NGUYỆN ĐƯỜNG LORETTO |
CẦU THANG THÁNH GIUSE |
CẦU THANG THÁNH GIUSE |
TẠI |
BẦU TỔNG PHỤ TÁ HỘI THỪA SAI VN |
CẦU THANG THÁNH GIUSE TẠI
NGUYỆN ĐƯỜNG LORETTO,
Thánh Giuse được Giáo hội ngày
càng yêu kính. Có nhiều câu chuyện về ngài. Câu chuyện chiếc cầu thang kỳ lạ
sau đây được nhiều người đưa lên mạng Internet. Giáo hội không
xác quyết đấy là công trình do thánh Giuse thực hiện nhưng
lòng đạo đức bình dân lại tin như thế với 250.000 khách hành
hương mỗi năm. Không đi sang SANTA FE được,
chúng ta hãy đọc và xem những ai đã đến và trình thuật lại những gì
tai nghe mắt thấy. Dĩ nhiên không cần đến câu chuyện nầy, chúng ta vẫn yêu kính
thánh Giuse bình thường nhưng trong tháng kính thánh Giuse năm nay, đây là
một câu chuyện nên biết. Xin cám ơn các tác giả.
CẦU THANG THÁNH GIUSE
Tôi theo nhóm người trượt tuyết ngày
31/12/2011 từ Dallas trực chỉ hướng tây bắc tới thành phố Santa Fe, tiểu bang
New Mexico, với chủ đích là kiểm chứng ‘Cầu thang Thánh Giuse’ tại nguyện
đường Loretta.
Đã từ lâu, tôi đã nghe nói nhiều về
chiếc cầu thang kỳ lạ này, được cho là chính Thánh Giuse kiến tạo, nay có dịp
thuận tiện, nên mặc dù mùa đông giá lạnh với đường xá nguy hiểm vì băng
tuyết, tôi quyết định phải theo nhóm người, vượt ngàn dặm hiểm nguy để có thể
tới chứng kiến tận mắt và sờ tận tay chiếc cầu thang có một không hai bên Tây
bán cầu này.
Nguyện đường Loretta tọa lạc tại số
207 Old Santa Fe Trail, khởi công xây dựng năm 1873 và tới năm 1878 mới hoàn
thành, chiều dài 30 mét 5, chiều ngang 8 mét, chiều cao 21 mét 3. Với kích
thước này, cách đây 134 năm, nguyện đường Loretta được coi là một nguyện
đường lớn nhất tại
Đức Cha Jean Baptiste Lamy, người
Pháp, đã mời kiến trúc sư Antoine Monly và con trai là Projectus Monly từ
Paris sang vẽ kiểu và xây Nhà thờ chính tòa St Francis, đồng thời khuyến
khích các nữ tu nhờ hai cha con ông Monly xây nguyện đường Loretta theo mô
hình nhà thờ Sainte Chapelle tại Paris, mà họ đã tham gia trong công tác
trùng tu vào đầu thập niên 1800. Theo mô hình phổ thông các nhà thờ bên Âu châu
thời đó thì không có cầu thang lên gác lửng dành cho ca đoàn, vì cầu thang sẽ
chiếm nhiều chỗ trong lòng nhà thờ. Vả lại, vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái
nam được hát trong ca đoàn, nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà
không cần cầu thang.
Sau khi khánh thành nguyện đường và
cha con ông Monly đã rời khỏi thành phố, thì thực tế đem lại một vấn đề hết
sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu phục và váy đầm
dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng thang gỗ. Các nữ tu đã
mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang, nhưng sau khi quan sát, đo
đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được, vì gác ca
đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê
ghế. Giải pháp còn lại là hoặc vẫn phải dùng thang leo lên gác ca đoàn, hoặc
nới rộng nguyện đường dành chỗ làm cầu thang. Và dĩ nhiên, giảp pháp này cũng
không thể chấp nhận. Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi
công xây dựng nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh
Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải
được giao cho Thánh Giuse lo liệu.
Trong cuốn niên giám của Dòng còn
ghi lời phát biểu của Bà: “Chúng ta tôn kính Thánh Giuse mỗi ngày thứ tư hàng
tuần để xin Người trợ giúp, và đã nhiều lần, chúng ta chứng kiến sự can thiệp
đầy quyền thế của Thánh Giuse”. Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần 9
ngày cầu xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với đầy lòng tin
tưởng và phó thác nơi Thánh Giuse, thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện
một ông già râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca
đoàn. Ông thợ mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước
đo hình chữ T và 1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng
mua vật liệu. Với tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng, sẽ thanh toán tiền
công và tiền vật liệu sau khi công việc hoàn tất, nên không cần hỏi tên tuổi
ông thợ. Sau khi giao công việc, vì đức khiết tịnh, các nữ tu không tiện liên
lạc với ông và để mặc ông thợ tiến hành công tác, đồng thời tạm dùng một
phòng học để cầu nguyện và cử hành phụng vụ.
Sau thời
gian 7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất, nhưng không
tìm thấy ông thợ đâu cả: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và
tiền vật liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc địa chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm
kiếm khắp nơi và còn nhắn tin trên các báo địa phương, tuy nhiên, không ai
nghe biết về ‘ông thợ kỳ lạ’ này. Sau cùng, Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ
để thanh toán tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không
có ai đến mua gỗ làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích
ông thợ ‘huyền bí’ này, nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh
Giuse đã đáp lời cầu xin của các nữ tu. Hiện nay, tại Nhà Mẹ các nữ tu
Loretta ở tiểu bang Kentucky, trong sách kinh hàng ngày, có hình vẽ ông thợ
mộc đầu tóc bạc phơ dắt theo con lừa với túi đồ nghề gồm 1 cái cưa, 1 cây
thước và 1 cái búa.
Năm 1971, một trận hỏa hoạn lớn
thiêu hủy nhiều ngôi nhà của học viện và khu vực chung quanh. Tuy nhiên, như
một phép lạ, nguyện đường Loretto vẫn đứng y nguyên, không hề hấn gì.
Sau hơn 8 giờ lái xe trong đêm với
tốc độ trung bình 120 cây số/giờ, chúng tôi tới ranh giới
Chúng tôi tới nguyện đường Loretto
kiến trúc theo kiểu Gothic lúc 4 giờ 30 chiều, đúng vào ngày đầu năm dương
lịch và phải đợi khá lâu mới đến lượt vào bên trong nguyện đường, vì nhiều
đoàn hành hương đã tới trước. Có những đoàn từ các tiểu bang miền Bắc như
Bước qua cửa vào cuối nguyện đường,
du khách sẽ lập tức bị thu hút bởi những tác phẩm nghệ thuật:
- Bàn thờ gỗ được làm từ bên Ý, chạm
trổ bằng tay theo kiểu Gothic, rồi sơn cho giống màu đá cẩm thạch. Bàn thờ
nguyên thủy này được đặt trong nguyện đường từ năm 1910 đến nay, hơn 100 năm
vẫn không thay đổi. Phía dưới bàn thờ có khắc nổi hình Bữa Tiệc Ly của
Leonardo da Vinci.
- Trong gian cung thánh, phía bên
phải gần bao lơn, có tượng Thánh Giuse tay trái cầm cây gậy, tay phải ẵm Chúa
Hài Đồng. Cũng trong gian cung thánh, phía bên trái gần bao lơn, có tượng Đức
Mẹ ban ơn đứng trên qủa cầu, chân trái đạp đầu con rắn, chân phải có chuỗi
Mân Côi và dưới đó là các ngôi sao. Cả hai bức tượng đều có kích thước lớn
hơn người bình thường.
- Hai tượng thiên thần bổn mạng đứng
2 bên phía trên bàn thờ và tượng thiên thần ngồi bưng bình nước thánh lớn là
công trình nghệ thuật của nhóm nghệ nhân M.M. K. Brokaw nổi tiếng đương thời.
- Tượng Trái Tim Chúa Giêsu, đặt
trên tường phía bên trái, tay trái chỉ Trái Tim Cực Thánh, tay phải xuôi
xuống với bàn tay mở rộng như ban ơn cho những ai đến với Người.
- Chặng đường Thánh giá hai bên
tường biểu lộ nét sinh động của nghệ nhân, khi diễn tả được nỗi bi thương của
Chúa và Đức Mẹ cũng như sự tàn ác của ‘quân dữ’. Thực ra, chặng đường Thánh
giá là do sáng kiến của thánh Phan-xi-cô từ thế kỷ 13 nhằm giúp tín hữu,
trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, sốt sắng nhớ lại hành trình khổ nạn của Chúa
khi vác Thập giá lên đồi Can-vê; nhờ đó, những người không biết đọc cũng có
thể trải nghiệm cuộc thương khó của Người. Khởi đầu, người ta dựng những cây
thánh giá nhỏ bằng gỗ ở những khoảng cách khác nhau, và tín hữu dừng lại mỗi
chặng trong khi suy tưởng về quãng đường thập giá Chúa đã đi qua. Sau cùng,
các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã vẽ hoặc tạc nên những cảnh sống động về
chặng đường khỗ nhục cuả Chúa vác Thánh giá lên đồi để chịu đóng đinh. Phải
chính mắt trông thấy những chặng đường Thánh giá tại nguyện đường Loretta,
chúng ta mới thấy tài nghệ tuyệt vời của các nhà đúc tượng, khi thực hiện
những tác phẩm nghệ thuật này. Chặng đường Thánh giá Loretta hiện nay là một
kho tàng nghệ thuật vô giá, mặc dù được thực hiện từ năm 1800. Tất cả những
bức tượng và chặng đường Thánh giá đều bằng đá cẩm thạch nghiền nát, rồi đổ
vào khuôn, nung trong lò như kỹ thuật làm đồ gốm, sau đó các nghệ nhân tô vẽ
bằng tay.
- Kỹ thuật sơn kính màu tại nguyện
đường Loretta đã đạt tới mức hết sức tinh vi, không thua gì các thánh đường
nổi danh bên Âu châu như nhà thờ Fatima Bồ Đào Nha, nhà thờ Thánh An-tôn
Lisbon, nhà thờ chính tòa Burgos, đại thánh đường Thánh I-nha-xi-ô Loyola Tây
Ban Nha, nhà thờ Sacré Coeur, nhà thờ Notre Dame Paris ở Pháp — những nơi mà
tôi có dịp viếng thăm trong chuyến hành hương Fatima-Lộ Đức tháng 10 năm
2011. Kính màu trên vòm cửa cuối nguyện đường vẽ biểu tượng của Chúa Giêsu
bằng 2 cây Thánh giá đặt chéo lên nhau với ánh hào quang màu xanh dương. Hai
bên phía dưới là chữ Hi-lạp Alpha và Omega, nói lên Chúa Ki-Tô là khởi đầu và
là sau hết. Cửa kính tròn sau gác ca đoàn có hình bông hồng lớn, được gọi là
‘Rose window’, vẽ chữ M, lồng trên chữ A (Ave Maria), lời chào kính Đức Mẹ
Maria vì khi thành lập Hội Dòng Loretto ngày 25/4/1812 tại Kentucky, các nữ
tu đã chọn Đức Mẹ làm bổn mạng. Ngoài ra, còn 2 kính màu lớn, một vẽ ảnh
Thánh Stanislas ẵm Chúa Hài Nhi, bổn mạng của các tập sinh và các thiếu nữ,
một vẽ ảnh Thánh Catherine thành Alexandra tay ôm cành thiên tuế, bổn mạng
các trinh nữ và các nữ sinh.
Tuy nhiên, đích điểm của khách hành
hương chính là ‘CẦU THANG THÁNH GIUSE’. Thật vậy, suốt thời gian ở trong
nguyện đường, lúc nào tôi cũng thấy khách hành hương, hết lớp này đến lớp
khác, chăm chú quan sát cầu thang từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới lên
trên, không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào, rồi bàn tán, thảo luận, và đi
từ ngạc nhiên đến trầm trồ không tiếc lời khen ngợi. Sau đó, nhiều người đến
qùy dưới chân tượng Thánh Giuse cầu nguyện trước khi quyến luyến ra về, sau
khi đã chụp hàng chục tấm ảnh, hoặc quay phim làm kỷ niệm.
Cầu thang nằm sát tường bên phải, phía
cuối nguyện đường, có hình xoắn ốc, vòng 2 lần, mỗi vòng 360 độ, không có cột
chịu lực ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu thang và phần nối với gác
ca đoàn. Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực (law of gravity) khiến
các khoa học gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư Urban C. Weidner
cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết, ông chưa bao giờ thấy cầu thang
hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ sụp đổ
ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu và nữ sinh phải lên
xuống cầu thang mỗi ngày một hay nhiều lần để hát phụng vụ. Năm 1959, cả ca
đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như làm
bằng xi-măng cốt sắt.
Cầu thang có 33 bậc cùng một kích
thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian, 2 bên các bậc thang
không có song chắn an toàn khi lên xuống, cũng không có tay vịn. Một nữ sinh
thời gian làm cầu thang mới 13 tuổi, sau vào tu dòng Loretto lấy tên Mary, kể
lại rằng chính cô và các bạn là những người đầu tiên bước lên cầu thang,
nhưng vì sợ quá nên phải bò lên từng bậc, rồi khi xuống, phải cho hai chân
xuống trước, rồi bám bậc phía trên, từ từ tụt xuống. Chính vì thế, sau 7 năm,
các nữ tu và nữ sinh phải ‘bò lên bò xuống’ các bậc thang để lên gác ca đoàn,
Phillip August Hesch, chuyên viên bảo trì nhà thờ chính tòa St. Francis, được
mời tới làm tay vịn và song chắn 2 bên cầu thang cũng như quanh gác ca đoàn.
Điều đặc biệt là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết
các vật liệu với nhau. Ông thợ ‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để
liên kết một cách tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật.
Cầu thang được ráp nối bằng 93 tấm
gỗ, dài từ 0.9 đến 1.5 m, gồm 10 tấm dùng làm sườn phía ngoài (nên có 9 đường
nối), 8 tấm làm sườn phía trong (7 đường nối), 33 tấm làm bậc thang, 33 tấm
kê giữa 2 bậc thang, phần còn lại dùng làm đoạn vòng dưới chân cầu thang. Kỹ
thuật ráp nối thật lạ lùng và tinh xảo, và như trên đã nói, ông thợ không
dùng đinh, cũng không dùng keo dán, chỉ nối kết bằng những chốt gỗ hình vuông
mà thôi. Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận
xét: một trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc là
những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi
tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi, không
tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông Weidner vẫn băn khoăn suy nghĩ là một kỹ thuật
tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng cụ
rất thô sơ, làm thế nào có thể thực hiện được.
Về gỗ làm cầu thang, nhiều chuyên
gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ đâu. Tuy nhiên,
không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ của nó. Mặt
các bậc thang liên tục bị giẵm lên từ khi hoàn thành cách đây hơn 100 năm,
nhưng chỉ mép bậc thang bị mòn đi một chút. Có nhà nghiên cứu cho đây là một
loại thông mà thớ gỗ nằm gần vỏ, người khác thì cho là loại thông vàng lá
dài. Urban Weidner lại khẳng định loại gỗ ít bị mòn này không hề có tại
Chuyên gia Forrest N. Easley, sinh
quán New Mexico, tốt nghiệp ưu hạng tại Đại học Colorado ngành Lâm học và Mộc
học, đã từng làm việc cho các cơ quan chính phủ và Hải quân Hoa Kỳ trong 40
năm, đặc trách nghiên cứu và quản trị ngành gỗ. Với thành quả và công trình
nhiều năm nghiên cứu, ông là chuyên gia về gỗ nổi tiếng, có uy tín và được
mọi người kính nể. Năm 1996, Forrest Easley đã bỏ ra 15 tháng nghiên cứu và
phân tích gỗ làm cầu thang Loretto. Ông lấy một mẩu gỗ cầu thang đem vào
phòng thí nghiệm và dùng kính hiển vi, kính khuếch đại để quan sát, phân tích
tế bào cấu tạo của gỗ. Ông cho biết gỗ có tế bào cấu trúc hình vuông, không
giống bất cứ loại gỗ nào hiện có, và cũng không biết rõ nguồn gốc từ đâu. Đây
là loại gỗ vân sam (spruce) ‘có một không hai’, vì tất cả các loại gỗ vân sam
khác không bao giờ có cấu trúc tế bào hình vuông. Như vậy, chỉ có thể phân
loại gỗ này vào giữa nhóm Picea sitchensis và Picea engelmanni. Forrest đề
nghị đặt tên khoa học là Pinacae Picea josefìi Easley, còn tên phổ thông nên
gọi là gỗ vân sam Loretto.
Giáo Hội luôn luôn thận trọng khi đề cập đến những hiện tượng siêu
nhiên mà con người không giải thích được. Cũng trong tinh thần đó, các nữ tu
và Giáo quyền tại Santa Fe không muốn đưa ra một tuyên bố khẳng định nào về chiếc
cầu thang lạ lùng này, chỉ cho đó là sự đáp ứng của Thánh Giuse đối với lời
cầu nguyện và sự phó thác của các nữ tu nơi Thánh Giuse. Tuy nhiên, nhiều
người vẫn nghĩ Thánh Giuse chính là ông thợ đã làm chiếc cầu thang lạ lùng
đó.
Truyền thống tôn kính Thánh Giuse đã
có từ lâu đời trong Giáo Hội, từ những thế kỷ đầu, thời các thánh Giáo phụ.
Rồi qua các thế kỷ, chúng ta thấy rất nhiều vị thánh đã tỏ ra lòng sùng kính
Thánh Cả Giuse cách đặc biệt.
Tiêu biểu nhất, thế kỷ 13 có thánh
Margaret Cortona, thế kỷ 14 các thánh Bridget Thụy Điển, thánh Vincent
Ferrer, thánh Bernardine Siena. Đặc biệt thế kỷ 16 có thánh Teresa Avila, nữ
tiến sĩ đầu tiên của Hội Thánh, là tông đồ nhiệt thành với lòng phó thác
tuyệt đối vào Thánh Cả Giuse. Bà đã thành lập 17 tu viện và dâng kính 13 tu
viện cho thánh Giuse. Qua kinh nghiệm bản thân của bà về những ơn đã nhận
được từ Thánh Giuse, thánh Teresa quả quyết: “Tôi thấy không lần nào xin gì
cùng Thánh Giuse mà không được. Dường như Thiên Chúa ban cho các Thánh giúp
ta việc này việc nọ. Nhưng kinh nghiệm cho tôi biết, Thánh Giuse giúp chúng
ta trong mọi trường hợp. Những ai không tin lời tôi, hãy thử mà xem!”
Sang thế kỷ 17, Mẹ Đáng Kính Maria
Agreda, nữ tu Dòng Thánh Phan-xi-cô, trong mọi khó khăn cũng như nghịch cảnh,
lúc nào bà cũng tín thác nơi Thánh Giuse. Trong cuốn sách “Thành Trì Thiên
Chúa” (La mistica ciudad de Dios), bà viết: “Sự cầu bầu của Thánh Giuse thực
là mạnh thế, để giúp chúng ta giữ đức trong sạch, gỡ mình khỏi tội lỗi, thêm
lòng kính mến Đức Mẹ, được ơn chết lành, khỏi quỷ ma cám dỗ, được sức khỏe
phần xác cùng sự cứu trợ trong mọi hoàn cảnh khó khăn”.
Trong thời cận đại, chúng ta có 2 vị
Thánh được coi là Tông đồ nhiệt thành hơn cả của Thánh Cả Giuse: Thánh
Daniele Comboni và Thánh Andre Bessette. Cả hai có chung đặc điểm là cùng
sinh vào thế kỷ 19 và được phong hiển thánh vào thế kỷ 21, nhưng thánh
Daniele qua đời vào thế kỷ 19 và thánh Andre qua đời thế kỷ 20.
1. Thánh Daniele Comboni là một linh
mục truyền giáo tại Phi châu, sau làm Giám mục, được phong thánh ngày
5/10/2003. Ngài đã sáng lập Dòng Thừa Sai gồm cả hai ngành nam tu sĩ và nữ
tu. Ngay khi khởi đầu việc truuyền giáo tại
2. Thánh Andre Bassette là Thày trợ
sĩ Dòng Thánh Gía. Ngài sinh ngày 9/8/1845 trong một gia đình lao động gồm 10
anh chị em (2 người mất sớm), mồ côi cha năm lên 9 và mồ côi mẹ năm lên 12.
Thuở nhỏ Ngài ít được đi học, chỉ biết đọc biết viết, và để mưu sinh, cậu bé
Andre suốt 13 năm phải làm nhiều nghề khác nhau: thợ thiếc, thợ rèn, thợ sửa
giầy, thợ làm bánh, v.v… và có thời gian phải sang Hoa Kỳ kiếm sống. Tuy
nhiên, cậu Andre có tâm hồn đạo đức. Khi nào có chút giờ rảnh, cậu đều qùy
gối cầu nguyện trước Thánh Gía, và khi có cơ hội, cậu đem Thánh Kinh nói
chuyện với bạn bè. Ngoài ra, cậu có lòng kính mến Thánh Giuse đặc biệt.
Năm 25 tuổi, nhờ sự giới thiệu của
cha xứ và nhất là sự can thiệp của Đức Cha Ignace Bourget, thanh niên Andre
được nhận vào Nhà Tập. Thày Andre khấn trọn đời ngày 2/2/1874 khi 28 tuổi.
Trong suốt 40 năm, công việc chính của Thày là gác cổng trường College de
Notre Dame Montreal. Thày thường nói đùa : “Khi tôi đến, người ta chỉ cho tôi
cái cổng và tôi ở đó suốt 40 năm”. Ngoài công việc chính, Thày Andre còn làm
những việc không tên như lau nhà, lau đèn nhà nguyện, lau cửa kính, vác củi,
chạy thơ, v.v… Thày cũng được giao nhiệm vụ đi thăm các học sinh bị bệnh, và
cũng nhờ công việc này, không bao lâu, Thày nổi tiếng là ‘người làm phép lạ
Montreal’, có khả năng chữa bệnh nhờ lời xin của Thày với Thánh Giuse. Khi
đến thăm bệnh nhân tại nhà, Thày bảo họ cầu cùng Thánh Giuse rồi xức dầu
Thánh Giuse cho họ (dầu lấy từ cây đèn luôn luôn thắp sáng trước bàn thờ
Thánh Giuse trong nhà nguyện). Thế rồi càng ngày tiếng tăm Thày Andre, ‘người
làm phép lạ’, càng loan truyền khắp nơi khiến hàng ngàn người từ xa kéo đến,
và rất nhiều người được khỏi bệnh nhờ Thầy cầu nguyện với Thánh Giuse. Chỉ
riêng năm 1916 đã có 435 trường hợp được báo cáo khỏi bệnh mà y giới không
giải thích được.
Thường ngày, Thày Andre phải tiếp
khách hành hương từ 8 đến 10 giờ và mỗi năm, Thày nhận khoảng 80 ngàn thơ từ
khắp nơi gởi đến xin khấn hoặc xin những lời chỉ dạy của Thày. Thày Andre
luôn luôn nói với những người đến xin chữa bệnh: “Tôi chỉ là kẻ quê mùa. Nếu
có ai ngu dốt hơn tôi, chắc chắn Chúa sẽ chọn người đó thay tôi”. Câu nói này
làm chúng ta nhớ tới câu nói của Thánh Bernadette được Đức Mẹ hiện ra ở
Lộ-Đức: “Tôi là kẻ ngu dốt nhất trong các người ngu dốt. Nếu có ai ngu dốt
hơn tôi thì Đức Mẹ đã chọn người đó rồi”. Các Thánh sao mà khiêm nhường đến
thế, chẳng bù cho chúng ta, có người còn cho mình ‘thay trời’ (thế thiên)
hành đạo. Quả đúng như lời Chúa dạy: ai đưa mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ
mình xuống sẽ được nâng lên. Khi có người được khỏi bệnh đến cám ơn, Thày
Andre trả lời: “Đó là Thánh Giuse chữa. Tôi chỉ là con chó nhỏ của Ngài mà
thôi”.
Giấc mơ của Thánh Andre là xây một
đại thánh đường kính Thánh Giuse. Khởi đầu, Thày Andre quyên góp được số tiền
200 Gia kim và mỗi học sinh trả cho Thày 5 xu tiền hớt tóc. Năm 1904, Thày
làm được một nhà nguyện bằng gỗ dài 5,49m, rộng 4.57m gần địa điểm Vương cung
thánh đường Thánh Giuse hiện nay. Giấc mơ của Thày Andre đã trở thành hiện
thực năm 1924, khi thánh đường Thánh Giuse được xây trên sườn đồi
Thày Andre qua đời năm 1937, lúc 91
tuổi. Hơn một triệu người từ khắp nơi đến kính viếng, và đi qua quan tài của
Thày để được nhìn Thầy và vĩnh biệt Thày lần cuối. Thi hài Thày Andre được an
táng trong Vương Cung Thánh Đường mà Thày đã có công khởi xướng. Thày Andre
được ĐGH Gioan-Phaolô đệ nhị phong chân phước ngày 23/5/1982, sau phép lạ ông
Carlo Audino khỏi bệnh ung thư năm 1958 nhờ lời cầu bầu của Thày. Ngày
17/10/2010, Chân phước Andre được ĐGH Bê-nê-đic-tô thứ 16 tôn phong hiển
thánh, sau khi phép lạ thứ 2 được công nhận.
Nhân nói đến thời cận đại, không thể
không đề cập đến biến cố vĩ đại ngày 13/10/1917, khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6
với ba trẻ tại Fatima, và trên bầu trời có Thánh Giuse, Chúa Hài Đồng và Đức
Mẹ cùng xuất hiện bên cạnh mặt trời. Liền sau đó, chị Lucia la lên: trông mặt
trời kìa! (Regardez le soleil), và trước sự chứng kiến của khoảng 70 ngàn
người, mặt trời nhảy múa. Từ xưa đến này, ít khi nghe nói đến việc Thánh
Giuse hiện ra, nhưng trong thời cận đại, sự kiện Thánh Giuse xuất hiện trên
bầu trời cùng với Chúa Giêsu và Đức Mẹ có lẽ nhắc nhở chúng ta rằng Người vẫn
luôn luôn quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của mỗi người chúng ta, và sẵn
lòngcầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Trên đây là truyện các Thánh tôn
vinh Thánh Cả Giuse. Đến đây, xin độc giả lượng thứ cho vì chỉ muốn chứng
minh rằng trong cuộc sống đời thường, nếu chúng ta thành tâm cầu khẩn Thánh
Giuse, Người sẽ nhận lời. Xin được kể hầu qúy vị một kinh nghiệm mới xảy ra
trong gia đình như sau: Tôi có người con gái thứ 3 tên là Trần-Nguyễn Thiên
Hương Lan, gọi bằng tên Mỹ là Mary cho tiện và vắn tắt. Mary tốt nghiệp Đại
học Dược khoa với cấp bằng Doctor of Pharmacy và đã hành nghề dược sĩ hơn 10
năm. Mới đây một bệnh viện trong vùng cần tuyển một dược sĩ có kinh nghiệm,
để bào chữa thuốc trị bệnh cho các trẻ em khuyết tật hoặc mắc những bệnh nan
y. Mary muốn nộp đơn xin làm nhưng xem ra tiêu chuẩn rất khó. Tôi đã khuyến
khích Mary và khuyên Mary cầu nguyện cùng Thánh Giuse.
Một tuần sau khi phỏng vấn, Mary
nhận được thư từ chối. Mary buồn rầu thông báo cho tôi và nghĩ là chuyện đã
rồi, nên tôi không quan tâm nữa. Bất ngờ tuần sau, Mary gọi điện thoại báo
tin vừa được bệnh viện cho hẹn đến làm thủ tục nhận việc. Mary cho biết ngay
khi nhận thư từ chối, trong lòng không vui, lại thắc mắc vì sao đã cầu xin
Thánh Giuse mà Người không nhận lời, nên theo đúng lời Mary kể, Mary hỏi
Thánh Giuse TẠI SAO, sau đó ‘email’ cho bà Giám đốc phòng nhân viên của bệnh
viện. Ngay chiều hôm đó, Mary nhận được hồi báo cho biết đã có sự lầm lẫn, và
trong số những ứng viên đủ tiêu chuẩn, người được chọn chính là Mary. Mary
tin rằng, chính Thánh Giuse đã nhận lời cầu xin của mình mà chỉ cho họ nhận
ra sự lầm lẫn.
Để kết thúc bài viết, xin trích dẫn
bài suy ngẫm ngày thứ sáu trong cuốn Tuần cửu nhật kính Thánh Giuse, do nhà
sách Trái Tim Đức Mẹ tái bản năm 1993, mà không thấy tên tác giả:
“Muốn biết thế lực Thánh Cả trên
Thiên Đàng ngày nay, không gì bằng nhớ lại công việc Người đã làm xưa trong
Nhà Nazarét. Nơi đây, vì phận sự gia trưởng, Người đã xếp đặt mọi công việc
cho Đức Mẹ và Chúa Con. Ngót ba mươi năm trường, hai Đấng đã lấy làm hạnh
phúc được vâng lời Người trọn vẹn, chẳng lấy chi làm sung sướng cho bằng làm
vừa lòng đẹp ý Người luôn. Ấy là thế lực Người ở trần gian, huống chi trên
Thiên Đàng, quyền uy Người còn lớn gấp bội. Có lẽ nào trên chốn vinh quang,
Chúa Giêsu và Đức Mẹ lại phai lạt lòng yêu mến đối với Người? Tất nhiên, lời
cầu nguyện của Người phải mạnh thế dường nào! Đấng Cứu Thế vừa thấy đôi tay,
suốt ba mươi năm, đã làm lụng vất vả để nuôi Mình, rày chắp lại van xin, thì
cầm lòng sao được mà chẳng mau kíp ban ơn?”….
Tác giả : TRẦN VĂN HUYẾN
20 THÁNG BA
2012.
|
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga
12,20-33
MỤC LỤC
1. Giờ của Chúa
2. Giờ Chúa đến
3. Hạt lúa gieo vào lòng
đất
4. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất
5. Sống đẹp giữa đời – Lm. Giuse Tạ Duy
Tuyền
6. Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến
7. Nếu hạt giống chết đi – Lm. Giuse Đỗ
Vân Lực
8. Mùa gặt tươi tốt – Cố Lm. Hồng Phúc
9. Hạt lúa mục nát đi mới trổ sinh bông
trái
10. Thuốc bất tử – Lm. Trịnh Ngọc Danh
11. Hạt lúa mì – Lm. Phạm Quốc Hưng
12. Hạt giống nảy mầm
13. Hạt lúa mục nát – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
14. Hạt lúa trơ trọi – Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu
15. Quy luật sự sống
16. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng
tình yêu
17. Hạt lúa
18. Chết đi
19. Chết để sống
20. Từ bỏ
21. Mất và được
22. Giờ phút cao quí
23. Con đường hạt lúa – Lm. Giuse
Nguyễn Hữu An
24. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
25. Học Yêu – Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa
26. Chú giải của Lm. Vũ Phan Long
27. Chú giải của Noel Quesson
1. Giờ của Chúa.
Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta
đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay
chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra
một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất
của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển
tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông
giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại
ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ
ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính
trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài
nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.
Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên,
khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana .
Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ
không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc
phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng
mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng
điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường
nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi,
thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự
sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng:
Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta
thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái
gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài
đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài
còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã
thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con
đã đến.
Đó là một sự chấp nhận thật can đảm.
Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác
cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn
chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay
không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang
phục sinh.
2. Giờ Chúa đến.
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa
Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở
kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn
khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha,
nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi
những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris , khi biết mình bị
ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: "Chúng ta
nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây
tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề
biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó".
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa
hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới
khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình.
Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận,
không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là
chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén
nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ
đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính
Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến
nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm
hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài
chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình
trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được
chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng
chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà
Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn
tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái
chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau
khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị
treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu
thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng
ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi
người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh
phúc của gia đình những người con cái Chúa.
3. Hạt lúa gieo vào lòng đất
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Nếu chúng ta có một lượng vàng trong
tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra
gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được bằng những phương cách hợp
pháp.
Giá như có bí thuật nào làm được điều
đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giêsu tặng không
cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là
đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ
như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó tin, nhưng
hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc
giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có
nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ
đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ
đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc
bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt
thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương thay thân
phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh
lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương
rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối
tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa
tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì
chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên
hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các
anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có
một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy
chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro.
Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các
loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là
bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những
chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn
dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết
thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được
chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta
hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế.
"Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu
hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn
nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn: "Ai yêu quý
mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ
giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân
phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang thân phận hạt
lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá,
chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn nạn nhất. Người đời
tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu... nhưng họ đã lầm. Thay vì
huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu đạt đến vinh
quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử nạn cũng chính
là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống như
hạt lúa đơn độc trên vệ đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt cuộc phải tiêu
vong. Ngài muốn chúng ta bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta hãy nên như
hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì hạnh phúc
người khác; hãy cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá hằng ngày
với Chúa Giêsu, chấp nhận cống hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục vụ muôn
người.
Nhưng sự việc đâu có giản đơn. Xác thịt
con người vẫn nặng nề và không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có rất nhiều can
đảm mới có thể đáp lời Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức cho con!
4. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra
một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: "Ai yêu quý mạng sống mình,
thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho
sự sống đời đời." (Ga 12,25)
Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh
mất nó.
Người đời cho rằng muốn bảo tồn được
mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình
trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giêsu thì chủ trương ngược lại: "Ai yêu quý
mạng sống mình, thì sẽ mất!" (Ga 12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý nầy?
Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà
không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không
đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho
mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận
khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.
Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo
tồn được nó.
Người đời cho rằng: "mạng sống hơn
đống vàng" nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong
khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: "ai
liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (
Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên
được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/
Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.
Làm sao hiểu cho được những nghịch lý
nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng
đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho
toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.
Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình
trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng
luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là
vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và
ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung
quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là
hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho
toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ
Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông
Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó,
nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh
sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng
và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung
túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển
sống.
Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo
sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê
gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông
Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi
đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào
sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật
nào có thể lập cư...
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa được giữ
nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một
hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi
trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu cũng là một minh
chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô
trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và
mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giêsu đánh mất tất cả và thất bại
hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người
đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt
lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho
muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.
Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho
đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản
thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa
Giêsu gọi đó là giờ Người được tôn vinh: "Đã đến giờ Con Người được tôn
vinh!" (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được
sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn
sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều
hạt khác được phát sinh, để trở thành "biển sống Galilê" và không bao
giờ là "biển chết".
5. Sống đẹp giữa đời – Lm. Giuse Tạ Duy
Tuyền
Người xưa thường đề cao lối sống của
người quân tử. Người quân tử thấy chuyện bất bình thường ra tay cứu giúp. Người
quân tử luôn sống hào hiệp, sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản thân. Thế nhưng,
con người ngày nay lại an phận thủ thường. Người ta ngại hy sinh cho người
khác. Người ta sợ "mang hoạ vào thân". Người ta tìm an nhàn cho bản
thân nên chẳng dại gì "ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Xem ra lối
sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ chỉ còn trên trang
giấy học trò. Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại hôm nay.
Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có
một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du
côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn
"vui vẻ" với cô. Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành
khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom
yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập.
Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ
kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm
bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế
tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường...
"Này ông kia, ông xuống xe
đi!" cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
"Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm
cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?"
Cô gái nhăn mặt nói: "Nếu ông
không xuống, xe sẽ không chạy."
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng
hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người
đàn ông xuống xe. Thậm chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông
xuống xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình.
Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và
ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt
cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai
mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không
ổn, hắn nói với cô tài xế:
"Chạy chậm thôi, cô định làm gì
thế hả?"
Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe
chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe
bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một
tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn". Một chiếc xe cỡ trung
rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Trong thành phố, có một người đàn ông
đọc bản tin trên báo đã khóc!
Quả thực, con người ngày xưa khi thấy
chuyện bất bình, người ta thường lăn xả để hoà giải cho nhau, nhưng xem ra hôm
nay, ít ai dám can thiệp vào chuyện người khác. Ít ai dám xông pha để bảo vệ kẻ
yếu đang bị ức hiếp. Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người khác. Xem ra
con người ngày nay thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình nhiều
hơn là cho đồng loại. Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy sinh".
Thế mà, hôm nay Chúa Giêsu lại bảo:
"kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu chịu từ bỏ cuối cùng sẽ
được lại". Đó là chân lý, là định luật tất yếu của cuộc đời. Nếu thế giới
này không có những con người dám quên đi bản thân thì làm sao có những phát
minh khoa học, làm sao có những kỳ quan để lại cho đời sau? Có lẽ thế giới hôm
nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có những người dám quên đi sự an nhàn cá
nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá nhân để sống vỉ lợi ích tha nhân! Thế
giới này đang mắc nợ những con người đã tận tuỵ làm việc quên mình để xây dựng
thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Thế giới hôm nay rất cần những con người
quân tử để cuộc đời được phong phú và yên vui hơn.
Chính Chúa Giêsu, Ngài đã sống điều đó.
Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi
Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã
trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu. Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời
chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện
ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những
người cha "chân lấm tay bùn" đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt
mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ,
đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để
bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là
những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho
anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái
lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ
tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người
ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu
cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai
chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi
chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở
thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến. Thiết
tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của
mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của
Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng
đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo
niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.
6. Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm)
Đức Giêsu là một người hoàn toàn như
tất cả mọi người. Trong cuộc sống trần thế, Ngài cũng sợ hãi, bồi hồi xao
xuyến, khóc lóc cầu xin Thiên Chúa giải phóng Ngài khỏi chết. Tuy nhiên, Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa; nơi Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu
thương con người vô cùng.
I. Tâm hồn Ta bồi hồi xao xuyến
Đức Giêsu biết những gì đang chờ đợi
Ngài. Cái chết đang đến gần khi Ngài quyết định lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua.
Là người Do Thái, theo luật phải lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua; nhưng nếu lên,
chắc sẽ chết vì những người lãnh đạo tôn giáo đang ghét, nên sẽ giết Ngài. Đức
Giêsu phải chọn lựa. Các tông đồ cũng ý thức điều này. Theo các ông thì không
nên lên Yêrusalem dịp này: "Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném
đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?" (Ga. 11,8). Nhưng nếu Thầy quyết định đi, thì
các tông đồ cư xử làm sao? Thomas khuyến khích các bạn: "Cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy" (Ga. 11,16). Có những người trong
chúng ta có kinh nghiệm chọn lựa trong những tình huống tương tự, và đã chọn
điều phải chọn cho dù nguy hiểm đến cả tính mạng.
Một vài người Hylạp gốc Do Thái về dự
lễ muốn gặp Đức Giêsu. Họ cậy nhờ Philíp để được gặp Đức Giêsu. Philíp đã nói
với Anrê; và cả hai đã đến nói với Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh bình thường, có
lẽ cứ dẫn họ đến gặp Đức Giêsu, tuy nhiên trong hoàn cảnh này, hai môn đệ ý
thức cần phải hỏi ý kiến Đức Giêsu, vì có thể có những hậu quả xấu không lường
được. "Giờ đã đến". Giờ mà làm Đức Giêsu lo sợ, bối rối xao xuyến.
Đồng ý cho họ gặp, là dường như "chọn chấp nhận cái chết". Có nên
xuất hiện như Đấng người ta chờ đợi không? Có nên cho họ gặp không? Đức Giêsu
đã chấp nhận cái chết. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó
chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt"
(Ga. 12, 24). Ngài chọn điều sinh lợi cho nhiều người, cho dù phải chết.
Ông già Aleazar không muốn giả bộ ăn
thịt heo để khỏi chết, vì nếu sống mà làm gương xấu thì sống làm gì (2Mac. 6,
18-31)? Yoan Tẩy Giả phản đối Hêrôđê khi ông lấy vợ của anh; dĩ nhiên khi phản
đối những người có quyền hành như vậy, ông biết điều gì có thể xảy tới cho
mình; tuy vậy, ông đã phản đối Hêrôđê. Yoan Tẩy Giả đã chọn nói điều phải nói,
cho dù phải chết. Hôm nay Đức Giêsu cũng đã chọn lựa điều tương tự. Đứng trước
chọn lựa này, Đức Giêsu bồi hồi xao xuyến như bao người khác.
II. Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc
lóc
Đức Giêsu là người như mọi người. Ngài
đã làm nghề để kiếm sống, nuôi mình và nuôi mẹ. Ngài cũng bị cái đói hành hạ
như bất cứ ai bị đói (Mt. 21, 18). Ngài bị đói khủng khiếp đến độ muốn biến đá
thành bánh. Chỉ khi bị đói cùng cực, người ta mới bị cám dỗ mơ tưởng như vậy.
Đức Giêsu cũng bị cám dỗ "nổi tiếng", vì vậy cám dỗ nhẩy từ trên đỉnh
đền thờ đã đến trong đầu Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ có quyền hành để
bắt mọi sự phải theo ý mình. Chỉ satan mới có cách hành xử không tôn trọng tự
do của con người; còn Thiên Chúa, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người, ngay
cả khi con người dùng tự do để chống đối Ngài.
Đức Giêsu đã phải chọn lựa liên lỉ
trong cuộc sống. Ngài đã chống lại cám dỗ, trong hoang địa (Mt. 4, 1-11) và
trong cuộc sống thường ngày, cả qua những người theo Ngài (Mt.16, 22-23; Ga.11,
8). Ngài cũng sợ toát mồ hôi, và sợ đến độ toát mồ hôi máu: "Ngài lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt
máu rơi xuống đất" (Lc. 22,44). Thư gởi tín hữu Do Thái nói Đức Giêsu
không chỉ sợ toát mồ hôi máu, mà còn khóc lóc rơi lệ cầu xin Thiên Chúa cứu
Ngài khỏi chết: "Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu
van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài
khỏi chết" (Dt. 5,7).
Đức Giêsu thật sự là người như mỗi
người chúng ta. Không có cám dỗ nào con người bị mà Ngài không bị. Không có ai
bị cám dỗ mãnh liệt như Ngài. Ngài cũng học vâng phục, và chấp nhận vâng phục
ngay cả phải chết. Ngài bị cám dỗ cả về đức tin: "Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ
con" (Mc. 15,34). Khi bị cám dỗ về đức tin, Ngài đã phó thác cho Thiên
Chúa tương lai và vận mạng của Ngài. Đức Giêsu gần và giống mỗi người hơn người
ta tưởng.
III. Ta viết luật của Ta trong tim
chúng
Thiên Chúa đã ký giao ước với con
người, để bảo vệ con người. Qua dấu chỉ cầu vồng, Thiên Chúa giao ước với Noe
và tất cả tạo vật, để không bao giờ dùng lụt hồng thủy tiêu diệt con người nữa;
qua thập giới tại núi Sinai, Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, để làm dân Do
Thái thành dân tư tế, thành dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa loan báo qua
tiên tri Giêrêmia, Ngài sẽ ký kết với dân một giao ước mới, và Ngài sẽ khắc ghi
luật Ngài trong tim con người, để không ai phải dạy ai về Thiên Chúa nữa. Đức
Giêsu chính là giao ước mới: "Rồi cùng một thể thức ấy, Ngài cầm lấy chén
đầy rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: tất cả các con cầm lấy mà uống,
này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người
được tha tội".
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giao ước ở
với và yêu thương con người mãi mãi. Đức Giêsu vừa là dấu chỉ giao ước, vừa là
diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vừa là bảo đảm Thánh Thần
hiện diện nơi con người. "Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên
Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao" (1Cor.3, 16)? Thánh
Thần Tình Yêu đang ngự trong tâm hồn, trong tim mỗi người.
Nhờ Đức Giêsu và Thánh Thần, con người
nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Con người được gọi để sống yêu thương. Chính
khi yêu thương, con người trở nên giống Thiên Chúa, và được chia sẻ hạnh phúc
với Thiên Chúa, cho dù người đó ở bất cứ đâu. Chính khi yêu thương, con người
gặp gỡ Thiên Chúa, và cảm nghiệm hạnh phúc. Đây là điều có vẻ mâu thuẫn, nhưng
đó là sự thật, và được biểu lộ qua cái chết của các anh hùng tử đạo và cái chết
của Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, Đức Giêsu giống bạn ở điểm
nào, và khác bạn ở điểm nào?
2. Bạn có cảm nghiệm Thiên Chúa ở với
bạn không? Nếu được xin chia sẻ.
7. Nếu hạt giống chết đi – Lm. Giuse Đỗ
Vân Lực
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ
và cái chết. Đó là một cản trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa
toàn năng và thương yêu con người, tại sao người lành phải đau khổ? Bởi đó niềm
tin Thiên Chúa cũng gặp bế tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai thông nhờ Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đem lại cho đau khổ và cái chết một ý nghĩa
lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi đát của con người. Thân phận con người
cũng như hạt giống phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Đau khổ và sự chết của
Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một mùa màng lớn lao tức là ơn cứu độ muôn dân.
Người chính là hạt giống Thiên Chúa gieo xuống trần gian. Cát bụi trần gian đã
vùi lấp con người nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ trỗi dậy, vươn cao như bầu
trời, đem niềm hi vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, "muốn gặp Đức
Giêsu"(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào
Chúa. "Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ
gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết" (Disciples in Mission
1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay
vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc
Người bước vào vinh quang: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga
12:23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ
giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa
sáng. Niềm tin của những người Hi lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó
là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo
Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn "Thầy ở
đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12,26). Thầy leo lên khổ giá, môn
đệ không thể đứng dưới nhìn lên như khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá, Thầy
sẽ trở thành một sức mạnh thu hút tất cả môn đệ lên theo. "Phần tôi, một
khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi"
(Ga 12,32). Nghĩa là "Người sẽ kéo các tín hữu đi theo Người lên thập giá
bằng cách để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu bách hại như Người" (Thánh
Kinh Tân Ước 1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống trần gian cho môn đệ. Nếu
muốn tiếp tục làm môn đệ Thày, họ không thể không biết đến thang giá trị giữa
sự sống trần gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ: "Ai yêu quí mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời" (Ga 12,25). Tại sao phải hi sinh tới mức đó? Hi
sinh như thế có thực tế không? Theo Thầy làm gì cho khổ? Phục vụ Thày có được
lợi gì đâu?
Nhưng Đức Giêsu nói: "Ai phục vụ
Thầy, thì hãy theo Thầy" (Ga 12,26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, tức là
bước vào vinh quang, sẽ chiếm được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Đó là điều quả
quyết: "Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy" (Ga
12,26). Còn gì giá trị hơn tình yêu của Chúa Cha? Đó là nguồn suối duy nhất
phát sinh mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc. Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Đức
Giêsu đã nhận được tất cả sức mạnh để xông vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh
đến nỗi "giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài!" (Ga 12,31).
Dù sao, trong tình thế hiện tại, Đức
Giêsu cũng vẫn là con người. Đứng trước cái chết, Thầy cũng cảm thấy luống
cuống. "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?" (Ga
12,27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn
vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối thoát. Thày thấy chóng mặt, quay
cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một tia sáng bừng lên dẫn theo một
tiếng nổ long trời (Ga 12,29). "Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: 'Ta
đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!' (Ga 12,28). Đó là tiếng Chúa Cha
trả lời tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28), một sự vâng phục dẫn Đức
Giêsu vào màn đêm tăm tối của đau khổ. "Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã
phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản
thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả
những ai tùng phục Người" (Dt 5, 8-9). Nhưng chính lúc đất trời nối liền,
quyền lực âm phủ tiêu tan. "Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian
này" (Ga 12,31), một cuộc phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của ác
thần. Thật là khủng khiếp!
Đối với những ai vâng phục như Đức
Giêsu, không hề có phán xét. Trái lại một giao ước mới, giao ước tình thương sẽ
được thiết lập (Gr 31,31). Họ sẽ nghe những lời âu yếm: "Ta sẽ là Thiên
Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta" (Gr 31,33). Như thế một tương
quan mới đã được thiết lập. "Chính nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của
Đức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân Chúa đã bước vào một tương quan
mới" (Disciples in Mission 1999:22) với Thiên Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Đức Giêsu quả thật như
"bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương" (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng
ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới thực tế đau buồn, Đức Giêsu đã trỗi
dậy, "đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ và cái chết, vì qua đó, Người đã
đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới" (Disciples in Mission 1999:23). Đó là
một chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn hứng khởi cho nhân loại. Đức Giêsu là
một hạt giống đã chết đi, sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24) là cộng đoàn các
Kitô hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người, Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới
cả một mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác, "Thầy là cây nho, anh em là
cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều
hoa trái" (Ga 15,5). Thầy chính là năng lực, là ý nghĩa sau cùng của mọi
nỗ lực thắng vượt đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau khổ vô nghĩa.
Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa vì đó là một phương tiện để Đức Giêsu chứng tỏ tình
yêu của Người với Chúa Cha và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều môn đệ Chúa Kitô
biết lợi dụng những đau khổ như là con đường đi tới vinh quang. Dù phải vào tù
hay có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một lòng xả thân cho đồng
loại. Họ là những người đang chiến đấu cho quyền làm người, đang âm thầm hi
sinh cho những người nghèo, chăm sóc những người già, bệnh tật, những trẻ em mồ
côi. Không có những gương hi sinh như thế, không biết nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó đang nỗ lực
thiết lập nền tảng giao ước mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng "cơ
hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật với
Thiên Chúa" (xc. Gr 29,11; 32,38-40) (Life Application Study Bible
1991:1345). Họ đang học vâng lời như Đức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng
sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo
hay trưởng thành như Đức Kitô. Nói khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu
cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền
tảng trên Đức Kitô (Dt 8,6). Vâng lời như thế, họ sẽ thấy phải "từ bỏ luật
lệ khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình làm trung tâm" (Life Application
Study Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời phải là Thiên Chúa, Đấng giải thoát
con người khỏi những ràng buộc của cái tôi cồng kềnh. Rời xa trung tâm đó, con
người chìm vào những tham vọng ngông cuồng của văn hoá sự chết, "phủ nhận
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng sự sống. Khi kinh tế thống trị, người ta đổ xô đi
tìmnhững giải pháp dễ dãi như phá thai, chết êm dịu." (Igor Kowalewsky:
Zenit 4/4/03) Tự do không có nghĩa là buông thả. Trái lại, "tự do xây trên
chân lý là nền tảng duy nhất bảo đảm xã hội dân chủ tự do." Chân lý đó là
Đức Kitô. Khi xây dựng trên nền tảng đó, "cộng đoàn và gia đình Công giáo
chiếu sáng như những mẫu mực của cộng đoàn sự sống và tình yêu để canh tân nền
văn hoá hiện đại." (Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03)
8. Mùa gặt tươi tốt – Cố Lm. Hồng Phúc
Với Phụng vụ hôm nay, Giáo hội đọc lại
cho chúng ta những lời ca thán của tiên tri Giêremia, những lời não nuột thống
thiết khi đạo quân Babylone bao vây Giêrusalem, dân Chúa lâm cảnh lưu đày. Tuy
nhiên, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa tình thương, giữa đêm tối vẫn lóe lên ánh
sáng, giữa bao đổ vỡ thất vọng vẫn tái xuất niềm hy vọng. "Đây tới ngày Ta
ký kết với dân Ta Giao ước mới, Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của
Ta... Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng
nữa." Những lời ấy sẽ thực hiện nơi Chúa Giêsu khi Ngài đến cứu độ chúng
ta, sẽ cho "chúng ta uống vào chén tân ước vĩnh cửu, chén máu của Ngài sẽ
đổ ra cho chúng ta và nhiều người được tha tội."
Trong Thư gửi Giáo đoàn Hebrô, niềm hy
vọng ấy lại được nhắc lại cho nhóm giáo dân tiên khởi, cũng đang hoang mang run
sợ khi nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Từng đoàn người bị phát lưu đi cùng đế
quốc, sau biến cố năm 70 thành Giêrusalem bị bình địa, đền thờ bị phá hủy,
"không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào." Chúa Giêsu, Phaolô viết,
"Mặc dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài
chịu và khi hoàn tất Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho những kẻ
tùng phục Ngài." Chúa đã đi qua con đường sự chết để vào chốn vinh quang
và trở nên nguồn gốc ơn cứu độ cho chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu là câu hỏi ngàn đời, cho
người Do thái, người ngoại bang cũng như cho chúng ta ngày nay hết thảy.
Hôm nay, Gioan cho biết có một nhóm
người Hy lạp đến Giêrusalem trong dịp lễ Vượt qua, tìm cách được gặp Chúa. Họ
là những người ngoại bang, nhưng lại có cảm tình với Do thái giáo. Họ đến nhờ
hai vị Tông đồ Anrê và Philiphê, hai Tông đồ biết chút ít ngôn ngữ, giới thiệu
để được gặp Chúa Giêsu. Gặp đây không phải là chỉ nhìn thấy, nhưng theo từ ngữ
của Gioan muốn nói, là được thấu hiểu phần nào con người bí ẩn của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không đáp ứng trực tiếp điều
họ mong muốn. Nhưng Ngài lại cho họ thấy giờ vinh quang của Ngài, giờ mà Ngài
đi vào cuộc tử nạn, mọi người đều thấy. Và để giải thích, Ngài tự ví như hạt
lúa gieo vào trong lòng đất, phải được mục nát đi, rồi mới vươn lên, sinh hoa
kết quả. Thì xác thánh của Ngài cũng bị chôn vào mồ, rồi mới phục sinh sống lại
trong vinh quang.
Theo từ ngữ Thánh Kinh, giờ là cuối
điểm của một sứ mạng. "Giờ của người đàn bà" (Gio. 16,21) là giờ sinh
đẻ, "Giờ của Chúa Giêsu" là giờ tử nạn vì là giờ Ngài hoàn tất sứ
mạng cứu chuộc. Hình ảnh hạt lúa vùi xuống đất, bừng lên đầy nhựa sống là hình
ảnh mầu nhiệm phục sinh thì mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng phục sinh.
Chúng ta trong đời, có phải là hạt giống hứa hẹn một mùa gặt tươi tốt cho chính
mình và cho kẻ khác không?
Gioan không tường thuật cuộc hấp hối
của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani, mồ hôi chan hoà lẫn máu. Nhưng đã nhìn
thấy cuộc ấy diễn ra trong sân đền thờ. Chúa phán: "Bây giờ linh hồn Ta
xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này? Nhưng chính vì thế
mà con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha." Và câu
trả lời của Chúa Cha đã vang vọng như trong khi Ngài vừa chịu phép rửa và khi
Ngài biến hình. Dân chúng xao xuyến. Nhưng Chúa giải thích: "Bây giờ là
lúc thế gian bị xét xử... Còn Ta khi bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi
người lên cùng Ta."
Cây Thánh giá sẽ được tôn vinh, sẽ làm
dụng cụ cứu rỗi nhân loại.
Thánh Phanxicô Xaviê khi rao giảng cho
dân chúng luôn luôn cầm trong tay một cây Thánh giá lớn. Một hôm đang giảng cho
dân từng từng lớp lớp đứng trên bãi biển, mệt quá cây Thập giá rời khỏi tay và
rơi tỏm xuống biển. Ngài buồn rầu cầu nguyện. Thì bỗng nhưng có một con cua từ
dưới biển bò lên, hai càng gậm cây Thánh giá. Ngài vui mừng cám tạ ơn Chúa. Vị
Thánh Quan Thầy xứ truyền giáo ấy đã rửa tội gần một triệu người.
"Tôi mong đợi Chúa, vì Chúa giàu
ơn cứu độ
Và giải thoát Israel khỏi mọi
gian ác"
(Tv. 129 – Đáp ca)
9. Hạt lúa mục nát đi mới trổ sinh bông
trái
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Danh tiếng Đức Giêsu lúc này đã phải
vang dội như sóng bạc đầu, nhất là việc Người vừa làm cho ông Ladarô đã chết
bốn ngày sống lại ở Bêtania cách Giêrusalem có hai dậm. Vì thế mà một số người
hành huơng Hy lạp xin ông Phi-líp-phê, có tên Hy-lạp cho yết kiến Đức Giêsu, có
lẽ với hi vọng được sự thông cảm của người cũng có tên Hy lạp. Ông Phi-líp-phê
lại hỏi ý kiến ông An-rê cũng mang tên Hy-lạp. Nhóm người Hy lạp đây không phải
là người Do thái nói tiếng Hy lạp, nhưng là người Hy lạp sống ở Do thái, đã
phải nghe đồn thổi về việc Ladarô được Đức Giêsu cho sống lại (Ga 12,17). Trước
khi đế quốc La mã thống trị Do thái, thì đế quốc Hy lạp đã đặt chân ở đây.
Người Hy lạp được tiếng là chuộng triết học, kiến trúc và nghệ thuật. Có lẽ vì
những lí do đó mà họ đến viếng thăm Đền thờ Giêrusalem với kiến trúc đồ sộ nguy
nga và xin được gặp Đức Giêsu.
Dịp này các thượng tế và nhóm người
Pharisêu đang tìm cách hạ sát Đức Giêsu vì họ sợ ảnh hưởng của Người. Phúc âm
ghi lại, họ sợ thiên hạ theo ông ấy hết (Ga 12,19). Còn Đức Giêsu thì gián tiếp
trả lời nhóm người Hy lạp khi bảo các môn đệ rằng: Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24). Thoạt nghe, người ta cho rằng đó là lời
phát biểu có tính cách tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như
vậy. Tuy nhiên Đức Giêsu không chỉ nói đến tiến trình biến đổi của thực vật,
như cỏ cây hoa lá mà thôi. Luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời
sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm còn ghi lại, Đức Giêsu cầu
nguyện với tâm hồn xao xuyến: Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì
giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha (Ga 12,27-28). Khi Giuđa
phản đối việc bà Maria xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Đức Giêsu, Người
cũng đã ám chỉ về cái chết của Người khi bảo cứ để bà yên, hầu giữ lại dầu thơm
cho ngày mai táng Người (Ga 12,7). Đức Giêsu còn ám chỉ Người sẽ phải chết cách
bị treo lên khỏi mặt đất (Ga 12,32), nghĩa là trên thánh giá.
Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã
hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế giao ước cũ trên
núi Sinai, giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được
viết trên bia đá và không phải bằng máu chiên cừu, mà Môsê đã dùng để phê chuẩn
giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của
lời truyền phép mà linh mục chủ tế tuyên xưng trong thánh lễ: Đây là máu Tân
Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Theo thư gửi tín hữu Do
thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của giao ước mới
(Dt 5,8-9).
Sứ điệp mà Đức Giêsu đến để công bố
trong giao ước mới đưa tới sự chết. Và vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người
sống lại từ cõi chết. Xét theo bản tính Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chịu
đau khổ và chịu chết. Người chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong thân xác loài
người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Đức Giêsu cũng sống lại trong
thân xác loài người của Người. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau,
Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt,
không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Theo định luật đào thải của bộ máy tiêu
hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Còn theo định luật
cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia
sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định
luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì mối liên hệ với người
khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả
những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luật kinh tế,
nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được
Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
Để chia sẻ sự sống mới với Đức Kitô, ta
phải đi theo tiến trình của kiếp sống con người: sinh lão bệnh tử. Trường hợp
các vị tử đạo đã làm, là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng
sự sống mới. Tuy nhiên rất ít người được phúc tử vì đạo. Đa số loài người trải
qua cái chết tự nhiên. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có
những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly
là chết cho mình một nửa" để nói lên sự mất mát về tình cảm và tinh thần.
Như vậy theo nghĩa bóng của cái chết
thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết
xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết
đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể
được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và
chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả giá trong cách
sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa, cũng là chết đi cho mình
một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội,
nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối
liên hệ với Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào
người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, ta mới có thể chia sẻ cuộc
phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2,11).
Lời cầu nguyện xin cho được chết đi cho
tội lỗi:
Lậy Chúa Giêsu! Chúng xin cảm tạ Chúa
đã đến thế gian, chấp nhận hi sinh
thánh giá
để cứu chuộc tội lỗi loài người, gồm
tội riêng con.
Xin cho con được sẵn sàng chết đi cho
tội lỗi
và các thứ tính mê nết xấu
để con được sống lại trong ơn nghĩa với
Chúa. Amen.
10. Thuốc bất tử – Lm. Trịnh Ngọc Danh
Thời Chiến quốc, có một người đem dâng
cho vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, đi ngang qua
một viên quan canh cửa. Viên quan này hỏi:
- Vị thuốc này có ăn được không?
Người kia đáp:
- Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà
ăn. Chuyện đến tai vua. Vua truyền bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu:
- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc là
có ăn được không. Người ấy bảo: "ăn được", nên thần mới dám ăn. Như
thế là thần vô tội mà lỗi là ở người dâng thuốc. Hơn nữa, người đem dâng thuốc
nói là thuốc " bất tử", nghĩa là thuốc ăn vào thì không chết nữa. Thế
mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải chết; vậy là thuốc "tử" chứ đâu
phải thuốc "bất tử"? Nhà vua giết thần, thực là oan uổng cho một
người vô tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha chết
cho viên quan.
Một khát vọng
Chẳng ai muốn chết, và ai cũng muốn
sống lâu, sống trường thọ; nhưng oái ăm thay! chết lại là số kiếp của con
người, ai cũng phải một lần đi qua kết cuộc ấy.
Sống được trên trăm tuổi đã là tuổi
hiếm thấy trên thế gian; vì thế người ta mới ghi vào sổ kỷ lục những ai sống
trên trăm tuổi: cụ già sống được 110 tuổi một tháng, đạt kỷ lục trường thọ hơn
cụ già sống 110 tuổi 20 ngày! Càng về cuối đời, người ta không tính sống được
bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng nhưng tính hơn nhau từng ngày. Sống lâu trường
thọ đến thế là một điều khâm phục, một niềm tự hào. Thọ là một trong ba nguyện
ước con người thường cầu chúc cho nhau: Phúc- Lộc- Thọ.
Những mỹ phẩm mà người ta rao bán: làm
trẻ mãi không già, thực ra chỉ có thể che lấp đi được những nếp nhăn nheo cằn
cỗi trên thân xác, nhưng không thể níu kéo hay xoá đi tuổi già của thời gian.
Và giả như ai đó phát minh ra được một thứ thuốc kéo dài tuổi thọ đến 100 hay
200 năm, chắc chắn người ấy sẽ trở thành nhà tỷ tỷ phú, và nếu chế được một thứ
thuốc trường sinh bất tử thì chắc người ấy sẽ là người giàu nhất thế giới.
Thế mới biết: làm sao cho được
"trẻ mãi không già", được "sống lâu, bất tử" là khát vọng,
nhưng đồng thời cũng là tuyệt vọng của con người.
Muốn sống, phải chết
Người đời bảo: chết là hết; thế mà có
một người dám quả quyết: muốn sống, phải chết đi để được sống mà không phải
sống trường thọ 2,3 trăm năm mà sống bất tử, sống đời đời: "Nếu hạt lúa mì
rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối
đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời". Người ấy là
Chúa Giêsu.
Nhưng chết bằng cách nào? Là tự tử? Là
hủy hại thân thể? Không. Chết là "thối đi", là "ghét sự sống ở
đời này"; đó là cái chết cho những tiêu cực nơi tâm hồn.
Như thế, chết là hãm mình trước những
cám dỗ của dục vọng, của ý riêng, là vượt thắng 7 mối tội đầu, là hy sinh vì 10
điều răn Chúa dạy, là từ bỏ những gì không thuộc ý muốn của Thiên Chúa; vì
"Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái nghịch với Thần Khí; còn Thần
Khí lại ước muốn những điều trái nghịch với xác thịt... Những việc do tính xác
thịt gây ra thì ai cũng rõ; đó là dâm bôn, ô uế, phóng đảng, thờ quấy, phù
phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,
ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những việc khác giống như vậy... Còn hoa quả của
Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín,
hiền hoà, tiết độ". ( Gl 5, 17.19-20.22-23)
Chết là canh tân đổi mới, là cải thiện
tâm hồn, là thay đổi não trạng, thay đổi cách suy nghĩ sao cho hợp với thánh ý
của Thiên Chúa: "Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con
người anh em bằng các đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa:
cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo" ( Rm. 12,2)
Chết là chấp nhận hy sinh, chịu
"thối đi" nơi con người thể xác để cho hạt giống đức tin và Tin Mừng
có điều kiện nẩy sinh và mang lại nhiều hoa trái cho người và cho đời.
Người không chịu "thối đi",
không dám "ghét sự sống của mình ờ đời này", là người gạt bỏ sự siêu nhiên
ra khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không còn tìm thánh ý Chúa, không còn hành
động cho sáng danh Chúa; là cho rằng hy sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại
dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp lý, có lợi cho bản thân.
Người không chịu "thối đi",
không dám "ghét sự sống của mình ở đời này" là người chỉ xem hạnh
phúc trần thế là cứu cánh của cuộc sống; là người vẫn dự lễ, đọc kinh tối sáng,
vẫn làm những công việc bác ái, nhưng cuộc sống của họ lại xa lạ với Tin Mừng.
Trọng tâm của cuộc đời của họ là quyền hành, lạc thú, tiền của. Bạn hữu của họ
là những người giàu sang quyền thế, ngay cả những kẻ bóc lột, tham nhũng... Họ
không nghĩ đến đời sau, bình thản như thể họ sẽ sống muôn đời trên cõi đời này
và thiên đàng đối với họ là trần gian.
Đó là những hạt giống không chịu
"thối đi", không chịu mục nát, những hạt giống "sống trơ trọi
một mình", nên không "sinh nhiều bông trái" cho đời, cho người,
không manh ích lợi gì cho ai và như thế, cuộc sống của họ "sẽ mất".
Thuốc bất tử
Phương thuốc bất tử mà Chúa Giêsu muốn
mang đến cho con người là: sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Trước tiên, phải sám hối, chịu
"thối đi", chịu "mất mạng sống mình" mới chỉ là những thứ
chúng ta phải kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm mình như người mắc bệnh tiểu
đường phải kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng ăn mặn.
Kế tiếp, là tin vào Tin Mừng như lời
Chúa đã phán: "Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ cõi chết
mà qua cõi sống". (Ga. 5,24); hay "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì
có sự sống đời đời". (Ga.
6,55)
Tóm lại, bài thuốc bất tử mà Chúa muốn
ban cho chúng ta là Thập gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để trở thành
nguồn ơn cứu độ cho nhân loại được nhìn lên Ngài và được sống.
Hạt lúa phải chịu nghiền nát để trở
thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị
nghiền nát trong cuộc tư nạn đau thương để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa
Cha trên bàn thờ, đồng thời trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thập giá đã trở thành ngai Chúa ngự để
phán xét và ban sự sống. Ngài chết để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở
thành Đấng ban sự sống đời đời cho chúng ta.
Cách thức để đi đến chiến thắng vinh
quang lại là cách thức đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian.
Đáp lời kêu gọi của Thầy Chí Thánh:
"Hãy đến mà xem", "Hãy theo Ta", chúng ta đã "đến mà
xem", đã "theo Thầy", nhưng còn một điều kiện nữa để được sống
bất tử là "vác thánh gía mình mà theo Thầy", không biết chúng ta đã
thực hiện điều kiện ấy chưa! đã chịu "thối đi" , đã "ghét mạng
sống mình" được bao nhiêu!
11. Hạt lúa mì – Lm. Phạm Quốc Hưng
Thập giá là hình ảnh được dùng nhiều
hơn cả để nhắc chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu và tình yêu hy sinh tận tuyệt của
Người, cũng như tinh thần mỗi Kitô hữu phải có trong đời sống của mình. Trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh khác, dù rất đơn sơ bé nhỏ gần
gũi nhưng lại giàu ý nghĩa, để diễn tả tâm tư và lối sống của Người. Chúa Giêsu
còn chỉ ra đó tất cả một bí quyết hay một quy luật căn bản mà mỗi Kitô hữu phải
theo để trở nên giống Người, để đạt đến ơn cứu độ và vinh quang đích thực.
Đó là hình ảnh hạt lúa mì.
Người nói: "Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống
đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì
nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của
mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời" (Ga 12:23-25).
Chúa Giêsu nói những lời này khi Người sắp bước vào Cuộc Thương Khó. Thật thích
hợp khi Giáo Hội cho chúng ta được nghe những lời này một tuần trước Chúa Nhật
Thương Khó.
Thánh Sử Gioan chia Tin Mừng của người
thành hai phần: sách các dấu chỉ và sách vinh quang. Phần sách các dấu chỉ
thuật lại các phép lạ của Chúa Giêsu, và phần sách vinh quang thuật về Cuộc
Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thánh nhân muốn cho mọi người nhận biết
rất rõ rằng: với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu, vinh quang đích thực được thể hiện
nơi tình yêu hy sinh phục vụ, tình yêu xả kỷ vị tha, tình yêu thí mạng vì người
mình yêu. Và chỉ có tình yêu này mới đem lại sự sống thật, sự sống thần linh,
sự sống đời đời.
Đây là một quan niệm khác hẳn lối suy
tư tự nhiên của con người. Thật vậy, con người tự nhiên bao giờ cũng sống theo
bản năng sinh tồn của mình. Với ảnh hưởng của tội tổ, con người nhiều khi sống
theo bản năng rừng rú của mình, sống theo luật rừng: mạnh được yếu thua, mạnh
dùng sức yếu dùng mưu, miễn sao đem lại ích lợi cho bản thân mình, miễn sao làm
cho mình được sống sung sướng, giàu sang, quyền lực, bất chấp luân thường đạo
lý, bất chấp thiệt thòi của người khác.
Đây cũng là một quan niệm đi ngược với
sự trông mong của người Do thái về "Con Người", về Đấng Thiên Sai,
Đấng Mêsia. Họ nghĩ Đấng Mêsia phải là một lãnh tụ chính trị đầy tài năng và
quyền uy, và dùng tài năng và quyền uy của mình để đánh đuổi ngoại bang, chinh
phục các dân tộc lân bang, đem lại vẻ vang cho dân tộc được tuyển chọn.
Trong Tin Mừng Gioan, mầu nhiệm nhập
thể được đặt làm nền tảng cho toàn bộ công cuộc cứu độ. Sự hiệp nhất giữa thần
tính và nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể được diễn tả cách tuyệt vời: Cuộc Khổ
Nạn với bao đau thương nhục nhã của Thập Giá bao giờ cũng gắn liền với Cuộc
Phục Sinh đầy ánh sáng vinh quang. Vì vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu bước vào Cuộc
Khổ Nạn, thì cũng là lúc Người bắt đầu bước vào Vinh Quang hay bắt đầu bày tỏ
vinh quang đích thực của Người.
Với Chúa Giêsu, giờ của Chúa là giờ của
Cuộc Thương Khó, giây phút vinh quang là giây phút chịu khổ nạn trên thập giá.
Với thế gian, thập giá là hình cụ ghê sợ và nhục nhã nhất để trừng phạt những
người tử tội. Chúa Giêsu đã biến thập giá thành Thánh Giá, và Thập Giá của Chúa
Giêsu chính là Ngôi Báu của Người. Điều này đã được xác định khi Chúa Quan
Phòng định cho Philatô ghi trên thập giá hàng chữ: "Giêsu Nazareth-Vua Dân
Do Thái". Giây phút Chúa Giêsu được treo trên thập giá là giây phút Người
bước lên Ngôi Báu của Người.
Không phải Chúa Giêsu chỉ chịu đau khổ
vì yêu thương khi bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, nhưng đó luôn là đặc nét chính
trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tác giả Thư gửi tín hữu Do thái trong bài đọc hai đã
xác định điều này trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay: "Khi còn sống ở
đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng
có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu
là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người đã chịu, và
khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai
vâng phục Người" (Dt 5:7-9).
Thánh Anphong Liguori thuật rằng có một
nữ tu đau đớn bệnh tật rất nhiều năm. Một hôm đau đớn quá, Chị kêu trách Chúa
Giêsu: "Xưa Chúa chỉ phải vác thánh giá và hấp hối mấy giờ trên thánh giá,
nay sao Chúa để con đau đớn lâu năm thế?" Chúa Giêsu liền hiện ra quở
trách Chị: "Con nói sao? Cha chỉ có đau khổ ít giờ mà thôi ư? Cha đã bắt đầu
đau khổ từ giây phút nhập thể!" Thánh nhân nói rằng vì có linh hồn hoàn
bị, Chúa Giêsu từ giây phút nhập thể đã nhìn thấy và cảm nhận trước nơi linh
hồn Người những đau khổ Người sẽ phải chịu trên thân xác sau này.
Vì vậy, Đức Cha Fulton J Sheen hay nói
mọi người sinh ra trên đời để sống, nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa và là Sự
Sống Đời Đời sinh ra trên trần gian để chịu đau khổ và chịu chết để đem lại sự
sống đời đời cho chúng ta. Vì vậy, cả đời Chúa Giêsu đều hướng về Đồi Canvê,
đều hướng về Thánh Giá. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Đức Cha còn xác
quyết rằng bài giảng nào càng hướng về Thập Giá bài giảng ấy càng có tính thần
thiêng.
Liền sau khi nói về quy luật chết để
sống, mất để được, Chúa Giêsu liền nói về thân phận của những ai muốn trở thành
môn đệ đích thực của Người: "Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì
kẻ phụng sự Ta cũng ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó" (Ga
12,26). Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy các môn đệ đích thực của Người, những ai
thực sự phụng sự Người, phải là những người cùng bước theo Người trên con đường
thập giá, là con đường chính Người đã đi trước. Và chỉ có những người này,
những người cùng ở trên thập giá với Người, mới được cùng ở với Người trên Nước
Trời để chia sẻ vinh quang đích thực vì cùng được Chúa Cha tôn vinh.
Chính Thánh Thể nơi Bánh Thánh và Rượu
Thánh-trung tâm đời sống Công giáo cũng không ngừng nhắc chúng ta về quy luật
thần thiêng này. Để trở nên tấm bánh, những hạt lúa mì phải chấp nhận chịu
nghiền tán và hòa trộn với nước rồi chịu nướng trong lò lửa. Để hóa thành rượu
nho, những trái nho chín phải chịu vắt trong bồn đạp nho và trải qua thời lên
men. Vì vậy, cùng với cầu nguyện, việc hy sinh hãm mình là yếu tố không thể
thiếu được trong đời sống Kitô hữu. Một trong những lý do chính đem lại sự suy
đồi trong đời sống đức tin của nhiều tín hữu ngày nay là sự khước từ sự khôn
ngoan của thập giá, sự chối bỏ tinh thần hy sinh hãm mình và vâng phục.
Bài thánh ca "Thân Lúa Miến"
của Mi Trầm được dùng trong phần tiến lễ có giá trị tuyệt vời vì nhắc nhớ chúng
ta về lý tưởng hy sinh bác ái, xả kỷ vị tha của đời người Công giáo đích thực.
Thánh Giuse-Maria Escriva đã giúp chúng
ta sống Tin Mừng hôm nay với những lời sau: "Nếu hạt lúa không chết đi, nó
không sinh hoa trái. Bạn có muốn trở thành hạt lúa miến phải chết đi bằng những
hy sinh hãm mình, để đem lại một mùa lúa phong phú không? Xin Chúa Giêsu chúc
lành cho ruộng lúa của bạn".
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con
biết noi gương Chúa Giêsu, trở nên như hạt lúa mì, chết đi cho ý riêng và những
đam mê trần thế, để sống cho Chúa và tha nhân qua việc quảng đại hy sinh hãm
mình và yêu thương phục vụ. Amen.
12. Hạt giống nảy mầm.
Vào một đêm giông bão có một người đàn
ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh
làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng
đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng
như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi.
Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm
sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý
có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó,
tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một
bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người
khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào
một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không
nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường
quân của anh là Astoria ,
chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta
là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào Lời
Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi xuống đất, có mục
nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi
của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách
lạ. Và sự hy sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách
sạn sang trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát
trước khi nẩy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng
liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng,
mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi
những cố gắng, những hy sinh và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với
Thiên Chúa và tình thương đối với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã
chấp nhận những hy sinh gian khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập
giá, để rồi từ đó Ngài đã có được hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Mùa chay sắp kết thúc, những cũng chưa
quá muộn để chúng ta chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức Kitô và vì anh
em, bởi vì có cùng chết với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ được sống lại
trong vinh quang với Ngài.
13. Hạt lúa mục nát – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt.
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm
cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: "Tôi
muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất
cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo
mùa xuân đã đến... Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và
hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa". Và nó đã mọc lên
xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: "Mình sợ
lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm.
Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu
ớt của mình sẽ bị thương tổn... Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một
chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé
có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn
hơn". Và nó tiếp tục đợi chờ... Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm
ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt
ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh
nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa
gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh
trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong
kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ
trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút
lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh
nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh
nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát
ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt
bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học
sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm
chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải
chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người,
phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ
bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển
cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học.
Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm
gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời
sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng
chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ
những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy
mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh
nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi
trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ
ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục
vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con
người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy,
những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời
sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy
khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn.
Nhưng nếu ta chấp nhận những "cái mất" hiện tại, ta sẽ có những
"cái được" trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những "cái
mất" chóng qua, ta sẽ có những "cái được" vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết
hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm
theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính
bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ
bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra.
Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm
theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời
mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô:
"Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi".
Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để
được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
"Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy
đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu
nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được
hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà
nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những
người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người,
chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để
cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng
cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn
tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con
dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp
hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa
bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con
người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó
hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh
bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh
bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục
nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
14. Hạt lúa trơ trọi – Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà
không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh
nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi
nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ,
nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác
được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi
chính tôi bị tan vỡ? Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô
đơn với tôi, để được yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên
tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại
thấy mình mất tất cả, vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết
chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau
thương, tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao
hiến. Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc
đã hé nụ ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra
khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của
mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân
và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong
tôi: "Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình
là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ
bỏ, đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu
dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến
Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì
giờ này mà con đã đến." (c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần
ngại, đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức
và cầu nguyện, tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần
dám liều mất tất cả để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ
dàng chọn cái mất trước mắt như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên
với Ngài, kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé
rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con
người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó
hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui
lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng
con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây
lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được
hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên
cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm
xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được
làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình
trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp
cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong
ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng
con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm
vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng
mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
15. Quy luật sự sống.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel
ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết
ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng
Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma
Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị
Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha
thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin
Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng
phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của
biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết
của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến
Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống
và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá
giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế,
nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa
Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết
sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó.
Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối
với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động
như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài
chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt
lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa
Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn
vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh
quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh
của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong
phú. "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi
một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác". Cũng
vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết
cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả
năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là
con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút
xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên
thập giá: "Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha,
xin cứu Con khỏi giờ này..." Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài
giải thoát Ngài khỏi "Giờ" đen tối hay khỏi "uống chén
đắng" này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm
trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước "Giờ" của thập giá: "Chúa
Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu
Ngài khỏi chết..." Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi
chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn
cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công
trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của
Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón
nhận "Giờ" của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá,
nhưng đồng thời cũng là "Giờ" Con Người bước vào vinh quang. Có điều
"vinh quang" ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh
quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông,
nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt
phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và
lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như
một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt
lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền
sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý
nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi.
Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang "lôi kéo mọi người theo
Ngài".
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc
khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt
nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế
nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc,
dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới,
thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời
sống xã hội... cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp
sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. "Hat
lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt". Chúa
Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự
sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn
dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa
Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: "Ai
yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ
giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi
hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài
học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy
sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ
của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý
hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì
đức tin...
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước
một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống
một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng
sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi
nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý
nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang
của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. "Nếu ta cùng chết
với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị
với Ngài" (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả.
Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống
muôn đời.
16. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng
tình yêu.
(Suy niệm của Noel Quesson)
"Phần tôi, một khi được nâng lên
khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi".
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà
tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp,
và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế
mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám
mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: "Trời ơi, vợ tôi, con
tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!". Cha Maximilianô Kônbê
(Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người
tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho
đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc
sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Phanxit
(Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê,
tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia
sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh
mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong
Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời
đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi
gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập
giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết
thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta
như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người
mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là
người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương.
Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: "Tâm hồn Ta xao
xuyến", "Xin Cha cứu con khỏi giờ này". Nhưng Chúa can đảm trở
lại ngay. Nhưng không, "Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh
quang Cha".
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho
Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi
người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh
giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã
bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên
đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh
chị em đau khổ.
17. Hạt lúa.
Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:
Một chàng thanh niên nọ khao khát được
nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp
đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi
cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một
chút nước.
Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi
đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang
chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng
thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm
quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.
Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa
đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được
cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng
và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương
cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:
- Con có mang nước về cho Ta không đó.
Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào
đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:
- Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh
nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết được thực hiện
nơi chính bản thân Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì
khi đi vào trần gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy
sinh gian khổ, và nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá,
để rồi từ đó trổ sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh
Phao lô đã diễn tả:
- Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và
chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh
hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Còn chúng ta thì sao? Nhiều lúc chúng
ta cũng đã hành động giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn
theo Chúa, nhưng lại muốn có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn
theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo
Chúa, nhưng lại dễ dàng quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi
sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời
Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác
thập giá mình mà theo Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm
nay:
- Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh
nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng
ta đã thực sự chết đi cho những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã
thực sự chết đi cho những ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự
chết đi cho những toan tính gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa?
Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội
lỗi hay chưa? Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống
và tự tìm lấy câu trả lời cho riêng mình.
18. Chết đi
Trong cuộc sống của người Kitô hữu,
người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta
phải học biết chết đi để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai
nhưng lại là một sự thật. Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng
nhân đã hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo,
trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này được nổi bật lên qua câu nói: "Máu
các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu".
Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến
của cuộc sống của chúng ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là
một chứng nhân Kitô giáo là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm
chứng cho khả năng của Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới
ngày hôm nay. Tôi đang nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các
thánh. Ở đây tôi không có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng
đúng hơn là giá trị làm chứng của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự
căn tính Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải
chết đi để cây có thể mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy
ra cho mỗi người trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại
một vụ mùa bội thu cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định
chết đi cho chính mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù
hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này
không phải là một việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy
sinh. Tuy nhiên, việc chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình
là để cho Nước Thiên Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà
thôi nhưng còn trong cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá
hơn cả việc chúng ta tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để trở nên những
vị thánh của thiên niên kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này,
nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm
vui để có thể đáp trả được lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu
và Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại
trong việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con
đừng tính toán thiệt hơn nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn
vẹn cho một mình Chúa mà thôi.
19. Chết để sống
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần
Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn
sứ Giêrêmia loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa
cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta
phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong
lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa
Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống,
Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn
lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long
trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để
sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái
dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái
hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa
muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy
nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung
để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: "Ai yêu
mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời". Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta
cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp "yêu –
ghét" có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy
mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ
trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới tương lai. Mạng sống hiện
tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn,
trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi
thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh
đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu
đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này
là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn,
trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu
tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất
và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm,
khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn
công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và
suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người
tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi
đến chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất
của trần gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những
giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con
người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên...
nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do
tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha
con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai
thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công,
bạo tàn của tòa án... nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến
vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt,
Ngài thưa với Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con,
nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi". Tóm lại, Chúa Giêsu đã
hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ
thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến
nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả
chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ
sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ:
Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân
cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu
tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu
hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt
giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng
sẽ được lợi lãi vô kể và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi
linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu
hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ
mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp
kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và
bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc
mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng,
tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến
sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt
đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn
những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần
trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính
mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm,
và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: "Ngày hôm nay
phải hơn ngày hôm qua", hoặc như một giám mục đã nói: "Chấm này nối
tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia,
muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống
mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh".
20. Từ bỏ
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh.
Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự
phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã
dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng
hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp
nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh
tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa
khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi
tuyên bố: "Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý
mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ
giữ lại được cho sự sống đời đời". Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi,
thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu
nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng
cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự
sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như
thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì "là Chúa" và "của
Chúa" để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã
từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc
sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới,
không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công
khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một
người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời
với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền.
Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người
tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi:
"Bụt nhà không thiêng".
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến
thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần
gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ
tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ
Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ
vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và
hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: "Máu các thánh tử đạo là hạt
giống sinh các tín hữu", thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao
nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết
đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô
khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta
được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo
lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra
ngoài và trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự
để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và
trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền
nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài
chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên
Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu.
Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại
mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập
công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác... Khi
biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là
"sống". Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ
được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý
riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những
cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ;
có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác...
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là
một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý
do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng
ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có
thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi
hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không
đúng với cung cách một người con của Chúa.
21. Mất và được
Ít có phong cảnh nào đẹp cho bằng cảnh
một cánh đồng tràn ngập những thân cây lúa mì non. Khi nhìn ngắm những thân cây
đó đong đưa trước gió, và nhảy múa dưới ánh nắng, đem lại cho tâm hồn chúng ta
một niềm vui. Nhưng quá trình những thân cây này tồn tại được thật là lạ lùng.
Ngoài ra phải chôn hạt lúa mì vào lòng
đất lạnh ẩm ướt, giống như trong một ngôi mộ vậy. Thế rồi nó phải chết đi. Nếu
nó không chết đi thì nó sẽ không mang lại sự sống mới nào. Nhưng khi nó chết
đi, thì từ ngôi mộ của hạt giống cũ, nụ chồi của một cây lúa mì mới đâm ra một
cách lạ lùng. Đó là một nghịch lý đáng ngạc nhiên – sự xuất phát từ cái chết.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để
mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại
kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người,
và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình.
Sự chết là một phần của sự sống. Chúng
ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được
sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho
tính ích kỷ, giả vờ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc
đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết
đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong
những giây phút cô đơn, bị khước từ, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta
đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự
cay đắng, hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho
riêng mình, bằng lối sống của chúng ta.
Khi Đức Giêsu nói "Ai yêu mạng
sống mình thì sẽ mất, ai ghét mạng sống mình ở thế gian này, thì sẽ giữ được
nó", thì Người không bảo chúng ta phải ghét năm tháng mình, hoặc cuộc sống
của mình. Chúng ta phải học biết yêu biết chính mình. Thiên Chúa muốn chúng ta
biết thương xót bản thân. Không ai có thể yêu mến chúng ta được, nếu chúng ta
không biết yêu mến chính mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai
khác, trừ phi chúng ta biết yêu mến con người của mình. Tất nhiên, chúng ta
phải phân biệt giữa tình yêu chính đáng đối với bản thân, và thói ích kỷ.
Quên mình, vượt lên trên bản thân mình
– điều đó có nghĩa là đánh mất, là khước từ, là chết đi cho chính mình. Chính
khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Chính
khi ra khỏi con người của mình, tự cống hiến bản thân vì những lý do bên ngoài
mình, thì chúng ta mới phát triển và mang lại hiệu quả. Chúng ta có thể được
sống lâu hơn, nếu chúng ta coi mọi sự là thoải mái, nếu chúng ta biết tiết kiệm
cuộc sống. Chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn. Nhưng liệu chúng ta sẽ được sống lâu
hơn chăng?
Thật là một thế giới nghèo nàn, nếu mọi
người đều coi sự an toàn bản thân, được che chở, tiến thân một cách ích kỷ là
yếu tố đầu tiên và sau cùng, nghĩa là không có ai được chuẩn bị để vượt ra
ngoài bản thân mình. Luôn luôn do con người đã được chuẩn bị để chết đi cho sở
thích cá nhân, nên những điều quí giá nhất mà nhân loại được sở hữu đã được
sinh ra.
Đức Giêsu đã đem đến cho chúng ta một
gương mẫu. Người trao tặng cuộc sống của Người, để phục vụ Cha của Người trên
trời và cả chúng ta nữa. Nhưng Người không hề cảm thấy đó là điều dễ dàng. Khi
giờ chết thực sự đến, tâm hồn Người tràn đầy nỗi sợ hãi.
Cuộc sống của Đức Giêsu không tách biệt
khỏi Người. Người trao tặng nó đi – trao tặng nó vì tình yêu đối với Thiên Chúa
và đối với chúng ta. Tình yêu chính là chấp nhận rằng con người mình có thể
chết đi bằng một cái chết khác, trước khi người ta thực sự chết đi. Con đường
yêu mến là con đường thánh giá, nhưng chính con đường thánh giá lại đưa đến sự
sống lại.
Nhưng ai chết đi cho bản thân mình, thì
sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành
một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc
sống đời đời.
22. Giờ phút cao quí
Stephen Roche là một trong những tay
đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong
ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980. Tuy nhiên, khi
suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây
phút đó trong những điều kiện rất phổ biến. Chúng ta nhận thấy đó là giây phút
chiến thắng và vinh quang. Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách
khá thoải mái. Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi
nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút
của mồ hôi, máu và nước mắt. Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy
thì lao nhọc là một phần của vinh quang.
Đức Giêsu cũng nói về "Giờ của
Người". Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của
Người. Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên, trong
đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra. Ý
Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy? Đó là giờ chết của Người. Đó là giờ mà
Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình
Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất
bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh
miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển
thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng
đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút
mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất. Tất cả
cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.
Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ
rằng đó là một thời điểm biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn lao. Giây phút
chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong
cuộc sống của một hạt giống. Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được
nảy sinh.
Đối với chúng ta, cũng tương tự như
vậy. Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng
tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển. Những giây phút thành công vĩ đại sẽ
sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người. Trái
lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó
là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một
người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc
đời.
Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời
nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một
cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện
dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng
ta có hiện nay. Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta
với những điều giúp ích cho chúng ta.
Để có thể tồn tại được trong lúc tinh
thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc
gieo trong nước mắt. Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm
hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng
sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó, chúng ta không
thể nhận thấy được điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà
thôi.
Van Gogh nói "Việc hội họa đòi hỏi
phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được
rằng công việc đó sẽ thành công. Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ,
công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt. Nhưng chúng
tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm
thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi".
Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi
người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin,
bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và
đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo,
thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một
niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng
được trong suốt thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói "Ai nghẹn ngào
ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang
hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng" (Tv
126, 5-6).
Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng. Sự
sống sẽ chiến thắng. Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.
23. Con đường hạt lúa – Lm. Giuse
Nguyễn Hữu An
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con
đường hạt lúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em,
nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn
nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt
lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ
trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương
lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn
lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn
hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
1. Con đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên
như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự
huỷ: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần
thế". Như hạt lúa bị mục nát: "Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi
bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự". Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên,
đơm bông sinh hạt: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên
trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên
Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa"
(Pl 2,6-11).
Phúc Âm Marcô viết: "Chúa Giêsu
bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các
kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống
lại" (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có
nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong
tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao,
quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề
nên các môn đệ không thể chấp nhận. "Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và
bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ,
Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của
anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,32-33).
Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là
chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng:
"Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem...Người lại kéo
riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho
mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng
tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ
nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau,
Người sẽ sống lại" (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ
đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng
đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.
2. Con đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên
con đường Chúa đã đi "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà
theo Ta" (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ:
"Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì
sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần
cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng
sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu
toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và
ân sủng của Thiên Chúa" (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự
là "đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với
Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi
chết" (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến
trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh
đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết
bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng "Máu
các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu". Từng thế hệ chứng nhân
như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh
rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi
tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
3. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay
như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi
theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh
nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta
phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả
dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết
cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa
những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa
những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự sống là:
"Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời
này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" (Ga 12,25). Chết vì tình
thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức
tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
4. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh
liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi
nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa
trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra
khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho
Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã
từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng
giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức:
"Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi
giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh
Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong
giờ này" (Ga.12,27).
Nếu "Hạt lúa âm thầm mọc lên"
(x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì
"Hạt lúa phải mục nát đi" (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất
vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
24. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
Để mô tả một sứ mệnh, người đời thường
nêu lên những chương trình, kế hoạch to lớn mà họ sẽ thực hiện trong cuộc sống.
Tuy nhiên chẳng có ai nói về cái chết của họ như phần cốt yếu trong sứ mệnh cả!
Đối với Chúa Giêsu, cuộc Thương khó và cái chết của Người mới là tột đỉnh của
sứ mệnh. Cái chết của Người cần thiết để chu toàn sứ mệnh, sứ mệnh của
"Con Một" được Chúa Cha ban cho nhân loại để minh chứng sự thật
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian" như thế nào. Bài Tin Mừng tuần
trước cho ta hình ảnh cái chết cứu độ của Chúa Giêsu: "Như ông Mô-sê đã
giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để
ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14). Chúa Nhật hôm nay, bài
Tin Mừng lại đề cập đến cái chết cứu độ của Chúa Giêsu qua một hình ảnh sống
động và quen thuộc: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó
vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác"
(Ga 12,24).
a) Cái chết đem lại sự sống
Qua hai hình ảnh, con rắn đồng treo cao
trong sa mạc và hạt lúa gieo vào lòng đất, Chúa Giêsu đều muốn nói lên ý nghĩa
và hiệu quả cái chết của Người, là cứu sống và ban sự sống. So sánh giữa con
rắn đồng trong sa mạc với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Gôn-gô-tha thật vô
cùng ý nghĩa. Rắn lửa sa mạc đã làm cho nhiều người Ít-ra-en phải chết. Cũng
thế, trong vườn địa đàng con rắn Xa-tan quỷ quyệt đã cắn nguyên tổ loài người
và gieo nọc độc là tội lỗi và sự chết cho nhân loại. Thiên Chúa thực hành
nguyên tắc dĩ độc trị độc, đã dùng hình ảnh con rắn đồng để cứu sống dân
Ít-ra-en. Giờ đây, Người lấy chính cái chết của Con Một Người trên thập giá để
đánh bại cái chết và tội lỗi, đem lại sự sống cho nhân loại.
Hình ảnh hạt lúa gieo xuống lòng đất cũng
hết sức linh hoạt. Hạt lúa muốn trở thành một cây lúa và sinh bông hạt cần phải
trải qua một tiến trình kỳ lạ. Trước hết nó phải nằm trong bàn tay người gieo
hạt. Ông ta vung nó xuống đất. Nằm trong lòng đất, nó phải chờ đợi những yếu tố
cần thiết để bắt đầu một cuộc biến đổi: một khoảng đất màu mỡ, hơi ẩm của đất,
ánh nắng mặt trời... Tất cả sẽ ảnh hưởng tới lớp vỏ bên ngoài, làm cho nó vỡ ra
và mục nát. Lúc vỏ trấu vỡ ra là lúc hạt lúa thấy mình sắp sửa không còn là hạt
lúa nữa! Rồi mầm sống dấu ẩn bên trong được đánh thức dậy, nảy nở, biến thành
một mầm xanh, thoát ra khỏi lớp vỏ đã vỡ và từ từ chui lên khỏi lòng đất để đón
lấy ánh mặt trời. Biến thành cây lúa, nó không còn là hạt lúa nữa. Nhưng chính
nó sẽ đem lại nhiều hạt lúa khác.
Nếu đem so sánh hình ảnh trên với cuộc
đời Chúa Giêsu, ta sẽ thấy một tiến trình y hệt. Chúa Cha đã gieo hạt lúa Giêsu
xuống trần gian, đặt trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Người đã sinh ra, lớn
lên và sống ẩn dật tại Na-da-rét. Người đã lên đường thi hành sứ vụ rao giảng
Tin Mừng. Sau hết, qua cái chết cứu chuộc, Người đã cứu mọi người khỏi tội lỗi,
phục hồi cho nhân loại sự sống đời đời mà ma quỷ đã cướp đi khi nguyên tổ không
tuân phục Thiên Chúa. Đặc biệt, cuộc Thương khó, cái chết trên thập giá, an
táng trong mồ và sự Phục sinh của Chúa Giêsu quả thực là những diễn tiến y hệt
như tiến trình biến đổi của hạt lúa. Như hạt lúa phải chết đi để đem lại sự
sống cho những hạt lúa khác thì Chúa Giêsu cũng phải chết đi để chia sẻ sự sống
đời đời cho toàn thể nhân loại.
b) Những bài học về hạt lúa
Không phải Chúa Giêsu chỉ nói về sứ vụ
của Người là chết để loài người được sống, nhưng Người còn đưa ra những bài học
vô cùng ý nghĩa về cái chết của hạt lúa.
Bài học đầu tiên là về sự ưu tiên của
sự sống đời đời, được trình bày qua nghịch lý sống và chết, tạm bợ và vĩnh cửu.
Sống ở đời này, nếu ta chỉ lo lắng hưởng thụ mà không lấy cuộc sống để phục vụ,
ta sẽ mất cuộc sống vĩnh cửu mai sau, tức là chết muôn đời. Nếu ta lấy cuộc
sống đời này như một cơ hội để phục vụ, làm điều lành mặc dù phải chịu thiệt
thòi, thì ta sẽ được sự sống muôn đời.
Bài học thứ hai về gương phục vụ của
Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phục vụ mọi người vì Người nhìn thấy hình ảnh của
Thiên Chúa nơi người khác. Phục vụ người khác là phục vụ chính Thiên Chúa ở
trong họ. Giờ đây, Chúa Giêsu đã đồng hóa Người với anh chị em. Người khẳng
định: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy"
(Mt 25,40). Ta là môn đệ Chúa Giêsu nên là người phục vụ Chúa trong anh chị em.
Sống đời phục vụ, ta sẽ được Thiên Chúa Cha "quý trọng" như Người đã
quý trọng Con Một Người.
Bài học thứ ba là biết xử sự sao cho
đúng khi ta cảm thấy xao xuyến vì phải chấp nhận hy sinh. Chúa Giêsu biểu lộ
hoàn toàn những tâm tình hãi sợ, xao xuyến khi thấy cái chết tủi nhục đến gần.
Cảm giác "biết nói gì đây?" đã cho ta thấy Người như bị tê liệt,
hoảng hốt. Nhưng đó cũng chính là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn sự tín thác
của Người nơi bàn tay quan phòng của Chúa Cha. Người chỉ còn nhìn thấy một điều
ưu tiên phải làm, tức là làm cho Danh Cha được tỏ rạng. Tất cả ý nghĩa cuộc đời
của Chúa Giêsu ở trần gian này là để tôn vinh Danh Cha. Cái chết của Người sẽ
là hành vi cuối cùng làm cho Danh Cha được chiếu sáng tột đỉnh. Lời cầu nguyện
của Chúa Giêsu với Chúa Cha đã biểu lộ sự tuân phục tuyệt đối. Lập tức Chúa Cha
nhìn nhận việc tôn vinh Chúa Giêsu đã làm cho Người và đáp lại với lời hứa
chính Người sẽ tôn vinh Chúa Giêsu qua cuộc Phục Sinh vinh hiển.
c) Cuộc phán xét thế gian này đang diễn
ra
Nói đến cái chết của Người, Chúa Giêsu
nhắc nhở ta hướng đến một trời mới đất mới: quyền lực ma quỷ và thế gian sắp bị
đánh bại. Cái chết của Người sẽ dứt khoát làm cho "thủ lãnh thế gian này
bị tống ra ngoài". Sau chiến thắng ở vườn Địa đàng, thế gian này đã biến
thành lãnh thổ của Xa-tan rồi. Nó tha hồ tung hoành và khống chế con người.
Nhưng sau chiến thắng của Chúa Giêsu nhờ cái chết, Xa-tan không còn đất đứng
nữa. Con đường đi đến với Thiên Chúa đã được nối lại để ta có thể gặp gỡ Thiên
Chúa trong Đức Kitô.
Tuy nhiên ta nên hiểu cuộc phán xét thế
gian, hoặc chiến thắng của Chúa Giêsu là điều đang tiếp tục xảy ra và sẽ kết
thúc vào ngày thế mạt khi Người trở lại để phán xét muôn loài. Do đó, ngay bây
giờ và tại thế gian này, Chúa Giêsu mời gọi ta tham dự vào cuộc chiến thắng ấy
bằng cách để cho Người "kéo ta lên với Người". Đừng chống cự, nhưng
ta cứ theo Người, để cho Người kéo ta vào trong mối thâm giao với Người và ngày
sau được chung hưởng vinh phúc với Người. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy để cho
Người kéo ta lên với Người trên thập giá, bắt chước Người cam chịu mọi gian nan
thử thách, nhưng vẫn luôn trung thành và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa cái
chết của Chúa Giêsu không? Tôi đã cầu nguyện về cái chết của Người như thế nào?
Cái chết ấy ảnh hưởng gì đến đời sống đức tin của tôi?
Bài học nào về hạt lúa Chúa dạy làm cho
tôi phải suy nghĩ nhất? Tại sao? Tôi sẽ thực hành như thế nào?
Điều gì ngăn cản tôi, không để cho Chúa
Giêsu kéo tôi lên với Người? Tôi sẽ nghe Chúa nói gì về tình trạng này?
Cầu nguyện
"Lạy Cha, xin ban cho con điều khó
hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường
Thánh giá
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận
đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ
đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống
khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín
của Cha
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu
bản thân
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho
con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi."
- Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
25. Học Yêu – Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa
"Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ
khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta" (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà
Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình yêu.
Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn
sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn
tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).
Một trong những khao khát đượm tình
hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã
trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa
nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời
này trong sự vị kỷ. "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời
đời"(Ga 12,25 ). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách
nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.
Quy luật của tình yêu đã được thánh
Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: "Chính khi thứ tha là khi
được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là
lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời". Chắc
hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Thật, Thầy
bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác"
(Ga 12,24).
Đã là quy luật thì có tính khách quan
cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó.
Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận
ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối
thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả
của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác
giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: "Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa
Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục..."
(Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết
thế nào là yêu thương.
Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi
những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha
và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương
thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân
chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy người điếc được
nghe... Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả
quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại
từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền
hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.
Yêu thương cách đích thực là cho đi
những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên
Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong
Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể:
"Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý
Người" (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã
nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà
xuống, để sống kiếp "không chỗ tựa đầu"(x.Lc 9,58). Vì yêu thương
Chúa Giêsu đã đau xót đến tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn
cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các
vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô
nhục trên thập giá. "Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá
xem nào!" (Mt 27,40). "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình
đi!"(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.
Mất những tất cả gì mình có, thật đau
xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một
điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ
ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó
trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi,
chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.
Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của
tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn
chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến
và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi
dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi
những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình
yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.
26. Chú giải của Lm. Vũ Phan Long.
ÁNH SÁNG CỦA THẬP GIÁ
Đã đến "giờ". "Giờ"
này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người
thực hiện.
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời
gian và thần học là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt
Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con
Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng
tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính
tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm
cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta
không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà thường xức cho một thi hài
vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ
nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức
dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem
(12,12-19), dân chúng đã tung hô Người như là "vua Israel ".
Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là
mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa
những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy
– chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là
giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10),
Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của
Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu
"vinh quang" Người đang theo đuổi. Chỉ sau kinh nghiệm này các môn đệ
mới nắm được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc.
17-18). Nhưng những lời hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và
tranh luận với nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống
gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!" (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn
vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài. Nỗi lo sợ của người Pharisêu là
thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b)
khiến ta nghĩ ngay đến nhận định của thượng tế Caipha: "Các ông cũng chẳng
nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân..."
(11,50). Chính ông này cũng đã nói tiên tri mà không biết: trong tư cách là
thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức Giêsu phải chết thay cho dân, và không
chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
(11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức
Giêsu là một đỉnh cao trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12
của TM IV: kế hoạch cứu độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới dân tộc Do
Thái, đang bắt đầu được thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả những điều
đó chứng tỏ rõ ràng là giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ đưa tới
vinh quang.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về
thân phận của Người và của các môn đệ (["Đã đến giờ"], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết ("bây
giờ", 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu
("bây giờ", 12,31-33).
3.- Vài điểm chú giải
- mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa
mai ở c. 19 được ứng nghiệm tức khắc. Đây không phải là những người Do Thái Hải
ngoại (diaspora; x. Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong
các vùng dân ngoại, nhưng là những người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng
người "kính sợ Thiên Chúa" (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị
Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải
để du lịch mà là để hành hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ
ý muốn với Philípphê bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê
là hai tên Hy Lạp), và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân
cư là người ngoại.
- Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu
(21): dịch sát là "muốn được thấy", có nghĩa là "nói với Đức
Giêsu", trò chuyện với Người, để biết Người, khám phá ra chân tính của
Người.
- Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết
và Phục Sinh, để Con Người được tôn vinh. "Giờ" đây là đỉnh cao của
sứ mạng của Người và cũng là lúc kết án "thế gian" này với thủ lãnh
của nó.
- tôn vinh (23): "Vinh quang"
(doxa) là sự tỏa rạng sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng
sợ vừa thu hút, của Hữu thể thần linh. Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập
thể, nhưng tính khiêm hạ của mầu nhiệm Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng
của vinh quang này, cho dù các lời nói và các công việc của Đức Giêsu lại là
"dấu chỉ" đầu tiên của vinh quang này (x. 2,11). Cuộc Thương Khó,
thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy vinh quang này ở mức viên
mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự hiện diện thần linh, như được
giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của Ngôi Lời để làm cho nhân tính này
sống lại và lên trời.
- nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24):
Câu này được vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen
thuộc tác giả đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức
Giêsu mới có thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất
(25): Câu này trở đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt
16,25; Mt 10,39 so sánh với Lc 17,33). Các TMNL áp dụng câu này cho những đau
khổ và mất mát của đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những
đau khổ của cộng đoàn của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở
đó (26): Sự đồng nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong
các diễn từ cáo biệt (x. 13,13.16; 15,20). Phần kết "Ai phục vụ Thầy, Cha
của Thầy sẽ quý trọng người ấy" lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu
trong các diễn từ cáo biệt (14,23; 16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc
12,8.
- Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27):
Tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng
đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ
chết đến gần, Đức Kitô run sợ: "Tâm hồn Thầy xao xuyến" (tetaraktai,
c. 27a). "Tâm hồn" (psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng
sống; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự
xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ
Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
- Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28):
x. Lc 11,2. Câu này diễn tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn
của Thiên Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được
Chúa Cha tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
- có tiếng từ trời (28): Dân chúng
không thể "nghe" được lời Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ
đó là tiếng một thiên thần. Giống như trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu
nguyện cũng là một tấm gương cho họ.
- Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn
vinh nữa (28): Hành vi "tôn vinh" đầu quy về những "dấu lạ"
Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức
Giêsu. Hành vi "tôn vinh" thứ hai quy về cái chết và cuộc tôn vinh
Đức Giêsu.
- mà vì các người (30): Như thế, tác
giả đã biến truyền thống về "cơn hấp hối riêng tư" của Đức Giêsu
thành một cuộc bày tỏ công khai công việc phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét
thế gian này (31): Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh.
Tiếng sấm trong lời Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ
đến uy hùng mà tống "thủ lãnh của thế gian này" ra ngoài. Ở đây, tác
giả dùng từ ngữ "thế gian" không phải để chỉ đối tượng được Thiên
Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng như một biểu tượng cho tất cả những gì
là không tin và thù nghịch với Thiên Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan
như là thủ lãnh của "thế gian" ở trong thế đối lập với Thiên Chúa, là
một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải huyền Do Thái. Nhưng tác giả
chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa phản bội thôi (6,70; 13,2.27)
và trong những câu nói loan báo chiến thắng của Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- một khi được giương cao lên khỏi mặt
đất (32): Các truyền thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh
như là việc Người được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho
quyền chủ tể của Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ
"được tôn vinh – được giương cao" của tác giả được lấy từ Is 52,13,
nơi mà Người Tôi Tớ của Đức Chúa được "vươn cao", và "được suy
tôn".
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra
chỉ vài ngày trước các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã muốn gặp Đức
Giêsu, không phải chỉ để nhìn thấy Người, nhưng là để biết Người, khám phá ra
"căn cước" của Người. Câu 20 dường như cho hiểu rằng những người
ngoại quốc kia đang thực hiện một hành trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần
"gặp" Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ Vượt Qua đã đưa họ đến
Giêrusalem không phải như du khách, mà là để cầu nguyện, để gặp Thiên Chúa, để
khám phá ra điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là Thiên Chúa muốn họ đến
nói chuyện với Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu trực tiếp, trước hết họ
đến gặp các môn đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để có thể gặp Đức Giêsu.
Họ ngỏ lời với Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả hai đã đến thưa với
Đức Giêsu. Những người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có
tên gọi Hy Lạp và phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp.
Philípphê và Anrê đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu,
đã đến với Người và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những
người khác đến với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta thấy được bổn phận họ
phải chu toàn trong đời sống: làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp Đức
Giêsu.
Chúng ta không biết là sau đó chuyện gì
đã xảy ra, những người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà mà vẫn chưa được
gặp Người. Bản văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng
bây giờ, chỉ còn ít ngày nữa trước khi Người chịu chết và bởi vì những người
này đã đến với Người, Người xác định tầm quan trọng và hiệu năng của cái chết của
Người trên thập giá và gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc người ngoại đi
tìm một trung gian dường như có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới ngoại giáo
chưa hề biết trực tiếp Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ:
người ngoại đã "thấy" Đức Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ.
Nhưng giữa ước muốn được "thấy" Đức Giêsu và việc "gặp" Đức
Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lời rao giảng của các tông đồ, còn có cuộc
Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức "giờ" của Người (c. 23).
Chỉ khi đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè phái mới đổ
hết. Cũng chỉ khi đó mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân
chính vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô "Đức Chúa" (x. Ga 20,18.20.28.29;
21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những người ngoại vô
tình lại là một cử chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như
trong cuộc đón tiếp của người Do Thái khi Người vào Giêrusalem. Nhưng trước
hết, Người phải điều chỉnh ý tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có về vinh
quang và cuộc khải hoàn của Người (x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến như thế
giống như một bài học biểu tượng, bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức
Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả lời gián tiếp cho nguyện vọng được những người
ngoại ấy diễn tả ra: chính là nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một
khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho họ gặp được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân
phận của Người và của các môn đệ ("đã đến giờ", 23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM IV chẳng còn
nói gì đến những người ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả
mãn hay không nữa. Ta gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến
một lúc nào đó, bài tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời
nói của Đức Giêsu và những suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những người ngoại giáo
và thỉnh nguyện của họ khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà
TM IV cho thấy đang đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ
của "Con Người", giờ Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá,
giờ Người được "tôn vinh" (x. 3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức
Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn bạo của loài người và cũng không
phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. "Giờ" của Người đã được Chúa
Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh
bằng chính cái chết của Người. Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và
thuyết phục rằng Con Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng
phục dù phải trải qua thử thách nào và rằng Người hiến mình cho chúng ta không
dè giữ. Cái chết của Người cho thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người
sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người
tùy thuộc cái chết của Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như
chính Người đã hành động. Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên
nhiên không sản sinh ra gì cả nếu trước đó không có một cái chết nào đó. Chỉ
khi một hạt lúa mì bị hủy đi, nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là
vì Người đã chịu cái chết và đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu
sẽ quy tụ lại quanh Người một đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi,
Người không biến mất khỏi loài người, nhưng lại trở thành trung tâm của một
cộng đoàn mênh mông. Người không ra sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống
trần thế đối với Người không phải là một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi
giá. Chỉ những ai liên kết với Người khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với
Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục
tiêu và mới có phần phúc khi được Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết ("bây
giờ", 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn
Ghếtsêmani trong các TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang
cảm hứng hoạt cảnh Vườn Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy trong một bối
cảnh khác, ngài giải thích hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong
các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: "Tâm hồn Thầy xao
xuyến" (27a). "Tâm hồn" đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng
sống, mạng sống mà người ta phải "ghét" và chịu mất để cứu được; mạng
sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động
trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây
giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các
điểm theo cách riêng. Câu hỏi: "Thầy biết nói gì đây?" cho thấy là
Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan là xin Cha Người: "Xin cứu con khỏi giờ
này" hay là: "xin tôn vinh Danh Cha". Và Người chọn tức khắc
cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu luôn "năng động
[tích cực]" trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm chủ tình hình (x.
Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai trò Người đảm nhận, Người hoàn tất tuyệt
vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh mạng sống để cứu độ toàn thể thế giới. Ở
tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không thể tưởng tượng ra một lời cầu nguyện nào
khác trên môi Đấng được Thiên Chúa sai đến, ngoài lời này: "Xin tôn vinh
Danh Cha" (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn "giờ" này (hiểu là
"những gì sẽ xảy ra vào lúc ấy")[1], giờ mà Người hết sức mong mỏi và
cuối cùng nay đã tới, hẳn sẽ là phá hủy tất cả tầm mức gồm tóm trong mầu nhiệm
Nhập Thể: khi đó Chúa Con đã nhận lấy nơi mình cuộc sống trần thế với tất cả
chiều sâu của nó và đặc tính bi thảm của nó, để sống trọn cuộc sống này cho tới
chết, không phải cho bản thân Người mà là cho những người khác. Khi Đức Giêsu
chấp nhận "giờ" này, Người đã tôn vinh Chúa Cha, bởi vì như thế, dự
phóng cứu độ toàn thế giới cuối cùng được bày tỏ trọn vẹn, và dự định đó, cuộc
Thương Khó, cái Chết và cuộc Phục Sinh của Con Cha sẽ thực hiện.
Cũng như trong tất cả các Tin Mừng, ở
đây cũng vậy, khi đứng trước cái chết, Đức Giêsu quay ra cầu nguyện với Chúa
Cha (x. Mc 14,32-42). Người ý thức về ý nghĩa của cái chết của Người, nhưng
không vì thế mà Người đi đến đó hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người, chính
Người cũng sợ hãi tránh né cái chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải chết
của mình. Vì Người có sự nhạy cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin Chúa Cha
cất cho Người bước đường này. Nhưng Người không chịu thua ước muốn của riêng
mình, Người muốn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện:
"Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha" (c. 28). Như thế Người đồng ý về ý
nghĩa của định mệnh của Người, như Thiên Chúa đã thiết định, nên Người lấy điều
này làm mục tiêu của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức Giêsu cho
thấy rõ những gì nằm ở trong tên "Cha" và cho thấy Chúa Cha đã
nghiêng quá mức thế nào về phía con người, nên mới ban cho chúng ta chính Con
Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không thua Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu
xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở nên hiển nhiên, cho dù Người biết rằng
điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống Người.
* Giá trị của cái chết của Đức Giêsu
("bây giờ", 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá
cũng là chiến thắng vĩnh viễn của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị tống ra ngoài, và
không còn có một vị trí quyền lực nào nữa. Công việc ma quỷ làm là nhắm chia
lìa con người khỏi Thiên Chúa, làm mờ tối cái nhìn của họ khiến họ không thấy
được Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu lại là mạc khải cao độ nhất về tình yêu
của Thiên Chúa đối với loài người và về dây vâng phục nối kết bất khả phân ly
Đức Giêsu với Thiên Chúa. Như thế, ý đồ của ma quỷ hoàn toàn thất bại. Với cái
chết của Người, Đức Giêsu cũng khởi sự hoạt động phổ quát của Người, liên hệ
tới toàn thể nhân loại. Được giương cao trên thập giá như là biểu tượng của
tình yêu của Thiên Chúa (x. 3,14-17) và được nâng lên đến Chúa Cha trong quyền
lực thiên đình của Người, Đức Giêsu tới với cả nhân loại, đón nhận họ vào trong
tình yêu huy hoàng của Người. Như thế, Người cũng được giương cao cho người Hy
Lạp nữa, là những người muốn gặp Người.
+ Kết luận
Trong bản văn này, tác giả nêu bật điểm
chú ý là "giờ" của Đức Giêsu, cả trên bình diện lịch sử lẫn thần học.
Theo quan điểm Kitô học, "giờ" này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc
khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện. Sứ mạng này tiêu biểu cho
trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống của Người hướng về đó. Khi đó sẽ xảy
ra cuộc "phán xét" (krisis) nhân loại. Khi đó sẽ xảy ra giữa loài
người một cuộc "tách biệt" (krima) do người ta tin hay không tin vào
mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chọn lựa này đảm bảo cho một
số người được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi kéo án phạt và cái chết đến
cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như Philípphê và Anrê, chúng ta cũng
có nhiệm vụ làm trung gian giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng muốn thế,
chính chúng ta đã phải gặp Đức Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi. Chúng ta
cũng ghi nhận những tương quan giữa các môn đệ để giúp người ta gặp Đức Giêsu:
người Hy Lạp đến gặp Philípphê, có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng Philípphê lại
cần có Anrê để có thể mạnh dạn đi gặp Đức Giêsu...
2. Những người Hy Lạp đây đại diện cho
tất cả những người ngoại ước muốn biết Đức Giêsu. Không ai có thể trở thành
Kitô hữu mà lại không có một môn đệ của Đức Kitô nói cho biết về Người, và giới
thiệu với Người về họ.
3. Vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu,
tuy vẫn là một ân ban nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự cộng tác của
chúng ta. Chỉ những ai đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới sẽ được liên
kết với Người sau này trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành bước theo
Người hôm nay, sau này chúng ta mới mong được thông phần gia nghiệp với Người.
4. Đức Giêsu đã đến thế gian như là ánh
sáng cho mọi người (1,9). Khi Người đã được giương cao trên thập giá, từ nơi
Người sẽ phát ra ánh sáng chói chang huy hoàng nhất, cho thấy mọi sự trong tính
chân thật nhất: Thiên Chúa trong tình yêu vô biên của Ngài; Con Người trong
việc hiến mình không dè giữ và trong hoạt động bao trùm toàn nhân loại; ma quỷ
bị thua trong quyền lực của nó. Trong ánh sáng này, chúng ta phải chọn lựa cuộc
sống chúng ta như là con đường bước theo Đức Kitô.
5. Tất cả những ai muốn đưa lại ơn ích
cho người khác, cũng phải chấp nhận thân phận "hạt lúa gieo vào lòng đất
phải chết đi". Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu: trước
tiên, người Kitô hữu không thể tránh giết chết trong mình những gì chống lại sự
sống đích thực (= sự từ bỏ chính mình); đồng thời phải sống một mầu nhiệm phục
sinh, tôn vinh và hân hoan (= niềm vui thiêng liêng).
----------------------------------------------
[1] Phép métonymie: gọi một điều bằng
một từ khác.
27. Chú giải của Noel Quesson
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan
đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ
phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền
Galilê, và thưa rằng: "Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu".
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu
tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi
liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ
Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với
nhau. "Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết. Hãy coi đó,
thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!". Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh
chứng ngay, qua sự kiện những người "Hy Lạp", xa lạ nhưng lại có
thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin "gặp" Đức Giêsu. Như thế, đang
khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí
chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần
lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ
của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người "Hy Lạp" này đang
báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang
lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái
chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! "nó mang
lại nhiều hoa trái"; "Nó lôi cuốn mọi người". Chúng ta lưu ý
thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên
gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài
cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp
xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với
Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: "Đã đến giờ Con
Người được tôn vinh".
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải
đó không?
"Giờ của Đức Giêsu", đó là
giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng
tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên
Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang
khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta:
"Này đây, giờ đã đến" (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa
đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20).
Giờ "ưu việt" đó chính là giờ thập giá: Giờ "tôn vinh" Chúa
Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ "xét xử và cứu độ" thế gian (Ga 13,
1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ
việc các người "Hy Lạp" đến xin "gặp" Người. Nhưng thật sự,
Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: "Đã đến giờ Con Người sắp được tôn
vinh"; 'giờ cho tôi gặp Người' tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta
không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh
sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con
biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng
nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn
giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: "Và đây xuất hiện
thập giá". Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm
những hình ảnh đó, "hình tướng" về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa
gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi,
nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ
"chết" của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được
nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách
vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự
hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh
tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua
một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng
của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương
đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài
hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến
nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn
một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ
mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc
sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết
đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả
nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một
chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái
chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự
đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần
phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là
"Tình yêu tuyệt đối". Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời
sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi
tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là "sống" cuộc đời
mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và
Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng
người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu
không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc
phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu
nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu
của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu
lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có
Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống
mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu
"phục vụ" đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó.
Số phận của "hạt lúa" cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để
mang lại hoa trái: "Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh
quang".
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha:
"Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con
khỏi giờ này".
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ
sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu
trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức
Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói
cho ta biết rằng Đức Giêsu bị "thử thách" muốn sử dụng thần tính của
mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời
công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối
ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên
quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như
Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã
đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân
phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng
ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức
Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa
nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết
của Người có một ý nghĩa sâu sắc: "Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.
Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên
Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục,
và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu
cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn
còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc
phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón
nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như
thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống:
"Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa".
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến
Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã
thấy Chúa Nhật vừa qua, thì "Giờ của thập giá" là giờ Vinh Quang.
Trên Thập Giá Người được "giương cao", nghĩa là vừa "bị đóng
đinh", vừa "được tôn dương": Loài người làm việc thứ nhất, còn
Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế
gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài.
Đó là hai mặt của cùng một thực tại:
"Phán xét" và "Cứu độ".
Phần tôi, một khi được giương cao lên
khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ
Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, "thủ
lãnh của thế gian này" bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải,
chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói
mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói
đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người "Hy
Lạp" đã xin "gặp gỡ " Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những
lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách
công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường
thuật tiếp: Lúc đó "Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy" (Ga 12,36).
Người không còn gì để nói nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét