MUNG LE BON MANG CA DOAN BAC CUONG 08/09/2015 |
THANH LE TAI GIAO DIEM COC MY H. BAT XAT |
BÀI ĐỌC 1:
"Ngươi phân bì dùm ta làm chi? Ước gì toàn dân được nói tiên tri" (Ds
11,25-29)
Bài trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa ngự xuống trong đám
mây, và phán cùng Maisen, đồng thời lấy thần trí trong Maisen mà phân phát cho
bảy mươi vị bô lão. Khi thần trí ngự trên các ông, các ông liền nói tiên tri, và
về sau các ông không mất ơn ấy. Vậy có hai vị ở lại trong lều trại, một người
tên là Elđađ, và người kia tên là Mêđađ. Thần trí đã ngự trên hai ông: Vì hai
ông được ghi tên vào sổ, nhưng không đến ở trong nhà xếp. Khi hai ông nói tiên
tri trong lều trại, thì có đứa trẻ chạy đến báo tin cho ông Maisen rằng: "Elđađ
và Mêđađ đang nói tiên tri trong lều trại". Tức thì Giosuê con ông Nun, tùy tùng
của ông Maisen và là kẻ được chọn trong số đông người liền thưa rằng: "Hỡi ông
Maisen, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi". Ông Maisen đáp lại rằng: "Ngươi phân bì
dùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban thần trí Người cho
họ".
Đó là lời Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA Tv 18: 8, 10, 12-13,
14
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can.
1. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2. Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
3. Dù tôi tớ Chúa quan tâm về những điều luật đó, lại hết sức ân cần tuân giữ, nhưng có nhiều chuyện lầm lỗi, nào ai hay? Xin rửa tôi sạch những lỗi lầm không nhận thấy.
4. Cũng xin ngăn ngừa tôi tớ Chúa khỏi tính kiêu căng, đừng để tính đó làm chủ trong mình con. Lúc đó con sẽ được tinh toàn và thanh khiết, khỏi điều tội lỗi lớn lao.
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can.
1. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2. Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
3. Dù tôi tớ Chúa quan tâm về những điều luật đó, lại hết sức ân cần tuân giữ, nhưng có nhiều chuyện lầm lỗi, nào ai hay? Xin rửa tôi sạch những lỗi lầm không nhận thấy.
4. Cũng xin ngăn ngừa tôi tớ Chúa khỏi tính kiêu căng, đừng để tính đó làm chủ trong mình con. Lúc đó con sẽ được tinh toàn và thanh khiết, khỏi điều tội lỗi lớn lao.
BÀI ĐỌC 2: "Của cải các ngươi bị mục nát"
(Gc 5,1-6)
Bài trích thơ của Thánh Giacôbê Tông
đồ.
Nầy đây, hỡi những người giầu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai họa sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Nầy tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời nầy, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.
Đó là Lời Chúa.
Nầy đây, hỡi những người giầu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai họa sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Nầy tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời nầy, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.
Đó là Lời Chúa.
ALLELUIA Joan 15,
15b
Alleluia, alleluia.- Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.
Alleluia, alleluia.- Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.
PHÚC ÂM: "Ai chẳng chống đối các con, là
ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi" (Mc
9,38-43.45.47-48)
Bài trích Phúc Âm theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: Kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt.
Đó là Lời Chúa.
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: Kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt.
Đó là Lời Chúa.
CÁC BÀI SUY
NIỆM CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Ds
11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48
MỤC
LỤC
1. Đừng ngăn
cấm
2. Diệt trừ gương
xấu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
3. Hãy yêu như Giêsu
– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Chặt
tay.
5. Óc bè
phái.
6. Làm cớ sa
ngã.
7. Quyết liệt dứt
khoát với tội lỗi.
8. Sống theo Thần
Khí – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
9. Hãy tránh xa dịp
tội - Lm. Nguyễn Minh Hùng
10. Tinh thần đại
kết.
11. Suy niệm của
Noel Quesson.
12. Dịp
tội.
13. Gương
mù.
14. Suy niệm của
JKN.
15. Ghen
tức.
16. Phe này cánh nọ
- Anmai
17. Dịp
tội.
18. Lời
khuyên.
19. Tảng
đá.
20. Hướng tâm hồn
lên
21. Kitô hữu trước
điều thiện và điều ác
22. Óc ganh
tỵ.
23. Hãy tránh xa dịp
tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
24. Sống yêu thương
hiệp nhất
25. Tin Mừng dữ dội
– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
26. Đức Giêsu giáo
huấn các môn đệ
27. Chú giải của
Noel Quesson.
1. Đừng ngăn cấm
Hai đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa
dám lôi tên ba của đứa kia ra giễu cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá
ra một bí mật và việc gọi tên có vẻ bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của
một người thường mang ý nghĩa như chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm
gọi đến tên Ngài ở giới răn thứ hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan
trọng của tên Thiên Chúa như trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.
Nếu hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa
Giêsu tuyên bố: Kẻ nào tiếp đón một kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào
tiếp đón Ta thì không phải là tiếp đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta.
Chúa nói về ân phúc của mọi hành động trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan
việc vừa xảy ra. Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó
không theo Thầy và chúng con đã ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh
Chúa Giêsu, nhưng đồng thời lại kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống
sát cạnh Chúa, cũng như ganh tức với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền
hạn của mình. Thế nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn
cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói
xấu Thầy. Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một
thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại
vấn đề, liệu các môn đệ đã tin vào danh Chúa hay chưa?
Có thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ
lại chối bỏ và để Chúa Giêsu chịu chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính
Chúa Giêsu đã nhìn những người ngoại giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng
hạn người thiếu phụ Canaan và viên đội trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa
thấy một niềm tin như thế trong dân Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn
đệ đã có một niềm tin mạnh như những kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh
Chúa mà làm nhiều phép lạ, còn những người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm
phép lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các
môn đệ trở về kể lại cho Chúa Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ
cũng phải luỵ phục chúng con. Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm.
Họ nhờ danh Chúa mà tìm vinh quang cho mình.
Ngày hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà
suy nghĩ về những cái chúng ta chiếm độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức
Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ
đó đưa đến như thế nào? Có phải vì danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh
giáo xứ mình mà thôi chăng.
Tiếp đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng
ngăn cản họ. Lời nói tuy ngăn nhưng phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn
giáo, phá vỡ cả một sự độc quyền về niềm tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các
người nhiều kẻ từ phương Đông phương Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong
Nước Trời, còn chính con cái thì lại bị đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy
cho các môn đệ một cái nhìn mới về ơn cứu độ.
Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy
người này người nọ thực sự yêu thương và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người
vô thần, là người Phật giáo, thì lập tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ
lời Chúa: Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng
phải ở trong đạo mới có tình thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại
sống được tốt lành như họ chưa.
2. Diệt trừ gương xấu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Gương xấu lây lan nhanh như đại dịch, bùng phát
mạnh như cháy rừng. Nguy cơ lây nhiễm cao đến nỗi người ta thường nói: gần mực
ắt phải đen cũng như gần đèn tất phải sáng. Biết bao nhiêu thói xấu của thế hệ
trước ảnh hưởng đến những thế hệ tiếp theo đang làm cho xã hội chúng ta điêu
đứng.
Chúa Giêsu ví tác động của gương xấu ảnh hưởng
lên những người chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng
đủ sức làm dậy lên cả một thúng bột lớn. Một ít men rượu làm cho cả nồi cơm nên
rượu; chút ít men dấm làm cho cả hũ nước nên dấm chua; men thối thì làm cho
lương thực nên thối; men độc thì làm cho đồ ăn nên độc...
Chúa Giêsu xem thái độ giả dối của những người
biệt phái cũng như tâm địa độc ác của vua Hêrôđê là những thứ men độc hại có thể
khiến cho những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên
Người cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: "Anh em phải coi chừng men biệt phái và
men Hêrôđê" (Mc 8, 15).
Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng
tai hại lên nhiều người khác nên Chúa Giêsu kịch liệt bài trừ. Người muốn nhổ bỏ
thói xấu tận gốc rễ, muốn tẩy trừ gương xấu bằng mọi giá.
Trước hết, Người răn đe những người gây ra gương
xấu bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc: "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn
đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển
còn hơn." (Mc 9, 42)
Và Người muốn diệt trừ các duyên cớ gây ra tội
lỗi cách rất quyết liệt: "Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà
cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục,
phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi;
thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào
hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được
vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ
không hề chết và lửa không hề tắt." (Mc 9, 43-48)
Khi phán dạy như thế, Chúa Giêsu không có ý nói
là chúng ta phải huỷ hoại thân mình để loại trừ thói xấu, nhưng Người có ý nói
phải diệt trừ thói xấu cách quyết liệt, bằng bất cứ giá nào.
* * *
Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhổ bỏ tội lỗi và
thói xấu là điều thật khó khăn, vì việc xấu ta vừa dứt bỏ hôm nay, ngày mai lại
quay về.
Tẩy trừ thói xấu cũng như xua đuổi một con chó
ghẻ trung thành. Khi con chó trong nhà bị ghẻ lở trông thật ghê tởm và hôi hám,
người nhà quyết xua đuổi nó đi, nhưng lát sau nó cũng quay về. Dù người nhà tiếp
tục đánh đập và xua đuổi nó đi xa... nó cũng lại trở về!
Tẩy trừ thói xấu cũng y như nhổ cỏ cú (một thứ cỏ
có nhiều rễ củ ăn sâu xuống lòng đất, rất khó diệt) trên mảnh đất tốt. Hôm nay
nhổ sạch cỏ rồi, mai gặp một trận mưa to, cỏ lại mọc lên phơi phới.
Như vậy, không lẽ con người đành bó tay trước
thói hư tật xấu?
Bệnh nào cũng có thuốc chữa. Sâu nào cũng có
thuốc trừ.
Đối với những đám đất nhiều cỏ cú diệt hoài không
được, người nông dân kinh nghiệm có thể diệt hết cỏ bằng cách biến nó thành thửa
ruộng lúa nước. Người ta bơm nước vào đám đất có nhiều cỏ, ngâm nước một thời
gian cho cỏ thối đi, rồi cày và trục chôn cỏ mục xuống bùn. Sau đó, người ta sạ
lúa xuống. Chờ lúa mọc lên chừng mươi phân, người nông dân lại cho nước vào phủ
hết mặt ruộng, rồi bung phân cho lúa bốc lên nhanh; lá lúa vươn ra um tùm che
phủ mặt ruộng khiến cỏ dại không thể nào mọc lên được.
Có người diệt cỏ bằng cách trồng mía. Mía con vừa
mới lên liền được bón thúc phân thật sớm khiến bụi mía phát triển sum suê. Thế
là cỏ dại dưới đất bị chết ngộp vì thiếu ánh sáng.
Thế là nhà nông thắng lớn vì không cần tốn công
làm cỏ mà lại thu hoạch được lúa hoặc mía dồi dào.
Vậy thì một trong những phương pháp kiến hiệu để
loại trừ gương xấu, thói hư là áp dụng phương thức lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu:
quyết tâm tạo cho mình những việc làm tốt để đẩy lui những việc làm xấu; tập
thói quen tốt để đẩy lùi thói quen xấu; lấy sách báo lành mạnh thay thế cho sách
báo đồi truỵ; lấy phim giáo dục đẩy lùi phim vô luân; chọn bạn tốt lành thay cho
bạn bè xấu tính...
Hy vọng nhờ đó, cuộc đời chúng ta ngày càng được
cải thiện; tâm hồn chúng ta ngày thêm trong sáng; bản thân chúng ta ngày càng
trở nên người có phẩm chất cao.
3. Hãy yêu như Giêsu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu truyện ngụ ngôn của Ấn độ kể rằng: Một
hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần thế.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi
tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có
lòng tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con
không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê
hèn".
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng
đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một người
thực sự xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài,
con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm
cắp... nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp. Cho dù có vấp ngã, mọi
người đều có lòng tốt".
Xem ra nhận xét về một con người tùy thuộc vào
tình cảm của người nhận xét nhiều hơn là về bản thân của người được nhận xét.
Không ai hoàn toàn xấu, và cũng không ai hoàn toàn tốt. Vì "nhân vô thập toàn",
và mọi sự trong trời đất đều tương đối. Nhưng đáng tiếc con người lại không nhận
ra. Nhiều người vẫn cho rằng mình không sai lầm. Nhiều người vẫn tưởng rằng mình
không có khuyết điểm. Con người cho mình là trung tâm điểm nên dễ dàng loại trừ,
kết án, tẩy chay những ai khác với mình, hoặc không đồng quan điểm với mình.
Đó còn là lý do khiến người ta thường hay phân
loại để chơi. Những người cùng sở thích, cùng quan điểm, cùng ý thức hệ thì liên
đới với nhau, ngược lại thi xa lánh, đôi khi lại hiềm thù và đối nghịch với
nhau. Khi yêu nhau người ta dễ cảm thông, tha thứ, nâng đỡ nhau, vì "Yêu nhau củ
ấu cũng tròn - Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa". Khi ghét nhau thì "Cau sáu bổ
ra làm mười". Có khi còn "ghét cả tông ti họ hàng".
Là người Ky-tô hữu Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ
có kẻ thù. Hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính
Chúa đã chọn chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng
ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ
của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công
bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người ky-tô hữu mà gây nên
gương mù gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của
mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành
động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng
cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương
đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên
người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại
tình. Chúa càng không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng
hay biết. "Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm". Chúa đã nêu gương yêu
thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu
tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để
sống vị tha và nhân ái với nhau.
Nhưng đáng tiếc con người lại thiếu tình thương
nhưng lại đầy lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung nhưng đầy hận thù. Thiếu sự
cảm thông nhưng chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính
lòng ghen ghét, lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ
trần gian với biết bao nước mắt của oan trái, đau thương.
Có ai đó nói rằng: "Nếu cứ áp dụng luật "mắt đền
mắt" thì mọi người đều trở nên mù lòa". Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng
bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để
đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời ky-tô hữu của
chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để
đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.
4. Chặt tay.
Ngày xưa có một đoàn thám hiểm từ Âu châu đi tìm
đất mới. Nhà lãnh đạo của họ là một người thích phiêu lưu với số mệnh, và ông đã
tuyên bố: Ai đụng tới đất đầu tiên sẽ được làm chủ toàn thể lãnh thổ ấy. Một
người trong nhóm tên là O'Neil quyết tâm giành được đất mới. Ông gắng sức chèo,
nhưng rồi một chiếc thuyền khác đã vượt qua được ông mà đất liền thì đã ở ngay
trước mặt. Chúng ta có biết ông đã hành động như thế nào hay không? Con người
sắt đá này đã buông mái chèo, rồi nhanh như một tia chớp, ông cầm lấy chiếc búa,
chặt đứt bàn tay trái của mình rồi liệng nó lên bờ. Và như thế ông là người đầu
tiên đụng vào đất mới. Đất mới là của ông.
Kể lại câu chuyện này, tôi hy vọng chúng ta sẽ dễ
dàng hiểu được lời nói của Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Nếu tay con làm cớ
cho con phạm tội, thì hãy chặt nó đi. Thà con cụt một tay mà được vào Nước Trời
còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục. Đâu là ý hướng Chúa Giêsu muốn
nhắm tới? Tôi nghĩ rằng những người muốn theo Chúa phải sẵn sàng hy sinh cả
những cái gần gũi và thân yêu nhất, khi chúng trở thành dịp tội và làm cho chúng
ta vấp ngã. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay
móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài hầu gây một ấn tượng khó quên
đối với người nghe: Nước Trời, miền đất hứa chủa chúng ta, quê hương vĩnh cửu
của chúng ta, muốn đạt được thì phải hy sinh.
Đúng thế, để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải
sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động
chặt tay và móc mắt. Đối với một số người thì từ bỏ một vài mối lợi vật chất
cũng đau đớn như là cắt đứt một bàn tay. Nơi khác, Chúa Giêsu lại nói với chúng
ta: Nếu chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ không nhà được trú
trọ thì chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Hy sinh để cứu giúp họ, hy sinh để
nâng đỡ những hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, để làm đẹp lòng Chúa và chiếm
lấy Nước Trời có thể cũng đớn đau như cưa đứt một ống chân. Với một người nghiện
rượu thì bỏ đi một xị hay chỉ một ly mà thôi, ắm lúc cũng thật là khổ sở, nhưng
vì vui lòng Chúa, anh ta phải bỏ. Chúng ta thường thích nằm ngủ nướng hơn là đi
lễ sáng Chúa nhật. Cố gắng để vượt thắng tính lười biếng có thể gây phiền phức
và khó chịu ở một mức độ nào đó, nhưng lại là phương cách để chiếm lấy Nước
Trời. Ngồi theo dõi truyền hình thì dễ dàng hơn là cầu nguyện hay đọc Kinh
Thánh. Thưa chuyện với Chúa là một ân huệ lớn lao, là một niềm vui tuyệt vời,
nhưng nó là đòi hỏi chúng ta phải cố gắng cắt bỏ một khoảnh khắc giải trí hay
nói chuyện tào lao với nhau.
Chúa Giêsu không phải chỉ chặt tay móc mắt, trái
lại Ngài còn hiến dâng trọn vẹn mạng sống và đã đổ ra cho đến giọt múa cuối cùng
để cứu chuộc chúng ta. Vì thế chúng ta hãy xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta
biết từ bỏ, hầu nhờ sự từ bỏ này chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời, miền đất hứa
của chúng ta. Hay nói các khác, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và
trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói lên như Tổng lãnh Thiên Thần
Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
5. Óc bè phái.
Có một vị linh mục, ngày kia đã giảng một bài rất
cảm động, khiến cho mọi người đều rơi lệ. Thế nhưng, có một người ngồi ngay ở
hàng ghế đầu lại chẳng hề tỏ ra chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ kết thúc
người ta đã hỏi: Ông có nghe bài giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời: Dĩ nhiên
là có và tôi đã nghe rõ lắm. Vậy thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm động đến
nỗi tôi rưng rưng như muốn khóc. Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại không
khóc. Người đàn ông trả lời: Đơn giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ này.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng tới
óc phe nhóm và tinh thần bè phái của các môn đệ, được biểu lộ qua thái độ của
Gioan. Thực vậy, ông không thể chấp nhận được chuyện một người không theo Chúa,
không thuộc về phe mình, mà lại dám lấy danh Thầy để trừ quỷ, và họ đã làm
được.
Tên của Chúa có thể dùng để trừ được quỷ. Tên ấy
có một sức mạnh, nhưng đối với Gioan, thì chỉ những người trong nhóm môn đệ của
Chúa mới có quyền xử dụng sức mạnh ấy. Chính vì thế, chẳng riêng gì Gioan, mà
ngay cả nhóm môn đệ, đều cố sức ngăn cản người ấy trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu.
Họ muốn giữ độc quyền. Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu như ai
cũng lấy danh Chúa mà trừ quỷ thì các môn đệ của Chúa đâu còn thế giá gì nữa.
Chúng ta không biết các ông đã làm những gì để ngăn cản người ấy, còn Chúa Giêsu
thì sao? Ngài đã không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi
mở hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ
quỷ.
Chắc hẳn anh ta không phải là kẻ thù của nhóm hay
của bản thân Ngài. Vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có
thể nói xấu Thầy. Hẳn anh ta phải có một niềm tin nào đó vào Ngài, cho dù anh ta
không phải là môn đệ chính thức trong nhóm. Như thế chúng ta phải chấp nhận có
những môn đệ theo sát Chúa Giêsu và cũng có những môn đệ theo Ngài xa xa, nhưng
trái tim họ thì lại rất gần Ngài.
Các môn đệ đã thấy kẻ thù ở khắp mọi nơi, vì ai
không ủng hộ các ông đều là kẻ thù của các ông. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài
hiền lành và bao dung, nên Ngài có nhiều bạn hữu. Thái độ cởi mở của Ngài khiến
chúng ta phải nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình. Chúng ta không nên vạch
một đường thật rõ để tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo,
Kitô hữu và dân ngoại. Chúng ta sẽ có nhiều bạn hơn chúng ta tưởng. Cùng bước đi
với người khác, chúng ta sẽ có nhiều cơ may để giới thiệu Đức Kitô cho họ, một
Đức Kitô mà có thể họ đã mang lấy trong trái tim từ lâu rồi, nhưng chưa một lần
gọi tên Ngài trên môi. Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng
ích kỷ chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Đó cũng là thái độ của kẻ hèn
nhát và khiếp đảm.
Hơn thế nữa, Công đồng luôn khuyến khích chúng ta
thực hiện: Hãy mở ra với thế giới, hãy mở ra với các anh em Kitô hữu khác, cũng
như hãy mở ra với những người chưa tin Đức Kitô. Bởi vì, mặt trời công chính
chiếu soi trên mọi người và cho mọi người. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn
hoạt động giữa các dân tộc.
6. Làm cớ sa ngã.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Chúng ta sống trong một thế giới có nhiều gương
xấu.
Gương xấu lan nhanh nhờ các phương tiện truyền
thông, tạo nên một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi.
Ngay trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu,
khiến cho đức tin một số người gặp khủng hoảng.
Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với
kẻ này: "... thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn."
Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu. Cha mẹ
làm ăn bất chính khiến con cái mất niềm tin. Nhà tu hành mê say vật chất khiến
tín hữu thất vọng. Những phe phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.
Có biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã.
Nhiều khi chúng ta, vì vô tình hay thiếu khôn ngoan, không biết hạn chế tự do
của mình, nên đã làm tổn thương lương tâm của những người yếu đuối.
Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa ngã,
nhưng chính thân xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.
Đức Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt,
nếu những bộ phận đó làm ta phạm tội.
Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo
nghĩa đen (nếu thế thì khó mà có một Kitô hữu lành lặn!). Nhưng chúng ta lại
không được coi thường tính chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên nếu thấy có
người dám chịu cắt bỏ một phần thân thể hầu cứu lấy sinh mạng của mình.
Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý để giữ
lại một điều quý hơn.
Chỉ ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất,
người ấy mới dám hy sinh mắt và tay chân, những gì vốn là tốt, nhưng nay lại
thành vật cản trở.
Có bao điều thiết thân, gắn liền với đời ta,
nhưng nay đã trở thành vật cản trở. Cả những điều ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn
tuyệt.
Chấp nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau. Bỏ một
tật xấu, một thói quen, một kế hoạch có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt
tay.
Nếu chúng ta can đảm thắng vượt nỗi đau, chúng ta
sẽ được tự do thanh thoát.
Nếu cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn. Giải
phẫu không phải chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế: thay ước muốn nơi trái tim,
thay lối nghĩ nơi bộ óc, thay cái nhìn nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi
tay.
Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn.
Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái tương
đối.
Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa
vời, và dứt khoát chọn Thiên Chúa là Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ
hôm nay chịu ảnh hưởng (nơi gia đình, trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương
xấu đó đã tác hại thế nào trên giới trẻ?
Bạn có kinh nghiệm gì về việc "chặt bỏ" một tật
xấu, một thói quen, hay việc "cắt đứt" một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành công
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong
con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con
thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để
cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con
thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận
tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải
chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập
sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu.
Amen.
7. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc
chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu
nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những
lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này
phạm tội, có nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu
giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây
lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu,
nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu
giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi
chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi
mạng sống con người.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu
giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng
chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn
đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã
rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.
Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như
chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với
tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản
thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé
lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được.
Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến
nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như
đánh mất chính sự sống.
Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt
lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người,
những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái
tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau
đớn vô cùng.
Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ
khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải
quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn
hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được
hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.
Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu
xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm
nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt
bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.
Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời
khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta
chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa
muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy,
biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.
8. Sống theo Thần Khí – Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
Làm sao để sống hạnh phúc, làm sao để sống tốt,
làm sao để hình thành quan điểm sống đúng đắn để qua đó một người có thể sống
bình an hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại?
I. Mọi sự tốt lành đều do Thiên Chúa mà có
Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng vượt lên tất cả,
Ngài là Cha của tất cả, là Đấng ban cho con người tất cả những gì con người đang
sở hữu hoặc đang có khả năng thực hiện. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Eldad
và Medad nói tiên tri ngay khi ở trong lều riêng của các ông, và cũng là Đấng
làm cho những người khác có tên trong danh sách mà đi ra nhập hàng ngũ cùng với
Môsê được nói tiên tri.
Giôsuê đã suy nghĩ và hành động với tinh thần phe
phái: nếu không ra gia nhập hàng ngũ như những người khác thì không được nói
tiên tri. Giôsuê đâu có biết rằng khi anh muốn cản người khác làm điều họ được
Thiên Chúa thúc đẩy, là vô tình anh đã muốn cản cả tác động của Thiên Chúa nữa.
Cũng tương tự vậy khi Yoan ngăn cản một người nhân danh Đức Giêsu mà làm phép
lạ, vì "người đó không là một trong chúng ta". Ai có thể làm phép lạ nếu không
phải chính Thiên Chúa đã làm phép lạ qua trung gian người đó. Đức Giêsu đã trả
lời Yoan: "đừng cản họ, vì nếu họ nhân danh Thầy mà làm phép lạ, thì họ cũng
không phải là kẻ chống lại Thầy". Ai không chống lại chúng ta, là thuận theo
chúng ta.
Tinh thần phe phái là tinh thần muốn loại Thiên
Chúa ra khỏi hành động của con người, hoặc muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Thực
ra Thiên Chúa ở trên tất cả, Ngài là Đấng cho tất cả, Ngài thuộc về tất cả để
tất cả được thuộc về Ngài. Tất cả tốt lành đều từ Thiên Chúa mà tới, đều do
Thiên Chúa mà có. Muốn độc quyền Thiên Chúa, muốn điều tốt chỉ từ phe phái của
mình, là muốn giới hạn Thiên Chúa, là muốn điều khiển Thiên Chúa theo ý mình. Tư
tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của con người, Ngài vượt trên tất cả.
II. Những người bám víu vào của cải đời này
Trần gian với những tiện nghi vật chất, là điều
người đời thường tham muốn. Người ta muốn sống hưởng thụ những thú vui vật chất,
thỏa mãn xác thịt. Người ta thường nghĩ rằng với tiền bạc, người ta sẽ có tất
cả. Tiền bạc giúp người ta có nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất, được người
đời kính trọng.
Người ta thường cho rằng, có tiền muốn gì mà
chẳng được: "đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của
tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công
lý". Với đồng tiền, người ta có thể mua chuộc được tất cả, lấy lòng được con
người, kể cả những người thế giá nhất, uy quyền nhất. Nếu một người đặt tiền bạc
là quan trọng, hoặc danh vọng là quan trọng, thì tiền bạc là một giá trị và
phương tiện có thể mua chuộc hoặc điều khiển được người đó.
Làm sao để con người có một bậc thang giá trị
đúng đắn, nghĩa là đặt tiền bạc danh vọng chức quyền vào đúng chỗ của nó. Trên
đời này, điều gì là quan trọng nhất, điều gì mà mỗi người phải chú ý để có thể
đạt được hạnh phúc trong cuộc sống? Nếu một người đặt sai bậc thang giá trị và
theo đuổi những điều không chính đáng, thì những người liên hệ với người đó khổ,
và chính người đó cũng không thể hạnh phúc. Chỉ những ai đặt Tuyệt Đối là một
giá trị tuyệt đối, và đặt tha nhân là một giá trị cũng gần như một giá trị tuyệt
đối, thì người đó mới sống hạnh phúc, và những người khác sống với họ cũng mới
hạnh phúc đích thực.
III. Dứt khoát với dịp tội
"Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy
chặt nó đi vì thà rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay
mà phải sa hỏa ngục". Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của
Ngài đối với tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!
Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các
tông đồ: "hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Thân xác có những
nặng nề của thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác
nếu người ta không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu
người ta không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt
chiên vượt qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do
tại sao Phêrô đã "không thể thức với thầy được một giờ". Những lề luật, thường
là những gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp
tội mà không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình
ở vào dịp tội.
Những tội phạm hình sự không có âm mưu, thường
xảy ra khi người ta trong cơn say hoặc nghiện; tránh say sưa cũng là tránh những
dịp tội, và cũng là tránh tội đối với một số người. Những người phạm tội trong
những trường hợp này thường được giảm khinh vì lúc đó họ không hoàn toàn tự do,
họ sống dưới những ảnh hưởng của thể xác mà không tự chủ hoàn toàn được. Những
trường hợp này rất khác với những hành vi của những người có âm mưu nhưng mượn
rượu hay một cớ nào đó để làm điều họ muốn làm, mà nếu họ làm lúc tỉnh thì họ sợ
sẽ lãnh hoàn toàn trách nhiệm. Dứt khoát với dịp tội, là lời dạy của Đức Giêsu
đối với con người của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, làm sao để sở hữu một bậc thang giá
trị đúng đắn? Làm sao để đánh giá đúng đắn thực tại trần gian, cụ thể là con
người và vạn vật?
2. Theo bạn, điều gì làm cho đương sự và người
khác khổ nhất? Tại sao?
3. Theo bạn, quan điểm lập trường sống nào làm
cho chính mình cũng như những người thân và những người sống với mình sống hạnh
phúc đích thực?
9. Hãy tránh xa dịp tội - Lm. Nguyễn Minh
Hùng
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất
quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm
cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ
người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay
đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải
vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy
chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai
chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt
đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà
phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề
tắt". Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của
tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ
có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần
phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không
chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo
Hội chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà
xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai
tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và
rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị
tật, bị què, bị cụt..., vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần
trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì man
r?. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.
Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều
ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công
giáo của Giáo Hội đòi phải "Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể". Sách Giáo lý
cho biết: "...Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm,
đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm
giá con người.
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt
bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với
luật luân lý" (GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự
sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu,
ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là
Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa
Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa
Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu,
khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho
thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác
định mối nguy hại có khi không nhỏ mà t?i l?i gây ra cho mỗi người. Qua đó,
Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc
chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ
đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không
khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về
mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh
cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống
vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy
sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là
lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích,
khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con
mắt... Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô
ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm
tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của
mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự
dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự
sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà
con người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu
rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con
đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một
tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội
làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu
kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em
nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu
sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ
to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ
mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng
nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh.
Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một
cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay, hay
chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào
Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân
nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức
tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì
tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể
đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự
chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối,
mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn.
Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội,
chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu
nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng
đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu
nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa... là những phương tiện
giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình
trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để
mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.
10. Tinh thần đại kết.
(Trích trong 'Niềm vui chia sẻ')
Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng
Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện "Chúa Giêsu đi xem
bóng đá" (trong tập truyện "Bài ca của loài chim" The Song of Bird) như sau:
"Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá,
chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin
Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu hoan hô vang
dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội
Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một
khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi
Ngài:
- Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả
lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: "Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả.
Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi". Người khán giả tỏ vẻ khó chịu
về thái độ của Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói
nhỏ: "Hắn ta là một tên vô thần!"
Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu:
"Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ
đứng về phía họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo của họ".
Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: "Đó là lý do tại sao tôi không ủng
hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi,
dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào".
Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang
sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông
Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy.
Tưởng là có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước
phán quyết của Chúa: "Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh
Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối
chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn
dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản
hai ông Elđát và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: "Anh ghen giùm
tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn
sứ!"(Bđ. 1).
Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức
lên án một tấm lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói
tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ
khép kín, phe nhóm như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. "Thần Khí
muốn thổi đâu thì thổi", "đừng dập tắt Thánh Thần". Không phải chỉ có Giôsuê của
thời Môisê hay Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo
vệ cái độc quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi
biến cố đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con
người luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính
mình, Cộng Đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính
mình, về thế giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn
là thái độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực
sự và đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân
lý chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái
chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn
hoá khác.
Cuộc "hoán cải" lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn
trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ
Thứ Ba. Trong Tông thư "Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba" (10/11/1994). Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi "Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về
tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh
Thần của Đức Kitô và Tin Mừng... Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của
Thiên Niên Kỷ mới mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối
về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì trệ... (số 34). "Trong số những tội
lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải
kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài.
Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội
"đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác" đã bị xé rách một
cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ
vấp phạm cho thế giới" (số 34).
Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn,
cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người
cộng tác vào những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn
chế, không loại trừ hay cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí.
Tinh thần quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng
buộc trong một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi
khác biệt, vì "Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai". Ở đất
nước ta đã không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh
mục, tu sĩ nam nữ, các Kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh
nhân, chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo... Có gì tuyệt cho bằng
chân lý yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin
Lành, Cao Đài, Công Giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được:
"Phàm ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô" (x.Mc 9,41). Bởi vì bất
cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ
hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa
thưởng công, dù chỉ một ly nước mát, một nụ cười tươi: "Ai cho anh em uống một
ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó
sẽ không mất phần thưởng đâu". Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành
động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn
nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con
đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm
thì "thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn". Chúa còn dùng kiểu
nói cường điệu: "chặt tay, cưa chân, móc mắt", nếu những chi thể quý báu ấy nên
cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì "thà cụt tay, què chân, mù mắt
còn hơn là phải vào hỏa ngục đời đời". Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống
đời đời.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho
mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em
hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử,
hành động, để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và
hành động phản chứng và gây gương mù. "Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy
chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để
có thể giới thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn
toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ
Hai. Muốn thế, cần phải nỗ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về
giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô
tha thiết kêu gọi trước khi chịu nạn: "Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên
một trong chúng ta" (Ga 17,21) (số 43).
11. Suy niệm của Noel Quesson.
AI KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG
TA
Một ni cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý
pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng
Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương
trước tượng Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang các tượng khác,
cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của
mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi
tượng trở nên đen thùi xấu xí.
Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở
nên nhỏ mọn khó coi.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu
không hài lòng về thái độ hẹp hòi của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm
tốn, phải nên tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng
với người đồng đạo, người Công giáo.
Nhưng các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này.
Chúng ta thấy chính Gioan, một Tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: "Thưa
Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản
anh ta, vì anh ta không theo chúng ta". Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng
ta cũng thấy cái tính hẹp hòi, không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa
Giêsu.
Chúng ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay,
tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập
thể. Có lúc các tín hữu chúng ta cũng khó chịu khi thấy có người ngoài nhóm
chúng ta mà cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường, những người không
theo Chúa Giêsu mà cũng dùng giáo lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó
đã đạt tới thành công. Đôi lúc có vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng
nhận ra được ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính mà người Công giáo ra
công gắng sức tập luyện mà chưa đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống
tốt, biết xả kỷ vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những
hành vi kia chỉ là vẻ bề ngoài hoặc là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa
đổi những suy nghĩ sai lầm ấy, Người cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại
Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận
Chúa, ai cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai.
Người không bị ràng buộc vào một băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin
Mừng của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng
diễn tả vấn đề này bằng kiểu nói khác: "Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì
thổi" (Ga 3,8).
Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân
ngoại (Cv 10,44). Chúa thông suốt mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn
đệ: "Không ai vừa nhân danh Thầy làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy", nghĩa là có
những lúc Chúa tỏ uy quyền của Người trên cả những người chưa phải là tín hữu
Kitô. Điều đó giúp chúng ta xác quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do
Chúa soi sáng thúc đẩy. Hiểu như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm
thiện chí để hợp tác, để đón nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan
báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa:
"Muốn cho mọi người được cứu và nhận ra Chân lý" (1Tm 2,4).
Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi
người, sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi
người. Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với
Chúa. Chúng con xin tạ ơn Người.
12. Dịp tội.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau
chia sẻ về dịp tội.
Câu hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?
Tôi xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm
cho chúng ta dễ dàng vấp ngã.
Câu hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối
với dịp tội?
Trước hết bản thân chúng ta không được trở thành
dịp tội cho người khác sai lỗi. Hay nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được
phép làm gương mù gương xấu cho người khác.
Rất nhiều lần chúng ta đã nói:
- Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình,
trái lại, chúng ta sống là sống với người khác.
Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta
lại ảnh hưởng đến nhau rất nhiều. Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để
lại một ảnh hưởng tốt. Trái lại, một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo
nên một hậu quả xấu nơi người chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:
- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
Hay như danh ngôn Tây phương cũng nói:
- Anh hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ
cho anh hay anh là người như thế nào.
Chính vì thế, chúng ta không được làm gương mù
gương xấu, trở thành dịp tội, trở thành cái cớ cho người khác vấp phạm.
Chúa Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với
kẻ làm gương mù gương xấu. Ngài nói:
- Nếu ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này
phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn.
Đang khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng,
góp phần làm cho Giáo hội được phát triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại
Giáo hội và làm cho Giáo hội bị giảm sút.
Ngoài ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh
những dịp tội.
Như trên chúng ta đã nói dịp tội là những hoàn
cảnh thúc đẩy khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục ngữ đã dạy:
- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày
đứt tay.
Hay như một nhà đạo đức đã xác quyết:
- Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm,
thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho
chúng ta.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp
tội thay đổi tùy theo mức độ hiểu biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một
cuốn sách, người này đọc thì thấy hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ
nặng nề về đức tin hay đức trong sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm
việc nọ việc kia là chúng ta bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ,
cân nhắc, bàn hỏi và lắng nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp
tội, bởi vì trước mỗi hoàn cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng
báo động và chỉ cho chúng ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải
tránh.
Tóm lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn,
chúng ta hãy can đảm xa tránh dịp tội, như lời Chúa đã phán dạy:
- Nếu mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó
đi, vì thà rằng chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt
mà bị quăng vào hỏa ngục đời đời.
13. Gương mù.
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa
Giêsu được thánh Marcô ráp lại với nhau:Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị,
ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn
đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù
là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã,
vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau
thôi, tức là gương mù gương xấu.
Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong
cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào
thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng
tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu
thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo
bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: "Mù dắt mù
cả hai ngã xuống hố". Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn
đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một
ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.
Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây
nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta.Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa
lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy
nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt
gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin. Làm tăng thêm số người tội
lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà
Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời
sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp mười lần số người các ngôn
sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như
vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển,
vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội
chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của
Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các
bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở
Palestine có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá
ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do Thái, và rất
kính sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh
này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng
lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục
của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi
cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết
người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và
chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương
mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.
Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức
tránh dịp tội, Chúa bảo phải "móc mắt, chặt tay, chặt chân", không phải là móc
mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay,
mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa
chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu
tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý
giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là
Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu
hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi,
cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy
ra. Cũng tương tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các
thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: "thà phòng bệnh hơn chữa bệnh", "đào vi thượng
sách". Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ",
mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao
đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê,
nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần
gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm
luân mà giữ mình cẩn thận.
Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù
gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội
hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này
và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
14. Suy niệm của JKN.
CÁM DỖ CỦA ÓC BÈ PHÁI VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG TÔN
GIÁO
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi thấy có người ngoài nhóm mình nhân danh
Thầy mình để trừ quỉ, các tông đồ khó chịu và muốn ngăn cản. Thái độ ấy có đúng
không? Nó nói lên não trạng gì? Não trạng ấy có hiện hữu trong các Kitô hữu hiện
nay không?
2. Các giáo phái Kitô giáo hiện nay có đoàn kết,
yêu thương nhau không? Đức Giêsu sẽ vui hay buồn khi thấy các giáo phái tuy đều
nhận mình là Chúa là Thầy nhưng lại nhân danh đức tin để nói xấu, kết án và loại
trừ nhau?
3. Đức tin có thể gây chia rẽ, nhưng đức ái chỉ
tạo nên đoàn kết. Giữa hai nhân đức quan trọng ấy, đức nào mới thật sự là điều
kiện để vào Nước Trời?
CHIA SẺ
1. Khuynh hướng bè phái và muốn độc quyền của các
tông đồ
Một trong những khuynh hướng rất thông thường nơi
con người, đó là óc bè phái và ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này được biểu lộ
nơi các môn đệ Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Trên con đường loan báo Tin
Mừng, các môn đệ Ngài thấy có những người không thuộc nhóm của mình lại nhân
danh Ngài mà làm được những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh... Theo quan niệm của
các ông, chỉ những ai ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy mình
để làm phép lạ, trừ quỉ, chữa bệnh... Nếu có ai khác làm điều ấy được, lập tức
các ông nhận thấy độc quyền của mình bị xâm phạm. Có lẽ các ông cảm thấy bực bội
vì điều ấy nên đã cố ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu đã tỏ ra không tán thành
khuynh hướng bè phái muốn độc quyền ấy của các ông.
2. Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi
người Kitô hữu
Trong đời sống Kitô hữu, nhiều khi chính chúng ta
cũng bị cám dỗ bởi não trạng bè phái và ham muốn độc quyền như các môn đệ Đức
Giêsu. Chẳng hạn những người cùng tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu
Chúa, theo thời gian, bị phân thành nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa
như thế là một việc hết sức tự nhiên nếu không muốn nói là tất yếu, vì tất cả
mọi tôn giáo, mọi trường phái tư tưởng, nghệ thuật, v. v... đều bị phân hóa theo
thời gian theo định luật đa dạng hóa của tự nhiên. Theo tôi, nếu không bị phân
hóa như thế thì đó mới chính là điều lạ thường. Đương nhiên, giáo phái nào cũng
tự cho mình là đúng đắn nhất, là gần với chân lý nhất. Tiếp xúc với các tín đồ
của nhiều giáo phái khác nhau, tôi không hề thấy một giáo phái nào lại cho rằng
có một giáo phái khác đúng hơn mình. Điều này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên hay
bất mãn chút nào!
Dù khác nhau - chủ yếu là trong tiểu tiết - các
giáo phái vẫn hết sức giống nhau trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và
tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Giáo phái nào cũng chủ trương phải sẵn sàng dấn thân theo Ngài với tất cả tình
yêu, lòng nhiệt thành của mình. Giáo phái nào cũng đều tuyên xưng: «Nếu miệng
bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho
Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9). Giáo phái nào
cũng chủ trương: «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa thì sẽ được cứu thoát»
(Rm 10,13).
3. Thật là một gương xấu vĩ đại
Nhưng thật là một điều trớ trêu và là một gương
xấu vĩ đại trước những người ngoài Kitô giáo, khi mà:
- một đằng Đức Giêsu - Đấng mà mọi giáo phái Kitô
giáo đều tôn thờ, đều nhận là Chúa, là Thày - đã tuyên bố: «Người ta cứ dấu này
mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).
- đằng khác, các giáo phái Kitô giáo lại coi nhau
như là ngoại đạo! Các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn
nhau, một vài trường hợp khủng bố lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô giáo phủ nhận
khả năng được cứu rỗi của những người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều
tin và tuyên xưng những điều căn bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào
cũng muốn hạn chế hoặc chỉ dành riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của
mình! Đó là điều tôi lấy làm lạ, làm ngạc nhiên hết sức, và không thể chấp nhận
được!
Đây quả là một gương xấu vĩ đại, một điều mỉa mai
cho Đức Giêsu và cho tất cả các giáo phái Kitô giáo, vì gương xấu này là một
phản chứng nặng nề đối với những người ngoài Kitô giáo, khiến họ không thể chấp
nhận được một tôn giáo như thế! Ước gì các giáo phái Kitô giáo đều đọc và suy
nghĩ câu Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai làm cớ cho một trong
những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà
ném xuống biển còn hơn».
4. Coi chừng chính kẻ kết án lại là kẻ độc ác,
thiếu tình thương
Khi nghe một người Kitô hữu thuộc một giáo phái
nào đó quả quyết chắc chắn rằng những Kitô hữu trong những giáo phái khác với họ
đều không được cứu rỗi, thì tôi hỏi người ấy: «Vậy anh có muốn điều anh quả
quyết như thế là đúng không?» Nếu anh ta trả lời rằng muốn, thì tôi nói: «Vậy
thì anh quả là độc ác! Một đằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu
rỗi (x.1Tm 2,4), Còn anh lại muốn chỉ những ai trong giáo phái của anh mới được
cứu rỗi. Anh sẵn sàng chấp nhận những người khác giáo phái của anh không được
cứu rỗi, tức sa hỏa ngục. Vậy thì anh mới chính là người đáng sa hỏa ngục đầu
tiên, vì nơi anh không có tình thương! Vì tình thương mới là điều quan trọng
nhất phải có để vào thiên đàng, để hợp nhất với Đấng mà bản chất là tình
thương».
Nếu anh ta mong rằng điều anh ta nghĩ là sai, thì
tôi bảo: «Như vậy là anh rất nhân từ, có tình thương! Tốt lắm! Phần tôi, tôi
chắc chắn rằng Thiên Chúa còn nhân từ và nhiều tình thương hơn anh gấp tỷ lần.
Ngài có đủ quyền năng và đủ cách để giải quyết cho những Kitô hữu khác giáo phái
với anh được cứu rỗi. Vì thế, anh hãy phó mặc số phận của những người theo giáo
phái khác trong tay Chúa và hãy an tâm! Anh hãy lo cho chính bản thân anh thì
tốt hơn, vì nếu anh không có tình yêu, anh không thể vào thiên đàng được đâu!
Điều Chúa muốn nơi anh chính là anh hãy coi các Kitô hữu khác giáo phái với anh
là đồng đạo, và coi cả những người khác tôn giáo với anh nữa là anh em. Anh hãy
yêu thương họ và hãy mong ước những điều tốt lành nhất cho họ!»
5. Điều quan trọng nhất để vào được thiên đàng là
tình yêu
Điều quan trọng để vào được thiên đàng là đức
tin. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay
đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến»
(1Cr 13,13). Khi lên thiên đàng, đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết
nữa, chỉ riêng «đức mến không bao giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định
nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình
thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ
làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần
đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46, khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử
của ta có tình thương hay không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết,
chúng ta dễ hạnh phúc ở bên những người biết yêu thương hơn là bên những người
có niềm tin. Thực ra, niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế giới
này đã từng điêu đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí ngày
nay vẫn còn. Những cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu đức
tin cho bằng thiếu tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ (tức
thiếu tình thương) sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân của
chiến tranh. Vì thế, đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến mới là
đức tin đích thật. Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm tin giả
tạo, tương tự như «đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Như
vậy, một Kitô hữu có đầu óc bè phái, muốn độc quyền được cứu rỗi, nghĩa là muốn
loại trừ những Kitô hữu khác giáo phái mình, không muốn họ hưởng hạnh phúc đời
đời, thì Kitô hữu ấy rõ ràng là thiếu tình thương. Mà thiếu tình thương thì làm
sao vào thiên đàng được?
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con một đức tin đích thực nơi
Cha và nơi Đức Giêsu. Đức tin đích thực tự bản chất phải bao hàm tình yêu ở bên
trong. Không bao hàm tình yêu, đức tin đó chỉ là đức tin giả tạo, là nguồn phát
sinh óc bè phái, óc độc quyền, cũng là nguồn phát sinh nên bao cuộc chiến tranh
tôn giáo trên thế giới. Xin ban cho con tình yêu đối với mọi người chung quanh
con, đặc biệt đối với tất cả những ai tin theo Đức Giêsu, như dấu chỉ đặc trưng
cho người môn đệ đích thực của Ngài.
15. Ghen tức.
Qua phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi
nhận hai nhân vật, đó là Giôsuê và Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một
thái độ, đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là lòng ghen tức.
Nhân vật thứ nhất là Giôsuê. Ông đã được Maisen
tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái băng qua sa mạc cát
nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất hứa, chiếm lại phần lãnh
thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen tức vì hai ông Eđát và
Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen ngăn cản, nhưng Maisen
đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.
Nhân vật thứ hai là Gioan. Ông là vị tông đồ trẻ
tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy những người khác nhân
danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng đã có một chút ghen tức
và đã ngăn cấm họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của mình được độc quyền. Và như
chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân quan niệm ấy
Từ thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta
chúng ta có thể rút ra một định nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người
khác được may mắn và vui mừng khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu
xét mình, chúng ta sẽ thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng
ta. Một người bạn thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi
nói hành nói xấu người bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng
ta ghen tức, nhưng chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.
Thực vậy, người có tính ghen tức không bao giờ
được hạnh phúc cả. Tôm hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không
đâu. Người bạn có bộ quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được
thiên hạ khen cũng làm cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của chúng
ta sẽ trở thành đề tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù đi ăn
xin. Ông này nghe người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một buổi
sáng, ông này nghe thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi cũng gân
cổ lên để mà hát. Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết rằng mình
hát hay. Thế nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ thật đồ
điên.
Thái độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi
nặng nề khác nữa, chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến
cả tội giết người. Vì thế, ghen tức đã được liệt vào trong bảy mối tội đầu, là
như những căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.
Như chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu
thương khiến cho các người anh ghen tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ
của mình. Nào là những bó lúa của các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse.
Nào là mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao sụp lạy Giuse...Từ thài độ ghen
tức ấy, những người đã anh tìm cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn
và sau cùng đã bán Giuse cho phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai
cập. Rồi lấy áo choàng của Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp
biết là Giuse đã bị thú dữ ăn thịt.
Những người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa
Giêsu, nên họ đã cáo gian Chúa trước tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào
thập giál
Để dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình
vào nếp sống của người khác: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt
chước thánh Gioan Tiền Ho, đã không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm
sút, trong khi uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã
nói:
- Tôi phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi
không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Hãy để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy
trở nên như đày tớ phục vụ người khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc
sống thường ngày, đó là hãy vui cùng người vui và hãy buồn với người buồn.
16. Phe này cánh nọ - Anmai
Con người, tự lâu lắm rồi, đã mang trong mình cái
đầu óc bè phái. Thấy người khác, nhóm khác thành công hơn mình, làm được việc
hơn mình thì không chịu cố gắng, nỗ lực để được như người khác, nhóm khác. Hành
động của những người ấy hết sức buồn cười là họ dèm pha, chỉ trích, nói hành,
nói xấu.
Một kinh nghiệm hết sức thực tế ngay ở dân tộc Do
Thái. Thuở xa xưa, khi đưa dân Do Thái ra khỏi nô lệ của Ai Cập thì Thiên Chúa
đã nhờ đến bàn tay của Môsê. Ông quá vất vả với đám đông ô hợp. Mệt mỏi quá nên
ông than thân trách phận với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nghe lời than vãn ấy,
Thiên Chúa sợ ông phải cán đáng công việc một mình mệt nhọc nên Thiên Chúa đã
gọi Môsê và truyền cho Môsê quy tụ 70 kỳ mục lại để cộng tác với Môsê.
Khi Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên 70 người
thì có 2 người trong nhóm họ tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã
được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều như sách Dân Số vừa
thuật lại. Vì lý do nào đó không đến lều nhưng Thần Khí của Thiên Chúa vẫn đậu
xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Thấy sự kiện như
vậy, Ông Giô-suê con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng
nói với ông Mô-sê: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!" Nhưng ông Mô-sê trả lời:
"Anh ghen dùm tôi à?"
Thế đấy, ông Giô-suê đã ghen tương khi thấy Thần
Khí đậu trên 2 người kia khi họ còn ở trong trại và xin Mosê ngăn cản 2 người
ấy. Với Môsê thì khác, Môsê đã mắng rằng họ đã ghen tuông với 2 người ấy.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô
thuật lại hình như cũng mang âm hưởng của sự ghen tuông. Các môn đệ đã ghen
tuông khi những người không thuộc nhóm với Chúa Giêsu, không thuộc nhóm các môn
đệ mà trừ được quỷ.
Nếu để ý trình thuật trước trình thuật này bối
cảnh là "ở nhà", nơi đó Chúa Giêsu "ngồi" giảng dạy cho các môn đệ. Thánh ký
Máccô tiếp nối khung cảnh bằng cách chuyển mạch từ câu hỏi của môn đệ Gioan nhằm
trình bày những giáo huấn mới của Chúa Giêsu.
Phải chăng việc gợi nhắc Gioan ở đây nằm trong
dụng ý của thánh ký liên hệ đến một vấn nạn dù nhiệt tình song cũng không ít
phần cục bộ: "lấy danh Thầy mà trừ quỉ, nhưng hắn lại không theo chúng tôi, và
chúng tôi đã cố ngăn cản vì hắn không theo chúng tôi". Vì chưng, trong một
truyền thống khác chỉ có trong Tin Mừng Luca (Lc 9,54), chính Gioan và anh mình
là Giacôbê đã đòi khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt dân Samaria không đón
tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ.
Trong thời đại của Chúa Giêsu việc chữa bệnh bằng
cách trừ quỉ cũng được một số người Do Thái thực hành. Sử gia Flaviô Giôsêphê
(Antiquités VIII, 46t) có kể lại trường hợp một người Do Thái tên là Elêazar
chuyên chữa bệnh bằng một việc trừ quỉ rất mê tín và phù phép nhân danh vua
Salômon.
Ở đây, thánh ký đề cập tới việc trừ quỉ nhân danh
Chúa Giêsu, gợi nhắc đến bối cảnh thời Giáo hội sơ khai, ở đó việc trừ quỉ được
coi là khá thịnh hành.
Sách công vụ tông đồ 8,19-24 có kể lại trường hợp
Simon phù thủy muốn mua ở Phêrô quyền làm các phép lạ. Sách Cv 19,13t cũng trình
thuật câu chuyện một số người Do Thái trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu: "Có ít người
trừ tà rong đường, gốc Do Thái, cũng đã thử kêu danh Chúa Giêsu trên những người
có quỉ ám" (Cv 19,13).
Cách miêu tả: không theo chúng tôi là một chi
tiết biên soạn đậm nét thời Giáo hội sơ khai ở đó công đoàn các Kitô hữu tiếp
tục quanh quẩn bên nhóm môn đệ, những kẻ đã từng theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nói: "chớ ngăn cản người ấy, vì không
có ai nhân danh Ta làm phép lạ, rồi lại có thể vội nói xấu Ta. Vì ai không chống
cự chúng ta là ủng hộ chúng ta, Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước, vì danh
nghĩa các ngươi thuộc về Đức Kitô... nó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Câu
39-41).
Sự kiện các môn đệ muốn ngăn cản những kẻ không
theo họ, gợi nhắc tinh thần hẹp hòi của họ sánh với cái nhìn của Thầy họ. Từ đó,
Chúa Giêsu đã dựa vào suy tư của các môn đệ để đưa ra những lời dạy nhằm khơi mở
tâm hồn họ. Trong bối cảnh Chúa Giêsu đang tiến về cuộc khổ nạn cũng như đang
đối diện với phe Biệt phái ký lục tìm cách hãm hại Người, câu trả lời của Chúa
Giêsu (câu 39) có thể được hiểu như sau: một kẻ nại đến Ta, nhân danh Ta, dựa
vào sức mạnh của Ta để làm phép lạ, thử hỏi Người đó có thuộc về phe Biệt phái
ký lục không? Thử hỏi kẻ ấy có chủ ý tìm cách hãm hại Ta không?
Cách miêu tả: vội nói xấu ta Gợi nhắc rằng việc
làm các phép lạ và trừ quỉ... chưa hẳn diễn tả được một cách dứt khoát đức tin
bền vững vào Chúa Giêsu.
Dầu sao, trong nhãn quan thần học của Maccô, câu
trả lời trên của Chúa Giêsu nói lên chủ đích của Người muốn các môn đệ hiểu thái
độ thiếu nền tảng của họ. Vì chưng, "ai không chống đối chúng ta, là ủng hộ
chúng ta" (câu 40).
Làm sao dung hợp được kiểu này và câu nói được
trình bày ở Tin Mừng Matthêu cũng như ở Luca: Bản Mt 12,30 viết: "Ai không đi
với Ta, tức là chống lại Ta. Kẻ không cùng Ta thu họp tức là làm tan nát" (x. Lc
11,23). Phải chăng đây là bằng chứng của các truyền thống mâu thuẫn nhau?
Một lần nữa, độc giả Tin Mừng được mời gọi để
hiểu những lời của Chúa Giêsu trong mạch văn biên soạn tùy theo nhãn quan thần
học của thánh ký.
Như vậy, mạch văn ở đây của Máccô là gì? Đó là sự
mời gọi của Chúa Giêsu ngỏ cho các môn đệ biết theo chân Người làm tôi tớ mọi
người (câu 35c), nhất là những ai thấp hèn hơn. Nếu Người đã từng nặng lời kết
án phe Biệt phái ký lục và Hêrôđê như những kẻ mù quáng đối nghịch lại với
Người, thì ngược lại, Người cũng luôn tỏ bày khuôn mặt của Đấng Thiên sai mang
ơn cứu độ cho hết mọi người, Do Thái hay dân ngoại. Thế nên, chỉ có những kẻ chủ
ý chống lại Người, phủ nhận quyền năng của Người, sẽ phải hụt mất cơ may cứu độ.
Còn bất cứ ai không chống lại quyền năng của Người, cũng như muốn làm những sự
thiện nào đó, đều được mời gọi để tin theo Người...
Lồng kết vào trong bối cảnh thời Giáo hội sơ khai
ở đó Tin Mừng Maccô được biên soạn, kiểu này ngỏ cho các môn đệ và qua đó cho
cộng đoàn Kitô hữu của sơ thời cũng như của mọi thời, như là lời mời gọi họ biết
vượt qua tinh thần ích kỷ hẹp hòi phe phái. Vì chưng những ai theo Chúa không
được phép trở thành những nhóm đóng kín, kẻo có nguy cơ sống trái ngược với tinh
thần của Thầy họ. Ai tự cho mình là môn đệ đích thực của Đức Kitô và ai dám kết
án người khác không phải là môn đệ của Người? Ai dám xác quyết rằng quyền lực
cứu độ của Người chỉ tỏ bày cho họ chứ không cho kẻ khác? Ai có thể biết được
quyền lực đó hoạt động như thế nào nơi người khác không?
Đang khi đó về bản văn của Matthêu và Luca: Nếu
các Tin Mừng này trình bày một kiểu với ý nghĩa đối chọi, chính vì mạch văn đổi
khác. Nơi Matthêu chẳng hạn, mạch văn nói về ý nghĩa vẫn đục của nhiều kẻ gán
quyền lực trừ quỉ của Chúa Giêsu như xuất phát từ Satan. Hơn nữa trong bối cảnh
của cộng đoàn mà Tin Mừng Mathêu được biên soạn, mối bận tâm nằm ở tầm vóc nội
bộ cộng đoàn: "không phải mọi kẻ nói với Ta, Lạy Chúa, là sẽ vào được nước Trời"
(Mt 7,21).
Trở lại với mạch văn Máccô người môn đệ của Chúa
Giêsu được kêu mời ý thức sâu sắc về tâm nhìn cứu độ phổ quát của Người. Họ cần
biết vượt thoát tinh thần phe nhóm để thấy được nơi mỗi sự thiện, mỗi sự góp
phần tích cực nào đó như là khởi điểm cho ơn cứu độ, cho sự đón nhận Tin Mừng.
Vì chưng, như đã được gợi nhắc ở trước trong Tin Mừng, sự thiện thuộc về Thiên
Chúa, Đấng đã nhìn thấy mọi sự Ngài sáng tạo đều tốt lành quá đỗi.
Nhìn vào cuộc sống của chúng ta, cái máu phe
nhóm, cái máu cục bộ nó len lỏi vào trong đầu của con người chúng ta lúc nào
không hay.
Tâm trạng phe nhóm rất dễ thấy nơi các công sở,
xí nghiệp và ngay cả trong gia đình. Chẳng hiểu vì sao và lúc nào mà tinh thần
cục bộ, phe nhóm, bè phái nó đã len vào trong gia đình, trong công sở, trong xí
nghiệp. Nhìn ở góc độ nào đi chăng nữa thì tinh thần cục bộ, óc bè phái và phe
nhóm vẫn mang yếu tố tiêu cực hơn là tích cực dẫu rằng có chuyện thi đua để cho
mọi sự nên tốt. Con người vẫn mang trong mình những giới hạn để rồi nhóm này
thành công thì nhóm kia sẽ thất bại và rồi hai bên cứ kình địch nhau mãi. Tốt
hơn hết là ta nên dung hoà và ta nên cùng làm việc chung với nhau chứ đừng vì hư
danh mà ganh tỵ.
Anh em vẫn dùng cơm chung với nhau, thi thoảng
Cha Sở đã nhắc nhở anh em nên sống công bằng, sống cư xử mọi người như nhau chứ
đừng tạo phe nhóm, đừng tạo nên não trạng cục bộ. Chắc có lẽ kinh nghiệm với
biết bao nhiêu năm sống cộng đoàn, giúp mục vụ nên Cha Sở đã thấy được những tổn
thương, những thiệt hại của tinh thần bè phái, phe nhóm và cục bộ.
Mỗi thành viên góp phần cho sự phát triển của gia
đình và cộng đoàn. Nếu từng thành viên ấy chung tay góp sức lại thì gia đình,
cộng đoàn ấy vững mạnh và hạnh phúc. Nếu như gia đình, cộng đoàn nào gặp phải
tình trạng phe nhóm thì buồn thật vì khi ấy, căn nhà, cộng đoàn ấy cứ mãi bị
khập khiễng do sự ganh ghét, hơn thua của phe này nhóm nọ.
Thiệt hại về phe này cánh nọ chúng ta thấy hết
sức bi đát. Dẫu bên ngoài họ có che lấp bằng những vẻ đẹp hào nhoáng đi chăng
nữa nhưng bên trong nội bộ vẫn là sự bất an. Bất an là vì một bên thì cố gắng
hết sức thủ cho mình hết chiêu này đến thức nọ để bảo vệ cho phe của họ còn phe
kia thì cứ rình rập xem phe kia có sơ hở gì không và nếu có sơ hở là họ bắt đầu
chỉ trích, bắt đầu lên án, bắt đầu dèm pha như các môn đệ hôm nay trong Tin
mừng.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Vua của Bình An, Vua của
Hiệp Nhất đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta dẹp bớt đi cái tôi của
mình, dẹp bớt đi cái não trạng bè cánh để cộng đoàn, gia đình chúng ta được bình
an và hạnh phúc hơn.
17. Dịp tội.
Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa
Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quí giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác
vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu
cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho
môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên
lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm
cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm
gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài, thì Ngài không bao giờ
bỏ qua đâu.
Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng
của việc ấy, Ngài bảo rằng: "Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu". Gương mù gương
xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta.
Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên
dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn
làm cho kẻ khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-Na Vô-gan gặp một
hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm
thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để
ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha
Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: "Này ông, ông còn quên cái gì đây này". Người
đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: "Quên cái gì đâu?". Cha Vô-gan nói với
giọng tử tế nhưng cứng rắn: "Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong
toa". Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho
người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối
đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng
trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và
những tội chính họ phạm nữa.
Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người
khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên
phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời
đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của
con người đều quí giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay,
một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một
phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng
hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải
phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống
hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y
khoa.
Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính
là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt
nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói
rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân, móc mắt, không có nghĩa là chặt tay,
chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có
thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ
ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào
đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù
có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng
vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với
người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội... thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải
cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong
năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.
Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích.
Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo
môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và
việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà
nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì
chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp... đều
chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó
là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì
nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lời lãi
cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và
thực hành bài học hôm nay.
18. Lời khuyên.
Tin Mừng nêu ra nhiều điểm rất quan trọng có tính
thực hành. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu gởi đến các người lãnh đạo trong
cộng đoàn nhưng chúng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.
1. Các Tông đồ đề cập đến một người không lấy tư
cách đoàn thể của họ, để chữa lành dân chúng nhân danh Đức Giêsu. Các ông tìm
cách ngăn cản người ấy. Tại sao? Bởi vì các ông ganh tị quan hệ đặc biệt của
người ấy với Đức Giêsu (có một ví dụ tương tự trong Bài đọc 1). Chúng ta nhớ đến
thái độ hẹp hòi của chúng ta đối với các Kitô hữu thuộc các Giáo hội khác trước
Công đồng Vaticanô II.
Nhưng Đức Giêsu nói: "Đừng ngăn cản người ta ".
Sự kiện người ấy nhân danh Người có nghĩa là người ấy không chống lại các Tông
đồ. Kế đó Đức Giêsu cho họ một bài học về sự cởi mở và lòng khoan dung. Thật
vậy, mọi lời cầu nguyện trong thánh lễ, và trong mọi bí tích được cử hành nhân
danh Đức Giêsu và quyền năng của Người. Nhưng người Công giáo không độc quyền về
Đức Giêsu.
Một số người e ngại các ơn huệ và thành tựu của
những người khác. Nếu như họ có một thái độ cởi mở hơn hẳn họ sẽ thấy mình được
phong phú thêm thay vì giảm bớt đi bởi những ơn huệ ấy. Người nào khác tôi không
thu nhỏ tôi nhưng làm tôi thêm phong phú. Thiên Chúa ban phát những ơn huệ của
Người một cách tự do. Trách nhiệm của chúng ta là vui mừng tiếp nhận những ơn
huệ ấy dù chúng xuất hiện nơi đâu.
2. Đức Giêsu đã nói rằng ai cho những người bé
mọn dù chỉ một chén nước lã sẽ được tưởng thưởng. Một chén nước lã là tượng
trưng cho một loại công việc tốt lành nhỏ bé. Ít người trong chúng ta có cơ hội
làm những việc lớn. Nhưng cơ hội cho một chén nước có thể đến với chúng ta nhiều
lần trong một ngày. Một hành động nhân từ nhỏ bé có thể biến đổi một mùa đông ít
nhất thành một khoảnh khắc mùa hè cho một người khác.
Không cần có những hành vi to lớn để có thể giúp
đỡ và an ủi con người mà hành vi ấy nhắm đến. Chỉ cần những sự nồng ấm. Mọi hành
vi xuất phát từ tâm hồn đều có sự nồng ấm ấy.
3. Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp
ngã – làm cho người khác phạm tội. Người tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống
lại những người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Người đi lạc lối. Khi chúng ta nghĩ
đến những tội ác mà người ta gây ra cho các trẻ em hôm nay, dù là qua sự thờ ơ
hay lạm dụng thì lời cảnh cáo của Đức Giêsu chúng ta phải coi là rất quan
trọng.
4. Rồi Đức Giêsu nói đến nguyên nhân của tội nằm
trong chính chúng ta. Một kẻ thù của con người nằm trong chính con người. Những
cơ hội gây ra tội phải bị đoạn tuyệt không chút thương tiếc. Đức Giêsu khuyên
người ta phải thực hiện những hy sinh đắt giá nhất để tránh xa tội lỗi, kể cả
phải cắt bỏ tay chân hoặc móc mắt mình.
Những lời này không thể được hiểu sống sượng theo
nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội
nặng bằng bất cứ giá nào. Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm
được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Người là in sâu
vào tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xóa được, rằng nước Thiên Chúa đáng cho
chúng ta hy sinh mọi thứ khác.
5. Đức Giêsu nói về hỏa ngục và so sánh nó với
Ghê-hen-na, Ghê-hen-na là một hẻm núi ở phía nam Giêrusalem. Có một thời, người
ta giết các trẻ nhỏ ở đó để tế thần Mô-lốc. Giô-xua đã chấm dứt việc thờ cúng
đó, và sau này nơi đó dùng làm nơi đổ rác và xác thú vật. Là một mảnh đất báo
điềm gở, nó trở thành biểu tượng cho nơi trừng phạt sau này.
Và lúc nào cũng thế, Lời Đức Giêsu đem lại cho
chúng ta nhiều điều để suy nghĩ. Nếu chú ý đến Lời Người, những việc chúng ta
làm sẽ trở nên tốt đẹp.
19. Tảng đá.
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao
giờ hết. Vì thế, ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn hơn. Dù chúng ta có
biết điều đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp ngã hoặc viên đá giúp
cho người khác vượt qua trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc. Ở đây xin đưa ra
một vài thí dụ về việc chúng ta có thể là cố gây ra sa ngã hay tảng đá gây vấp
ngã cho người khác.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn không tử tế
hoặc bất công trong cách đối xử với tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy rằng tôi là
người xấu.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn làm tôi bị
sỉ nhục chỉ vì tôi không sống theo những gì bạn mong mỏi. Bạn làm tổn thương
lòng tự hào của tôi và làm hại hình ảnh mà tôi có về mình.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn hạ thấp tôi
và đẩy tôi ra phía sau. Khi bạn đứng dưới ánh đèn sân khấu, còn tôi buộc phải
lùi về làm cái bóng của bạn. Điều này làm tôi cảm thấy mình thấp kém.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn loại trừ
tôi hoặc không biết đến tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy mình là một người xa lạ
hoặc một người ở bên lề.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn luôn phê
bình tôi một cách bất công làm tôi chua cay vì sự vô liêm sỉ của bạn. Bạn làm lý
tưởng tôi sụp đổ và phá hủy những mơ ước của tôi.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn trả tiền
lương ít ỏi cho tôi (xem Bài đọc 2). Bạn biến tôi thành nô lệ để bạn có thể sống
như một ông hoàng. Bạn làm tôi nghèo đi để làm giàu cho bạn.
Nếu bạn làm những điều đó cho tôi, bạn là bóng
tối đối với tôi. Bạn là một trở ngại trong đường lối của tôi. Bạn là một cớ gây
vấp ngã, một tảng đá làm tôi vấp ngã trên con đường phát triển của bản thân, và
bạn làm cho tôi khó đến được Nước Trời.
Nhưng bạn cũng có thể là viên đá vượt qua cho
tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn nâng đỡ
tôi trong những lúc yếu đuối và nghi ngờ.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn làm tôi
tin vào chính mình, khi tăng thêm niềm tự tin cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi tôi cảm thấy
không đầy đủ, nhưng bạn giúp tôi khám phá các khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa đã
ban cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn đòi hỏi
thách đố mà không làm tổn thương tôi, trái lại giúp tôi trưởng thành và phát
triển tiềm năng của mình.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn chấp nhận
tôi, dù những người khác bỏ rơi tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn từ chối
hùa theo đám đông để ném viên đá buộc tội và phán xét tôi khi tôi phạm tội.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn tha thứ
cho tôi. Bạn giải thoát cho tôi khỏi quá khứ của tôi, và tôi được tự do để lại
tiến bước.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn sử dụng
tôi và trả lương cho tôi một cách công bằng.
Nếu bạn làm cho tôi bất cứ điều nào như thế, bạn
là ánh sáng cho tôi trong bóng tối. Bạn là một bảng chỉ đường cho tôi trong
những lúc nghi ngờ. Bạn là một cái cầu bên trên dòng nước lo âu, bối rối. Bạn
làm cho việc vào Nước Trời của tôi được dễ dàng hơn.
Đức Giêsu nói nếu bạn đã cho tôi dù chỉ là một
chén nước lã, bạn sẽ được tưởng thưởng về điều đó. Nhưng bạn đã làm nhiều hơn
thế. Bạn đã dẫn tôi đến giếng nước của bạn và chia sẻ với tôi.
20. Hướng tâm hồn lên
Cha Zundel đã có định nghĩa nghe rất lạ tai nhưng
cũng rất hay rằng: "Thiên Chúa là khi bạn tốt". Nói như thế có nghĩa là bất kì
khi nào chúng ta "tốt", chúng ta đều là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, trong
suốt với Thiên Chúa và trở nên giống Thiên Chúa mọi đàng. Nhưng thế nào là tốt?
Một người được gọi là tốt thì phải như thế nào? Nếu liệt kê từng chi tiết nhỏ
thì có lẽ chúng ta không thể ra hết được. Nhưng chúng ta có thể nói, một người
tốt là người sống theo tinh thần Phúc Âm, mà cụ thể là sống theo tình yêu thương
như Chúa đã yêu.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta một tiêu chuẩn, một
phương thế để sống tình yêu là không ghen tị và ghen tương; không sống tinh thần
cục bộ. Biết sống đoàn kết trong tổ chức, trong nội bộ của mình là tốt, nhưng
chưa đủ. Do đó, chúng ta còn phải biết hướng nhìn về những người khác nữa. Nói
cách khác, chúng ta không được phép loại trừ những người khác phe nhóm với mình,
khác tổ chức của mình. Chúng ta cần phải sống tinh thần mà Chúa Giêsu dạy chúng
ta hôm nay: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Các tông đồ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng phạm
phải tội ghen tương và đầu óc cục bộ khi thấy có những người không thuộc nhóm
các ông lại nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Các ông nói với Chúa Giêsu câu
chuyện ấy với ý định là nhờ Chúa Giêsu cấm những người ấy không được phép làm
những chuyện mà các ông đang làm nhân danh Chúa, vì các ông nghĩ rằng chuyện trừ
quỷ là ân huệ chỉ dành riêng cho ông mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không những không
làm theo ý các môn đệ của mình mà còn sửa dạy các ông, giúp các ông biết mở lòng
ra và hướng tâm hồn lên để "nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn
thiện".
Ghen tị, ghen tương, đầu óc cục bộ không làm cho
con người ta lớn lên được mà chỉ quanh quẩn trong những chuyện nhỏ nhặt, kéo ghì
con người xuống. Vì thế, chúng ta rất cần sống tinh thần vui với người vui, khóc
với người khóc mà Thánh Phaolô đã dạy chúng ta. Điều này, mới nghe tưởng dễ
nhưng thực hành là điều rất khó. Có thể, chúng ta "khóc với người khóc thì dễ
hơn vì khi đó, chúng ta thấy mình ở trên người khác; may mắn hơn người khác,
thành công hơn người khác... Nhưng vui với người vui thì khó hơn nhiều. Bởi lẽ,
khi thấy người ta thành công hơn mình, may mắn hơn mình, ở vị trí cao hơn mình
thì khó lòng mà vui theo người ta được lắm. Nếu có thì chỉ ơ bên ngoài mà thôi,
còn trong lòng có thể mình đang bực tức lắm đây. Con người ta phức tạp lắm. Vì
thế, chúng ta cần phải hướng tâm hồn lên, bay cao lên trên những tình cảm tự
nhiên của chính con người mình để chúng ta không bị lệ thuộc vào những chuyện
nhỏ nhen, ích kỷ nơi ta, là nguyên dân làm tâm hồn ta không thể nâng lên cùng
Chúa được.
Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy
ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng
vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.
Để chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập
hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ
quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy
nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ
hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt
mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn
người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở
miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong
lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu
người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn
hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố:
"Tôi xin được móc một con mắt...!". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người
tham lam sẽ bị móc hai con mắt.
Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và
chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta.
Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về
người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.
Tình trạng phe này đối nghịch với phe khác, đoàn
thể này không hợp với đoàn thể kia... hình như ngày nay càng càng gia tăng, đặc
biệt là trong xã hội văn minh và hiện đại như hôm nay. Ai cũng muốn cho công
việc của mình là độc quyền, không ai có thể thay thế được. Sợ rằng mình bị mất
ảnh hưởng, sợ mình không còn được ai nhắc đến, cần đến hay hết còn được đề cao
nữa. Có một số người nhất quyết không truyền lại "nghề" của mình cho bất cứ ai
dù là con hay cháu của mình. Gần đây, chúng ta chắc có nghe đến chuyện hai tập
đoàn viễn thông Viettel và Mobifone kiện cáo nhau vì cho rằng đối tác của mình
"chơi xấu" mình khi cố tình nói ra những chuyện không tốt của nhau, để rồi cuối
cùng ai cũng bị thiệt hại nặng nề cả! Vậy mà họ vẫn thấy vui khi mình chỉ ra
được cái xấu của người khác. Một niềm vui không quân tử và không thánh thiện
chút nào!
Chúng ta cũng dễ thấy tình trạng tôn giáo này nói
xấu tốt giáo khác, mục đích là loại trừ người khác và để nâng mình lên. Thật ra,
truyền giáo bằng cách nói xấu đạo khác, chê bai, chỉ trích người ta thì chắc
chắn không được ai kính trọng và nể phục bao giờ. Đó là chuyện làm của trẻ con
quen làm, chuyện của những đầu óc tiểu nhân, suốt đời chỉ mong làm những chuyện
chia rẽ, hạ bệ, gây đau khổ cho người khác.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy sống hết lòng
cho tình yêu của Chúa và vui lòng chấp nhận anh em mình với những hoàn cảnh và
tình trạng của họ đang có. Đó là thái độ khôn ngoan của con người và là phương
cách tốt nhất giúp ta nâng cao tâm hồn mình lên để đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Chúng ta hãy trở nên tốt để chúng ta được chia sẻ hạnh phúc êm đềm với Chúa mãi
mãi, vì "Thiên Chúa là khi bạn tốt". Amen.
21. Kitô hữu trước điều thiện và điều ác
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin nhận Đức Kitô không chỉ là đi theo Ngài đến
những nơi mà Ngài đã đi qua, mà còn là tham dự vào cách sống của Ngài, tức là
thực thi giáo huấn của Ngài. Cụ thể giáo huấn của Ngài hôm nay là giáo huấn về
điều thiện và điều ác.
- Chúa Giêsu đề cao giá trị các việc thiện, dù
việc thiện ấy do bất cứ ai làm và nhỏ đến đâu đi nữa. Ngày nay, người ta lên án
nhiều về mọi hình thức độc quyền: độc quyền về điện nước, độc quyền về xăng dầu,
độc quyền về sách giáo khoa,... Những thứ độc quyền này đã và đang hành hạ người
dân và làm tê liệt sự phát triển về kinh tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác
nữa. Trong đời sống tôn giáo cũng có một thứ độc quyền mà Chúa Giêsu mạnh mẽ đả
phá, đó là độc quyền về ơn sủng, độc quyền làm điều thiện.
Đây là một vấn đề rất phổ biến trong lịch sử Dân
Thánh. Câu chuyện về ông Giôsuê trong Cựu Ước và ông Gioan trong Tân Ước mà
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trưng dẫn cho ta thấy điều này. Sau khi được báo cáo
cho biết có những người trong trại đã nói tiên tri, ông Giôsuê rất lấy làm khó
chịu và bẩm báo sự việc cho ông Môsê (x. Ds 11,26-28). Cứ theo lời lẽ ông nói,
thì ông muốn việc nói tiên tri là độc quyền của một số người nhất định, chứ
không phải ai muốn nói là nói.
Tương tự, khi thấy một số người mặc dù không
thuộc nhóm các môn đệ của Chúa Giêsu mà lại ra tay trừ quỷ, ông Gioan tìm mọi
cách để can ngăn. Ông hãnh diện về việc này và kể công với Chúa Giêsu: "Thưa
Thầy, có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cấm, vì người ấy
không theo chúng ta" (Mc 9,38). Cứ ngỡ sẽ được Chúa Giêsu khen, ai ngờ ông bị
Chúa Giêsu "sửa lưng": "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy
mà làm phép lạ, rồi sau đó lại nói xấu về Thầy" (Mc 9,39). Rất rõ ràng, quan
điểm của Chúa Giêsu là việc tốt, việc thiện, việc lành do bất cứ ai làm nhân
danh Ngài đều có giá trị.
Hơn thế nữa, một việc tốt, việc lành, nhất là
việc phục vụ anh chị em đồng loại, dù nhỏ bé tầm thường đến mấy vẫn không mất
công phúc: "Thầy bảo thật anh em, ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em
thuộc về Đấng Kitô, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mc 9,41). Ta có thể
cho nhiều hay cho ít, điều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là ta đã cho
"như thế nào", bao nhiêu tình yêu mến được đặt vào nghĩa cử mà ta làm cho người
khác. Ðôi khi chỉ cần cho một chén nước lã mà lại được ghi công. "Cho một chén
nước lã" là một cử chỉ tầm thường, nhỏ bé, song lại lớn lao trước mắt Thiên Chúa
khi được thực hiện nhân danh Người, nghĩa là thực hiện vì lòng yêu thương. Giá
trị của nó còn nằm ở chỗ "làm cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa" (x. Mt
25,40). Đây là một mạc khải đầy bất ngờ. Bất ngờ vì chính Chúa Giêsu đã "đồng
hoá" mình với những kẻ thấp hèn bé mọn. Từ nay, việc bái ái yêu thương mà ta làm
cho anh em đồng loại nhân danh Chúa, nhất là cho những kẻ bé nhỏ, không chỉ đơn
thuần là việc thuộc về "đức ái đối nhân", tức là việc nhân ái giữa người với
người; mà, hơn thế, còn là việc thể hiện "đức ái đối thần", tức là việc yêu
thương đối với chính Chúa. Cái phúc cái phần ấy thế mà được nhân lên gấp
bội.
- Về việc tốt việc thiện là vậy, còn về việc xấu
việc ác thì sao? Cũng trong chiều hướng trên, Chúa Giêsu cảnh tỉnh chúng ta
trước những việc xấu việc ác dù nhỏ. Nhất là làm cớ, hay là làm gương xấu cho
những kẻ bé mọn sa ngã là tội lớn, tội đáng "buộc cối đá vào cổ mà ném xuống
biển". "Buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển" là cầm chắc cái chết, dù có là vận
động viên bơi lội, vì không còn trồi lên được. Đây là một trong hai hình phạt
nặng nề đối với người Dothái thời bấy giờ. Qua giáo huấn này, Chúa Giêsu muốn
đặc biệt lưu tâm đối với các bậc cha mẹ, thầy cô, bề trên,... là những người có
trách nhiệm giáo dục hướng dẫn người khác.
Không chỉ dừng lại ở đó, Chúa Giêsu còn mời gọi
chúng ta can đảm và dứt khoát tránh chiều theo những cám dỗ, những thói hư tật
xấu làm cho chính mình sa ngã. Dứt khoát với sự xấu, sự tội cũng giống như chặt
tay, chặt chân, móc mắt... nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh.
"Mắt" đối với ngưới Do thái, là cửa ngõ của con
tim, là lối vào của tâm hồn (gần với quan niệm của người Việt Nam: mắt là cửa sổ
tâm hồn). Tội tư tưởng thường đến từ đôi mắt. Cũng theo quan niệm của người
Dothái, "tay chân" diễn tả hành động. "Chặt tay chặt chân" nghĩa là phải dứt
khoát với các duyên cớ dẫn đến hành động tội lỗi. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho ta
thấy rằng dứt khoát với tội lỗi không dễ chút nào. Tội lỗi một khi đã thấm vào
người, nó trở nên như một phần bản thân. Dứt bỏ nó cũng đau đớn như chính những
chi thể trong thân thể bị chặt bỏ, cắt lìa. Ta hãy xem những người bị nghiện
ngập ma tuý chẳng hạn. Cơn nghiện vật vã giày vò tưởng chết đi được. Vì đối với
người nghiện, ma tuý trở thành một phần thiết thân của đời sống, đến nỗi khi
phải dứt lìa, họ đau đớn khổ sở như thể đánh mất chính sự sống của họ vậy.
Đặt mình trước giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay,
chúng ta được mời gọi có những phản tỉnh nào? Đối với những điều thiện tôi đã bỏ
qua không làm, hay làm không ý thức: tôi đã đánh mất bao nhiêu cơ hội để làm
điều thiện, vì cho rằng đó là điều nhỏ? Bao nhiêu lần tôi làm điều thiện, điều
tốt mà tôi không ý thức làm vì danh Chúa Kitô?
Đối với những điều xấu, điều tội: bao nhiêu lần
tôi đã tích lũy án phạt vì đã làm cớ cho người khác vấp phạm, sa ngã? Bao nhiêu
lần tôi đã thiếu dứt khoát đối với các dịp tội và đã chiều theo cám dỗ để rồi sa
ngã phạm tội đều đều?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết thành tâm
kiểm thảo mình mỗi ngày và can đảm điều chỉnh lại lối sống của mình cho phù hợp
với giáo huấn của Tin Mừng hôm nay. Amen.
22. Óc ganh tỵ.
Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông
đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải
là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh
Đức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức,
đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm vậy là đúng,
bởi vì những người đó không phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân
danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn
nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói "Ai không chống
lại Ta thì thuộc về Ta".
Qua câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là:
cái óc ganh tỵ đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục
ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn
là những người thân cận của Chúa, như ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa
tiến vào Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương
nhất. Đó là óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa. Nói "Óc ganh tỵ bè phái vì danh
Chúa "bởi vì ganh tỵ có tới ba cấp bực:
. Cấp thứ nhất là ganh tỵ: đó là thói xấu khiến
cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay
việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.
. Cấp thứ hai là ganh tỵ bè phái: là ganh tỵ với
người không thuộc phe nhóm của mình.
. Cấp thứ ba là ganh tỵ bè phái vì danh Chúa:
nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tỵ với những người
không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều
tốt.
Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu
óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên
đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có
thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính
làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì
đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo
tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì
họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên
tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những
người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng
ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy,
nhưng một số người Công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm
kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm
lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về
cái óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa.
Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu
đã đưa ra một nguyên tắc "Ai không chống lại Ta thì phải kể như là thuộc về Ta".
Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường
theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ "Ai không theo ta tức là kẻ chống
ta", hoặc "Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta", hay hơn nữa "Ai làm
bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta". Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ
một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả
những ai không thuộc về phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một
nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn
là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là
bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.
Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo
chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và
độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những
người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan
hòa với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác
thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.
Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có
đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có
cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu
đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có
những việc tốt đã được làm.
Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng
Chúa: đừng ganh tỵ, đừng giữ đầu óc bè phái... nhưng cố gắng sống chan hòa với
mọi người, cùng với mọi người thực hiện những điều tốt, những việc làm có ích
cho tha nhân, cho xã hội.
23. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất
quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm
cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ
người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay
đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải
vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy
chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai
chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt
đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà
phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề
tắt". Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của
tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ
có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần
phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không
chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo
Hột chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà
xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai
tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và
rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị
tật, bị què, bị cụt..., vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần
trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì không
có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.
Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những
điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải
"Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể". Sách Giáo lý cho biết: "...Tra tấn thể xác
hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả
thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người".
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt
bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với
luật luân lý" (GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự
sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu,
ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là
Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa
Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa
Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu,
khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho
thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác
định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho
thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn.
Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như
không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng
nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất
và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế
là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng
cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân
mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là
lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích,
khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con
mắt... Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô
ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm
tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của
mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự
dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự
sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà
con người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu
rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con
đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một
tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội
làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu
kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em
nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu
sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ
to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ
mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng
nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh.
Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một
cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay hay
chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào
Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân
nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức
tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì
tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể
đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự
chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối,
mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn.
Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội,
chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu
nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng
đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu
nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa... là những phương tiện
giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình
trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để
mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.
24. Sống yêu thương hiệp nhất
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao
giờ hết. Sự gần gũi sẽ ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn mạnh và quyết
liệt hơn. Có thể nói con người ảnh hưởng tốt đến người khác và ngược lại. Nói
cách khác, nếu không tỉnh táo và ý thức, chúng ta có có thể gây cớ vấp ngã cho
người khác khó vượt qua trở ngại trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta cái nhìn về điều
đó.Ông Gioan ngăn cản những người không theo "phe" mình, không thuộc nhóm mình.
Tưởng mình làm như vậy là điều tốt và có thể sẽ làm cho Chúa Giêsu hài lòng nên
ông đem việc này kể công với Chúa Giêsu:"Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy
danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta"
(Mc 9, 38). Ông Gioan rất có lý khi ngăn cản những người không cùng hội cùng
thuyền với mình mà dám ngang nhiên "trổ tài oanh liệt". Họ không phải là những
người chính uy. Họ không được cấp giấy phép hành nghề. Họ phải ngưng mọi hoạt
động. Sao mà có thể chấp nhận hành động của họ được!
Thế nhưng Gioan không ngờ rằng Chúa Giêsu đã sửa
lại quan điểm cục bộ, hẹp hòi của ông bằng bài học mới. Chúa Giêsu dạy biết sống
cởi mở và quảng đại với mọi người: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh
nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật,
ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta." (Mc 9, 39 - 40). Tình thương và
ý muốn của Thiên Chúa thì kỳ diệu và tuyệt vời lắm thay! Đường nẻo Chúa làm thay
đổi tư tưởng cục bộ và não trạng hẹp hòi của nhân loại. Tình thương Chúa dành
cho hết mọi người.
Người môn đệ Chúa Giêsu phải có trái tim rộng
lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và có thể mời mọi
người cộng tác vào những việc hữu ích chung, nhất là những người thành tâm thiện
chí. Tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu không biên giới, không chấp nhận bị ràng
buộc trong một phe nhóm hay một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi
khác biệt. Có gì tuyệt vời cho bằng chân lý yêu thương của Chúa Giêsu được hết
mọi người thuộc mọi tôn giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện. Bất cứ
người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào cũng đều được chấp nhận. Bất cứ hành động
công bằng nào đều được Chúa thưởng công, dù chỉ là một nụ cười tươi, một ly nước
lã: "ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy
bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mc 9, 41). Ngược lại
Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm.
Hơn nữa, bản thân chúng ta can đảm dứt khoát nói không với tội ác, sự xấu. Vậy
chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã,
và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác.
Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho
mình nhưng hãy sống chan hoà yêu thương và chia sẻ sự sống, hạnh phúc cho mọi
người. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác ngay trong suy nghĩ, thái độ ứng
cử và cach thức hành động để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy sống tinh
thần yêu thương, vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Hãy sống trong tinh thần hiệp
nhất trong Chúa (Ga 17, 21).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quảng
đại, liên đới với nhau trong yêu thương và hiệp nhất với mọi người. Xin cho tình
thương của Chúa được thể hiện trong cuộc đời chúng con và mọi người được biết
đến. Xin cho chúng con trở thành khí cụ yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu
Chúa. Amen.
25. Tin Mừng dữ dội – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, đọc giả có lúc cười lúc
khóc, có khi cảm nhận được sự xoa dịu ủian hay thôi thúc tỉnh thức, có lúc cảm
thấy bị chói tai, bị cay cú... Tin Mừng nluôn nói lên những chân lý và dạy những
bài học thích đáng.
Suy niệm trang Tin Mừng (Mc 9,42-48), Linh mục
Nguyễn Hồng Giáo dùng cụm từ "Tin Mừng dữ dội".
Đầu đề "Tin Mừng dữ dội" chắc sẽ làm cho nhiều
người ngạc nhiên thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là
Tin Mừng toát ra một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình
và bất bạo động bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số
những người đã tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động
nguyên lý cho sự dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn
khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin
Lành Martin Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ
vẫn thấy Tin Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả hay đúng hơn nhất là Bài giảng
trên núi (Mt các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc
đấu tranh hoà bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất
nước.
Tin Mừng dữ dội với các đòi hỏi gắt gao: "Nếu tay
hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt
chân mà vào cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời
đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà
được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục" (Mt 18,
8-9; x. Mt 5, 19-20).Cần hy sinh những gì đưa chúng ta tới tội trọng và phải
biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của Thiên
Chúa. (x.nguoitinhuu.com)
Lời Chúa hôm nay cho thấy tính chất "dữ dội" của
Tin Mừng.
Phải tránh gương mù gương xấu "Nếu ai làm cớ cho
người khác phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn
hơn".
Phải quyết liệt và dứt khoát với dịp tội"chặt
tay, chặt chân, móc mắt" khi những chi thể này là nguyên nhân phạm tội. ĐGM
Arthur Tonne gọi đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Noel Quesson nói: dù là
những kiểu nói vùng Sêmít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ
bớt đi ý nghĩa của những câu đó.
M. Quesnel tự hỏi: Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc
hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp,
bạo lực, ước muốn xấu (Mc 7,21-22). Chúa Giêsu bảo là hãy dứt khoát "chặt đi"
bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa
của điều mà Phúc Âm gọi là "từ bỏ chính mình" (x. Mc 8,34).
Tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu
mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái
một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe (Fiches
Dominicales). Tay mắt và chân tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu
có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. "Chặt bỏ" một tật
xấu một thói quen, "cắt đứt" một mối liên hệ nguy hiểm. Tính dữ dội biểu lộ nơi
thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt với tội lỗi.
Cũng như người bệnh, phải phẫu thuật, phải cắt bỏ
khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo chúng ta
phải quyết liệt với tội lỗi cho dù phải "chặt tay, chặt chân, móc mắt". Chúamuốn
nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của "sự sống", của "Nước Thiên Chúa", đó là tiêu
chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người.Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt
thòi, thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi "dữ
dội" của Tin Mừng.
Đời sống Kitô hữu cần được cắt xén, gột rửa, từ
bỏ để tăng trưởng, sinh nhiều hoa trái "Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa
chặt bỏ, còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn" (Ga
15,1-2).
Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì
rất "nhẹ nhàng", nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ: "Ai đến với
tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa,
thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26). "Không ai có thể làm tôi hai
chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh
dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được"
(Mt 6, 24); "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: 'Chớ giết người'; ai giết
người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em
mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra
trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa
hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 21-22); "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Chớ ngoại
tình'. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn,
thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5, 27-28); "Thưa Thầy, nếu anh em
con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần
không? Đức Giêsu đáp: 'Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần
bảy" (Mt 18, 21-22); "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Mắt đền mắt răng đền răng'.
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên
phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong
của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài..." (Mt 5, 38-40). Hoặc: "Anh em đã
nghe Luật dạy: 'Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù'. Con Thầy. Thầy bảo anh
em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em..."(Mt 5,
43-44).
Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự
hoàn thiện và tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là
những con người yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36).
Giáo lý Tin Mừng không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải
quyết liệt với mình, làm mạnh với mình, dám dùng "bạo lực" với mình, nếu nói
được như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong
ta, đi ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai
hại và nguy hiểm vô cùng. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án
phạt nặng nề đời sau. Phải tránh gương mù gương xấu. Mỗi người có thể gây dịp
tội khiến người khác sa ngã, và đôi khi thân xác mình lại có thể là dịp tội cho
chính mình. Càng tránh dịp tội, càng ít phạm tội.
Có câu chuyện ngụ ngôn "Đại hội cái búa" kể về
nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng, từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều
sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến
đó.
Một hôm, cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó
với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa
cũng được mời tham dự Đại hội này.
Sau một lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết
luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà
không có cán thì làm được việc gì bây giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều
hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc gỗ cũng không cho!
Bấy giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài
nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm tình, thân tôi mà không có cán như người tật
nguyền không tay chân, xin hãy cho tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa
vào những việc tốt, tôi chỉ chặt những gai góc làm vướng chân quý vị mà
thôi!
Trước lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại
hội liền có sự chia rẽ vì khác quan điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết
lại. Kết quả là đa số bằng lòng cấp cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng
hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ
cây non cho đến cây cổ thụ.
Bạn chỉ cần cho tội ác một cơ hội thôi, là bạn sẽ
hối tiếc cả cuộc đời! Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa.
Tội lỗi tàn phá cơ thể như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những
đổ vỡ trong Gia đình, hầu như không bao giờ hàn gắn được!
Bạn đừng cho tội ác một cơ hội nào hoành hành, dù
chỉ là một một sự dễ dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó!
"Đừng để ma quỷ lợi dụng!" (Ep 4, 27).
Cái xấu có khả năng lây lan rất nhanh. Tiếp cận
với lời "dữ dội" của Tin Mừng sẽ giúp bạn tránh xa dịp tội và gương xấu. Nhờ đó,
bạn sẽ làm chủ những đam mê như vui, buồn, sợ, giận, yêu, ghét, ham muốn trong
mọi mối tương quan.
Cái đẹp, cái tốt, cái chân thật, thường loan
truyềntheo chiều rộng và chiều xa. Sống Tin Mừng giúp bạn đem đến cho cuộc đời
những nét đẹp, cuộc sống thêm ý nhị đậm đà và nhiều niềm vui hạnh phúc hơn.
26. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan
Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn này dường như là một tổng hợp những chất
liệu khác biệt.
Ở cc. 38-41: Ta thấy điều đó ngay khi nhìn bề
ngoài nơi việc thay đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi thứ nhất số
nhiều, Đức Giêsu trả lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất số ít, rồi bằng một
câu khác ở ngôi thứ nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ lời với các môn
đệ (hymas, "anh em"). Rồi, c. 41 nối với c. 37 thì khớp hơn là nối với cc.
38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một đơn vị độc lập được viết nhằm giải quyết
một một vấn đề cụ thể của cộng đoàn, với nội dung và cấu trúc sê-mít: c. 39 là
một mệnh đề điều kiện theo kiểu Sê-mít; c. 10 có giọng văn một cách ngôn. Dường
như c. 41 được ghi giữ lại trong Mt 10,42, ở dạng cổ hơn: "Và ai cho một trong
những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi..."; bản văn nói về đề
tài "những kẻ bé nhỏ" đã được tác giả Mc chuyển thành đề tài "các môn đệ".
Đến cc. 42-48, chúng ta cũng nhận thấy có những
câu nói thuộc các thể văn khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề tài những kẻ bé
mọn của cc. 37 và 41. Các câu 43, 45 và 47 có cùng một cấu trúc và lặp lại nhịp
nhàng đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư tưởng được liên kết với nhau chỉ
về mặt từ ngữ, bằng những "từ móc nối". Điều đó đặc biệt rõ ràng trong cc.
48-50: "lửa" ở c. 48 đưa đến "lửa" ở c. 49; tại đây "(ướp bằng) muối" đưa tới
"muối" ở c. 50. Nhưng trước đó, động từ "làm cớ sa ngã" làm cho cc. 42-48 được
thống nhất. Và thuật ngữ "vì danh" móc nối cc. 37 ("vì danh Thầy"), 38-39 ("vì
danh Thầy, "vì danh Ta [Thầy]") và 41 ("vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô" diễn tả
trong hy ngữ là en onomati hoti, là một kiểu nói Sê-mít). Ngoài ra "một em nhỏ
như em này" ở c. 37 móc nối với "một trong những kẻ bé mọn đang tin đây" ở c. 42
(cho dù trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion / micro).
Tuy đây là một bản văn gồm những tư tưởng được
liên kết với nhau bằng những "từ móc nối", nhưng khi đã thành một đơn vị văn
chương, và đưa vào trong tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ ý khi đặt nó vào
một chỗ nhất định.
Đây là một cuộc chuyện trò giữa Đức Giêsu và Nhóm
Mười Hai: Đức Giêsu ngồi (tư thế của vị thầy). Truyện diễn ra "ở nhà" (c. 33),
một ngôi nhà ta không biết rõ ai là chủ và toạ lạc ở đâu. Ở đây, ngôi nhà được
xác định là tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể gặp ở nơi khác, mỗi khi Mc cần
có để diễn tả sự kín đáo thân mật trong những giáo huấn Đức Giêsu ban riêng cho
các môn đệ, tách khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Trong cuộc trò chuyện, Đức
Giêsu nhấn mạnh rõ ràng đến mối nguy đe doạ cộng đoàn khi các môn đệ còn tìm cho
được ăn trên ngồi trước.
Cuối cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan báo Thương
Khó lần thứ hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời loan báo Thương Khó, mỗi lời đều
có kèm theo những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm tối không hiểu của các môn
đệ, khiến Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo huấn về tình trạng cộng đồng sinh
mệnh giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây, sau lời loan báo lần hai, vì các môn
đệ còn quan tâm đến việc "trên trước", Đức Giêsu dạy cho họ biết đâu là đường
lối của Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Tuy bản văn rất tản mạn, chúng ta có thể chia
thành hai đơn vị:
1) Người ở ngoài nhóm (cc. 38-41);
2) Các cớ làm sa ngã (cc. 42-48).
3.- Vài điểm chú giải
- Người lấy danh thầy mà trừ quỷ... không theo
chúng ta (38-40): Trong Cựu Ước, có một đoạn song song với câu truyện này, đó là
câu truyện Enđa và Mêđa không đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv
8,18; 19,13-14). Môsê đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài tường thuật Mc, người
trừ quỷ đã sử dụng danh Đức Giêsu như một thứ khí cụ đầy sức mạnh (x. Mc 1,24;
5,7). Đức Giêsu dạy các môn đệ tỏ ra khoan dung với người ấy. Thái độ của Người
dựa trên ý tưởng này là bất cứ ai đã trừ quỷ nhân danh Người, không thể ngay sau
đó lại đi nói xấu Người. Hẳn là Mc đang muốn nêu ví dụ này để phê bình những
khuynh hướng độc quyền trong Giáo Hội tiên khởi. Câu 9,40 là một câu
tổng-quát-hoá giáo huấn trong c. 39 thành dạng châm ngôn.
Công thức "vì người ấy không theo chúng ta", chứ
không phải là "vì người ấy không theo Thầy" khiến hiểu rằng nhóm các môn đệ là
một thực thể khép kín và có thể lời báo cáo của Gioan phản ánh một vấn đề của
cộng đoàn.
- Cho anh em uống một chén nước (41): Nên nối kết
lời khẳng định này với c. 37: Hai câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy Đức Giêsu
nói về em nhỏ bằng những từ ngữ thích hợp với một sứ giả, một vị thừa sai hơn.
Chính truyền thống Tin Mừng đã áp dụng cho các môn đệ những lời và những cử chỉ
của Đức Giêsu liên hệ đến các em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển đi từ em nhỏ sang
người môn đệ được mời trở nên bé mọn (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37) hoặc sang "kẻ bé
mọn đang tin", nghĩa là người môn đệ yếu đuối nhất hoặc tầm thường nhất (Mc
9,42; Mt 18,6). Câu 37 liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân danh Đức Giêsu,
nghĩa là phù hợp với tinh thần và điều răn của Người, dường như nối kết hai câu
được nói trong hai hoàn cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về các em nhỏ, câu
kia (c. 37b) nói về những sứ giả của Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc 10,16; Ga
13,20). Được diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với người môn đệ
được tiếp đón trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho người ấy có giá trị đến
thế, chính là vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người ấy (x. Mt 25,35-45).
Nhờ những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý thức
rằng họ thuộc về Đức Kitô và do đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ, Đức
Giêsu tiếp tục hiện diện nơi thế gian này.
- Làm cớ cho những kẻ bé mọn đang tin phải sa ngã
(42): "Những kẻ bé mọn" đây chính là những Kitô hữu yếu đuối hơn hoặc ít sáng
suốt hơn những người khác. Phaolô có lưu ý rằng những người hiểu biết hơn cũng
có thể trở thành cớ khiến người yếu phải sa ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29;
Rm 14,1-23). Giọng nghiêm khắc của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn trọng phẩm
giá của những kẻ ấy và phải ân cần săn sóc họ.
- ai làm cớ cho... sa ngã (43-48): Phân đoạn này
có cấu trúc giống nhau ("Nếu tay ... nếu chân ... nếu mắt..."; x. cc. 43.45.47):
nếu một chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ phạm tội, thì loại nó đi để tránh
được geenna (hoả ngục) và được vào Nước Thiên Chúa. Không cần phải tìm hiểu xem
những tội của tay, của chân, của mắt là những tội nào. Vả lại, loại bỏ những chi
thể này đâu hẳn là loại trừ được mối nguy? Chúng tượng trưng cho tất cả các dịp
tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên
ngoài. Đức Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của "sự sống", của
"Nước Thiên Chúa", tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người (x. Mc
8,35-37 // 10,23-27 // Mt 13,44-45;...).
"Sự sống" thì đối lại với "hoả ngục", được coi
như nơi có những khổ hình dành cho những kẻ tội lỗi bị loại khỏi "sự sống". Câu
trích khá thoáng ở c. 48 gửi chúng ta về với bản văn Is 66,22-24 trong đó vị
ngôn sứ gợi lên vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của thế giới, trong
khi đó ở bên ngoài thành, tử thi của những kẻ phản loạn chống lại Thiên Chúa
đang bị giòi bọ rúc rỉa và lửa thiêu đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm
(hoặc "con cái Hinnôm": ghê-Hinnôm hoặc ghê ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna) gần các
cổng thành ở phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân
Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc) đã
lên tới cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những cách
thế xử lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi
bọ: G 25,5; Hc (Híp-ri) 7,17; lửa: Mt 13,42.50...), trở thành biểu tượng của số
phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi hoán
cải. Viễn tượng của Mc 9,43-48 là viễn tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa
vào những bản văn này mà suy đoán về thế giới bên kia, nhưng mà soi sáng và hỗ
trợ sự chọn lựa con đường đưa đến sự sống (x. Mt 7,13-14 so sánh với cc.
24-27).
Ghi chú: C.S. Mann giữ lại một gợi ý thú vị của
J.R. Harris: tác giả TM II đã lấy từ La-tinh salis (muối) ở thể accusative
(đối-cách) (salem) rồi liên kết từ ấy với Híp-ri salem nghĩa là "bình an, hoà
bình" (x. Dt 7,2). Kết quả là chúng ta có một lời khuyến khích các môn đệ giữ
cho được sự bình an nơi chính mình và duy trì sự bình an giữa họ với nhau (Mc
9,50).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Người ở ngoài nhóm (38-41)
Khi viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu.
Trước tiên, sau 8,33-37, cách xử sự của Gioan lại cung cấp một ví dụ khác về
tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ và sự cần thiết phải sửa chữa. Các môn
đệ không những tranh nhau về chỗ trên trước, các ông còn khoe khoang về những
đặc quyền. Đó là một điểm tiêu cực cần điều chỉnh. Kế đó, cách Đức Giêsu đánh
giá hoạt động trừ quỷ cho hiểu rằng Người không nhắm thành lập một nhóm khép kín
để hưởng các đặc quyền đặc lợi, nhưng là một nhóm biết phục vụ bất cứ ai, trong
âm thầm, khiêm tốn.
* Các cớ làm sa ngã (42-48)
Trong khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến đấu
chống lại sự dữ, các môn đệ phải sẵn sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi trường
hợp và phải sẵn sáng chấp nhận những hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm đạt
tới sự hoàn thiện cá nhân nhờ một việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng cố sự
hiệp thông giữa các thành viên. Sự hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê
quyền trên trước, bởi việc tìm kiếm các đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm sa
ngã, bởi thái độ khinh bỉ những người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối cùng là
duy trì sự bình an có nghĩa là góp phần giúp người ta vượt lên trên tất cả các
mối đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).
+ Kết luận
Cho dù là tản mạn, các lời nói trên đây của Đức
Giêsu luôn luôn có thể giáo huấn các Kitô hữu. Mc đã trình bày các lời này như
những chỉ thị ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo đường đã từng đưa Đức Kitô
đến những đau khổ thập giá. Toàn bộ những giáo huấn này nhắm tới lý tưởng một
cộng đoàn trong đó mọi người sống hoà thuận với nhau (c. 50b) bởi vì sẵn sàng
phục vụ lẫn nhau (cc. 33-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho những người
ở ngoài nhóm trừ quỷ! Người đang khuyến khích người ta làm những việc phục vụ ít
lộ liễu. Quan trọng không phải là làm những việc ngoạn mục, tạo cảm giác mạnh,
nhưng là tình yêu diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao một ly nước cho người
đang khát.
2. Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu đối với kẻ
làm cớ cho người khác sa ngã có thể hiểu như là một lời an ủi khích lệ hay một
lời răn đe tùy người được nhận lời nói này. Là lời an ủi khích lệ cho những
người đạo đức, để họ cứ vững vàng sống đúng tư cách dù có bị thế gian khinh bỉ.
Là lời răn đe đối với những người lãnh đạo cộng đoàn: coi chừng kẻo lối ăn nói,
cư xử của các ngài lại thành cớ cho những kẻ mà các ngài đã đưa vào đức tin phải
mất tinh thần và buông xuôi, hoặc học lấy một cách sống không phù hợp với người
môn đệ của Đức Kitô.
3. Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải
phục vụ như Người: quan tâm đến những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thế cô
thân, và cứ phục vụ họ trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những người đó, vì
kiến tạo được sự hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể làm chứng cho thế
giới thấy rằng Nước Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
4. Thế giới và lịch sử đều những hạt giống Lời
Chúa. Ở bên ngoài Hội Thánh, nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những người đang mở
ra với làn hơi Thánh Thần, hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên Chúa. Chức
năng của Hội Thánh là làm bừng lên và kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu
chỉ thực tại hợp nhất của bất cứ điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái tim
con người. Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc vào điển hình này. Lời đã được
gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể thấy cả nơi các cá nhân
và trong các nghi thức và tập tục của các dân tộc. Lời này được Thánh Thần đưa
tới chỗ hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội. Tất cả mọi người đều cần được
liên tục kéo đến dấu chỉ hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin Mừng và được loan
báo Tin Mừng.
27. Chú giải của Noel Quesson.
Trên con đường đi Xêdarê - Philípphê, nơi Phêrô
đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho
đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một
mình. Con đường của "Con Người" cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng
ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:
- Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách
sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục
sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn
của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác
nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất:
Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là
đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn
đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một "luật lệ" được phép hay bị cấm đoán, mà
là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.
Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy: Chúng
con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ".
Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức
Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều
nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.
Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một
"biến cố" nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực
phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên
đường đi của các Ngài?
Gioan đã thấy một "người trừ quỷ" mà không thuộc
nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài
hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).
Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của
Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ
mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết
rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày
nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).
Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ
quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù
bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn
có "những người trừ quỷ". Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất
đông.
Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh
thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng
cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng
lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng.
Đứng trước những "con quỷ" này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ,
già, lớn, bé... tất cả đều phải "khử trừ" sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng
cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một
phong trào.
Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà
trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.
Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không
thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là
người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo... hay bạn không
thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là
người bảo thủ, cấp tiến... Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ
làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.
Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ
chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ.
Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi
thứ địa vị.
Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của
Người. Người sẽ trở nên "kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người". Người vừa khuyên các
môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ
được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản
ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng
minh "Quyền lực của Đức Kitô". Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng
đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.
Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường,
nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân
cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới "thấy được" của
Giáo Hội hay sao?
Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời
của Đức Giêsu sẽ ra sao?
Đức Giêsu bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không
ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy.
Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy
nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:
"Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi
qua, bất ngờ và tự do như gió" (Ga 3,8).
Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến
rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài "nhóm"
(Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ "đang ở trong lều". Và Môsê đã ước mong
ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: "ôi ước gì Thiên Chúa
có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành
một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những "người của 'Thần Khí' xuất hiện trên măt
đất chúng con".
Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí
được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả.
Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. "Người linh ứng cho
cả những ngôn sứ ở bên ngoài" nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu
"các con đừng ngăn cản người ấy" đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là
bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi
người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình
của Giáo Hội.
Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức
Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị
trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao
cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần
Khí của Chúa... Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh
thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích
thực, nghĩa là "những con người phổ quát", "nhưng con người biết thông cảm những
khác biệt" như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: "Chúng ta cần cổ vũ
ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng
sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy
chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang
bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ"
(GS 9,2).
Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. "Các bạn
đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn". Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên
án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta?
Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng
điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện
không?
Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu
đốt thế gian (Lc 12,49).
Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em
thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng
đâu.
'Một chén nước', không có gì đáng kể. Đó là biểu
tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một
chén nước. Đó là "phàm tước" lạ thường của người môn đệ: "Người ấy thuộc về Đức
Kitô". Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình
với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.
Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ
nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). "Những gì các ngươi đã làm cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đó là sự
lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết
bao cơ hội?
Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin
đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.
Sau những lời khuyên luận lý tích cực ("cho một
chén nước"), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực ("không được làm cớ cho kẻ khác sa
ngã"). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ
khác.
Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của
Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên
trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức
Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải
khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người
cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự
ác.
Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi
còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà
phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.
Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi
thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là
nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành
mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù
là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm
nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.
Sưu tầm
BÀI ĐỌC 1: "Ngươi phân bì dùm ta làm chi? Ước gì
toàn dân được nói tiên tri" (Ds 11,25-29)
Bài trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa ngự xuống trong đám
mây, và phán cùng Maisen, đồng thời lấy thần trí trong Maisen mà phân phát cho
bảy mươi vị bô lão. Khi thần trí ngự trên các ông, các ông liền nói tiên tri, và
về sau các ông không mất ơn ấy. Vậy có hai vị ở lại trong lều trại, một người
tên là Elđađ, và người kia tên là Mêđađ. Thần trí đã ngự trên hai ông: Vì hai
ông được ghi tên vào sổ, nhưng không đến ở trong nhà xếp. Khi hai ông nói tiên
tri trong lều trại, thì có đứa trẻ chạy đến báo tin cho ông Maisen rằng: "Elđađ
và Mêđađ đang nói tiên tri trong lều trại". Tức thì Giosuê con ông Nun, tùy tùng
của ông Maisen và là kẻ được chọn trong số đông người liền thưa rằng: "Hỡi ông
Maisen, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi". Ông Maisen đáp lại rằng: "Ngươi phân bì
dùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban thần trí Người cho
họ".
Đó là lời Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA Tv 18: 8, 10, 12-13, 14
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can.
1. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2. Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
3. Dù tôi tớ Chúa quan tâm về những điều luật đó, lại hết sức ân cần tuân giữ, nhưng có nhiều chuyện lầm lỗi, nào ai hay? Xin rửa tôi sạch những lỗi lầm không nhận thấy.
4. Cũng xin ngăn ngừa tôi tớ Chúa khỏi tính kiêu căng, đừng để tính đó làm chủ trong mình con. Lúc đó con sẽ được tinh toàn và thanh khiết, khỏi điều tội lỗi lớn lao.
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can.
1. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2. Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
3. Dù tôi tớ Chúa quan tâm về những điều luật đó, lại hết sức ân cần tuân giữ, nhưng có nhiều chuyện lầm lỗi, nào ai hay? Xin rửa tôi sạch những lỗi lầm không nhận thấy.
4. Cũng xin ngăn ngừa tôi tớ Chúa khỏi tính kiêu căng, đừng để tính đó làm chủ trong mình con. Lúc đó con sẽ được tinh toàn và thanh khiết, khỏi điều tội lỗi lớn lao.
BÀI ĐỌC 2: "Của cải các ngươi bị mục nát" (Gc
5,1-6)
Bài trích thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Nầy đây, hỡi những người giầu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai họa sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Nầy tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời nầy, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.
Đó là Lời Chúa.
Nầy đây, hỡi những người giầu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai họa sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Nầy tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời nầy, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.
Đó là Lời Chúa.
ALLELUIA Joan 15, 15b
Alleluia, alleluia.- Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.
Alleluia, alleluia.- Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.
PHÚC ÂM: "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ
các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi" (Mc
9,38-43.45.47-48)
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: Kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt.
Đó là Lời Chúa.
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: Kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt.
Đó là Lời Chúa.
CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc
9,38-43.45.47-48
MỤC LỤC
1. Đừng ngăn cấm
2. Diệt trừ gương xấu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
3. Hãy yêu như Giêsu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Chặt tay.
5. Óc bè phái.
6. Làm cớ sa ngã.
7. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi.
8. Sống theo Thần Khí – Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
9. Hãy tránh xa dịp tội - Lm. Nguyễn Minh
Hùng
10. Tinh thần đại kết.
11. Suy niệm của Noel Quesson.
12. Dịp tội.
13. Gương mù.
14. Suy niệm của JKN.
15. Ghen tức.
16. Phe này cánh nọ - Anmai
17. Dịp tội.
18. Lời khuyên.
19. Tảng đá.
20. Hướng tâm hồn lên
21. Kitô hữu trước điều thiện và điều ác
22. Óc ganh tỵ.
23. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
24. Sống yêu thương hiệp nhất
25. Tin Mừng dữ dội – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
26. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ
27. Chú giải của Noel Quesson.
1. Đừng ngăn cấm
Hai đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa
dám lôi tên ba của đứa kia ra giễu cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá
ra một bí mật và việc gọi tên có vẻ bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của
một người thường mang ý nghĩa như chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm
gọi đến tên Ngài ở giới răn thứ hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan
trọng của tên Thiên Chúa như trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.
Nếu hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa
Giêsu tuyên bố: Kẻ nào tiếp đón một kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào
tiếp đón Ta thì không phải là tiếp đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta.
Chúa nói về ân phúc của mọi hành động trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan
việc vừa xảy ra. Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó
không theo Thầy và chúng con đã ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh
Chúa Giêsu, nhưng đồng thời lại kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống
sát cạnh Chúa, cũng như ganh tức với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền
hạn của mình. Thế nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn
cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói
xấu Thầy. Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một
thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại
vấn đề, liệu các môn đệ đã tin vào danh Chúa hay chưa?
Có thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ
lại chối bỏ và để Chúa Giêsu chịu chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính
Chúa Giêsu đã nhìn những người ngoại giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng
hạn người thiếu phụ Canaan và viên đội trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa
thấy một niềm tin như thế trong dân Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn
đệ đã có một niềm tin mạnh như những kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh
Chúa mà làm nhiều phép lạ, còn những người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm
phép lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các
môn đệ trở về kể lại cho Chúa Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ
cũng phải luỵ phục chúng con. Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm.
Họ nhờ danh Chúa mà tìm vinh quang cho mình.
Ngày hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà
suy nghĩ về những cái chúng ta chiếm độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức
Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ
đó đưa đến như thế nào? Có phải vì danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh
giáo xứ mình mà thôi chăng.
Tiếp đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng
ngăn cản họ. Lời nói tuy ngăn nhưng phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn
giáo, phá vỡ cả một sự độc quyền về niềm tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các
người nhiều kẻ từ phương Đông phương Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong
Nước Trời, còn chính con cái thì lại bị đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy
cho các môn đệ một cái nhìn mới về ơn cứu độ.
Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy
người này người nọ thực sự yêu thương và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người
vô thần, là người Phật giáo, thì lập tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ
lời Chúa: Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng
phải ở trong đạo mới có tình thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại
sống được tốt lành như họ chưa.
2. Diệt trừ gương xấu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Gương xấu lây lan nhanh như đại dịch, bùng phát
mạnh như cháy rừng. Nguy cơ lây nhiễm cao đến nỗi người ta thường nói: gần mực
ắt phải đen cũng như gần đèn tất phải sáng. Biết bao nhiêu thói xấu của thế hệ
trước ảnh hưởng đến những thế hệ tiếp theo đang làm cho xã hội chúng ta điêu
đứng.
Chúa Giêsu ví tác động của gương xấu ảnh hưởng
lên những người chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng
đủ sức làm dậy lên cả một thúng bột lớn. Một ít men rượu làm cho cả nồi cơm nên
rượu; chút ít men dấm làm cho cả hũ nước nên dấm chua; men thối thì làm cho
lương thực nên thối; men độc thì làm cho đồ ăn nên độc...
Chúa Giêsu xem thái độ giả dối của những người
biệt phái cũng như tâm địa độc ác của vua Hêrôđê là những thứ men độc hại có thể
khiến cho những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên
Người cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: "Anh em phải coi chừng men biệt phái và
men Hêrôđê" (Mc 8, 15).
Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng
tai hại lên nhiều người khác nên Chúa Giêsu kịch liệt bài trừ. Người muốn nhổ bỏ
thói xấu tận gốc rễ, muốn tẩy trừ gương xấu bằng mọi giá.
Trước hết, Người răn đe những người gây ra gương
xấu bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc: "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn
đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển
còn hơn." (Mc 9, 42)
Và Người muốn diệt trừ các duyên cớ gây ra tội
lỗi cách rất quyết liệt: "Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà
cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục,
phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi;
thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào
hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được
vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ
không hề chết và lửa không hề tắt." (Mc 9, 43-48)
Khi phán dạy như thế, Chúa Giêsu không có ý nói
là chúng ta phải huỷ hoại thân mình để loại trừ thói xấu, nhưng Người có ý nói
phải diệt trừ thói xấu cách quyết liệt, bằng bất cứ giá nào.
* * *
Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhổ bỏ tội lỗi và
thói xấu là điều thật khó khăn, vì việc xấu ta vừa dứt bỏ hôm nay, ngày mai lại
quay về.
Tẩy trừ thói xấu cũng như xua đuổi một con chó
ghẻ trung thành. Khi con chó trong nhà bị ghẻ lở trông thật ghê tởm và hôi hám,
người nhà quyết xua đuổi nó đi, nhưng lát sau nó cũng quay về. Dù người nhà tiếp
tục đánh đập và xua đuổi nó đi xa... nó cũng lại trở về!
Tẩy trừ thói xấu cũng y như nhổ cỏ cú (một thứ cỏ
có nhiều rễ củ ăn sâu xuống lòng đất, rất khó diệt) trên mảnh đất tốt. Hôm nay
nhổ sạch cỏ rồi, mai gặp một trận mưa to, cỏ lại mọc lên phơi phới.
Như vậy, không lẽ con người đành bó tay trước
thói hư tật xấu?
Bệnh nào cũng có thuốc chữa. Sâu nào cũng có
thuốc trừ.
Đối với những đám đất nhiều cỏ cú diệt hoài không
được, người nông dân kinh nghiệm có thể diệt hết cỏ bằng cách biến nó thành thửa
ruộng lúa nước. Người ta bơm nước vào đám đất có nhiều cỏ, ngâm nước một thời
gian cho cỏ thối đi, rồi cày và trục chôn cỏ mục xuống bùn. Sau đó, người ta sạ
lúa xuống. Chờ lúa mọc lên chừng mươi phân, người nông dân lại cho nước vào phủ
hết mặt ruộng, rồi bung phân cho lúa bốc lên nhanh; lá lúa vươn ra um tùm che
phủ mặt ruộng khiến cỏ dại không thể nào mọc lên được.
Có người diệt cỏ bằng cách trồng mía. Mía con vừa
mới lên liền được bón thúc phân thật sớm khiến bụi mía phát triển sum suê. Thế
là cỏ dại dưới đất bị chết ngộp vì thiếu ánh sáng.
Thế là nhà nông thắng lớn vì không cần tốn công
làm cỏ mà lại thu hoạch được lúa hoặc mía dồi dào.
Vậy thì một trong những phương pháp kiến hiệu để
loại trừ gương xấu, thói hư là áp dụng phương thức lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu:
quyết tâm tạo cho mình những việc làm tốt để đẩy lui những việc làm xấu; tập
thói quen tốt để đẩy lùi thói quen xấu; lấy sách báo lành mạnh thay thế cho sách
báo đồi truỵ; lấy phim giáo dục đẩy lùi phim vô luân; chọn bạn tốt lành thay cho
bạn bè xấu tính...
Hy vọng nhờ đó, cuộc đời chúng ta ngày càng được
cải thiện; tâm hồn chúng ta ngày thêm trong sáng; bản thân chúng ta ngày càng
trở nên người có phẩm chất cao.
3. Hãy yêu như Giêsu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu truyện ngụ ngôn của Ấn độ kể rằng: Một
hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần thế.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi
tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có
lòng tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con
không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê
hèn".
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng
đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một người
thực sự xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài,
con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm
cắp... nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp. Cho dù có vấp ngã, mọi
người đều có lòng tốt".
Xem ra nhận xét về một con người tùy thuộc vào
tình cảm của người nhận xét nhiều hơn là về bản thân của người được nhận xét.
Không ai hoàn toàn xấu, và cũng không ai hoàn toàn tốt. Vì "nhân vô thập toàn",
và mọi sự trong trời đất đều tương đối. Nhưng đáng tiếc con người lại không nhận
ra. Nhiều người vẫn cho rằng mình không sai lầm. Nhiều người vẫn tưởng rằng mình
không có khuyết điểm. Con người cho mình là trung tâm điểm nên dễ dàng loại trừ,
kết án, tẩy chay những ai khác với mình, hoặc không đồng quan điểm với mình.
Đó còn là lý do khiến người ta thường hay phân
loại để chơi. Những người cùng sở thích, cùng quan điểm, cùng ý thức hệ thì liên
đới với nhau, ngược lại thi xa lánh, đôi khi lại hiềm thù và đối nghịch với
nhau. Khi yêu nhau người ta dễ cảm thông, tha thứ, nâng đỡ nhau, vì "Yêu nhau củ
ấu cũng tròn - Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa". Khi ghét nhau thì "Cau sáu bổ
ra làm mười". Có khi còn "ghét cả tông ti họ hàng".
Là người Ky-tô hữu Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ
có kẻ thù. Hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính
Chúa đã chọn chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng
ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ
của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công
bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người ky-tô hữu mà gây nên
gương mù gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của
mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành
động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng
cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương
đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên
người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại
tình. Chúa càng không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng
hay biết. "Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm". Chúa đã nêu gương yêu
thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu
tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để
sống vị tha và nhân ái với nhau.
Nhưng đáng tiếc con người lại thiếu tình thương
nhưng lại đầy lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung nhưng đầy hận thù. Thiếu sự
cảm thông nhưng chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính
lòng ghen ghét, lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ
trần gian với biết bao nước mắt của oan trái, đau thương.
Có ai đó nói rằng: "Nếu cứ áp dụng luật "mắt đền
mắt" thì mọi người đều trở nên mù lòa". Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng
bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để
đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời ky-tô hữu của
chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để
đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.
4. Chặt tay.
Ngày xưa có một đoàn thám hiểm từ Âu châu đi tìm
đất mới. Nhà lãnh đạo của họ là một người thích phiêu lưu với số mệnh, và ông đã
tuyên bố: Ai đụng tới đất đầu tiên sẽ được làm chủ toàn thể lãnh thổ ấy. Một
người trong nhóm tên là O'Neil quyết tâm giành được đất mới. Ông gắng sức chèo,
nhưng rồi một chiếc thuyền khác đã vượt qua được ông mà đất liền thì đã ở ngay
trước mặt. Chúng ta có biết ông đã hành động như thế nào hay không? Con người
sắt đá này đã buông mái chèo, rồi nhanh như một tia chớp, ông cầm lấy chiếc búa,
chặt đứt bàn tay trái của mình rồi liệng nó lên bờ. Và như thế ông là người đầu
tiên đụng vào đất mới. Đất mới là của ông.
Kể lại câu chuyện này, tôi hy vọng chúng ta sẽ dễ
dàng hiểu được lời nói của Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Nếu tay con làm cớ
cho con phạm tội, thì hãy chặt nó đi. Thà con cụt một tay mà được vào Nước Trời
còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục. Đâu là ý hướng Chúa Giêsu muốn
nhắm tới? Tôi nghĩ rằng những người muốn theo Chúa phải sẵn sàng hy sinh cả
những cái gần gũi và thân yêu nhất, khi chúng trở thành dịp tội và làm cho chúng
ta vấp ngã. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay
móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài hầu gây một ấn tượng khó quên
đối với người nghe: Nước Trời, miền đất hứa chủa chúng ta, quê hương vĩnh cửu
của chúng ta, muốn đạt được thì phải hy sinh.
Đúng thế, để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải
sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động
chặt tay và móc mắt. Đối với một số người thì từ bỏ một vài mối lợi vật chất
cũng đau đớn như là cắt đứt một bàn tay. Nơi khác, Chúa Giêsu lại nói với chúng
ta: Nếu chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ không nhà được trú
trọ thì chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Hy sinh để cứu giúp họ, hy sinh để
nâng đỡ những hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, để làm đẹp lòng Chúa và chiếm
lấy Nước Trời có thể cũng đớn đau như cưa đứt một ống chân. Với một người nghiện
rượu thì bỏ đi một xị hay chỉ một ly mà thôi, ắm lúc cũng thật là khổ sở, nhưng
vì vui lòng Chúa, anh ta phải bỏ. Chúng ta thường thích nằm ngủ nướng hơn là đi
lễ sáng Chúa nhật. Cố gắng để vượt thắng tính lười biếng có thể gây phiền phức
và khó chịu ở một mức độ nào đó, nhưng lại là phương cách để chiếm lấy Nước
Trời. Ngồi theo dõi truyền hình thì dễ dàng hơn là cầu nguyện hay đọc Kinh
Thánh. Thưa chuyện với Chúa là một ân huệ lớn lao, là một niềm vui tuyệt vời,
nhưng nó là đòi hỏi chúng ta phải cố gắng cắt bỏ một khoảnh khắc giải trí hay
nói chuyện tào lao với nhau.
Chúa Giêsu không phải chỉ chặt tay móc mắt, trái
lại Ngài còn hiến dâng trọn vẹn mạng sống và đã đổ ra cho đến giọt múa cuối cùng
để cứu chuộc chúng ta. Vì thế chúng ta hãy xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta
biết từ bỏ, hầu nhờ sự từ bỏ này chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời, miền đất hứa
của chúng ta. Hay nói các khác, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và
trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói lên như Tổng lãnh Thiên Thần
Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
5. Óc bè phái.
Có một vị linh mục, ngày kia đã giảng một bài rất
cảm động, khiến cho mọi người đều rơi lệ. Thế nhưng, có một người ngồi ngay ở
hàng ghế đầu lại chẳng hề tỏ ra chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ kết thúc
người ta đã hỏi: Ông có nghe bài giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời: Dĩ nhiên
là có và tôi đã nghe rõ lắm. Vậy thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm động đến
nỗi tôi rưng rưng như muốn khóc. Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại không
khóc. Người đàn ông trả lời: Đơn giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ này.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng tới
óc phe nhóm và tinh thần bè phái của các môn đệ, được biểu lộ qua thái độ của
Gioan. Thực vậy, ông không thể chấp nhận được chuyện một người không theo Chúa,
không thuộc về phe mình, mà lại dám lấy danh Thầy để trừ quỷ, và họ đã làm
được.
Tên của Chúa có thể dùng để trừ được quỷ. Tên ấy
có một sức mạnh, nhưng đối với Gioan, thì chỉ những người trong nhóm môn đệ của
Chúa mới có quyền xử dụng sức mạnh ấy. Chính vì thế, chẳng riêng gì Gioan, mà
ngay cả nhóm môn đệ, đều cố sức ngăn cản người ấy trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu.
Họ muốn giữ độc quyền. Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu như ai
cũng lấy danh Chúa mà trừ quỷ thì các môn đệ của Chúa đâu còn thế giá gì nữa.
Chúng ta không biết các ông đã làm những gì để ngăn cản người ấy, còn Chúa Giêsu
thì sao? Ngài đã không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi
mở hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ
quỷ.
Chắc hẳn anh ta không phải là kẻ thù của nhóm hay
của bản thân Ngài. Vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có
thể nói xấu Thầy. Hẳn anh ta phải có một niềm tin nào đó vào Ngài, cho dù anh ta
không phải là môn đệ chính thức trong nhóm. Như thế chúng ta phải chấp nhận có
những môn đệ theo sát Chúa Giêsu và cũng có những môn đệ theo Ngài xa xa, nhưng
trái tim họ thì lại rất gần Ngài.
Các môn đệ đã thấy kẻ thù ở khắp mọi nơi, vì ai
không ủng hộ các ông đều là kẻ thù của các ông. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài
hiền lành và bao dung, nên Ngài có nhiều bạn hữu. Thái độ cởi mở của Ngài khiến
chúng ta phải nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình. Chúng ta không nên vạch
một đường thật rõ để tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo,
Kitô hữu và dân ngoại. Chúng ta sẽ có nhiều bạn hơn chúng ta tưởng. Cùng bước đi
với người khác, chúng ta sẽ có nhiều cơ may để giới thiệu Đức Kitô cho họ, một
Đức Kitô mà có thể họ đã mang lấy trong trái tim từ lâu rồi, nhưng chưa một lần
gọi tên Ngài trên môi. Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng
ích kỷ chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Đó cũng là thái độ của kẻ hèn
nhát và khiếp đảm.
Hơn thế nữa, Công đồng luôn khuyến khích chúng ta
thực hiện: Hãy mở ra với thế giới, hãy mở ra với các anh em Kitô hữu khác, cũng
như hãy mở ra với những người chưa tin Đức Kitô. Bởi vì, mặt trời công chính
chiếu soi trên mọi người và cho mọi người. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn
hoạt động giữa các dân tộc.
6. Làm cớ sa ngã.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Chúng ta sống trong một thế giới có nhiều gương
xấu.
Gương xấu lan nhanh nhờ các phương tiện truyền
thông, tạo nên một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi.
Ngay trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu,
khiến cho đức tin một số người gặp khủng hoảng.
Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với
kẻ này: "... thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn."
Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu. Cha mẹ
làm ăn bất chính khiến con cái mất niềm tin. Nhà tu hành mê say vật chất khiến
tín hữu thất vọng. Những phe phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.
Có biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã.
Nhiều khi chúng ta, vì vô tình hay thiếu khôn ngoan, không biết hạn chế tự do
của mình, nên đã làm tổn thương lương tâm của những người yếu đuối.
Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa ngã,
nhưng chính thân xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.
Đức Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt,
nếu những bộ phận đó làm ta phạm tội.
Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo
nghĩa đen (nếu thế thì khó mà có một Kitô hữu lành lặn!). Nhưng chúng ta lại
không được coi thường tính chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên nếu thấy có
người dám chịu cắt bỏ một phần thân thể hầu cứu lấy sinh mạng của mình.
Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý để giữ
lại một điều quý hơn.
Chỉ ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất,
người ấy mới dám hy sinh mắt và tay chân, những gì vốn là tốt, nhưng nay lại
thành vật cản trở.
Có bao điều thiết thân, gắn liền với đời ta,
nhưng nay đã trở thành vật cản trở. Cả những điều ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn
tuyệt.
Chấp nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau. Bỏ một
tật xấu, một thói quen, một kế hoạch có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt
tay.
Nếu chúng ta can đảm thắng vượt nỗi đau, chúng ta
sẽ được tự do thanh thoát.
Nếu cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn. Giải
phẫu không phải chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế: thay ước muốn nơi trái tim,
thay lối nghĩ nơi bộ óc, thay cái nhìn nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi
tay.
Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn.
Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái tương
đối.
Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa
vời, và dứt khoát chọn Thiên Chúa là Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ
hôm nay chịu ảnh hưởng (nơi gia đình, trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương
xấu đó đã tác hại thế nào trên giới trẻ?
Bạn có kinh nghiệm gì về việc "chặt bỏ" một tật
xấu, một thói quen, hay việc "cắt đứt" một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành công
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong
con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con
thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để
cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con
thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận
tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải
chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập
sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu.
Amen.
7. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc
chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu
nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những
lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này
phạm tội, có nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu
giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây
lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu,
nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu
giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi
chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi
mạng sống con người.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu
giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng
chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn
đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã
rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.
Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như
chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với
tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản
thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé
lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được.
Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến
nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như
đánh mất chính sự sống.
Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt
lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người,
những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái
tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau
đớn vô cùng.
Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ
khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải
quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn
hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được
hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.
Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu
xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm
nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt
bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.
Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời
khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta
chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa
muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy,
biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.
8. Sống theo Thần Khí – Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
Làm sao để sống hạnh phúc, làm sao để sống tốt,
làm sao để hình thành quan điểm sống đúng đắn để qua đó một người có thể sống
bình an hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại?
I. Mọi sự tốt lành đều do Thiên Chúa mà có
Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng vượt lên tất cả,
Ngài là Cha của tất cả, là Đấng ban cho con người tất cả những gì con người đang
sở hữu hoặc đang có khả năng thực hiện. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Eldad
và Medad nói tiên tri ngay khi ở trong lều riêng của các ông, và cũng là Đấng
làm cho những người khác có tên trong danh sách mà đi ra nhập hàng ngũ cùng với
Môsê được nói tiên tri.
Giôsuê đã suy nghĩ và hành động với tinh thần phe
phái: nếu không ra gia nhập hàng ngũ như những người khác thì không được nói
tiên tri. Giôsuê đâu có biết rằng khi anh muốn cản người khác làm điều họ được
Thiên Chúa thúc đẩy, là vô tình anh đã muốn cản cả tác động của Thiên Chúa nữa.
Cũng tương tự vậy khi Yoan ngăn cản một người nhân danh Đức Giêsu mà làm phép
lạ, vì "người đó không là một trong chúng ta". Ai có thể làm phép lạ nếu không
phải chính Thiên Chúa đã làm phép lạ qua trung gian người đó. Đức Giêsu đã trả
lời Yoan: "đừng cản họ, vì nếu họ nhân danh Thầy mà làm phép lạ, thì họ cũng
không phải là kẻ chống lại Thầy". Ai không chống lại chúng ta, là thuận theo
chúng ta.
Tinh thần phe phái là tinh thần muốn loại Thiên
Chúa ra khỏi hành động của con người, hoặc muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Thực
ra Thiên Chúa ở trên tất cả, Ngài là Đấng cho tất cả, Ngài thuộc về tất cả để
tất cả được thuộc về Ngài. Tất cả tốt lành đều từ Thiên Chúa mà tới, đều do
Thiên Chúa mà có. Muốn độc quyền Thiên Chúa, muốn điều tốt chỉ từ phe phái của
mình, là muốn giới hạn Thiên Chúa, là muốn điều khiển Thiên Chúa theo ý mình. Tư
tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của con người, Ngài vượt trên tất cả.
II. Những người bám víu vào của cải đời này
Trần gian với những tiện nghi vật chất, là điều
người đời thường tham muốn. Người ta muốn sống hưởng thụ những thú vui vật chất,
thỏa mãn xác thịt. Người ta thường nghĩ rằng với tiền bạc, người ta sẽ có tất
cả. Tiền bạc giúp người ta có nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất, được người
đời kính trọng.
Người ta thường cho rằng, có tiền muốn gì mà
chẳng được: "đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của
tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công
lý". Với đồng tiền, người ta có thể mua chuộc được tất cả, lấy lòng được con
người, kể cả những người thế giá nhất, uy quyền nhất. Nếu một người đặt tiền bạc
là quan trọng, hoặc danh vọng là quan trọng, thì tiền bạc là một giá trị và
phương tiện có thể mua chuộc hoặc điều khiển được người đó.
Làm sao để con người có một bậc thang giá trị
đúng đắn, nghĩa là đặt tiền bạc danh vọng chức quyền vào đúng chỗ của nó. Trên
đời này, điều gì là quan trọng nhất, điều gì mà mỗi người phải chú ý để có thể
đạt được hạnh phúc trong cuộc sống? Nếu một người đặt sai bậc thang giá trị và
theo đuổi những điều không chính đáng, thì những người liên hệ với người đó khổ,
và chính người đó cũng không thể hạnh phúc. Chỉ những ai đặt Tuyệt Đối là một
giá trị tuyệt đối, và đặt tha nhân là một giá trị cũng gần như một giá trị tuyệt
đối, thì người đó mới sống hạnh phúc, và những người khác sống với họ cũng mới
hạnh phúc đích thực.
III. Dứt khoát với dịp tội
"Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy
chặt nó đi vì thà rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay
mà phải sa hỏa ngục". Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của
Ngài đối với tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!
Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các
tông đồ: "hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Thân xác có những
nặng nề của thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác
nếu người ta không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu
người ta không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt
chiên vượt qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do
tại sao Phêrô đã "không thể thức với thầy được một giờ". Những lề luật, thường
là những gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp
tội mà không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình
ở vào dịp tội.
Những tội phạm hình sự không có âm mưu, thường
xảy ra khi người ta trong cơn say hoặc nghiện; tránh say sưa cũng là tránh những
dịp tội, và cũng là tránh tội đối với một số người. Những người phạm tội trong
những trường hợp này thường được giảm khinh vì lúc đó họ không hoàn toàn tự do,
họ sống dưới những ảnh hưởng của thể xác mà không tự chủ hoàn toàn được. Những
trường hợp này rất khác với những hành vi của những người có âm mưu nhưng mượn
rượu hay một cớ nào đó để làm điều họ muốn làm, mà nếu họ làm lúc tỉnh thì họ sợ
sẽ lãnh hoàn toàn trách nhiệm. Dứt khoát với dịp tội, là lời dạy của Đức Giêsu
đối với con người của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, làm sao để sở hữu một bậc thang giá
trị đúng đắn? Làm sao để đánh giá đúng đắn thực tại trần gian, cụ thể là con
người và vạn vật?
2. Theo bạn, điều gì làm cho đương sự và người
khác khổ nhất? Tại sao?
3. Theo bạn, quan điểm lập trường sống nào làm
cho chính mình cũng như những người thân và những người sống với mình sống hạnh
phúc đích thực?
9. Hãy tránh xa dịp tội - Lm. Nguyễn Minh
Hùng
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất
quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm
cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ
người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay
đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải
vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy
chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai
chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt
đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà
phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề
tắt". Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của
tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ
có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần
phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không
chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo
Hội chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà
xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai
tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và
rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị
tật, bị què, bị cụt..., vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần
trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì man
r?. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.
Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều
ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công
giáo của Giáo Hội đòi phải "Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể". Sách Giáo lý
cho biết: "...Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm,
đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm
giá con người.
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt
bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với
luật luân lý" (GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự
sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu,
ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là
Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa
Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa
Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu,
khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho
thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác
định mối nguy hại có khi không nhỏ mà t?i l?i gây ra cho mỗi người. Qua đó,
Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc
chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ
đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không
khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về
mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh
cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống
vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy
sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là
lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích,
khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con
mắt... Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô
ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm
tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của
mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự
dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự
sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà
con người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu
rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con
đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một
tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội
làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu
kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em
nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu
sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ
to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ
mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng
nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh.
Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một
cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay, hay
chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào
Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân
nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức
tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì
tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể
đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự
chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối,
mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn.
Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội,
chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu
nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng
đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu
nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa... là những phương tiện
giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình
trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để
mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.
10. Tinh thần đại kết.
(Trích trong 'Niềm vui chia sẻ')
Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng
Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện "Chúa Giêsu đi xem
bóng đá" (trong tập truyện "Bài ca của loài chim" The Song of Bird) như sau:
"Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá,
chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin
Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu hoan hô vang
dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội
Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một
khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi
Ngài:
- Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả
lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: "Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả.
Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi". Người khán giả tỏ vẻ khó chịu
về thái độ của Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói
nhỏ: "Hắn ta là một tên vô thần!"
Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu:
"Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ
đứng về phía họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo của họ".
Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: "Đó là lý do tại sao tôi không ủng
hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi,
dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào".
Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang
sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông
Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy.
Tưởng là có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước
phán quyết của Chúa: "Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh
Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối
chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn
dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản
hai ông Elđát và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: "Anh ghen giùm
tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn
sứ!"(Bđ. 1).
Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức
lên án một tấm lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói
tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ
khép kín, phe nhóm như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. "Thần Khí
muốn thổi đâu thì thổi", "đừng dập tắt Thánh Thần". Không phải chỉ có Giôsuê của
thời Môisê hay Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo
vệ cái độc quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi
biến cố đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con
người luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính
mình, Cộng Đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính
mình, về thế giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn
là thái độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực
sự và đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân
lý chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái
chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn
hoá khác.
Cuộc "hoán cải" lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn
trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ
Thứ Ba. Trong Tông thư "Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba" (10/11/1994). Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi "Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về
tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh
Thần của Đức Kitô và Tin Mừng... Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của
Thiên Niên Kỷ mới mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối
về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì trệ... (số 34). "Trong số những tội
lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải
kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài.
Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội
"đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác" đã bị xé rách một
cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ
vấp phạm cho thế giới" (số 34).
Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn,
cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người
cộng tác vào những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn
chế, không loại trừ hay cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí.
Tinh thần quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng
buộc trong một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi
khác biệt, vì "Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai". Ở đất
nước ta đã không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh
mục, tu sĩ nam nữ, các Kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh
nhân, chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo... Có gì tuyệt cho bằng
chân lý yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin
Lành, Cao Đài, Công Giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được:
"Phàm ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô" (x.Mc 9,41). Bởi vì bất
cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ
hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa
thưởng công, dù chỉ một ly nước mát, một nụ cười tươi: "Ai cho anh em uống một
ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó
sẽ không mất phần thưởng đâu". Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành
động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn
nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con
đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm
thì "thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn". Chúa còn dùng kiểu
nói cường điệu: "chặt tay, cưa chân, móc mắt", nếu những chi thể quý báu ấy nên
cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì "thà cụt tay, què chân, mù mắt
còn hơn là phải vào hỏa ngục đời đời". Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống
đời đời.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho
mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em
hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử,
hành động, để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và
hành động phản chứng và gây gương mù. "Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy
chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để
có thể giới thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn
toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ
Hai. Muốn thế, cần phải nỗ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về
giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô
tha thiết kêu gọi trước khi chịu nạn: "Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên
một trong chúng ta" (Ga 17,21) (số 43).
11. Suy niệm của Noel Quesson.
AI KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG
TA
Một ni cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý
pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng
Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương
trước tượng Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang các tượng khác,
cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của
mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi
tượng trở nên đen thùi xấu xí.
Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở
nên nhỏ mọn khó coi.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu
không hài lòng về thái độ hẹp hòi của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm
tốn, phải nên tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng
với người đồng đạo, người Công giáo.
Nhưng các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này.
Chúng ta thấy chính Gioan, một Tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: "Thưa
Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản
anh ta, vì anh ta không theo chúng ta". Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng
ta cũng thấy cái tính hẹp hòi, không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa
Giêsu.
Chúng ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay,
tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập
thể. Có lúc các tín hữu chúng ta cũng khó chịu khi thấy có người ngoài nhóm
chúng ta mà cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường, những người không
theo Chúa Giêsu mà cũng dùng giáo lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó
đã đạt tới thành công. Đôi lúc có vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng
nhận ra được ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính mà người Công giáo ra
công gắng sức tập luyện mà chưa đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống
tốt, biết xả kỷ vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những
hành vi kia chỉ là vẻ bề ngoài hoặc là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa
đổi những suy nghĩ sai lầm ấy, Người cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại
Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận
Chúa, ai cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai.
Người không bị ràng buộc vào một băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin
Mừng của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng
diễn tả vấn đề này bằng kiểu nói khác: "Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì
thổi" (Ga 3,8).
Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân
ngoại (Cv 10,44). Chúa thông suốt mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn
đệ: "Không ai vừa nhân danh Thầy làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy", nghĩa là có
những lúc Chúa tỏ uy quyền của Người trên cả những người chưa phải là tín hữu
Kitô. Điều đó giúp chúng ta xác quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do
Chúa soi sáng thúc đẩy. Hiểu như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm
thiện chí để hợp tác, để đón nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan
báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa:
"Muốn cho mọi người được cứu và nhận ra Chân lý" (1Tm 2,4).
Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi
người, sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi
người. Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với
Chúa. Chúng con xin tạ ơn Người.
12. Dịp tội.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau
chia sẻ về dịp tội.
Câu hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?
Tôi xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm
cho chúng ta dễ dàng vấp ngã.
Câu hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối
với dịp tội?
Trước hết bản thân chúng ta không được trở thành
dịp tội cho người khác sai lỗi. Hay nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được
phép làm gương mù gương xấu cho người khác.
Rất nhiều lần chúng ta đã nói:
- Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình,
trái lại, chúng ta sống là sống với người khác.
Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta
lại ảnh hưởng đến nhau rất nhiều. Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để
lại một ảnh hưởng tốt. Trái lại, một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo
nên một hậu quả xấu nơi người chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:
- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
Hay như danh ngôn Tây phương cũng nói:
- Anh hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ
cho anh hay anh là người như thế nào.
Chính vì thế, chúng ta không được làm gương mù
gương xấu, trở thành dịp tội, trở thành cái cớ cho người khác vấp phạm.
Chúa Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với
kẻ làm gương mù gương xấu. Ngài nói:
- Nếu ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này
phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn.
Đang khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng,
góp phần làm cho Giáo hội được phát triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại
Giáo hội và làm cho Giáo hội bị giảm sút.
Ngoài ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh
những dịp tội.
Như trên chúng ta đã nói dịp tội là những hoàn
cảnh thúc đẩy khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục ngữ đã dạy:
- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày
đứt tay.
Hay như một nhà đạo đức đã xác quyết:
- Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm,
thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho
chúng ta.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp
tội thay đổi tùy theo mức độ hiểu biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một
cuốn sách, người này đọc thì thấy hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ
nặng nề về đức tin hay đức trong sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm
việc nọ việc kia là chúng ta bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ,
cân nhắc, bàn hỏi và lắng nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp
tội, bởi vì trước mỗi hoàn cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng
báo động và chỉ cho chúng ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải
tránh.
Tóm lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn,
chúng ta hãy can đảm xa tránh dịp tội, như lời Chúa đã phán dạy:
- Nếu mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó
đi, vì thà rằng chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt
mà bị quăng vào hỏa ngục đời đời.
13. Gương mù.
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa
Giêsu được thánh Marcô ráp lại với nhau:Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị,
ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn
đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù
là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã,
vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau
thôi, tức là gương mù gương xấu.
Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong
cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào
thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng
tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu
thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo
bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: "Mù dắt mù
cả hai ngã xuống hố". Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn
đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một
ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.
Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây
nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta.Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa
lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy
nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt
gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin. Làm tăng thêm số người tội
lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà
Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời
sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp mười lần số người các ngôn
sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như
vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển,
vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội
chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của
Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các
bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở
Palestine có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá
ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do Thái, và rất
kính sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh
này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng
lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục
của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi
cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết
người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và
chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương
mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.
Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức
tránh dịp tội, Chúa bảo phải "móc mắt, chặt tay, chặt chân", không phải là móc
mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay,
mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa
chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu
tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý
giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là
Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu
hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi,
cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy
ra. Cũng tương tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các
thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: "thà phòng bệnh hơn chữa bệnh", "đào vi thượng
sách". Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ",
mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao
đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê,
nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần
gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm
luân mà giữ mình cẩn thận.
Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù
gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội
hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này
và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
14. Suy niệm của JKN.
CÁM DỖ CỦA ÓC BÈ PHÁI VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG TÔN
GIÁO
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi thấy có người ngoài nhóm mình nhân danh
Thầy mình để trừ quỉ, các tông đồ khó chịu và muốn ngăn cản. Thái độ ấy có đúng
không? Nó nói lên não trạng gì? Não trạng ấy có hiện hữu trong các Kitô hữu hiện
nay không?
2. Các giáo phái Kitô giáo hiện nay có đoàn kết,
yêu thương nhau không? Đức Giêsu sẽ vui hay buồn khi thấy các giáo phái tuy đều
nhận mình là Chúa là Thầy nhưng lại nhân danh đức tin để nói xấu, kết án và loại
trừ nhau?
3. Đức tin có thể gây chia rẽ, nhưng đức ái chỉ
tạo nên đoàn kết. Giữa hai nhân đức quan trọng ấy, đức nào mới thật sự là điều
kiện để vào Nước Trời?
CHIA SẺ
1. Khuynh hướng bè phái và muốn độc quyền của các
tông đồ
Một trong những khuynh hướng rất thông thường nơi
con người, đó là óc bè phái và ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này được biểu lộ
nơi các môn đệ Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Trên con đường loan báo Tin
Mừng, các môn đệ Ngài thấy có những người không thuộc nhóm của mình lại nhân
danh Ngài mà làm được những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh... Theo quan niệm của
các ông, chỉ những ai ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy mình
để làm phép lạ, trừ quỉ, chữa bệnh... Nếu có ai khác làm điều ấy được, lập tức
các ông nhận thấy độc quyền của mình bị xâm phạm. Có lẽ các ông cảm thấy bực bội
vì điều ấy nên đã cố ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu đã tỏ ra không tán thành
khuynh hướng bè phái muốn độc quyền ấy của các ông.
2. Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi
người Kitô hữu
Trong đời sống Kitô hữu, nhiều khi chính chúng ta
cũng bị cám dỗ bởi não trạng bè phái và ham muốn độc quyền như các môn đệ Đức
Giêsu. Chẳng hạn những người cùng tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu
Chúa, theo thời gian, bị phân thành nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa
như thế là một việc hết sức tự nhiên nếu không muốn nói là tất yếu, vì tất cả
mọi tôn giáo, mọi trường phái tư tưởng, nghệ thuật, v. v... đều bị phân hóa theo
thời gian theo định luật đa dạng hóa của tự nhiên. Theo tôi, nếu không bị phân
hóa như thế thì đó mới chính là điều lạ thường. Đương nhiên, giáo phái nào cũng
tự cho mình là đúng đắn nhất, là gần với chân lý nhất. Tiếp xúc với các tín đồ
của nhiều giáo phái khác nhau, tôi không hề thấy một giáo phái nào lại cho rằng
có một giáo phái khác đúng hơn mình. Điều này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên hay
bất mãn chút nào!
Dù khác nhau - chủ yếu là trong tiểu tiết - các
giáo phái vẫn hết sức giống nhau trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và
tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Giáo phái nào cũng chủ trương phải sẵn sàng dấn thân theo Ngài với tất cả tình
yêu, lòng nhiệt thành của mình. Giáo phái nào cũng đều tuyên xưng: «Nếu miệng
bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho
Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9). Giáo phái nào
cũng chủ trương: «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa thì sẽ được cứu thoát»
(Rm 10,13).
3. Thật là một gương xấu vĩ đại
Nhưng thật là một điều trớ trêu và là một gương
xấu vĩ đại trước những người ngoài Kitô giáo, khi mà:
- một đằng Đức Giêsu - Đấng mà mọi giáo phái Kitô
giáo đều tôn thờ, đều nhận là Chúa, là Thày - đã tuyên bố: «Người ta cứ dấu này
mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).
- đằng khác, các giáo phái Kitô giáo lại coi nhau
như là ngoại đạo! Các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn
nhau, một vài trường hợp khủng bố lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô giáo phủ nhận
khả năng được cứu rỗi của những người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều
tin và tuyên xưng những điều căn bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào
cũng muốn hạn chế hoặc chỉ dành riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của
mình! Đó là điều tôi lấy làm lạ, làm ngạc nhiên hết sức, và không thể chấp nhận
được!
Đây quả là một gương xấu vĩ đại, một điều mỉa mai
cho Đức Giêsu và cho tất cả các giáo phái Kitô giáo, vì gương xấu này là một
phản chứng nặng nề đối với những người ngoài Kitô giáo, khiến họ không thể chấp
nhận được một tôn giáo như thế! Ước gì các giáo phái Kitô giáo đều đọc và suy
nghĩ câu Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai làm cớ cho một trong
những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà
ném xuống biển còn hơn».
4. Coi chừng chính kẻ kết án lại là kẻ độc ác,
thiếu tình thương
Khi nghe một người Kitô hữu thuộc một giáo phái
nào đó quả quyết chắc chắn rằng những Kitô hữu trong những giáo phái khác với họ
đều không được cứu rỗi, thì tôi hỏi người ấy: «Vậy anh có muốn điều anh quả
quyết như thế là đúng không?» Nếu anh ta trả lời rằng muốn, thì tôi nói: «Vậy
thì anh quả là độc ác! Một đằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu
rỗi (x.1Tm 2,4), Còn anh lại muốn chỉ những ai trong giáo phái của anh mới được
cứu rỗi. Anh sẵn sàng chấp nhận những người khác giáo phái của anh không được
cứu rỗi, tức sa hỏa ngục. Vậy thì anh mới chính là người đáng sa hỏa ngục đầu
tiên, vì nơi anh không có tình thương! Vì tình thương mới là điều quan trọng
nhất phải có để vào thiên đàng, để hợp nhất với Đấng mà bản chất là tình
thương».
Nếu anh ta mong rằng điều anh ta nghĩ là sai, thì
tôi bảo: «Như vậy là anh rất nhân từ, có tình thương! Tốt lắm! Phần tôi, tôi
chắc chắn rằng Thiên Chúa còn nhân từ và nhiều tình thương hơn anh gấp tỷ lần.
Ngài có đủ quyền năng và đủ cách để giải quyết cho những Kitô hữu khác giáo phái
với anh được cứu rỗi. Vì thế, anh hãy phó mặc số phận của những người theo giáo
phái khác trong tay Chúa và hãy an tâm! Anh hãy lo cho chính bản thân anh thì
tốt hơn, vì nếu anh không có tình yêu, anh không thể vào thiên đàng được đâu!
Điều Chúa muốn nơi anh chính là anh hãy coi các Kitô hữu khác giáo phái với anh
là đồng đạo, và coi cả những người khác tôn giáo với anh nữa là anh em. Anh hãy
yêu thương họ và hãy mong ước những điều tốt lành nhất cho họ!»
5. Điều quan trọng nhất để vào được thiên đàng là
tình yêu
Điều quan trọng để vào được thiên đàng là đức
tin. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay
đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến»
(1Cr 13,13). Khi lên thiên đàng, đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết
nữa, chỉ riêng «đức mến không bao giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định
nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình
thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ
làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần
đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46, khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử
của ta có tình thương hay không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết,
chúng ta dễ hạnh phúc ở bên những người biết yêu thương hơn là bên những người
có niềm tin. Thực ra, niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế giới
này đã từng điêu đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí ngày
nay vẫn còn. Những cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu đức
tin cho bằng thiếu tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ (tức
thiếu tình thương) sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân của
chiến tranh. Vì thế, đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến mới là
đức tin đích thật. Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm tin giả
tạo, tương tự như «đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Như
vậy, một Kitô hữu có đầu óc bè phái, muốn độc quyền được cứu rỗi, nghĩa là muốn
loại trừ những Kitô hữu khác giáo phái mình, không muốn họ hưởng hạnh phúc đời
đời, thì Kitô hữu ấy rõ ràng là thiếu tình thương. Mà thiếu tình thương thì làm
sao vào thiên đàng được?
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con một đức tin đích thực nơi
Cha và nơi Đức Giêsu. Đức tin đích thực tự bản chất phải bao hàm tình yêu ở bên
trong. Không bao hàm tình yêu, đức tin đó chỉ là đức tin giả tạo, là nguồn phát
sinh óc bè phái, óc độc quyền, cũng là nguồn phát sinh nên bao cuộc chiến tranh
tôn giáo trên thế giới. Xin ban cho con tình yêu đối với mọi người chung quanh
con, đặc biệt đối với tất cả những ai tin theo Đức Giêsu, như dấu chỉ đặc trưng
cho người môn đệ đích thực của Ngài.
15. Ghen tức.
Qua phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi
nhận hai nhân vật, đó là Giôsuê và Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một
thái độ, đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là lòng ghen tức.
Nhân vật thứ nhất là Giôsuê. Ông đã được Maisen
tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái băng qua sa mạc cát
nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất hứa, chiếm lại phần lãnh
thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen tức vì hai ông Eđát và
Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen ngăn cản, nhưng Maisen
đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.
Nhân vật thứ hai là Gioan. Ông là vị tông đồ trẻ
tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy những người khác nhân
danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng đã có một chút ghen tức
và đã ngăn cấm họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của mình được độc quyền. Và như
chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân quan niệm ấy
Từ thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta
chúng ta có thể rút ra một định nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người
khác được may mắn và vui mừng khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu
xét mình, chúng ta sẽ thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng
ta. Một người bạn thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi
nói hành nói xấu người bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng
ta ghen tức, nhưng chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.
Thực vậy, người có tính ghen tức không bao giờ
được hạnh phúc cả. Tôm hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không
đâu. Người bạn có bộ quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được
thiên hạ khen cũng làm cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của chúng
ta sẽ trở thành đề tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù đi ăn
xin. Ông này nghe người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một buổi
sáng, ông này nghe thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi cũng gân
cổ lên để mà hát. Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết rằng mình
hát hay. Thế nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ thật đồ
điên.
Thái độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi
nặng nề khác nữa, chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến
cả tội giết người. Vì thế, ghen tức đã được liệt vào trong bảy mối tội đầu, là
như những căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.
Như chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu
thương khiến cho các người anh ghen tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ
của mình. Nào là những bó lúa của các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse.
Nào là mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao sụp lạy Giuse...Từ thài độ ghen
tức ấy, những người đã anh tìm cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn
và sau cùng đã bán Giuse cho phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai
cập. Rồi lấy áo choàng của Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp
biết là Giuse đã bị thú dữ ăn thịt.
Những người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa
Giêsu, nên họ đã cáo gian Chúa trước tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào
thập giál
Để dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình
vào nếp sống của người khác: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt
chước thánh Gioan Tiền Ho, đã không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm
sút, trong khi uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã
nói:
- Tôi phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi
không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Hãy để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy
trở nên như đày tớ phục vụ người khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc
sống thường ngày, đó là hãy vui cùng người vui và hãy buồn với người buồn.
16. Phe này cánh nọ - Anmai
Con người, tự lâu lắm rồi, đã mang trong mình cái
đầu óc bè phái. Thấy người khác, nhóm khác thành công hơn mình, làm được việc
hơn mình thì không chịu cố gắng, nỗ lực để được như người khác, nhóm khác. Hành
động của những người ấy hết sức buồn cười là họ dèm pha, chỉ trích, nói hành,
nói xấu.
Một kinh nghiệm hết sức thực tế ngay ở dân tộc Do
Thái. Thuở xa xưa, khi đưa dân Do Thái ra khỏi nô lệ của Ai Cập thì Thiên Chúa
đã nhờ đến bàn tay của Môsê. Ông quá vất vả với đám đông ô hợp. Mệt mỏi quá nên
ông than thân trách phận với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nghe lời than vãn ấy,
Thiên Chúa sợ ông phải cán đáng công việc một mình mệt nhọc nên Thiên Chúa đã
gọi Môsê và truyền cho Môsê quy tụ 70 kỳ mục lại để cộng tác với Môsê.
Khi Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên 70 người
thì có 2 người trong nhóm họ tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã
được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều như sách Dân Số vừa
thuật lại. Vì lý do nào đó không đến lều nhưng Thần Khí của Thiên Chúa vẫn đậu
xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Thấy sự kiện như
vậy, Ông Giô-suê con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng
nói với ông Mô-sê: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!" Nhưng ông Mô-sê trả lời:
"Anh ghen dùm tôi à?"
Thế đấy, ông Giô-suê đã ghen tương khi thấy Thần
Khí đậu trên 2 người kia khi họ còn ở trong trại và xin Mosê ngăn cản 2 người
ấy. Với Môsê thì khác, Môsê đã mắng rằng họ đã ghen tuông với 2 người ấy.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô
thuật lại hình như cũng mang âm hưởng của sự ghen tuông. Các môn đệ đã ghen
tuông khi những người không thuộc nhóm với Chúa Giêsu, không thuộc nhóm các môn
đệ mà trừ được quỷ.
Nếu để ý trình thuật trước trình thuật này bối
cảnh là "ở nhà", nơi đó Chúa Giêsu "ngồi" giảng dạy cho các môn đệ. Thánh ký
Máccô tiếp nối khung cảnh bằng cách chuyển mạch từ câu hỏi của môn đệ Gioan nhằm
trình bày những giáo huấn mới của Chúa Giêsu.
Phải chăng việc gợi nhắc Gioan ở đây nằm trong
dụng ý của thánh ký liên hệ đến một vấn nạn dù nhiệt tình song cũng không ít
phần cục bộ: "lấy danh Thầy mà trừ quỉ, nhưng hắn lại không theo chúng tôi, và
chúng tôi đã cố ngăn cản vì hắn không theo chúng tôi". Vì chưng, trong một
truyền thống khác chỉ có trong Tin Mừng Luca (Lc 9,54), chính Gioan và anh mình
là Giacôbê đã đòi khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt dân Samaria không đón
tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ.
Trong thời đại của Chúa Giêsu việc chữa bệnh bằng
cách trừ quỉ cũng được một số người Do Thái thực hành. Sử gia Flaviô Giôsêphê
(Antiquités VIII, 46t) có kể lại trường hợp một người Do Thái tên là Elêazar
chuyên chữa bệnh bằng một việc trừ quỉ rất mê tín và phù phép nhân danh vua
Salômon.
Ở đây, thánh ký đề cập tới việc trừ quỉ nhân danh
Chúa Giêsu, gợi nhắc đến bối cảnh thời Giáo hội sơ khai, ở đó việc trừ quỉ được
coi là khá thịnh hành.
Sách công vụ tông đồ 8,19-24 có kể lại trường hợp
Simon phù thủy muốn mua ở Phêrô quyền làm các phép lạ. Sách Cv 19,13t cũng trình
thuật câu chuyện một số người Do Thái trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu: "Có ít người
trừ tà rong đường, gốc Do Thái, cũng đã thử kêu danh Chúa Giêsu trên những người
có quỉ ám" (Cv 19,13).
Cách miêu tả: không theo chúng tôi là một chi
tiết biên soạn đậm nét thời Giáo hội sơ khai ở đó công đoàn các Kitô hữu tiếp
tục quanh quẩn bên nhóm môn đệ, những kẻ đã từng theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nói: "chớ ngăn cản người ấy, vì không
có ai nhân danh Ta làm phép lạ, rồi lại có thể vội nói xấu Ta. Vì ai không chống
cự chúng ta là ủng hộ chúng ta, Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước, vì danh
nghĩa các ngươi thuộc về Đức Kitô... nó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Câu
39-41).
Sự kiện các môn đệ muốn ngăn cản những kẻ không
theo họ, gợi nhắc tinh thần hẹp hòi của họ sánh với cái nhìn của Thầy họ. Từ đó,
Chúa Giêsu đã dựa vào suy tư của các môn đệ để đưa ra những lời dạy nhằm khơi mở
tâm hồn họ. Trong bối cảnh Chúa Giêsu đang tiến về cuộc khổ nạn cũng như đang
đối diện với phe Biệt phái ký lục tìm cách hãm hại Người, câu trả lời của Chúa
Giêsu (câu 39) có thể được hiểu như sau: một kẻ nại đến Ta, nhân danh Ta, dựa
vào sức mạnh của Ta để làm phép lạ, thử hỏi Người đó có thuộc về phe Biệt phái
ký lục không? Thử hỏi kẻ ấy có chủ ý tìm cách hãm hại Ta không?
Cách miêu tả: vội nói xấu ta Gợi nhắc rằng việc
làm các phép lạ và trừ quỉ... chưa hẳn diễn tả được một cách dứt khoát đức tin
bền vững vào Chúa Giêsu.
Dầu sao, trong nhãn quan thần học của Maccô, câu
trả lời trên của Chúa Giêsu nói lên chủ đích của Người muốn các môn đệ hiểu thái
độ thiếu nền tảng của họ. Vì chưng, "ai không chống đối chúng ta, là ủng hộ
chúng ta" (câu 40).
Làm sao dung hợp được kiểu này và câu nói được
trình bày ở Tin Mừng Matthêu cũng như ở Luca: Bản Mt 12,30 viết: "Ai không đi
với Ta, tức là chống lại Ta. Kẻ không cùng Ta thu họp tức là làm tan nát" (x. Lc
11,23). Phải chăng đây là bằng chứng của các truyền thống mâu thuẫn nhau?
Một lần nữa, độc giả Tin Mừng được mời gọi để
hiểu những lời của Chúa Giêsu trong mạch văn biên soạn tùy theo nhãn quan thần
học của thánh ký.
Như vậy, mạch văn ở đây của Máccô là gì? Đó là sự
mời gọi của Chúa Giêsu ngỏ cho các môn đệ biết theo chân Người làm tôi tớ mọi
người (câu 35c), nhất là những ai thấp hèn hơn. Nếu Người đã từng nặng lời kết
án phe Biệt phái ký lục và Hêrôđê như những kẻ mù quáng đối nghịch lại với
Người, thì ngược lại, Người cũng luôn tỏ bày khuôn mặt của Đấng Thiên sai mang
ơn cứu độ cho hết mọi người, Do Thái hay dân ngoại. Thế nên, chỉ có những kẻ chủ
ý chống lại Người, phủ nhận quyền năng của Người, sẽ phải hụt mất cơ may cứu độ.
Còn bất cứ ai không chống lại quyền năng của Người, cũng như muốn làm những sự
thiện nào đó, đều được mời gọi để tin theo Người...
Lồng kết vào trong bối cảnh thời Giáo hội sơ khai
ở đó Tin Mừng Maccô được biên soạn, kiểu này ngỏ cho các môn đệ và qua đó cho
cộng đoàn Kitô hữu của sơ thời cũng như của mọi thời, như là lời mời gọi họ biết
vượt qua tinh thần ích kỷ hẹp hòi phe phái. Vì chưng những ai theo Chúa không
được phép trở thành những nhóm đóng kín, kẻo có nguy cơ sống trái ngược với tinh
thần của Thầy họ. Ai tự cho mình là môn đệ đích thực của Đức Kitô và ai dám kết
án người khác không phải là môn đệ của Người? Ai dám xác quyết rằng quyền lực
cứu độ của Người chỉ tỏ bày cho họ chứ không cho kẻ khác? Ai có thể biết được
quyền lực đó hoạt động như thế nào nơi người khác không?
Đang khi đó về bản văn của Matthêu và Luca: Nếu
các Tin Mừng này trình bày một kiểu với ý nghĩa đối chọi, chính vì mạch văn đổi
khác. Nơi Matthêu chẳng hạn, mạch văn nói về ý nghĩa vẫn đục của nhiều kẻ gán
quyền lực trừ quỉ của Chúa Giêsu như xuất phát từ Satan. Hơn nữa trong bối cảnh
của cộng đoàn mà Tin Mừng Mathêu được biên soạn, mối bận tâm nằm ở tầm vóc nội
bộ cộng đoàn: "không phải mọi kẻ nói với Ta, Lạy Chúa, là sẽ vào được nước Trời"
(Mt 7,21).
Trở lại với mạch văn Máccô người môn đệ của Chúa
Giêsu được kêu mời ý thức sâu sắc về tâm nhìn cứu độ phổ quát của Người. Họ cần
biết vượt thoát tinh thần phe nhóm để thấy được nơi mỗi sự thiện, mỗi sự góp
phần tích cực nào đó như là khởi điểm cho ơn cứu độ, cho sự đón nhận Tin Mừng.
Vì chưng, như đã được gợi nhắc ở trước trong Tin Mừng, sự thiện thuộc về Thiên
Chúa, Đấng đã nhìn thấy mọi sự Ngài sáng tạo đều tốt lành quá đỗi.
Nhìn vào cuộc sống của chúng ta, cái máu phe
nhóm, cái máu cục bộ nó len lỏi vào trong đầu của con người chúng ta lúc nào
không hay.
Tâm trạng phe nhóm rất dễ thấy nơi các công sở,
xí nghiệp và ngay cả trong gia đình. Chẳng hiểu vì sao và lúc nào mà tinh thần
cục bộ, phe nhóm, bè phái nó đã len vào trong gia đình, trong công sở, trong xí
nghiệp. Nhìn ở góc độ nào đi chăng nữa thì tinh thần cục bộ, óc bè phái và phe
nhóm vẫn mang yếu tố tiêu cực hơn là tích cực dẫu rằng có chuyện thi đua để cho
mọi sự nên tốt. Con người vẫn mang trong mình những giới hạn để rồi nhóm này
thành công thì nhóm kia sẽ thất bại và rồi hai bên cứ kình địch nhau mãi. Tốt
hơn hết là ta nên dung hoà và ta nên cùng làm việc chung với nhau chứ đừng vì hư
danh mà ganh tỵ.
Anh em vẫn dùng cơm chung với nhau, thi thoảng
Cha Sở đã nhắc nhở anh em nên sống công bằng, sống cư xử mọi người như nhau chứ
đừng tạo phe nhóm, đừng tạo nên não trạng cục bộ. Chắc có lẽ kinh nghiệm với
biết bao nhiêu năm sống cộng đoàn, giúp mục vụ nên Cha Sở đã thấy được những tổn
thương, những thiệt hại của tinh thần bè phái, phe nhóm và cục bộ.
Mỗi thành viên góp phần cho sự phát triển của gia
đình và cộng đoàn. Nếu từng thành viên ấy chung tay góp sức lại thì gia đình,
cộng đoàn ấy vững mạnh và hạnh phúc. Nếu như gia đình, cộng đoàn nào gặp phải
tình trạng phe nhóm thì buồn thật vì khi ấy, căn nhà, cộng đoàn ấy cứ mãi bị
khập khiễng do sự ganh ghét, hơn thua của phe này nhóm nọ.
Thiệt hại về phe này cánh nọ chúng ta thấy hết
sức bi đát. Dẫu bên ngoài họ có che lấp bằng những vẻ đẹp hào nhoáng đi chăng
nữa nhưng bên trong nội bộ vẫn là sự bất an. Bất an là vì một bên thì cố gắng
hết sức thủ cho mình hết chiêu này đến thức nọ để bảo vệ cho phe của họ còn phe
kia thì cứ rình rập xem phe kia có sơ hở gì không và nếu có sơ hở là họ bắt đầu
chỉ trích, bắt đầu lên án, bắt đầu dèm pha như các môn đệ hôm nay trong Tin
mừng.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Vua của Bình An, Vua của
Hiệp Nhất đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta dẹp bớt đi cái tôi của
mình, dẹp bớt đi cái não trạng bè cánh để cộng đoàn, gia đình chúng ta được bình
an và hạnh phúc hơn.
17. Dịp tội.
Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa
Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quí giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác
vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu
cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho
môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên
lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm
cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm
gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài, thì Ngài không bao giờ
bỏ qua đâu.
Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng
của việc ấy, Ngài bảo rằng: "Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu". Gương mù gương
xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta.
Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên
dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn
làm cho kẻ khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-Na Vô-gan gặp một
hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm
thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để
ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha
Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: "Này ông, ông còn quên cái gì đây này". Người
đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: "Quên cái gì đâu?". Cha Vô-gan nói với
giọng tử tế nhưng cứng rắn: "Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong
toa". Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho
người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối
đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng
trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và
những tội chính họ phạm nữa.
Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người
khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên
phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời
đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của
con người đều quí giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay,
một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một
phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng
hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải
phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống
hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y
khoa.
Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính
là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt
nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói
rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân, móc mắt, không có nghĩa là chặt tay,
chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có
thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ
ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào
đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù
có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng
vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với
người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội... thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải
cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong
năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.
Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích.
Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo
môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và
việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà
nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì
chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp... đều
chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó
là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì
nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lời lãi
cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và
thực hành bài học hôm nay.
18. Lời khuyên.
Tin Mừng nêu ra nhiều điểm rất quan trọng có tính
thực hành. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu gởi đến các người lãnh đạo trong
cộng đoàn nhưng chúng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.
1. Các Tông đồ đề cập đến một người không lấy tư
cách đoàn thể của họ, để chữa lành dân chúng nhân danh Đức Giêsu. Các ông tìm
cách ngăn cản người ấy. Tại sao? Bởi vì các ông ganh tị quan hệ đặc biệt của
người ấy với Đức Giêsu (có một ví dụ tương tự trong Bài đọc 1). Chúng ta nhớ đến
thái độ hẹp hòi của chúng ta đối với các Kitô hữu thuộc các Giáo hội khác trước
Công đồng Vaticanô II.
Nhưng Đức Giêsu nói: "Đừng ngăn cản người ta ".
Sự kiện người ấy nhân danh Người có nghĩa là người ấy không chống lại các Tông
đồ. Kế đó Đức Giêsu cho họ một bài học về sự cởi mở và lòng khoan dung. Thật
vậy, mọi lời cầu nguyện trong thánh lễ, và trong mọi bí tích được cử hành nhân
danh Đức Giêsu và quyền năng của Người. Nhưng người Công giáo không độc quyền về
Đức Giêsu.
Một số người e ngại các ơn huệ và thành tựu của
những người khác. Nếu như họ có một thái độ cởi mở hơn hẳn họ sẽ thấy mình được
phong phú thêm thay vì giảm bớt đi bởi những ơn huệ ấy. Người nào khác tôi không
thu nhỏ tôi nhưng làm tôi thêm phong phú. Thiên Chúa ban phát những ơn huệ của
Người một cách tự do. Trách nhiệm của chúng ta là vui mừng tiếp nhận những ơn
huệ ấy dù chúng xuất hiện nơi đâu.
2. Đức Giêsu đã nói rằng ai cho những người bé
mọn dù chỉ một chén nước lã sẽ được tưởng thưởng. Một chén nước lã là tượng
trưng cho một loại công việc tốt lành nhỏ bé. Ít người trong chúng ta có cơ hội
làm những việc lớn. Nhưng cơ hội cho một chén nước có thể đến với chúng ta nhiều
lần trong một ngày. Một hành động nhân từ nhỏ bé có thể biến đổi một mùa đông ít
nhất thành một khoảnh khắc mùa hè cho một người khác.
Không cần có những hành vi to lớn để có thể giúp
đỡ và an ủi con người mà hành vi ấy nhắm đến. Chỉ cần những sự nồng ấm. Mọi hành
vi xuất phát từ tâm hồn đều có sự nồng ấm ấy.
3. Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp
ngã – làm cho người khác phạm tội. Người tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống
lại những người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Người đi lạc lối. Khi chúng ta nghĩ
đến những tội ác mà người ta gây ra cho các trẻ em hôm nay, dù là qua sự thờ ơ
hay lạm dụng thì lời cảnh cáo của Đức Giêsu chúng ta phải coi là rất quan
trọng.
4. Rồi Đức Giêsu nói đến nguyên nhân của tội nằm
trong chính chúng ta. Một kẻ thù của con người nằm trong chính con người. Những
cơ hội gây ra tội phải bị đoạn tuyệt không chút thương tiếc. Đức Giêsu khuyên
người ta phải thực hiện những hy sinh đắt giá nhất để tránh xa tội lỗi, kể cả
phải cắt bỏ tay chân hoặc móc mắt mình.
Những lời này không thể được hiểu sống sượng theo
nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội
nặng bằng bất cứ giá nào. Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm
được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Người là in sâu
vào tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xóa được, rằng nước Thiên Chúa đáng cho
chúng ta hy sinh mọi thứ khác.
5. Đức Giêsu nói về hỏa ngục và so sánh nó với
Ghê-hen-na, Ghê-hen-na là một hẻm núi ở phía nam Giêrusalem. Có một thời, người
ta giết các trẻ nhỏ ở đó để tế thần Mô-lốc. Giô-xua đã chấm dứt việc thờ cúng
đó, và sau này nơi đó dùng làm nơi đổ rác và xác thú vật. Là một mảnh đất báo
điềm gở, nó trở thành biểu tượng cho nơi trừng phạt sau này.
Và lúc nào cũng thế, Lời Đức Giêsu đem lại cho
chúng ta nhiều điều để suy nghĩ. Nếu chú ý đến Lời Người, những việc chúng ta
làm sẽ trở nên tốt đẹp.
19. Tảng đá.
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao
giờ hết. Vì thế, ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn hơn. Dù chúng ta có
biết điều đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp ngã hoặc viên đá giúp
cho người khác vượt qua trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc. Ở đây xin đưa ra
một vài thí dụ về việc chúng ta có thể là cố gây ra sa ngã hay tảng đá gây vấp
ngã cho người khác.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn không tử tế
hoặc bất công trong cách đối xử với tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy rằng tôi là
người xấu.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn làm tôi bị
sỉ nhục chỉ vì tôi không sống theo những gì bạn mong mỏi. Bạn làm tổn thương
lòng tự hào của tôi và làm hại hình ảnh mà tôi có về mình.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn hạ thấp tôi
và đẩy tôi ra phía sau. Khi bạn đứng dưới ánh đèn sân khấu, còn tôi buộc phải
lùi về làm cái bóng của bạn. Điều này làm tôi cảm thấy mình thấp kém.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn loại trừ
tôi hoặc không biết đến tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy mình là một người xa lạ
hoặc một người ở bên lề.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn luôn phê
bình tôi một cách bất công làm tôi chua cay vì sự vô liêm sỉ của bạn. Bạn làm lý
tưởng tôi sụp đổ và phá hủy những mơ ước của tôi.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn trả tiền
lương ít ỏi cho tôi (xem Bài đọc 2). Bạn biến tôi thành nô lệ để bạn có thể sống
như một ông hoàng. Bạn làm tôi nghèo đi để làm giàu cho bạn.
Nếu bạn làm những điều đó cho tôi, bạn là bóng
tối đối với tôi. Bạn là một trở ngại trong đường lối của tôi. Bạn là một cớ gây
vấp ngã, một tảng đá làm tôi vấp ngã trên con đường phát triển của bản thân, và
bạn làm cho tôi khó đến được Nước Trời.
Nhưng bạn cũng có thể là viên đá vượt qua cho
tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn nâng đỡ
tôi trong những lúc yếu đuối và nghi ngờ.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn làm tôi
tin vào chính mình, khi tăng thêm niềm tự tin cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi tôi cảm thấy
không đầy đủ, nhưng bạn giúp tôi khám phá các khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa đã
ban cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn đòi hỏi
thách đố mà không làm tổn thương tôi, trái lại giúp tôi trưởng thành và phát
triển tiềm năng của mình.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn chấp nhận
tôi, dù những người khác bỏ rơi tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn từ chối
hùa theo đám đông để ném viên đá buộc tội và phán xét tôi khi tôi phạm tội.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn tha thứ
cho tôi. Bạn giải thoát cho tôi khỏi quá khứ của tôi, và tôi được tự do để lại
tiến bước.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn sử dụng
tôi và trả lương cho tôi một cách công bằng.
Nếu bạn làm cho tôi bất cứ điều nào như thế, bạn
là ánh sáng cho tôi trong bóng tối. Bạn là một bảng chỉ đường cho tôi trong
những lúc nghi ngờ. Bạn là một cái cầu bên trên dòng nước lo âu, bối rối. Bạn
làm cho việc vào Nước Trời của tôi được dễ dàng hơn.
Đức Giêsu nói nếu bạn đã cho tôi dù chỉ là một
chén nước lã, bạn sẽ được tưởng thưởng về điều đó. Nhưng bạn đã làm nhiều hơn
thế. Bạn đã dẫn tôi đến giếng nước của bạn và chia sẻ với tôi.
20. Hướng tâm hồn lên
Cha Zundel đã có định nghĩa nghe rất lạ tai nhưng
cũng rất hay rằng: "Thiên Chúa là khi bạn tốt". Nói như thế có nghĩa là bất kì
khi nào chúng ta "tốt", chúng ta đều là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, trong
suốt với Thiên Chúa và trở nên giống Thiên Chúa mọi đàng. Nhưng thế nào là tốt?
Một người được gọi là tốt thì phải như thế nào? Nếu liệt kê từng chi tiết nhỏ
thì có lẽ chúng ta không thể ra hết được. Nhưng chúng ta có thể nói, một người
tốt là người sống theo tinh thần Phúc Âm, mà cụ thể là sống theo tình yêu thương
như Chúa đã yêu.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta một tiêu chuẩn, một
phương thế để sống tình yêu là không ghen tị và ghen tương; không sống tinh thần
cục bộ. Biết sống đoàn kết trong tổ chức, trong nội bộ của mình là tốt, nhưng
chưa đủ. Do đó, chúng ta còn phải biết hướng nhìn về những người khác nữa. Nói
cách khác, chúng ta không được phép loại trừ những người khác phe nhóm với mình,
khác tổ chức của mình. Chúng ta cần phải sống tinh thần mà Chúa Giêsu dạy chúng
ta hôm nay: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Các tông đồ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng phạm
phải tội ghen tương và đầu óc cục bộ khi thấy có những người không thuộc nhóm
các ông lại nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Các ông nói với Chúa Giêsu câu
chuyện ấy với ý định là nhờ Chúa Giêsu cấm những người ấy không được phép làm
những chuyện mà các ông đang làm nhân danh Chúa, vì các ông nghĩ rằng chuyện trừ
quỷ là ân huệ chỉ dành riêng cho ông mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không những không
làm theo ý các môn đệ của mình mà còn sửa dạy các ông, giúp các ông biết mở lòng
ra và hướng tâm hồn lên để "nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn
thiện".
Ghen tị, ghen tương, đầu óc cục bộ không làm cho
con người ta lớn lên được mà chỉ quanh quẩn trong những chuyện nhỏ nhặt, kéo ghì
con người xuống. Vì thế, chúng ta rất cần sống tinh thần vui với người vui, khóc
với người khóc mà Thánh Phaolô đã dạy chúng ta. Điều này, mới nghe tưởng dễ
nhưng thực hành là điều rất khó. Có thể, chúng ta "khóc với người khóc thì dễ
hơn vì khi đó, chúng ta thấy mình ở trên người khác; may mắn hơn người khác,
thành công hơn người khác... Nhưng vui với người vui thì khó hơn nhiều. Bởi lẽ,
khi thấy người ta thành công hơn mình, may mắn hơn mình, ở vị trí cao hơn mình
thì khó lòng mà vui theo người ta được lắm. Nếu có thì chỉ ơ bên ngoài mà thôi,
còn trong lòng có thể mình đang bực tức lắm đây. Con người ta phức tạp lắm. Vì
thế, chúng ta cần phải hướng tâm hồn lên, bay cao lên trên những tình cảm tự
nhiên của chính con người mình để chúng ta không bị lệ thuộc vào những chuyện
nhỏ nhen, ích kỷ nơi ta, là nguyên dân làm tâm hồn ta không thể nâng lên cùng
Chúa được.
Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy
ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng
vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.
Để chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập
hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ
quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy
nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ
hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt
mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn
người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở
miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong
lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu
người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn
hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố:
"Tôi xin được móc một con mắt...!". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người
tham lam sẽ bị móc hai con mắt.
Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và
chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta.
Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về
người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.
Tình trạng phe này đối nghịch với phe khác, đoàn
thể này không hợp với đoàn thể kia... hình như ngày nay càng càng gia tăng, đặc
biệt là trong xã hội văn minh và hiện đại như hôm nay. Ai cũng muốn cho công
việc của mình là độc quyền, không ai có thể thay thế được. Sợ rằng mình bị mất
ảnh hưởng, sợ mình không còn được ai nhắc đến, cần đến hay hết còn được đề cao
nữa. Có một số người nhất quyết không truyền lại "nghề" của mình cho bất cứ ai
dù là con hay cháu của mình. Gần đây, chúng ta chắc có nghe đến chuyện hai tập
đoàn viễn thông Viettel và Mobifone kiện cáo nhau vì cho rằng đối tác của mình
"chơi xấu" mình khi cố tình nói ra những chuyện không tốt của nhau, để rồi cuối
cùng ai cũng bị thiệt hại nặng nề cả! Vậy mà họ vẫn thấy vui khi mình chỉ ra
được cái xấu của người khác. Một niềm vui không quân tử và không thánh thiện
chút nào!
Chúng ta cũng dễ thấy tình trạng tôn giáo này nói
xấu tốt giáo khác, mục đích là loại trừ người khác và để nâng mình lên. Thật ra,
truyền giáo bằng cách nói xấu đạo khác, chê bai, chỉ trích người ta thì chắc
chắn không được ai kính trọng và nể phục bao giờ. Đó là chuyện làm của trẻ con
quen làm, chuyện của những đầu óc tiểu nhân, suốt đời chỉ mong làm những chuyện
chia rẽ, hạ bệ, gây đau khổ cho người khác.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy sống hết lòng
cho tình yêu của Chúa và vui lòng chấp nhận anh em mình với những hoàn cảnh và
tình trạng của họ đang có. Đó là thái độ khôn ngoan của con người và là phương
cách tốt nhất giúp ta nâng cao tâm hồn mình lên để đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Chúng ta hãy trở nên tốt để chúng ta được chia sẻ hạnh phúc êm đềm với Chúa mãi
mãi, vì "Thiên Chúa là khi bạn tốt". Amen.
21. Kitô hữu trước điều thiện và điều ác
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin nhận Đức Kitô không chỉ là đi theo Ngài đến
những nơi mà Ngài đã đi qua, mà còn là tham dự vào cách sống của Ngài, tức là
thực thi giáo huấn của Ngài. Cụ thể giáo huấn của Ngài hôm nay là giáo huấn về
điều thiện và điều ác.
- Chúa Giêsu đề cao giá trị các việc thiện, dù
việc thiện ấy do bất cứ ai làm và nhỏ đến đâu đi nữa. Ngày nay, người ta lên án
nhiều về mọi hình thức độc quyền: độc quyền về điện nước, độc quyền về xăng dầu,
độc quyền về sách giáo khoa,... Những thứ độc quyền này đã và đang hành hạ người
dân và làm tê liệt sự phát triển về kinh tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác
nữa. Trong đời sống tôn giáo cũng có một thứ độc quyền mà Chúa Giêsu mạnh mẽ đả
phá, đó là độc quyền về ơn sủng, độc quyền làm điều thiện.
Đây là một vấn đề rất phổ biến trong lịch sử Dân
Thánh. Câu chuyện về ông Giôsuê trong Cựu Ước và ông Gioan trong Tân Ước mà
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trưng dẫn cho ta thấy điều này. Sau khi được báo cáo
cho biết có những người trong trại đã nói tiên tri, ông Giôsuê rất lấy làm khó
chịu và bẩm báo sự việc cho ông Môsê (x. Ds 11,26-28). Cứ theo lời lẽ ông nói,
thì ông muốn việc nói tiên tri là độc quyền của một số người nhất định, chứ
không phải ai muốn nói là nói.
Tương tự, khi thấy một số người mặc dù không
thuộc nhóm các môn đệ của Chúa Giêsu mà lại ra tay trừ quỷ, ông Gioan tìm mọi
cách để can ngăn. Ông hãnh diện về việc này và kể công với Chúa Giêsu: "Thưa
Thầy, có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cấm, vì người ấy
không theo chúng ta" (Mc 9,38). Cứ ngỡ sẽ được Chúa Giêsu khen, ai ngờ ông bị
Chúa Giêsu "sửa lưng": "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy
mà làm phép lạ, rồi sau đó lại nói xấu về Thầy" (Mc 9,39). Rất rõ ràng, quan
điểm của Chúa Giêsu là việc tốt, việc thiện, việc lành do bất cứ ai làm nhân
danh Ngài đều có giá trị.
Hơn thế nữa, một việc tốt, việc lành, nhất là
việc phục vụ anh chị em đồng loại, dù nhỏ bé tầm thường đến mấy vẫn không mất
công phúc: "Thầy bảo thật anh em, ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em
thuộc về Đấng Kitô, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mc 9,41). Ta có thể
cho nhiều hay cho ít, điều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là ta đã cho
"như thế nào", bao nhiêu tình yêu mến được đặt vào nghĩa cử mà ta làm cho người
khác. Ðôi khi chỉ cần cho một chén nước lã mà lại được ghi công. "Cho một chén
nước lã" là một cử chỉ tầm thường, nhỏ bé, song lại lớn lao trước mắt Thiên Chúa
khi được thực hiện nhân danh Người, nghĩa là thực hiện vì lòng yêu thương. Giá
trị của nó còn nằm ở chỗ "làm cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa" (x. Mt
25,40). Đây là một mạc khải đầy bất ngờ. Bất ngờ vì chính Chúa Giêsu đã "đồng
hoá" mình với những kẻ thấp hèn bé mọn. Từ nay, việc bái ái yêu thương mà ta làm
cho anh em đồng loại nhân danh Chúa, nhất là cho những kẻ bé nhỏ, không chỉ đơn
thuần là việc thuộc về "đức ái đối nhân", tức là việc nhân ái giữa người với
người; mà, hơn thế, còn là việc thể hiện "đức ái đối thần", tức là việc yêu
thương đối với chính Chúa. Cái phúc cái phần ấy thế mà được nhân lên gấp
bội.
- Về việc tốt việc thiện là vậy, còn về việc xấu
việc ác thì sao? Cũng trong chiều hướng trên, Chúa Giêsu cảnh tỉnh chúng ta
trước những việc xấu việc ác dù nhỏ. Nhất là làm cớ, hay là làm gương xấu cho
những kẻ bé mọn sa ngã là tội lớn, tội đáng "buộc cối đá vào cổ mà ném xuống
biển". "Buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển" là cầm chắc cái chết, dù có là vận
động viên bơi lội, vì không còn trồi lên được. Đây là một trong hai hình phạt
nặng nề đối với người Dothái thời bấy giờ. Qua giáo huấn này, Chúa Giêsu muốn
đặc biệt lưu tâm đối với các bậc cha mẹ, thầy cô, bề trên,... là những người có
trách nhiệm giáo dục hướng dẫn người khác.
Không chỉ dừng lại ở đó, Chúa Giêsu còn mời gọi
chúng ta can đảm và dứt khoát tránh chiều theo những cám dỗ, những thói hư tật
xấu làm cho chính mình sa ngã. Dứt khoát với sự xấu, sự tội cũng giống như chặt
tay, chặt chân, móc mắt... nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh.
"Mắt" đối với ngưới Do thái, là cửa ngõ của con
tim, là lối vào của tâm hồn (gần với quan niệm của người Việt Nam: mắt là cửa sổ
tâm hồn). Tội tư tưởng thường đến từ đôi mắt. Cũng theo quan niệm của người
Dothái, "tay chân" diễn tả hành động. "Chặt tay chặt chân" nghĩa là phải dứt
khoát với các duyên cớ dẫn đến hành động tội lỗi. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho ta
thấy rằng dứt khoát với tội lỗi không dễ chút nào. Tội lỗi một khi đã thấm vào
người, nó trở nên như một phần bản thân. Dứt bỏ nó cũng đau đớn như chính những
chi thể trong thân thể bị chặt bỏ, cắt lìa. Ta hãy xem những người bị nghiện
ngập ma tuý chẳng hạn. Cơn nghiện vật vã giày vò tưởng chết đi được. Vì đối với
người nghiện, ma tuý trở thành một phần thiết thân của đời sống, đến nỗi khi
phải dứt lìa, họ đau đớn khổ sở như thể đánh mất chính sự sống của họ vậy.
Đặt mình trước giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay,
chúng ta được mời gọi có những phản tỉnh nào? Đối với những điều thiện tôi đã bỏ
qua không làm, hay làm không ý thức: tôi đã đánh mất bao nhiêu cơ hội để làm
điều thiện, vì cho rằng đó là điều nhỏ? Bao nhiêu lần tôi làm điều thiện, điều
tốt mà tôi không ý thức làm vì danh Chúa Kitô?
Đối với những điều xấu, điều tội: bao nhiêu lần
tôi đã tích lũy án phạt vì đã làm cớ cho người khác vấp phạm, sa ngã? Bao nhiêu
lần tôi đã thiếu dứt khoát đối với các dịp tội và đã chiều theo cám dỗ để rồi sa
ngã phạm tội đều đều?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết thành tâm
kiểm thảo mình mỗi ngày và can đảm điều chỉnh lại lối sống của mình cho phù hợp
với giáo huấn của Tin Mừng hôm nay. Amen.
22. Óc ganh tỵ.
Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông
đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải
là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh
Đức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức,
đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm vậy là đúng,
bởi vì những người đó không phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân
danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn
nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói "Ai không chống
lại Ta thì thuộc về Ta".
Qua câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là:
cái óc ganh tỵ đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục
ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn
là những người thân cận của Chúa, như ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa
tiến vào Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương
nhất. Đó là óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa. Nói "Óc ganh tỵ bè phái vì danh
Chúa "bởi vì ganh tỵ có tới ba cấp bực:
. Cấp thứ nhất là ganh tỵ: đó là thói xấu khiến
cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay
việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.
. Cấp thứ hai là ganh tỵ bè phái: là ganh tỵ với
người không thuộc phe nhóm của mình.
. Cấp thứ ba là ganh tỵ bè phái vì danh Chúa:
nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tỵ với những người
không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều
tốt.
Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu
óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên
đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có
thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính
làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì
đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo
tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì
họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên
tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những
người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng
ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy,
nhưng một số người Công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm
kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm
lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về
cái óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa.
Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu
đã đưa ra một nguyên tắc "Ai không chống lại Ta thì phải kể như là thuộc về Ta".
Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường
theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ "Ai không theo ta tức là kẻ chống
ta", hoặc "Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta", hay hơn nữa "Ai làm
bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta". Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ
một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả
những ai không thuộc về phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một
nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn
là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là
bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.
Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo
chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và
độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những
người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan
hòa với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác
thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.
Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có
đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có
cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu
đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có
những việc tốt đã được làm.
Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng
Chúa: đừng ganh tỵ, đừng giữ đầu óc bè phái... nhưng cố gắng sống chan hòa với
mọi người, cùng với mọi người thực hiện những điều tốt, những việc làm có ích
cho tha nhân, cho xã hội.
23. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất
quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm
cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ
người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay
đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải
vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy
chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai
chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt
đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà
phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề
tắt". Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của
tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ
có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần
phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không
chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo
Hột chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà
xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai
tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và
rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị
tật, bị què, bị cụt..., vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần
trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì không
có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.
Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những
điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải
"Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể". Sách Giáo lý cho biết: "...Tra tấn thể xác
hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả
thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người".
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt
bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với
luật luân lý" (GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự
sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu,
ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là
Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa
Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa
Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu,
khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho
thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác
định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho
thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn.
Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như
không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng
nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất
và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế
là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng
cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân
mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là
lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích,
khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con
mắt... Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô
ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm
tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của
mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự
dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự
sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà
con người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu
rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con
đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một
tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội
làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu
kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em
nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu
sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ
to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ
mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng
nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh.
Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một
cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay hay
chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào
Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân
nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức
tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì
tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể
đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự
chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối,
mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn.
Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội,
chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu
nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng
đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu
nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa... là những phương tiện
giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình
trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để
mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.
24. Sống yêu thương hiệp nhất
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao
giờ hết. Sự gần gũi sẽ ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn mạnh và quyết
liệt hơn. Có thể nói con người ảnh hưởng tốt đến người khác và ngược lại. Nói
cách khác, nếu không tỉnh táo và ý thức, chúng ta có có thể gây cớ vấp ngã cho
người khác khó vượt qua trở ngại trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta cái nhìn về điều
đó.Ông Gioan ngăn cản những người không theo "phe" mình, không thuộc nhóm mình.
Tưởng mình làm như vậy là điều tốt và có thể sẽ làm cho Chúa Giêsu hài lòng nên
ông đem việc này kể công với Chúa Giêsu:"Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy
danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta"
(Mc 9, 38). Ông Gioan rất có lý khi ngăn cản những người không cùng hội cùng
thuyền với mình mà dám ngang nhiên "trổ tài oanh liệt". Họ không phải là những
người chính uy. Họ không được cấp giấy phép hành nghề. Họ phải ngưng mọi hoạt
động. Sao mà có thể chấp nhận hành động của họ được!
Thế nhưng Gioan không ngờ rằng Chúa Giêsu đã sửa
lại quan điểm cục bộ, hẹp hòi của ông bằng bài học mới. Chúa Giêsu dạy biết sống
cởi mở và quảng đại với mọi người: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh
nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật,
ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta." (Mc 9, 39 - 40). Tình thương và
ý muốn của Thiên Chúa thì kỳ diệu và tuyệt vời lắm thay! Đường nẻo Chúa làm thay
đổi tư tưởng cục bộ và não trạng hẹp hòi của nhân loại. Tình thương Chúa dành
cho hết mọi người.
Người môn đệ Chúa Giêsu phải có trái tim rộng
lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và có thể mời mọi
người cộng tác vào những việc hữu ích chung, nhất là những người thành tâm thiện
chí. Tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu không biên giới, không chấp nhận bị ràng
buộc trong một phe nhóm hay một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi
khác biệt. Có gì tuyệt vời cho bằng chân lý yêu thương của Chúa Giêsu được hết
mọi người thuộc mọi tôn giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện. Bất cứ
người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào cũng đều được chấp nhận. Bất cứ hành động
công bằng nào đều được Chúa thưởng công, dù chỉ là một nụ cười tươi, một ly nước
lã: "ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy
bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mc 9, 41). Ngược lại
Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm.
Hơn nữa, bản thân chúng ta can đảm dứt khoát nói không với tội ác, sự xấu. Vậy
chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã,
và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác.
Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho
mình nhưng hãy sống chan hoà yêu thương và chia sẻ sự sống, hạnh phúc cho mọi
người. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác ngay trong suy nghĩ, thái độ ứng
cử và cach thức hành động để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy sống tinh
thần yêu thương, vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Hãy sống trong tinh thần hiệp
nhất trong Chúa (Ga 17, 21).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quảng
đại, liên đới với nhau trong yêu thương và hiệp nhất với mọi người. Xin cho tình
thương của Chúa được thể hiện trong cuộc đời chúng con và mọi người được biết
đến. Xin cho chúng con trở thành khí cụ yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu
Chúa. Amen.
25. Tin Mừng dữ dội – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, đọc giả có lúc cười lúc
khóc, có khi cảm nhận được sự xoa dịu ủian hay thôi thúc tỉnh thức, có lúc cảm
thấy bị chói tai, bị cay cú... Tin Mừng nluôn nói lên những chân lý và dạy những
bài học thích đáng.
Suy niệm trang Tin Mừng (Mc 9,42-48), Linh mục
Nguyễn Hồng Giáo dùng cụm từ "Tin Mừng dữ dội".
Đầu đề "Tin Mừng dữ dội" chắc sẽ làm cho nhiều
người ngạc nhiên thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là
Tin Mừng toát ra một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình
và bất bạo động bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số
những người đã tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động
nguyên lý cho sự dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn
khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin
Lành Martin Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ
vẫn thấy Tin Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả hay đúng hơn nhất là Bài giảng
trên núi (Mt các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc
đấu tranh hoà bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất
nước.
Tin Mừng dữ dội với các đòi hỏi gắt gao: "Nếu tay
hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt
chân mà vào cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời
đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà
được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục" (Mt 18,
8-9; x. Mt 5, 19-20).Cần hy sinh những gì đưa chúng ta tới tội trọng và phải
biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của Thiên
Chúa. (x.nguoitinhuu.com)
Lời Chúa hôm nay cho thấy tính chất "dữ dội" của
Tin Mừng.
Phải tránh gương mù gương xấu "Nếu ai làm cớ cho
người khác phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn
hơn".
Phải quyết liệt và dứt khoát với dịp tội"chặt
tay, chặt chân, móc mắt" khi những chi thể này là nguyên nhân phạm tội. ĐGM
Arthur Tonne gọi đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Noel Quesson nói: dù là
những kiểu nói vùng Sêmít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ
bớt đi ý nghĩa của những câu đó.
M. Quesnel tự hỏi: Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc
hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp,
bạo lực, ước muốn xấu (Mc 7,21-22). Chúa Giêsu bảo là hãy dứt khoát "chặt đi"
bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa
của điều mà Phúc Âm gọi là "từ bỏ chính mình" (x. Mc 8,34).
Tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu
mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái
một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe (Fiches
Dominicales). Tay mắt và chân tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu
có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. "Chặt bỏ" một tật
xấu một thói quen, "cắt đứt" một mối liên hệ nguy hiểm. Tính dữ dội biểu lộ nơi
thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt với tội lỗi.
Cũng như người bệnh, phải phẫu thuật, phải cắt bỏ
khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo chúng ta
phải quyết liệt với tội lỗi cho dù phải "chặt tay, chặt chân, móc mắt". Chúamuốn
nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của "sự sống", của "Nước Thiên Chúa", đó là tiêu
chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người.Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt
thòi, thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi "dữ
dội" của Tin Mừng.
Đời sống Kitô hữu cần được cắt xén, gột rửa, từ
bỏ để tăng trưởng, sinh nhiều hoa trái "Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa
chặt bỏ, còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn" (Ga
15,1-2).
Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì
rất "nhẹ nhàng", nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ: "Ai đến với
tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa,
thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26). "Không ai có thể làm tôi hai
chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh
dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được"
(Mt 6, 24); "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: 'Chớ giết người'; ai giết
người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em
mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra
trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa
hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 21-22); "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Chớ ngoại
tình'. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn,
thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5, 27-28); "Thưa Thầy, nếu anh em
con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần
không? Đức Giêsu đáp: 'Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần
bảy" (Mt 18, 21-22); "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Mắt đền mắt răng đền răng'.
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên
phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong
của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài..." (Mt 5, 38-40). Hoặc: "Anh em đã
nghe Luật dạy: 'Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù'. Con Thầy. Thầy bảo anh
em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em..."(Mt 5,
43-44).
Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự
hoàn thiện và tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là
những con người yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36).
Giáo lý Tin Mừng không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải
quyết liệt với mình, làm mạnh với mình, dám dùng "bạo lực" với mình, nếu nói
được như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong
ta, đi ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai
hại và nguy hiểm vô cùng. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án
phạt nặng nề đời sau. Phải tránh gương mù gương xấu. Mỗi người có thể gây dịp
tội khiến người khác sa ngã, và đôi khi thân xác mình lại có thể là dịp tội cho
chính mình. Càng tránh dịp tội, càng ít phạm tội.
Có câu chuyện ngụ ngôn "Đại hội cái búa" kể về
nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng, từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều
sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến
đó.
Một hôm, cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó
với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa
cũng được mời tham dự Đại hội này.
Sau một lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết
luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà
không có cán thì làm được việc gì bây giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều
hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc gỗ cũng không cho!
Bấy giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài
nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm tình, thân tôi mà không có cán như người tật
nguyền không tay chân, xin hãy cho tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa
vào những việc tốt, tôi chỉ chặt những gai góc làm vướng chân quý vị mà
thôi!
Trước lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại
hội liền có sự chia rẽ vì khác quan điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết
lại. Kết quả là đa số bằng lòng cấp cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng
hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ
cây non cho đến cây cổ thụ.
Bạn chỉ cần cho tội ác một cơ hội thôi, là bạn sẽ
hối tiếc cả cuộc đời! Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa.
Tội lỗi tàn phá cơ thể như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những
đổ vỡ trong Gia đình, hầu như không bao giờ hàn gắn được!
Bạn đừng cho tội ác một cơ hội nào hoành hành, dù
chỉ là một một sự dễ dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó!
"Đừng để ma quỷ lợi dụng!" (Ep 4, 27).
Cái xấu có khả năng lây lan rất nhanh. Tiếp cận
với lời "dữ dội" của Tin Mừng sẽ giúp bạn tránh xa dịp tội và gương xấu. Nhờ đó,
bạn sẽ làm chủ những đam mê như vui, buồn, sợ, giận, yêu, ghét, ham muốn trong
mọi mối tương quan.
Cái đẹp, cái tốt, cái chân thật, thường loan
truyềntheo chiều rộng và chiều xa. Sống Tin Mừng giúp bạn đem đến cho cuộc đời
những nét đẹp, cuộc sống thêm ý nhị đậm đà và nhiều niềm vui hạnh phúc hơn.
26. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan
Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn này dường như là một tổng hợp những chất
liệu khác biệt.
Ở cc. 38-41: Ta thấy điều đó ngay khi nhìn bề
ngoài nơi việc thay đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi thứ nhất số
nhiều, Đức Giêsu trả lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất số ít, rồi bằng một
câu khác ở ngôi thứ nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ lời với các môn
đệ (hymas, "anh em"). Rồi, c. 41 nối với c. 37 thì khớp hơn là nối với cc.
38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một đơn vị độc lập được viết nhằm giải quyết
một một vấn đề cụ thể của cộng đoàn, với nội dung và cấu trúc sê-mít: c. 39 là
một mệnh đề điều kiện theo kiểu Sê-mít; c. 10 có giọng văn một cách ngôn. Dường
như c. 41 được ghi giữ lại trong Mt 10,42, ở dạng cổ hơn: "Và ai cho một trong
những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi..."; bản văn nói về đề
tài "những kẻ bé nhỏ" đã được tác giả Mc chuyển thành đề tài "các môn đệ".
Đến cc. 42-48, chúng ta cũng nhận thấy có những
câu nói thuộc các thể văn khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề tài những kẻ bé
mọn của cc. 37 và 41. Các câu 43, 45 và 47 có cùng một cấu trúc và lặp lại nhịp
nhàng đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư tưởng được liên kết với nhau chỉ
về mặt từ ngữ, bằng những "từ móc nối". Điều đó đặc biệt rõ ràng trong cc.
48-50: "lửa" ở c. 48 đưa đến "lửa" ở c. 49; tại đây "(ướp bằng) muối" đưa tới
"muối" ở c. 50. Nhưng trước đó, động từ "làm cớ sa ngã" làm cho cc. 42-48 được
thống nhất. Và thuật ngữ "vì danh" móc nối cc. 37 ("vì danh Thầy"), 38-39 ("vì
danh Thầy, "vì danh Ta [Thầy]") và 41 ("vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô" diễn tả
trong hy ngữ là en onomati hoti, là một kiểu nói Sê-mít). Ngoài ra "một em nhỏ
như em này" ở c. 37 móc nối với "một trong những kẻ bé mọn đang tin đây" ở c. 42
(cho dù trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion / micro).
Tuy đây là một bản văn gồm những tư tưởng được
liên kết với nhau bằng những "từ móc nối", nhưng khi đã thành một đơn vị văn
chương, và đưa vào trong tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ ý khi đặt nó vào
một chỗ nhất định.
Đây là một cuộc chuyện trò giữa Đức Giêsu và Nhóm
Mười Hai: Đức Giêsu ngồi (tư thế của vị thầy). Truyện diễn ra "ở nhà" (c. 33),
một ngôi nhà ta không biết rõ ai là chủ và toạ lạc ở đâu. Ở đây, ngôi nhà được
xác định là tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể gặp ở nơi khác, mỗi khi Mc cần
có để diễn tả sự kín đáo thân mật trong những giáo huấn Đức Giêsu ban riêng cho
các môn đệ, tách khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Trong cuộc trò chuyện, Đức
Giêsu nhấn mạnh rõ ràng đến mối nguy đe doạ cộng đoàn khi các môn đệ còn tìm cho
được ăn trên ngồi trước.
Cuối cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan báo Thương
Khó lần thứ hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời loan báo Thương Khó, mỗi lời đều
có kèm theo những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm tối không hiểu của các môn
đệ, khiến Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo huấn về tình trạng cộng đồng sinh
mệnh giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây, sau lời loan báo lần hai, vì các môn
đệ còn quan tâm đến việc "trên trước", Đức Giêsu dạy cho họ biết đâu là đường
lối của Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Tuy bản văn rất tản mạn, chúng ta có thể chia
thành hai đơn vị:
1) Người ở ngoài nhóm (cc. 38-41);
2) Các cớ làm sa ngã (cc. 42-48).
3.- Vài điểm chú giải
- Người lấy danh thầy mà trừ quỷ... không theo
chúng ta (38-40): Trong Cựu Ước, có một đoạn song song với câu truyện này, đó là
câu truyện Enđa và Mêđa không đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv
8,18; 19,13-14). Môsê đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài tường thuật Mc, người
trừ quỷ đã sử dụng danh Đức Giêsu như một thứ khí cụ đầy sức mạnh (x. Mc 1,24;
5,7). Đức Giêsu dạy các môn đệ tỏ ra khoan dung với người ấy. Thái độ của Người
dựa trên ý tưởng này là bất cứ ai đã trừ quỷ nhân danh Người, không thể ngay sau
đó lại đi nói xấu Người. Hẳn là Mc đang muốn nêu ví dụ này để phê bình những
khuynh hướng độc quyền trong Giáo Hội tiên khởi. Câu 9,40 là một câu
tổng-quát-hoá giáo huấn trong c. 39 thành dạng châm ngôn.
Công thức "vì người ấy không theo chúng ta", chứ
không phải là "vì người ấy không theo Thầy" khiến hiểu rằng nhóm các môn đệ là
một thực thể khép kín và có thể lời báo cáo của Gioan phản ánh một vấn đề của
cộng đoàn.
- Cho anh em uống một chén nước (41): Nên nối kết
lời khẳng định này với c. 37: Hai câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy Đức Giêsu
nói về em nhỏ bằng những từ ngữ thích hợp với một sứ giả, một vị thừa sai hơn.
Chính truyền thống Tin Mừng đã áp dụng cho các môn đệ những lời và những cử chỉ
của Đức Giêsu liên hệ đến các em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển đi từ em nhỏ sang
người môn đệ được mời trở nên bé mọn (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37) hoặc sang "kẻ bé
mọn đang tin", nghĩa là người môn đệ yếu đuối nhất hoặc tầm thường nhất (Mc
9,42; Mt 18,6). Câu 37 liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân danh Đức Giêsu,
nghĩa là phù hợp với tinh thần và điều răn của Người, dường như nối kết hai câu
được nói trong hai hoàn cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về các em nhỏ, câu
kia (c. 37b) nói về những sứ giả của Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc 10,16; Ga
13,20). Được diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với người môn đệ
được tiếp đón trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho người ấy có giá trị đến
thế, chính là vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người ấy (x. Mt 25,35-45).
Nhờ những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý thức
rằng họ thuộc về Đức Kitô và do đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ, Đức
Giêsu tiếp tục hiện diện nơi thế gian này.
- Làm cớ cho những kẻ bé mọn đang tin phải sa ngã
(42): "Những kẻ bé mọn" đây chính là những Kitô hữu yếu đuối hơn hoặc ít sáng
suốt hơn những người khác. Phaolô có lưu ý rằng những người hiểu biết hơn cũng
có thể trở thành cớ khiến người yếu phải sa ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29;
Rm 14,1-23). Giọng nghiêm khắc của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn trọng phẩm
giá của những kẻ ấy và phải ân cần săn sóc họ.
- ai làm cớ cho... sa ngã (43-48): Phân đoạn này
có cấu trúc giống nhau ("Nếu tay ... nếu chân ... nếu mắt..."; x. cc. 43.45.47):
nếu một chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ phạm tội, thì loại nó đi để tránh
được geenna (hoả ngục) và được vào Nước Thiên Chúa. Không cần phải tìm hiểu xem
những tội của tay, của chân, của mắt là những tội nào. Vả lại, loại bỏ những chi
thể này đâu hẳn là loại trừ được mối nguy? Chúng tượng trưng cho tất cả các dịp
tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên
ngoài. Đức Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của "sự sống", của
"Nước Thiên Chúa", tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người (x. Mc
8,35-37 // 10,23-27 // Mt 13,44-45;...).
"Sự sống" thì đối lại với "hoả ngục", được coi
như nơi có những khổ hình dành cho những kẻ tội lỗi bị loại khỏi "sự sống". Câu
trích khá thoáng ở c. 48 gửi chúng ta về với bản văn Is 66,22-24 trong đó vị
ngôn sứ gợi lên vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của thế giới, trong
khi đó ở bên ngoài thành, tử thi của những kẻ phản loạn chống lại Thiên Chúa
đang bị giòi bọ rúc rỉa và lửa thiêu đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm
(hoặc "con cái Hinnôm": ghê-Hinnôm hoặc ghê ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna) gần các
cổng thành ở phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân
Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc) đã
lên tới cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những cách
thế xử lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi
bọ: G 25,5; Hc (Híp-ri) 7,17; lửa: Mt 13,42.50...), trở thành biểu tượng của số
phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi hoán
cải. Viễn tượng của Mc 9,43-48 là viễn tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa
vào những bản văn này mà suy đoán về thế giới bên kia, nhưng mà soi sáng và hỗ
trợ sự chọn lựa con đường đưa đến sự sống (x. Mt 7,13-14 so sánh với cc.
24-27).
Ghi chú: C.S. Mann giữ lại một gợi ý thú vị của
J.R. Harris: tác giả TM II đã lấy từ La-tinh salis (muối) ở thể accusative
(đối-cách) (salem) rồi liên kết từ ấy với Híp-ri salem nghĩa là "bình an, hoà
bình" (x. Dt 7,2). Kết quả là chúng ta có một lời khuyến khích các môn đệ giữ
cho được sự bình an nơi chính mình và duy trì sự bình an giữa họ với nhau (Mc
9,50).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Người ở ngoài nhóm (38-41)
Khi viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu.
Trước tiên, sau 8,33-37, cách xử sự của Gioan lại cung cấp một ví dụ khác về
tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ và sự cần thiết phải sửa chữa. Các môn
đệ không những tranh nhau về chỗ trên trước, các ông còn khoe khoang về những
đặc quyền. Đó là một điểm tiêu cực cần điều chỉnh. Kế đó, cách Đức Giêsu đánh
giá hoạt động trừ quỷ cho hiểu rằng Người không nhắm thành lập một nhóm khép kín
để hưởng các đặc quyền đặc lợi, nhưng là một nhóm biết phục vụ bất cứ ai, trong
âm thầm, khiêm tốn.
* Các cớ làm sa ngã (42-48)
Trong khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến đấu
chống lại sự dữ, các môn đệ phải sẵn sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi trường
hợp và phải sẵn sáng chấp nhận những hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm đạt
tới sự hoàn thiện cá nhân nhờ một việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng cố sự
hiệp thông giữa các thành viên. Sự hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê
quyền trên trước, bởi việc tìm kiếm các đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm sa
ngã, bởi thái độ khinh bỉ những người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối cùng là
duy trì sự bình an có nghĩa là góp phần giúp người ta vượt lên trên tất cả các
mối đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).
+ Kết luận
Cho dù là tản mạn, các lời nói trên đây của Đức
Giêsu luôn luôn có thể giáo huấn các Kitô hữu. Mc đã trình bày các lời này như
những chỉ thị ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo đường đã từng đưa Đức Kitô
đến những đau khổ thập giá. Toàn bộ những giáo huấn này nhắm tới lý tưởng một
cộng đoàn trong đó mọi người sống hoà thuận với nhau (c. 50b) bởi vì sẵn sàng
phục vụ lẫn nhau (cc. 33-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho những người
ở ngoài nhóm trừ quỷ! Người đang khuyến khích người ta làm những việc phục vụ ít
lộ liễu. Quan trọng không phải là làm những việc ngoạn mục, tạo cảm giác mạnh,
nhưng là tình yêu diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao một ly nước cho người
đang khát.
2. Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu đối với kẻ
làm cớ cho người khác sa ngã có thể hiểu như là một lời an ủi khích lệ hay một
lời răn đe tùy người được nhận lời nói này. Là lời an ủi khích lệ cho những
người đạo đức, để họ cứ vững vàng sống đúng tư cách dù có bị thế gian khinh bỉ.
Là lời răn đe đối với những người lãnh đạo cộng đoàn: coi chừng kẻo lối ăn nói,
cư xử của các ngài lại thành cớ cho những kẻ mà các ngài đã đưa vào đức tin phải
mất tinh thần và buông xuôi, hoặc học lấy một cách sống không phù hợp với người
môn đệ của Đức Kitô.
3. Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải
phục vụ như Người: quan tâm đến những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thế cô
thân, và cứ phục vụ họ trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những người đó, vì
kiến tạo được sự hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể làm chứng cho thế
giới thấy rằng Nước Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
4. Thế giới và lịch sử đều những hạt giống Lời
Chúa. Ở bên ngoài Hội Thánh, nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những người đang mở
ra với làn hơi Thánh Thần, hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên Chúa. Chức
năng của Hội Thánh là làm bừng lên và kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu
chỉ thực tại hợp nhất của bất cứ điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái tim
con người. Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc vào điển hình này. Lời đã được
gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể thấy cả nơi các cá nhân
và trong các nghi thức và tập tục của các dân tộc. Lời này được Thánh Thần đưa
tới chỗ hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội. Tất cả mọi người đều cần được
liên tục kéo đến dấu chỉ hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin Mừng và được loan
báo Tin Mừng.
27. Chú giải của Noel Quesson.
Trên con đường đi Xêdarê - Philípphê, nơi Phêrô
đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho
đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một
mình. Con đường của "Con Người" cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng
ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:
- Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách
sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục
sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn
của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác
nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất:
Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là
đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn
đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một "luật lệ" được phép hay bị cấm đoán, mà
là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.
Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy: Chúng
con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ".
Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức
Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều
nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.
Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một
"biến cố" nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực
phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên
đường đi của các Ngài?
Gioan đã thấy một "người trừ quỷ" mà không thuộc
nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài
hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).
Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của
Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ
mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết
rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày
nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).
Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ
quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù
bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn
có "những người trừ quỷ". Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất
đông.
Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh
thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng
cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng
lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng.
Đứng trước những "con quỷ" này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ,
già, lớn, bé... tất cả đều phải "khử trừ" sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng
cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một
phong trào.
Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà
trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.
Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không
thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là
người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo... hay bạn không
thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là
người bảo thủ, cấp tiến... Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ
làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.
Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ
chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ.
Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi
thứ địa vị.
Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của
Người. Người sẽ trở nên "kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người". Người vừa khuyên các
môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ
được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản
ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng
minh "Quyền lực của Đức Kitô". Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng
đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.
Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường,
nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân
cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới "thấy được" của
Giáo Hội hay sao?
Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời
của Đức Giêsu sẽ ra sao?
Đức Giêsu bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không
ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy.
Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy
nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:
"Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi
qua, bất ngờ và tự do như gió" (Ga 3,8).
Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến
rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài "nhóm"
(Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ "đang ở trong lều". Và Môsê đã ước mong
ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: "ôi ước gì Thiên Chúa
có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành
một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những "người của 'Thần Khí' xuất hiện trên măt
đất chúng con".
Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí
được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả.
Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. "Người linh ứng cho
cả những ngôn sứ ở bên ngoài" nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu
"các con đừng ngăn cản người ấy" đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là
bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi
người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình
của Giáo Hội.
Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức
Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị
trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao
cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần
Khí của Chúa... Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh
thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích
thực, nghĩa là "những con người phổ quát", "nhưng con người biết thông cảm những
khác biệt" như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: "Chúng ta cần cổ vũ
ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng
sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy
chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang
bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ"
(GS 9,2).
Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. "Các bạn
đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn". Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên
án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta?
Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng
điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện
không?
Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu
đốt thế gian (Lc 12,49).
Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em
thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng
đâu.
'Một chén nước', không có gì đáng kể. Đó là biểu
tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một
chén nước. Đó là "phàm tước" lạ thường của người môn đệ: "Người ấy thuộc về Đức
Kitô". Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình
với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.
Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ
nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). "Những gì các ngươi đã làm cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đó là sự
lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết
bao cơ hội?
Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin
đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.
Sau những lời khuyên luận lý tích cực ("cho một
chén nước"), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực ("không được làm cớ cho kẻ khác sa
ngã"). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ
khác.
Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của
Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên
trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức
Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải
khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người
cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự
ác.
Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi
còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà
phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.
Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi
thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là
nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành
mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù
là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm
nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét