thêm chú thích |
THƯỜNG HUẤN LM TẠI HÀ THẠCH GP HƯNG HÓA TỪ 7-12/9/2013 |
TIN MƯNG
BÀI ĐỌC 1: "Tôi đã đưa lưng cho kẻ
đánh tôi". (Is 50, 5-9)
BÀI ĐỌC 2: "Đức tin không có việc làm
là đức tin chết". (Gc 2,14-18)
PHÚC ÂM: "Thầy là Đấng Kitô. Con Người
sẽ phải chịu khổ nhiều". (Mc 8, 27-35)
BÀI ĐỌC 1: "Tôi đã đưa lưng cho kẻ
đánh tôi". (Is 50, 5-9)
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Thiên Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu tòa, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?
Đó là Lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9
Con sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh
1. Con yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng con cầu khẩn, vì Chúa đã lắng tai nghe lời con, trong ngày con kêu cầu Chúa.
2. Thừng chão tử thần đã quấn lấy con, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người con; con đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và con đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con!"
3. Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng ta rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác; con đau khổ và Người đã cứu thoát con.
4. Bởi Người đã cứu con khỏi tử thần, cho mắt con khỏi rơi lệ và chân con không quỵ ngã. Con sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh.
BÀI ĐỌC 2: "Đức tin không có việc
làm là đức tin chết". (Gc 2,14-18)
Bài trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh chị em thân mến, nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh chị em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh chị em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ. Nhưng có người sẽ nói: "Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm". Anh hãy tỏ cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi.
Đó là Lời Chúa.
Bài trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh chị em thân mến, nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh chị em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh chị em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ. Nhưng có người sẽ nói: "Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm". Anh hãy tỏ cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi.
Đó là Lời Chúa.
ALLELUIA: Jn 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
PHÚC ÂM: "Thầy là Đấng Kitô. Con
Người sẽ phải chịu khổ nhiều". (Mc 8, 27-35)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Đấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.
Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người". Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Đó là Lời Chúa.
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc
8,27-35
MỤC LỤC
1. Nói và làm
2. Về phần con, con bảo Thầy là ai?
3. Người ta bảo Thầy là ai?
4. Đức Kitô.
5. Đau khổ.
6. Thần tượng của ta là ai? – Lm. Anmai
7. Thầy là ai? – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
8. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
9. Từ bỏ chính mình – Thiên Phúc
10. Mầu nhiệm cứu độ
11. Tưởng lầm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
12. Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi?
13. Thách đố của niềm tin.
14. Vấn nạn đau khổ - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
15. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson.
16. Kitô-hữu là ai?
17. Chọn lựa một con đường
18. Đức Kitô.
19. Đau khổ.
20. Đau khổ.
21. Đức tin.
22. Vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa
23. Đức Giêsu.
24. Từ bỏ.
25. Từ bỏ và vác thập giá
26. Anh em bảo Thầy là ai?
27. Đức tin sống – PM. Cao Huy Hoàng
28. Chú giải và suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
29. Giải thích và suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long
30. Chú giải của Noel Quesson.
31. Yêu và ghét – Trầm Thiên Thu
1. Nói và làm
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống
công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta
phải bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài
chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người
đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng
như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là
ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì
bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền
Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như
vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã
lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã
tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã
tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho
các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã
bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là
tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã
tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng
việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng
ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta
tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng
bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có
thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi,
chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân
chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá
để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống
xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở
nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống,
Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình,
nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý
Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh
thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá
mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì
chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập
giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
2. Về phần con, con bảo Thầy là ai?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, "Đức Giêsu và các môn đệ của
Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các
môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là
ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ
nào đó." (Mc 8, 27-28)
Như thế, người Do-thái đồng thời với
Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy
Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ
Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là
một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư
luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: "Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô."
(Mc 8, 29)
Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai
biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn
tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu
hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về
Người: "Về phần con, Thầy là ai đối với con?"
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một
nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc
vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu
là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu
mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi
miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ."
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số
doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: "Đối với
chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng
tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì
chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp
chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác."
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một
nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: "Chúa Giêsu là ai ư? Thật
tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi
nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong
cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người... Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành
khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu
sinh!"
Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa
chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm
phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu:
"dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách
Ta." (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn
con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính
của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền
bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một "Đức
Kitô vinh thắng" chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa
như người Do-thái mong đợi, nhưng là một "Đức Kitô nhẫn nhục" hiến
mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: "Con
Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ,
bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại." (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương
chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta.
"Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu
mình."
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không
nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho
Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số
người, có Chúa cũng như không.
Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của
nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên
xưng:
"Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ,
sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai
chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn
ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý". (Thư gửi bà Von Vizine)
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần
con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để
đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu
thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần
Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
3. Người ta bảo Thầy là ai?
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm
đọc quyển sách "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu". Nhiều người cho
rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa
Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám
dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách "cơn cám dỗ cuối cùng
của Chúa Giêsu" mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và
nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là
Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn
bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao
bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin
mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất
tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập
được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó
lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật
sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây
phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại
cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna
làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình,
nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua
đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục
đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con
người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra,
lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ
khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng
được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ
vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng
nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng
như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử
để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận
đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của
con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của
nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường
ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới
răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái
cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi,
phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để
bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ
luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng
luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu
khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi.
Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra
phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và
xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc,
đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình...
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa
Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự
do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn
đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá,
phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là
Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường,
phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con
người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị
những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn
đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời
Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy
là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ
không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc
bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh
triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài,
danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt
tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì
cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn
luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản
thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người
là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng
lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời
con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu
bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ
bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất
cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự
để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can
đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo
giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa
của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như
Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc
trường sinh mai sau. Amen.
4. Đức Kitô.
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi
này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về
Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã
làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài
đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài
và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được,
tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác
người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu
muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do
dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập
trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô
đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả
lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được
Thầy mình là ai.
Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng
tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có
những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định,
chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết
được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con
đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.
Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật
nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải
bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là
bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của
Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực
hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu
lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng
là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta
có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về
Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì
sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực
hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước
từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
5. Đau khổ.
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một
cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là
bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là
một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích
cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian
nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người
không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.
Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu
đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường
hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.
Trường hợp thứ nhất là của O'Neill. Mãi
đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không
định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều
trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc
đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở
thành một người nổi tiếng.
Trường hợp thứ hai là của bà Golda
Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế
nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may
mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn.
Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng
trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách
khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi
cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.
Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã
viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng
ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.
Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi
tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại
rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì
đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở
nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành
người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ
có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng
mơ ước.
Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận
ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt
trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm
khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng
vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ
đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón
nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.
6. Thần tượng của ta là ai? – Lm. Anmai
Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ,
ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa
thần tượng.
Người thích đá banh thì chọn cho mình
người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng
sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn
cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra
thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao
điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người
khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ
như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong
cõi đời này.
Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn
đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người
ta tưởng.
Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn
của mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.
Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy
Giêsu với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình
về Thầy: "Người ta nói Thầy là ai?". Các môn đệ đáp: "Họ bảo
Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một
ngôn sứ nào đó". Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay:
"Thầy là Đấng Kitô".
Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với
Thầy, sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không
đúng hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán!
Chỉ có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông
biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô
liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại
Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Như thế, thêm một chuyện nữa là xác
nhận Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là
chuyện khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa
nghe:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng
chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc
phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế,
tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính,
Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi?
Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi?
Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là
Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần
tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy
đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế
cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người
có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh
vì lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa
Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời
với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều
người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm
tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải
ở môi miệng nhưng ở hành động: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin
mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu
người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và
không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi
bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân
xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động
thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin;
còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành
động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.
Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ
dừng lại ở lời tuyên tín.
Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối
của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng.
Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng
thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.
Những lời yêu thương, những lời trao
nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản
thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế
nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta
cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.
Và với con người bất nhất đó, chúng ta
cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ,
diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần
tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên... chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là
danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng
biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn...
Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng
vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày
mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử
nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân
thôi.
Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của
Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn
mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy
mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình.
Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh
giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời
chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời
tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.
7. Thầy là ai? – Lm. Giuse Trần Việt
Hùng
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng
và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho
dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: "Đây là Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín
nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết
ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức
bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu
là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô."
(Mc 8, 29).
Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy
là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho
các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng
kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô
chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con
đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa
Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu
nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho
người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).
Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua
chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: "Chính Thầy là con đường, là
sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6).
Ngài nói tiếp: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi
trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga 8, 12).
Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng
soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban
phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.
Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi
chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân
loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con
người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu
khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra
vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn
cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu
Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta
không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý
Chúa.
Thầy là ai? Chúa Giêsu phán:"Chính
tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi,
chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại:
"Tôi là bánh từ trời xuống." (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi
thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng
ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận
bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải
cho chúng ta biết: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào
Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của
thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.
Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta
tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì
hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã
có tiếng phán từ trời cao: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."(Mc
9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như
chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi,
tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về
thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi
hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng
tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài
chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã
đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ
giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học
hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà
chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống
đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội
Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh
Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả
là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời
nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống
đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt
11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng
ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo
chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có
khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường.
Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm
phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản
và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và
hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được
nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu
đạt tâm hồn.
Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh
gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận
ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu
thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu
sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu,
ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành
sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở
thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi
người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của
Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là
Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là
cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi
Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau
khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào
Chúa.
8. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường
thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến
những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung
trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để
ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ
lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh
Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.
1. Đức tin của người Tôi trung:
"Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?" (bài
đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)
Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa
nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt
bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì
người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp
họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những
gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất
cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào.
Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?
Trước hết, Thiên Chúa "mở
tai" cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của
Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người,
hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người
Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.
Khi người Tôi trung bị thử thách và
bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử
chỉ "đưa lưng cho người ta đánh đòn", "giơ má cho người ta giật
râu" và "không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ" diễn tả
thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên
Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công
đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên
Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác
tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải
làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là "Đấng tuyên bố rằng họ công
chính và ở kề bên họ" nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.
Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính
là Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm
người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống
trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào
Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên
Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi
thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và
vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.
2. Đức tin vào Chúa Kitô của người môn
đệ (bài Tin Mừng – Mác-cô 8:27-35)
Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế
nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa
Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc
khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât
độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là "bí mật Đấng
Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá,
Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả
trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng "Thầy là Đấng
Kitô", Chúa Giêsu cũng "cấm ngặt các ông không được nói với ai về
Người". Chân tính của Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi "viên đại đội
trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: 'Quả
thật, người này là Con Thiên Chúa".
Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về
việc ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức
tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa
Giêsu có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính
vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi "người ta nói Thầy là
ai?" Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính
của Chúa Giêsu phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều
nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: "Còn anh
em, anh em bảo Thầy là ai?" Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của
từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi
đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá
thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô
và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm
hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao
này, Chúa Giêsu "bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ
nhiều..., bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại". Vừa nghe vậy, ông
Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong
mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn phản kháng mạnh hơn, cốt để
khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người
mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt
chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là
phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong
mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào
ta.
Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức
tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời
sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải
đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo
Người. "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà
theo" (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời
này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ
với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống
đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng
thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng "liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì
Tin Mừng". Chúa Giêsu không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như
phương thức duy nhất để "cứu được mạng sống đời sau". Ta mới chỉ liều
mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng
tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu
Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh
và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
3. Đức tin không có hành động là đức
tin chết (bài đọc Tân Ước – Giacôbê 2:14-18)
Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài
quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết
đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không
thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về
chức năng của đức tin là "cứu mạng". Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình
ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp
đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong
hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ
nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta
sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói
cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: "Ta bảo thật các ngươi:
mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây
là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết
không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại
khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành
động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng
thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị
em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.
Có lẽ việc tách rời đức tin với hành
động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy
nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin
là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình... Nhưng ra khỏi
nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được
một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ
không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô
cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức
tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế
đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.
4. Sống đức tin
Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay
không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh
nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như
của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn
bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã
suốt đời sống theo "tư tưởng" hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy,
nếu ta tin vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời
sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.
Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: "Tôi
sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin". Vậy để chứng tỏ cho những
người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động
nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những
hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng
hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để
khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác
ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con
cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
9. Từ bỏ chính mình – Thiên Phúc
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại
sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên
cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu
anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em
sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương
đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi,
người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của
chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng
nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em
một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc
gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi.
Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng
giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em
một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương
đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một
mối tình.
- Được, nhưng phép màu cần phải có màu
đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai
nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết
nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình
sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc
đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí
nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội.
Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ
lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình
đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự
trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi
dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại,
nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình
yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng
máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34).
Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa
không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ
mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói
đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến
tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay
bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về
không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng
sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của
hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là
chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình"
không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn
sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được
sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào.
Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để
đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì
"Ai biết chết thì sẽ biết sống".
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang
mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích
cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà
không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà
không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý
Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola).
10. Mầu nhiệm cứu độ
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến
– 'Bước Theo')
"Hành động của Thiên Chúa",
chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là
"tuyên xưng niềm tin" (c 29) và "Mầu nhiệm Tử nạn" (c31),
hay là Hành Động của Thiên Chúa.
Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải
của thánh Giacôbê ở đoạn( Gc 2, 14-18): "Đức tin và Hành Động". Qủa
thật, Đức tin không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân "tin vào
Người" (Ga 3,15) để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời
nói suông, mà là một hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.
Hành động của Thiên Chúa thì không phải
hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành
động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị
tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên
Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc
đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao
con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng
suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con
người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa
hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín thác
vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa, tin
vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý Ngài.
Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy niềm tin
ấy không có lợi ích gì. Vì "...tin trong lòng thì được công chính, còn
tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ"(Rm 10,10). Như vậy, muốn đón
nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là "Tin" và
"thực thi" niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi
ta tin vào Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu
tha nhân như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta
không thể yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên
Chúa được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều
nầy phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể
chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin
của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về "Đức Tin
và Hành động" như sau: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà
không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người
ấy được chăng?... cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin
chết". (Gc 2,14.17).
Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách
Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can
thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để
minh chứng "Lời" của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói:
"Ai tin vào tôi thì có sự sống muôn đời" (Ga 3,15), nhưng Người không
phải là vị Vua của trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không
đáng tin. Nhưng Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã
hành động như một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành
bị đem đi giết.
Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng
như lời Isaia đã nói: "Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta
vả; Ta đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ" (Is 50,6). Một Đấng
cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón
nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ
chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở
trách nặng nề: "Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi
không phải là tư tưởng của Thiên Chúa". (Mc 8, 33b).
Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng
hành động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác.
Nếu hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà
không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu
thực tế.
Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo
trong cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm
tin cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là
niềm tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh
Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ
yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải
hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron
vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức
mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những
hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con
mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.
11. Tưởng lầm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt.
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu
lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng
rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa
học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung
quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu
lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện
đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng
cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người
lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền
lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ
tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái
lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ,
chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là
một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu
hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa,
người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được
chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người
con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng
không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống,
nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được
trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: "Ai trong anh em
muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em". Người ta cứ tưởng theo Chúa thì
Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không
ngờ Chúa lại bảo: "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình
mà theo".
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo
cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò
Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn
đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con
đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải
chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn
theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập
giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con
người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con
người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên
trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung
sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và
đau khổ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn
con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con
người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là
thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh
phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được
hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì
Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì
Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều
kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con
đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết
đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ:
"Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy".
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải
để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực.
Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là
điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống
vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó
nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc
và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ
dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng
mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình,
vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?
2) Đâu là những hiểu sai lầm về người
môn đệ của Chúa?
3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo
ta phải từ bỏ mình không?
4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
12. Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời
tôi?
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ,
nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay
không?
Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải
sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến
giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Theo mong ước của nhiều người Do thái
thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài
sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và
quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi
người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy
quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận
làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận
xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống
lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không
nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!
Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem
họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó
nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa
hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy
nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu.
Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu
tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu
chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì
tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn
thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại
quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ
biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo
ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời
này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho
hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ
như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.
Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả
lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức
Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa
là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo
Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi
có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành,
khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác... tôi có coi
Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi
coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?
Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra
Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm
nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau
khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác
thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng
ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển
trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý
với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám
dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập
giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo
10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ:
mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức
Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô hôm nay: Thầy
Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là
đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi
đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với
Chúa.
13. Thách đố của niềm tin.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một giai thoại kể lại rằng: Có một
thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một
chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay
hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được
một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa
qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.
Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy
bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết
không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu
nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ
điều gì Chúa muốn.
Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói:
Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin
rằng Ta làm được việc này không?
- Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc
là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!
- Được, nếu con tin Ta thì hãy buông
tay ra.
Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành
cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: "Có ai trên
đó không, cứu tôi với'.
Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là
chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng
ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra
trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?
Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì
phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không.
Muốn "đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu" thì người Kitô hữu phải
biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp
chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.
Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi:
"Người ta bảo Thầy là ai?" trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của
mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay
trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến,
nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu.
Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những
ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết
đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa
làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.
Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ
học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu
xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: "Cái lợi tuyệt vời là
được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi" (Pl 3,8).
Các môn đệ là những người "ở với
Chúa Giêsu", cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy
dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập
trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: "Còn anh em, anh
em bảo Thầy là ai?". Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin "Thầy
là Đấng Kitô". Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can
ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi
theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của
Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu
thế hiển hách, oai phong... thành ra ông không sao hiểu được việc "Con
Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết...".
Thưa anh chị em,
Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là
đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về
Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của
thống trị... Nên nhớ bài học cùng Ngài: "Anh em hãy học cùng Tôi, vì
Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường".
Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là
ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này:
Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, "hôm
qua cũng như hôm nay và mãi mãi" Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi
ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong
phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa
Giêsu: "Còn con, con bảo Thầy là ai?". Và cuộc đời của ta sẽ chuyển
biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.
Trong đêm canh thức với hai triệu bạn
trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ
15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu
hỏi của Chúa Giêsu: "Các con nói Đức Giêsu là ai?" – Có khó tin trong
thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó
đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn
thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô:
"Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng
là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời"(Mt 16,17).
"Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu,
để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như
trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này
nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người,
hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy
Chí Thánh"... Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế
kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không
để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ
hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế
giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ
bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái
đất này dễ sống hơn cho mọi người".
Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang
bắt đầu, khi nói "vâng" với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói
"vâng" với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa
Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới
này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt
các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi
tình huống.
Cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh, người Trinh
Nữ nói "Xin vâng" với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh
Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi
thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan
Phaolô II 19/8/200).
14. Vấn nạn đau khổ - Lm. Phêrô Bùi
Quang Tuấn
"Con Người phải chịu nhiều đau
khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi,
và sau ba ngày sẽ sống lại"
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan
giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra
bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước
mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân
thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở:
"Đời là bể khổ."
Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ
câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp,
nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực
trạng trong kiếp sống con người.
Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng
như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta
không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng
đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh
chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc
bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu
rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã
ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel
thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn
cùng của họ đè nặng trên "dân tộc và quốc gia." Đã có vô số lần,
chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu xa hơn, bởi vì không tìm thấy
chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết bao bạn trẻ cũng như bạn già
tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt được một điều duy nhất: chấm
dứt khổ đau.
Chắc chắn không ai có thể đem lại cho
con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một
cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện
nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là "Tôi tớ Đau
khổ của Giavê".
Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người
ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con
đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc,
trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận
cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?
Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng
c&oacoacute; thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng
đây không phải là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời
vợi. Càng nhìn vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con
người càng hiểu ra nguyên do của khổ đau.
Thế thì nguyên do của đau khổ là gì?
Xin thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy.
Mọi sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên
đều tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ
con người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc
sống loài vật.
Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan
nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, "Cũng như vì một người, mà sự
tội đã nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan
tràn qua hết mọi người" (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau
và đau khổ tận cùng chính là sự chết.
Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì
tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!
Thế nhưng, vì "là Đấng trung tín
và giàu lòng xót thương," Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ
trong Xót-Thương mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và
rồi đã chết trong đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng:
"Đời sống Chúa Giêsu là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi
dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ,
bởi vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc."
"Không có máu đổ ra thì không có
ơn cứu chuộc." Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác
cùng trí lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn
cứu độ cho muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ
thấy trên đồi Golgotha có tới ba người chịu
đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình
Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu đau khổ, cả ba người cùng chịu cái
chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân
loại. Lý do là vì sự khổ đau của người đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói
cách khác vì quá yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội
lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ, để đóng đinh chúng vào thập giá; trước
là giải thoát nhân loại khỏi sự thống trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ,
để rồi từ nay đau khổ có một chỗ đứng-một giá trị mới trong đời sống con người;
giá trị đó chính là nếu đau khổ được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở
thành ân phúc cứu độ.
Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền
triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không
biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ
đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn
thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có
tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc,
nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu
thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.
Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng
thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người
khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến
khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng
việc than thưa với Ngài: "Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với
khổ đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn." Chắc chắn
nỗi khổ đau sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song
nó đã trở thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.
Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để
thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được
nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó
nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt
đáng kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi
sự trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết:
"Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng
không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi
thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được
biểu lộ nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi
chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em" (2 Cr 4:8-12).
Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn
tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi.
Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là "làm đẹp lòng
Chúa" (2 Cr 5;8b).
15. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel
Quesson.
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã
tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức
ảnh tựa đề: "Người bị khinh chê chối bỏ". Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng
trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm
Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc
báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm,
không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu
tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết
minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa,
nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một học
giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: "Những hoàn cảnh này
thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng
chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu
tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra
ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất
hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động
trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi
người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là
Êli, người khác bảo là một ngôn sứ... Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ
có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: "Thầy là Đấng Cứu
Thế".
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời
Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho,
chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi
sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là
môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng
là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời
mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người.
Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba
ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc
Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa
ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế,
Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: "Satan, hãy lui đi!".
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian
bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng
đi con đường này: "Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo.
Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì
Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết
Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh
quang với Chúa.
16. Kitô-hữu là ai?
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng
dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành
một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ
thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả
lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng
ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra
cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:
- Kitô hữu, bạn là ai?
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói,
qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những
người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô
hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.
Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn
thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một
xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.
Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu
như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán
đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.
Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật
sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi
người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.
Giữa một xã hội mà nhiều người đang
buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống
lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử
con người.
Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở
nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn
tiếp tục sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.
Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go,
nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta
gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không
bao giờ thực hiện được như vậy.
Kết thúc thông điệp "Hòa Bình Trên
Thế Giới", Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu
trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống
động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy
hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam
kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với
người khác...
Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho
mình, nhưng sống cho người khác.
Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt
lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.
Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút
trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.
Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có
sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết
sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế
thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho
những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?
17. Chọn lựa một con đường
Trong quyển sách "Niềm vui sống
đạo", Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể ra được 10
"khuyết điểm" của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10
"khuyết điểm" ấy. Một trong 10 "khuyết điểm" mà Chúa Giêsu
mắc phải Ngài "không biết làm kinh tế". Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi
Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho
bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị
và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó
hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách "tô son" lên những điều mình nói một
chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: "Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình,
vác thập mình mà theo" (Mc 8,34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì
"thua" là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ.
Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu
được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta
kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ
theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy,
xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo
nhiều lắm!
Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để
làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người
thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ
mạng duy nhất là "nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự
thật" (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và
đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài
đã từng lớn tiếng nói rằng: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi" (Ga
8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: "Sự thật là cái gì?". Nhưng Chúa đã
không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài.
Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống
của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!
Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy
có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi
xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi
chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ
rằng: "Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều
mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy"
(Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân
vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.
Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con
đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo
thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi,
sung túc và vui vẻ...Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng
không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích
thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người
lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó
nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến.
Bởi vì, "con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi" (x.
St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem
gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: "ba tấc đất mới
thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp" (Tv 49, 12).
Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật
chính là con đường "liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin
mừng". Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. "Ai yêu mạng sống
mình thì sẽ mất". Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn
được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót
bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới
hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về
mình và sống cho riêng mình!
Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện
về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn
chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta
được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta
khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ
còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết
và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn
ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc
thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang
qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình
dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của
mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ
thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.
Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng
ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể
tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin
mừng hôm nay gửi đến chúng ta: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai
liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống
ấy".
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta
biết can đảm chọn lấy con đường "thập giá" và vui vẻ vác lấy thập giá
đời mình để theo Chúa đến cùng. "Vác thập giá" theo Chúa là chu toàn
việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào
Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.
Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang
vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng
suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo
Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và
tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
18. Đức Kitô.
Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau
một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được
chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập
trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan
trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để
hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa
Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá
trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ,
vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà
những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể
dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng
nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước
cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết
đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây
chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các
môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai
câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là
ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai?
Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm
tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của
Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ
cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta
sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và
cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ
người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc
niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải
chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo
hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện
của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây
Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng
ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi
của Chúa Giêsu: "Anh em bảo Thầy là ai?" và ông đã trả lời:
"Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm
săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa". Như vậy, ông Am-troong đã
không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi "Anh em bảo Thầy là
ai?", nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào
tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của
ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống
như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm
nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang
tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính
xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: "Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai
rồi?". Phải thêm hai chữ "hôm nay" và chữ "rồi" vào
câu hỏi, bởi vì "hôm nay" chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và
chữ "rồi" cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta
đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi,
nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải
tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin
trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi
là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp "Hòa bình dưới thế", Đức cố
Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã
đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính
như sau: "Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ
điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình.
Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân
chính".
Sống trọn những cam kết trên quả thật
người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy
đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm,
nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt
men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột.
Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức
chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người
Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều
kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình,
sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh,
nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là
người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ
bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng
ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt
câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta
đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô
hữu, đơn giản thế thôi.
19. Đau khổ.
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ,
nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay
không?
Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị
của đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến
giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các
môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác,
Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống
năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ
muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.
Các môn đệ cũng không hơn gì những
người Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:
- Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước Israel ?
Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho
các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát
con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.
Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc
mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.
Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề
quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ,
thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận?
Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho
chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho
các ông biết:
- Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó
Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và
thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:
- Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để
Thày khỏi phải như thế.
Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác
cũng như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận
Ngài phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm
đau khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.
Trước một người mù từ khi mới sinh, các
ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:
- Nó bị mù là do tội của nó hay là do
tội của cha mẹ nó?
Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài
cũng không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của
Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình
cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:
- Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản
trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy
những việc của Thiên Chúa.
Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một
lần nữa cho các ông:
- Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp
vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Lần này thì các ông không dám lên
tiếng, nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:
- Các ông đã tỏ ra buồn bã.
Rồi cùng với thời gian, những sự việc
đã xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới
mắt các ông thì đây là một thất bại ê chề.
Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi
Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:
- Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát Israel , nhưng
những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.
Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông
mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và
để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm
thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản
ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa?
20. Đau khổ.
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một
cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở
Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc
chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để
chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt
đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì
thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác
mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau
khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc,
một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó
là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy
nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của
người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: "Đời là thung lũng nước mắt". Đã
là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền
triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng
vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta
tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến
hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những
người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và
tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ
không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho
giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì
họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì
người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng
khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ
Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự
đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng
ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời
cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên
do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt
đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng
ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi
Kinh Thánh kết luận: "Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp".
Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và
vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo
trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu
tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết.
Bản án còn vang lên: "Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc,
ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ
hoàn về tro bụi". Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau
khổ là do tội lỗi phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi
nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng
Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng
đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy
gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời,
nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn
cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng
ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa,
Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn
đệ của Ngài: "Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo". Từ
đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó
của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi
gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn
rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai
khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
21. Đức tin.
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là
đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ
mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng.
Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng
giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế
là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học
có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc
về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ
thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ
thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập
quán và lề thói cổ xưa.
Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng
có một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ
này rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể
bị thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ,
họ có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin
phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người có được đức tin của họ theo
hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền
thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những
sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.
Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức
tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói
rằng: "Cha mẹ tôi là những tín hữu" chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng
giáo lại. Có người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người
ngoại giáo tân tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy
nhiều khuôn mặt buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người
đến trễ và bỏ ra về khi thánh lễ chưa xong.
Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là
câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức
Giêsu. Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt
người ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.
Trước tiên Người hỏi: "Người ta
nói Thầy là ai?" Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những
câu không trúng. Kế đó, Người quay lại họ và hỏi "Còn anh em, anh em bảo
Thầy là ai?" Và Phêrô đáp: "Thầy là Đấng Kitô". Đấng Kitô có
nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau:
"Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Đây là cốt lõi của đức
tin trên đó Giáo hội được xây dựng.
Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra
câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình
như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ.
Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để
nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là
đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.
Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu
biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong
Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững
vàng trên đá tảng.
Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết
những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết
Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học
biết một cách khó khăn.
Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn
hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng
khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là
khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của
Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.
22. Vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa
Anh chị em thân mến
Có một đoàn lữ hành đặc biệt, đang vượt
chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình
thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi
thì bằng phẳng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó,
có một người bỗng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây
Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàng thoải mái hơn bao nhiêu người
khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con
suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây
Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vác Thánh Giá và tiếp tục lên
đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được
trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một
mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
"Mọi người chung quanh bảo Thầy là
ai?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. "Còn
các con, các con bảo Thầy là ai?" -- "Thầy là Đức Kitô". Một câu
trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn,
thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng
nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên
Chúa.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và
biết những việc làm của Ngài. Ông cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì
ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức
Kitô đi theo con đường của ông. Ông theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn
đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những
hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa
phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo
đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. "Ai muốn cứu mạng
sống mình thì sẽ mất".
Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng
cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự
thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo.
Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những
gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình
luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là
những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.
Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa
Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng
nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính
mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói
cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh
đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của
cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những
cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được
mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần
chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội,
trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và
với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mỉm cười mãn nguyện, vì
cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó
là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ
nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu
biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng
ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: "Ai muốn cứu mạng
sống mình thì sẽ mất". Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường
cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt
đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe
tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá
hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
23. Đức Giêsu.
Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được
đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra
ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò
mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ
đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời
rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan
hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người
tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người,
nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn
bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia,
họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh
Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu
chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và
đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo
Thầy thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với
Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng
gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp
sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu
thuyết:
. Quyển "The last temptation"
(Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp
trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày
nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà
phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên
đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi
cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa. Còn Giêsu thì thu thập được một số
đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không
phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho
nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp
hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời
của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ,
sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các
đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ
ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ
là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do
đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực
hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài
được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều
người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu
là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ
cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần
đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để
sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có
cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp
trong quyển "Quovadis": quyển truyện này lấy khung cảnh thời hoàng đế
Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một
con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư
hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người
cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có
bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó
bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu.
Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì
Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi
"Quovadis", tiếng Latinh nghĩa là "Thưa Thầy, Thầy đi đâu
vậy?" Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một
lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và
cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương
anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy
cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con
Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ
mình vì Thầy!
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân
mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra
cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con
Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù
có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới
khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có
tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như
vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng
ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy
và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn
là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài,
phải bỏ mình đi, phải vác thập giá... Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên
cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong
sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ
làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả
thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì
Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời".
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu
cho câu hỏi "Giêsu là ai?" Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu
chúng ta trả lời như Phêrô "Thầy là Đức Kitô" thì chúng ta cũng hãy
can đảm bỏ mình vác thập giá đi theo Thầy".
24. Từ bỏ.
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại
sâu sắc: "Họa mi và bông hồng đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên
cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu
anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em
sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương
đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi,
người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của
chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng
nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em
một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! Em vô tâm như những chiếc
gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi.
Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng
giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em
một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! Đời cần hoa chi cho thương
đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một
mối tình.
- Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu
đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai
nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết
nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình
sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc
đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí
nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội.
Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ
lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình
đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự
trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi
dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại,
nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình
yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng
máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Đây là một
lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt
buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự,
kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói
đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến
tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay
bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về
không". Chính cái bấp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng
sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của
hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là
chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình"
không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn
sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được
sống". Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta
chối từ cái tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận
cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai
biết chết thì sẽ biết sống".
25. Từ bỏ và vác thập giá
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi
hỏi hết sức lạ lùng: "từ bỏ và vác thập giá". Những ai đáp ứng được
yêu cầu ấy thì mới " xứng đáng làm môn đệ Thầy".
Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn
đệ: "Người ta nói Thầy là ai?". Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu
hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
".
Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về
mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn
người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng
của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực
trong cuộc sống sinh hoạt với Người.
Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa Hằng Sống". Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy
nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có
lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh
quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con
đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ:
"Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy". Đó là con đường tủi
nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh
quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải
là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó
chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa
hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai
theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với
các môn đệ: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo".
Muốn theo Chúa, các môn đệ phải
"từ bỏ và vác thập giá".
1. Từ bỏ
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ
bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này
và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết
tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có
đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ
bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những
điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự
phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm
nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào
trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới
lớn lên.
Cuộc sống đặt con người trước những sự
lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp
nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần
từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối... Cũng có
những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học,
chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh
niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn
một mà thôi.
Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng
thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng
quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi
nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân
để sống đời tận hiến cho Chúa...
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự
từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho
con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ
bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn
liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.
Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi
là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi
sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao,
người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà
và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
2. Vác thập giá
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập
giá giống như cây gậy của người leo n&uuacute;i. Không có gậy để dò đường
và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Thập giá đi liền với tình yêu. Phải
nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể
chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ,
một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải
rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau
tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười
khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa.
Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập
giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng.
Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập
giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ
thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác
biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là
tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những
ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể
được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa
thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự
sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh
là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với
niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa
Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là
nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử
nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa
là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới
thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự
thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có
tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải
cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong
mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá
trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh
thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
26. Anh em bảo Thầy là ai?
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?"
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn
đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã
thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này
cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các
bí tích...
"Còn anh, anh bảo Thầy là
ai?"
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi
phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ
một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một
người mà mình không quen và tin tưởng.
Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm
không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và
quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu
nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu
chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón
nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
"Tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa".
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn
mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như
Phêrô: "Thầy là Đức Kitô", và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập
thể, là Con Thiên Chúa". Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu
hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn
mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có
một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp
bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự
thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh
quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
"Người ta bảo Thầy là ai?"
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm
nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng
và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái
biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của
Đức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng
của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: "Ai thấy Thầy là
thấy Cha" (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: "Ai thấy tôi
là thấy Đức Giêsu".
Gợi Ý Chia Sẻ
"Đức Giêsu là ai?" Bạn hãy
trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.
Tin là bước theo Đức Giêsu trên con
đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có
giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con, nên
Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con
người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước
mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô
đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng
luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những
thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn
hơn. Amen.
27. Đức tin sống – PM. Cao Huy Hoàng
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô
hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng "tôi tin" vào Chúa Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại
để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên
Chúa".
Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích
Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta
thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học
biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh
Giacôbê nói: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2, 17).
Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một
vài việc làm của Đức Tin:
1. Tuyên xưng Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu không
phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số
vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng
không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít
học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của
đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giêsu Kitô, Người
mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo
dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên
Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc
đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân
thành.
Trong khi các tông đồ không nhận ra
"người mình tin" là ai, thì Phêrô, người đánh cá tầm thường nhất, đại
diện cho những con người ít học, đã biết "người mình tin", sống thiết
thân với "người mình tin" và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của
Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: "Thầy là Đức Kitô" (Mc 8,
29), hiểu là "Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu", "Đấng Cứu Chuộc
Thế Gian"
2. Từ bỏ mình:
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là
từ bỏ mình, như Chúa Giêsu nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập
giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai
chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống
mình". (Mc 8, 34-35)
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma
quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng
đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân,
cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả
những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho
tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn
là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giêsu. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc
"từ bỏ mình" là "vác thập giá mình mà theo Chúa". Một đòi
hỏi thật tích cực của Đức Tin vào "Đấng Đã Chịu Đóng Đinh" là phải
chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm
vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống
lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau
khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức
tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Kitô hữu đang
đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách... Đừng nên xem thường họ,
nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
3. Làm việc bác ái:
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu mà
không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng.
Bởi thế, Thánh Giacôbê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái:
"Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo
họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại
không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?" (Gc 2,
15-16)
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi
những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong
một xã hội vô cảm. Ý nghĩa "Bác Ái vì Chúa" của người Công Giáo, của
các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của
Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian
dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể
có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai
bão lụt...cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà
nọ... bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức
Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Kitô Giáo.
4. Hiên ngang sống công chính:
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần
vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc
đời giả trá điêu ngoa. "Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền
đất của nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang sống công chính vì đã tin
vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định:
"Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá,
tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh
tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây!
Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?" (Is 50, 5-9a)
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình,
rồi "theo Chúa". Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự
công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm:
"Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không
che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ
tôi". (x. Tv 114, 1-9).
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay
đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười
phỉ báng. Các Kitô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành
hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin
Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể
là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là
thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giêsu Kitô đích thực
là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống
chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa
Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được
sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa,
sống bác ái với mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. Amen.
28. Chú giải và suy niệm của Lm.
Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật XXIV này được định vị vào
trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cuộc
Khổ Nạn của Ngài theo Tin Mừng Mác-cô.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ
I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau
khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi
đau thương thử thách.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh
Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng "đức tin không hành động là đức tin
chết".
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi đã nghe
lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô: "Thầy là Đấng Ki-tô", Đức
Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong
bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của một Người Tôi Trung thập toàn của Đức
Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho
thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta
đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh
quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung
chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu
độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu
đau khổ
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên
Chúa, ông đã được thông báo cho biết: sứ mạng được trao phó cho ông không là dể
dàng, nhưng ông "không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui". Sứ mạng này
được xác định ở đoạn trên: "biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức".
Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ;
ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông
đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông
công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: "Ai
tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây
coi!".
2. Dung mạo của Đức Ki-tô
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này
chúng ta đọc thấy số phận của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên
Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ.
Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than
van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: "Ai có thể bắt lỗi tôi điều
gì?". Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh
oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh
Gia-cô-bê.
1. Đức tin không hành động là đức tin
chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một
chủ đề: "đức tin không hành động là đức tin chết". Đức tin tích cực
năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh
Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được minh họa bởi một ví dụ cụ thể và
được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua,
thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp
những người anh em đau khổ của chúng ta.
2. So sánh giáo huấn của thánh Giacôbê
và của thánh Phaolô:
Liệu có nên nghĩ rằng thánh Giacôbê có
lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi
tín hữu Galát và Rôma: "Con người được nên công chính không phải nhờ làm
những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô" (Gl 2:16)?. Nói đúng hơn,
thánh Gia-cô-bê cố cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một
lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách
cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi những việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu
không có đức ái thì đức tin "chỉ là tiếng phèn la inh ỏi".
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ
dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không
thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là "tin
vào Đức Ki tô". Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành
quả của luật mới, mà thành quả hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên
Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính hóa,
nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo
uột héo khô.
Liệu có nên nghĩ rằng ở bên kia những
tư tưởng này, có một dư âm nào đó về hai thái độ của hai vị thánh này xuất hiện
ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem? Thánh Gia-cô-bê bày tỏ lập trường phải tuân giữ vài
mối giây ràng buộc với luật Mô-sê, trong khi thánh Phao-lô muốn giải thoát các
Ki-tô hữu tiên khởi khỏi những thực hành Lề Luật...Có thể lắm chứ.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giêsu tìm
kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các
môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu đã rút
lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các
làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không
thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê, nhưng em của ông là Phi-líp, một nhà cai
trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính Phi-líp là người xây dựng thành Xê-da-rê
mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giêsu đã dẫn
các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông
Giô-đan.
Trên lãnh địa này, người ta có thể đi
lại một cách thanh bình. Đức Giêsu đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những
dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh
êm ả và bầu khí thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào
trong bối cảnh Đức Giêsu cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc
9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giêsu cầu nguyện vào
những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức
Giêsu và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính
nhờ đồng hành với Đức Giêsu, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được khuôn
mặt đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về
Ngài:
Trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ về
dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm
tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: "Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ
bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó". Trong những dư
luận này, việc đồng hóa Đức Giêsu với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc
nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giêsu: "Đó
chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng
làm phép lạ" (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giêsu là một
trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi,
tuy nhiên vẫn còn xa với chân lý.
Vì thế, Đức Giêsu muốn trắc nghiệm niềm
tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe
những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm: "Còn anh em, anh em bảo
Thầy là ai?". Thay mặt cho các môn đệ, ông Phêrô đáp: "Thầy là Đấng
Ki tô". Tại Mát-thêu, thánh Phêrô còn nói thêm: "Con Thiên Chúa hằng
sống". Tại Lu-ca, thánh Phêrô nói: "Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên
Chúa". Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phêrô
mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giêsu:
"Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy,
Đấng ngự trên trời" (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã
quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của
Ngài.
Ngay lập tức Đức Giêsu cấm ngặt các ông
không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong
Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi "bí mật Đấng Mê-si-a". Bí
mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là căn
tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta
hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc
này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định
của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giêsu sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và
Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo
cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: "Con Người phải chịu đau khổ
nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau
ba ngày sẽ sống lại". Cái tất yếu mà Đức Giêsu nêu lên: "Con Người
phải...", không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật
tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn
không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu
nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giêsu không cho các ông bất cứ
lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu ("phải") này.
4. Phản ứng của thánh Phêrô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ
Nạn của Ngài, Đức Giêsu cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị
đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi
các môn đệ. Một cách tế nhị, "thánh Phêrô liền kéo riêng Người ra mà
trách". Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phêrô. Trong tâm trí,
thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh
quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ
của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có
thể chấp nhận người mình yêu có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giêsu:
Đức Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái
độ của thánh Phêrô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh
qua trong hoang địa; Đức Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời
mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: "Xa-tan kia, xéo đi!" (Mt 4:
10), nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: "Lui ra đằng sau
Thầy", nghĩa là "Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh
phải bước đi theo con đường của Thầy".
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ
của Ngài, Đức Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: "Ai muốn theo tôi, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ
Nạn của Ngài, Đức Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các
Ki tô hữu, vào con đường đau khổ này: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ
mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng
sống ấy". Ở đây Đức Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: "mạng sống"
vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời này vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều
thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi
thời, hôm qua cũng như hôm nay.
29. Giải thích và suy niệm của Lm. PX
Vũ Phan Long
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
VÀ LỜI LOAN BÁO THƯƠNG KHÓ LẦN ĐẦU
1.- Ngữ cảnh
Có thể nói đoạn 8,27-30 đưa quyển TM II
sang một khúc quanh, vì chúng ta ghi nhận được nhiều khác biệt giữa phần này
với phần trước. Có những thay đổi về từ vựng và cách hành văn như: không còn
nhắc đến "bánh" nữa; không còn minh nhiên nhắc đến sự tối tăm (không
hiểu) của các môn đệ nữa (dù đề tài này vẫn được đề cập đến dưới một dạng
khác); Đức Giêsu nói thẳng ra với các môn đệ ... Có những thay đổi trong cách
trình bày dung mạo của Đức Kitô: tác giả bắt đầu giới thiệu Đức Giêsu với định
mệnh của Người bằng câu "Con Người phải chịu đau khổ" (8,31).
Đây là định mệnh nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Số phận ấy trở thành
nền tảng để Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ: "Ai muốn theo tôi, phải từ
bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (8,34).
Về nội dung, ta thấy trước đó, Đức
Giêsu đã liên tục đặt cho các môn đệ một số câu hỏi (x. 8,17-21). Các câu hỏi
này cho hiểu rằng các môn đệ phải hiểu chuyện gì đó, nhưng các ông lại không
hiểu. Lý do: lòng các ông còn ngu muội (8,17: dịch sát: "trái tim các ông
còn chai cứng").
Có thể nói rằng: sau khi đã chứng kiến
Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) và chữa người mù (8,22-26),
và đặt mình vào vị trí của những người ấy, các môn đệ hẳn phải biết là những
người ấy tượng trưng cho tình trạng mù lòa điếc lác của chính các ông trước mầu
nhiệm Đức Giêsu, và chỉ mình Người có thể giúp các ông đánh tan sự tăm tối ngu
muội khiến các ông không hiểu biết Người. Và khi đã được mở tai, mở miệng, mở
mắt, hẳn các môn đệ có thể tuyên xưng niềm tin vào Người và chấp nhận mọi đòi
hỏi của đời môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô
(8,27-30);
2) Lời loan báo Thương Khó lần đầu
(8,31-33);
3) Giáo huấn về đời các môn đệ
(8,34-35).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Xêdarê Philipphê (27): Đức Giêsu tiến
về miền Iturê, nơi có thành Xêdarê Philipphê trấn ngữ. Thành này là nơi cư trú
của Hêrôđê Philipphê, được gọi là "Xêdarê" để tôn vinh hoàng đế Rôma.
Nó nằm tại nguồn sông Giođan trên sườn núi Khemôn. Trong khi "đi
đường" tiến gần đến trung tâm quyền lực chính trị này, Đức Giêsu hỏi các
môn đệ về dư luận liên can đến chân tính của Người.
- Họ bảo Thầy..., có kẻ thì bảo..., kẻ
khác... (28): Những ý kiến mà các môn đệ nêu ra thì tương tự với ba ý kiến
trước đây liên hệ đến Gioan Tẩy Giả (x. 6,15). Sự tương đồng giữa Đức Giêsu và
vị Tẩy Giả đã khiến một số người tin rằng Đức Giêsu là vị Tẩy Giả đã sống lại.
Có những người lại nghĩ rằng Người là ngôn sứ Êlia, nay đã trở lại để hoạt động
lần thứ hai. Lại có những người chỉ coi Đức Giêsu là như một ngôn sứ. Những
phỏng đoán trên xuất hiện theo cùng một thứ tự vào thời gian Gioan bị chém đầu.
Đấy là quan điểm của những người quan sát Đức Giêsu và những hoạt động của
Người từ xa.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là
nhận định của những người ở gần bên Đức Giêsu, những người đã gắn bó với Đức
Giêsu như là môn đệ của Người, và những người sẽ nhận tác phẩm Mc: "Còn anh
em, anh em bảo Thầy là ai?"
- Anh em bảo Thầy là ai? (29): Đức
Giêsu đã được gọi bằng nhiều danh hiệu: "Đấng Thánh của Thiên Chúa"
(1,24), "Con Thiên Chúa" (3,11), "Thầy" (4,38), "Con
Thiên Chúa tối cao" (5,7), "Ngài (Chúa)" (7,28). Nhưng Người
không hề tỏ ra muốn làm cho những kẻ đi theo Người xác định Người là Đấng
Mêsia. Người chỉ cho thấy rằng Người hiểu mình có sứ mạng như "Con
Người", có quyền hành động trên trái đất nhân danh Thiên Chúa (x. 2,10).
Vào thuở đầu, các môn đệ gọi Đức Giêsu
là "Thầy" (4,38). Với thời gian đi theo Người, các ông đã chứng kiến
các tà thần bị trục xuất (1,21-27; 5,1-20), những bệnh nhân được chữa lành
(1,29-31; 1,40-45...), những người chết được sống lại (5,21-24.35-43) và đông
đảo những người nghèo đói được ăn no (6,30-44; 8,1-10). Lời nói và việc làm
được Đức Giêsu liên kết với nhau. Người vừa là Đấng công bố vừa là Đấng hoàn
tất Tin Mừng của Thiên Chúa.
Nhưng các môn đệ thời Đức Giêsu cũng
như thời Mc đã ý thức về những điều đó đến mức nào? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai, và
như thế, họ nghĩ làm môn đệ Đức Giêsu nghĩa là gì? Lần đầu tiên họ đã nêu lên
câu hỏi về chân tính Đức Giêsu khi chứng kiến trận bão bị dẹp yên (4,35-41; x.
1,27). Bây giờ dường như các môn đệ đã có một câu trả lời mà Phêrô vừa nói ra
như là người phát ngôn: "Thầy là Đấng Kitô".
- Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng
Kitô": Tên "Phêrô" đã biến mất sau 5,37, nhưng từ đây tên này sẽ
được nhắc đến thường xuyên. Phêrô đã nhận thức được những gì khi tuyên xưng như
thế? Tất cả những gì chúng ta có thể nói là, ít ra, ông coi Đức Giêsu hẳn là
Đấng hoàn tất những niềm hy vọng từ lâu đời là tái thiết Dân Thiên Chúa. Bản
văn Lc thêm "của Thiên Chúa", và bản văn Mt: "Con Thiên Chúa
hằng sống".
- Đức Giêsu liền cấm ngặt (30): Hẳn là
câu trả lời của Phêrô đúng, thế mà Đức Giêsu đã cấm không những ông mà tất cả
những môn đệ nữa là "không được nói với ai về Người". "Cấm
ngặt", epitimaô, đã được dùng trong các câu truyện trừ
quỷ" (1,25; 3,12). Với từ ngữ này, chúng ta hiểu không phải Đức Giêsu
muốn che giấu chân tính đích thực của Người, mà là muốn tránh cho người ta khỏi
hiểu sai hoàn toàn Người là ai và Người đang làm gì. Các tông đồ không được phổ
biến một lối nhìn sai lạc như thế.
Xuyên qua Cựu Ước, danh hiệu Mêsia
(Kitô) gợi lên nơi tâm trí đám dân đen cũng như giới lãnh đạo hình ảnh một vị
vua ngự trên đỉnh kim tự tháp xã hội kinh tế để mà điều khiển kim tự tháp này.
Để cho triều đại được tồn tại mãi mãi, ngài dùng quân đội, thu thuế, và nâng đỡ
một đền thờ có giới tư tế phục dịch. Giống như vua Đavít, Đấng Mêsia phải là vị
thủ lãnh được xức dầu mang uy quyền thần thánh mà điều hành xã hội sao cho có
công bình về mọi mặt. Nhưng các cơ cấu của xã hội này là cơ cấu hàng dọc, chúng
đưa đến sự áp chế và bóc lột, nên chúng phi nhân.
Luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu
thiết lập trong tư cách là con người mới là trật tự luân lý mới, theo chiều
ngang, hoàn toàn bình đẳng, trong đó định mệnh con người được thể hiện vừa theo
cách cá nhân vừa theo cách tập thể. Vậy, cần giữ lại lời tuyên xưng của Phêrô,
nhưng cần phải lấp đầy lời tuyên xưng ấy bằng một nội dung mới. Vì thế, Đức
Giêsu bắt đầu dạy các ông về số phận của Con Người.
- Con Người phải chịu đau khổ nhiều
(31): Trong nửa đầu của quyển TM Mc, Đức Giêsu đã nối kết Con Người với tư cách
chúa tể và với uy quyền (2,10.28). Nhưng bây giờ, phản ứng lại lời tuyên xưng
của Phêrô, Người đưa vào một viễn tượng gắn liền với chân tính của Con Người:
"Con Người phải chịu đau khổ nhiều". Người diễn tả hai đối cực trong
một khái niệm. Một đàng, Người được ngự trên ngai cùng với Đấng Tạo Hoá, và như
thế, cùng có quyền chủ tể với Đấng Tạo Hoá. Đàng khác, Người phải chịu đau khổ
và chịu chết, bởi vì Người chia sẻ mọi phương diện của thân phận con người. Tuy
nhiên, sự sống, chứ không phải sự chết, mới có tiếng nói cuối cùng. Cho dù
Người có bị giết, Người sẽ lại trỗi dậy. Không gì có thể cản trở việc thể hiện
nhân tính mới để loài người hoàn toàn sống theo luật Thiên Chúa. "Phải;
cần thiết", dei, diễn tả một điều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như Phêrô (và
các anh em) đã tuyên xưng. Nhưng Người là Đấng Mêsia một cách nghịch lý: là vị
đại diện của Thiên Chúa, Người có quyền tối cao. Nhưng tương lai gần lại đưa
Người đến đau khổ và cái chết, chứ không phải là sự huy hoàng và vinh quang của
một vị vua.
- bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ: Điều đáng lưu ý là những đau khổ và cái chết của Người lại bị gây ra
bởi giới ưu tuyển đang nắm giữ quyền bính và đặc quyền trên đỉnh cao kim tự
tháp Do Thái: đó là các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ loại trừ
Người và giao nộp Người cho nhà cầm quyền Rôma xử tử. Họ làm như thế, bởi vì
luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đang thiết lập có nghĩa là đã đến lúc chấm
dứt cái trật tự mà họ cho là phát xuất từ Thiên Chúa và họ đang ra sức bảo vệ
bằng mọi phương thế có thể được.
- Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt
đầu trách Người (32): Phêrô (và các anh em) không thể chấp nhận được rằng trong
khái niệm Đấng Mêsia họ vẫn hiểu, lại có sự đau khổ và sự chết. Ông liền kéo
Đức Giêsu ra một bên và trách Người (epitimaô).
- Satan! Lui lại đằng sau Thầy (33):
Đức Giêsu đã mắng ngược lại: "Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng
của Thiên Chúa, mà là của loài người". Ý kiến của Phêrô không diễn tả nếp
sống môn đệ mà ông được mời gọi theo. Tư cách Mêsia mà ông tuyên xưng và cách
hiểu đời môn đệ tương ứng với Đấng Mêsia ấy không thể hài hoà với cách Đức
Giêsu hiểu thánh ý Thiên Chúa. Ý kiến của Phêrô chỉ dựa trên những quan điểm
của loài người, nên đã tương đương với những nỗ lực của Satan nhằm kéo Đức
Giêsu ra khỏi đường sứ mạng (so với Mt 4,10). Trong Mc 8,31-33, tác giả đề cập
đến những hậu quả của tư cách Mêsia đối với chính Đức Giêsu. Trong 8,34-38;
9,1, ngài sẽ đề cập đến hậu quả đối với các môn đệ của Đức Giêsu.
Lời tuyên xưng duy nhất về Đấng Mêsia
mà Đức Giêsu chấp nhận được, là lời tuyên xưng đưa các môn đệ đến chỗ hiểu về
tư cách môn đệ phù hợp với đường lối của Thiên Chúa về mầu nhiệm Đức Kitô.
- Đức Giêsu gọi đám đông cùng vói các
môn đệ (34): Đức Giêsu tiếp tục giải thích chân lý trên đây thật rõ ràng cho
các môn đệ, nhưng, bởi vì điều này hết sức quan trọng, Người gọi cả đám đông
lại mà nghe.
- Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình ...: Nẻo đường tuân thủ thánh ý Thiên Chúa bắt đầu với cái chết, như chính
Đức Giêsu đã cho thấy. Aparneomai, "chối mình", nghĩa là không màng
tới quyền lợi hoặc sở thích của mình. Vì Phêrô không chịu "chối mình"
(aparneomai), sau này ông đã chối (arneomai) Thầy (14,68).
- ai liều mất mạng sống mình vì tôi và
vì Tin Mừng, thì cứu được (35): Lời này cho thấy Đức Giêsu tự đồng hoá với Tin
Mừng của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu, Con Người, sẽ hướng dẫn người ta đi vào
một cuộc tái lập trật tự cho thế giới chúng ta, trong đó giá trị của con người
không nằm ở "sở hữu" (cái "có"), nhưng ở "hiện
hữu" (cái "là"). Người môn đệ Đức Giêsu sẽ đạt được sự sống vĩnh
cửu ở bên kia kinh nghiệm về cái chết được diễn tả bằng công thức "vác
thập giá bước theo Đức Giêsu". Đây là sự sống vĩnh cửu bởi vì đạt được
xuyên qua cuộc tái tạo bằng hơi thở ban sự sống của Thiên Chúa và bằng việc
tháp nhập v&agagrave;o trong đời sống không bao giờ chấm dứt của Con Người
(nhân loại mới).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô
(27-30)
Tác giả TM II đã nêu bật tầm quan trọng
của câu hỏi của Đức Giêsu khi đặt câu hỏi ấy ở trung tâm của tác phẩm của ngài.
Những gì ngài tường thuật trước đó (trong phân đoạn 1,1–8,26) nhắm đưa tới câu
hỏi này và cung cấp các nền tảng để trả lời. Các môn đệ đã đồng hành với Đức
Giêsu trong mọi chuyến đi và đã chứng kiến tất cả hoạt động của Người, phải có
thể trả lời câu hỏi Người đặt ra.
Đức Giêsu không nhấn mạnh tổng quát về
tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ nhưng, với một độ tăng dần, Người nêu
ra cho họ hai câu hỏi: ý kiến của dân chúng và của chính các ông về bản thân
Người. Các môn đệ, qua Phêrô, đã tỏ ra hiểu hơn về bản thân Người: họ thấy
Người là Đấng Mêsia, Đấng Xức dầu của Đức Chúa, Vị Sứ giả tối hậu và vĩnh viễn
của Thiên Chúa, sẽ thực hiện ơn cứu độ trọn vẹn cho loài người bằng quyền lực
và nhân danh Thiên Chúa. Câu đáp của Phêrô sẽ được triển khai bởi mạc khải của
Thiên Chúa đến sau đó: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời
Người" (9,7). Chính vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà các môn đệ phải nghe
lời Người và để cho Người hướng dẫn.
* Lời loan báo Thương Khó lần đầu
(31-33)
Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Đức
Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra
những gì đang chờ đợi Người ở cuối "con đường". Người sẽ còn ngỏ lời
với các ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết
và tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường
mà Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời
loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn
cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là một lộ trình điên rồ, phi
lý. Nhưng Đức Giêsu cũng đã đẩy ông đi với một sự quyết liệt không kém. Lộ
trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã
trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa.
* Giáo huấn về đời các môn đệ (34-35)
Kế đó, vì biết rằng giáo huấn Người sắp
ban có giá trị cho mọi người, Đức Giêsu đã nói với toàn dân và các môn đệ: Ai
muốn làm môn đệ Người, thì phải mô phỏng đời mình theo lối sống của Người.
"Vác thập giá mình mà theo" là công thức nói lên một công việc sẽ kéo
dài, công việc đưa lại nhiều tủi nhục đau đớn, như chuyến đi vác thập giá đến
nơi chịu đóng đinh, tiến bước giữa hai hàng người say sưa chế nhạo, căm hờn
chửi bới,... Đấy chính là chấp nhận thua thiệt vì trung thành sống theo Tin
Mừng, cũng chính là trung thành bước theo Đức Kitô.
+ Kết luận
Cuộc sống của người Kitô hữu tham dự
vào nghịch lý của bản thân Đức Kitô. Đức Kitô đã chỉ đạt được vinh quang thiên
sai nhờ đi qua Khổ Nạn và cái chết, theo đúng chương trình của Thiên Chúa. Bất
cứ ai tự hào mang danh "Kitô hữu", đều phải sống nghịch lý Kitô giáo:
muốn cứu mạng sống mình, là mất mạng; chấp nhận mất mạng vì Đức Kitô, là cứu
được mạng. Các môn đệ phải thích ứng với nẻo đường của Đức Giêsu, mặc dù trái
tim chai đá sẽ toan tính đủ cách để tránh xa con đường này, để đẩy nó đi.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không chỉ muốn có những
môn đệ chấp nhận phần nào giáo huấn của Người với một chút thiện cảm hoặc một
chút quan tâm. Họ phải biết rõ Người là ai và tương quan của Người với Thiên
Chúa là thế nào, để dám bỏ hết mọi sự mà ký thác trọn vẹn cuộc đời vào tay
Người. Phản ứng của Phêrô sau khi Đức Giêsu loàn báo Thương Khó (8,32b) cũng
như chuyện các ông tranh cãi về sự cao cả và danh dự (9,33-34), và lời thỉnh
cầu của hai anh em nhà Dêbêđê (10,37) cho hiểu rằng các môn đệ xác tín rằng Đức
Giêsu là Đấng Kitô, nhưng lại gán cho Người những quan niệm, những ước muốn và
hy vọng của riêng họ, tức họ chưa hoàn toàn biết rõ Người trong cái nhìn của
Thiên Chúa. Muốn biết rõ Người, phải "bước theo" Người (x. 1,17).
2. Phản ứng theo bản năng con người
chúng ta rất có thể khiến ta ở trong thế chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những
lời Đức Giêsu trách mắng Phêrô cho hiểu là chúng ta không được để cho ý muốn
của bản năng phàm trần hướng dẫn, nhưng phải bước theo Đức Giêsu và đón nhận
những lời dạy dỗ của Người, bởi vì chỉ Người mới hiểu rõ mục tiêu và biết con
đường đưa tới đó. Ai muốn cung cấp cho Người những chỉ dẫn về những gì Người
phải làm hoặc phải bỏ, thì đã tuyên xưng Đức Kitô với những lời vô nghĩa.
3. Như vậy, người nào nhìn nhận Đức
Giêsu là Đấng Kitô thì cũng bị bó buộc bước theo Người vô điều kiện, tức là cho
dù việc tiến bước này hàm chứa việc vác thập giá của mình và bước đi như Người,
bên cạnh Người, được Người nâng đỡ, để tiến về với Chúa Cha. Như thế là phải
chấp nhận rằng để đưa lại một ý nghĩa mới mẻ đích thực và mang tính Kitô giáo
cho đời sống và niềm tin của chúng ta, chúng ta phải đón nhận cả đau khổ.
4. Thật ra con đường thập giá, với
những hy sinh, những đau khổ, không phải là thời gian Thiên Chúa thử thách
chúng ta nhằm thỏa mãn "ý chí hùng cường" của Người, khiến chúng ta
phải sự hãi và khuất phục Người như những tên nô lệ khiếp nhược. Đấy chính là
lộ trình giúp chúng ta loại bỏ dần dần "con người cũ", để nhận lấy
"con người mới". Kho tàng phong phú là sự sống muôn đời trong hạnh
phúc với Thiên Chúa khiến chúng ta thấy rằng chấp nhận đi vào lộ trình này cũng
bõ công!
30. Chú giải của Noel Quesson.
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh
Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là
đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh
chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị
ngôn sứ thuộc Nagiarét:
"Đây là gì?" (Mc 1,27).
"Chúng tôi chưa bao giờ thấy như
vậy" (Mc 2,12).
"Ông ấy mất trí rồi " (Mc
21).
"Thực sự ông này là ai " (Mc
4,41).
"Tất cả mọi người đều kinh
ngạc" (Mc 5,20).
"Bởi đâu ông ta được như
thế" (Mc 6,2).
"Đó là ma" (Mc 6,49).
"Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp
cả" (Mc 7,37).
Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức
Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong
tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con
đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?
Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi
tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:
Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác
định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không.
Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn
đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các
bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì?
Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.
Người ta nói Thầy là ai?
Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những
tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về
những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay,
chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?
Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông
Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào
đó.
Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán:
Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì
cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng
Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay,
đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt
thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết
nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu
ấn của Người lên lich sử hành tinh chúng ta.
Người lại hỏi các ông: "Còn anh
em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra
cho chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?
Không nên trả lời bằng những câu sẵn
có. Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố,
trong công viên, trong những ngày nghỉ "Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về
ông ấy".
Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một
khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân
lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không
làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người
kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị 'người ta hạch hỏi về nội dung đức
tin của mình không?' Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó
buộc.
Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà
không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao?
Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta
sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).
Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng
Kitô"
Nói lên quan điểm của người khác chưa
đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời "Tuyên xưng
đức tin" nào?
Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô
đứng đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng.
Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm
này.
Tước vị "Christos"
"Meshiah" trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ
tại Israel :
Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến
"hoàn tất lịch sử". Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc
sống con người có ý nghĩa.
Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không
được nói với ai về Người
Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp.
Đúng ra phải dịch là: 'Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả'.
"Bí mật về Đấng Mêsia" là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu
đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45;
3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).
Đó không phải là không công nhận tước
vị Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người
ta đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã
quá hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên
Chúa không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh
hiển, quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật.
Thiên Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh
Phaolô sẽ nói rằng: "Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng"
(Rm 16,25).
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết
Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại
bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại
Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức
Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị
giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan
báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp
phạm cho con người.
Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã
phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người
đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất
với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng
Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ
rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục
xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về
biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các
tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao
giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ
trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những
thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không
thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.
Người nói rõ điều đó, không úp mở
Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm
nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: "Một cách quả quyết, Đức
Giêsu đã nói Lời". Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát
biểu những lời đó "một cách quả quyết" không chút sợ hãi, đầy can
đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người
đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách
của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự "hiện
diện" của Ngôi Lời Thiên Chúa. "Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời" (Ga
1,1) "Người nói Lời cách quả quyết". Con Người phải bị giết và sống
lại; chữ "phải" này làm chúng ta chìm đắm trong "ý định đời đời
và không hiểu được" của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục
sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu
nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh "Tin kính"
đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và
bắt đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người
trách ông Phêrô: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!"
Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không
phải là vô ích.
Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị
đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ông vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang,
chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà
giải phóng trần gian.
Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ
đọc kinh "Tin kính" thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có
thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý.
Các bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không?
Con người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này?
Con người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của
chúng ta?
Vì tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Đức Giêsu gọi đám đông
cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ
bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình,
thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu
được mạng sống ấy
Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá
cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó "cho chúng ta",
cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: "Anh em nói Thầy là ai?"
Người hỏi: "Anh em nói anh em là người thế nào?". Anh em cho cuộc sống
của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư? Để
cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?
31. Yêu và ghét – Trầm Thiên Thu
Yêu và ghét là hai động thái trái ngược
nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến
nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là
yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Không ai lại ghét chính mình, vì thế mà
đôi khi người ta yêu mình thái quá. Đó là tự ái - tự yêu mình quá mức. Nhưng
Chúa Giêsu dạy "ghét mình" mà "yêu tha nhân". Vẫn theo
chiều hướng "ngược đời". Vậy Ngài có quá đáng hoặc xúi dại chúng ta
không?
Có thể là "hơi quá đáng" đối
với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai cả! Chúa bảo chúng ta
"ghét mình" vì Ngài biết chung ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao
tự đại, khoái "nổ" banh-ta-lông, dễ "chứng", khó thuần
hoá, thế nên Ngài phải đặt "hàm thiếc" vào chúng ta để kiềm chế thói
"chứng" của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý. Vì nếu Ngài không làm vậy
thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng... nắp bia mà thôi!
Bài đọc I hôm nay là bài ca thứ ba
trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở "trần ai khoai
củ". Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải
bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ
oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông!
Ngôn sứ Isaia kể một mạch: "Đức
Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa
lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai
tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui" (Is 50,4-5). Ngoan
cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không "tham sanh, uý
tử" (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó
chính là hình bóng của Đức Kitô.
Ngôn sứ Isaia kể tiếp: "Tôi đã đưa
lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt
khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ" (Is 50,6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi
gian truân chẳng là "cái đinh" gì ráo trọi! Tại sao? Thánh nhân cho
biết động lực thúc đẩy: "Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế,
tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải
thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên" (Is
50,7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng. Ngôn sứ Isaia
"đặt vấn đề" rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: "Ai tranh
tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây
coi!" (Is 50,8b).
Sống công chính thì chẳng có gì phải
sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi là chính mình!
Nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào
sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói: "Lòng tôi yêu mến
Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu
cứu" (Tv 116,1-2). Và dù "dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm
ty chụp xuống trên mình" (Tv 116,3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà
tiến bước. Nếu gặp gian truân sầu khổ mà chúng ta thành tín kêu cầu danh Chúa:
"Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!" (Tv 116,4), Ngài sẽ thương cứu
ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy
chông gai. Bởi vì Ngài mệnh danh là Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga 4,8), là Đấng
nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những
người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Tác giả Thánh vịnh đã là nhân
chứng sống động: "Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn
đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong
cõi đất dành cho kẻ sống" (Tv 116,8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của
người sống chứ không của người chết.
Thánh Giacôbê chất vấn: "Ai bảo
rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì?
Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?" (Gc 2,14), và phân tích:
"Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của
ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: 'Hãy đi bình an, mặc cho ấm
và ăn cho no', nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào
có ích lợi gì?" (Gc 2,16). Thế thì đời sống tâm linh cũng vậy, "đức
tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2,17). Một cách định
nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và rất hay. Quả thật là thế: "Bạn có
đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không
hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin" (Gc
2,18). Cứng họng. Không ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách
biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải "tâm
phục, khẩu phục".
Có lần Chúa Giêsu đã từng "ví
von" thế này: "Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh,
mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?" (Mt
7,9-10). Chỉ có nước câm miệng chứ ai nói lại được gì? Đó là yêu thương, là
sống đức tin, là sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), là thể hiện lòng thương xót
của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã
nói: "Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc
thì khóc cho phận mình và cho con cháu" (Lc 23,28).
Một dịp Đức Giêsu và các môn đệ tới các
làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: "Người ta
nói Thầy là ai?" (Mc 8,27). Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan
Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó"
(Mc 8,28). Ngài lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?". Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: "Thầy là Đấng Kitô"
(Mc 8,29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là "số
dzách", là "number one"!
Thế nhưng Đức Giêsu liền nghiêm mặt và
cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Rồi Ngài không nói về vinh hoa,
phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con
Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ,
bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu nói
rõ về điều đó, không hề úp mở.
Có lẽ Phêrô nhà ta "cụt
hứng", thế nên ông liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Ngài. Nhưng Ngài
quay lại nhìn các môn đệ và trách ông Phêrô: "Satan! lui lại đàng sau
Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài
người" (Mc 8,33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị
Giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì
khen mà dở thì chỉnh ngay, không thiên tư hoặc vị nể. Thật vậy, những người
khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn Giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là
Satan. Quá nặng!
Nói xong thì thôi, không để bụng, Ngài
liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: "Ai muốn theo tôi, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 8,34). Thuận ngôn, nghịch
nhĩ. Khó quá, Chúa ơi! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: "Ai muốn
cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin
Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Ngài không ép. Hoàn toàn cho
tự do. Tuỳ ý. Thích thì chiều!
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con chỉ
là những tội nhân khốn nạn, lúc nào cũng chỉ muốn "nổi dậy" bằng đủ
cách, chỉ đòi được Ngài yêu mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghét mà
chúng con lại lườm nguýt hoặc xỉa xói những người lân cận. Chúng con thật hồ
đồ, thật đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con quyết
"bỏ mình" như Chúa Con đã nêu gương. Chúng con cầu xin nhân Danh
Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét