ĐỨC HỒNG Y PHÊRÔ NGUYỄN VĂN NHƠN
TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI
Khẩu hiệu: "NGƯỜI
PHẢI LỚN LÊN" (Ga 3,30)
Sinh tại Đà Lạt ngày
01-04-1938
Học tại tiểu chủng
viện Thánh Giuse Sài Gòn từ ngày 26-10-1949
Ðại chủng sinh khóa
đầu tiên Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt từ 1958 đến 1968
Thụ phong Linh Mục tại
Đà Lạt ngày 21-12-1967
Giáo sư Tiểu chủng
viện Đà Lạt từ 1968 đến 1972
Giám đốc Ðại chủng
viện Minh Hòa Đà Lạt từ 1972 đến 1975
Cha xứ Chính Tòa Đà
Lạt từ ngày 01-04-1975
Tổng Ðại Diện Giáo
Phận Đà Lạt từ ngày 10-09-1975
Ðược Tòa Thánh bổ
nhiệm Giám mục ngày 19-10-1991
Thụ phong Giám mục tại
Đà Lạt ngày 03-12-1991
Giám mục phó giáo phận
Đà Lạt từ 1991 đến 1994
Giám Mục giáo phận Đà
Lạt ngày 23-3-1994
Được bổ nhiệm làm Tổng
Giám Mục Phó Tổng Giáo Phận Hà Nội ngày 22-4-2010.
Tổng Giám Mục Tổng
Giáo Phận Hà Nội ngày 13-05-2010
Hồng Y ngày 14.2.2015
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr 1,22-25; Ga
2,13-25
MỤC LỤC
1. Yếu tố con người
2. Đền thờ
3. Thanh tẩy Đền Thờ – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
4. Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết
5. Thân xác chúng ta là đền thờ cần
được thanh tẩy
6. Sự lạm dụng thân xác – Lm. Giuse Tạ
Duy Tuyền
7. Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây
8. Uy quyền Đấng Thiên Sai – Cố Lm.
Hồng Phúc
9. Điện Thờ Thân Thể của Người
10. Bắt đầu lại trong sự thật –
Jean-Yves Garneau
11. Thánh Đường, điểm hẹn
12. Nhà của Cha Tôi – ĐGM. Arthur Tone
13. Giữ trong sạch nhà Cha – Noel
Quesson
14. Giao ước mới – Lm. Đỗ Vân Lực
15. Con người và Đền Thờ
16. Thanh tẩy
17. Đền thờ
18. Đền thờ Thiên Chúa
19. Thanh tẩy Đền Thờ
20. Đức Giêsu tại Samari- JKN
21. "Đừng biến nhà Cha Ta thành
nơi buôn bán"
22. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
23. Tẩy uế đền thờ
24. Chú giải của Lm Vũ Phan Long
25. Chú giải của Noel Quesson
1. Yếu tố con người.
Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi
tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm như có một
điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải là cây đàn
quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong giây lát, rồi
lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây lát, vì
tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến nơi ông vẫn
để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp cây đàn quý
giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó. Trong lúc còn bàng
hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh dạn cầm lại cây
đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính thưa quý vị, ai
đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này tôi
muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc không nằm
trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải yếu tố con
người mới là quan trọng.
Từ câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn
Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi phường buôn bán ra
khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành một chốn buôn bán,
thành một hang ổ trộm cướp. Và những người Do Thái đã vặn hỏi: Ông lấy quyền gì
mà làm như vậy? Chúa Giêsu đã trả lời: Các ông cứ phá đền thờ này đi, nội trong
ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Và Phúc âm đã ghi nhận: Đền thờ Ngài muốn nói đến
ở đây chính là thân xác Ngài. Lần khác, bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã nói với
người phụ nữ Samaria :
Không phải thờ phương Thiên Chúa ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong
tinh thần và chân lý.
Với những lời xác quyết trên, chúng ta
thấy Chúa Giêsu đã đặt nặng yếu tố con người. Con người với thân xác và tâm hồn
chính là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, chính là một nhạc sĩ làm vang lên
muôn cùng điệu chúc tụng Thiên Chúa. Thực vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, tâm hồn
chúng ta trở thành ngôi đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Chính vì thế,
chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết của tội lỗi, để xứng
đáng làm đền thờ của Ngài. Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo túng, ốm đau, hay
gặp phải những điều bất hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng, trong ngôi đền thờ
thiêng liêng ấy, luôn vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.
Thế nhưng, nếu lúc này Chúa Giêsu cũng
đến và viếng thăm chúng ta, liệu Ngài có nhận ra tâm hồn chúng ta là một nơi cư
ngụ lý tưởng cho Ngài hay là bằng những hành động tội lỗi, chúng ta đã biến tâm
hồn chúng ta thành một hang ổ trộm cướp?
2. Đền thờ.
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu,
có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần
phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật,
khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là
một cái dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái
dốc này một cách êm ả không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục
vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các
linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện
kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền
lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất
công.
Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc
dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên
những cái quen được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái
vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi
cọ nhau, giành giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng
nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường
buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất
và xô nhào bàn ghế của họ.
Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh
nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian
cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời
gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết
tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy
tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao
đẹp nhất của chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc
mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc,
chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung
quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn
gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam
mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một
hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ
sống động cho Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm
hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai
lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
3. Thanh tẩy Đền Thờ – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Một trong những vấn đề lớn của thế giới
hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao
chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì
khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải
của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc
thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con
người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các
nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường
vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng
đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu
khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển,
tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy
Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô
nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho
Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi
đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu
thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ
câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ
vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một
chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt.
Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận
để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga,
rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là "đền vàng", là
"nơi thánh". Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được
cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi
Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu
tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần "Mammon". Đã có lần
Người lên tiếng cảnh báo: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền
của", và "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào
nước Thiên đàng". Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu
mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi
trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng
Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có
lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền
thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào
thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ,
Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta dâng
súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng
con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò,
mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11).
Thánh vương Đavít đã hiểu: "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng
tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16). Chúa muốn ta
đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm
nhường thống hối như lời Thánh vịnh: "Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối.
Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê" (Tv 50). Lễ dâng đẹp
lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã
làm trên Thánh giá: "Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha". Lễ
dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý
Chúa: "Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì
này con đến để làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ
ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian
tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người
muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có
bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ
thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta
phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn
khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn
khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn
khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố
kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của
người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc
phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh
tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó
là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng
thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng
cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho
nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?
2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có
những gì cần phải thanh tẩy không?
3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên
một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?
4. Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết
(Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu Nadarét là một sự kiện rất
đặc biệt. Những người đồng hương nhận ra Ngài là một người như bao người; tuy
nhiên, sau khi Ngài chết và sống lại, người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập
thể. Ngài là Đấng sống ơn gọi làm người cách trọn vẹn, là Người sống theo Thánh
Ý Thiên Chúa Cha dù phải chết. Thiên Chúa là tất cả đối với Đức Giêsu.
I. Thập Giới diễn tả Ý Muốn Thiên Chúa
Thiên Chúa khi sai Môsê đi giải phóng
dân Israel
khỏi Aicập, đã nói: "khi ngươi đưa dân ra khỏi Aicập, các ngươi sẽ thờ
phượng Thiên Chúa trên núi này" (Ex.3, 12). Môsê đã dẫn dân đến núi này,
và Thiên Chúa đã "thần hiển" với Môsê và dân (Ex.19). Thập giới là
điều khoản Thiên Chúa giao kết với Israel, nghĩa là, nếu dân Israel giữ các
điều khoản này, Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ dân.
Điều khoản giao ước không thêm gì cho
Thiên Chúa, nhưng giúp dân Israel
triển nở và hạnh phúc. Một khi người ta giữ giao ước, những người được hưởng
nhờ đầu tiên là gia đình và những người thân yêu, sau đó là những người lân
cận, rồi tới những người trong đất nước. Khi giữ giao ước, con người sẽ sống an
bình với chính mình, và sau đó với người khác. Giao ước Thiên Chúa ban cho con
người, không nhằm lợi cho Thiên Chúa nhưng cho con người. Tuy vậy, khi con
người tuân giữ không vi phạm thập giới, thì Thiên Chúa được con người. Vinh
quang Thiên Chúa được tỏ lộ hơn khi con người triển nở và sống hạnh phúc hơn.
Vi phạm thập giới là dấu chỉ cho con
người biết họ đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị, dù ngôi vị đó là Thiên Chúa hay
tha nhân. Thiên Chúa tạo dựng con người, nên theo lẽ công bình, con người phải
tôn kính Ngài. Thờ phượng là từ ngữ dùng để chỉ lòng và thái độ kính trọng đặc
biệt dành cho Thiên Chúa. Cha mẹ sinh ra mình, mình cũng phải có thái độ hiếu
thảo. Không tôn kính Đấng tạo dựng, không tôn kính cha mẹ, là bất công đối với
Thiên Chúa và với cha mẹ mình. Vi phạm những điều khác của thập giới, là xúc
phạm đến quyền lợi của người khác, chẳng hạn như giết người, cướp của người ta.
Khi vi phạm thập giới, người ta biểu lộ có điều gì đó trục trặc, gây xáo trộn
nơi chính tâm hồn mình, và gây xáo trộn bất an trong tương quan với người khác,
ngay cả đối với những người thân và những người xung quanh.
II. Đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ
Sau khi chịu phép rửa ở sông Yordan với
Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã trải qua thời gian dài tĩnh tâm cầu nguyện, Ngài ý
thức hơn sứ mạng của Ngài, và Ngài đã khởi đầu sứ mạng rao giảng. "Nước
Thiên Chúa đang tới gần, hãy thống hối và tin vào Tin Mừng." Hôm nay khi
lên đền thờ dự lễ Vượt Qua, một lễ lớn nhất đối với người Do Thái, kỷ niệm
Thiên Chúa giải phóng dân khỏi Aicập, Ngài đã thấy một việc trái tai gai mắt:
người ta buôn bán ngay trong đền thờ. Để có thể phục vụ những người từ xa tới
có của lễ dâng cho Thiên Chúa, thì người ta đã đem cả súc vật đến bán; cũng có
bàn đổi tiền cho những khách phương xa tới. Đức Giêsu đã phản đối. Ngài lấy dây
làm thành roi đánh đuổi những người buôn bán chiên cừu trong đền thờ, lật đổ
bàn của những kể đổi tiền, nói với những người bán bồ câu: "đem những thứ
này ra khỏi đây, đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ."
Đức Giêsu đã bị phản ứng: "ông lấy
quyền gì mà làm như vậy?" Theo luật, chỉ những người trách nhiệm mới có
quyền cho phép hay không cho phép người ta buôn bán trong đền thờ. Đức Giêsu
lấy quyền gì mà đánh đuổi người ta? Cứ theo "phép đời," Đức Giêsu làm
trái vì Ngài làm như thể Ngài có quyền mà thực Ngài không có; thế nhưng Đức
Giêsu nói với họ: "cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng
lại." Câu trả lời của Đức Giêsu là câu trả lời "như không trả
lời" Ai dám làm điều đó, ai dám tin vào lời Đức Giêsu mà dám phá đền thờ
này. Tác giả Tin Mừng "giải thích" Ngài nói về đền thờ của Ngài,
nghĩa là Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Nhưng chuyện giải thích này chỉ có thể
làm sau khi Ngài chết và sống lại, chứ lúc đó, ai mà hiểu như vậy.
Đức Giêsu có quyền làm điều đó. Ngài ý
thức điều đó và Ngài đã làm cho dù đối với người khác Ngài không có quyền làm
như vậy. Ngài coi đền thờ là Nhà Cha Ngài. Ngài có quyền từ Thiên Chúa là Cha
Ngài. Qua những hành vi "bất bình thường" như thế này, giúp các tông
đồ và các tín hữu sau này hiểu rõ chân tướng của Ngài hơn. Ngài và Thiên Chúa
có một mối tương quan đặc biệt, mà Ngài dám gọi Thiên Chúa là Cha Ngài. Ngài
đến từ Thiên Chúa, Ngài là hình ảnh và biểu tượng giúp người ta hiểu biết hơn
về Thiên Chúa. Ngài liên kết với Thiên Chúa và phản ánh Thiên Chúa tuyệt đến độ
người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
III. Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu bị
đóng đinh
Người Do Thái tìm phép lạ để biết điều
gì đó có đến từ Thiên Chúa hay không; người Hylạp tìm kiếm những điều khôn
ngoan vì đối với họ: chỉ có khôn ngoan mới là giá trị thật; tuy nhiên, với
thánh Phaolô, Đức Giêsu chịu đóng đinh là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
Kể từ khi biết Đức Giêsu, Phaolô coi những điều khác như phân bón, rác rưởi.
Biết Đức Giêsu là mối lợi tuyệt vời đối với Phaolô (Pl.3).
Với cái nhìn tổng hợp và không loại
trừ, ta có thể nói Đức Giêsu chịu đóng đinh là một "phép lạ" cả thể
và là sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa ban cho con người. Qua cách sống
kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện, qua những hành vi dứt khoát chọn
Thiên Chúa trên hết như việc đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, qua
việc vâng phục thánh Ý Cha trên tất cả như trong vườn dầu và trên thập giá, Đức
Giêsu dạy con người biết sống sao cho đúng trên đời này. Đức Giêsu là mẫu gương
sống.
Thiên Chúa là trên hết đối với Đức
Giêsu, và cũng phải như vậy đối với những ai muốn là môn đệ của Ngài. Tất cả
đời sống và hành vi của Đức Giêsu chuyển động và quy hướng về Thiên Chúa. Đức
Giêsu đã vâng phục Thiên Chúa cho đến bằng lòng chấp nhận chết trên thập giá.
Đức Giêsu chịu đóng đinh, là mẫu gương sống của Phaolô và của tất cả các Kitô
hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là tiêu chuẩn sống của
Đức Giêsu? Tại sao bạn nghĩ như vậy?
2. Con người là đền thờ của Thiên Chúa,
bạn có được Thiên Chúa mời gọi thanh tẩy tâm hồn dịp Đức Giêsu thanh tẩy đền
thờ không? Bằng cách nào?
5. Thân xác chúng ta là đền thờ cần
được thanh tẩy
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu rất mực hiền lành và Người
cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: "Hãy học cùng Ta,
vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng". (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người
dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về
Giê-ru-sa-lem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu
đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giêsu liền quở trách Giacôbê và Gioan vì
lối xử sự nóng nảy mang tính gây hấn nầy. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất
trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng
quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột; Chúa
Giêsu vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị
lăng nhục hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giêsu vẫn nín lặng và thản
nhiên. Khi chịu treo trên thập giá đớn đau tủi nhục lại còn bị chế giễu nhạo
cười, Chúa Giêsu chẳng những không nóng giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha
thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu
hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không hề nổi giận bao giờ.
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem,
thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận
thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: "Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán
chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm
roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của
những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói
với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến
nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giêsu rất mực
hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà 'cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim
đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi' (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải
dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh
thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa
Giêsu, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ
và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao
trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh
Phao-lô khẳng định: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của
Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc:
"Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?
(I Cor 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng thân xác chúng
ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: "Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy,
thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến
ngự trong người ấy". (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng
ta quá đỗi nên Chúa Giêsu sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh
hoá nó bằng lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích thánh thể để
bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên
Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô
uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giêsu đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu
có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người
đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người nầy: "Ai
làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác
người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn."
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: "Ai
phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ
Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng
ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho
chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì "từ trong lòng phát
xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp,
làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế"
(Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân
xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giêsu cứu chuộc, được Chúa Thánh
Thần xức dầu thánh hiến, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự
trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải
nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với
danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
6. Sự lạm dụng thân xác – Lm. Giuse Tạ
Duy Tuyền
Từ ngày 06 đến 11/02/2012, chúng tôi có
dịp tham quan Singgapor và Malaysia .
Ở đất nước của họ thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không có cái nhìn
tích cực về người con gái Việt Nam .
Tôi đã chứng kiến một cô gái Việt Nam bị từ chối nhập khẩu tại hải
quan Singapor vì nghi ngờ qua đây làm nghề mại dâm. Điều này khiến tôi cảm thấy
khó chịu với nhân viên hải quan Singapor khi từ chối cô gái vào Singapor chỉ vì
cô ta mang theo quá ít tiền (200USD) mà cho rằng qua đây để bán thân. Nhưng rồi
vào tối ngày 09/02/2012 khi ngồi xem tivi đài Malaysia ,
tôi mới cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình của họ thông báo đã bắt được
một ổ mại dâm toàn là các cô gái Việt Nam . Quả thực, nhìn lên truyền hình
tôi thấy có tất cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe cảnh sát vì tội hành nghề
mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh người con gái
Việt Nam : Công - dung - ngôn
- hạnh của truyền thống Việt Nam
nay còn đâu! Những đức tính này đang bị lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay
đang cố gắng tu sửa thân xác của mình để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức.
Người ta dùng thân xác để kiếm tiền mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta
trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức
nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha
ông ta bảo rằng: "Cái nết đánh chết cái đẹp", nhưng đời con cháu hôm
nay thì dường như: "cái đẹp đang đè bẹp cái nết". Người ta chuộng cái
đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại
lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn
vinh trai tài - gái sắc nhưng có mấy ai tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu
chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì
thế mà người ta bất chấp lợi nhuận miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác
thành một món hàng để trao đổi, mua bán, làm ăn...
Ngày nay, người ta nói nhiều về việc
suy thoái đạo đức, nhưng điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy thoái về nhân
phẩm con người. Thân xác con người là đền thờ của Chúa đã bị tục hoá vì thói
đời hưởng thụ hôm nay. Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để có thể trao
đổi, mua bán, lạm dụng... mà không cần bàn tới luân thường đạo lý. Khi thân xác
chỉ là món đồ hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho lộng lẫy, cho kiêu
sa để bắt mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn vinh khi có duyên
thắm đi cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để hưởng thụ không
chỉ ở chợ đời mà còn len lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là nơi trang
nghiêm, linh thánh cũng bị tục hoá bởi những lối sống của một số thành phần suy
thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Cách đây hơn 2,000 năm, Chúa Giêsu cũng
chứng kiến sự ô uế của một môi trường được xem là thánh thiêng, là nơi cực
thánh, thế nhưng đã bị tục hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là nơi linh
thánh đã bị lạm dụng vào việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn vào Đền thờ
Giêrusalem bị tục hoá mà lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không thể chần chờ.
Ngài đã hành động dứt khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ đẹp ban đầu
của đền thờ là nơi Chúa ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ Thiên Chúa.
Phúc Âm nói rằng: Chúa Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can dự vào việc
làm ô uế đền thờ như: những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và những người
đang ngồi đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ. Người khuyến
cáo họ: "Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Đó là đền thờ vật
chất, con người cũng phải tôn trọng sự linh thánh của đền thờ, huống chi là một
đền thờ linh thánh hơn nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ
Thiên Chúa hãy biết kính trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm dụng thân xác
trong những đam mê bất chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú vui xác thịt và
kiếm tiền. Đừng phá huỷ đền thở tâm hồn trong những xa hoa truỵ lạc. Hãy biết
sống đúng với phẩm giá con người là "nhân linh ư vạn vật". Hãy sống
cao thượng hơn các loài sống theo bản năng hoặc các loài vô tri vô giác. Hãy
thanh tẩy từ chính tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những ước muốn
gian dâm và trộm cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta những cái nhìn bất
chính, những ước muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để Chúa ngự trị và
chiếm đoạt tâm hồn chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình
thường xuyên bằng các bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Nhờ bí
tích Hoà Giải mà ta luôn làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh Thể mà ta
luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện xin Chúa luôn nâng đỡ và trợ
giúp để chúng ta biết thanh tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng đáng là đền
thờ cho Chúa ngự, và là viên đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô mỗi ngày
một vững mạnh hơn. Amen.
7. Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy
Đức Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng
lẽ trước những lời cáo gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học
hiền lành và khiêm nhượng. Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi để đuổi
những người buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những
người đổi bạc! Dù rằng những chuyện buôn bán này chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi
Đền Thờ, nơi tiền đình dành cho dân ngoại, nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của
những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua, nhưng Đức Giêsu vẫn thấy đó là
một điều bất kính, vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ
Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi
Thánh này trở thành cái chợ. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm.
Chính tình yêu đã khiến Đức Giêsu nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền
Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba
ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự
phục sinh của Ngài. Đền thờ ở đây là chính thân thể Đức Giêsu. Thân thể được
phục sinh của Ngài sẽ là Đền Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách
đích thực
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ
Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh tẩy các nhà thờ của chúng ta. Ngài muốn chúng
thực sự là nơi thờ phượng, nơi lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Có khi
thánh lễ của chúng ta trở nên máy móc, buồn tẻ. Có khi lại ồn ào, nặng tính
trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn,
một sức sống lan tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà thờ là cần,
nhưng không đủ.
Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con
người mình, bởi lẽ đó là đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23).
Chính thân xác ta cũng là đền thở của
Thánh Thần (x. 1Cr 6,19). Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục.
Đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra
khỏi đây!" Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế khi thấy con người của
chúng ta bị vấy bẩn, đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là những đền
thờ. Có nhiều đền thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ, để
mọi đền thờ đều dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của
bạn? Bạn nghĩ gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để
gặp mình và gặp Chúa không?
Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ
nào cần sửa gấp không? Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho
Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm
qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì
không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà
vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô
uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh
hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã
hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và
biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn
thấy chính bản thân chúng con.
8. Uy quyền Đấng Thiên Sai – Cố Lm.
Hồng Phúc
Chúng ta thường gọi 10 giới răn là căn
bản lề luật Thiên Chúa. Người Do thái gọi đó là "Thập điều"
(Decalogue) của Thiên Chúa nói lên ý muốn cứu độ của Ngài. Mười lời đó không
phải bản tuyên xưng đức tin, một bản tóm lược luân lý, nhưng là những lời nhắn
nhủ của Chúa gửi đến con cái của Ngài. Trong mùa Chay, chúng ta hãy đến dưới
chân núi Sinai, như ngày xưa dân Israel tập họp dưới núi thánh, để
nghe lời thân mật của Chúa. Chúa nói như Cha nói với con, Cha khuyên bảo con.
Tất cả Thập điều đều tóm tắt trong một câu và phải được khắc ghi vào tâm khảm
mỗi người: "Ngươi hãy thương yêu". Hãy yêu mến Thiên Chúa và tha
nhân.
Tình thương đó, khi Chúa Giêsu đến,
Ngài đã tỏ ra một cách cực độ khi chịu đóng đinh trên thập giá. Phaolô gọi đó
"là cớ vấp phạm cho người Do thái, một sự điên rồ cho người ngoại
giáo". Làm sao hiểu được tình thương của Thiên Chúa? Yêu đến bỏ trời xuống
thế, yêu đến chết trên thập giá để đền tội chúng ta.
Thiên Chúa đã cứu rỗi chúng ta bằng
phương cách chúng ta không thể hiểu nổi.
Trong khi có người tự cho là thông thái
như dân Hy lạp dùng lý luận để tự cứu vãn, trong khi người Do thái tự cho là có
thể dùng chay giới, giữ luật lệ để vào thiên đàng thì Thiên Chúa dùng tình
thương và tình thương đến điên dại như Phaolô suy tưởng.
Tình yêu Chúa Cha nung nấu tâm can của
Chúa Giêsu và bộc lộ ra bên ngoài hôm nay bằng một cử chỉ táo bạo mà Gioan đã
chứng kiến và tường thuật lại. Đó là việc Chúa xua đuổi con buôn bán ra khỏi
đền thờ. Lễ vượt qua của dân Do thái gần đến, Chúa Giêsu lên đền thờ. Ngài thấy
trước mắt trong khuôn viên đền thờ Cha Ngài, diễn ra một cảnh hỗn loạn không
thể chịu được. Người ta bày bán chiên bò. Người ta mở bàn đổi tiền bạc. Ngài
chắp giây thừng làm roi, hất tung bàn ghế và đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ.
Ánh mắt Ngài chiếu sáng và miệng Ngài hô to: "Hãy đem những thứ này đi
khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán."
Ngài phẫn nộ để cho mọi người biết Ngài
là ai.
Ngài tỏ uy quyền của Đấng Thiên Sai,
như lời tiên tri Malachia đã loan báo; Ngài xuất hiện trong đền thánh để tẩy uế
nơi tôn nghiêm này. Nhà chức trách đền thờ hiểu điều đó nên họ không vặn hỏi lý
do mà chỉ đòi một dấu chứng minh. Chúa trả lời cách khô khan: "Các ông cứ
phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại"; "Ngài có ý
nói đền thờ là thân thể Ngài."
Ngài cho biết "Con Chiên chân thật
của Thiên Chúa chính là Ngài" (Gio. 1,29) đến trong đền thờ. Nghi lễ của
đạo cũ đã quá thời. Ngài là Con Chiên Pascal bị tế sát vì chúng ta (1Cor.
5,7-8) và sẽ dẫn đưa chúng ta vào "trong nhà của Cha Ngài" (Gio.
14,2).
Bằng cử chỉ hôm nay, Chúa Giêsu không
có ý bãi bỏ những nơi thờ phượng, nhưng đã chấn chỉnh và nói lên bản chất chân
thật của nó. Dưới con mắt của Gioan, đền thờ của Đạo mới chính là Thánh Thể của
Chúa Giêsu, rồi đây sau 3 ngày nằm trong nhà mồ, sẽ khởi hoàn sống lại.
Là người tín hữu trong Giáo hội, chúng
ta có bổn phận lo cho Chúa có một nơi thờ phượng trang nghiêm xứng đáng, vì
"nhiệt thành với nhà Chúa". Nhưng đừng quên xua đuổi quét sạch những
gì làm hoen ố tâm hồn chúng ta là đền thờ Chúa ngự.
9. Điện Thờ Thân Thể của Người
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng
Quang Tiến)
Chương hai gồm hai câu chuyện: phép lạ
tại Cana, như là dấu lạ đầu tiên để các môn đệ tin vào Chúa Giêsu (2,1-11) và
việc thanh tẩy đền thờ và loan báo đền thờ thân thể Người, như là dấu lạ cho
người Do thái, nhưng họ không hiểu (2,13-25). Đoạn 2,13-25 gồm hai phần song
song với nhau: - phần 2,13-17 gồm: hành động của Chúa Giêsu (c.14-15), lời của
Người về nhà của Thiên Chúa bị làm thành cái chợ (c. 16), và việc nhớ lại của
các môn đệ (c. 17); - và phần 2,18-25 gồm: hành động của người Do thái (c. 18),
lời của Chúa Giêsu về điện thờ mới (c.19), và việc nhớ lại của các môn đệ (c.
22). Trong phần nầy có thêm ghi nhận việc không hiểu của người Do thái (c. 20)
và lời giải thích của thánh sử (c. 21). Phần thứ hai hoàn thành phần thứ nhất.
Theo thánh Gioan, đây là lần đầu tiên
Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người còn lên đó nhiều lần khác nữa (6,4; 11,15;
12,1; 13,1). Ba sự kiện: lễ Vượt Qua, thanh tẩy đền thờ và loan báo việc sống
lại liên kết với nhau rất ý nghĩa. Mỗi dịp lễ Vượt Qua là lúc đền thờ được sử
dụng cách đặc biệt để cử hành biến cố Thiên Chúa đưa dân Do thái ra khỏi kiếp
nô lệ ở Ai cập. Chúa Giêsu thanh tẩy đến thờ là để phục hồi lại phẩm giá cho
nhà của Thiên Chúa, vì những người buôn bán trong đền thờ đã tục hóa khi làm
nơi đó thành cái chợ. Trong bối cảnh nầy, Chúa Giêsu loan báo một điện thờ mới,
xứng đáng cách tuyệt đối làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đó là thân thể phục
sinh của Người. Muốn được thế, Người phải chịu hủy hoại, cũng vào dịp lễ Vượt
Qua (2,17; 19,14).
Điện thờ mới gắn liền với sự chết và
phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã đi từ một đền thờ, ieros,
Giê-ru-sa-lem cụ thể, với những gian nhà và không gian chung quanh (2,14.15)
đến một không gian hẹp hơn. Đó chỉ là điện thờ, naos, là nơi để cử hành các
nghi thức thờ phượng Thiên Chúa (2,19.20. 21). Đền thờ Giêrusalem tượng trưng
cho cơ chế và quyền bính của Do thái giáo. Chúa Giêsu không nói gì đến việc phá
hủy đền thờ và quyền bính nầy, theo như lời cáo buộc sau nầy (Mc 14,58; Mt
26,61). Việc thanh tẩy đền thờ dẫn đến việc loan báo dựng lên một điện thờ mới
chứng tỏ đền thờ cũ không cần thiết nữa và phải được thay thế (cf. 4,21).
Việc thay thế sẽ không là xây dựng một
đền thờ trong bốn mươi sáu năm, mà trong ba ngày. Thân thể Chúa Giêsu chính là
điện thờ. Người sẽ chết và sống lại trong ba ngày. Sự chết của Người được ám
chỉ trong trích dẫn Thánh vịnh 69,10: "Nhiệt tâm cho nhà Người sẽ hủy hoại
tôi" và trong mệnh lệnh "Các ông hãy phá huỷ điện thờ này đi"
(2,19). Trong khi để chỉ sự sống lại, thánh Gioan đã cố ý dùng chữ egeiro, có
hai nghĩa: dựng lên một căn nhà hay một đền thờ, và làm cho đứng dậy, trỗi dậy.
Động từ nầy được dùng để chỉ việc Chúa Cha làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi
chết (2,22; 21,14).
Điện thờ là nhà của Thiên Chúa, là nơi
gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Nơi đó sẽ không còn là một không gian, mà
là một đấng: Chúa Giêsu Kitô Sống Lại.
10. Bắt đầu lại trong sự thật –
Jean-Yves Garneau.
Khi sự việc hư đi
Đa số những của cải trần thế này đều
mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền của chúng
ta đã bắt đầu trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách nhanh chóng
bạc màu, nhất là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà bếp, những
cánh cửa bằng gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá... Mọi sự đều
xuống cấp một cách mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực
khác nữa. Một tình bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi.
Kết hôn: đó là tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa.
Mọi sự không suôn sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu
bắt đầu xuất hiện. Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình
yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có
những thói quen nhỏ ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống thiêng
liêng cũng có thể xuống cấp... và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là
nơi cầu nguyện và dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và
một trung tâm buôn bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải
thanh tẩy Giáo hội về nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi
nhiều điều khác nữa. Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi
theo thời gian xem ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc
tệ hơn nữa không chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có
chuyện gì cả, đó mới là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không
ổn tại cửa đền thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán.
Chúng ta có sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc
sống Kitô của chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện
thời của chúng ta. Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay.
Sau khi thấy những gì không ổn trong
Đền Thờ. Chúa Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay,
Ngài hành động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời
Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì
cả. Điều này đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác.
Chết đối với bản thân, móc mắt, chặt tay chân v.v... đó là kỹ thuật mà Chúa
Kitô dạy. Roi ư? Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo
đường mà trong đó chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã
khô cằn. Người ta bón phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú ra. Lập gia
đình đã hai năm rồi, đôi vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ
muốn dành một buổi tối để kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật. Cách bình
thản. Và tình yêu của họ đã tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn
trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối tương quan
giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ có điều gì
hoặc có ai đó đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui và đổi
hướng. Những mối liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã nguội lạnh
có thể trở thành lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và bao giờ
cũng là lúc để bắt đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu lại là có cái nhìn
sáng suốt về mình, về chính mình, về con người mà ta đang trở thành. Đó là Sự
thật.
11. Thánh Đường, điểm hẹn.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành
lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm
rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là
được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông
dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công,
người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để
xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc
trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần
bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên
nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt
viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa
ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả hai làng.
Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm
ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn,
lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng
bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong
khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc
qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên
đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích,
không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và
ôm chầm lấy nhau... Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới
chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là "đất thánh" và họ đã nhất trí chọn
địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn hò gặp gỡ: hẹn
hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng bào. Không ai đến nhà thờ mà không
tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Do
đó, nhà thờ phải là điểm hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ của mọi xây dựng,
là giải đáp của mọi tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp của
dân Do Thái trên mọi khắp mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua hằng năm, mừng
kỷ niệm dân được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ
về miền Đất Hứa. Năm ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân tiến bước về đền
thờ. Vừa bước vào đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh chướng tai gai
mắt: buôn bán chiên bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo nhiệt, vô trật
tự. Không cầm mình được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị biến thành thị
trường, sào huyệt của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã "nhào vô"
thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ, trả lại sự
trong sáng cho nơi cầu nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Nhưng không phải chỉ có thế. Dưới ngòi
bút của Thánh sử Gioan, hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý nghĩa biểu
tượng sâu sắc hơn nhiều, khi Gioan nói: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này
đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại". Sau này, dưới anh sáng Phục Sinh,
các môn đệ mới hiểu đền thờ Chúa muốn nói ở đây chính là thân xác của Chúa
Giêsu sẽ được Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi bọn con buôn, xô
đổ lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài phá hủy không phải chỉ để phá
hủy. Phá hủy sẽ không có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với xây dựng. Ngài chỉ
phá hủy những gì hủy hoại con người, hủy hoại mốt tương giao giữa con người với
Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thực ra, chính việc buôn bán đổi chác,
ồn ào trong đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ không còn là đền thờ,
không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào, trái lại trở thành sào
huyệt trộm cướp, bóc lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế, việc phá đổ, giết chết,
đánh mất ý nghĩa là "việc của các ông": "Các ông cứ phá hủy đền
thờ này đi". Còn "việc của Thiên Chúa" là xây dựng lại đền thờ
mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Đức Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau
ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài làm Đức Chúa, để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở
thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài toàn thể nhân loại sẽ "thờ
phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và chân lý".
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái tôn thờ Thiên
Chúa một cách vụ hình thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ dâng cúng vào
đền thờ nhiều tiền của, nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí xóa mọi tội
lỗi cho họ. Họ tưởng dùng tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc, hối lộ được
Thiên Chúa. Thành thử ra, dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất công, chỉ
cần đợi dịp đại lễ hành hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế là vừa bình
an trong lương tâm vừa được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên
lời sấm chống lại đền thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích thực nữa. Dân
chúng chỉ sống đạo bề ngoài mà không hoán cải đời sống, không tuân giữ Giao Ước
mười điều răn của Thiên Chúa (x.Bđ.1). ngôn sứ nói: "Chúa phán: Sao? trộm
cướp, giết người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi theo các tà thần,
rồi chạy vào đến trước mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi cho thế là thoát nợ,
để rồi tiếp tục cái trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến đền thờ này là nơi Danh
Ta được kêu cầu thành sào huyệt trộm cướp" (Gr 7,9-11). Điều Thiên Chúa
muốn, rõ ràng không chỉ là thái độ phải có trong đền thờ mà là thái độ phải có
trong cả cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta thường quan
niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối
với anh em ngoài xã hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là đến nhà thờ
đọc kinh, dự lễ và rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét, có gặp tai
ương hoạn nạn... cũng chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến. Người ta
không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ trước những
người đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong
khi bên lề đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ phải là nơi
hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ có thể xây
dựng ngay chính trên "Đất Thánh" của tình yêu thương, chia sẻ, của
tình liên đới anh em mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó
là điểm hẹn, là biểu tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch
bác ái mà người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các
Kitô hữu là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x.Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ là lễ tế
của Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ đây vĩnh viễn thay
thế mọi lễ tế chiên bò trong đền thờ Giêrusalem và khánh thành một đền thờ mới
với một phụng tự mới trong Thánh Thần và chân lý là yêu thương và phục vụ anh
em cũng là chi thể của thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và là Đền thờ của Thiên
Chúa Ba Ngôi.
12. Nhà của Cha Tôi – ĐGM. Arthur Tone.
Người mẹ có 4 người con. Bà khổ tâm
biểu chúng dọn dẹp đồ chơi, nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp về. Dọa
nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một ý tưởng hiệu
nghiệm, ít ra trong gia đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản: "Chúng
con thử xem hết bao lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về". Không
đầy năm phút mọi đồ chơi được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách thực
hành ít nhất một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu nói
về "Nhà Cha Tôi". Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của Cha Người trên
trần gian. Thỉnh thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ. Người khích
lệ những gì làm cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng thờ. Người lên án
những gì làm cho nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do Chúa đuổi những
người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người anh cả, mỗi
người chúng ta có thể nói: "Đây là nhà Cha tôi". Ngôi nhà thờ này,
nhà thờ của chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha
chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như các em nhỏ trong
câu chuyện. Chúng ta muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta xứng đáng, đẹp
và thánh thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để bảo quản nhà
thờ, chúng ta phải coi đó như món quà dâng cho Cha chúng ta, không có gì là quá
đáng.
Quan trọng hơn bảo quản phương tiện vật
chất, là bảo quản giá trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của Chúa. Nơi đây,
nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi đây với việc
Rước Lễ, chúng ta đoàn tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi đây, nhờ Bí tích
Thêm Sức, chúng ta được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng Người. Nơi đây,
trong Bí tích Hôn Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng ta tới đây để
hầu chuyện với Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để xin Người trợ
giúp và lời chỉ bảo.
Chúng ta tới đây để thổ lộ với Người
niềm vui, nỗi buồn của chúng ta, sự thành công, thất bại của chúng ta.
Chúng ta tới đây để làm lại điều mà Đức
Kitô đã làm trong bữa tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó trong chính giờ này.
Hãy đến nhà Cha của bạn, chắc chắn
Người yêu bạn, bất kể mọi chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở trên trời.
Chúa sẵn sàng tha thứ, phù giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ trong kinh
nguyện Thánh Thể, chúng ta thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại sao chúng
ta gọi Người là Cha trong kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong kinh Tiền
xướng rước lễ hôm nay: "Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà. Con
chim nhạn tìm ra tổ ấm để ấp con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh. Vua
của con, Chúa của con – Hạnh phúc thay những ai cư ngụ trong nhà Chúa".
Bạn tự nhiên trong nhà của Cha bạn. Như
người mẹ trong câu chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: "Chúng ta cố gắng hết
sức làm cho nhà của Cha chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
13. Giữ trong sạch nhà Cha – Noel
Quesson
"Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi
chợ búa"
Trong tác phẩm "Chim hót trong bụi
gai" tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh
mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn
nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục.
Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách
hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm
quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo
Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh
tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh
hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng
tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội.
Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh
giác ta về tình trạng đó: "Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa
làm tôi tiền của" (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc
ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: "Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở
đó" (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che
chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả
mọi ý hướng tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các
việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những
lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có
hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình
thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con
người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: "Đừng
biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán
của dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh
bàn thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm
tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha
mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô
hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa,
lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn
mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô
điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con người, và
việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng
hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!
14. Giao ước mới – Lm. Đỗ Vân Lực
Lời hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc
sống? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc con người suốt
đời. Thiên Chúa cũng bị lời hứa ràng buộc. Giao ước chính là lời Thiên Chúa hứa
cứu độ nhân loại. Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt lớn lao giữa Thiên Chúa và
con người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị được xác định. Vì
chữ tín càng cao, con người càng được mọi người kính nể. Chúng ta thử xem Thiên
Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong khi thiết lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả uy quyền
khi thiết lập giao ước với loài người. Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ cố đến
với Môsê. Người đã dẫn ông qua những nẻo đường, đến tận núi Sinai để thiết lập
giao ước với dân tộc Do thái. Mười Điều Răn chính là cách diễn tả cụ thể giao
ước đó (Faley 1994:244). "Mười Điều răn thể hiện quyền bình Thiên Chúa
trên chúng ta" (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13).
Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp, nhưng thăng tiến con người. Con người chỉ thực
sự thăng tiến khi biết rõ mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa và tha
nhân. Bởi vậy " trước khi ban Mười Điều Răn cho Israel , Thiên Chúa mạc khải Người
là ai. Israel
khám phá mình là ai khi đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi bước vào tương quan
giao ước, nhờ vậy có một căn tính mới" (Disciples in Mission, Homily
Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước, Do thái thực sự được
Chúa yêu thương và trở thành người con đầu lòng của Thiên Chúa. Họ rất hãnh
diện vì như chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong khi dân ngoại bơ vơ
giữa đủ thứ thần tượng. Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ chiếm được niềm hi vọng
thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã sinh ra
trong dân tộc Do thái. Người đến để thực hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa
qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là vị Thần độc nhất. Đối với Do
thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong thần không khó lắm. Nhưng tôn thờ
Người là vị thần độc nhất, loại trừ tất cả các thần khác là cả một vấn đề. "Giới
răn thứ nhất (cc.3-6) là một cách diễn tả niềm tin độc thần trong thực tế"
(Faley 1994:245). Đền thánh là lãnh vực tuyệt đối dành cho một mình Giavê mà
thôi. Nếu ai đem thần ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ Giavê. Xúc phạm
tới đền thánh tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Đền thờ trở nên trung tâm sinh
hoạt tôn giáo và chính trị của toàn dân. Đó là biểu tượng của niềm tin và hi
vọng. Dân tộc trở thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng đó cần
được Thiên Chúa hướng dẫn về Đất hứa.
"Mười Điều Răn đã được Thiên Chúa
phác họa để dẫn dân Do thái tới một cuộc sống thánh thiện trong thực tế. Trong
Mười Điều Răn đó, họ sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch Người chỉ vẽ
cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ
từng nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có trách nhiệm" (Life
Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Điều Răn là cách duy nhất để
cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với dân Người.
Biểu tượng của tình yêu và niềm hi vọng
chính là đền thờ. Bởi vậy mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền thờ, dân Chúa vô
cùng phấn khởi và hăng say giữ tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước.
Họ không cảm thấy gò bó hay miễn cưỡng khi giữ luật vì đó là "phương tiện
duy nhất chu toàn luật thương yêu của Thiên Chúa" (Life Application Study
Bible 1991:136). Ngày sabát là một bằng chứng. Chính vì biến phương tiện thành
mục đích, người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí nhất của lề luật. Nói
khác, khi không còn là phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa đã vạch ra, luật lệ
hay đền thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu mới không ngần
ngại nổi nóng với những lạm dụng đền thờ, cản trở việc thờ phượng. Làm sao có
thể tưởng tượng nổi một Đấng "hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11:29)
lại có thể "lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra
khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào
bàn ghế ho." (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó, chắc chắn Người đã
phải quát lên: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha
tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2:16). Công cuộc thanh tẩy Đền Thờ làm Người
hầu như quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng vượt lên trên mức
thường tình để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn muốn cho mọi người thấy mạc khải
lớn lao về bản chất đích thực. Người chính là Đền Thờ mới thay thế Đền Thờ cũ
vào thời Thiên sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, "hành động của Đức
Giêsu mang tính cánh chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư cách Thiên
sai của Người" (Ga 2:18) (Faley 1994:248). Thắc mắc đó phải đợi sau cái
chết và phục sinh của Người được trả lời thỏa đáng. "Đền Thờ ấy sẽ được
một thực tại mới thay thế là Đức Kitô tràn đầy Thần khí" (Faley 1994:248).
Chính nơi Người, Thiên Chúa sẽ hiện diện cách sung mãn và sống động nhất. Người
sẽ trở nên trung tâm thu hút mọi người về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục
sinh, Đức Giêsu là nơi nhân loại tìm được dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ
đích thực trong "thần khí và sự thật" (4:23-24). Trước đó, Người đã
làm nhiều dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự thật mới đạt đến độ sâu sa nhất. Vì
nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào tận bản tính nhân loại (c.25; 1,47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức Giêsu cũng muốn thanh tẩy Đền Thờ
hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội không được thanh tẩy, những hoạt động trần
tục sẽ che khuất dung nhan Thiên Chúa trước mắt mọi người. Nói khác, chính vì
Giáo hội quá nặng nề với lỗi lầm quá khứ, những nghi lễ và luật lệ rườm rà,
nhiều người đã không thể đến được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12.3.2000, ĐGH
Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước mắt toàn thể nhân loại. Giáo
hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn, Thánh Linh đã thanh tẩy khuôn mặt Giáo hội,
không phải để Giáo hội được nổi tiếng, nhưng để mọi người nhận biết Đức Kitô là
"sự thật và là sự sống" (Ga 14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi
mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức Kitô, Giáo hội
nhìn nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi "các tội đã phạm trong khi phục vụ
chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Kitô giáo, các tội chống
lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với
các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và
sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con
người" (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi ấy mà Giáo
hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội
này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con người đắc lực hơn. Mọi người có thể
dễ dàng đến với Đức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo hội. Nhân loại như
bước vào "thời gian hòa giải, thời gian cứu độ cho tất cả mọi người tín
hữu và cho tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên Chúa!" (ĐGH Gioan Phaolô
II, "Ngày Xin Ơn Tha Thứ", VietCatholic, 19/3/2000). Đức Giáo Hoàng
đã tô một nét son thật đậm vào lịch sử Giáo hội. Các Giáo hội địa phương cũng
theo gương sáng đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các Đức Hồng y Roger Mahony,
TGM Los Angeles, đã xin lỗi cả những người đống tính luyến ái và những tín đồ
thuộc các tôn giáo khác. Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay cá nhân về
những lạm dụng tình dục của một số linh mục. Đức Hồng y Bernard Law tại Boston
cũng xin lỗi về nạn nô lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng thú nhận người
Kitô hữu đã không cố sức cứu người Do thái trong thời Đệ nhị thế chiến
(VietCatholic 19/3/2000).
15. Con người và Đền Thờ
Kể từ thời vua Salomon, dân Do Thái đã
có được một ngôi đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ngôi đền thờ
ấy đã sớm trở thành duyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã biến nơi đó thành
một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra
tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính đền thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa coi trọng lòng
nhân từ hơn của lễ, nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế, lại nhấn mạnh
tới những nghi lễ rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có lần bên bờ
giếng Giacóp Ngài đã xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và
trong chân lý. Vấn đề không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay
núi nọ, trong đền thờ này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh thần và
chân lý. Hay nói đúng hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền thờ nơi
mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất
cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa
ngự trị. Như thế, chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho nên nỗi ưu
tư số một là phải lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích
thực, chứ không phải là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con người nếu
biết thờ phượng Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở bất kỳ nơi
nào và bất kỳ lúc nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể xây những nhà
thờ cao đẹp, mà trong đó lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên Chúa, hay tệ hơn
nữa, có người hiện diện trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi
bằng miệng mà thôi, còn cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã từng ước mơ xây
đền thờ cho Thiên Chúa, nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà lại xây nhà cho
Ta ở hay sao? Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập cho tới
hôm nay, Ta đã không ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một
chiếc lều và trong một nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để ở, bởi vì
trời là ngai của Ngài và đất là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong cuộc sống,
tuy mang tiếng là một bác thợ mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho người khác, còn
chính bản thân thì lại sinh ra trong chuồng bò, vất vưởng bên Ai Cập, lớn lên
trong căn nhà của thánh Giuse, cuối cùng trở thành một người lang thang không
cả chốn tựa đầu và chết ở trên cây thập giá, được an táng trong ngôi mộ của
người khác. Sống không cần nhà cửa, không cần địa chỉ, thì nay sau khi đã Phục
sinh liệu Ngài có cần những đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian, Kitô giáo cũng
đã đi vào dấu vết của mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều đền thờ. Thực ra
đền thờ cũng rất cần thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không phải là cần thiết
cho Thiên Chúa. Đền thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời gian nhưng đền thờ
thiêng liêng bằng chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, cùng với công
việc tu bổ kiến thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn phải ra sức xây dựng,
trang hoàng và tô điểm chính là cõi lòng con người để nó xứng đáng trở nên một
đền thờ của Thiên Chúa.
16. Thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua
Salomon xây dựng rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một
công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm
ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm
thì bị Nabucô, vua nước Babylon phá hủy vào năm 587 trước Công nguyên. Sau thời
gian lưu đầy Babylon ,
Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại
vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy,
mỗi ngày có 18.000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công
từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ
này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu
cho từng loại người: ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan
đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu
sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là
nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa
ở đây.
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung
tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa
vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên
Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh
thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi
thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt
đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó
chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải
có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua
đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động
này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh
đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ
biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn
dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không
đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc
cuộc đời trần gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với
tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên
Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ
nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng
tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành
hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của
Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã
khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không
sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ
phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa
Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ
phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền
thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy
quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán
cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải
làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa
Giêsu đã làm phép lạ nào?
Chúa trả lời: "Cứ phá hủy đền thờ
này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Các người Do Thái đã nghĩ ngay
đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch
đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu
ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới
xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ
không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra
tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo
trước cho mọi người biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống
lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích
thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của
Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã
chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy
trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa
muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội
gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những
thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói: "Ai phạm tội là nô lệ cho tội". Muốn
độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa
tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.
17. Đền thờ
Dân Do thái vào thời các tổ phụ đã
không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Đức Giavê,
chẳng hạn như Bêtel, Sikem, Sinai.
Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ
dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước, nhờ đó
Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã định cư tại miền đất hứa,
Đavid muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng Thiên Chúa đã
chống lại ý định ấy, bởi vì không phải Đavid sẽ xây nhà cho Đức Giavê, nhưng
chính Đức Giavê sẽ xây nhà cho Đavid.
Thế nhưng, bước sang triều đại của
Salomon, ý định của Đavid đã được thực hiện mà không gặp một sự chống đối nào
của các tiên tri.
Công cuộc dựng xây này đã kéo dài suốt
40 năm, để rồi từ nay đền thờ Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm phụng thờ Thiên
Chúa. Người ta từ khắp nơi trong nước hành hương về đó để tôn kính Thiên Chúa.
Người Do thái đã dành cho đền thờ một tình cảm hết sức trìu mến.
Trong những năm tháng bị lưu đày bên
Babilon, họ luôn hướng tới đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì việc đầu tiên
họ đã làm ngay, đó là bắt tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa nói, đền thờ là
trung tâm của việc thờ kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái phải lên đền thờ
vào những dịp lễ lớn. Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ thường phải dâng
tiến lễ vật như chiên bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả năng tài chính, đồng
thời đóng thuế cho đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ chức tại khuôn
viên đền thờ một cái chợ, để buôn bán và đổi chác tiền nong. Trước cảnh tượng
ồn ào và huyên náo ấy, Chúa Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn của những người
đổi tiền và xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã nói với họ:
- Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện thế mà
các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng tâm hồn tới ý
nghĩa thiêng liêng của đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi Thiên Chúa ở
với chúng ta, đồng thời cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những tâm tình cầu
nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền thờ thiêng
liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã trở thành
Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta
sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là
Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động
của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn
vinh và thờ phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính
tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa tội, tâm hồn
chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng
thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm
tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn
xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay,
đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc
chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với
chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm hồn chúng ta
không còn phải là nhà cầu nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang trộm cướp.
18. Đền thờ Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức
Phương)
Đền Thờ Giêrusalem hùng vĩ đã được xây
cất thời vua Salomon từ năm 967-964 trước Chúa Giáng Sinh (BC) trong thành
Giêrusalem Cổ, trên đồi Moriah (nơi được coi như Abraham đem con trai duy nhất
là Isaac đến hiến tế cho Thiên Chúa theo lệnh Chúa truyền (Stk 22, 1-18). Đền
thờ này bị người Babylon thời vua Nabuchodonosor
II phá hủy vào năm 586 (BC), khi họ đến chiếm đóng Giêrusalem và bắt người Do
Thái đi lưu đày ở Babylon .
Đến năm 536 (BC), người Do Thái được hồi hương; sau đó, họ lại tái thiết Đền
Thờ hùng vĩ như trước. Đến năm 19 (BC), Hêrôđê Đại Đế cho xây cất lại hùng vĩ
hơn. Đến năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, khi người Do Thái vùng lên chống lại sự
cai trị của người Rôma, Đại Tướng Titus đã dẫn đoàn quân Rôma đến dẹp tan cuộc
vùng dậy, phá hủy hoàn toàn Đền Thờ Giêrusalem (đúng như Chúa Giêsu đã nói
trước vào khoảng năm 30: "Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào..."
(Mt. 24, 2; Mc. 13,2; Lc. 21,6), và bắt tất cả người Do Thái đi lưu đày khắp
nơi trong Đế Quốc Rôma, và từ đó dân Do Thái lại phải rời bỏ quê hương. Sau gần
2 ngàn năm mất nước, người Do Thái lại tìm cách trở về và khôi phục lại quê
hương là nước Israel
ngày nay từ năm 1948.
Đền Thờ Giêrusalem luôn luôn là trung
tâm thờ phượng của người Do Thái. Vào dịp Đại lễ, người Do Thái ở các nơi trở
về thờ phượng Chúa tại Đền Thờ Giêrusalem thường phải đổi tiền và mua các con
vật như chiên, bò, bồ câu để dâng làm lễ vật theo nghi thức Do Thái Giáo thời
đó. Vì thế, người ta lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi
chác để kiếm lời.
Trong bài Phúc Âm Thánh lễ hôm nay (Ga
2, 13-25), Chúa Giêsu đã phải tỏ thái độ mạnh mẽ để tìm cách thanh tẩy Đền Thờ
cho xứng đáng nơi thờ phượng: "Mang tất cả những thứ này đi nơi khác! Đừng
biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!" Trước phản ứng của người Do Thái,
Chúa Giêsu cũng dùng dịp này để nói về việc chính Chúa Giêsu sẽ bị họ giết đi,
nhưng sau 3 ngày, Ngài sẽ sống lại.
Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá hủy hoàn
toàn để chấm dứt thời gian Cựu Ước và bước sang thời Tân Ước, và việc thờ
phượng Thiên Chúa không phải chỉ lệ thuộc vào 'Đền Thờ', nhưng quan trọng là
thờ phượng Chúa trong 'tinh thần và chân lý' (Gioan 4,23-24), bằng tâm hồn và
lương tâm ngay thẳng của chúng ta do việc giữ đầy đủ các giới răn của Chúa đã
được ghi rõ trong sách Xuất Hành (Bài Đọc I: Xh. 20, 1-17): Chu toàn các bổn
phận thờ phượng Chúa, phụng dưỡng cha mẹ già yếu, thương yêu nhau, giúp đỡ
những người nghèo khó, bệnh tật, giữ phép công bằng và xa tránh các tội lỗi
theo ham muốn xác thịt. Đó cũng là điều chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều trong
Mùa Chay Thánh để sửa đổi các lầm lỗi trong quá khứ và canh tân cuộc sống.
Vào Thánh Đường nào chúng ta cũng nhìn
thấy Thánh Giá là ảnh tượng chính, để nhắc nhở chúng ta về những hy sinh đau
khổ Chúa Giêsu đã phải chịu để đền thay tội lỗi chúng ta, để chúng ta thấy rõ
hậu quả của tội lỗi mà chừa bỏ và xa lánh dịp tội. Vì thế, Thánh Phaolô trong
Bài Đọc II (1Cr 1, 22-25) nhấn mạnh: Ngài không rao giảng sự khôn ngoan thế
gian, nhưng rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có những kẻ
cho là điên rồ.
Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc nhở chúng
ta phải nhắc bảo nhau, cha mẹ có bổn phận phải nhắc nhở con cái phải giữ thái
độ xứng đáng khi đến các nơi Thờ Phượng, đặc biệt vào các Thánh lễ cuối tuần.
Ăn mặc nghiêm trang, kín đáo, nhất là các người có nhiệm vụ lên đọc Sách Thánh,
và các Thừa Tác Viên Thánh Thể... Tất cả mọi người khi vào Thánh Đường phải giữ
cử chỉ cung kính, nhất là khi lên Rước Lễ, rước Chúa Trời Đất cao cả, thánh
thiện vào lòng chúng ta. Nói chung, Thánh Đường là nơi thờ phượng chứ không phải
nơi để trò chuyện, không phải nơi để khoe tài, khoe sắc, khoe quần, khoe áo!
Thánh Đường giáo xứ cũng là trung tâm
thờ phượng của mỗi giáo xứ. Bổn phận mọi giáo hữu chúng ta là chung tay xây
dựng và gìn giữ Thánh Đường luôn xứng đáng là nơi thờ phượng Thiên Chúa là Cha
chúng ta, là trung tâm tinh thần của giáo xứ, là gia đình thiêng liêng của
chúng ta. Hơn nữa, khi đến Thánh Đường, chúng ta cùng dâng lễ thờ phượng Chúa
chung với cả Cộng Đoàn Đức Tin, chứ không phải chỉ là việc cá nhân hay riêng
cho mỗi gia đình. Chúng ta cùng đọc kinh, cùng hát thánh ca, cùng hiệp nhất với
nhau trong việc thờ phượng Chúa trong một gia đình Giáo xứ đầm ấm.
Sau hết, tâm hồn mỗi tín hữu cũng là
một Đền Thờ, nơi Ba Ngôi thiên Chúa ngự trị. Luôn luôn chúng ta phải thanh tẩy
Đền Thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, qua việc giữ mình
sạch tội: xét mình, ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi hàng ngày; đặc biệt
qua việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Xin Chúa thương thanh tẩy, thánh hóa chúng
ta trong Mùa Chay Thánh này.
19. Thanh tẩy Đền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có
những hội đường để mỗi ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và
cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ
có một đền thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh
thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền
thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ.
Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần... theo tập tục và
thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự
lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa.
Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương,
chim câu... Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội
để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ,
được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn
bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người,
không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn... làm cho khu vực đền thờ có vẻ là
một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật
buộc: mỗi năm mỗi người trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền
Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do
thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp
rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành
trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những
người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những
quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như
thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín
hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: "Ông lấy dấu lạ
nào chứng tỏ cho chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế?". Chúa bảo họ:
"Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại".
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn
thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của
hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung
cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức
phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng
lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước
công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa
Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công
nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ,
phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích
thực, đó là thân xác Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: "Các ông cứ phá hủy
đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại", Chúa có ý nói đến thân
xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn
Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi
là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên
Chúa ngự không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ:
tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối...? Không nhiều thì
ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa
chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô hữu cũng được
mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành
viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi
đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có
Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có
tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia
đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất
chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực... đã chiếm chỗ của
Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho
Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa
hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng,
và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị,
chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
20. Đức Giêsu tại Samari- JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ «đã đến giờ» và «giờ đã
đến - và chính là lúc này đây» trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ
nào?
2. Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa
trong thần khí»? Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật»? Trái ngược
với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng
Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu «mới»
của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách
thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời
có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu
Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của
con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể,
hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc
thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện
trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính
là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự,
trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu
lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế
chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều
mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên
bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St
4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin và
tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con trai
duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không tiếc
với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó
là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một
kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì
càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào
nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới
hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao
cấp hơn. Ngài nói: «Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải
trên núi này hay tại Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây -
những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự
thật. (...) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ
phượng trong thần khí và sự thật ».
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần
khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: «Đã
đến giờ», «Giờ đã đến - và chính là lúc này đây». Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu
con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của
con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem,
cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng
như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật
chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt
trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy
chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình
thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng
Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu
chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa,
vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề
này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng
chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và
sự thật»?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: «Thiên Chúa là thần khí,
nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí». Thần khí (pneuma
- esprit - spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy
được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ
thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình,
nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong
không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là
thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên
bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người.
Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là
hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ
phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài
biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: «Cha trên trời
thừa biết anh em cần những gì rồi» (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía
Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng
lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: «Khi cầu nguyện, anh em
đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời» (Mt
6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ
bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài.
Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không
phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn,
tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ
phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa
trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò,
hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là «cái tôi» ích kỷ và kiêu căng của ta,
là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp
với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn
ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui
định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy
ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường
hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của
ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường
hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã
được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: «Lương thực của Thầy là thi
hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người». Việc quan
tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý
riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật
khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự
thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm
tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ
phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện
với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng
những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu
không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn
hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một
con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể
trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài.
Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ:
chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm
hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng
Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với
tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của
họ: «Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta.
Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích» (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu
nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng
trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa:
«Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con», nhưng trong thực tế, họ
chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn
cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng
đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ
Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên
ngoài ấy: «Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên
dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói
hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu
nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những
ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng
cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt
không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay
các ngươi đầy những máu» (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài
xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại
có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Ta đã chán
những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành
chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con
người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!»
21. "Đừng biến nhà Cha Ta thành
nơi buôn bán"
Các em thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát
thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình
không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận
khung trời xa xôi nào đó không? #ó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình
thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo
thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của
mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực
nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ,
thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó
người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm
nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi
linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy
rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy
gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi
thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống
rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô
hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá
bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói
điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà
thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và
tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ
tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong
ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn
thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe
lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì
giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi
đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ,
Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ
lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi
nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình.
Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ
những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của
Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh
tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy
ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá
bảo rằng "đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Ngài đã tẩy chay
một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi
của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: "Các
ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Ngài
ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy
đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của
thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên,
"đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay
tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ
trong Thần khí và sự thật" (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm
dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại
lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những
thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp
tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi
mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả
hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy "vải thưa che mắt
thánh". Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá.
Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay
đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ
điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm
hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ
Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám
hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến
thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội
lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá,
thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam
mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu
xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
22. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
Phép lạ hoặc những việc làm của Chúa
Giêsu trong Tin Mừng Gioan thường mang ý nghĩa biểu tượng. Dấu lạ được thánh
Gioan kể lại là để nói lên một thực tại khác về Chúa Giêsu. Thí dụ phép lạ
khiến ông La-da-rô sống lại cho ta biết Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự
sống. Cũng vậy, việc Chúa lên Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua và tẩy uế Đền
Thờ là để nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ. Thiên Chúa không còn
ngự trị trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem hay tại Ga-ri-dim nữa, nhưng trong Đức
Kitô, để "những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong
thần khí và sự thật" (Ga 4,23). Thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ Mới là
Chúa Kitô chắc chắn phải là một đề tài ta cần suy nghĩ và xét lại trong mùa
Chay về cách thờ phượng và cầu nguyện của ta.
a) "Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn
nói ở đây là chính thân thể Người"
Khác với các sách Tin Mừng nhất lãm,
sách Tin Mừng Gioan nói Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần và việc tẩy uế
Đền Thờ xảy ra ngay ban đầu sứ vụ của Người. Đặc biệt những lời của Chúa Giêsu
nói trong dịp này cũng mang một sắc thái hoàn toàn khác. Không phải những câu
trích dẫn ngôn sứ I-sai-a và Giê-rê-mi-a, nhưng là những lời của chính Chúa
Giêsu nói với mọi người: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà
Cha tôi thành nơi buôn bán". Do đó lệnh truyền của Chúa Giêsu không chỉ
đòi ta phải suy tư về ý nghĩa của Đền Thờ Mới, nhưng còn đòi ta phải có những
hành động cụ thể để thanh tẩy đền thờ của Chúa Thánh Thần, tức là thân xác và
tâm hồn của ta.
Thật là một hình ảnh tuyệt vời nếu ta
hiểu tất cả con người Chúa Giêsu là Đền Thờ Thiên Chúa ngự. Nơi Người, bản tính
Thiên Chúa và bản tính nhân loại kết hiệp với nhau trong một ngôi vị, tức là
Ngôi Hai Thiên Chúa. Không những Thiên Chúa hoàn toàn ngự trong Chúa Giêsu, mà
còn nhờ Chúa Giêsu ở lại với nhân loại (Emmanuel = Thiên Chúa ở cùng chúng ta).
Đến với loài người qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn mọi sự đổi mới. Đời sống mới
của ta phải theo lề luật mới là giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đến để
kiện toàn Lề Luật. Việc phụng tự biểu lộ quan hệ giữa ta với Thiên Chúa cũng
phải đổi mới. Đền thờ Giê-ru-sa-lem không còn là trung tâm thờ phượng, nơi duy
nhất người ta đến với Chúa nữa. Nhưng từ nay, Chúa Giêsu thay thế cho Đền Thờ
và là nơi thể hiện việc thờ phượng đích thực. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ
Sa-ma-ri: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa
Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem... Nhưng giờ đã đến – và
chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong thần khí và sự thật". Chỉ trong Chúa Giêsu mới có sự thật toàn
vẹn và thần khí Thiên Chúa đầy tràn. Do đó chỉ trong Người mới thể hiện việc
thờ phượng đích thực. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn muốn mỗi người môn đệ phải là
"người thờ phượng đích thực" và trở nên một đền thờ sống động, hoặc
những viên đá sống động để xây dựng Hội Thánh Người. Thánh Phao-lô khẳng định:
"Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh
Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?" (1Cr 3,16).
Giáo Hội là Thân Thể Mầu nhiệm Chúa
Kitô. Người là Đầu và ta là chi thể của Nhiệm Thể ấy. Như vậy, khi ta hiệp cùng
Giáo Hội thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Kitô thì việc thờ phượng đó là đích
thực. Ta cũng hiểu được tại sao Giáo Hội luôn luôn kết thúc các lời nguyện với
câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Bởi vì nếu không nhờ Đức Kitô, Đấng Trung
gian giữa Thiên Chúa và con người, lời cầu nguyện cũng như việc thờ phượng của
ta không bao giờ có thể đạt tới mức thập toàn được.
b) "Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán"
Nếu ý thức ta là đền thờ Thiên Chúa
ngự, ta sẽ thấy lời nói trên của Chúa Giêsu bắt ta phải suy nghĩ về tình trạng
đền thờ của ta. Trước hết Chúa gọi tâm hồn ta là "nhà Cha tôi" và lúc
nào cũng phải là nơi xứng đáng để Chúa Cha hiện diện tại đó. Chúa đã nhìn thấy
nguy cơ có thể xảy ra cho ta, đó là tâm hồn ta biến thành "nơi buôn
bán". Ta thử tưởng tượng lại khung cảnh buôn bán tại Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem. Những ồn ào, cãi vã, gian dối, lường gạt... đầy dẫy trong khung
cảnh buôn bán ấy và không thích hợp chút nào cho việc thờ phượng và cầu nguyện.
Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7:11) gọi nơi buôn bán ấy là "sào huyệt của
bọn cướp". Thực đúng như vậy. Khách hành hương từ xa tới Đền Thờ ít khi
quan tâm vấn đề tiền bạc. Còn đám con buôn thì lợi dụng thời cơ và lòng đạo đức
của khách hành hương, tìm đủ cách moi tiền của họ để làm giầu cho mình.
Tình trạng này vẫn xảy ra tại nhiều nơi
hành hương trên thế giới hôm nay. Nếu tới Đất Thánh và Giê-ru-sa-lem, ta cũng
khó mà kiếm được vài ba chỗ có được khung cảnh cầu nguyện thích hợp. Có lẽ chỉ
có Na-da-rét và núi Tám Mối phúc là còn khung cảnh thanh tĩnh giúp ta sống lại
những quan hệ mầu nhiệm Chúa Kitô. Tại những nơi hành hương nổi tiếng như
Lộ-đức và Fatima , chung quanh Đền thánh việc
buôn bán sầm uất không kém! Đó là những buôn bán bên ngoài. Còn những buôn bán
bên trong tâm hồn thì sao? Trong Giáo Hội, tinh thần buôn thần bán thánh vẫn là
điều khiến nhiều người đặt vấn đề. Ngày nay Giáo Hội Hoa-kỳ đã bị ràng buộc trong
cơ cấu hành chánh và tiền bạc, không sao tìm được lối thoát. Không có tiền, làm
sao trả lương các linh mục, thư ký văn phòng, giám đốc thánh nhạc, giám đốc
giáo lý... chưa kể những khoản bảo trì cơ sở vô cùng tốn kém. Có những giáo
phận bỏ ra cả mấy triệu bạc để thuê một công ty "gây quỹ", đặt chỉ
tiêu cho các giáo xứ phải quyên góp cho đủ! Do đó thật khó mà tránh được tinh
thần buôn bán ngay trong những công việc đạo đức.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là tình
trạng buôn bán trong tâm hồn mỗi Kitô hữu. Chúa Giêsu dạy ta "đem tất cả
những thứ này ra khỏi đây". Người để cho ta nhận diện từng thứ, rồi đem
"tất cả" ra khỏi tâm hồn ta. Tâm hồn ta trước hết phải là "lều
hội ngộ" để Chúa và ta gặp gỡ mọi lúc. Chúa Giêsu, sự thật toàn vẹn và
Thần Khí đầy tràn, phải chiếm hữu tất cả con người của ta để loại trừ đi cảnh
buôn bán và sào huyệt của bọn cướp. Thánh Phao-lô cho ta thấy sự trái ngược
giữa hoa quả của Thần Khí và hoa quả của tính xác thịt, là những điều có thể
gặp thấy trong tâm hồn ta. Nếu ta biết đem tất cả những gì thuộc tính xác thịt
ra khỏi tâm hồn và thay thế bằng những hoa quả tốt lành của Thần Khí, ta sẽ là
một đền thờ xứng đáng cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. "Những việc do tính xác
thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù
phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,
ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... Còn hoa quả của
Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín,
hiền hòa, tiết độ. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác
thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê" (Gl 5,19-24).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu coi mùa Chay như là mùa "dọn
dẹp tâm hồn", tôi có chương trình cụ thể nào để tẩy uế đền thờ tâm hồn tôi?
Tôi phải đem "tất cả những thứ này" ra khỏi tâm hồn tôi, vậy đó là
những thứ gì?
Tôi hiểu thế nào là thờ phượng trong sự
thật và thần khí? Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn giúp tôi hiểu gì về Thiên
Chúa? Và thần khí của Người dạy tôi sống như thế nào?
Việc thờ phượng với tính cách cá nhân
và cộng đồng của tôi như thế nào? Tôi tham dự vào việc thờ phượng của toàn thể
Giáo Hội một cách tích cực hay hời hợt? Tôi tham dự vào đời sống của Nhiệm Thể
Chúa Kitô như thế nào? Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc giúp cho Giáo Hội
được lành mạnh thêm và chiếu tỏa hình ảnh Chúa Kitô hơn ngay trong cộng đoàn
đức tin tôi thuộc về?
Cầu nguyện
"Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý
nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy
tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt
động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình
yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của
con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình
yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong
Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho
con,
mọi ước mơ của con được thực
hiện."
- dựa theo lời của thánh Têrêxa
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
23. Tẩy uế đền thờ
"Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2,16)
Suy niệm:
Đức Giêsu mang lại những cái mới:
Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những
điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã
(Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc "sinh ra bởi
nước và Thần Khí" như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới
mà Đức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: "Giờ đã đến -
và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ
thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật" (4, 23).
Riêng với đoạn Tin Mừng hôm nay, cái
mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì
nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10
này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương
lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như hậu quả của
lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội
Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi có thể phá
Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Rồi
khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: "Mi là kẻ
phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!"
(27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay,
điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó
Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm cho Đền Thờ bị
tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là
bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ
(cc.17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà
tác giả dành cho đoạn văn này. Đây là đoạn đầu về đời công khai của Đức Giêsu.
Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana ,
nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người
quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia
nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng
thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh,
anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!" (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược
lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Đức Giêsu hành động một cách
chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan
trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái: "Lễ Vượt Qua của người
Do thái gần đến." Độc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp
với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Đức
Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt
Qua của người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính
thức và công khai.
Đức Giêsu nổi giận trước cảnh Đền Thờ
bị tục hoá:
Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Đức
Giêsu thấy Đền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ
câu. Đức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì
tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi
nó ra tiền của Đền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua
đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể tới tiền của những
người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một Đức Giêsu nổi
nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Đó là
dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Làm
hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ bán bồ
câu rằng: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi
thành nơi buôn bán." (c.16)
Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy
nghĩ như sau:
Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh
Thánh "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân"
(c.17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số
phận của Đức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái
giáo. Nhưng với Đức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con
vì Người nói: "Đừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán." (c.16).
Người Do thái đòi Đức Giêsu phải làm
dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Đức Giêsu đã
không làm phép lạ. Người cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân thể của Người là
thân thể sẽ trở nên Đền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).
Điều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội
được mạc khải như hành vi tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng
Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi tục hoá công
trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính
và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục
đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với ý định của Thiên
Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ
nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là: "dục vọng của xác
thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình" (2,16). Dục vọng của xác thịt
chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới
dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của
đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất
kể tới đức công bằng và nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình
có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực
để thống trị người khác. Đó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra
trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu
tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển
con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê
tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ
Phaolô nói: "Nào anh em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và
Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì
Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy
chính là anh em." (1Cr 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Đức Giêsu nói lên
lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát
những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu chịu chết nay
được phục sinh mới thực sự là Đền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ
Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo
mới:
Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên
người Kitô của mọi thời là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống
xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần
Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng
tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện."
(Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm
nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm ai ở trong Đức
Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi." (2Cr 5,17)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay,
Chúa mạc khải cho chúng con biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa chính là Đền thờ
cao quý nhất. Xin cho chúng con biết trân trọng và yêu mến Đền Thờ. Xin cho chúng
con chúng con cũng biết dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong sạch, xứng đáng là
đền thờ đẹp cho Chúa ngự.
24. Chú giải của Lm Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
1.- Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản
văn song song với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc
19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này
vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp
được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: "một nơi
buôn bán" (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn "sào
huyệt của bọn cướp" (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm
cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu
và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo
các Tin Mừng Nhất Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị
một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi
những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin
Mừng Nhất Lãm). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được
một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản
văn của Ga và của các Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta
phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi
cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự
hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức
Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái,
và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu
(Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài
của Tin Mừng Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và
nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi
tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm
20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm
này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin
Mừng Nhất Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin
Mừng Nhất Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt
Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng
Nhất Lãm thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức
Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của
Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố
của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn
nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này
ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ
trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ
vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về "giờ" Khổ Nạn của Người; hơn nữa,
Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư
cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư
thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào,
bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng
lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện
Nicôđêmô (2,23-25).
3.- Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái
(13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức
Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức
Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của
Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và
các kinh sư quyết định "giết Người".
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14):
Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian
Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17):
Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ
Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế,
đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người
chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong
Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã
từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân
này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền
Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này
có thể hiểu là một mệnh lệnh: "Các ông hãy phá hủy...", hoặc như một
câu ở thì tương lai: "Các ông sẽ phá hủy...", hoặc như một câu giả
thiết: "Cứ giả sử là các ông phá hủy...". Thật ra, các động từ
"làm tan rã" (lyô) và "đánh thức dậy" (egeirô) không phù
hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với
phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang
lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant.
jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã
kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời
điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm
là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc
28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức
Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
-... là chính thân thể Người (21): Đền
Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của
Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21
và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh,
và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy,
các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các
môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức
Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được
nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ
Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên
kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức
Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy
nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể
xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t;
13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến
trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta
ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng
một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin
rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm
bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là
không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ
khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình
và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng
là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại
Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa,
vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp
phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống
náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và
đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương
diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê,
Người đã gây ra một sự cố "động trời" tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM
IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức
Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho
Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại
quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra
trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để
đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân
giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò
hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường
hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl
bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn
độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới
các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng
sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan
niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có
thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu
trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của
Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư
xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có
thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là
đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng
trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta
tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng
Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành
hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ
uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái
giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ
thực hiện sấm ngôn Malakhi: "Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm
kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi
đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất
hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái
Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)..." (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu
không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực
hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria:
"Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa"
(Dcr 14,21). "Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân"
(Is 56,7), nhưng "Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu
khấn, là hang trộm cướp sao?" (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện
pháp rõ ràng và dứt khoát: "Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò
ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật
nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: 'Đem tất cả những thứ
này ra khỏi đây'" (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện;
người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ
trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử
chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành
Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng
lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi:
"Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta
dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta" (Ml 1,10-11). Đúng là
đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương
quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ
rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và
những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác
giả Tv 69/68: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt
thân...", thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc
chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv
69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự
nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt
Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh
"đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng" (Tv 69/68,32). Người chính
là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu
xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc
chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng
lại Đền Thờ (18-22)
"Người Do Thái" đây là giới
lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do
Thái, đã hỏi: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có
quyền làm như thế?" (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung
đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả
lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do
Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn
họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy
khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù
không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một
hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một
uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt
tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự
gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người
gọi là "Cha Người"! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần
linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động
phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt
11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy
(làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức
dậy)" (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: "Các ông hãy phá
hủy...", hoặc như một câu ở thì tương lai: "Các ông sẽ phá
hủy...", hoặc như một câu giả thiết: "Cứ giả sử là các ông phá hủy...".
Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và
xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến
Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có
thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm
được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên
gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông
phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là
họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ
"làm tan rã" (lyô) và "đánh thức dậy" (egeirô) không phù
hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật
chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15),
như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các
nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40;
Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người
Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói
vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang
nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách
lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự
mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống
lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và "đã tin vào
lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói" (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan
cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ
bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của
Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: "Cứ làm tan rã
Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân
thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ
ấy)". Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ
đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của
Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ
hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối
với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể
tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là
một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ
không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ
vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên
này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của
con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận
cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu
sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục
Sinh là "nơi" vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có
Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là "ngôi nhà Cha" hoàn hảo. Lời
tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs
6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy
Thầy họ là "Bết-Ên" thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51).
Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ
nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi
Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện
Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức
Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu
biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh
chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa:
Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều
do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của
Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng
chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt,
các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi
những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ
khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ
dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như
vào "nhà Cha Người"; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi
những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn
toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền
lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng "có lòng hiền
hậu và khiêm nhường", là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần,
vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách
của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa
xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc
mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong
Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể
chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc
này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng
Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên
hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần
chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về "nhà
của Cha", hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng
ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức
Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được
niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ
nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là
một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được
Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta
nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta
vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời
của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh
thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu
soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là "nơi" vĩnh viễn có sự
hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng
được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng
của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập
thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận
lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với
Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi
để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường
của chúng ta chăng?
25. Chú giải của Noel Quesson
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái,
Đức Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt
thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức
Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22;
11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa
Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn
trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân
trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi
thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích.
Cuốn phim "Lễ vật toàn thiêu" nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân
tộc này mà Đức Giêsu là thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc
biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng
"Lễ Vượt Qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ
Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức
Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ "tin vào danh Người trong dịp lễ
Vượt Qua" (câu 23). Từ 'lễ Vượt qua của người Do Thái' đến 'Lễ Vượt qua
Kitô giáo', luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền
thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ
bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm
roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của
những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với
những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây".
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót
diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu
đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền
thờ". Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để
tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy,
hình như Đức Giêsu đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử
tế hơn so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người
nghèo", lễ vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để
mua những con vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những
người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ
búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không
nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín
hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng:
Như trướng hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình, hẳn
là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp bồ
câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin
Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ khác.
Chúng ta rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại
tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung
quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương
Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận trước vị
trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế! Như vậy,
chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng
con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng
hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ
thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi".
Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm
hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành Nagiarét?
Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và
Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện
nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm
phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó
là nơi "chí thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không
ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói
một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của
Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai
hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở
nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc
phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như
bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải
thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên
ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã
chép trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải
thiệt vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa
Cha" luôn thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những
nhánh củi khô. Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi
thức", nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản
thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối
với tôi, việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi 'dự lễ' hay tôi
'chung phần' vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa
nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng
muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu
mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh
quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép"
đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của
Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội
ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi
sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?"
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ
"đền thờ" (iéron) mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không
phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử
dụng chính xác từ "đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ
buôn bán; và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ
là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các
sân phía trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói:
"Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi", tai hại biết bao, nếu
những người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn
toàn bé nhỏ, những quý giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi
Thiên Chúa hiện diện (shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết
án tử hình do lời tố cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: "Tôi sẽ phá thánh
điện này và sẽ xây cất lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng.
Thánh điện này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50
năm trước đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và
hành hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự
duy nhất" của Israel .
Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát triển như thế, cũng
như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi hay cứ
phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris
hay vương cung thánh đường ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự
nhiên, không có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói
ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ
"thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang
Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người
biết Người là ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình
thành "nơi Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền
thờ mới", là nơi "phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như
Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu
sát tế trên ngọn đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ
người ta đang sát tế nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng
đại" (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay
thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn trong
Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông
với dòng nước mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ Edêkien báo
trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các
môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của
các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề
cập đến đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để,
mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh
tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi
Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là
Thân mình Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh
thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao?
Sau này, thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng
Côrintô: "Anh ern là Thân mình Đức Kitô" (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để
xây dựng phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em
là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr
3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân
xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của
mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh
em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?"
(1Cr 6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh
mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại:
"Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức
Kitô". Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì
chúng con trở nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên
mình thánh, giữ gìn Giao ước của Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn
định chỗ ở cho Thiên Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son
thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra
khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung
thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em
là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức
Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào
dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét