CHÚA NHẬT 23
THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Is. 35,4-7a; Gc.
2,1-5; Mc 7,31-37
18. Câm và điếc………………………………………….48
1. Câm
và điếc.
Tám
thế kỷ về trước, tiên tri Isaia đã loan báo một thời đại mới, khi Đấng cứu thế
đến, Ngài sẽ canh tân và đổi mới. Sẽ không còn đui mù, câm điếc, bệnh tật. Và
phép lạ hôm nay chứng minh thời gian cứu độ đã đến, và Đức Kitô chính là Đấng
giải phóng thiên hạ đợi trông, bởi vì Ngài đã thực hiện lời tiên tri Isaia: Cho
kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được và người què quặt được
nhảy như nai. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần
xác, điều quan trọng là Ngài chữa lành những tật bệnh phần hồn. Ngày hôm nay,
qua Giáo Hội Ngài vẫn tiếp tục mở mắt mở tai cho một nhân loại câm điếc đối với
lời Chúa, đối với Tin Mừng Phúc Âm.
Chúa
Giêsu đem người câm điếc ra một nơi và Ngài chữa lành cho anh ta. Với chúng ta,
Ngài cũng chăm sóc đến mọi người như thế, Ngài lo lắng cho mọi người như người
mẹ lo lắng cho con mình. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời chúng ta
trong bàn tay quyền năng và đầy tình thương xót của Ngài. Đồng thời chúng ta
hãy kêu cầu Ngài: Lạy Chúa, xin mở miệng con để con không nói lời vu khống,
phạm thượng, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa và xây dựng tình bác ái huynh đệ.
Ngày
xưa, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vị linh mục đã diễn lại động tác của Chúa,
khi ngài đặt tay trên tai và trên miệng chúng ta rồi bảo: Ephata, nghĩa là hãy
mở ra, để chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và biết tuyên xưng những kỳ công của
Ngài. Khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần tăng cười nghị lực để
chúng ta có đủ can đảm làm chứng cho đức tin.
Thế
nhưng chúng ta đã sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế nào? Một giáo dân đã phải
đau khổ thốt lên: Có những người cho đến cuối đời đã chẳng mở miệng nói về Chúa
Giêsu cho một ai, ngay cả cho những người muốn tìm hiểu về Ngài. Chúng ta đã
thua những người quảng cáo hàng hoá trên vỉa hè thành phố và những em bé bán
báo, cũng như những người cổ động cho một nhân vật chính trị hay một thiên đàng
trần thế.
Chúng
ta hãy có can đảm như Bazin, một tiểu thuyết gia, trong một bài diễn văn đọc
giữa hàn lâm nước Pháp, đã long trọng tuyên xưng đức tin của mình như sau: Với
triệu triệu sinh linh, tôi sung sướng và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa. Tuy
nhiên trước khi nói với người khác về Chúa, thì trong âm thầm chúng ta phải
biết lắng nghe tiếng Chúa, qua những giây phút tâm sự và cầu nguyện, vì chúng
ta chỉ có thể cho cái chúng ta đã có, chúng ta chỉ có thể nói về những cái
chúng ta đã biết và đã kinh nghiệm. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã
tuyên bố: Nếu không có một đời sống cầu nguyện sâu xa, làm sao người công giáo,
giữa muôn vàn tiếng nói ô hợp của thế giới, có thể lớn tiếng ca ngợi Thiên
Chúa, làm cho mọi người phải xao xuyến và được cứu rỗi. Và hơn nữa, thế giới
đang mong đợi nơi chúng ta một thứ ngôn ngữ được diễn tả bằng hành động, tức là
một đời sống trong sạch và ngay thẳng, một đời sống đạo đức và thánh thiện, một
đời sống bác ái và yêu thương.
Bởi
vì đời sống gương mẫu của chúng ta cũng chính là một tiếng nói hùng hồn nhất để
giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
2. Lắng
nghe.
Trong một cuộc hội thảo, anh bạn ngồi bên tôi, không
hiểu vì ngủ gật hay vì chia trí lo ra những chuyện đâu đâu, nên khi được mời
lên phát biểu, anh đã đưa ra một ý kiến và để trình bày ý kiến này, anh đã đi
vòng vo tam quốc, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện bên tây
đến chuyện bên tàu, trong khi đó mọi người thì cứ tủm tỉm cười thầm. Cuối cùng,
người điều khiển phải tạm ngắt ý kiến của anh ta và nói: Tất cả những điều anh
diễn tả, cũng như đề nghị, chúng tôi đã trao đổi và bác bỏ ngay từ lúc mới bắt
đầu cuộc hội thảo này rồi. Lúc bấy giờ, mọi người mới dám cười ồ lên. Lâu ngày
có người bạn tới chơi vào ban tối, chúng tôi đã nằm tâm sự với nhau về những
ngày tháng xa xưa. Tôi nói và anh bạn gợi lại. Cứ thế cho tới một lúc tôi cảm
thấy hình như chỉ còn mình tôi nói, ngó sang bên cạnh thì anh bạn tôi đã ngủ
thiếp từ lúc nào không biết.
Từ
hai mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy hai anh bạn yêu quí của tôi đã không
biết lắng nghe hay không chịu lắng nghe nữa, cho nên một anh thì tưởng rằng ý
kiến của mình là ý kiến đầu tiên được đề nghị. Còn anh bạn kia thì lại để tôi
nói chuyện một mình với đêm tối. Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu người cũng
đã không biết lắng nghe như thế. Phải chăng không biết lắng nghe đã trở nên như
một lầm lỗi, một cơn bệnh thông thường.
Qua
đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người
không thể lắng nghe vì anh ta điếc. Cái điếc này không đáng trách. Điều đáng
trách, đó là biết bao nhiêu người có đôi tai thính, nhưng họ lại không nghe
thấy bởi vì họ không lắng nghe. Kinh nghiệm cho thấy lắng nghe là một điều kiện
rất quan trọng trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Thực vậy, đời sống gia đình sẽ
hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người đều biết lắng nghe, để cố gắng hiểu được điều
người khác muốn nói.
Sự
cảm thông không phải là con đường một chiều. Nói và nghe đúng cách sẽ giúp
chúng ta hiểu nhau hơn và sẽ bắc được nhịp cầu cảm thông giữa chúng ta với
những người chung quanh.
Dĩ
nhiên dưới mái ấm gia đình, con cái phải lắng nghe cha mẹ nhưng đồng thời cha
mẹ cũng phải lắng nghe con cái. Hãy bình tĩnh lắng nghe con cái mình nghĩ gì,
cảm gì, muốn gì để rồi từ đó có những hướng dẫn, vừa không mang tính cách độc
đoán, nhưng lại vừa hợp tình lại và hợp lý.
Ở
trường, học trò phải lắng nghe thày cô, bởi vì nếu không lắng nghe thì chẳng
hiểu được chi về bài vở của mình. Nhưng đồng thời thày cô cũng phải lắng nghe
học trò trả lời hay đặt câu hỏi, nhờ đó mà trắc nghiệm được sự hiểu biết của
học trò mà đổi mới cách thức giảng dạy.
Và
nhất là ở đây, trong nhà thờ này, lắng nghe lời Chúa là một việc hết sức quan
trọng. Lời Chúa muốn nói gì với tôi và Ngài mong muốn nơi tôi điều chi. Điểm
chính của bài giảng hôm nay là gì? Phải chăng là hai chữ lắng nghe. Chúng ta
cần nói với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, nhưng đồng thời chúng ta cũng
phải lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng ta hãy thưa lên
với Chúa như Samuel ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng
tai nghe…
3. Nói
được rõ ràng.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi
đến thăm những trẻ em khuyết tật, ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,
hơn các em bị câm điếc.
Thật
khó làm cho các em câm điếc, hiểu được chúng ta, và chúng ta cũng không hiểu
được điều các em diễn tả. Đôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người
ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày, khi phải diễn đạt bằng lời nói cho
người khác hiểu. Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc. Đức Giêsu
đã đụng đến lưỡi anh, và sợi dây đó được tháo cỡi. Giờ đây anh có thể nói được
tự nhiên và rõ ràng.
Nói
sao để người khác hiểu được mình, đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.
Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né
tránh...
Nhiều
người đã trở nên ngọng hay câm vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn: kinh
nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ... Bao kinh nghiệm làm con
người mất tự tin và khép lại. Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Ép-pha-tha,
xin hãy mở miệng con để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình, hầu gặp
được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu
bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi, thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai. Tôi như
người đang xem một phim trên truyền hình mà máy đột nhiên mất tiếng. Tôi chỉ
thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng
ai muốn mình bị điếc hay lãng tai, nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh
này, nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác. Chúng ta thường chỉ nghe điều
mình muốn nghe, hay lắm khi nghe điều người khác nói nhưng lại hiểu dưới cái
nhìn chủ quan của mình. Như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe
bằng tai, không đủ. Cần lắng nghe bằng cả trái tim. Chỉ trái tim yêu thương mới
giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Ép-pha-tha,
xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi, ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ
cứng nhắc, để nghe được cái tôi của anh em.
Thế
giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại, vì có nhiều người bị câm điếc về mặt
tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo, chẳng có gì để cho, chẳng
có gì để nhận, để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin
cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em, đồng thời giúp người khác ra
khỏi sự câm điếc của họ.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Khi gặp một
người bạn khép kín, cô độc, bạn làm gì để có thể đến gần và làm quen với người
bạn đó?
·
Lắng nghe Thiên
Chúa, lắng nghe tha nhân, bạn thấy điều nào khó hơn? Bạn nghĩ gì về khả năng
lắng nghe của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm
đôi mắt cho ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi
cho người không nói được, làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy
Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem
nước cho người họng đang khô, đem thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo
quần cho người đang trần trụi, đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy
Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng, thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa
ấm cho những ai giá lạnh, truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá
cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho những kiếp đọa đày.
4. Hãy
mở ra – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh
sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: "Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông
bà buồn khổ nhất". Họ trả lời: "Khổ nhất là chúng con sống như những
người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành
ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu,
thật y như người điếc".
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm
hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải
nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ
thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói
cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng
không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng
sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ,
thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có
nhiều thứ điếc.
-
Có thứ điếc vì khác
biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu
hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
-
Có thứ điếc vì định
kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa.
Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta
cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào
thì chỉ vào những phần xấu.
-
Có thứ điếc vì bịt
tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở
thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín
trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
-
Sau cùng, có thứ
điếc thiêng
liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học
hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa,
mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm
trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời
hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao
lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu
người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương
tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
-
Có thứ ngọng do khác
biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho
người hiểu ta.
-
Có thứ ngọng do ích
kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta,
mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên
lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em
nghe mà không hiểu.
-
Có thứ ngọng do sợ
sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền
lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
-
Có thứ ngọng do lười
biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh
em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì
lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn.
Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những
đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở
thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có
nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho
lưỡi ta ngọng. Hôm nay, Đức Giê-su cũng đến nói với ta: "Ephata". Hãy
mở ra.
-
Hãy mở
tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa.
Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức
tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
-
Hãy mở
miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi
dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để
ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên
những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy
Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ
ngọng đó.
2) Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ
điếc đó.
3) Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc
bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe?
4) Lắng nghe có dễ không? Bạn có để ý lắng nghe Chúa và
nghe nhau không?
5) Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh
nghiệm gì về điều này chưa?
5. Hãy
mở ra - ĐGM. Nguyễn Khảm.
"Người
làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được"
Có
nhiều khi tôi tự hỏi: Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy
cuộc đời mình sẽ ra sao? Tôi lại nghĩ: Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.
Kinh
Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo
dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn
độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông
trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để
cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông
với cả vũ trụ. Đến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.
Để
tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời
nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Đồng thời
chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một
cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của
chúng ta phong phú hơn.
Như
vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi
thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ
người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập
vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm
điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được
đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta
không biết tạ ơn.
Chúng
ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc
theo nghĩa toàn diện không? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: "Các
anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc". Thực sự vậy, nếu chúng ta quay
lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và
ngôn ngữ là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ
khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì
nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc
theo nghĩa đó.
Một
hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người phụ nữ
đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm
chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến
ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một phụ nữ khác nhập
viện nằm gần chị. Người phụ nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến
khích nâng đỡ chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con
đến thăm chị, người phụ nữ mới vào sau nói với chị "Này Chị ơi! Chị phải
biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm
và chăm sóc chị". Câu ấy làm cho chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy.
Biết bao nhiêu người quan tâm đến chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả
những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai
thăm nuôi. Vậy mà chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi
mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi chị ấy. Nhưng đã
muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng chị đọc được lá thư
người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư:
"Bạn
thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh
phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù
bạn không nhìn thấy tôi. Đôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã
đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này
tôi cầu xin Chúa cho chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như chị
thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của chị sẽ phong phú
hơn."
-
Chúng ta có đôi
tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không
nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe
bằng con tim.
-
Chúng ta câm
điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm
điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật
nguyền, trẻ thơ bơ vơ
-
Chúng ta câm
điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương,
nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học,
hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những
câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện: "Lạy Chúa xin cho con được nói, xin
cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra".
Không
phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa
hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta
thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa
được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên
cái miệng cho người câm.
Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì
tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua
mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như
vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già
ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng
chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Đức, ít khi liên lạc được bằng điện
thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo
liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông
cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc
vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm
thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư
thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ
mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông cụ đối với đứa con gái
thân yêu và xa cách nghìn trùng.
Trong
cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có
thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của
Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho
người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích. Hôm nay tôi chỉ
mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt
lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đồng
thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo
nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong
tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài. Tôi xin anh chị em hãy
nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực
hiện. Đây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc: "Lạy Chúa vinh danh
Chúa" và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đấy chính là
dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói: Lạy Chúa
xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được
hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen
thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá
chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi
cảnh câm điếc.
Lạy
Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm
đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng
lữơi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công.
Lạy Chúa xin cứ gởi con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ,
đem nước cho những người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem
áo quần cho những người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy
Chúa, xin cứ gửi con ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm
cho những ai giá lạnh. Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho
những kẻ bị chà đạp, đem tự do cho những kiếp đoạ đày. Amen.
6. Một
ngày kia khi vương quốc đến.
(Suy niệm của Yvon
Daigneault)
Mở đầu.
Một
biến cố có vẻ như ở bên lề sứ vụ của Chúa Giêsu –việc chữa lành một người câm
điếc- làm sao lại có thể gặp gỡ chúng ta và đưa chúng ta đến một suy tư thiết
yếu về niềm hy vọng và sự tham gia của chúng ta vào việc làm cho nước Chúa trị
đến? Có nhiều lý do. Chúa không làm gì cách nhẹ dạ cả, như thể đối với Ngài có
những điều quan trọng và những điều khác không quan trọng. Hơn nữa, mỗi cử chỉ,
cũng như mỗi lời nói của Ngài đều diễn tả một cách mới mẻ và luôn luôn thúc
bách cùng một sứ điệp đó: Nước Thiên Chúa đã đến, anh em hãy hoán cải và đón
nhận nó!
Lời hứa.
Bài
đọc một diễn tả lời Thiên Chúa hứa với dân Ngài: Ngày kia sẽ có một thế giới
mới, một thế giới khác trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ nỗi lầm than
hoặc sự điên rồ nào của thế giới hiện tại nữa: Sẽ không còn tật nguyền nữa
nhưng sẽ đầy sự sống, không còn đói khát, âu lo, chiến tranh nữa, nhưng là hòa
bình. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa sẽ đến khai mạc.
Những
kẻ lắng nghe những tiếng kêu hăng say này của các ngôn sứ phần lớn là những
người nghèo nhất và những kẻ thiếu hy vọng nhất trong một xứ sở đã trở thành
mồi cho sự xung đột giữa các cường quốc. Họ không có quyền hành gì trên những
bức xúc liên lỉ của cuộc sống: Tật nguyền, bệnh tật, sự hiện diện gây ám ảnh
của thần chết, đói kém, giặc giã và thiếu tự do.
Có phải đã đến lúc không?
Những
người nghèo ấy đã nghe những lời hứa này, đã chờ đợi chúng được thực hiện, biết
các dấu chỉ loan báo điều ấy sắp xảy ra. Chắc hẳn họ nhắc lại những dấu chỉ đó
trong lòng và chờ đợi chúng. Lời cầu của họ có thể là gì khác hơn là một lời
kêu xin lâu dài và kiên nhẫn không?
Vậy
nên, khi họ biết được rằng một vị ngôn sứ thực hiện những dấu chỉ đầu tiên
trong các dấu chỉ được hứa, rằng những người nghèo, những người đau ốm và tật
nguyền, những nạn nhân của nỗi lầm than của con người tìm thấy được nơi Người
sự an ủi đã chờ mong từ rất lâu, thì những đám đông lầm than khốn khổ nhưng
tràn trề hy vọng tuốn đến với Chúa Giêsu.
Một vương quốc phải bắt đầu.
Quả
thật đây là khởi điểm. Nhưng cũng còn là điều gì khác lớn hơn và hấp dẫn hơn
nữa.
Tin
rằng triều đại Thiên Chúa gồm những phép lạ, một phép mầu biến đổi cuộc sống mà
chúng ta không cần làm gì cả ngoài việc ngồi dưới bóng mát và nhìn xem nó từ
trời xuống, tức là có một ý niệm rất sai lầm về Chúa, một ý niệm nghèo nàn về
con người và ơn gọi của họ, một ý niệm nghèo nàn về Nước Trời.
Như
bài Tin Mừng nhắc nhở, Chúa Giêsu đã rất cẩn thận làm cho người ta hiểu ý nghĩa
các phép lạ Ngài thực hiện: Đây là những cử chỉ giới thiệu một con đường phải
đi và mời gọi người ta đi vào đó như Ngài đang đi.
Nước
Chúa phải bắt đầu bằng việc an ủi những kẻ lầm than, chia sẻ với những ai khốn
cùng khi làm cho người điếc nghe được, người câm nói được, người què đi được,
người mù được sáng mắt. Vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những
quyền phép lạ lùng nhưng, theo lời căn dặn của Chúa Giêsu mà trong mỗi Thánh lễ
đều được nhắc lại cho chúng ta, là phục vụ lẫn nhau, theo gương Ngài.
Nước
Chúa là một hồng ân. Đây cũng là công việc biến đổi thế giới: thay thế bất công
bằng sự công chính, đau khổ bằng sự an ủi, lo âu bằng hy vọng, tính ích kỷ bằng
tình thương. Sau khi đã hoàn tất những công việc đó mà chính Thiên Chúa cũng
tham gia vào, thì thế giới mới đã được hứa sẽ xuất hiện.
Kết luận.
Niềm
hy vọng, vốn là sức mạnh của sự xác tín, phải sống động đủ nơi chúng ta để thúc
đẩy chúng ta thi hành những công việc Chúa đề nghị cho chúng ta để thế giới mới
mà Thiên Chúa hứa có thể trở thành hiện thực.
7. Đức
tin là bởi nghe, sự thờ lạy là bởi nói.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”
- Charles E. Miller).
Giác
quan của chúng ta thì tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thật khó mà quyết định
giác quan nào là thế giá hơn, ánh nhìn của chúng ta hay là đôi tai, nhưng người
đàn ông trong Phúc Âm đã không do dự. Ông ta bị điếc và ông biết chính xác điều
gì là quan trọng nhất đối với ông ta.
Điếc
làm cho anh ta không nghe được; anh ta cũng không thể nghe được những lời mà
mình phát âm. Anh ta không thể hỏi Chúa Giêsu về những đặc ân mà mình cần. Khổ
thay, một số người liên quan đã mang anh ta đến với Chúa Giêsu và giải thích về
hiện trạng của anh. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh, và cho anh một khả năng để
lắng nghe và Người đã làm cho người đàn ông đã có thể nói một cách rõ ràng.
Chúng ta không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đã động lòng thương xót. Điều làm cho
chúng ta ngạc nhiên đó là tất cả chúng ta một lúc nào đó trong cuộc sống đã bị
tình trạng giống như một người điếc, không bị cách thể lý nhưng là tinh thần,
cách thiêng liêng. Trước kh chúng ta chịu phép rửa, chúng ta là những người
điếc cách thiêng liêng. Chúng ta không có đặc ân đức tin. Kết quả là chúng ta
không nghe được lời Chúa nói với chúng ta, và chúng ta cũng sẽ không nói với
Thiên Chúa được.
Đức
tin đến với chúng ta bằng việc nghe thấy, không phải xuyên qua bộ phận tai nghe
của chúng ta nhưng là qua đặc ân đức tin mà chúng ta lãnh nhận nơi phép rửa.
Đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta có cơ hội lắng nghe
bằng đức tin. Chúng ta sẽ đặt chỗ ưu tiên để suy nghĩ về việc lắng nghe Lời
Chúa như là một nguồn mạch đức tin của chúng ta, còn có những cơ hội khác trong
Thánh Lễ. Kinh Tin kính sau bài giảng đã diễn tả đức tin của chúng ta, như
chúng ta hát những ca vịnh, hoặc khi chúng ta đọc những lời linh đặc biệt là
kinh nguyện Thánh Thể. Một câu ngạn ngữ xưa nói rằng cách mà chúng ta đọc kinh
là diễn tả những gì chúng ta tin (Lexorandi, lexcredendi).
Tuy
nhiên đức tin thì bất toàn cho đến khi chúng ta nói với Thiên Chúa về cung cách
mà chúng ta sẽ cử hành, hay khi chúng ta đáp trả trong việc thờ phượng. Lời
kinh trong phụng vụ sẽ phục vụ cho một mục đích kép đôi: Nó vừa dạy chúng ta
đức tin, vừa trao ban cho chúng ta những từ ngữ thích hợp để diễn tả sự thờ
phượng của chúng ta. Những điều này được ban xuống là để chúng ta thờ lạy Thiên
Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Nói một
cách khác, chúng ta dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa bằng việc nói với
Ngài những gì mà Ngài đã làm và còn đang tiếp tục làm. Trong thời kỳ Phúc Âm,
dân chúng đã tôn kính Chúa Giêsu bằng việc kể lại cách đơn giản những gì Ngài
đã làm. Họ nói: “Ngài đã làm cho người điếc nghe được, người câm nói được”.
Thí
dụ trong kinh nguyện Thánh Thể thứ ba, chúng ta đọc: “Lạy Cha, Cha là sự thánh
thiện và mọi tạo vật của Cha đều phải dâng lời ngợi khen Cha. Tất cả đời sống,
tất cả sự thánh thiện đều phát xuất từ Cha”. Thiên Chúa đã mạc khải rằng Ngài
là nguồn mạch của mọi sự sống, của mọi sự thánh thiện, chúng ta ngợi khen Ngài
bằng việc tuyên xưng Ngài là chân lý thật. Các Thánh Vịnh cũng là hoa quả giúp
chúng ta cầu nguyện bằng cách mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Trong Thánh
Vịnh đối đáp ngày hôm nay, Thánh Vịnh 146: “Thiên Chúa của Giacóp đã giữ lời
hứa đến muôn đời, bảo đảm sự công chính cho người bị áp bức, cấp thực phẩm cho
người đói, Chúa giải thoát kẻ ngục tù”. Những lời này vừa là lời mạc khải vừa
là lời cầu nguyện.
Thiên
Chúa không cần chúng ta nhắc nhở Ngài về sự lớn lao mà Ngài có và sự kỳ diệu
nơi các việc Ngài đã làm. Ngay trong mối quan hệ của con người, chúng ta ngợi
khen người khác bằng việc nói với họ về những gì họ đã làm. Đối với người bạn
mà anh ta đã mời bạn đến nhà dùng cơm thì bạn phải nói: “Món mì nóng tuyệt vời
mà trước đây tôi chưa hề nếm qua bao giờ”. Thiên Chúa cũng làm cách tốt nhất
trong mọi cách cho chúng ta. Đó là những gì chúng ta đã học được khi chúng ta
lắng nghe tất cả mọi hình thức của sự mạc khải. Chúng ta là những người khôn
ngoan, khi sự thờ lạy mà chúng ta dâng cho Thiên Chúa là theo những gì mà Ngài
đã nói về Ngài cho chúng ta, kh chúng ta nói với Người trong cầu nguyện theo
cách mà chúng ta có thể.
8. Chúng
ta là những kẻ câm điếc được chữa lành.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’ – Achille Degeest).
Từ
xứ Galilêa, Chúa Giêsu lên miền Bắc, vòng qua xứ Phênêkia, rồi lại xuống phía
nam, về hướng hồ Tibêria (tức biển Galilêa). Khu vực Chúa đi qua mang tên là
Đêcapôli. Ở đây sinh sống khá nhiều người Do thái, lẫn trong đám dân phần lớn
là người ngoại. Danh tiếng Chúa làm phép lạ lan đến cả đây, cho nên Chúa di
chuyển đến đâu là có người chạy đến xin Người chữa những kẻ bệnh tật. Người ta
đem đến trước mặt Chúa một kẻ bẩm sinh câm điếc. Chúa chữa lành kẻ ấy. Tuy
nhiên ở đây ta chứng kiến một sự biểu dương đặc biệt sự thể Chúa can thiệp vào
sinh hoạt con người. Thay vì chữa khỏi kẻ tật nguyền bằng một hành vi ý chí
thuần tuý và đơn giản, Chúa chạm tay vào người y. chúa tra ngón tay vào trong
lỗ tai kẻ điếc như thể mở tai y. chúa nhổ nước miếng vào tay rồi chạm vào lưỡi
kẻ khốn khổ. Từ phép lạ này ta rút ra hai chủ đề suy niệm:
1) Chúa muốn biểu lộ công hiệu của sự tiếp xúc giữa
nhân tính Chúa và nhân tính chúng ta.
Người
muốn cho thấy rằng mầu nhiệm nhập thể không những là Con Thiên Chúa đến giữa
loài người, mà còn là một sự hiệp thông thân mật giữa Người-Thiên Chúa với
người phàm. Người ta có thể lầm tưởng rằng có lẽ Đức Kitô mặc lấy dáng vẻ con
người, đi qua thế gian giữa nhân loại phàm trần mà vẫn đứng ngoài nhân loại.
Cũng đúng là Đức Kitô có thể truyền thông cho chúng ta tất cả mọi hồng ân cứu
rỗi, chỉ nhờ vào ý chí Người, từ ngoài xa truyền ơn đến cho chúng ta. Chúa
không muốn thế. Chúa đem nhân tính hiển-vinh của Người tiếp xúc với chúng ta,
để hiệp thông với chúng ta. Ngày nay thánh lễ tạ ơn là sự làm chứng cao độ nhất
cho ý muốn Người. Thánh lễ chính là nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu đến
trong chúng ta, và đem chúng ta vào trong nhân tính Chúa để trở nên nơi chốn
chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa.
2) Về phương diện thiêng liêng, chúng ta là những kẻ
câm điếc bẩm sinh được chữa khỏi do phép thanh tẩy.
Đức
Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể tiếp xúc với loài người, cho chúng ta nghe được
Lời của Thiên Chúa và cùng một lúc nói được với Thiên Chúa và với anh em chúng
ta. Chịu phép Rửa tội nhờ bí tích thanh tẩy Chúa lập ra, chúng ta được Chúa mở
tai mở Lưỡi chúng ta, cho chúng ta khả năng nghe Lời Người và nói theo Thần trí
Người. Khả năng nghe và nói đó là gì? Trước hết là đức tin. Nhờ ơn huệ của đức
tin, một Lời của Chúa đến với chúng ta, chúng ta ý thức được Lời đó-cũng như
một lời nói thường lọt qua tai vào tới não, nhờ não chúng ta ý thức được lời
nói ấy. Điều ta nghe thấy nhờ Đức Kitô, cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là ‘Cha’ và
trong Đức Kitô, Thiên Chúa kêu gọi ta đến với Người. Tiếp đến, khả năng nói,
được ban cho ta là sự cầu nguyện. Vì tiếp nhận ơn nói được, ta thưa với Thiên
Chúa: Lạy Cha. Lời nói được Thiên Chúa linh ứng, nó biểu lộ tâm khảm sâu kín nhất
của bản thể ta, chính là tiếng: ‘Cha’ mà chúng ta thưa với Thiên Chúa. Sự đông
người họp nhau lại cầu xin Thiên Chúa như thể cầu xin Cha, đưa đến hệ quả: lời
chúng ta nói với nhau phải là lời nói của anh em trao đổi với nhau. Mọi người
đều có Thiên Chúa là Cha chung, cho nên tất cả là anh em, ngôn ngữ chúng ta
dùng để nói với mọi người-tức là cách biểu lộ những tình cảm sâu sắc nhất-phải
cho thấy giữa chúng ta và mọi người khác có mối tình huynh đệ. Chúa Giêsu trong
chúng ta là Đấng ban ơn cho chúng ta có được phong cách cư xử như vậy.
9.
Ephata - Hãy mở ra.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia
Sẻ’)
Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc
người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa
được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và
câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô. Làm
thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha
mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan
đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền
thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn
tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller
đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Thưa
anh chị em,
Với
kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai,
mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Ngày xưa Chúa Giêsu đã làm phép
lạ cứu chứa những người bất hạnh này. Phép lạ Chúa Giêsu đã làm để chứa người
câm và điếc được Thánh Marcô ghi lại xem ra thật là đơn giản dễ dàng: Ngài kéo
riêng người câm điếc ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào lỗ tai anh, bôi nước
miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời lâm râm cầu khẩn rồi lớn tiếng truyền
lệnh: “Ephata!” nghĩa là “Hãy mở ra!” Tức thì lỗ tai điếc của anh mở ra, nghe
được rõ ràng, lưỡi bị cột cứng của anh uốn được và nói được sành sõi. Cuối cùng
là sự kinh ngạc thán phục của đám đông. Họ nói: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp.
Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Lời
thán phục của dân chúng chính là lời Ngôn Sứ Isaia đã loan báo cho dân Israel
về Đấng Cứu Thế. Ông nói: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt
người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy
như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7). Như thế chứng tỏ là dân
chúng đã nhận ra Đấng Thiên Sai Cứu Thế đã đến rồi. Ngài chính là Đức Giêsu
đang thực hiện lời Ngôn Sứ Isaia trước mắt họ.
Nhưng
giữa đám đông dân chúng chứng kiến phép lạ của những người có tai nghe được, có
miệng lưỡi nói được, những lại câm, lại điếc. Họ giả điếc, giả câm trước Lời
Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Biệt Phái Pharisêu:
“Họ có mặt mà không thấy, có tai mà không nghe!” Quả thật, họ đang điếc trước
công lý, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ chẳng những không chịu hiểu Lời Chúa
mà còn loan truyền toàn những điều lệch lạc, sai trái. Họ thay thế Lời Chúa
bằng các tập tục của cha ông họ. Họ cầm phải được chữa cho khỏi mù tội, khỏi
câm điếc, mới có thể hiểu đúng và công bố Tim Mừng cho người khác. Họ phải mở
tai, mở mắt để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài, thì mới được cứu độ.
Anh
chị em thân mến,
Trong
số những người câm điếc đó, ngày nay có thể có cả chúng ta nữa. Phải chăng
chúng ta cũng nằm trong hạng người có tai thích nhưng không nghe; không nghe vì
không biết lắng nghe. Có miệng lưỡi nói được sõi sàng, nhưng không mở lời ca
tụng Chúa, không nói lên tiếng nói yêu thương anh em? Phải chăng chính chúng ta
cũng là những người câm điếc cần được Chúa Giêsu cứu chữa? Ca dao tục ngữ nước
ta có nhiều câu nói gợi hình để tránh cứ những người có tai mà không biết lắng
nghe. Chẳng hạn, nghe mà không biết nghe, mà hiểu, tai nghe mà lòng không suy
nghĩ, thì người ta lại bảo: “Nghe tai này lọt qua tai khác” hoặc “như nước đổ
lá khoai môn”… Chính vì thế mà khả năng nghe là một tình trạng tinh thần tốt
cần để đón nhận ơn cứu độ. Trong Kinh Thánh, biết bao lần Chúa nói rõ điều đó:
Mỗi lần ban bố lề luật, Thiên Chúa kêu gọi: “Hỡi Israel , hãy nghe đây!” Hôm nay các
ngươi hãy lắng nghe tiếng Chúa phán và đừng cứng lòng”. “Ai có tai để nghe thì
hãy nghe”. Chính Chúa Cha cũng ra lệnh cho chúng ta hãy nghe lời Con Của Ngài:
“Này là Con Ta rất yêu dấu, các con hãy nghe lời Ngài”. Vì thế, khi chữa lành
người câm điếc, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng Ngài đến không chỉ để nói mà
còn để chữa lành khả năng nghe của chúng ta nữa, nếu không, thì có nguy cơ là
Ngài nói mà chẳng được ai lắng nghe cả.
Nghe
và nói là hai phương tiện truyền thông luôn đi đôi với nhau. Con người sống
trong xa hội là phải biết tiếp nhận chân lý qua việc nghe và nói, trao đổi, đối
thoại, trao đổi, mà chỉ biết sống trong ao tù suy tư của mình, nên khi phát
biểu hay hành động, chỉ có thể là những tư tưởng chủ quan, cố chấp, những hành
động sai trái, lỗi thời. Ta thử nghĩ xem: Trong gia đình mà vợ chồng không biết
lắng nghe nhau hoặc mạnh ai nấy phát ngôn, hoặc ông nói gà bà nói vịt, không ai
chịu nghe ai nữa, thì làm sao gia đình có được hạnh phúc? Biết lắng nghe nhau
và đối thoại cởi mở chân thành sẽ giúp vợ chồng thông cảm chia sẻ, như thế sẽ
tránh được biết bao bữa cơm không lành canh không ngọt! Tình cha mẹ và con cái
cũng sẽ đậm đà mật thiết khi con cái biết lắng nghe cha mẹ và cha mẹ cũng biết
lắng nghe con cái. Ở trường học cũng thế, giữa học sinh và thầy cô giáo, giữa
các bạn trẻ, cũng phải biết lắng nghe nhau. Và nhất là trong nhà thờ, người
Kitô hữu phải biết lắng nghe Lời Chúa để hiểu ý Chúa muốn nói gì với chúng ta và
mở miệng lưỡi ra để ca khen chúc tụng Ngài. Chúng ta không chỉ biết lắng nghe
trong nhà thờ, trong gia đình, ở trường học mà còn phải biết lắng nghe ngoài
cuộc sống xã hội nữa. Hãy tập lắng nghe tiếng nói của người cô đơn, người phiền
muộn, kẻ âu lo, người nghèo đói. Đối vời nhiều người, liều thuốc hiệu nghiệm
nhất, món quà quý giá nhất, đó là có được một ai đó thực sự lắng nghe nỗi phiền
muộn cũng như niềm vui sướng của họ và biết nói với họ những lời tình nghĩa yêu
thương…
Anh
chị em thân mến,
Nhờ
Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được Thánh Thần mờ tai, mở lưỡi, mở mắt để ta có
thể hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Tuy nhiên, chúng ta thường vẫn điếc
khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố thường ngày. Chúng ta vẫn câm, vẫn
ngọng khi nói lời ngợi khen Chúa và lời cảm thông với anh chị em. Chính tính
kiêu căng, lòng ích kỷ, tội lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta lại không cho
chúng ta hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Vì thế, chúng ta còn phải nhờ
quyền năng cứu chữa của Chúa Giêsu để ngày càng nghe rõ hơn, nói sành sõi hơn
những lời ngợi khen Chúa, những lời cảm thông với anh chị em, ngày càng thấy rõ
hơn đường lối kỳ diệu của Chúa và đường lối phục vụ anh chị em. Vì “Ngài làm
được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Ngài chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, nơi Ngài ơn cứu độ, sự giả thoát đã đến
với chúng ta.
10.
Lắng nghe – Gm. Arthur Tonne.
Một công ty xây cất lớn đang vẽ sơ đồ để xây một toà
nhà mới. Năm kỹ sư trẻ và một kiến trúc sư làm việc trên bản thiết kế, họ đang
bàn luận về những phương cách sắp xếp một phần nào đó của toà nhà. Khi một
người trong nhóm đột nhiên đề nghị một điều anh nghĩ là một phương cách mới để
thi hành. Những người khác nhìn anh đầy vẻ ngạc nhiên. Người trưởng nhóm phải
trả lời anh rằng ý kiến của anh đã có người đề nghị rồi, đã cứu xét và đã bị
bác bỏ. Điều gì xảy ra vậy. Người kỹ sư trẻ này đã không lắng nghe ý tưởng đó
lần đầu tiên được đề nghị. Anh không nắm được vấn đề. Kết quả là anh không được
thăng cấp, anh không được tăng lương. Anh đã phải trả cái giá không lắng tai
nghe.
Rất
khó nhận ra được biết bao người không lắng tai nghe. Đó là một lỗi rất thông
thường đến nỗi nhiều trường cao đẳng có mở những lớp gọi là: "Viện lắng
nghe" để tìm ra và chữa trị những nguyên do lắng nghe kém.
Chúng
ta vừa nghe Chúa Giêsu chữa người không thể lắng nghe, vì họ điếc. Anh là một
trong hàng triệu người điếc hay lãng tai. Có hàng triệu người khác có tai
thính, nhưng họ không nghe, vì không lắng tai nghe. Vả lại, trong mọi lãnh vực
đời sống, lắng tai nghe rất quan trọng.
Đời
sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người biết lắng tai nghe, không
phải với cái ý là để người khác nói nhưng là cố gắng nghe được điều người khác
muốn nói. Sự thông cảm không phải là đường một chiều. Nói và lắng nghe đúng
cách sẽ giúp hai người hôn phối chia sẻ không chỉ với ý tưởng và sự việc, mà
còn với cảm nghĩ nữa. Cố gắng nghe những gì người khác cảm xúc cũng như những
gì họ nói.
Dĩ
nhiên con cái cần lắng nghe cha mẹ, nhưng cha mẹ cũng cần lắng nghe con cái mình.
Hãy bình tĩnh nghe con trai, con gái bạn nghĩ gì, cảm gì.
Rất
thường gặp một học sinh bỏ mất lời giảng nghĩa, vì em không chăm chú nghe ông
thầy. Cùng lúc ấy ông thầy cũng phải lắng nghe khi học sinh trả lời hoặc đặt
câu hỏi.
Lắng
nghe một cách khôn ngoan rất quan trọng ở đây, trong nhà thờ. Lời Chúa nói
những gì? Ý nghĩa của nó ra sao. Điểm chính yếu của bài giảng là gì? Hôm nay
bạn có thể gồm tóm sứ điệp của chúng ta trong hai chữ "lắng nghe". Chúng
ta cần nói với Chúa trong kinh nguyện. Nhưng chúng ta cũng phải lắng nghe Chúa.
Ít phút thing lặng sau khi rước lễ là lý tưởng để lắng nghe điều Chúa nói.
Hãy
tập lắng nghe người cô đơn, người phiền muộn, người lo lắng. Với nhiều người,
liều thuốc hiệu nghiệm nhất, món quà quí giá nhất là có ai đó thực sự lắng nghe
nỗi phiền muộn cũng như nỗi vui mừng của họ.
Trong
và qua Thánh Lễ, cũng chính Đức Giêsu, Đấng làm cho người điếc được nghe, sẽ
giúp bạn và tôi học nghệ thuật như Chúa Kitô, để chân thành lắng nghe.
Xin
Chúa chúc lành bạn.
11. Hãy
mở ra - Noel Quesson.
Một ông già nổi tiếng là hiểu rộng. Ông học hành rất
ít nhưng lại có kiến thức uyên bác. Nhiều người tới thăm ông và bàn luận với
ông về nhiều vấn đề cao xa. Trong số đó, có một giáo sư nổi tiếng, cũng ngạc
nhiên về ông và đặt câu hỏi:
-
Ông lấy những hiểu biết đó ở đâu ra vậy? Tôi không
thấy cuốn sách nào viết như thế.
Ông già đáp:
-
Hàng ngày tôi đọc ba cuốn sách mà bất cứ ai cũng có
thể đọc. Cuốn thứ nhất là những việc Chúa làm quanh tôi. Cuốn thứ hai là lương
tâm của tôi. Và cuốn thứ ba là Kinh Thánh.
Đúng
như ông già nói, những điều kỳ diệu có sẵn quanh ta, ai cũng có thể nhìn, ai
cũng có thể nghe và nói về những điều kỳ lạ này. Nếu chúng ta không hiểu, là vì
chúng ta không vận dụng ngũ quan và không muốn suy nghĩ tìm tòi. Chính Chúa
Giêsu cũng nhiều lần phàn nàn về các môn đệ; Sao các con tối dạ thế? Có mắt mà
không xem, có tai mà không nghe. Và chúng ta cần được Chúa chữa trị như Chúa đã
chữa người câm điếc mà Tin Mừng mới kể.
Đây
là một bệnh nhân thuộc vùng Siđon ,
dân ngoại bang. Sau một thời gian dài Chúa hoạt động ở Galilê, có một vài thành
công nhưng cũng gặp nhiều thất bại. Một trong những thất bại đó, là bài diễn
văn về bánh hằng sống, đa số dân chúng và các môn đệ không tiếp thu, họ đã bỏ
Chúa mà đi. Chúa quay sang các dân ngoại bang, những người chưa biết Chúa nhưng
có thiện chí, chỉ cần Chúa khai quang, họ sẽ nghe được Lời Chúa và biết lên
tiếng ca ngợi Chúa.
Chúa
chữa người câm điếc như thực hiện một bí tích. Cũng có một cử chỉ và một lời
nói. Chúa đưa anh ra xa đám đông, chạm vào tai và lưỡi anh ta. Chúa ngước nhìn
trời, cầu nguyện rồi nói: Hãy mở ra. Và anh khỏi câm khỏi điếc. Phép lạ nào
cũng do niềm tin của người xin. Nhưng phép lạ cũng do sức mạnh từ thân mình
Chúa Giêsu phát ra. Như các bí tích chúng ta chịu bây giờ, cũng là sự tiếp xúc
giữa người lãnh nhận với vị chủ sự, đại diện Hội Thánh. Và có khi tiếp cận
chính Chúa Giêsu, như bí tích Thánh Thể. Đó cũng là Đức Giêsu đã xuôi ngược
trên các nẻo đường Do Thái xưa. Nhưng ít khi ta thấy phép lạ, vì niềm tin của
ta còn yếu kém.
Chuyện
người câm điếc được lành hôm nay cũng là một ẩn dụ. Vì vậy Chúa chữa bệnh với
một lệnh truyền. Hãy mở ra. Lệnh này không phải nói tới cái tai và cái lưỡi,
nhưng nói với người bệnh. Bệnh câm điếc thể xác là một khuyết tật ngoài ý muốn.
Nhưng bệnh câm điếc tinh thần thì có thể là một lựa chọn của người bệnh. Có
những lúc chúng ta không muốn nghe Lời Chúa nói trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta
qua Tin Mừng, có lúc chúng ta chẳng khác gì người câm điếc. Chúng ta mất khả
năng giao tiếp với Chúa và với anh em. Chúng ta cần cầu xin Chúa, để Chúa chạm
tới ta và nói với ta: Hãy mở ra, và chúng ta khỏi câm điếc, lại tiếp nối sự
hiệp thông với Chúa, và anh chị em trong ân sủng và trong cuộc sống bác ái.
Lạy
Chúa, xin chữa con khỏi câm khỏi điếc, xin cho con biết lắng nghe Lời Chúa,
biết chia sẻ cuộc sống với anh chị em, biết nhiệt thành lên tiếng ca ngợi Chúa
và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người.
12. Câm
điếc.
Trên một tờ báo, người ta đọc được một lời kinh cầu
cho những người câm và điếc như sau:
-
Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà những người câm điếc phải
gánh chịu, đó là thiên hạ coi họ như những kẻ chuyên môn gây phiền hà. Kết quả
là họ thường phải xa lánh bạn bè và ngày càng trở nên khép kín. Vì thế, xin
Chúa hay xót thương nhìn đến họ.
Lời
kinh trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay, cũng như hiểu
được niềm vui của người câm điếc được Chúa chữa lành, bởi vì đây là lần đầu
tiên trong đời anh ta nghe được và nói được. Vậy tại sao Chúa lại chữa lành cho
anh ta?
Lý do thứ
nhất là vì qua việc chữa lành
này, Ngài hoàn tất những dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói đến để giúp dân chúng
nhận ra Đấng Thiên sai, đó là kẻ điếc được nghe và người câm nói được.
Lý do thứ
hai là qua việc chữa lành này,
chúng ta thấy được lòng thương xót của Ngài. Thực vậy, người câm điếc thường
mặc cảm khi tiếp xúc. Họ không hiểu gì cả nên cảm thấy như mình đứng bên lề
những sinh hoạt của cuộc sống. Vì thế, khi dẫn anh ta ra khỏi đám đông, Chúa
Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót thực sự của Ngài đối với anh.
Sau
cùng, lý do thứ ba đó là qua việc chữa lành này, chúng ta tìm thấy
được niềm hy vọng. Thực vậy nhiều người trong chúng ta mặc dầu không câm và
điếc về thể xác, nhưng lại câm và điếc về mắt tinh thần.
Chẳng
hạn như họ không bao giờ nghe thấy tiếng Chúa nói với họ qua lương tâm, qua mười
điều răn, qua Kinh Thánh, nhất là Phúc âm, qua Giáo hội cũng như qua những dấu
chỉ của thời đại. Họ là những kẻ điếc về phương diện thiêng liêng. Tiếp đến họ
là những kẻ khô khan nguội lạnh, chẳng bao giờ biết thân thưa với Chúa qua
những tâm tình cầu nguyện, cũng như không bao giờ mở miệng lên tiếng bênh vực
Chúa và Giáo hội. Họ là những kẻ câm về phương diện thiêng liêng.
Còn
chúng ta thì sao? Nếu như chẳng may chúng ta rơi vào tình trạng trên, nghĩa là
chúng ta cũng đã là những người câm và nhưng kẻ điếc về phương diện thiêng
liêng, thì chúng ta hãy tìm kiếm Chúa và cùng Ngài bước ra khỏi đám đông để
được tận hưởng đôi chút thời gian gắn bó với Ngài, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho Ngài mở tai và mở miệng chúng ta. Nói cụ thể hơn, đoạn Tin Mừng
hôm nay mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Chúa trong việc chữa lành bệnh câm
điếc thiêng liêng nơi chúng ta.
Tóm
lại, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta nhận biết Ngài chính là Đấng Thiên sai
mà tiên tri Isaia đã loan báo từ hàng trăm năm về trước. Hơn nữa chúng ta còn
nhận biết được lòng thương xót của Ngài. Ngài đưa người câm điếc ra khỏi đám
đông để chữa lành, bởi vì Ngài không muốn biến người ấy trở thành trò cười cho
thiên hạ, nhưng Ngài muốn tiếp xúc thân mật với anh ta.
Cuối
cùng chúng ta xin Chúa chữa lành câm điếc thiêng liêng mà chúng ta đang mắc
phải để nhờ đó, chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa cũng như biết thân thưa cùng
Chúa qua những tâm tình cầu nguyện.
13. Câm
và điếc.
Tôi đã đọc một câu sau đây trong một cuốn sách: “Yếu
tố đầu tiên trong một cuộc đối thoại là sự thật, thứ hai là có lương tri, thứ
ba là tính hài hước vui vẻ, và cuối cùng là sự hóm hỉnh thông minh”. Nhưng làm
sao mà một người có thể đối thoại với người khác bằng miệng, nếu như anh ta vừa
câm lại vừa điếc.
Bài
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm
điếc.
Những
người câm điếc thì không thể giao tiếp bằng miệng với chúng ta, bởi vì họ không
nghe được và không nói được. Họ chỉ có thể giao tiếp qua các cử chỉ và dấu
hiệu. Nhiều người có mặc cảm tự ti vì khuyết tật của họ. Nhiều người tàn tật
cảm thấy xấu hổ và tránh né mọi người, vì sợ người khác cười nhạo khuyết tật
của họ. Tôi tin là Chúa Giêsu hiểu rõ điều này, và vì thế Chúa đã đưa người câm
điếc ra khỏi đám đông trước khi Chúa chữa cho anh ta.
Tuy
nhiên, những người câm điếc không chỉ là những người thiếu khả năng nói và
nghe. Chúng ta cũng có thể gặp thấy những người câm điếc về mặt xã hội. Họ là
những người mà chúng ta không muốn nói chuyện, họ là những kẻ thấp cổ bé miệng,
không có tiếng nói, không có thế lực và ảnh hưởng trong xã hội ngày nay. Họ có
nói cũng chẳng có ai thèm lắng nghe họ. Giúp đỡ những con người phận nhỏ như
thế là một cách chúng ta cám ơn Thiên Chúa, vì những ơn huệ lớn lao chúng ta đã
nhận được. Hơn nữa, chúng ta cũng nên xét mình xem chúng ta thường sử dụng khả
năng nghe và nói của mình như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân hay
đã lạm dụng nó?
Dù
chúng ta có thể nghe và nói được, nhưng có thể chúng ta lại câm và điếc đối với
những lời của Thiên Chúa phán dạy. Chúng ta câm điếc khi không giúp đỡ, không
đáp ứng lại trước những nhu cầu cấp thiết của những người lâm cảnh túng quẫn,
khi chúng ta có khả năng, nhưng đã giả tảng làm ngơ, không nghe thấy những
tiếng cầu cứu của tha nhân. Chúng ta cũng lạm dụng miệng lưỡi khi vu khống hay
nói xấu người khác, khi chúng ta phá hủy tiếng tốt của người khác qua những lời
nói dối trá, gièm pha. Bạn có nhận ra những dấu hiệu câm điếc như thế nơi chính
bạn hay không?
Lạy
Chúa Giêsu, xin chữa lành tật câm điếc của con đối với lời của Chúa. Xin mở
miệng con để con loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người con gặp gỡ hàng ngày.
14.
Phép lạ.
Các
tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giêsu. Nói
đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã
làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho
thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền
phép vô cùng. Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là
Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết.
Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu
thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giêsu làm cũng
trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương
người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có
người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu đã đến cho người ta thấy
tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy
bằng cách giúp đỡ loài người.
Nhưng
tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con
người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của
Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài
đem đến cho nhân loại, Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho
thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm
cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra
“Đấng cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn ngươi ăn no. Ngài cho thấy
Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người… Còn phép lạ chữa
người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy
và biết điều gì?
Trước
hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giêsu trong trường hợp này hơi khác
thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy,
lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và
bảo người ấy: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút
buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng
chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác
thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng
tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không
nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào
lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma
quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưỡi
rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được
quyền lực của Sa tan để giải phóng con người.
Một
điều đặc biệt nữa: Chúa Giêsu đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ
Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm
điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì
Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được
nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được
ơn lạ? Và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng
chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.
Đây
là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ
kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng
hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng
phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra
Ngài là ai… Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do
Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế
quốc Rôma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giêsu có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ
nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng
ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng,
công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa.
Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được
nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho
rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ
mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.
Phép
lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa,
đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta
hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối
và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì
tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với tông
đồ Tôma: “Hỡi Tôma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không
thấy mà tin”.
Ngày
xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng
nhất để làm chứng về Chúa Kitô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn
để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Kitô, là
đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Kitô, là sự quên mình xả thân vì
người khác theo gương Chúa Kitô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống
được như thế để làm chứng cho Chúa.
15. Câm
điếc.
Chúng
ta thường bảo: Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, như một hòn đảo
giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống
với người khác, trong một cộng đồng, trong một xã hội. Và để cuộc sống chung
này được tốt đẹp, chúng ta cần phải tạo lấy những mối liên hệ đầy yêu thương và
cảm thông. Tuy nhiên, muốn tạo được những mối liên hệ đầy yêu thương và cảm
thông, chúng ta cần phải nói cho nhau nghe, cũng như cần phải nghe nhau nói.
Trước hết là
hãy nói cho nhau nghe. Ngôn ngữ
và tiếng nói chính là phương tiện Chúa đã trao ban để chúng ta truyền đạt những
ý nghĩ, những tư tưởng, những ước muốn cho người khác, nhờ đó họ sẽ hiểu chúng
ta và cảm thông với chúng ta hơn. Thế nhưng, chúng ta không phải chỉ biết nói,
mà còn phải biết nghe. Có biết nghe người khác nói, chúng ta mới ghi nhận được
những ý kiến và đóng góp của họ. Bằng không, chúng ta chỉ là những kẻ độc
thoại, nói một mình mà chẳng biết có ai lưu tâm đến hay không. Chính vì thế,
việc biết nghe nhau nói cũng quan trọng không kém việc biết nói cho nhau nghe.
Nói và nghe là những phương tiện, những khả năng giúp chúng ta liên hệ với
người khác, nhờ đó tạo được một sự cảm thông chân thành. Nếu không có những
phương tiện này, nếu không có những khả năng này, chúng ta sẽ phải mãi mãi sống
trong sự cô độc lẻ loi và bị loại trừ. Người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa
nghe, đã lâm vào một tình cảnh bi đát. Anh ta đau khổ biết bao vì không được
nói với ai, cũng như chẳng được nghe ai nói với mình. Anh ta không thể hiểu người
khác và người khác cũng khó mà hiểu được anh ta. Cảm thông tình cảnh bi đát ấy,
Chúa Giêsu đã chữa anh ta khỏi câm và điếc, để anh được trở lại với cuộc sống
xã hội, cuộc sống với người khác. Kể từ nay, anh ta có thể liên hệ với mọi
người mà không còn tự ti mặc cảm nữa.
Trong
phạm vi thiêng liêng cũng vậy, chúng ta không thể sống cô độc lẻ loi, trái lại,
chúng ta còn sống với Chúa và với anh em. Vì thế, rất có thể lúc này, mặc dù
chúng ta không câm điếc về phần xác nhưng biết đâu chúng ta lại câm điếc về
phần hồn, một sự câm điếc thiêng liêng. Chúng ta câm điếc khi lặn ngụp trong
tội lỗi, không còn lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua lương tâm, qua
thiên nhiên, cũng như qua những biến cố xảy đến trong cuộc sống. Chúng ta câm
điếc khi không còn dâng lên Chúa lời chúc tụng và cảm tạ tình thương Ngài đã
dành cho chúng ta. Chúng ta câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá, không còn
biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác. Chúng ta câm điếc khi không
còn lắng nghe, cũng như không còn nói được những lời an ủi và khích lệ người
khác. Chúng ta câm điếc khi tự coi mình là một ốc đảo, chỉ biết sống cho riêng
mình và tệ hơn nữa, coi người khác là như hỏa ngục, là như một sự quấy rầy và
phiền nhiễu.
Bởi
đó, xin Chúa hãy mở miệng và mở tai chúng ta, để chúng ta biết lắng nghe và
loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung
quanh.
16.
Tặng vật.
Khả năng
nghe và nói là hai tặng vật lớn.
Giống như mọi tặng vật, người ta có thể coi là việc đương nhiên hoặc sử dụng
sai lầm. Chúng có quan hệ với nhau. Chúng ta thấy điều đó đặc biệt nơi những
người lớn tuổi. Khi họ lãng tai, họ trở nên câm lặng. Người đàn ông đến với Đức
Giêsu vừa bị điếc, vừa nói ngọng. Đức Giêsu chắc hẳn đã biết anh.
Những
người có thính giác kém thường lúng túng và vụng về và buồn cười. Thính giác
kém dẫn người ta đến sự im lặng bối rối, khiến người khác phải hiểu lầm. Ngày
nay những phương tiện trợ giúp cho thính giác đã làm giảm nhẹ nỗi đau khổ của
họ nhưng không làm biến mất hoàn toàn.
Tặng
vật nói được là phương tiện chính để chúng ta truyền thông với người khác.
Người nói ngọng thường làm trò cười cho người khác.
Chúng
ta thấy nỗi đau khổ mà Đức Giêsu chịu thay cho người khốn khổ ấy, và sự săn sóc
mà Người dành cho người ấy. Người dẫn anh ta ra khỏi đám đông để Người có thể
chăm sóc cho anh trong sự riêng tư và dành cho anh sự quan tâm trọn vẹn. Thay
vì nói với anh, Người sờ vào tai và lưỡi anh. Như thế, Người làm cho anh ta cảm
thấy điều anh không thể nghe được.
Phép
lạ có ảnh hưởng lớn đến chúng ta, không phải vì chúng ta điếc hoặc câm (may mắn
thay, đa số chúng ta không bị), nhưng chính xác vì chúng ta có được tặng vật là
nghe được và nói được. Việc chúng ta có được những tặng vật ấy không có nghĩa
là chúng ta sử dụng chúng tốt. Nhiều người là những thính giả rất nghèo nàn. Và
nhiều người gặp sự khó khăn khi diễn tả biểu lộ.
Nghe
được mà không chịu nghe (điều phải) thì số phận còn tệ hơn bị điếc từ lúc sinh
ra. Có tai mà không chịu nghe hoặc có lưỡi mà không chịu nói hẳn là tệ hơn rồi.
Vì thế, chúng ta cần Chúa sờ vào để chữa lành nếu chúng ta muốn sử dụng tốt hai
tặng vật quí giá ấy.
Các
giác quan của chúng ta quí giá và sống động. Chúng ta cũng phải cảm nghiệm
Thiên Chúa với các giác quan của chúng ta: với mắt, tai, lưỡi, và đặc biệt với
tâm hồn chúng ta.
Phép
lạ không chú trọng sự chữa lành thể chất của người đàn ông vừa điếc vừa câm.
Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe
Lời Thiên Chúa và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin
vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe Lời Chúa. Một
người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
Vì
thế, không gì ngạc nhiên khi linh mục sờ tai và lưỡi trong nghi thức Thanh Tẩy
từ những thời kỳ sơ khai và ngày nay vẫn thế. Linh mục chủ tế sờ vào tai và
miệng của người nhận phép Rửa tội và nói: “Chúa Giêsu đã làm cho người điếc
nghe được và người câm nói được. Xin Người cũng sờ vào tai anh/ chị để anh/ chị
đón nhận lời Người và sờ vào miệng anh/ chị để anh/ chị tuyên xưng đức tin vào
Người, để ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta”.
Chúng
ta cần khả năng nghe Lời Thiên Chúa. Rồi cần khả năng tuyên xưng Lời ấy vào
thực tiễn của cuộc sống. Lời của Thiên Chúa, một khi được nghe và thực hành, sẽ
giống như hạt giống rơi xuống đất tốt; nó làm cho đời sống của chúng ta sinh
hoa kết quả.
17. Tin
Mừng.
Tên tôi là James. Vì
hoàn cảnh bị điếc, tôi bị thiệt thòi rất nhiều đến nỗi những người khác coi là
việc đương nhiên. Tôi không thể nghe tiếng la hét của các em bé đang chơi,
tiếng chim hót, tiếng gió thổi trên cây. Tôi không thể nghe những lời an ủi,
động viên hoặc cảnh báo. Ít người chịu cố gắng thông tin cho người điếc. Họ
thấy điều đó rất tẻ nhạt. Tôi cảm thấy cô đơn kinh khủng.
Thực tế tôi cũng bị câm,
nó càng làm tăng thêm cảm giác bị loại trừ và cô độc. Tôi không thể giãi bày.
Tôi không thể diễn tả cảm giác của tôi. Những người vô tình đã cười nhạo sự nói
lắp của tôi.
Tôi không có cơ hội để
đóng góp gì cho cộng đoàn. Hậu quả là, tôi cảm thấy vô dụng và trở thành vô
dụng. Người ta ngại chạm vào tôi. Bị tàn tật là gặp khó khăn. và khi bạn khó
khăn, người ta sợ bạn. Hơn thế nữa, tôi còn đi đến chỗ tin rằng sự tàn tật của
tôi là do Thiên Chúa trừng phạt.
Tôi đầy lòng thương cảm
chính mình. Tôi ao ước được người ta thương xót. Tôi tin chắc không một ai hiểu
và thương xót tôi. Cho đến một ngày kia, tôi biết được Đức Giêsu. Dù Người là
dân Do thái, còn tôi là dân ngoại, tôi cũng không ngã lòng thối chí đi tìm sự
giúp đỡ của Người.
Quả là một kinh nghiệm tuyệt vời! Việc đầu tiên
Người làm là kéo tôi ra khỏi đám đông, và dành cho tôi sự quan tâm trọn vẹn của
Người. Điều này làm cho tôi cảm thấy rằng Người coi tôi quan trọng. Đồng thời
Người cứu tôi khỏi sự tò mò của những người lắm chuyện.
Người không nói với tôi như thể Người tiết kiệm lời
nói. Trái lại, Người đã sờ vào tôi. Người đã làm cho tôi cảm nhận điều mà tôi
không thể nghe được. Không có gì thô lỗ và vội vàng khi Người sờ tôi. Đó là một
cử chỉ dịu dàng, nhẫn nại và yêu thương.
Người đặt ngón tay Người vào lỗ tai tôi. Rồi Người
đặt ngón tay Người vào miệng Người, lấy ra một ít nước bọt trị bệnh và đặt nó
vào lưỡi tôi. Kế đó, Người ngước mắt lên trời để cho tôi thấy rằng đây là sự
giúp đỡ đến từ Thiên Chúa. Rồi với một tiếng thở dài lớn, Người nói: “Hãy mở
ra!”. Và thình lình tai tôi được mở ra và lưỡi tôi trở lại bình thường. Tôi đã
được chữa khỏi!
Người nói với tôi chớ nên loan truyền điều Người đã
làm cho tôi. Nhưng tôi không thể giữ im lặng. Có quá nhiều điều bị dồn nén bên
trong tôi đến nỗi trước hết tôi nói liên tục, không ngừng. Tôi không thể đi qua
một người nào trong phố mà không nói: “Xin chào”. Tôi không thể giữ im lặng khi
gặp một người đang đau khổ nếu tôi cảm thấy một lời của tôi có thể nâng đỡ
người ấy. Tôi cũng không thể đứng nhìn hành động bất công mà không tố giác nó.
Nhưng không bao lâu, tôi đã nhận ra rằng tôi đã nói
quá nhiều. Tôi đã không lắng nghe. Điều này khiến tôi làm tổn thương người
khác. Vì thế tôi quyết định cố gắng lắng nghe người khác. Điều này có nghĩa là
tôi phải ngừng nói. Tôi cũng nghe những âm thanh của thiên nhiên, của âm nhạc,
tiếng cười và tiếng khóc.
Tôi đã khám phá một số điều lý thú trong suốt những
tháng đầu tiên sau khi tôi khỏi bệnh. Tôi thấy mỗi người đều có những trở ngại
nào đó ngăn cản họ sử dụng trọn vẹn tặng vật nói được như e thẹn, vô tình, vô
cảm … Và họ đều có những trở ngại nào đó
ngăn cản họ nghe tốt như thiên kiến, phân tâm, khước từ việc lắng nghe…
Tại
sao tôi nói với bạn điều đó? Chính là để tránh cho số phận của những người có
tai nhưng không thể nghe và có lưỡi nhưng không thể nói. Từ kinh nghiệm của
tôi, tôi đã khám phá ra điều này: bi kịch lớn nhất không phải là sinh ra điếc
và câm, nhưng là có tai mà không chịu nghe và có lưỡi mà không chịu nói điều
phải.
Nghe
và nói là hai tặng vật lớn. Nhưng nếu không có một tâm hồn có khả năng cảm nhận
lòng thương xót, chúng ta sẽ không bao giờ có thể sử dụng tốt việc nghe và nói.
Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nghe đúng, và chỉ với tâm hồn, chúng ta
mới có thể nói đúng.
Đấng
đã sờ vào tai tôi và lưỡi tôi, cũng sờ vào tâm hồn tôi. Có như thế thì mọi việc
mới làm tôi đổi mới. Đó là một phép lạ buổi sáng trước ánh mặt trời.
18. Cần
chữa lành bệnh điếc và ngọng tâm linh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
Chúng ta vẫn gặp được những người điếc, ngọng, câm thể chất, họ chiếm
một tỉ lệ thấp trong xã hội. Thế còn những người điếc, ngọng, câm tinh thần và
tâm linh thì sao? tỉ lệ của họ cao hay thấp trong xã hội và Giáo Hội? Bản thân
ta có bị bệnh điếc, ngọng, câm tinh thần hay tâm linh này không?
Điếc và ngọng về tinh thần và
tâm linh nghĩa là gì? Đó là bệnh cá nhân hay xã hội? một xã hội hay giáo hội có
thể bị điếc và ngọng không?
Có ai bị điếc và ngọng đối với
chân lý không? Tại sao họ lại bị điếc và ngọng trong lãnh vực này?
Suy tư gợi ý:
1. Các thứ
bệnh điếc và ngọng: thể chất, tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân, xã hội và giáo
hội
Trong
xã hội con người, có rất nhiều người bị bệnh: bệnh thể chất, bệnh tinh thần, và
bệnh tâm linh. Đó là nói về bệnh cá nhân. Ngoài ra, một xã hội cũng có thể có
nhiều chứng bệnh: bệnh thể lý như dịch tễ, bệnh tinh thần như sự bất công, áp
bức, các tệ nạn xã hội (đĩ điếm, ma túy), bệnh tâm linh như vô tín, đạo đức
xuống dốc, tình trạng tội lỗi… Một cộng đoàn tôn giáo có thể bị những bệnh như:
cơ cấu làm tê liệt thần khí, hình thức bên ngoài làm mất đi tinh thần bên
trong, quyền bính bị lạm dụng, chia rẽ không hiệp nhất, trên dưới không nghe
nhau, khô khan nguội lạnh, thỏa hiệp với kẻ ác…
Đức
Giêsu đến trần gian để chữa chủ yếu những bệnh tinh thần và tâm linh của con người,
của xã hội và giáo hội, nhưng Ngài cũng chữa cả những bệnh thể lý như dấu chỉ
khả năng chữa lành tinh thần và tâm linh. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc
Ngài chữa lành «một người vừa điếc vừa ngọng» thể lý, là dấu chỉ của loại bệnh
«vừa điếc vừa ngọng» tinh thần hay tâm linh. Điếc là không nghe được, hoặc
không nghe rõ. Ngọng là không nói được, hoặc nói không rõ, khó nghe. Số người
điếc, ngọng, câm thể lý chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ trong xã hội. Nhưng số
người điếc, ngọng, câm về tinh thần và tâm linh chiếm một tỉ lệ rất cao. Thậm
chí có cả bệnh «câm điếc xã hội», nghĩa là có những xã hội bị điếc, ngọng và
câm nữa. Nếu Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay có thể chữa lành bệnh điếc và
ngọng thể lý, thì Ngài còn có thể chữa lành một cách hữu hiệu hơn nữa bệnh điếc
và ngọng về tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân cũng như trong xã hội và giáo hội.
2. Điếc,
ngọng về tinh thần và tâm linh
Điếc
và ngọng về thể chất thì ai cũng biết, thiết tưởng chúng ta không cần đề cập
tới trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài chia sẻ Tin Mừng này. Chúng ta cần bàn tới
bệnh điếc và ngọng về tinh thần và tâm linh, mà ai trong chúng ta cũng bị không
nhiều thì ít.
Nhiều
người thính và tinh tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ
rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh
vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều
hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ
sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hùng biện về kiến thức,
triết lý, khoa học, về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm
thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên điều hay lẽ thật, những lời chân
thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an,
hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
3. Điếc và
ngọng trước chân lý
Nhiều
người đã trở thành điếc trước những quan niệm mới, những cách nhìn mới hay
những cách diễn tả mới về chân lý. Vì họ luôn luôn cho rằng những quan niệm,
cách nhìn hay cách diễn tả chân lý mà họ lãnh hội được trước đây chính là chân
lý. Mà đã là chân lý thì không bao giờ thay đổi. Thực ra, chân lý thì bất biến,
muôn đời không thay đổi, nhưng cách hiểu, sự lãnh hội và cách diễn tả chân lý
của con người thì luôn luôn thay đổi tùy theo khả năng nhận thức của họ. Cũng
như cơ cấu của vật chất, từ ngàn xưa đến nay không hề thay đổi, nhưng quan
niệm, cách nhìn, cách mô tả của con người về cơ cấu vật chất luôn luôn thay
đổi: càng về sau, con người càng quan niệm và diễn tả đúng hơn.
Một
khi đã coi một quan niệm, cách nhìn hay cách diễn tả nào đó là chân lý bất
biến, con người sẽ không còn khả năng chấp nhận những cách diễn tả khác phù hợp
với thời đại mới, với nhận thức mới của con người thời đại. Ta đã thấy gương về
sự cố chấp này trong Kinh Thánh: Thiên Chúa thì bất biến, nhưng cách diễn tả
Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước rất khác nhau. Các kinh sư Do-thái chính vì
cố chấp vào cách diễn tả cũ nên họ đã không chấp nhận được Đức Giêsu, với quan
niệm mới, cách nhìn mới, cách diễn tả mới mẻ về Thiên Chúa của Ngài. Vì thế, họ
đã nhắm mắt bịt tai trước lời của Ngài: lời Ngài có vẻ như không phù hợp với
quan niệm rất hạn hẹp của họ. Tâm trí họ giống như một tách trà đã đầy nước,
không thể tiếp nhận thêm một giọt nước nào nữa, nếu cứ rót vào, nước trà sẽ
tràn ra ngoài.
Một
khi đã điếc trước cách diễn tả mới về chân lý, họ cũng trở thành câm hay ngọng
đối với cách diễn tả ấy.
4. Điếc và
ngọng trong xã hội và tôn giáo
Trong
những xã hội hay tôn giáo độc tài, chỉ có một bè đảng, một phe nhóm hay một
giáo phái nào đó được ưu đãi và toàn quyền hành động, thì người dân luôn luôn
phải chịu cảnh bất công áp bức. Lúc đó, người dân sẽ trở thành những kẻ điếc và
ngọng. Điếc vì họ bị bọn cầm quyền bưng bít không cho nghe những thông tin nào
bất lợi cho chúng, khiến cho người dân trở nên bức xúc và đấu tranh. Ngọng hay
câm vì họ không thể nói lên được những uất ức, những bực bội, những tư tưởng,
những ước muốn của họ. Đương nhiên bị điếc và ngọng thì hết sức bực bội, khổ
não, và không hạnh phúc.
Trong
những xã hội hay tôn giáo ấy, còn một loại điếc và ngọng khác, đó là bệnh điếc
và ngọng của những người theo lý tưởng ngôn sứ. Đó là một lý tưởng cao đẹp
tuyệt vời! Lý tưởng này rất cần thiết, đặc biệt trong những xã hội hay tôn giáo
đang chịu đầy dẫy bất công áp bức. Lý tưởng đó là «loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo hèn, giải phóng những kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng mắt, trả lại
công lý cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Sách Châm ngôn diễn tả một công việc
quan trọng của những người mang lý tưởng đó: «Con hãy mở miệng nói thay cho
người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công
minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Nhưng có rất nhiều
người mang danh theo lý tưởng ngôn sứ này, đáng lẽ họ phải nói thay cho người
câm hay ngọng, nhưng tiếc thay chính họ dường như cũng bị câm và ngọng luôn!
Thay vì sáng mắt thính tai để nghe và thấy tình cảnh khốn cùng của những người
chung quanh mình hầu lên tiếng thay cho họ, thì họ cố tình giả điếc làm ngơ,
bưng tai bịt mắt để khỏi thấy, hầu có thể câm miệng làm thinh cho yên thân, để
«cố đấm ăn xôi» hay «ngậm miệng ăn tiền»!
5.
«Épphatha», hãy mở ra!
Tuy
không điếc và ngọng thể lý, nhưng rất có thể chúng ta đang bị điếc và ngọng về
tinh thần hay tâm linh. Điếc và ngọng thể lý thì không phải chịu trách nhiệm về
căn bệnh. Nhưng điếc hay ngọng về tinh thần hay tâm linh, thì chúng ta sẽ bị
quy kết trách nhiệm trước Thiên Chúa và lương tâm của mình. Vì thế, xét về mặt
tâm linh, điếc và ngọng tinh thần hay tâm linh nguy hiểm hơn nhiều. Bị căn bệnh
tâm linh này, chúng ta cần chữa cho khỏi. Dù là điếc, ngọng hay câm loại nào,
Đức Giêsu cũng có thể chữa lành được, miễn là chúng ta tin vào quyền năng của
Ngài và quyết tâm cộng tác với Ngài. Chỉ cần Ngài rờ vào cái tai tâm linh và
cái miệng tâm linh của ta và truyền cho chúng: «Épphatha, hãy mở ra!» là bệnh
điếc, ngọng, câm tâm linh của ta sẽ được chữa lành. Điều quan trọng là chúng ta
phải xác định được mình đang thật sự bị điếc và ngọng về tâm linh thì Ngài mới
chữa lành ta được! Nếu bị bệnh mà mình lại cứ nói mình chẳng bệnh gì cả, thì
Chúa có quyền năng đến đâu Ngài cũng đành bó tay. Hãy nghe Đức Giêsu nói với
người Pharisêu: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây
các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).
Cầu nguyện
Lạy
Cha, con cảm thấy con đang bị điếc và câm - hay ít ra là đang giả điếc và giả
câm - trước lời mời gọi của Cha. Cha mời con mở to mắt ra để thấy những nỗi
cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng
rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau
thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ… Nhưng con đang giả mù
giả điếc để có thể câm lặng… hầu được an thân, hầu khỏi bị mất mát những gì mà
kẻ áp bức đang ban cho con! Xin Cha hãy chữa lành bệnh ấy cho con!
19. Câm
điếc tâm linh – Lm. Mark Link.
Chủ
đề: "Nhiều
người trong chúng ta bị câm điếc về mặt tâm linh cần được Chúa Giêsu chữa
lành"
Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta
hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật
bất ngờ: "Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in
lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục
của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!". Thế
là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers. Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của
cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình. Một đoạn
trong lời cầu đó như sau:
"Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh
chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người chuyên làm phiền người khác.
Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và
bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và
càng ngày càng trở nên khép kín" (William Barclay)
Lời
kinh trên cho chúng ta thấy một nỗi niềm, một uẩn khúc nào đó của người điếc mà
chúng ta thường ít người nhận ra được. Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ
hại hơn điếc. Thế nhưng Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc
không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị
khép chặt lại, chẳng hạn: mở radio thì chả hiểu gì, xem truyền hình cũng chả
thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì
thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Câu
chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp
ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa
lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của
cuộc sống.
Điều
này dẫn chúng ta đến một vài câu hỏi:
Tại sao Chúa Giêsu đã chữa
lành người câm điếc ấy?
Tại sao Ngài đã khai thông
lỗ tai người ấy?
Tại sao Ngài đã phục hồi
miệng lưỡi người ấy?
Câu
trả lời nằm trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay. Trong lời mô tả vài dấu chỉ sẽ
xảy ra khi Đấng Mêsia đến, tiên tri Isaia đã nói: "Kẻ điếc sẽ được nghe,
ai không nói được sẽ mừng rỡ reo lên"… Qua việc chữa lành người câm điếc
trên, Chúa Giêsu đã hoàn tất hai dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói để giúp dân
chúng nhận ra Đấng Mêsia. Vậy, một trong những mục đích của việc chữa lành ngày
hôm nay là xác nhận rõ hơn Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Tuy
nhiên, việc chữa lành ngườì câm điếc kia còn tỏ lộ một điều ẩn kín nào đó nơi
bản thân Đức Giêsu. Nó cho ta thấy Đức Giêsu là một mẫu người giàu lòng thương
xót. Điều này đặc biệt biểu lộ qua cung cách Ngài tách biệt anh chàng câm điếc
ra khỏi đám đông. Như ta biết, người điếc thường hay mặc cảm nên lúng túng
trước tình cảnh của mình. Họ không hiểu ất giáp gì cả khi nghe người ta hỏi,
nên họ luôn cảm thấy mình như ở ngoài rìa. Vì thế khi dẫn anh chàng câm điếc ra
khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng xót thương thực sự của Ngài đối với
anh, Ngài rất nhạy cảm đối với tình cảnh đáng thương của anh. Như thế ngoài
việc tỏ cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, việc chữa lành người câm điếc còn
cho ta thấy rõ lòng thương xót của Đức Giêsu. Cuối cùng, việc Đức Giêsu chữa
lành cho người câm điếc đã tạo nên nguồn hy vọng cho chúng ta là những kẻ đang
sống ở thời đại ngày nay.
Trạng
thái của người câm điếc không giống trạng thái của riêng chúng ta. Nhiều người
trong chúng ta không điếc về thể lý nhưng lại điếc về tâm linh. Chúng tôi muốn
ám chỉ gì đây? Hãy dùng một ví dụ để làm sáng tỏ: Mới đây một bà mẹ và ông bố
đến thăm đứa con gái của họ đang lâm trọng bệnh ở nhà thương. Ngay khi họ lái
xe rời bệnh viện, bà mẹ bắt đầu vừa khóc vừa nói; "Anh Ron ơi, em chả biết
rõ điều gì đang xảy đến cho em, lẽ ra 10 năm trước em có thể cầu nguyện với tất
cả tấm lòng cho con gái chúng ta. Lẽ ra em có thể trình bày với Chúa về nó, và
lẽ ra em có thể nghe lời Chúa dặn dò em "Đừng lo". Thế nhưng em không
còn làm điều ấy được nữa. Em không còn cầu nguyện được nữa, em không thể nói
chuyện với Chúa như em đã thường làm. Hình như về mặt thiêng liêng em đã trở
nên như câm như điếc".
Câu
chuyện trên mô tả tình trạng của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta đôi lúc
cũng cảm thấy khó cầu nguyện khác với chúng ta ngày xưa. Chúng ta cũng cảm thấy
khó đối thại với Chúa và chúng ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc nghe Chúa
nói với chúng ta. Vậy trong trường hợp này, chúng ta phải làm gì? Câu trả lời
đã nằm sẵn trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta có thể bắt chước người câm điếc
trên, nghĩa là tìm kiếm Chúa Giêsu, cùng Ngài bước ra khỏi đám đông và tận
hưởng đôi chút thời gian bên sự hiện diện có khả năng chữa lành của Ngài.
Bài
Phúc Âm hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để
Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài
khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nó cụ thể hơn, Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng
ta hãy làm lại những gì chúng ta đã từng có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít
phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã
làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là bài Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy để Chúa
Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.Như thế, câu chuyện người câm điếc
trên nói với chúng ta 3 điều; Thứ nhất, nó mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu
chính là Đấng Mêsia của Israel đã được mong đợi từ lâu. Đức Giêsu đã thực hiện
điều mà Isaia tiên báo Đấng Mêsia sẽ làm, tức là cho người điếc được nghe và
người câm nói được.- Thứ hai, câu chuyện người câm điếc mặc khải cho ta biết
Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài đưa người điếc ra khỏi đám đông
để chữa lành cho người ấy. Ngài không biến người ấy thành trò cười cho thiên hạ
mà muốn tiếp xúc thân mật riêng tư với người ấy. - Cuối cùng, bài Phúc Âm mặc
khải cho chúng ta phương pháp giải quyết các vấn nạn mà nhiều người trong chúng
ta đang gặp phải ngày hôm nay. Đó là chúng ta không còn cầu nguyện được nữa,
không còn thưa chuyện với Chúa, lắng nghe lời Ngài nói trong tâm hồn chúng ta
được nữa. Về mặt thiêng liêng quả thực chúng ta đang bị câm điếc.
Để
tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề khổ tâm này, chúng ta hãy bắt chước người
câm điếc, là tìm kiếm Chúa Giêsu và xin Ngài chữa lành chúng ta. Cụ thể hơn,
chúng ta hãy để riêng vài phút mỗi ngày tiếp xúc với Chúa Giêsu ngõ hầu Ngài sẽ
chữa lành và làm cho chúng ta hoàn toàn khoẻ mạnh trở lại.
20.
Ep-pha-ta – Lm. Đan Vinh.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính:
“Ep-pha-tha: hãy mở ra” (Mc 7,34).
Duy
chỉ có Tin Mừng Máccô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người bị câm điếc.
Người thực hiện phép lạ chữa bệnh này tại miền Thập Tỉnh, là nơi hầu hết cư dân
là dân ngoại. Người đã chữa bệnh câm điếc này bằng các cữ chỉ như sau: đặt ngón
tay vào tay anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu
nguyện, rên lên một tiếng và nói: “Ep-pha-ta!: “Hãy mở ra!”. Lập tức bệnh nhân
được chữa lành: tai anh ta đã mở ra để nghe được và lưỡi anh ta đã được tháo
cởi sợi dây ràng buộc để nói được rõ ràng.
2) Chú
thích:
-
Đức Giêsu lại bỏ
vùng Tia, đi qua ngả Xi-đon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta
đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên
anh (Mc 7,31-32):
-
Bỏ vùng Tia: Tia
là một thành thuộc nước Phê-ni-xi-a, phía Bắc nước Do thái, đã có bang giao với
nước Do thái ngay từ thời vua Đa-vít và Sa-lo-mon (x. 1 V 9,11-12). Khi Đức
Giêsu ra giảng đạo, một số người từ vùng Tia cũng đã tìm đến gặp Người (x. Mc
3,8).
-
Qua ngả Xi-đon:
Thành Xi-đon nằm bên bờ Địa Trung Hải giữa Tia và Bây-rút. Thời xưa thành này
là thủ đô của dân Xi-đon và đã bị các ngôn sứ lên án (x. Ed 32,30). Thời Tân
Ước, Đức Giê-su tỏ ra khoan dung với các thành thuộc dân ngoại này (x. Mt
11,21-22).
-
Đến biển hồ
Galilê: Còn được gọi là Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-át. Đây là biển hồ hình quả
trám, có chiều dài 21 cây số và chiều ngang 12 cây số, mực nước thấp hơn mặt
biển Địa Trung Hải, và có chỗ sâu tới 40 mét. Biển hồ này thường có nhiều sóng
to gió lớn, và có khá nhiều cá.
-
Vào miền Thập
Tỉnh (gọi là Đê-ca-bô-lơ): Là vùng đất phía Đông biển hồ Galilê, gồm mười thành
chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp. Đó là các thành; Sy-thô-pô-li, Pen-la,
Ga-da-ra, Đi-on, Híp-pô, Phi-la-đen-phi-a, Ghê-ra-sa, Ka-na-tha, Đa-mát và
A-bi-la. Tin mừng Nhất Lãm thường hay nhắc tới miền Thập Tỉnh này (x. Mt 4,25;
Mc 1,28; 5,20).
-
Người ta đem một
người vừa điếc vừa ngọng: Hai thứ bệnh câm và điếc thường đi đôi với nhau.
Chính vì điếc không nghe được âm thanh hay lời nói, nên bệnh nhân bị câm không
thể nói được, chỉ phát ra một thứ âm thanh vô nghĩa. Người câm điếc thường bị
thiệt thòi vì không có khả năng giao tiếp với tha nhân.
-
Xin Người đặt
tay trên anh: Xin đặt tay là xin chúc lành theo phong tục Do thái (x. St
48,14-15). Đây cũng là cử chỉ Đức Giêsu thường làm như: đặt tay chúc lành cho
trẻ em (x. Mc 10,16), đặt tay chữa bệnh (x. Mc 6,5; 8,25).
-
Người kéo riêng
anh ta ra giữa đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi
vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “ Ep-pha-ta”,
nghĩa là: “Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh
ta nói được rõ ràng (Mc 7, 33-35):
-
Kéo riêng ra
khỏi đám đông: Cũng như khi chữa con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x.
Mc 5,37), hoặc khi chữa một người mù thành Bét-sai-đa (x. Mc 8,23). Ở đây,
Người tách riêng kẻ bị căm điếc ra khỏi đám đông. Điều này chứng tỏ sự tế nhị
và cảm thông đối với sự ngượng ngùng của bệnh nhân, khi anh ta phải ra đứng
trước đám đông đang muốn nhìn xem Đức Giêsu chữa bệnh. Đàng khác, việc can
thiệp của Thiên Chúa được thực hiện cách kín đáo như Samuen được Đức Chúa sai
đến nhà ông Gie-sê ở Bêlem để bí mật xức dầu phong một người con ông này làm
vua, thay thế vua Sa-un (x. 1 Sm 16,1-13); Ông Giê-hu cũng được xức dầu phong
vương cách kín đáo như vậy (x.2 v 9,2-6).
-
Đặt ngón tay vào
lỗ tai anh, nhổ nước miếng bôi vào lưỡi anh… Đức Giêsu làm hai động tác để chữa
bệnh: Một là “đặt ngón tay vào tai và lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh” (c.33);
Hai là “ngước mắt lên trời” cầu nguyện, rên một tiếng (thở dài) và nói;
“Ep-pha-tha” nghĩa là “Hãy mở ra!” (c.34). Hai động tác này lập tức phát sinh
công hiệu là làm cho tai người điếc mở ra để nghe được, lưỡi bệnh nhân được
tháo cởi và nói được rõ ràng. Qua phép lạ chữa lành người câm điếc, cũng như
chữa người mù (x. Mc 8,22-26), Máccô muốn chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng
Thiên Sai. Vì Người đã thực hiện dấu chỉ của thời Thiên Sai đã được I-sai-a
tiên báo như sau: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy
giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” (Is 35,5-6).
-
Đức Giêsu truyền
bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ
lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp
cả: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7,36-37):
-
Không được kể
chuyện đó với ai cả…: Khi chữa người câm điếc (x. Mc 7,36), chữa người phong
cùi (x. Mc 1,44), phục sinh con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,43), chữa lành người mù
thành Bết-xai-đa (x. Mc 8,26)…Đức Giêsu đều truyền cho họ phải giữ im lặng. Sở
dĩ thế là vì đây là “Bí mật Thiên Sai”. Người muốn tránh cho dân Do thái khỏi
hiểu lầm về sứ mệnh Thiên sai của Người. Sứ mệnh được Chúa Cha trao phó là lập
một Nước Trời thiêng liêng và vĩnh cửu, đang khi dân chúng lại khao khát mong
chờ một Đấng Thiên Sai theo kiểu trần tục, để lãnh đạo dân nổi loạn chống lại
đế quốc La-mã, đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Để thi hành sứ mệnh Thiên sai về
thiêng liêng đúng theo Thánh ý Thiên Chúa, Đức Giêsu cần phải có thời gian để
rao giảng cho dân Do thái hiểu rõ về vai trò và sứ mệnh của Người. Do đó, khi
làm các phép lạ cứu nhân độ thế, Người không muốn có sự ồn ào dễ trở thành động
cơ ảnh hưởng trên phong trào Thiên Sai quá khích, làm cớ cho quân Rôma kéo đến
đàn áp giết hại, như đã từng xảy ra trước đó.
-
Nhưng họ lại
càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”:
Những người được Đức Giêsu chữa lành đã không giữ kín về những ơn mà họ đã nhận
được. Họ thật sự thán phục trước những việc tốt lành mà Đức Giêsu đã làm. Việc
chữa bệnh này giống như sự tái tạo một con người mới, con người được giải thoát
khỏi ách nô lệ của ma quỷ và tội lỗi … tương tự việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ
vạn vật thuở ban đầu đã được Sách Thánh tường thuật như sau: “Thiên Chúa thấy
mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Người đã
liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại thành một. Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn
cách là sự thù ghét (Ep 2,14):
Câu chuyện: Phá
đổ bức tường Bá-linh
Ngày 13.8.1961, một bức tường cao 8 mét, dài 700 cây
số đã được cấp tốc xây dựng để làm biên giới, phân chia nước Đức làm hai quốc
gia đối nghịch với nhau là Đông Đức và Tây Đức. Bức tường này được gọi là bức
tường Bá-linh (Berlin). Từ đây, nhiều gia đình bị phân ly, nhiều ngôi nhà bị
chia cắt làm đôi, và tiếp theo đó là sự hình thành một bức tường tâm lý, mang
tính thù hận và chia rẽ ngăn cách nhau.
Mãi đến ngày 13.11.1989, sau thời gian tồn tại 28
năm, bức tường Bá-linh này mới bị phá huỷ. Từ đây các gia đình đang phân tán
lại được đoàn tụ, dân tộc và đất nước lại tái thống nhất. Thế giới chấm dứt
thời kỳ chiến tranh lạnh và hai nước Đông và Tây Đức đang thù nghịch nhau lại
trở thành đồng minh với nhau, cùng nhau hợp tác xây dựng hoà bình, đưa đất nước
này ngày một thăng tiến về mọi mặt
Suy niệm:
] Phá đổ bức
tường câm điếc: Bệnh câm điếc cũng chính là bức tường vô hình ngăn cách kẻ câm
điếc với gia đình và xã hội. Vì điếc nên không thể nghe, không thể hiểu và
không thể cảm thông với tha nhân. Vì câm nên không thể nói, không thể diễn tả
tâm tư nguyện vọng của mình cho người khác hiểu. Vì không hiểu người khác và
không được người khác hiểu, thông cảm nên dễ sinh ra hiểu lầm và ngày càng xa
cách người khác. Đức Giêsu đã tỏ ra cảm thông với hoàn cảnh của người câm điếc.
Người ra tay phá bỏ bức tường ngăn cách là bệnh câm điếc này cho bệnh nhân,
khiến anh ta lại có thể nghe được, nói được và cảm thông được với người khác,
và ngược lại, người khác cũng dễ dàng nghe và hiểu biết thông cảm với anh.
] Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và chư
dân: Các đầu mục Do Thái đã xây dựng một bức tường lề luật phức tạp về sự tinh
sạch và nhơ uế. Bao nhiêu thứ lề luật nhỏ mọn về việc rửa tay, tắm rửa, những
quy định bề ngoài về đồ ăn thức uống làm người ăn trở nên nhơ uế … làm cho
người Do Thái không còn dễ dàng tiếp xúc với chư dân. Những tập tục, quy định
này là bức tường ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa, làm cho ơn ấy không thể
đến được với dân lâng bang. Đức Giêsu đã trải qua một cuộc hành trình dài hơn
một trăm cây số, băng qua các thành phố làng mạc của chư dân, để rao giảng Tin
Mừng, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, đế phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân
Do Thái và dân ngoại, để Tin Mừng nước Thiên Chúa được đến với muôn dân
] Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa loài người với Thiên
Chúa: Trong vườn địa đàng xưa, ma quỷ đã cám dỗ nguyên tổ Ađam Eva phạm tội bất
tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, và loài người bị đuổi ra khỏi Địa Đàng, phải
vào trần gian là nơi đầy đau khổ chia rẽ thù hận, và đầy gai chông nước mắt.
Chính ma quỷ đã xây dựng bức tường tội lỗi chia lìa loài người với Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã được Chúa Cha sai đến để phá bỏ bức tường ngăn cách bằng cuộc Tử
Nạn và Phục Sinh của Người. Người đã chiến thắng ma quỷ và thần chết nhờ quyền
năng Thánh Thần. Người đã chịu chết vì loài người chúng ta và ban ơn cứu độ cho
những ai tin vào Danh Người. Ai tin thì sẽ được cứu độ, nghĩa là được trở nên
nghĩa tử của Thiên Chúa, và được sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Quyết
tâm: Hiện giờ tôi có bị ngăn cách với ai bằng bức tường thù hận, thiếu sự cảm
thông hay không? Tôi quyết tâm sẽ làm gì để phá bỏ bức tường ngăn cách ấy, để
có thể sống vui tươi, cảm thông và hoà hợp với mọi người?
2) Epphatha:
“Hãy mở ra” (Mc 7,34):
Câu chuyện:
Ông già uyên bác:
Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng.
Tuy trình độ văn hoá của ông mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến
thức hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội, khoa triết lý và thần học … Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng này
ngày càng đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để hỏi ý kiến của ông về
các thắc mắc và các vấn đề liên quan đến cuộc sống. Họ đã được ông cụ tận tình
giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học đã đến thăm ông. Sau
buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư đã hỏi ông cụ nguyên nhân nào khiến ông có sự
hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy. Đồng thời xin ông giới thiệu một cuốn
sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ, ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài,
thực sự tôi không có thời giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách
cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học…Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn
sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ
lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ
đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn thứ hai là những sự
việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi
đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban cho các ơn lành hồn
xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Mỗi
ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa
trong Thánh kinh, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành trong đời sống
hằng ngày. Mỗi lần dự lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc,
nhất là bài giảng của vị chủ tế hôm ấy.”
Suy niệm:
] Đúng như ông cụ trong câu chuyện trên đã nói: Thiên
Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn
xem, lắng nghe và suy nghĩ về những việc kỳ diệu ấy. Nếu chúng ta không hiểu
được ý Chúa là do chúng ta đã không chịu mở mắt để nhìn xem, không chịu mở tai
ra để lắng nghe, không chịu mở lòng để đón nhận, không chịu mở trí ra để suy
nghĩ tìm hiểu Thánh Ý Thiên Chúa…
] Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa một người
vừa ngọng (câm) vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi muốn trình bày hay
diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại
ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra.
Nhiều người đã mất đi sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay bị câm nín, vì trong
quá khứ đã từng bị kẻ khác châm chọc, khinh thường và từ chốu giúp đỡ…cũng có
những sự đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói lên sự thật theo đúng
suy nghĩ trung thực của mình. “Ep-pha-ta”, xin Chúa mở miệng chúng ta ra, để ta
có thể làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người
đau khổ vì tai nạn rủi ro, bị ngược đãi cách bất công, và đang gặp những điều
trái ý cực lòng…
] Người điếc hoặc bị lãng tai là người mất khả năng
nghe được lời nói của kẻ khác. Lắng nghe lời người khác là một điều quan trọng
trong quan hệ giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn
nghe, hoặc nghe người khác nói nhưng lại hiểu theo ý mình, thay vì phải hiểu
theo ý của người nói. Chính vì thế mà có những sự hiểu lầm và tranh cãi mất đoàn
kết. Nghe bằng tai chưa đủ, mà còn phải nghe bằng trái tim nữa. Chỉ trái tim
yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng bên trong lớp vỏ
ngôn từ. “Ep-pha-tha”, xin Chúa hãy mở đôi tai chúng ta, để có thể lắng nghe,
hiểu biết và cảm thông với những đau khổ của tha nhân và kịp thời đáp ứng nhu
cầu của họ.
] Thế giới hôm nay đang thiếu sự cảm thông và đối
thoại, vì có quá nhiều người bị câm và điếc tinh thần. Bệnh này biến người ta
trở thành những hòn đảo cô độc giữa lòng đại dương bao la. Bệnh này cũng làm
cho con người trở thành ích kỷ, khép kín và sơ cứng…:Chẳng có gì để cho ai và
cũng không nhận của ai cái gì. Cuối cùng người ta sẽ chết trong sự nghèo nàn
tình thương của mình. “Ep-pha-tha”, xin Chúa mở tai mở miệng và mở lòng chúng
ta, để ta có thể giao lưu với Thiên Chúa và với tha nhân; để chúng ta được ơn
Chúa biến đổi trở nên con người mới đầy ấp tình người. Nhờ đó chúng ta sẽ làm
cho gia đình, khu xóm và xã hội ta đang sống, trở nên Thiên Đàng chan hòa tình
thương, đúng như lòng Chúa mong muốn.
Quyết
tâm: Trong những ngày này, tôi quyết tâm sẽ “đi bước trước” đến với tha nhân,
nhất là đến với những người cô độc bất hạnh, bằng việc nở một nụ cười thân
thiện với họ, bằng những cái bắt tay thân ái. Tôi sẽ năng cầu xin Chúa
“Ep-pha-tha”, để xin Chúa mở rộng trái tim, mở rộng lòng trí để nghe những Lời
Chúa phán dạy, để lắng nghe những tâm sự của tha nhân đang gặp khó khăn đau
khổ, và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ với hết khả năng của mình.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy
Chúa Giêsu. “Ep-pha-tha!”, Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở nên tay chân
của những kẻ tàn tật, trở thành đôi mắt cho những kẻ đui mù. Để con nên tai
nghe cho những ai bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho những kẻ ngọng câm. Để con
trở nên tiếng kêu cho những người bị áp bức. Lạy Chúa, xin giúp con thực thi
đức ái trong đời sống thường ngày: Sẳn sàng chia sẻ cơm bánh cho những kẻ đói
ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho những người
đau ốm, mang áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh
run, đem sự che chở cho những kẻ không nhà. Nhất là để con đem tình thương
khoan dung tha thứ của Chúa, để làm hòa với những kẻ đang thù ghét làm hại con.
Lạy
Chúa Giêsu. Ep-pha-tha! Xin giúp con biết mở rộng trái tim, để thực thi giới răn
yêu thương của Chúa: Để con chiếu sáng dẫn đường cho những kẻ đang lạc lối lầm
đường, để đốt lửa tin yêu nơi những tâm hồn băng giá, để cảm thông với nỗi khổ
đau của những người bất hạnh, để bảo vệ phẩm giá cho những ai đang bị khinh dể
chà đạp; để đem lại niềm vui và hy vọng cho những người đang buồn bã thất vọng.
X)
Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ
Maria, qua bài Tin Mừng hôm nay, con hiểu rằng: người bệnh câm điếc chắc chắn
sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với tha nhân: Họ chỉ có thể nói và
nghe được bằng các dấu hiệu của bàn tay. Đang khi chúng con, tuy vẫn có khả
năng nghe và nói, nhưng lại mắc bệnh câm điếc tinh thần: Đối với Chúa, con chán
ngại và không muốn nghe những Lời Chúa nói, và cũng chẳng biết thưa chuyện thế
nào với Chúa. Con luôn bị tiền bạc, danh vọng, đam mê và các thú vui khác cám
dỗ và chi phối, nên con chẳng dành riêng ra thì giờ để tiếp xúc, chẳng mấy khi
con nghĩ đến Chúa. Con chẳng tỏ ra thiết tha với bổn phận phải cầu nguyện và dự
lễ đọc kinh. Còn đối với tha nhân, nhiều khi con hóa thành người câm điếc khi
con quá ích kỷ, bịt tai ngậm miệng và khép kín cửa lòng, trong khi biết bao
người đang cần đến con: cần một nụ cười cảm thông chia sẻ, cần một lời động
viên an ủi chân tình, cần một sự trợ giúp cấp thời để giúp họ vượt qua khó khăn
trở ngại trên đường đời.
Lạy
Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa giúp con được khỏi bệnh câm điếc tinh thần.
Xin hãy mở tai con để nghe những Lời dạy của Chúa và lắng nghe những tiếng kêu
cứu, những lời tâm sự của anh chị em con. Xin cho con biết noi gương Đức Giêsu
người con yêu của Mẹ: Luôn chạnh lòng xót thương, biết quảng đại để chia sẻ cả
về tinh thần cũng như vật chất cho những ai đang gặp đau khổ bất hạnh. Xin Mẹ
giúp con biết “lặng thinh trước những điều không nên nói, và mạnh dạn lên tiếng
trước những điều không được im lặng!”
X)
Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
21. Chú
giải mục vụ của Jacques Hervieux.
MỌI VIỆC CHÚA LÀM ĐỀU TỐT LÀNH
Câu
chuyện này bắt đầu kể lại khởi điểm của một chuyến đi kỳ diệu. Chúa Giêsu đang
từ Tia đến vùng đất chung quanh biển Galilê, nghĩa là Ngài đang từ Tia ở Phía
Bắc đi xuống xứ Galilê ở phía Nam .
Ngài bắt đầu hành trình bằng cách đi đến Siđôn. Điều này có nghĩa là Ngài bắt
đầu đến Siđôn, và đã bắt đầu chuyển xuống phương Nam bằng cách vòng lên hướng
Bắc. Chính vì chỗ khó hiểu này mà nhiều học giả cho rằng bản văn này đã chép
sai, đáng lý ra Siđôn chẳng dính dáng gì đến chuyện ở đây, nhưng hầu như chúng
ta có thể chắc chắn bản văn đúng như hiện có. Một học giả khác nghĩ rằng chuyến
đi này kéo dài không dưới tám tháng, hoặc lâu hơn thế nữa. Có thể chuyến đi dài
hạn này là giai đoạn yên tĩnh trước khi bão tố, một thời gian dài để Chúa Giêsu
và các môn đệ thông hiệp với nhau trước khi cơn giông bão cuối cùng nổi lên.
Ngay trong chương tiếp sau đây, Phêrô đã phát giác được Chúa Giêsu là Đức Kitô
(Mc 8,27-29) và có thể chính nhờ chuyến đồng hành lâu dài này với nhiều cơ hội
được sống riêng với nhau mà ý tưởng đó dần dần ăn sâu vào lòng trí Phêrô để trở
thành chắc chắn. Chúa Giêsu cần có thời gian lâu dài này để sống chung với các
môn đệ trước khi sự căng thẳng của ngày kết thúc cuộc bão táp đang tiến đến
gần.
Khi
Chúa Giêsu trở lại khu vực Galilê, Ngài vào địa phận Đêcapôli, tại đây người ta
đem đến cho Ngài một người vừa điếc vừa ngọng, chắc chắn hai khuyết tật đó đi
đôi với nhau, chính bệnh điếc đã khiến người ấy không thể nói rõ. Không có phép
lạ nào nêu rõ cách Chúa Giêsu đối xử đẹp với con người bằng phép lạ này.
1. Chúa
Giêsu đem người điếc riêng ra khỏi đám đông. Đây là sự quan tâm hết sức dịu
dàng. Người điếc luôn luôn ngượng nghịu lúng túng. Theo một vài phương diện thì
điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám
đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng
cảm thấy thất vọng hơn. Chúa Giêsu đã tỏ ra sự quan tâm hết sức dịu dàng đối
với người ấy, vì biết người ấy đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống.
2. Qua
phép lạ này, Chúa Giêsu đã hành động như sắp diễn một vở kịch câm, Ngài đặt tay
lên lỗ tai người điếc, thấm nước miếng xức lưỡi anh ta, sau đó Chúa Giêsu ngước
mặt lên trời để chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được cho loài người,
rồi Ngài nói một tiếng và người điếc được chữa lành. Câu chuyện này cho thấy
cách hết sức sống động Chúa Giêsu xem người này là một nhân vị có nhu cầu, một
vấn đề đặc biệt, và bằng những cử chỉ dịu dàng, quan tâm, Chúa Giêsu giúp người
ấy không cảm thấy khó chịu ngỡ ngàng và khiến anh có thể hiểu được.
Sau
khi làm phép lạ này, dân chúng đã tuyên bố Ngài làm mọi việc đều tốt lành. Đây
là câu kết luận chẳng khác câu kết luận của Đức Chúa Trời liên hệ đến công việc
sáng tạo trời đất của Ngài lúc khởi thủy (St 1,31). Khi Chúa Giêsu đến, đem
theo ơn chữa lành cho thân thể và cứu rỗi các linh hồn con người. Ngài đã bắt
đầu công cuộc sáng tạo một lần nữa. Nguyên thủy, mọi sự đều tốt lành, tội lỗi
của nhân loại đã phá hư tất cả, và bây giờ, Chúa Giêsu đem trở lại cho thế gian
vẻ đẹp đẽ Thiên Chúa đã ban từ đầu, mà tội lỗi loài người đã làm xấu xa.
22. Chú
giải của Noel Quesson.
Đức Giê-su
lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Việc
mô tả những cuộc hành trình (hơn 100 cây số) không phải là ngây ngô đâu? Chúng
ta thử đặt mình vào địa vị Đức Giêsu một chút. Sau khi biến bánh ra nhiều (Mc
6,31-44). Sau bài giảng thất bại về "Bánh hằng sống" (Ga 6,66), Đức
Giêsu bị đám dân chúng bỏ rơi hoàn toàn. Người rời xứ Galilê và đi ra
"nước ngoài" nơi người ngoại đạo ở xứ Phênixi (Mc 7,24-26) bên kia
biên giới phía Bắc xứ Palettin. Tia và Xi-đon ngày nay vẫn là hai thành phố lớn
của xứ Libăng. Rời xứ này, Đức Giêsu không trở về Galilê, Người đi rẽ về phía
Đông Biển Hồ, vượt qua các đồi cao Gôlăng xứ Xyria và đi về phía miền
"Thập Tỉnh", bên kia sông Giođan, trong phần đầu của sa mạc từ I-rắc
tới I-ran, mà ngày nay có những ống dẫn dầu từ vịnh Ba Tư chạy ngang qua. Đức
Giêsu, con người thông minh, đã thích nghi với hoàn cảnh. Người biết rằng, với
những đám đông chỉ có mất thời giờ? Vậy từ bây giờ trở đi, Người sẽ lo đào tạo
một nhóm môn đệ nhỏ. Và để thực hiện công cuộc đó, cần phải vượt qua ranh giới
Do Thái, mới dễ cảm thấy thoải mái hơn.
Chúng
ta cố hình dung ra Đức Giêsu, dừng lại ở mỗi đoạn đường, ở ngoài trời, luôn có
khoảng hai mười người vây quanh mười hai người nam và vài người nữ để nấu ăn
quanh bếp lửa, họ kể lại những biến cố trong ngày. Ngày nay, những khối Người,
trong mọi biên giới, đã trở nên ngoại đạo. Thái độ của Đức Giêsu thật có ý
nghĩa. Người làm gì khi Người sống giữa dân ngoại?
Người ta đem
một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh.
Danh
tiếng Đức Giêsu, con người hay làm phép lạ, đã lan rộng ra ngoài biên giới nước
Palettin. Có một người đàn bà gốc Phêmxi, xứ Xirya đã đến mấy ngày trước, để
xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Bây giờ lại một người câm điếc. Người ta
có thể nói rằng, người ngoại đạo có lòng mở rộng đối với Chúa hơn là người Do
Thái. Vậy họ đã có tai để nghe, trong khi những đám đông ở Galilê lại
"điếc đối với lời của Người? Người ngoại đạo sẽ được ngồi vào bàn tiệc của
Thiên Chúa, để đón nhận Bánh Hằng Sống, trong khi đại đa số dân Israel đã từ
chối?
Chúng
ta chớ quên rằng, Maccô viết Tin Mừng cho những cộng đoàn Kitô hữu từ' dân
ngoại quốc thuộc HyLạp - La Mã trở lại. Ong là thư ký của Phêrô. Chúng ta hiểu
tại sao ông lại muốn làm cho nổi bật sự kiện Chúa đã mở rộng sứ vụ của Người
cho dân ngoại. Như trong Tin Mừng Chúa nhật trước về vấn đề "Sạch và
Nhơ", chúng ta gặp lại ý hướng phổ quát của Đức Giêsu: Người không tự đóng
khung trong nền văn hóa riêng biệt của Israel . Người mở rộng cửa: Giáo Hội
của Người phải là Công giáo nghĩa là "đa dạng" "mở rộng"
"phổ quát". Chúng ta có thực sống như vậy không? Chúng ta không
thường giữ những đặc thù thích đề cao chủng tộc của mình sao? Chúng ta không
xét đoán quá cứng rắn những người có sở thích văn hóa, những cách cầu nguyện
khác chúng ta sao? Trong bàn tiệc chúng ta có những một ít chỗ cho người ngoại
quốc không?
Người kéo
riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng
mà bôi vào lưỡi anh.
Đức
Giêsu làm những cử chỉ trên là có ý nghĩa, chứ không phải tình cờ. Thiên Chúa
nói với chúng ta những cử chỉ đó. Chúng ta cũng điếc chăng? Những chi tiết này
nói lên không gì?
Đức
Giêsu dẫn người khuyết tật xa khỏi đám đông. Khi làm như vậy, Chúa đã tỏ ra
khác hẳn những người làm phép lạ khác, những nhà ảo thuật Hy Lạp, luôn tìm sự
phi thường. Còn Đức Giêsu, một "Thiên Chúa ẩn kín" lại trốn tránh
những cái nhìn soi mói, bắt đầu sợ những đám đông ham muốn phép lạ. Người lánh
ẩn như để nói với chúng ta rằng, Người sắp làm một biến cố siêu việt. Sự tránh
hoạt động của Thiên Chúa là mầu nhiệm cuối cùng. Người sẽ cố gắng vô ích để xin
"người ta giữ bí mật".
Đức
Giêsu làm những cử chỉ trên thân xác, hầu như gây khó chịu đối với những tâm
trí chúng ta, được coi là duy linh. Ngày nay người ta có khuynh hướng xóa bỏ
hình ảnh này của Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu có một phim ghi lại cách tự
nhiên và chiếu cho chúng ta xem lại cảnh này một cách thực tế? Người dịch một
lần nữa đã nghĩ nên kể lại nhẹ nhàng hơn bản văn Hy Lạp của Maccô, mà nếu dịch
từng chữ, sẽ kể như sau: "Đức Giêsu thọc ngón tay mình vào tai người điếc,
và sau khi đã nhổ nước miếng, Người sờ vào lưỡi người câm, và sau khi nhìn lên
trời, Người thở dài".
Vâng,
những bí tích, những dấu chỉ của Đức Giêsu đều là những cử chỉ "thuộc thân
xác". Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta "từ
xa" một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định "tiếp
xúc" với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người đã nhập thể. Nếu chúng ta
cho là điều xỉ nhục để đưa tay ra "đụng chạm" đến Mình Thánh Đức
Giêsu, thì chính là vì chúng ta đã mất ý thức về phẩm giá của "Thân
xác", là dụng cụ tuyệt vời để liên lạc và yêu thương. Trong Nhiệm Cục Nhập
Thể (Economie de l'incarnation) ân sủng thiêng thánh nhất, vô hình nhất phải
qua những cử chỉ tầm thường "cụ thể" là những bí tích của Đức Giêsu.
Người câm điếc lúc bấy giờ chắc không bị phân tâm trước những thuyết coi thường
thể xác của chúng ta, và anh ta cảm thấy những cử chỉ tiếp xúc đơn giản và tự
nhiên của Đức Giêsu như mạc khải sự trìu mến của Người: Ngón tay của Chúa trong
lỗ tai bị bịt kín của anh, nước miếng của Người trên lưỡi bị thắt buộc của anh.
Lạy
Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thể của Chúa, xin chữa lành tâm hồn con người ngày nay.
Các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, đối với giáo dân gần thiên nhiên hơn chúng
ta, đã khuyên các Kitô hữu lúc bấy giờ rước lễ dưới hai hình thức, lấy rượu đã
truyền phép mà môi miệng họ vừa hiệp thông nơi Chén Thánh, để bôi lên mắt và
tai của mình, nhằm thánh hóa những cơ quan này? Bây giờ không cần phải trở lại
những tục lệ của các thế kỷ đầu tiên, nhưng ít nhất chúng ta chớ làm nhẹ đi cử
chỉ rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta hãy nhận "lấy" và "ăn"
theo như Chúa đã nói. Điều đó rất thích hợp với bản chất con người của chúng
ta, cả về thể xác lẫn linh hồn.
Rồi Người
ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói.
Cử
chỉ này cho ta thấy rằng, quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện không phải là
một sự can thiệp y khoa bình thường. Còn về lời than thở của Đức Giêsu không
những chỉ hiểu rang đó là xách biểu lộ lòng trắc ẩn đối với người bệnh, mà còn
là một chuyển động nơi toàn thân Đức Giêsu đang xúc động mãnh liệt để kêu cầu
Thiên Chúa, khi nhận thấy một "nỗ lực", một "nhiệm vụ khó
khăn", một đối kháng rất ghê gớm cần phải vượt thắng. Đức Giêsu thực sự
đang "làm lại" công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Con nói bị hư hỏng
sắp tìm lại được vẻ huy hoàng nguyên thủy của mình.
Ép-pha-tha,
nghĩa là: hãy mở ra!
Lời
nói của Đức Giêsu được Maccô ghi lại bằng tiếng Hy Lạp, nhưng đúng ra được phát
biểu bằng tiếng Aramên, là tiếng nói của Đức Giêsu. Chúng hãy nghĩ rằng, đối
với những độc giả của mình không hiểu tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, Máccô phải
dịch nghĩa chữ "Effata"!
Chúng
ta cũng lưu ý thêm, Đức Giêsu không nói với những cơ quan bị tật nguyền mà nói
với chính người bệnh: “Hãy mở ra" hay đúng hơn "hãy mở trở lại".
Nghi
thức Effata này, xưa kia được thực hiện trong khi rửa tội. Vị linh mục sờ vào
tai và xức nước miếng mình lên một đứa bé hay người lớn.
Lập tức tai
anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Khi
dùng nghi thức này để rửa tội, Giáo Hội đã sớm hiểu phép lạ này trên bình diện
tượng trưng? "Con người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe".
Đui, điếc và câm: Đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, Thánh Maccô sẽ
lặp lại nhiều lần trong cùng một bối cảnh rằng, chính những môn đệ của Đức
Giêsu cũng là những người điếc và câm, những người không hiểu gì (Mc 8,18;
8,52; 7,18).
Qua
phép Rửa, chính Đức Giêsu đích thân hành động. Người gặp một người tự nhốt kín
mình, không thể thiên lạc được và chữa trị toàn diện: Chúa đã làm cho người này
có thể nghe và hiểu Lời Chúa. Chúa cũng ban cho họ quyền thông truyền lời đó
cho kẻ khác. Đó là vấn đề Đức tin. Tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của
chúng ta, đó là sự tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt: Con người
bị "bít kín" trước những sự việc của Thiên Chúa. Con người phải được
Đức Giêsu "mở ra" để đón nhận mầu nhiệm Nước Trời.
Biết
bao Kitô hữu hiện nay vẫn còn "đóng kín", mắc kẹt trong thế giới tập
quán, trong sự hiểu biết hạn hẹp những truyền thống nhỏ nhoi của họ. Chúng ta
có thuộc vào số những người đi nhà thờ mà không hề biết mở miệng để đáp lại chủ
tế hay để hát xướng không? Chúng ta có phải là những người mà trong cuộc sống
hàng ngày, không bao giờ dám nói về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về Tin Mừng
không?
Đức Giêsu
truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo
họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì
cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được"
Những
lời ca tụng trên nhắc lại trình thuật đầu tiên về cuộc sáng tạo: "Thiên
Chúa thấy tất cả những gì Người đã làm đều tốt đẹp" (St 1,30). Nhờ Đức
Giêsu, một sáng tạo mới đang xuất hiện, một con người mới được tái tạo... một
con người hiệp thông, một người biết lắng nghe và đáp lại. Lắng nghe Thiên
Chúa. Nói với Thiên Chúa. Lắng nghe anh em. Nói với anh em.
Lạy
Chúa, Chúa là Chủ sự sống, và mọi công trình của Chúa, thật đáng ca ngợi biết
bao!
23 .
CÂM VÀ ĐIẾC
Nguyễn
Hữu An
Cách đây mấy năm tôi có
dâng lễ cưới cho một đôi câm điếc. Hôm ấy bà con giáo dân và lương dân đi dự lễ
đông lắm, ai cũng muốn xem đôi tân hôn câm điếc cử hành bí tích hôn phối như
thế nào. Mọi người cười ngất khi chủ tế luống cuống và cô dâu chú rễ tự nhiên
làm cử điệu của nghi thức hôn phối. Mặc dù trước đó tôi đã nhờ cô giáo trường
Khiếm thính giúp dạy giáo lý cho hai anh chị và hướng dẫn những cử điệu cho
nghi thức. Một thánh lễ hôn phối nhiều dấu ấn khó phai.
Câm và điếc đi đôi với nhau như cặp song sinh.
Câm là do hậu quả của chứng điếc sớm. Người ta hay nói ngược là câm điếc, nhưng
thực ra khoa học giải thích là vì điếc nên mới câm.Trẻ con ngay từ khi sinh ra
đã bị điếc, do đó không tiếp nhận được các tín hiệu âm thanh nên không biết nói
và bị câm.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con
người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quan trọng đó. Nghe và nói như
hai cánh cửa mở ra thông giao với thế giới bên ngoài. Lưỡi như có sợi giây buộc
lại, tai như cánh cửa bị khóa kín, những người câm điếc bị tách khỏi thế giới
chung quanh vì không hiểu được người khác, và người khác không hiểu được họ. Có
dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng
ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy mình sẽ nhận ra rằng,
nghe và nói là ân huệ và là quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
1. Hãy mở ra
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện Chúa Giêsu
chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập
tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc
nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa chữa lành đôi tai và cái lưỡi của
bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe,
người câm được nói”. Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ
Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu
thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc
đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sỏi sàng”
(Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời
tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những
người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là
những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai
mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù
trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón
nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để người
điếc có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để người câm có thể tuyên xưng đức
tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang
ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.
Con người sống với nhau trong tương quan hiệp
thông. Hàng ngày con người dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng
ta có thể diễn tả suy nghĩ, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta
cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo
một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại
câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì
có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những
ốc đảo, không có gì để cho, chẳng có gì để nhận. Người ta bị câm điếc tinh thần
khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng
nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.Người ta bị câm điếc tinh thần
khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe
tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc
người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Người bình thường luôn có đôi
tai thính, đôi mắt sáng, cái miệng đẹp. Cần phải nói và nghe bằng con tim. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em, đừng
“nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”. Mở miệng
lưỡi ra để nói Lời Chúa, lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc. Mở trái tim
để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
2. Người câm điếc được làm Linh mục
Chúa Giêsu đã chữa lành cho người khuyết tật.
Giáo Hội đã trao ban tác vụ Linh mục cho những người câm điếc. Những mục tử ấy
thực thi sứ vụ loan truyền Tin mừng tình thương cho những người bất hạnh. Giáo
Hội thật tuyệt vời!
Vào ngày 6.7.2007, Đức Hồng y Cheong Jin-Suk cai
quản Tổng Giáo Phận thủ đô Seoul của Nam Hàn đã truyền chức Linh Mục cho một
người câm điếc sau 22 năm cố gắng học tập tu đức. Đó là cha Benedict Park
Min-seo, vị LM câm điếc đầu tiên tại Á Châu. Cha Park ,
sinh năm 1965, bị điếc vào lúc 2 tuổi vì uống lầm thuốc. Tuy nhiên, lúc còn trẻ
Ngài ao ước được đi tu làm linh mục, nhưng vì tàng tật, Ngài quyết định đi làm
nghề thợ sơn.Học tại trường dành cho người câm điếc, cậu Park gặp được cha
Michael Cheong-Soon-o. Cậu tỏ cho Ngài biết ý định của cậu là muốn làm Linh
Mục. Nhưng tại Nam Hàn không có lớp cho người câm điếc tại chủng viện nên cậu Park
được gửi sang học ở Hoa Kỳ. Năm 1994 câu
Park được vào đại học
Gallaudet để học triết và toán học. Tại đây cậu Park
lại được gặp cha Thomas Coughlin, một linh mục câm điếc đầu tiên của Hoa Kỳ.
Cha Thomas được cử làm linh hướng cho cậu Park. Sau khi học ở đại học
Gallaudet, cậu Park
được vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở New
York và sau đó theo học tại viện đại học thánh Gioan.
Tại đây vào năm 2004 thầy Park tốt nghiệp đại học.Thầy Park trở về Nam Hàn và
tiếp tục theo học tại chủng viện và được phong phó tế vào năm 2006.
Khi cử hành thánh lễ mở tay, cha Park nói bằng
ngôn ngữ dấu hiệu của người câm điếc: “Trước hết tôi tạ ơn Chúa đã nhận tôi làm
Linh Mục. Là linh mục tàn tật đầu tiên, truyền thông đã chú ý tới tôi rất
nhiều, ngay cả trước khi chịu chức, nhưng tôi không phải là tài tử màn bạc, tôi
là một Linh Mục thường, xin mọi người cầu nguyện cho tôi để tôi sống khiêm tốn
và là một linh mục đích thực ”Linh Mục Michael Cheong Soon-o tuyên bố, “Việc
phong chức Linh Mục cho cha Park cho thấy lòng yêu thương của Chúa đối với
người không thể nói và nghe được. Chúng ta hãy cầu xin cho Ngài để Ngài sẽ là
ánh sáng và là muối đất cho các người tàn tật." (Vietcatholic 22.7.2007).
Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng
Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu
tân chức trong đó có một vị bi câm điếc.Các tân chức được thụ phong hôm nay là
các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn, Sean Maher, David Gunter, Shawn
Carey, và Frank Camp. Đặc biệt tân Linh Mục Shawn Carey là người bị câm điếc
bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Giáo Hội
Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn luyện các chủng sinh câm điếc.
Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các giáo dân câm điếc. Trong thánh
lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung Thánh Đường Boston đã được ban tổ
chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc đến dự lễ phong chức cho cha Shawn
Carey. Qua người thông dịch, cha Shawn Carey đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn
thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một chủng sinh câm điếc, là người câm
điếc tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để tiến tới chức Linh Mục và tôi không
thể ngờ được cuộc hành trình ấy mau như vậy”. (Vietcatholic 25.5.2009).
3. Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham
dự thánh lễ, con đều thực hiện một cử chỉ thật quen thuộc, đó là sau khi nghe
bài Phúc Âm, con đọc: "Lạy Chúa vinh danh Chúa", và làm dấu thánh giá
trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa cho con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim
với niềm tin yêu. Xin Chúa mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con,
để con được hiểu, cảm nhận và nói lời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho người điếc nghe được và người câm nói
được, xin cho con biết mở tai để lắng nghe lời Chúa và mở miệng để loan
truyền Tin Mừng. Xin cho con luôn nói những lời yêu thương, cam đảm nói lời sự
thật, chân thành nói lời xây dựng, xin cho con biết quan tâm nhiều hơn để lắng
nghe để thấu hiểu và cộng tác với mọi người sống tinh thần Phúc Âm.Amen.
24. Chú giải của Fiches Dominicales.
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC TẠI VÙNG ĐẤT DÂN NGOẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tại vùng
đất dân ngoại
Sau
khi tranh luận với những người biệt phái và các ký lục về "sạch, và “ô
uế”, Đức Giêsu vào vùng dân ngoại, một cử chỉ cho thấy lời nói và việc làm của
Ngài luôn đi đôi với nhau. Khi đi ngang qua miền Tyrô và Siđôn (hiện nay thuộc
Libăng), nhận lời cầu xin của một phụ nữ Syrô-phênêxi, Ngài đã đuổi quỉ ám ra
khỏi con gái bà (7, 24-30: Sách bài đọc năm B không trích câu chuyện này). Giờ
thì Ngài đã ở trong miền Thập Tỉnh (Đêcapôli): nơi chốn Máccô xác định ở đây có
tính cách thần học hơn là địa lý, vì người Do Thái coi miền có mười thành phố
này; ở phía Đông sông Giócđanô, như vùng đất ngoại giáo và ngoại quốc. Theo
Marcô, câu chuyện đã xảy ra chính tại miền này, và chỉ trong Tin Mừng của ngài
mới có: “Người ta đem một ngài vừa điếc vừa câm đến với Đức Giêsu, và xin Ngài
đặt tay trên anh”.
2. Người câm điếc được chữa lành cách
lạ lùng
Lúc chúng ta chờ đợi Đức
Giêsu chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và lời nói đầy quyền năng của
Ngài, thì Máccô chúng ta kinh ngạc khi ông thuật lại Đức Giêsu đã chửa lành
theo cách các thầy lang ngoại giáo và Do thái thời đó thường làm.
Để tránh những con mắt tò
mò, Ngài kéo riêng người câm điếc: “Xa khỏi đám đông”. Ngài: “đặt ngón tay vào
lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh". Chúng ta thấy Đức
Giêsu cũng dùng nước miếng để chữa người mù ở Bétsaiđa trong Máccô 8,23 và chữa
người mù từ mới sinh trong Ga 9, 6.
J.
Potin xác nhận: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ
ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo" (Đức
Giêsu Lịch sử đích thực), Centurion, tr.172). Ở đây phải chăng cũng cần nhắc là
trước thời cánh tân phụng vụ, trong lễ nghi rửa tội, có cử chỉ vùa lấy nước
miếng xức vào lỗ tai và miệng của đứa trẻ vừa đọc lại lời của Đức Giêsu?
-
Ngài ngước mắt
lên trời, một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của
Đức Giêsu từ đâu mà có.
-
Ngài rên lên một
tiếng. Đây không phải là tiếng kêu cảm thương đối với người bệnh cho bằng một
lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền n lực sự dữ.
Ngài
phán một lời mầu nhiệm mà Máccô đã có ý thuật lại bằng tiếng Araméen, ngôn ngữ
Đức Giêsu dùng, mặc dù ông viết Tin mừng bằng tiếng Hy lạp, đó là ‘Eftata’,
nghĩa là ‘hãy mở ra’.
Lời
nói và cử chỉ của Đức Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra,
lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng; và như trong như người
câm trong chuyện khác về phép lạ, việc Chúa chữa lành làm dấy lên sự phấn khởi
nơi đám đông chứng kiến phép lạ dù Đức Giêsu đã khuyên họ giữ kín.
3. Dấu chỉ
thời đại Đấng Thiên Sai
Lời
tung hô Máccô trích dẫn để kết luận câu chuyện cho chúng ta thấy chìa khóa của
bài đọc: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và
kẻ câm nói được."
Phần
thứ nhất của lời tung hô qui chiếu về sách Sáng thế: "Thiên Chúa thấy tất
cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp”, (Sáng thế 1,31). Như vậy, nó ám chỉ việc
Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là những dấu chỉ về sự sáng tạo mới mọi người chờ
đợi trong thời buổi cuối cùng.
Phần
thứ hai hiển nhiên ám chỉ đến những sấm ngôn của Isaia, nhất là sấm ngôn trong
sách bài đọc của Chúa nhật thứ 23 này: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra và miệng
người câm sẽ reo hô mừng rỡ”. Điều này có nghĩa là tất cả những gì các ngôn sứ
loan báo đều được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Nó cũng chào đón sự mở đầu của thời
đại Đấng Thiên Sai.
4. Loan báo
sự chữa lành thiêng liêng
Việc
Chúa chữa người câm điếc ở miền Thập Tỉnh được kết thúc bằng lời tung hô chào
đón những dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho việc chữa người mù
ở Bétsaiđa trong 8,22-26 (sách bài đọc năm B không có). Việc chữa lành này sẽ
mở đường cho các môn đệ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Như
vậy, theo Máccô, phép lạ này cho chúng ta thấy ý tượng trưng của việc chữa lành
thiêng liêng mà các môn đệ Đức Giêsu đang cần. Trong câu chuyện, các môn đệ
không được chỉ đích danh. Các ông hình như vắng mặt. Nhưng lời mời gọi đầy rung
cảm: “Hãy mở ra" nhằm đến các ông trước tiên vì các ông vẫn còn câm điếc
một cách bướng bỉnh trước sứ điệp của Thầy mình. Chính các ông có tai mà vẫn
không nghe, nên tai các ông cần phải mở ra để có thể nghe lời Thầy mình và lưỡi
các ông cũng cần được tháo cởi để có thể lấy đức tin đáp trả lời mời gọi ấy.
Chính các ông có mắt mà không thấy (8,18), nên mắt các ông cần được mở ra và
soi sáng để có thể tuyên xưng cùng với lòng tin tưởng: “Thầy là Đấng Thiên Sai”
(3,29).
Sau
cùng, Máccô có chủ ý để phép lạ này xảy ra trong phần đất dân ngoại và đặt nó
trong “đoạn về bánh trường sinh” là đoạn hoàn toàn nói đến việc dân ngoại được
mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể; ông cũng có
chủ ý khi đặt trên môi những người ngoại giáo lời tung hô: “Ông ấy làm việc gì
cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được”. Là muốn
công bố và báo trước lời tuyên xưng đúc tin của các cộng đoàn Kitô hữu đã sinh
ra và sẽ sinh ra từ việc truyền giáo cho dân ngoại. Như vậy, những độc giả xuất
thân từ ngoại giáo trước kia cũng như ngày nay có thể dễ dàng lắng nghe đoạn
Tin Mừng này, đồng hóa mình với người câm điếc được chữa khỏi cũng như với đám
đông nhân chứng. Họ cũng được mời gọi “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của
Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (Xem J.
Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107)
BÀI ĐỌC THÊM
1. “ Hãy mở
ra!”
“Phải
chăng Đức Giêsu là người chuyên làm phép lạ để lòe bịp dân chúng, lôi cuốn họ
theo mình và làm cho họ sống sảng khoái mê ly trong một thế giới hư ảo?
Khi
thuật lại cho chúng ta trình tự chi tiết về việc chữa lành người câm điếc,
Máccô, tác giả Tin Mừng, hướng dẫn chúng ta nhìn xa hơn, nhằm giúp hiểu Đức
Giêsu cách sâu sắc hơn. Khi chữa người khuyết tật để anh có thể nghe và nói
được, Đức Giêsu mạc khải Ngài là ai: hơn hẳn một người có phép thần thông, Ngài
chính là Đấng Thiên Sai.
Thực
vậy, Isaia đã loan báo điều ấy. Lúc Đấng Thiên Sai đến giải thoát dân Ngài, thì
một người mù sẽ mở ra và tai người nghe được". Đối với sự điếc lác, mù
tối, câm nín và tê liệt, Ngài là dấu chấm hết. Ngài sẽ tạo nên những con người
mới. Và giờ đây nhờ Đức Giêsu, người mù xem thấy, người điếc nghe được, người
câm lên tiếng và người tê liệt bước đi. “Mọi sự Ngài làm đều mới lạ... và tất
cả những gì Ngài thực hiện đều đáng ca ngợi”.
Thời
kỳ Đấng Thiên Sai được thể hiện mỗi khi con người đi từ tháp Babel nơi không ai
hiểu ai đến Lễ Ngũ Tuần là lúc mọi Người đều nghe và hiểu nhau nói gì, dù rất
khác biệt về ngôn ngữ chủng tộc và văn hóa, mỗi khi lời người khác không bị phớt
lờ vì giải thích một chiều; mỗi khi lời nói của những người đã từng không thể
phát biểu trong những cuộc họp, những đại hội, trước micro và máy quay phim,
nay được vang lên khắp nơi, không còn bị cấm đoán nữa; mỗi khi những kẻ xấu
không còn dám khẳng định mình làm “việc nhân đạo" bằng cách chiếm đoạt
quyền ăn nói của những người “thấp cổ bé miệng" trong xã hội vì sau cùng,
ai cũng có quyền lên tiếng; mỗi khi ai nấy đều chăm chú lắng nghe những khát
vọng cao đẹp nhất của tâm hồn là những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần nơi
bản thân mình cũng như nơi người khác.
Thời
kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi chúng ta tung được bức tường giam
hãm mỗi người. Bức tường hình thành bởi tính tình và sự giáo dục đã nhận, hoặc
bởi sức ép của tính tình và chính trị; mỗi khi thay đổi được điều kiện làm việc
ở xưởng thợ, trong dịch vụ, nơi văn phòng, điều kiện làm việc khiến con người
khó hoặc không thể giao tiếp với nhau.
2. Kỳ diệu
thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
“Sự
chữa lành hay sự giải thoát Đức Giêsu muốn thực hiện nơi chúng ta đến với chúng
ta bằng cách nào? Các giáo phụ trả lời: “Bằng nhân tính thánh thiện của Đức
Giêsu”. Đúng vậy, Đức Giêsu chữa lành chúng ta bằng Thân Thể Ngài và bằng cách
tiếp xúc với thân thể chúng ta! Marcô nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh này của
dấu chỉ: “Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi
anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng" toàn bộ hành vi cứu
độ của Đức Giêsu Cứu Thế được giải thích qua những cử chỉ thân xác. Chúng ta
thường có khuynh hướng xóa bỏ những hình ảnh đầy cảm tính của Đức Giêsu dù
chúng “rất người". Nhưng chúng ta sẽ không thể gạt bỏ điều này, đó là Đức
Kitô cứu độ chúng ta không phải bằng lời nói mà bằng những cử chỉ biết nói: bữa
Tiệc ly, máu đổ ra từ Thập giá, hòn đá được lăn ra khỏi ngôi mộ trống. Chính
những cử chỉ cụ thể này đã nói lên điều muốn nói! Kỳ diệu thay những cử chỉ của
Đấng Nhập Thể!
Do
đó, đương nhiên, các bí tích cũng nằm trong chiều hướng chung của việc Nhập
Thể: một mình gặp gỡ Thiên Chúa không qua những cử chỉ cứu độ của Đức Giêsu, là
một giấc mơ hão huyền mau qua và sẽ kết thúc mau lẹ bằng việc không còn sống
với Thiên Chúa nữa, nhưng là sống theo bản tính tự nhiên: con-người
khép-kín-trong-chính-mình, con người điếc, câm, mù trước những thực tại cao cả.
Chúng ta chỉ gặp gỡ Thiên Chúa thực sự nhờ đôi tai, cái lưỡi và đôi mắt. Sự gặp
gỡ với Đức Giêsu chỉ có sức mạnh biến đổi thực sự nhờ những dấu chỉ bí tích,
những dấu chỉ thuộc thân xác và trong Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức
Kitô.
Còn
chúng ta thì sao? Chúng ta có thái độ nào đối với những cử chỉ Đức Kitô muốn
thực hiện trên chúng ta? Chúng ta sẽ đến gần Đức Giêsu để Ngài biến đổi chúng
ta thành con người mới, con người được chữa khỏi câm điếc hay không? Con người
từ nay trở đi hoàn toàn rộng mở!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét