CÁC HỒ NƯƠC KỲ DIỆU - NƯỚC ĐỔI MÀU |
NƯỚC HỒ ĐÓNG BĂNG |
NƯỚC HỒ KẾT TỦA |
NƯỚC BỐC HƠI |
NƯỚC ĐỔI MÀU |
NƯỚC BỐC HƠI
NƯỚC ĐỔI MAU |
CHÚA NHẬT LỄ LÁ – Năm B
Lời Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc
14,1 – 15,47
MỤC LỤC
1. Phêrô
2. Vua Bình An – Mc 11,1-10.
3. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
4. Nhiệt thành của thập giá
5. Lễ lá
6. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ
7. Giờ chiến thắng vinh quang – Lm.
Ignatiô Trần Ngà
8. Bệnh "hùa theo đám đông"
9. Vác đỡ Thánh Giá Chúa – PM. Cao Huy
Hoàng
10. Thập giá, tình yêu cứu độ
11. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc
Khuê
12. Ông này là ai vậy?
13. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10)
14. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung
15. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
16. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái
chết
17. Chúa Giêsu lên Giêrusalem
18. Những im lặng sau tiếng hoan hô
19. Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse
Trần Việt Hùng
20. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
21. Baraba và Đức Giêsu
22. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần
Quang Hiền
23. Suy niệm của Noel Quesson
24. Lễ lá
25. Cuộc Thương Khó
26. Cuộc Thương Khó
27. Hoan hô- Đả đảo
28. Ơn cứu chuộc
29. Thánh giá
30. Cuộc khổ nạn
31. Tội lỗi của ta
32. Vụ án
33. Vào thành
34. Bóng tối và niềm tin – Peter
Feldmeier
1. Phêrô
Bài tường thuật sự thương khó Chúa
Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi
đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa
Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như
hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi
này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự
phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.
Qua những giờ phút cuối cùng của Chúa
Giêsu, chúng ta nhận thấy nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng ông nhất quyết
trung thành với Chúa và tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác ông không nghĩ
tới mưu chước cám dỗ bất ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá tin tưởng vào sức
riêng, nên thay vì vâng lời Chúa, thì ông lại phản đối lại lời Ngài. Thực vậy
Chúa báo trước cho ông hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa, nhưng ông lại cho đó là
chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa còn nói thêm rằng: Chính ông sẽ
chối bỏ Ngài trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa
ngã, thì ông lại phản ứng một cách mạnh mẽ và hết sức tự tin. Ông cảm thấy như
không có gì lay chuyển nổi tình yêu của ông đối với Chúa, nên ông không thể nào
chấp nhận lời tiên báo rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản bội. Cuối cùng khi Chúa
dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện thì ông lại ngủ vùi, cho dù tận đáy lòng,
ông vẫn một mực tin tưởng vào mình.
Từ những vấp ngã ấy, ông đã rút ra một
kinh nghiệm đau thương, được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau đây: Anh em hãy
sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử gầm thét rảo
quanh tìm mồi cắn xé.
Kẻ thù ồn ào và gào thét đã tấn công
vào Phêrô, đó là đám đông đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự căm phẫn đối
với Ngài. Phêrô lo sợ mà không biết mình lo sợ. Vì không biết mình nên ông đã
không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa xa xa, đến
dinh thầy cả thượng phẩm, ông cả dám mon men đến gần dịp tội. Ông tưởng rằng sự
việc rồi cũng kết thúc êm đẹp như bao lần Chúa đã chấm dứt những hành vi gây
hấn của bọn biệt phái. Ông chờ đợi mà không đề phòng, cho nên đã sa ngã chỉ vì
một câu hỏi của người đàn bà. Ông bối rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ Chúa
Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy
nghĩ đó là Phêrô đã hối hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời tiên báo của
Chúa Giêsu. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường, thành thực và tin
tưởng dù đã sa ngã.
Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có
tội mà không cần phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không
quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam kết với Chúa.
Ông tin tướng vì cảm nhận rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành thật, ông được
Chúa khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động. Và đối với một người khí phách
như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi.
Phêrô sám hối, đã được Chúa tha thứ và
hơn thế nữa còn được Chúa đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế, chúng ta hãy tin
tưởng chạy đến với Chúa, dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, nếu chúng ta
biết sám hối ăn năn, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.
2. Vua Bình An – Mc 11,1-10.
Đâu là mục đích của việc Chúa vào thành
Giêrusalem một cách long trọng trong ngày hôm nay?
Mục đích thứ nhất là để ứng nghiệm lời
tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần chúng ta đã tìm
hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước thì chuẩn bị, còn
Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều hướng tới cao điểm,
đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của Ngài từ lúc sinh ra cho
đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước tiên báo và đã xảy ra rất phù hợp
với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng phải
đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi nhìn thấy Chúa long trọng tiến vào thành,
chúng ta không khỏi nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: Hỡi thiếu nữ Sion
hãyvui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên
lưng lừa con.
Mục đích thứ hai là để chúng ta thấy Ngài
là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một việc nguy hiểm vì đi
vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái đang căm thù Ngài,
muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi. Dân chúng thì tung hô tán
tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện phái phẫn uất, họ đã thưa cùng
Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi. Nhưng Chúa chỉ trả lời: Nếu họ im đi
thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công khai chấp nhận lời dân chúng chúc tụng, và
bằng lòng với những lời chúc tụng ấy.
Sau cùng, mục đích thứ ba là để chúng
ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành thánh, dân chúng
trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là Con Vua Đavít. Họ dành
cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Nhiều lần họ muốn tôn
Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm việc đó. Nhưng trong thâm tâm, họ chỉ
nghĩ đến một vị vua trong phạm vi xã hội và chính trị, đến để giải phóng dân
tộc Do Thái khỏi ách nô lệ của đế quốc Lamã.
Thế nhưng Chúa Giêsu cho thấy điều quan
trọng hơn hết, đó là Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn chiếm hữu tâm
hồn của họ. Hiệu quả mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi trên lưng
lừa, đó là dấu chỉ của vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã chứng
minh điều ấy. Thay vì bạo động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp nhất đó là
tình yêu nhân từ của Ngài. Sức mạnh vũ khí của người Do Thái đã không quật ngã
được Lamã, trái lại đã khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ Giêrusalem bị tàn phá
vào năm 70. Nhưng Chúa Giêsu đã đến với họ và chỉ sau mấy mươi năm đã cảm hoá,
để rồi Tin Mừng được rao giảng trên toàn lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị tan rã
không phải vì sức mạnh của binh đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị suy
đồi, và không chòn nữa. Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và cả ta
nữa, đã dựng nên nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay
không còn nữa. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình
thương, và ngày nay, vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn sẵn sàng
chịu chết vì Ngài.
Đức Kitô là Đấng cứu thế, là Vua hoà
bình. Ngày hôm nay, Ngài muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh hiệu ấy. Hãy mở
rộng cửa tâm hồn để đón mừng Ngài ngự đến.
3. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới
trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu
khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá,
qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do
thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì
giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta
phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào
thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có
biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo
Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết
bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng
biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu
vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ
tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung
tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn
trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông
có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối
rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi
những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông
bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất
thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người
có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên
Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối
khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani,
Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì
trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm
nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ
đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã
theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng
nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những
người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ
sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe
Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người
ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn
tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác
động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô
và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi
trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay
(2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim
chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:
"Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương
lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và
thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu
chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự
lựa chọn có tính quyết định này" (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây,
khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường
thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma,
Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học
hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các
bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng
cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các
bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc
đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm
nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu.
Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung
thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong
tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã
nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với
những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong
cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan
trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động
bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có
kết quả?
4. Nhiệt thành của thập giá.
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn
Khảm)
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá
và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành
việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng
đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ,
thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc
thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện
tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương
khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm
chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội
Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình
bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy
Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: "Các môn đệ của Người nhớ lại
lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải
thiệt thân" (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ "nhiệt
thành" ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành
Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là "Nhiệt
Thành-zelos" thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với
lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: "Ai xưng mình là
vua thì chống lại Cêsarê" (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa
Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi
"Nhiệt Thành" được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà
Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế
thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: "Chúng tôi sẽ không tuân
theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên
trái" (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn
thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: "Ông Mattathias bừng
lửa nhiệt thành... ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn
viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ
bàn thờ". Sau đó sách Macabê kết luận: "Ông bừng lửa nhiệt thành đối
với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu" (2,23-26).
Kể từ lúc đó, từ ngữ "nhiệt thành-zelos" trở thành khẩu hiệu diễn tả
quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do
Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma,
giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các
sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương
dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử
Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện
minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của
Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng
thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: "Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân
danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt
thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn
toàn khác".
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu
cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria:
"Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui
sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính
trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn
theo mẹ" (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu,
con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người
nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn
toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và
khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do
tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương
khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của
"sự nhiệt thành", không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây
dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành
của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách
nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn
cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là
phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những
lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm
thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và
sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa.
"Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ
tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân
tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp
bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân"
(Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
"Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu
chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu
tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô
hữu". Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ
để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi
đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng
ta.
5. Lễ lá.
Tại một ngôi nhà thờ nọ ở Tây Ban Nha
có một cây thập giá được rất nhiều người tôn sùng. Đó là tượng chịu nạn tha
tội: Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải của Ngài thì thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: Có một người tội
lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng
cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha cho ông hay không, vì thấy ông phạm quá
nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông,
nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối
ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải. Lần này thì cha
xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần
này là lần cuối cùng đấy. Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng trôi qua và ông lại đến quỳ
dưới chân cha xứ và năn nỉ:
- Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội
cho con một lần nữa.
Cha xứ đáp:
- Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban
bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có
tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ
xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với
vị linh mục:
- Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông
ấy chứ không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của
Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.
Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con.
Lời ấy chính Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta trong tuần thánh này.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với người tôi tớ đau khổ của Đức
Giavê. Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ của tủi nhục và thất bại, là
hình phạt được dành cho bọn nô lệ và phản loạn. Thế nhưng, Thiên Chúa đã biến
đổi nó thành dấu chỉ của tình thương, của ơn cứu độ và của sự tha thứ. Khi
tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa Cha bằng cách chấp nhận thập giá, như
lời thánh Phaolô đã viết:
- Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và
chết trên thập giá.
Ngài đã dạy cho chúng ta biết ý nghĩa
và giá trị cứu độ của đau khổ. Con đường Đức Kitô đã đi qua là con đường của
đau khổ, của thập giá, của khiêm nhu, của thất bại, con đường ấy không đưa
chúng ta vào ngõ cụt, nhưng dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng
không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, tức là chấp nhận
những khổ đau trong cuộc sống như lời Ngài đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác
thập giá mình mà theo Ta.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui
lòng chịu vì lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô
để đền bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của
mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh
quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh.
6. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong trình thuật Đức Giêsu vào
Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết
mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Luca còn xác định chi
tiết hơn: Người cỡi lên 'con lừa con chưa ai cỡi bao giờ'. Hình ảnh Đức Giêsu
khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không
phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên
lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một
một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa
của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: "Nào thiếu nữ
Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi;
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một
con lừa con vẫn còn theo mẹ" (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra
những giải thích quen thuộc, như "Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền
hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ
hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân" (Christian
Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có
nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày
trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với
người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho
tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị
vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10,3; 1,14; 1Sm 25,23). Lừa đồng thời cũng từng là
phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời
hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của
thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. "Kìa đức Vua đến
với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!". Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám
quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với
quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được
các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của
chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga
18,36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn,
khi nhắc tới chi tiết 'Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là
con của một con vật chở đồ' chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát
tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22
thuật: "Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông
là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu... rồi lên đường tới nơi
Thiên Chúa bảo... Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng
xa, ông bảo đầy tớ: "Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên
tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh"... Ông
Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông.
Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi..." I-xa-ác trước khi bị
cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22
thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình
chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa 'thấy thần sứ của Đức
Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay...' và nó đã tìm cách tránh đường.
Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: "Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh
mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết
ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống..." Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng
phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn
tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh
gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình
yêu và cứu độ, thì hình ảnh 'cỡi lừa' này chính là một phần của mạc khải đó
(cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3,14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa
hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng
Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, 'Đấng ngự
đến nhân danh Chúa' phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng
lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu
không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ
bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa
nói: "sỏi đá cũng sẽ kêu lên!" Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng
còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu
độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen.
7. Giờ chiến thắng vinh quang – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Người
được tôn vinh: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh" (Ga 13, 31).
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ,
xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và
cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Canvê!
Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì
sao Chúa Giêsu gọi đây là giờ Người được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết
của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết
đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng sự
hận thù bằng lòng bao dung.
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng
trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với
đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo
cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo... Chúa
Giêsu vẫn không may may oán hận! Người chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao
dung vô bờ bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim
khoan nhân... Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ,
Người tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử
cho Người: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc
23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng tính
khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường.
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa
Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau
thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người không bị khuất
phục bởi cái chết. Người đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Người đã
chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng đau
đớn thể xác và đau khổ tinh thần.
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách
lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương
khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến
thắng tính khiếp nhược của phận người.
* * *
Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với
cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không
một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi
giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến
của Người...
Người thắng được bản năng tham sinh úy
tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù
có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn
ác... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân
mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha
đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng
chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân
mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần
như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa vô cùng dũng
cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của
nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con
chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu
chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.
8. Bệnh "hùa theo đám đông"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Khi làm sai một điều gì đó, người ta
thường biện minh rằng: "Người ta làm sao, tôi làm vậy. Người ta làm bậy,
tôi làm theo".
Câu nói này không hẳn là lời nói cho
vui mà dường như là căn bệnh của xã hội qua mọi thời đại. Một cách đơn giản,
mỗi khi dừng trước đèn đỏ mà có một người vượt lên trước, thì y như rằng sẽ có
rất nhiều người vượt lên theo. Lúc này người ta không để ý đến đèn chỉ dẫn mà
chạy theo đám đông. Đám đông làm bậy, tôi làm theo.
Người ta kể rằng: có một cậu bé đang đi
trên lề đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Có vị giáo sư đi tới, thấy thế
cũng ngạc nhiên dừng lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi một bà đứng tuổi đi ngang
qua cũng làm y như vậy; một người, rồi một người nữa... Lúc cậu bé cúi xuống,
quay qua quay lại, ngạc nhiên khi thấy cả chục người đứng chung quanh mình đều
ngửa mặt nhìn trời. Cậu thành thực hỏi: "Ủa! Các ông các bà cũng bị chảy
máu cam như cháu sao?".
Đây là căn bệnh "hùa theo đám
đông". Đám đông làm mình cũng làm. Sự làm theo đám đông đôi khi bất chấp
lề luật, bất chấp tội lỗi. Dường như người ta nghĩ rằng nhờ đám đông mà dảm bớt
tội, hay giảm bớt trách nhiệm. Những bệnh "hùa theo đám đông này", ta
có thể thấy nhan nhản qua các tội: nam nữ sống "góp gạo thổi cơm
chung" nơi khá đông tầng lớp công nhân và sinh viên xa nhà; chuyện phá
thai nơi những bà mẹ mang con ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận để có đồng
lời trong thời buổi cạnh tranh mà nhiều người nói rằng "không gian làm sao
có lời"; chuyện hối lộ và tham nhũng để được việc và giữ được ghế lâu dài
...; Lợi dụng đám đông để người ta phạm tội mà không e ngại, không xấu hổ và
nhất là không còn ý thức đâu là tội. Đám đông làm bậy đã khiến cho tội trở
thành điều bình thường như: nói tục, chửi bậy, nói dối, nói sai sự thật của
người Việt nam hôm nay. Đám đông làm bậy đã làm cho nhiều trẻ nhỏ và những
người kém hiểu biết mất ý thức về sự việc là tội hay không tội. Họ đã làm theo
đám đông mà không còn ý thức về căn tính sự việc.
Lần giở lại lịch sử cách đây hơn hai
ngàn năm, Chúa Giêsu được hoan nghênh và kết án, được tôn vinh, và tẩy chảy
cũng chỉ một đám đông. Đó chính là đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem. Họ đã từng
tung hô Chúa Giêsu. Họ đã từng lấy áo lót đường cho Chúa Giêsu đi qua. Họ cầm
ngành lá vạn tuế để cùng nhau tung hô Chúa là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến.
Thế nhưng, cũng đám đông đó, chỉ nghe nhóm biệt phái và thượng tế định tội Chúa
Giêsu, họ đã mau chóng quay lưng lại với người mà họ đã từng tung hô. Những bàn
tay cầm cành lá vạn tuế lại được giơ lên trong tư thế nắm đấm đòi triệt hạ Chúa
Giêsu. Những lời tung hô đầy niềm vui được thay bằng những lời hằn học đầy căm
phẫn. Có lẽ có rất nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu.
Có lẽ trong đám đông đó còn có rất nhiều người đã từng nhận ân nghĩa của Chúa
Giêsu. Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào chuyện gian ác để đòi đóng
đinh người vô tội trên thập tự giá.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người
công chính bị hạ bệ, bị lấy mất thanh danh bởi đám đông đang rỉ tai nhau bỏ vạ,
cáo gian, nói hành, nói xấu ...
Dòng đòi hôm nay vẫn còn đó những người
bị tước mất tất cả danh dự, lẫn vật chất vì đám đông hãm hại mà không biết
thanh minh từ đâu.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những bất
công khi đám đông cuồng tín bất chấp lề luật toa rập với nhau hãm hại người
công chính.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người
công chính dám bảo vệ chân lý lại bị đám đông tẩy chay theo chủ nghĩa đồng cảm
chứ không đồng thuận.
Dòng đời hôm nay tội lỗi vẫn lan tràn,
khi mà đám đông đã không đủ tỉnh thức để hồi tâm, để dừng lại. Nhưng lại hùa
theo nhau để làm bậy đến mức độ mất ý thức về tội.
Đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem đã toa
rập với nhau giết hại người công chính. Có lẽ, họ đã hối hận sau cái chết của
Chúa Giêsu. Có lẽ, họ đã hoảng sợ khi nghe tin Ngài đã từ cõi chết sống lại.
Nhưng đã muộn. Giu-đa đã tự vẫn. Phê-rô xấu hổ. Viên đội trưởng chỉ thở não nề
mà nói "Người này thật là Con Thiên Chúa". Đám đông xôn xao lo lắng.
Tất cả đã muộn khi sự ác chiến thắng. Người công chính đã bị kết án tử hình.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống
yêu thương. Tình yêu thương đòi buộc chúng ta đừng làm điều gì có lỗi với lương
tâm. Tình yêu đòi buộc chúng ta vượt trên đám đông, trên dư luận để đừng hùa
theo đám đông mà phải can đảm bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải. Tình yêu đòi buộc
chúng ta phải sống trung thực với chính mình, biết tôn trọng sự thật và can đảm
bảo vệ sự thật. Đừng vì sợ hãi mà im lặng để bất công lan tràn, sự dữ ngự trị.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn tỉnh
thức trước sự dữ, luôn có lập trường vững chắc trong cuộc sống. Xin đừng vì
nhát đảm mà làm ngơ trước bất công nhưng luôn can trường bảo vệ chân lý và sự
thật. Amen.
9. Vác đỡ Thánh Giá Chúa – PM. Cao Huy Hoàng
Vào Tuần Thánh với Lễ Lá, bài Thương
khó đã kể lại cho chúng ta nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân phận con người
với tên Giêsu. Ngài đã cô đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu như bị bỏ rơi,
chấp nhận hóa thân mình nên thần lương cho nhân loại, bị chính môn đệ phản bội
nộp thầy cho quân dữ, bị đứng trước vành móng ngựa, nghe bản cáo trạng hàm oan,
rồi lại nghe tuyên án tử hình, chịu vác thập giá, đánh đòn, đội mão gai, té ngã
trên đường lên Núi Sọ, và cuối cùng, chịu đóng đinh và chết thật.
Đó là cái giá phải trả để chuộc lại tội
bội phản của tổ tông loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập giá của Chúa
Giêsu mới là lễ dâng đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của Chúa Giêsu mà
Thiên Chúa Cha xóa đi bản án tử hình đời đời cho con người.
Tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa
Giêsu với lòng biết ơn Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được tham dự
vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên
Chúa Cha.
Có người đặt vấn đề khá thời sự rằng:
Chúa Giêsu đã chịu thương khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm rồi. Chúng ta
đang nghe việc thuật lại như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao chúng ta có
thể lại bước đi trên Đường Thương Khó với Chúa Giêsu nữa?!? Thật mơ hồ.
Tôi đồng ý với bạn rằng: chúng ta không
tận mắt thấy Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng thiết tưởng,
chúng ta có thể thấy rất cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn mặt của những
Chủ Chiên ngày qua ngày phải đối phó với bầy quân dữ của Satan đang rình mò cắn
xé Giáo Hội là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ là các Chủ Chiên đang vô
tư, vô tình, vô cảm trước những bức bách mang tính chủ trương và toàn diện đang
xảy ra trong và cho Giáo Hội địa phương của mình. Nhưng nên nghĩ là các Ngài
đang đổ mồ hôi máu mà thưa với Chúa Cha rằng: "Lạy Cha nếu có thể được,
thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha
mà thôi".
Những chủ chiên ấy, không chỉ là những
Giám Mục, Linh Mục, mà cụ thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả những người làm ông
bà, cha mẹ, anh chị đang mang trong mình trọng trách bảo vệ Đức Tin cho những
thành viên non trẻ của mình trước những trận cuồng phong duy vật, vô thần, vô
cảm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô luân lý.
Một người bạn tôi, đã từng là Đại Chủng
Sinh Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và hôn nhân nhiều
năm liền tại Giáo Xứ của mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay, đành cắn răng chờ
xem người con rể tương lai vốn con nhà Cộng Sản kia định liệu thế nào cho số
phận con gái mình khi đã trót "ăn cơm trước kẻng": có thể là nó chịu
theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là nó bảo Đạo ai nấy giữ, rồi cũng có thể là
nó xúi dại con gái mình phá cái thai ấy đi. Thật là đau khổ! Thế rồi, đúng là
nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ phải bắt con gái thầy phá thai. Hai vợ
chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu thầm thĩ kêu van xin Chúa sáng
soi cho con gái mình biết đường mà tuân giữ lề luật của Chúa.
Tôi vẫn nghĩ là sự chọn lựa để bảo vệ
Đức Tin, để trung thành với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý Chúa cũng làm
cho người yêu mến Chúa đến phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.
Một cha giải tội cho một hối nhân
thường xuyên, lần nào xưng tội cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi còn nặng
nề hơn. Cha vừa nghe tội vừa khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương xót Chúa
đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn người ngay trong Tòa Giải Tội.
Những người đau đầu nhất, đang đổ mồ
hôi máu nhất hiện nay có phải là những Giám Mục, Linh Mục, những chủ chiên đang
"lựa chiều bẻ lái" cho con chiên của mình một cách ứng xử Công Giáo
nhất trước tình trạng thế quyền quá lộng quyền đối với Sự Sống con người hiện
nay. Nếu con người thời bây giờ biết rằng: vài chục năm trước đã có chủ trương
phá thai cách toàn diện, cấp quốc gia như thế, thì hẳn đã không thể còn có
chính họ hiện diện trên đời ngày hôm nay để chủ trương phá thai nữa. Là những
người bảo vệ Đức Tin Công Giáo, làm chứng cho Chân Lý của Thiên Chúa, nối tiếp
công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi của Thiên Chúa, không đổ mồ hôi máu được sao?
Cũng vậy, chúng ta không thấy cảnh Chúa
Giêsu bị bắt bớ, không tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu, không thấy những
vết bầm tím trên thân mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn, không thấy Chúa
Giêsu vác thập giá, ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao chịu chết, hoặc
nếu có thấy, thì thiết tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản vẽ do các họa sĩ.
Thế nhưng chúng ta có thể thấy được tận
mắt các tín hữu của Chúa đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp nơi nơi đấy chứ?
Nhất là, trong thời đại truyền thông nầy, thì tin tức về những chuyện bắt oan các
tín hữu, bỏ tù gian, ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây thương tích cho
các Linh Mục trên đường Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như chớp, làm sao mà
lấy "thúng úp voi được"? Ấy vậy, những chuyện "quả tang",
"công khai" tra tấn những người theo Chúa Kitô trong Giáo Hội Chúa
Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước chúng ta, mà chúng ta
nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa Kitô sao?
Tại nơi chúng ta đang sống, Chúa Giêsu
vẫn đang bị bán đứng với giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ vài đồng, hoặc chỉ
cần là sự đổi chác một chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì gia. Chúa Giêsu vẫn
đang chịu bao lời phỉ báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu vẫn đang bị bắt bớ
giam cầm, đánh đập tra tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng cuộc Thương Khó
Chúa Giêsu đang hiển hiện nơi các tín hữu Chúa.
Như vậy, tín hữu Công Giáo Việt Nam vào
cuộc Thương Khó với Chúa Giêsu không chỉ là những giờ ngắm rằng, ngắm đứng,
ngắm quì sốt sắng đến rơi lệ, không chỉ là những vành khăn tang trắng xóa quấn
trên đầu suốt Tuần Thánh, không chỉ là những cử hành Phụng Vụ long trọng trong
Thánh Đường, không chỉ là những việc chay tịnh sám hối chỉ với Chúa, mà thiết
tưởng còn phải cụ thể hơn là: khẩn cấp nhận ra và tham dự vào nỗi lo, niềm đau
của các chủ chiên, của các tín hữu khắp nơi trên đất nước.
Là con cái trong nhà, xin dâng những hy
sinh và vác đỡ Thánh Giá cho cha mẹ mình trong việc lo cái ăn, cái mặc, cái học
và nhất là trong việc bảo vệ đời sống Đức Tin trước những nguy cơ. Là con chiên
trong một đoàn chiên Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho
những Chủ Chiên, những tín hữu đang gặp bức bách, giam cầm, tra tấn. Là tín hữu
Công Giáo trong xã hội, xin dâng những hy sinh và chia sẻ niềm đau thương của
mọi người, niềm đau do gian ác, bất công, đàn áp, niềm đau của bệnh hoạn tật
nguyền, niềm đau của những mảnh đời nghiệt ngã không ai giống ai...
Đang viết bài này, tôi nhận được cú
điện thoại của chị H, có người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh hoạt tại chỗ,
con trai lớn cột sống dính khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ cho chị H. lo
lắng, con trai thứ có vợ tận Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm ở Sàigòn, nhà
mái tôn rách nát. Mùa mưa tới rồi, chẳng biết tính sao? Tôi có thể trả lời rằng
trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đâu thấy có cảnh bại liệt hay dính khớp
cột sống để từ chối một cảm thông được không?
Tôi bỗng nghe tiếng lòng nhắc bảo: xin
đừng vừa sốt sắng tham dự Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu lại vừa dửng
dưng vô tâm trước cảnh thương khó của biết bao người.
Lạy Chúa, Thánh Phanxicô đã thưa:
"Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người". Xin cho
chúng con cũng nhận ra Chúa Giêsu đang đau buồn, thương tích, bị nhục mạ, bắt
bớ, giam cầm, đánh đập nơi những anh chị em chúng con, và cho chúng con nhiệt
tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy. Amen.
10. Thập giá, tình yêu cứu độ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được
mở đầu với bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại
việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô Chúa
Giêsu "Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến". Nhưng liền sau
đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập giá và cuộc tử
nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật Mầu nhiệm Thập
giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín: Thập giá, tình yêu cứu độ.
Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử
nạn của Chúa Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt
qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về Giêrusalem
để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với người Do Thái vào
dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị kết án tử hình
đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai tội danh là phạm thượng
"tự xưng mình là Thiên Chúa" và tội phản động chống lại hoàng đế Rôma
"Người này nói dân nổi loạn". Nhưng trước mắt toàn dân, quan án
Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta truyền đánh đòn và tha
ông.
Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất
định giết Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu "đóng đinh
nó vào thập giá". Sau cùng Philatô đã viết bản án "đóng đinh ông
Giêsu" và tha cho tên trộm cướp giết người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp
nhận án tử hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con
đường Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại
khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã nói:
"Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây
thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công
chính" (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm tin:
"Ôi Thập giá, phước lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan"
(Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần
thánh)
Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu
thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức
Giêsu Kitô: "Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho
người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội
nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta" (Rm 5, 8).
Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái
chết yêu thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: "Lạy Cha,
xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết". Chỉ khi Chúa chết mới giải
quyết được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô "Ngài là
ai"? Người Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài là Đấng
Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính trị để
giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được "Đấng Cứu
Thế phải chết thay cho muôn người", "Đấng Messia cứu độ". Qua
cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn tính của Đức
Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập
giá, là lúc Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài
đã nói trước: "Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ
kéo mọi người lên với Tôi". Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn
thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của Thiên
Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết trên thập giá,
viên sĩ quan Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức
Giêsu: "Ông này quả thật là con Thiên Chúa". Người trộm bên hữu cùng
chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: "Ông Giêsu ơi! Khi
Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi... Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được
ở với Tôi trên thiên đàng" (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm
ngực và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu "Ông này quả thật là Con Thiên
Chúa".
Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của
Chúa Giêsu đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là
Đấng cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc
khổ nạn của Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến
của Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành
trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu
phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến
thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập
giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: "Không có thập giá, không có triều
thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no
gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình
yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân.
Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
11. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chủ đề: Chúa Giêsu, Người tôi tớ đau
khổ của Thiên Chúa, chịu chết vì sự sống trần gian.
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh
hùng, cao quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe, Linh mục dòng
Thánh Phanxicô khó khăn, được cả thế giới biết đến vì một nghĩa cử anh hùng. Bị
bắt giam trong nhà tù Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một đạo luật hết sức
tàn nhẫn và bất công: nếu một người trốn trại thì người khác phải chết thay.
Mục đích là để các tù nhân tự coi nhau. Năm đó, một tù nhân trốn trại, tất cả
được gọi xếp hàng chờ tên cai ngục chỉ gọi tên. Gọi tên ai thì người đó phải
chết. Một tù nhân được gọi tên mình, anh khóc lóc kêu gào vì còn cha mẹ già, vợ
và bốn con. Đột nhiên một tù nhân bước ra khỏi hàng đến trước mặt tên quản
trại: "Tôi muốn chết thay cho người này". Hắn hết sức kinh ngạc trước
hành động anh hùng của người tù. Hắn gằn giọng: "Mày là ai?" "Là
linh mục công giáo". "Không cần biết danh tính địa vị, ngu thì chết,
vào hàng". Thế là mười người được dẫn đi, bị bỏ đói cho đến chết. Cha
Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, Cha được Đức
Giáo Hoàng J-P. II tôn phong lên hàng các thánh tử đạo. Một người đã chết vì sự
sống của anh chị em mình. Cha thật là hình ảnh của Đức Kitô, Mục tử nhân lành,
sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: "Ta đến để cho chiên được sống
và được sống dồi dào" (Jn 10, 10).
Câu chuyện cha Maximilian Kolbe mở lối
cho chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đau khổ
của Thiên Chúa, chịu nạn, chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia,
phác họa chân dung Người Tôi Tớ Chúa:
• Là Người được Chúa huấn luyện để phục
vụ lợi ích cộng đoàn, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bất hạnh: Chúa đã
ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ
nhọc nhằn. Chúa huấn luyện để ngài luôn sống trong tỉnh thức, luôn sẵn sàng tìm
kiếm và đáp trả thánh ý Chúa.
• Là Người ngoan ngoãn dễ dạy, khiêm
tốn, hiền lành như con chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng than van, hiền
lành nhẫn nại dạy đường lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn: cây lau bị
dập, Người không bẻ gãy, tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
• Là Người can đảm cứ đường lối Chúa mà
đi, nghĩa là cương quyết sống trong và bảo vệ chân lý, chứ không phải là hạng
người cuồng tín và liều lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này chỉ có thể đậu
lại nơi Chúa Giêsu, nơi Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân đức mà Ngôn sứ
Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin Mừng, ghi lại bản
án tuyên đọc trên Chúa Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm kê khai những tội
trạng người ta vu khống và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến những ân huệ dẫy tràn
trên chúng ta trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là bí tích Thánh
Thể. Trong khi cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống Do Thái, Chúa Giêsu muốn
sống lại biến cố được giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng thời Ngài muốn
thực hiện cho dân mới một lễ Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là chính bản thân
Ngài được hiến tế vì chúng ta. Này là Mình Ta, này là Máu Ta, máu giao ước mới
và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội, các con hãy
làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân huệ ấy được thực hiện trong thời gian cho đến
tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành là mỗi lần ơn cứu độ
chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban tặng trong sự
chết của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực
hiện kế hoạch của Chúa Cha: "Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu qua, máu
và nước chảy ra, từ đó phát sinh các bí tích của Hội Thánh, để lôi kéo mọi
người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân hoan kín múc
tận nguồn ơn cứu độ" (kinh tiền tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi thập giá là
phương tiện hành hình tội nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an, của tình
yêu, ơn tha thứ và sự sống: "Phần tôi, khi nào được giương cao lên khỏi
đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi" (Ga 12, 32). Do vậy, trong ngày thứ
sáu tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập giá của Đấng chịu đóng đinh: "Vinh
dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta
và sự phục sinh của ta" (phụng vụ thứ sáu tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương đã tự hiến, tự
hủy mình ra không vì chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh Phaolô, trong bài
đọc II, nhìn thấy thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể: "Đức Giêsu
Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng
với Thiên Chúa ...". Trong sự tự hủy "trở nên người", Ngài đã
kéo chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở
chúng ta điều này: Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất khôn ngoan lo liệu hết
mọi phương thế để chúng ta được ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có thâm tín
rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ trọng,
vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong tâm tình cảm mến tri ân Đấng đã yêu thương
và chết vì chúng ta là kẻ có tội. Khi anh em còn là tội nhân thì theo kỳ hẹn,
Đức Kitô đã chết vì chúng ta là những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền lòng Chúa yêu
thương, mỗi người chúng ta cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là sinh hoa quả
xứng với lòng sám hối. Một đời sống phù hợp với Tin Mừng: công bằng, chính
trực, bác ái, yêu thương, nhất là xây dựng tình hiệp thông từ trong gia đình
tới cộng xã hội nơi chung ta cùng chung sống.
Một khi đã được mặc lấy Chúa Giêsu, anh
em đừng theo lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam
mê lầm lạc. Nếu cuộc đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc chắn sẽ có con
người mới, gia đình mới, xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng ta
trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Amen.
12. Ông này là ai vậy?
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức
Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần
kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên
lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây
rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là
Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi
đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên
thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm
buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước
vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là
điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi
Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe
đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm
về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và
biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân
xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là
đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại.
Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau
của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào
là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ,
nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô
hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con
Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng
đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video
cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn
sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính
trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin
Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né
cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành
động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều
kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại
hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho
con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi
sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự
quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh
làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người
một lòng theo Chúa.
13. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng
cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước
trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón
rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên
lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ.
Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây
thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước
đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài
Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và
cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách
chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc
khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ
ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ
hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết
Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng
nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên
phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô
đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao
Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác
Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa
làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao
dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi
đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn tay
đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn
chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân
mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng
trọng. Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào,
được đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như vị
vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa đỏ
mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài
đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em
tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo
Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon
Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên
mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những
người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người
trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì
để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng
con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho
chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin
cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin
cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho
sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà
vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an.
Amen.
14. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert
– Đan Quang Tâm dịch)
"Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh
Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta.
Hoan hô trên các tầng trời!"
Cũng như Thánh Mátthêu và Thánh Luca,
Thánh Máccô sử dụng lời ngôn sứ của Dacaria mô tả việc Đức Giêsu vào
Giêrusalem. Điều lý thú về lời ngôn sứ này là sự tương phản: "Nào thiếu nữ
Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng
Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ"
(9,9).
Ta có thể hỏi liệu có thể nào vừa khải
hoàn và chiến thắng mà đồng thời vừa khiêm tốn. Bằng cách chọn đi vào
Giêrusalem theo phương cách Người đã làm, Đức Giêsu cho người ta thấy Người
thực sự thuộc loại vua nào. Người khải hoàn nhưng không đắc thắng. Người đã
giảng dạy như một mục tử, chứ không phải như một vị tướng quân. Những ai nghe
Người nói hoặc chứng kiến phép lạ Người làm thì bây giờ được gọi để làm chứng
về các kinh nghiệm của họ. Họ làm chứng bằng cách tuyên xưng Đức Giêsu là
"Con của Đavít", ca tụng Thiên Chúa Cha đã gửi đến đấng cứu thế mà
người ta mong đợi từ lâu.
Theo Thánh Máccô, Đức Giêsu chắc chắn
biết ý nghĩa của điều Người chuẩn bị làm. Người sai các môn đệ đi tìm con lừa
con, giải thích một cách chi tiết điều sẽ xảy ra. Khi ta đồng hành với Đức
Giêsu và các Tông đồ trong mấy ngày sắp tới, ta sẽ thấy một số hình ảnh sẽ nhắc
nhở ta về sự kiện Đức Giêsu, Con Đavít, đã đến cứu chúng ta và giải thoát chúng
ta.
Điều lý thú cần ghi nhận là, theo các
Phúc âm Nhất lãm, câu truyện thương khó không trực tiếp theo sau việc đi vào
thành Giêrusalem. Trong Phúc âm Máccô có hai chương tách việc vào thành với
trình thuật Bữa Tiệc Ly.
Chương khải hoàn vào Giêrusalem dịu
giọng một chút và lại tập trung vào Sách Ngôn sứ Isaia. Ta nghe về "Người
Tôi Trung của Chúa" – lời tiên tri thứ hai trong ba lời tiên tri của Isaia
nói về Đấng Mêsia. Trong những đoạn này, ta đi đến chỗ nhận biết bản chất đích
thực của Đấng Mêsia – Người xuất hiện không phải như một vị vua vinh quang mà
như người tôi tớ khiêm tốn.
Trong Thư gửi Tín hữu Philípphê, Thánh
Phaolô kiện toàn sự nhận biết đó. Trong "bài thánh ca Philípphê", ông
bảo ta rằng Đức Giêsu này thực sự là ai và Người đã làm gì cho ta:
"...Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự!" Tất cả điều này cho ta thấy rằng đây là một phần trong
kế hoạch của Thiên Chúa. Những lời hứa trong Cựu Ước được thành sự và chúng ta
trở thành các nhân chứng. Với tư cách là người làm chứng, ta được kêu gọi hãy
đáp ứng lại.
"Nơi Người, luôn luôn có thể nhận
ra dấu chỉ sống của tình yêu khôn lường và siêu việt đó của
Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta, Đấng mang lấy những thương tích tật bệnh của dân
mình, đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhất họ nên một. Trong Người và nhờ
Người, có thể tái khám phá cuộc sống trong xã hội, dù cuộc sống còn đầy mâu
thuẫn đối kháng và nhập nhằng tranh tối trang sánh, như một nơi chan chứa sự
sống và hy vọng: đó là dấu hiệu của ân sủng không ngừng được đề nghị ban tặng
cho mọi người, và đó cũng là lời mời gọi hãy vươn đến những hình thức chia sẻ
ngày càng cao hơn và tích cực hơn.
Đức Giêsu Nadarét đã làm cho mối dây
liên kết giữa liên đới vào bác ái sáng chói trước mặt mọi người, chiếu sáng
toàn bộ ý nghĩa của mối dây liên kết này: "Dưới ánh sáng đức tin, liên đới
tìm cách vượt qua chính nó, mang lấy các chiều kích Kitô giáo cụ thể là trao
ban một cách hoàn toàn vô điều kiện, tha thứ và hoà giải. Lúc ấy, người gần bên
chúng ta không những chỉ là một con người có những quyền lợi và về cơ bản, bình
đẳng với hết mọi người, mà còn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, đã
được máu Đức Giêsu Kitô cứu chuộc và được đặt dưới tác động trường kỳ của Thánh
Thần. Thế nên, phải yêu thương tha nhân, cho dù đó là kẻ thù, bằng cùng một
tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương họ; và chính vì ích lợi của người ấy mà ta
hãy sẵn sàng hy sinh, thậm chí hy sinh đến mức cuối cùng: hy sinh tính mạng vì
anh em (x. 1 Ga 3,16)" (Sách Tóm lược HTXHGH, 196).
Khi nghe trình thuật Thương Khó theo
Thánh Mátthêu, bắt đầu với việc thoả thuận phản bội Đức Giêsu và chấm dứt với
việc Philatô lệnh cho chính quyền canh gác ngôi mộ, ta nhìn các lời tiên tri
trong Cựu Ước dưới một ánh sáng mới. Ta cũng thấy diễn tiến của các biến cố
xoay quanh cuộc thương khó, bắt đầu với trình thuật Bữa Tiệc Ly và việc thiết
lập Bí tích Thánh Thể theo đúng sứ mạng mục vụ của Đức Giêsu. Người đã đến với
chúng ta và đã đề nghị tặng ban một món quà vĩ đại. Nếu ta chấp nhận món quà
đó, ta được mời gọi đáp trả lại Người trong cuộc thương khó, cái chết và sự
phục sinh của Người.
15. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc
vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt
tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng.
Đây cũng là ca từ của bài hát "Khi người lớn cô đơn". Lời hát được
viết như sau:
Thành phố bé thế thôi
Mà tìm hoài chẳng được
Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn
đông người
Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa
phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc,
quan tâm . . .
Thành phố bé đến thế thôi
Mà tìm hoài không thấy
Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi
bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình
người với nhau.
Rồi có những đêm mưa
Nằm nghe câu ca rất xưa
Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn
lắm)
Người lớn cô đơn, tự mình trong bao
nghĩ suy
Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh
hiu!!!
Người ta nói cô đơn là cho đi mà không
có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau
mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được
với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn cách của cõi
lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt
thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì
nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu
thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn
sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta
yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt
vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời
đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện
để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau.
Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương "Makeno" cho yên thân. Con
người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung lụa của
mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự
phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có lắm kẻ
cô đơn.
Chúa Giêsu cũng từng nếm trải sự cô đơn
giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi
an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng:
"Các con không thức với Ta một giờ sao!". Ngài cần các môn đệ chia sẻ
với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về
trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối
đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho những người
xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến
tận cùng sự cô đơn của con người.
Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực
ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín
thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: "Lạy Cha, con xin
phó thác nơi Cha". Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi
cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu
cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta
trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ
không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3
giây chỉ để nói "xin chào" thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn
3 chữ "chúc bình an" là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn
thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giêsu để tín thác mọi sự cho
Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ
con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ
điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ
tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian
nguy của cuộc đời. Amen.
16. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm)
Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô
hữu, là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận
biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi
Kitô hữu.
I. Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê
trong sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe
và vâng phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ
Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê được
thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh này được
thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài
không muốn chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: "Ngài bắt đầu cảm
thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết
được. Anh em ở lại đây mà canh thức" (Mc.14, 33-34). Ngài cầu xin với
Thiên Chúa Cha: "Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa
con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn"
(Mc.14, 36).
Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con
người cho đến cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến
độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái
chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó
thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm tin và phó thác
hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình,
con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy, không có nghĩa
những người không là Kitô hữu không thể có cái chết an bình, trong trường hợp
này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ
lương tâm họ.
II. Đức Giêsu vâng phục cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là
Thiên Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết
thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải: "Ta và Cha Ta là
một" (Ga.10, 30), "không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn
mặc khải cho" (Mt.11, 27), "ông này phạm thượng. Ai có quyền tha tội
ngoại trừ một Thiên Chúa" (Mc.2, 7), "trước khi có Abraham, đã có
Ta" (Ga.8, 58), "rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng quyền
năng và đến trên mây trời" (Mc.14, 62).
Không những không ai dám tin, kể cả các
tông đồ, vì làm sao các ngài có ý niệm "Thiên Chúa nhập thể" hay
"Thiên Chúa làm người." Tất cả những điều này hoàn toàn xa lạ với con
người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới dần dần hiểu
trọn vẹn về Ngài: "Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất
cả sự thật" (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không
thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là
Đấng thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga.10, 30). Ngài
có quyền tha tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Và
sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: "Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời vẫn
ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa... Lời đã thành xác phàm" (Ga.1,
1.14). Thánh Phaolô viết: "Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng
không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa" (Pl.2, 6). Ngài thuộc về Thiên
Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn
luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35), qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm
của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến độ Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện
nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa:
Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na,
không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một
với Thiên Chúa.
III. Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh
Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào
thành Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua
được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt nhành
cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón tiếp Ngài vì coi
Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin
Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm thượng: "dám
cho mình là Con Thiên Chúa" (Ga.19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên
Chúa.
Người Do Thái không thể hiểu tại sao
một người lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử
Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: "Máu hắn
cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi" (Mt.27, 25). Sự thật
về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của Đức Giêsu
không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một tên phạm thượng,
vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy, họ không ngờ
rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm
điều phải làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa
tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó
thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở thành gương
và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người công chính phải đau
khổ và phải chết?
2. Tại sao Đức Giêsu, người công chính,
bị hành hạ và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy?
3. Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng
Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống
lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá
"Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba
Ngài sẽ sống lại?
17. Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(Fx. Phạm Đình Phước – viết dựa theo
Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla
risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng
vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có
thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy,
biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển
460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu
của hành trình lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính
bản thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1).
Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và
dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm
Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mátthêu
và Máccô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa
Giêsu từ thành Giêricô.
Bên vệ đường của cuộc hành trình có một
người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên
anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được
thấy", và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia
nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).
Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến
núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ
và bảo hai ông:"Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con
lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về
cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng,
Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một chi tiết thú vị
là "con lừa chưa ai từng cỡi" (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo
lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri
Da-ca-ri-a: "Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với
ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa" (Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu
tiến vào thành "trên lưng lừa" cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương
quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên
Chúa.
Việc "mặc áo choàng" mang ý
nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ
đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu "lên ngôi". Đông đảo khách
hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống
mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ
theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: "Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh
Chúa mà đến" (Mc 11, 9; Tv 118, 25).
"Osanna" có nghĩa là
"xin cứu giúp chúng con". Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế
đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa
thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem,
tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như
thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời
reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui,
niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel .
"Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà
đến" là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa
Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118
"Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của
các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời
chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân
danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng
được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại
việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn
ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn
xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là
những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng
đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh
tẩy đền thờ, thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết,
Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và "có
những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ
lành". Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài
là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên
Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn
nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những
người hành hương trong đền thờ: "Hoan hô Con Vua Đavít" (Mt 21, 15).
Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ
nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên
bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên
Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải
nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn
tươi trẻ.
Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng
vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá
khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa
Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón
Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu
ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện
diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến
thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào
tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ
trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa
Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không
biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên để sống và sống
để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng
tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu
nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương
cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng
"là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống", để cho họ "được sống dồi
dào" và sống viên mãn trong tình yêu.
18. Những im lặng sau tiếng hoan hô
(Lm Trịnh Ngọc Danh)
Lần thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo về sự
chết và sự sống lại của Ngài: "Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con
Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử
hình Người, và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người,
đánh đòn và giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại". (Mc. 10,33)
Thế là Thầy trò lên đường đi lên
Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước các môn đệ và các ông hết sức bỡ ngỡ,
những người theo sau thì sợ hãi. (Mc. 10,32)
Khi đến gần thành Giêrusalem, vào địa
hạt Bếtphagê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ: "Các con hãy
đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp một con lừa cột sẵn, trên
lưng nó chưa hề có ai đã cỡi, các con hãy cởi dây mà dắt về đây." Nếu có
ai hỏi thì bảo Chúa cần dùng rồi Ngài sẽ trả lại ngay. Hai môn đệ dẫn lừa con
về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ
khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi trước, người theo sau tung hô: "Hoan
hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Đavít tổ phụ chúng ta
đã đến. Hoan hô trên các tầng trời".
Chúa Giêsu đã long trọng tiến vào thành
Giêrusalem bất chấp những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt Ngài. Đến thành
Giêrusalem, Ngài tiến vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi sự, thấy trời đã
xế chiều, Ngài về Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ Lá chỉ là một
thoáng qua và sau đó là những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội phản, những
trốn chạy, những a dua và những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa xét
xử, Ngài đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín vào
thời đó, nhưng lại là người có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn biết cặn kẽ về
Ngài, nhưng ông cũng không khai thác được gì, vì Ngài vẫn một mực giữ thái độ
im lặng. Tức giận, ông truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho Caipha, con rể của
ông đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72 thành viên của
Thượng Hội Đồng, tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều vị đã
đứng lên tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng mình là Con
Thiên Chúa, đã công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại trong ba
ngày, đã nhiều lần vi phạm qui luật về ngày Sabbat...Trước những lời tố cáo ấy,
Chúa Giêsu vẫn im lặng không một lời phân bua, biện hộ. Và Ngài chỉ trả lời cho
Caipha những gì Ngài cần phải nói khi ông hỏi Ngài có phải là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa không, Ngài đã trả lời: "Đúng như lời ngài nói". Và Caipha
bực tức, xé áo và tuyên bố: "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa! Các
ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" Ai nấy đều lên án Ngài
đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền
kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự ưng thuận của chính quyền Rôma. Nên
sáng hôm sau, họ lại áp giải Chúa Giêsu tới tòa tổng trấn Philatô, một viên
chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn
nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, thay vì tố cáo Chúa
Giêsu về tội thuộc lãnh vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố cáo sang lãnh
vực chính trị: tội tự xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không có gì đáng
kết tội, nhưng thấy họ lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh Chúa vào
thập giá; vì muốn tránh né trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho Hêrôđê, một
người từ lâu đã muốn gặp Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại thất vọng vì Ngài
chẳng thỏa mãn được tính tò mò ham vui của ông. Ông đã hùa với lính để chế diễu
Chúa, rồi trao trả lại cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng Philatô
rửa tay thanh minh mình vô can trong việc đổ máu người vô tội và sau cùng đã
buông xuôi trao Chúa Giêsu cho họ để mặc cho họ hành động theo ý họ. Họ đã bắt
Chúa vác thập giá, đóng đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã chết trên thập
giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc kết thúc, Chúa
Giêsu đã im lặng trước những gì người ta vu khống. Không một lời kháng cáo,
không một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa Giêsu là vâng
phục, là chấp nhận trong tinh thần tự nguyện, không oán trách, không kêu ca:
"Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải
theo ý Con mà xin vâng theo ý Cha." Chính vì tinh thần tuân phục theo ý
Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng chấp nhận những gì sẽ xảy đến.
Sự im lặng như thế phải chăng là một
hình thức im lặng như Euripide đã nói: "Im lặng là thú nhận", là xác
nhận những lời người ta tố cáo như: "phá đền thờ, ba ngày sẽ xây dựng lại,
tự xưng là Con Thiên Chúa, là vua dân Do thái". Tất cả những lời tố cáo ấy
là đúng như Chúa đã từng nói; nhưng khi bị người ta xuyên tạc, bóp méo tố cáo
là "xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Xêsarê..." thì Chúa
Giêsu lại im lặng không một lời thanh minh, cải chính! Với suy nghĩ của con
người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là chân lý, là
đúng sự thật thì tại sao con người lại kết tội. Phải chăng tiếng nói thiện tâm
đã bị tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì ghen ghét mà
người ta đã nộp Ngài (Mt. 27: 18), đã tuyên bố:" Ta vô can về máu người
công chính này, mặc kệ các ngươi" (Mt. 27: 24), " Ta không thấy người
này có tội gì" (Lc. 23: 4), " Ta không thấy nơi người này có lý do để
kết án" (Ga. 18: 38). Thế mà ông lại không dám quyết định, lại sợ đụng
chạm đến uy thế và quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp Con Thiên Chúa ngang
hàng với một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và toàn thể công
nghị cố tìm cho được một chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết Ngài, song họ
không tìm ra. Có nhiều kẻ cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian, nhưng chứng
cớ của họ không ăn khớp. Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một người vô tội
như thế là hợp tình, hợp lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự thật; vậy
lương tâm ngay thẳng của họ ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã buộc phải im hơi
lặng tiếng để cho ác tâm, thù hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng lõa với những
gì sai trái, những gì không đúng sự thật là im lặng với chân lý, với lẽ phải.
Một sự im lặng khó hiểu!
Lòng tin và lòng mến im lặng
Hơn ai hết, các môn đệ là những người
theo Chúa, được Chúa yêu thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối công việc của
Ngài, thế mà vào những giấy phút gay go nhất thì có người đã đang tâm bán đứng
Thầy mình với mấy chục đồng bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã nhiều lần thề
thốt sống chết với Thầy, nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối bỏ Thầy mình:
Tôi không biết, tôi không quen..Dường như tất cả các môn đệ đã rút vào bóng tối
vì sợ liên lụy, sợ nguy hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ đã từng theo
Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm nhiều phép lạ,
đã được cho ăn no nê. Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con vua Đavít, thì
hôm sau lại gào thét: Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và nhục nhã hơn, họ
xem người họ đã từng tin tưởng không bằng tên trộm khét tiếng là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời hợt, a dua, phản
bội...phải chăng đó là bất trung, bất tín! Là những im lặng khó hiểu nơi những
người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của các môn đệ và
của dân Do thái, có lẽ đây cũng là cơ hội để chúng ta xét đến thái độ im lặng
của chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta phải bắt chước
Chúa Giêsu im lặng để nghe theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận những nghịch
cảnh, những bất ưng vì Thiên Chúa và có những lúc chúng ta không được im tiếng
khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin mừng đến cho
muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ, chân thật,
chất phát của trẻ em, chúng ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang ca tụng:
Hoan hô Con vua Đavít; chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như dân Do
thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết đòi
đóng đinh Chúa vào thập giá, lại xin tha Baraba, một tên trộm cướp và giết
Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
19. Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu
cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ
những người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào
thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo trải
xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel !
Hoan hô trên các tầng trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với
những diễn tiến xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân
chúng hùa theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản
bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá.
Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.
Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc
lịch sử của dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên
Chúa. Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân riêng
của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi. Tình Chúa
bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi thay. Biết bao
lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại bang được đúc bằng
đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam mê sắc dục, tiền tài danh vọng
và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa
cùng Chúa: "Tôi đã cầu xin Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa
Người rằng: Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con
đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài" (Dn 9,4-5).
Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con
người lạc bước và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn 'Người cha nhân hậu' hay
còn được gọi là 'Người con hoang đàng' (Lc 15,11-32).
Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong
lầm lạc, nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa
Giêsu đã phán: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh
mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11).
Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa
và là Đấng được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến
cố thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.
Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào
thành Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con người
chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng biến thành
những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con người thật là vô
ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no say và dẫn
về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng thay đen. Chúa
Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa
gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ
châu báu trên thập giá là giá máu cứu chuộc.
Mỗi người nghe bài tường thuật sự
Thương Khó của Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài
Thương Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người lại
có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng liên quan
gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và khổ nhục của
Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính quyền, trưởng
tế, quân lính, người phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta
nên có một tâm tình tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và
chiêm niệm từng lời nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống
và từng bước chân ngã quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về
tinh thần và cũng như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất
trung của loài người.
Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã
toa rợp để tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã
chấp nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị
bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát và bị
hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ mọn cũng đã
góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách móc, nhưng còn
thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình yêu gắn liền
với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là
cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu
Châu Báu của Chúa.
Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy
là tội lỗi của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội
cáo gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người, tội
bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi miệng, thái độ
và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên những bước chân
trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của Chúa. Qua bài Thương Khó của
Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu
xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi
chúng ta phạm tội là chúng ta lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân
mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một
luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi:
"Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là
ai?" Người nói với tôi: "Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ"
(Cv 22,7-8).
Qua mọi thời, có một số người cứ muốn
loại Chúa ra khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự
do làm chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn.
Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm thời. Mọi
thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm sâu trong tâm
hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng và thêm hưởng thụ. Họ
tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để tìm thỏa mãn quyền lực và ý
riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết các sứ giả, các tiên tri được sai đến
và cả người Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.
Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay
cũng giống như các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi
khi phạm tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân
mình Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa
Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự liên kết
giữa Chúa Kito và Hội Thánh: "Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói
về Đức Kitô và Hội Thánh" (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là chúng ta xúc
phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng ta xét mình và xin ơn
tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi con cái mình hãy ăn năn sám
hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.
Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta
dành ít phút thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi
trên thập giá. Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu
khổ, chán nản, bị đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích,
nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần
nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha
thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa
sẽ trao triều thiên vinh thắng cho những ai bền đỗ đến cùng.
20. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, bầu khí phụng vụ
của ngày lễ lá hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm trạng khác
nhau, vừa hân hoan, vừa trầm buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá tưởng niệm việc
Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của người Do Thái: Hoan
hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, thì liền sau đó bước
vào thánh lễ, chúng ta lại được nghe thuật lại sự thương khó của Chúa Giêsu.
Chính sự tương phản này cũng đã phần nào nói lên sự thay lòng đổi dạ của con
người, sự tráo trở của những người Do Thái ngày ấy.
Tiếng reo mừng hoan hô của những người
Do Thái ngày Chúa vào thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện một sự mong đợi
hoàn toàn có tính cách thế tục, họ chờ đợi không phải là một Đấng Mesia cứu
thế, mà là mội vị vua trần thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khởi nghĩa
xưng vương quy tụ dân chúng nổi dậy chống lại đế quốc Roma. Thế nhưng Chúa
Giêsu đã không làm vua trần thế, mà Ngài tiến vào Giêrusalem hình ảnh thành đô
của Thiên Chúa, không phải để làm chính trị, mà để xây dựng một vương quốc tình
yêu và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa, vương quyền của sự sống trên sự
chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ trên hận thù gian ác.
Tiên tri Isaia đã báo trước về sứ mạng
của đấng Mesia qua bài ca về Người Tôi Trung của Giavê Thiên Chúa trong bài đọc
một; Vị Tiên tri mô tả về một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn
toàn vâng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả đau khổ roi đòn,
bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế giễu, bị người đời khinh khi hành hạ, nhưng người
tôi tớ ấy vẫn một mực tín trung, chấp nhận tất cả sự nhục nhã vì tin vào Đức
Chúa là Đấng làm chủ và điểu khiển mọi sự và làm chủ đời mình.
Thánh Phaolô đã nhìn thấy hình ảnh
người tôi trung mà Isai tiên báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài vốn
dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống
phàm nhân, Người còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Tuy
nhiên, người Do Thái đã không dễ dàng chấp nhận một Đấng Mesia khiêm hạ, một
Thiên Chúa hạ mình đến như thế, họ tìm kiếm và chờ đợi một Thiên Chúa khác, do
óc tưởng tượng của họ mang lại: một Thiên Chúa phải thẳng tay trừng trị kẻ áp
bức, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ có tội chứ không thể cúi xuống
trên họ, một Thiên Chúa không thể đến quá gần con người, không thể để cho một
người phụ nữ tội lỗi xức dầu vào chân mình, không thể đồng bàn với người thu
thuế..., chính vì không được như ý họ mong muốn, nên người Do Thái đã sẵn sàng
đổi trắng thay đen, những người gào thét tại sân của quan tổng trấn, đòi giết
Giêsu và tha Baraba cũng chính là những người đã hoan hô con vua Đavít, là
những người đã được ăn bánh no nê, được chứng kiến phép lạ, được chữa lành bệnh
tật.
Nghe bài thương khó hôm nay chúng ta
nhận thấy lòng dạ của những người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu khi thấy
một người phụ nữ xức dầu thơm quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua chuộc một
Giuda ham tiền để lập mưu bắt Chúa Giêsu, những hành động ấy phát xuất từ sự
ghen tị thù hằn và họ câu kết với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để đạt được mục
tiêu này, họ không loại trừ một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo gian đến gây sức ép,
các vị lãnh đạo Do Thái là những người chủ mưu trong vụ án này, họ đã dàn dựng
từ một vài những vấn đề tranh luận tôn giáo để đi đến một bản án hoàn toàn
chính trị bằng việc vu cáo Chúa Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ chống lại
hoàng đế Cesare, để rồi mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.
Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn sống đến cùng
tình yêu thương và tha thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các môn đệ sẽ phản
bội, nhưng Chúa cũng không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao cho anh những
cử chỉ yêu thương để đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ nạn này Chúa
Giêsu không chỉ đau đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những tên lính, mà Ngài
còn đau khổ hơn bởi sự phản bội của những người thân tín nhất của Ngài. Đó là
sự phản bội của Giuda, kẻ đã đi theo Chúa nhiều năm, vậy mà chỉ vì một chút
quyền lợi tiền bạc, anh đã bán đi tình nghĩa thày trò, và đau đớn hơn nữa, anh
đã dùng nụ hôn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương để làm dấu chỉ của sự phản
bội. Cũng thế, Simon Phêrô, một trong số những môn đệ được Chúa Giêsu yêu
thương tin tưởng nhất, lại là người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước mặt
một đứa đầy tớ gái. Sau cùng là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, trong
số họ có biết bao người đã từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa lành,
vậy mà giờ đây, trước mặt một vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba thay
vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại trừ
Thiên Chúa là vua của họ: Chúng tôi không có vua nào khác ngòai Cesa, họ đã gào
thét lên như thế.
Chúa Giêsu đã đón nhận cây thập giá mà
ngươi ta đặt lên vai Ngài như là cách thế mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài chấp nhận
để đem ơn cứu độ cho trần gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận cùng của con đường cứu
chuộc, và chặng cuối của con đường là cái chết giang tay trên cây thập giá,
chết trong đau đớn tất tưởi. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình
cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng chính sự độc ác của con
người để đem lại ơn cứu độ cho con người, dùng sự phản bội để đem lại sự thứ
tha, dùng cái chết của Ngài để đem lại sự sống đời đời.
Thưa quý OBACE, nghe lại bài thương khó
Chúa không để chúng ta đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua cuộc thương khó
này chúng ta có thể thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành hình Chúa Giêsu năm
xưa, có thể chúng ta là người đã gây tổn thương cho Chúa khi chúng là những
người mang danh là Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta đã phản bội lại Chúa
như Giuda khi chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền bạc mà chà đạp lên danh
dự là một Kitô hữu, bán rẻ lương tâm của mình, có thể vì sợ hãi hèn nhát hoặc
vì bổng lộc của thế gian mà chúng ta đã từ chối Chúa như Phêrô: Tôi không biết
người ấy là ai! Và cũng có thể chúng ta là những người đã từng nhận được biết
bao ơn lành của Chúa, song chúng ta cũng giống như những người Do Thái đòi tha
Bararaba mà giết Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa Giêsu ảnh hưởng đến
cuộc đời của mình, của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc kinh cầu nguyện, khi
chúng ta không đến với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh nhận các Bí tích. Hoặc
là chúng ta sẽ thấy mình giống như các thày thượng tế và luật sĩ, mưu mô gian
ác trong cuộc sống trong công việc, đối với anh em, cứng lòng trước đau khổ
thập giá của Chúa Giêsu khi chúng ta quay lưng lại với Chúa hoặc chúng ta lên
án Chúa và Giáo Hội của Ngài, cho mình quyền định đoạt số phận và xét đoán anh
em, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau khổ bất hạnh của anh em, và có khi còn nhạo
cười trên đau khổ của họ và gào thét giơ tay đòi kết án họ.
Chúa Giêsu vẫn đang bị hành hình trong
thời đại của chúng ta hôm nay qua những con người đang phải chịu sự bất công
đàn áp, những con người bị đẩy ra bên lề xã hội, bị chính những người anh em
ruột thịt của mình khinh bỉ từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị hành hình qua
những con người cùng cực bị bóc lột khai thác, lạm dụng, bạo hành, kể cả qua
những em bé, những thai nhi bị những Philatô là chính cha mẹ của mình lên án
tử, đó là những Giêsu của ngày hôm nay. Thương cảm cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu
không chỉ dừng lại ở những cảm xúc tự nhiên, mà hãy nhận thật rằng chính vì tội
lỗi của tôi, của ông bà, anh chị mà Chúa chịu chết như thế, để từ nay chúng ta
cố gắng sống tốt hơn, và sống ngoan thảo với Chúa hơn, đồng thời biết quan tâm
đến anh em để chia sẻ với sức nặng của thập giá của anh em đó là cách chúng ta
cất đi bớt sự đau khổ cho Chúa ngày hôm nay. Amen.
21. Baraba và Đức Giêsu.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển
đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa
đề là "Baraba". Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của
Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã
phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan
Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một
tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt
dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng
đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ
Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên
một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì
chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến
Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao
giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích
thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng
vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và
nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt
bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác
phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con
người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con
người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái
chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái
và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng
đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và
cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm
tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi
vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào
việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta
và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù
cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc
chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có
liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ
nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã
vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể
đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là
nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân
lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ
ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực
công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều
xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp
nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã
bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại
ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng
tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá "Hoan hô con Vua Đavít"
có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó
mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi
vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một
sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào
với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó
vào thập giá!"
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài
giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được
tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị
mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến
một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng
đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người
đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi
phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc
buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng
không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta
hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo
Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm
nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất
nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất
công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết,
chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa
Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa
có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình
giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của
Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo
cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi
đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của
Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác
hơn.
22. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu
khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông
hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ
thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối
bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ
đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa
Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa
của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng
ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem
đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến
vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha.
Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được
thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với
niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng
đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết
án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu
thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những
người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn
thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi
người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong
những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của
mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin
Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác
thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình.
Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh
mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt
mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất,
tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất
tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là
giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam
Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô
hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin
Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những
bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội
mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập
giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng
dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.
Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một
con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng
thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh
phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập
giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi,
thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh,
trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập
giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta
tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài
luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn,
thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta
can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh
phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
23. Suy niệm của Noel Quesson.
CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế
giới, làm xúc động bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao
kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh,
đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa là người trong
cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của những người cùng thời với họa sĩ. Và người
đang tháo đinh ở Chúa ra chính là họa sĩ. Người ta hỏi họa sĩ về chuyện này,
ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của
tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội
lỗi, Chúa đón nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn
chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối
khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt
máu làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem
lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn
toàn đơn độc. Cái chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con
người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không
biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay
an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba
lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình
hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và vài phụ nữ. Chính
Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng, vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện
như một tiếng than van: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!".
Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo
cũng như trước tòa đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo
kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại
diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì
chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản quả quyết mình là Con Thiên
Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những
người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng. Người đã từng làm
nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa
không phải vị Vua như mọi người mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột
đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi
tâm hồn bằng tình yêu mà xét xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta
nhìn Chúa chết trên thập giá, ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua
như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra
tội lỗi và thật lòng sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh
chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.
24. Lễ lá.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó
của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như
hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối
cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu
căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta
Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài
đã không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống,
mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và
chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống
chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài
không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không
phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng
ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã
tham dự vào kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng
đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ
với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu
thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một
hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn
nhất nói lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy
nhìn vào những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng
ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu
căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền
bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo
những vui thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào
thập giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh
đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị,
với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho
chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle
de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ
đau, không phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và
hãy thân thưa với Chúa như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình
chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy
gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước
được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết
hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ
đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị
tàn úa.
25. Cuộc Thương Khó.
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh
Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô
ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa
kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện
diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: "Thưa thủ tướng, ngài không
cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?"
Churchill trả lời: "Không hẳn thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ
đến nhìn khi tôi bị treo lên".
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt
đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem
để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết:
"Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự Toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu
nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục... nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác".
Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là "quyền năng của Thiên Chúa và là
sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan
hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài
người".
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung
với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và
kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ
tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng
thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó
tự thú với người anh: "Tôi đã giết người". Vài phút sau căn nhà bị
cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách nào trốn thoát được.
"Tôi không có ý giết nó", người em sợ hãi nói, "Tôi cũng không
muốn chết". Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng:
anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính
đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ
ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy
sinh của người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái
chết của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của
tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: "Chúa Giêsu
Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng
với Thiên Chúa; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi
đòi, đã trở nên giống như loài người... Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến
chết, và chết trên thập giá".
26. Cuộc Thương Khó
Chúa Giêsu rất thương xót những người
đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương
nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều
xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao
xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của
đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho
nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác
ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra.
Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một
số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì
hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những
mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu
diệt tội lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem
để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của
chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một
hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn
sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào
ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị
cho người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống
mình làm giá cứu chuộc nhân loại: "Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng
tôi tự ý hiến mạng sống mình".
Thiên Chúa ban cho con người tự do để
cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa. "Con người thường là những hợp
tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác
vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ
của mình".
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái
khi nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính
Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài
vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào
hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con
đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là
con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết
rằng: "Khi gắn bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong
trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu "đã yêu thương họ đến cùng",
"bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người
mình yêu thương". Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của
Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài
muốn cứu vớt mọi người".
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc
nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình
yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên
ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại
của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích
kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của
Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận
của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của
Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu
Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy:
"Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà
hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh
của Thiên Chúa".
27. Hoan hô- Đả đảo.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm
Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế
ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh
bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của
Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi
thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo
nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo
choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay
cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước
như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: "Hoan hô con vua
Đavid", "Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến". Người người
nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như
thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua
như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ
khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua
trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay,
chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn
diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt
liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi
giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha,
rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối
cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai
thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa
lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và
lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng
chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: "Giữa Chúa nhật lễ lá và
thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay
chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ
gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng
ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai
chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm
nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu
thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật
lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô
hữu".
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một
diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những
đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân
hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống
như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần
lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi
đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa
ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm
thía những điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích
cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích
mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta
tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở
ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào
là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta
luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô "vạn tuế" để trong cuộc
sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình
thương của Chúa.
28. Ơn cứu chuộc.
Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết vào
ngày Thứ Sáu, chúng ta quen gọi là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay ngày Thứ Sáu
chịu nạn. Xưa kia người ta cho ngày thứ sáu chịu nạn là một ngày đáng ghét hơn
bất cứ ngày nào khác trong năm, bởi lẽ ngày hôm đó có một người vô tội đã bị
kết án tử hình và đã bị giết chết một cách rất tàn nhẫn, bất công. Vì sự kiện
đó người ta đã định nghĩa ngày Thứ Sáu chịu nạn là "Thêm một người vô tội
được ghi tên vào trang sổ dài trong lịch sử nhân loại, cuốn sổ của biết bao
nhiêu người bị tố cáo một cách oan uổng, bị đánh đập, bị hành hạ tàn nhẫn, và
có khi bị giết chết". Theo ý nghĩa này thì quả thật ngày Thứ Sáu chịu nạn
là một ngày xấu xa, một ngày đen đũi. Nhưng đối với chúng ta, ngày Thứ Sáu chịu
nạn không phải là một ngày đáng ghét, chúng ta phải nghĩ ngược lại, ngày đó là
một ngày đáng ghi nhớ, một ngày có ý nghĩa thật tốt đẹp và hoàn toàn cao cả,
một ngày tốt đẹp hơn hết mọi ngày, bởi vì ngày đó là ngày Chúa Giêsu đã chết để
cứu chuộc chúng ta, là ngày mở ra một trang sử mới của loài người.
Quả thực, không phải Chúa Giêsu đã chịu
thua trước bạo lực, trước rủi ro hay số phận, cái chết của Ngài không phải là
một sự thất bại, thua cuộc, nhưng là một sự nghiệp anh hùng và cao quý, vì chỉ
có cái chết của Ngài mới có đủ khả năng đền bù tội nguyên tổ và mọi tội lỗi của
con người một cách cân xứng, bởi vì tội phạm đến trời thì chỉ trời mới tha
được. Hơn nữa, muốn cứu chuộc chúng ta, thật ra Chúa Giêsu đâu có cần phải
xuống thế, phải nghèo khổ, phải nhục nhã, phải bị giết chết một cách tức tưởi
như vậy, nhưng tất cả những sự ấy Ngài đã lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu thương
chúng ta, yêu thương đến cùng, yêu thương không bờ bến.
Như vậy, không gì chắc chắn bằng Chúa
Giêsu đã đổ máu ra chết cho tất cả chúng ta, nhưng cũng không gì chắc chắn bằng
Chúa Giêsu đã chết một cách vô ích cho chúng ta nếu chúng ta không muốn tham dự
vào công lênh cứu chuộc của Ngài bằng nỗ lực riêng của mỗi người chúng ta. Chúa
Giêsu đã làm bật lên mạch nước, nhưng chúng ta cần cúi xuống mà uống, nguồn
mạch Chúa Giêsu sẽ vô ích nếu chúng ta không muốn uống. Nói rõ hơn, ơn cứu
chuộc đòi hỏi chúng ta một nghĩa vụ, đó là chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa,
như thánh Âu tinh đã nói: "Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần
hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của
chúng ta".
Thực vậy, khi bị treo trên thập giá,
trước khi thở hơi cuối cùng, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: "Mọi sự đã hoàn
tất". Như vậy, công việc cứu chuộc của Chúa đã xong, nhưng công việc của chúng
ta thì chưa xong, chúng ta còn phải luôn luôn kiện toàn đời sống của mình, từ
đó chúng ta mới hiểu câu nói của thánh Phaolô: "Tôi bổ khuyết nơi tôi
những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô". Vì thế, chúng ta hãy
nhớ hai điều: Thứ nhất, người thế gian thường xét đoán theo hiệu quả, còn Chúa
thì đoán xét theo cách thức người ta chu toàn và kiện toàn bổn phận Chúa trao.
Nói cách văn hoa, ở đời này, tất cả chúng ta đều là những diễn viên trên sân
khấu trần gian, khi màn bi hài kịch cuộc đời hạ xuống, Thiên Chúa không hỏi
chúng ta đã giữ vai trò gì mà chỉ hỏi chúng ta đã diễn xuất thế nào về vai trò
được trao cho. Thứ hai, khi chấm dứt cuộc sống ở trần gian, có hai câu hỏi được
đặt ra: người đời sẽ hỏi: "Người ấy để lại những gì?", Còn thiên thần
thì hỏi: "Người ấy đem đi được những gì?". Điều đó có nghĩa là trong
cuộc hành trình trên trần gian, chúng ta có thể đem theo mình nhiều thứ, nhưng
khi đến trước tòa Thiên Chúa, chỉ còn những việc thiện đi theo chúng ta mà
thôi.
Tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc
nhở chúng ta: hãy ý thức hơn về ơn cứu chuộc, hãy thấm nhập ơn cứu chuộc vào
chính tâm hồn mình, và hãy sống ơn cứu chuộc trong đời sống hằng ngày. Ước mong
chúng ta hãy dành nhiều thời giờ trong Tuần Thánh này để suy nghĩ về ơn cứu
chuộc của Chúa và sự cộng tác của mỗi người chúng ta để hoàn thành cuộc đời
mình. Cụ thể, trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này, ngoài việc cầu
nguyện, suy ngắm sự thương khó Chúa, ăn chay để tỏ lòng thống hối, chúng ta còn
phải xưng thú tội lỗi để tháo những chiếc đinh nhọn ra khỏi tay chân Chúa.
Đinh nhọn đây có thể là những thù hận
và vu cáo bất công như những người đầu mục Do Thái đã làm. Đinh nhọn cũng có
thể là sự khiếp nhược chối bỏ Thầy hay phản bội nộp Thầy như các môn đệ Chúa đã
làm. Đinh nhọn cũng có thể là những sự độc ác vô lương tâm như tên trộm bên
trái Chúa đã chê trách Chúa trên cây thập giá. Đinh nhọn cũng còn là những sự
dửng dưng, thậm chí hùa theo kẻ mạnh để làm khổ người thân yếu cô thế như đám
đông dân chúng đã la to: "Đóng đinh nó vào thập giá..."
Ngày nay chung quanh chúng ta không
thiếu những người đau khổ là hiện thân của Chúa Giêsu trên thập giá. Họ chính
là những người mắc bệnh nan y mà không tiền chữa trị, hoặc là những người đang
chịu đựng những lời khích bác và vu khống bất công của những kẻ thù giấu mặt mà
không ai động viên an ủi. Họ cũng chính là những người đang gặp đau khổ như què
quặt, đui mù, đi xin ăn mà không biết ngày mai sẽ ra sao...
Chúng ta có thể làm gì? Hãy cảm thông
với họ như các phụ nữ gặp gỡ Chúa trên đường thập giá, hãy giúp đỡ họ như ông
Si-mon vác đỡ thập giá Chúa, như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt, hãy
bênh vực công lý như người trộm lành bên hữu Chúa, hãy giải thoát họ khỏi những
đau khổ ấy như hai môn đệ xưa đã tháo đinh và cất xác Chúa xuống khỏi thập giá...
Tóm lại, chỉ có tình yêu mới làm cho
mọi khổ đau có giá trị cứu độ, vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu xa nỗi khổ đau
thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra những khổ đau của
anh em chung quanh. Càng suy niệm về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng
yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá
của người khác hơn.
29. Thánh giá.
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ
về việc chết đi cho chính mình để sinh nhiều hoa trái cho Nước Thiên Chúa. Một
cách diễn tả khác cho sự thật này là hình ảnh vác thập giá của chính chúng ta.
Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về thực tại thập giá
và đau khổ trong cuộc sống của Chúa Giêsu. Việc suy niệm này chắc chắn làm
chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta
đã ẵm lấy thập giá đau khổ và hy sinh trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?
Khi chúng ta đương đầu với đau khổ
trong cuộc sống và ẵm lấy thập giá mà Chúa Giêsu trao cho, thì chúng ta làm
điều mà Chúa Giêsu đã làm trước chúng ta và Người đã chuẩn bị con đường dẫn đến
chiến thắng cuối cùng trong cuộc đời của chúng ta. Dầu vậy, đôi khi con đường
trước mắt có vẻ tối tăm và bấp bênh, những lúc đó chúng ta cần xác tín Chúa
Giêsu luôn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Người sẽ không bao giờ bỏ
rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải chịu đau khổ quá sức
mình. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã nhắc cho chúng ta, cuối
cùng, Chúa Giêsu sẽ chiến thắng và Người sẽ lãnh nhận vinh quang trọn vẹn mà
Chúa Cha muốn ban cho Người. Đây cũng là lời hứa cho chúng ta, nếu chúng ta
chọn lựa trung thành chịu đựng đau khổ cùng với Người.
Kinh Thánh cũng như giáo huấn của Giáo
Hội không bao giờ khẳng định đau khổ tự nó là một điều tốt, tuy nhiên, cả hai
lại khẳng định giá trị cứu độ của đau khổ. Khi chúng ta kết hiệp đau khổ của
mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô:
"Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào
thân cho đủ mức". Khi chúng ta gặp phải bất kỳ một loại đau khổ nào thì
đoạn Kinh Thánh này đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao. Thiên Chúa
cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế
trở nên những người cộng tác với Ngài trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi
người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm giá cao cả của con người. Khi suy niệm
về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc
nhận thức chúng ta được kết hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể
đem lại sức sống và sự thiện hảo đến cho con trong những tình huống đau thương
nhất. Xin giúp con luôn biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc
sống.
30. Cuộc khổ nạn.
Trong suốt ba năm, Đức Giêsu đã đi từ
ngôi làng này đến ngôi làng khác, làm việc lành, giảng dạy, và chữa bệnh cho
dân chúng. Khi đi đến bất cứ nơi đâu, Đức Giêsu cũng đều được đám đông vây
quanh lắng nghe và tìm kiếm nhiều điều nơi Người. Đây là ba năm mà Người đã
hoạt động một cách trọn vẹn và tích cực ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, trong
suốt thời gian đó, Đức Giêsu vẫn ở thế chủ động. Người đã đi đây đi đó ít nhiều
theo ý của Người.
Nhưng khi Người giao nộp mình vào tay
kẻ thù trong Giệtsimani (Người bị một trong những môn đệ của Người giao nộp),
thì tất cả thế chủ động của Người chấm dứt. Điều này tượng trưng cho một điểm
xoay chuyển trong sứ vụ của Người. Kể từ đây, Người bắt đầu phải chịu đựng đau
khổ. Và đó là lúc bắt đầu cuộc khổ nạn của Người. Từ thời điểm đó, Người không
còn làm chủ những điều đang diễn tiến nữa. Bấy giờ, các sự việc được thực hiện
nhắm vào Người, hơn là do người.
Từ đó, Người bị ngăn chặn, giam giữ và
giải đến cho Hêrôđê, Cai pha, Philatô thẩm vấn, đánh đập, đội mão gai, bắt vác
thánh giá, lột quần áo, đóng đinh, bị chế nhạo... và cuối cùng, Người đã chịu
chết. Đức Giêsu đã hoàn tất sứ vụ của Người, không chỉ bằng những hành động của
Người, mà đặc biệt hơn, còn bằng những điều người ta làm cho Người nữa – bằng
cuộc khổ nạn của Người. Chúng ta phải hiểu rõ một điều: Chúa Cha không ném
Người vào tay những kẻ độc ác. Đức Giêsu đã chịu chết một cách tự nguyện. Người
đã hiến mạng sống của Người.
Nhiều lúc, cuộc sống của chúng ta được
xác định bằng những điều xảy đến với chúng ta, hơn là những việc chúng ta thực
hiện: theo một ý nghĩa rất thật, thì đâu chính là cuộc khổ nạn của chúng ta.
Nếu chúng ta có thể thực sự chấp nhận được cuộc khổ nạn này, cũng như những
hành động của chúng ta, thì điều đó sẽ dẫn đến sự cứu độ cho chúng ta.
Điều quan trọng là nhận ra phạm vi mà
chúng ta hoạt động. Khi còn bé, chúng ta chỉ biết trông cậy vào "lòng
thương xót" của những người lớn. Trong hành trình cuộc đời, chúng ta còn
có số phận, sự phản bội, những rủi ro, đủ mọi loại bệnh tật, mất mát tình bạn,
thất bại trong các tương quan, thất vọng đối với người bạn đời hoặc con cái,
cái chết của những người thân yêu, công việc làm ăn vất vả v.v...
Tất nhiên, chúng ta cũng có những lúc
vui vẻ và những giai đoạn được sống an bình. Nhưng sự thật là vẫn có nhiều điều
vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Đó là những yếu tố làm nên kiếp
người. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có sự chọn lựa trong cách thức đáp trả lại những
gì mà cuộc sống gửi đến chúng ta. Cách đáp trả này có thể làm nên con người
chúng ta, hoặc bẻ gãy chúng ta.
Đức Giêsu vẫn tồn tại với tư cách là
chính bản thân Người, đầy sức mạnh, trong sạch, và tốt đẹp. Chúng ta sẽ trở
thành con người nào, nếu cảnh mất mát, khủng hoảng, hoặc những sự tước đoạt thì
giờ đã lấy đi của chúng ta vẻ bên ngoài thành công, tầm quan trọng cá nhân,
thậm chí ngay cả nhân cách nữa?
Câu chuyện Cuộc Khổ Nạn chứng tỏ cách
thế Đức Giêsu đáp trả lại những điều xảy đến với Người. Người đã chấp nhận tất
cả cảnh bạo lực, biến đổi chúng, và chuyển chúng thành tình yêu và ơn tha thứ.
Đây là sự chiến thắng của tình yêu vượt lên trên tất cả những sức mạnh tàn phá.
Không có gì ngoài tình yêu nơi Đức Giêsu. Ngay cả khi người ta đóng đinh vào
tay chân Người. Người vẫn yêu thương. Điều này giúp chúng ta suy nghĩ đến những
lúc chúng ta trải qua cảnh khó khăn.
31. Tội lỗi của ta.
Đó là vào đầu tháng 11, lá cây phủ đầy
các con đường, rải rác trên mặt đất. Người ta kêu gọi mỗi gia đình thu gom
những lá cây của nhà mình vào những giỏ nhựa, và chuyển đến cho những người hốt
rác. Bây giờ, khi sử dụng những lá cây như một biểu tượng của tội lỗi, chúng ta
hãy nhận xét xem sự việc diễn tiến ra sao.
Một số người không hề cảm thấy phiền
toái gì cả, khi nhìn thấy những lá cây rơi xuống, phủ đầy trên bãi cỏ, bồn hoa
và lối đi. Họ nhìn thấy chúng ta bắt đầu mục nát và làm cho không khí bốc mùi
hôi thối. Nhưng mỗi ngày, họ đều bước lên trên những lá cây thối rữa đó, dường
như thể chúng chưa bao giờ hiện diện. Đây là những người mà đối với họ, tội lỗi
không là gì cả. Hêrôđê là một trong những người này.
Một người quét ra ngoài đường những lá
cây trên bãi cỏ và lối đi cả nhà họ. Tại đó, chúng trở thành một đống xấu xí
khó coi, và tạo ra một mối nguy hại đối với các tài xế. Nhưng người đó không hề
bận tâm, họ cứ để mặc cho người khác đến dọn sạch đống rác đó đi. Người này
nhắc nhở chúng ta về những kẻ làm phiền người khác vì tội lỗi của họ. Philatô,
bọn quân lính và đám đông thuộc loại người này.
Hầu hết người ta thường quan tâm đến
việc dọn dẹp những lá cây của nhà họ, nhưng họ không màng đến việc nhặt một
chiếc lá trên bãi cỏ nhà hàng xóm. Đây là phần đất và trách nhiệm của người đó.
Loại người này đại diện cho những người biết nhận trách nhiệm đối với tội lỗi
của mình. Phêrô là một ví dụ.
Cuối cùng, có một người đang chú ý.
Người này không chỉ thu gom những lá cây trên bãi cỏ nhà mình, mà còn thu gom
cả những lá cây ngoài đường nữa. Và người đó làm công việc này một cách âm
thầm, không hề phàn nàn gì cả. Người đó nhắc nhở chúng ta đôi chút về Đức Kitô,
Đấng đã chịu chết vì tất cả chúng ta. Nhưng Đức Kitô là một người duy nhất
không hề phạm tội.
Tuần Thánh không phải là một tuần lễ để
chúng ta ẩn núp phía sau người khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm đối với tội
lỗi của mình. Nếu biết nhìn nhận tội lỗi của mình, chúng ta không có gì phải sợ
hãi, bởi vì Đức Kitô đã đến gánh tất cả tội lỗi của chúng ta. Sau đó. ít nhất
chúng ta có thể cố gắng cảm thấy một số trách nhiệm đối với tội lỗi của đồng
loại và của cả thế giới nói chung.
Không ai là một hòn đảo. Mỗi người
chúng ta đều là một phần tử ở trên mảnh đất của nhân loại.
32. Vụ án.
Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai
ngàn năm rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng
ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của "vụ
án" này. Bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi
tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của
vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần
Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc
thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.
Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị
bắt vào đêm thứ năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa
án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa
đến các tòa án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án
để xét xử, Chúa Giêsu đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất
có uy tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia,
chính Anna là người có trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra
Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ
thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông,
đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức
khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối
cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những
lời tố cáo của họ đều xoay quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho
rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ
Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ
truyền thống tổ tiên để lại... Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im
lặng, không hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có
tính quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là "Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa" không? Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa,
Chúa trả lời: "Đúng như lời ngài nói", tức là Chúa Giêsu xác nhận
Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới
bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại lời nhận tội mà
ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta
cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa".
Theo luật Do thái: "Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng chết". Số
phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài bị kết án tử hình.
Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ,
người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý
của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn
Philatô, là một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước
Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, người Do thái đã
phơi bày hết ác tâm của họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi
những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt
khoát muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc
Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh hiệu
Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ
lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô vào trò chơi gian ác của
họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội.
Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt
đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng,
Philatô muốn gỡ mình ra khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho
Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi
phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để
thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng
rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả
thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu Chúa, rồi ông truyền trao
trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải nát óc tìm cách thoát thân:
làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những người tố cáo quá khích;
đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô tội. Nên ông tuyên bố rằng:
ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông cho đánh đòn Chúa một
trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn,
đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát rửa tay thanh minh
mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động
theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và Chúa đã
chết trên thập giá.
Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy
Philatô và Hêrôđê là những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để
kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội trạng
nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới lãnh đạo Do
thái, đúng như Chúa đã báo trước.
Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm
nay, rõ ràng vụ án Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án
tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình
là Con Thiên Chúa. Và đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu.
Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của
Ngài có giá trị cứu chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói:
"Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ". Lẽ ra loài người phải
chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để
chết thay cho chúng ta.
33. Vào thành.
Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ,
người ta có thể đọc bài thơ vô danh như sau:
Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức
mạnh để đạt thành công, Ngài đã khiến tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng
lời trong khiêm tốn. Tôi đã xin cho được sức vóc để làm những việc trọng đại,
Ngài đã cho tôi tật nguyền để tôi làm những điều tốt lành hơn. Tôi đã xin Chúa
cho tôi của cải giàu sang để được sung sướng, Ngài đã cho tôi cái nghèo khó để
tôi biết sống khôn ngoan. Tôi đã xin được chức quyền để mọi người kiêng nể kính
trọng và Ngài đã cho tôi sự yếu đuối để tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.
Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải
sống lẻ loi, Ngài đã cho tôi một con tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã
kêu xin những điều khiến cho cuộc đời tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc sống.
Để tìm vui trong mọi sự, tôi đã không nhận được gì trong số những điều tôi kêu
xin cùng Thiên Chúa, nhưng tôi đã nhận được những gì tôi hy vọng. Các lời
nguyện không thành, lời của tôi đã được khứng nhận và tôi là người hạnh phúc
nhất trên trần gian.
Lời cầu nguyện của người vô danh trên
đây cho chúng ta thấy một cái nhìn khác về cuộc đời và các giá trị đích thực
vượt xa nhãn quang chúng ta hiểu. Sứ điệp Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta
qua Phụng vụ Chúa nhật lễ lá đó là biết nhận ra các chiến thắng của Chúa Giêsu
và của tình yêu trong những thất bại ê chề bề ngoài của một người tử tội. Ngôn
sứ Isaia và bài ca thứ ba trong bốn bài ca trình bày gương mặt của người tôi tớ
khổ đau, nó diễn tả kinh nghiệm bị bắt bớ mà ngôn sứ phải gánh chịu là người
loan báo Lời Chúa cho những kẻ thất vọng. Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy
vọng khi nhẫn nhục chịu đựng cảnh đối xử.
Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau
đây của người tôi tớ Giavê:
Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào
trong khung trời mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực hiện ơn
cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho dân Ngài.
Thứ hai để thực hiện chương trình ấy
theo ý muốn và nhãn quan của Thiên Chúa, người tôi tớ sống đón nhận thánh ý của
Ngài mà không phản đối cũng không chần chừ tìm cách thoái thác và viện dẫn lý
do.
Thứ ba tuy là người vô cùng khôn ngoan,
người có Lời Chúa trong mình, người tôi tớ chứng nhận mọi xỉ nhục, mọi khinh
bỉ. Bị xỉ nhổ, bị đánh đòn như người điên dại và không còn phẩm giá gì nữa và
nhất là không chấp nhận dàn xếp lèo lái để tránh né cái khó khăn và khổ đau
xuất phát từ sứ mệnh đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha.
Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ
đau diễn tả cách hành xử siêu việt khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến
của loài người. Cách hành xử đấy đưa nhân loại vào vòng bạo lực không có lối
thoát.
Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong
thơ gởi giáo đoàn Philipphê thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách
hành xử của Chúa Giêsu Kitô và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần của
người tôi tớ đau khổ. Thánh Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại lòng tin của
cộng đoàn tiên khởi vào Chúa Kitô. Bài ca nêu bật bản tính Thiên Chúa và cuộc
sống đời đời của Chúa Kitô trong liên hệ với Thiên Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý
nghĩa cuộc đời dương thế và bản tính nhân loại của Ngài. Đó là một bài khảo
luận Kitô học súc tích. Từ ngữ nòng cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản
trên đây là sự từ bỏ trọn vẹn, đổ hết ra làm cho trống rỗng đi.
Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập
thể làm người để hiện thực chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu
đã lột bỏ mọi vinh quang siêu việt thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản
tính Thiên Chúa của Ngài, đã trở thành trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ thân
phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi vong thân của con người.
Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để
hoàn toàn sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết
và thập giá của con Ngài để trao ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ
khiêm hạ vô cùng và tự hủy bỏ mình đó đã khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa
Kitô và trao ban trở lại cho Ngài mọi phẩm giá cao trọng và một quyền bính trên
trời dưới đất. Phẩm giá cao trọng và quyền năng ấy trong cách hành xử của Thiên
Chúa không phải là kết quả sức mạnh của con người, mà là hoa trái của khổ đau
và nhục nhã khiêm cung.
Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là
Đấng Cứu thế. Người đã từ bỏ điều kiện Thiên Chúa của mình để sống như người
phàm, như người tôi tớ đau khổ. Từ nay trở đi loài người chỉ có thể gặp gỡ
Thiên Chúa qua chính cuộc đời của Chúa Giêsu và thập giá. Thập giá giúp chúng
ta tẩy rửa lòng tin của mình khỏi mọi thần tượng do chính chúng ta đã tạo ra
trong cuộc đời mình. Thiên Chúa của thập giá là một người Thiên Chúa tự lột bỏ,
tự đổ dốc hết phẩm giá cao vời của mình đi để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn
cùng của con người.
Thiên Chúa của thập giá không phải là
một vị Thiên Chúa luôn kéo chúng ta ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế
giới này, nhưng Ngài là Đấng bước vào trong lịch sử con người để yêu thương,
hoán cải và trao ban cho lịch sử loài người một ý nghĩa. Khi trở thành người
anh em của chúng ta, Ngài cống hiến cho chúng ta sự hiệp thông thần linh của
Ngài và kêu mời chúng ta trở thành anh chị em với nhau.
Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này,
chúng ta hãy xin Chúa giúp cho chúng ta được theo Chúa cho đến cùng trên con
đường thập giá Chúa đã đi qua.
34. Bóng tối và niềm tin – Peter Feldmeier
(Lm. Gioan B. Văn Hào chuyển ngữ)
"Ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của
con, sao Ngài bỏ rơi con" (Mc 15,34).
Bước vào tuần thánh, chúng ta dấn bước
theo Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang
sáng chói, khi được toàn dân đón chào và tung hô, đến cái chết bi thương và
nhục nhã trên núi sọ. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai
hùng, nhưng bỗng chốc họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết án Ngài
như một tên tội phạm đốn mạt nhất.
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành
trình tiến vào Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược.
Giêrusalem là nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là
nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo,
nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của ánh
sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt
niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một sự phẫn nộ đượm
tính căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư đáng mến. Trò phản thầy. Các đầu mục tôn
giáo thì quá gian ác đã dàn dựng một phiên tòa rùng rợn. Các môn sinh thân
thiết nhất đã vội quên thầy của mình. Họ đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường
và cuối cùng đã tháo chạy. Phêrô thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn
Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài
hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không
tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi
giết Đức Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram , có nghĩa là " con của
Cha". Họ đã chọn một người "con" với một quá khứ đan kín tội ác,
và đòi kết án người "Con" duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô
tội đã gánh trên vai mọi tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian. Giêrusalem quả
là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức
Giêsu giữa bóng tối của thập giá là một chứng tá và là khuôn mẫu tuyệt hảo để
chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc lên trong
phụng vụ lễ lá hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh
nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh
quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen
thuộc thời đó. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những
câu giới thiệu như sau " Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi,
nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong thần khí,
nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau... anh em hãy có những tâm
tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ đã viết trọn bài
Thánh thi với lời mở " Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ". Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Gía
như là cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm của Chúa Giêsu. Và
kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là "Thiên Chúa đã tôn vinh
Người... mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa".
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng
Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ
bi thương của Thập Gía. Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang
để mặc lấy kiếp người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập Gía. Tuy nhiên, ở
đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức
Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (Sáng thế
1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất
tuân (3,5t). Hệ quả là sự sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức
Giêsu- Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị
Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại một chân
trời mới của ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn
nghĩa, liên kết với nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là một người con
thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình trạng tội
lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái chết, để
cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi chúng ta gẫm suy việc Đức Giêsu đi
vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải
qua những giờ phút hãi hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng
Ngài đã biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức Giêsu đã biết,
và Ngài không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa
Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng
của Ngài trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp
sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu tuôn đổ đến mức thảm thiết như thế? Tại sao
Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7)
"Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con"? Và nếu như
Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài
phải gào thét lên một cách não nuột "Cha ơi, sao cha bỏ rơi con"?
Thánh Phaolô đã viết: Vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào
mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận
căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm thập giá và cái chết. Nếu Đức
Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu
tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Nhưng, khi mang thân
phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải
qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác
vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín
nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội
lỗi loài người chúng ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và
một sự vâng phục tuyệt đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo thân trên Thập
giá. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những
bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút
giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị mất mát, chìm lặng trong bóng tối
của kinh khiếp? Khi gặp những thất bại cay đắng, bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào
những chán chường và tuyệt vọng... chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa
bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và trên thập
giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau
mà chúng ta gặp phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Ngài đi
vào lộ trình lên Giêrusalem, và thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong
cuộc đời tại thế của Ngài.
CHÚA NHẬT
LỄ LÁ – NĂM B
Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
NGƯỜI TÔI TRUNG
“Cha ơi, Cha làm được mọi sự,
xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36)
xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36)
1- Bài đọc 1
Đoạn sách
ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1 trích từ bài ca thứ ba về người Tôi Trung. Bài ca
phác họa những phẩm chất cao quý của người Tôi Trung của Thiên Chúa.
Trước hết,
người Tôi Trung là người nhạy cảm nghe tiếng “đánh thức” mỗi ngày của Thiên
Chúa, để nghe lời giáo huấn của Ngài. Lời Chúa vẫn vang vọng mỗi ngày, thầm thì
đánh thức, mời gọi lắng nghe và đón nhận; và chỉ người Tôi Trung trong tinh
thần sẵn sàng, chờ đợi và nhạy bén để nhận ra và lắng nghe tiếng Chúa. Tuy nhiên,
không phải lúc nào tiếng Chúa cũng êm ái, dịu dàng, mà có lúc sẽ đòi hỏi quyết
liệt, triệt để, thách đố, nên người Tôi Trung là người “không cưỡng lại, cũng
chẳng tháo lui” (Is 50,5). Người Tôi Trung thật sự là người luôn sẵn sàng và
vui lòng lắng nghe lời Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Hơn nữa,
người Tôi Trung là người, sau khi lắng nghe và đón nhận, biết cất tiếng nói lời
Thiên Chúa, lời an ủi, nhằm “nâng đỡ những ai rã rời kiệt sức” (Is 50,4). Lời
Chúa là lời ủi an, nhưng người Tôi Trung là người biết “lựa lời” để chuyển tải
sứ điệp của lời Chúa cách xứng hợp, hầu mang lại niềm an ủi, động viên và nâng
đỡ cho những người đang mệt mỏi, chán nản, thất vọng. Bản chất lời Chúa có sức
mạnh đỡ nâng và an ủi, nhưng người Tôi Trung thật sự, bằng tấm lòng và sự trung
tín của mình, chuyển tải cách trung thành và trọn vẹn sứ điệp ủi an của lời
Chúa.
Sau cùng, dù
mang sứ mạng cao cả là đón nhận và truyền rao lời Chúa, người Tôi Trung không
thể tránh khỏi những trở ngại, thách đố, khó khăn, có khi nguy hiểm đến tính
mạng. Vì thế, người Tôi Trung thật sự của Thiên Chúa là người sẵn sàng chấp
nhận “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu,… và không
che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Tuy nhiên, người Tôi Trung không
đơn độc, không sợ hãi hay nao núng vì “có Thiên Chúa là Đấng phù trợ”. Nhờ sức
mạnh của Thiên Chúa luôn ở cùng mà người Tôi Trung không sợ “hổ thẹn”, nhưng
luôn hiên ngang, kiên vững (Is 50,7).
Người Tôi
Trung trong đoạn Is 50,4-7 là người sẵn sàng và nhạy cảm nghe lời Thiên Chúa
đánh thức mỗi ngày, để sẵn sàng truyền rao lời Chúa, lời đem lại niềm an ủi cho
những người mệt mỏi rã rời. Dù gặp muôn vàn thách đố trong sứ mạng phục vụ lời
Chúa, người Tôi Trung không hề lo sợ vì xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở bên để
phù trợ.
2- Bài đọc 2
Bài đọc 2 là
một bài ca tuyệt đẹp về người Tôi Trung Giêsu, người sẵn sàng tự hạ đến tận
cùng để hoàn thành cách mỹ mãn kế hoạch của Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa tôn
vinh.
Nửa đầu của
bài ca (Pl 2,6-8) làm nổi bật hành động của Đức Giêsu Kitô. Mầu nhiệm tự hạ cho
thấy sự tự nguyện của người Tôi Trung Giêsu, Đấng chấp nhận hạ mình đến tận
cùng để thánh ý Chúa nên trọn. Từ vị thế của Thiên Chúa, Người khước từ vinh
quang thần linh và chấp nhận làm một con người, sống như bao nhiêu người trên
trần thế. Hơn nữa, không chỉ làm người, Người hạ mình để chấp nhận thân phận
của kẻ nô lệ, của người “đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ”. Và sự
phục vụ của người Tôi Trung Giêsu đi đến tận cùng của sự tự hạ khi “vâng lời”
cho đến nỗi “sẵn lòng chịu chết” (Pl 2,8), mà “hiến dâng mạng sống làm giá
chuộc muôn người” (x. Mt 20,28; Mc 10,45).
Nửa sau của
bài ca (Pl 2,9-11) tập trung vào hành động của Thiên Chúa. Vì người Tôi Trung
Giêsu tự hạ đến tận cùng, hiến trọn thân mình để thánh ý Chúa nên trọn (đi xuống),
nên Thiên Chúa tôn vinh Người (đi lên) và ban cho danh hiệu trổi vượt hơn cả,
danh hiệu “Giêsu”, Đấng Cứu Thế. Quả thế, sự tôn vinh Thiên Chúa dành cho người
Tôi Trung chính là sự thừa nhận và đề cao vai trò “cứu thế” của Người, điều
Người đã thực hiện khi tự hạ, hiến dâng mạng sống “làm giá chuộc muôn người”.
Danh hiệu “Giêsu” thật cao cả vì thể hiện trọn vẹn sứ mạng của người Tôi Trung;
Người chính là lý do mà mọi tạo vật, dù trên trời, dưới đất hay trong âm phủ
đều cung kính bái thờ. Và thái độ tôn thờ đích thực là nhìn nhận công trình cứu
độ và căn tính thần linh của Người, rằng Đức Giêsu Kitô chính là Chúa.
Người Tôi
Trung Giêsu thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa khi khiêm hạ hủy mình ra
không, để rồi được Thiên Chúa tôn vinh, là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu.
3- Bài Tin Mừng
Hình ảnh
người Tôi Trung chấp nhận “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta
giật râu,… và không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” trong Isaia (Is 50,6)
được Tin Mừng Máccô đẩy xa hơn, khắc họa rõ nét hơn nơi người Tôi Trung Giêsu
trong những giờ phút cuối cùng của Người trên trần gian để hoàn tất kế hoạch
yêu thương của Thiên Chúa.
Để trung
thành thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, người Tôi Trung hoàn toàn đơn độc
trong những giờ phút cuối cùng. Trong số những kẻ thân tín nhất, không ai hiểu
được Người, không ai chia sẻ với Người nỗi cô đơn tột cùng khi phải đối diện
với án tử. Những kẻ tưởng gần gũi, thấu hiểu và chia sẻ với Người lại bỏ Người
mà chạy trốn hết (Mc 14,50). Mọi người đều lo cho sự an toàn của mình, để lại
một mình Đức Giêsu. Đức Giêsu không thốt ra một lời than vãn, biện hộ, hay
trách móc ai… mặc cho bị đối xử cách tàn tệ, bị nhạo báng, chê cười, bị kết tội
cùng với hai tên trộm, bị liệt vào hạng phạm pháp (Mc 15,29-32). Trong sự cô
đơn khủng khiếp, người Tôi Trung cảm thấy như thể Người đang bị chính Thiên
Chúa bỏ rơi (Mc 15,34). Dù cảm thấy vô cùng đơn độc, cảm giác như bị Chúa Cha
bỏ rơi, phải trải qua những giây phút lo lắng, xao xuyến, hãi hùng, người Tôi
Trung Giêsu vẫn chỉ muốn làm theo ý Cha (Mc 14,36). Đó đích thật là người Tôi
Trung, dù thế nào vẫn coi mình là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, trung
thành cho đến hơi thở cuối cùng.
Tuy nhiên,
sự trung thành của người Tôi Trung đem lại ý nghĩa lớn lao, hoàn tất chương
trình nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự trung tín của người Tôi Trung cuối cùng đã
phá tan sự ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Bức màn trướng trong Đền
Thờ, ngăn cách Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh, ngăn cách Thiên Chúa thánh thiện và
con người tội lỗi, bị xé ra làm đôi ngay khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá
(Mc 15,37-38). Máu của người Tôi Trung Giêsu đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và
lương tâm con người (Hr 9,14), để con người được thánh hóa mà tiến lại gần
Thiên Chúa cực thánh. Quả vậy, qua cái chết của người Tôi Trung Giêsu, Thiên
Chúa đã chạm đến con người tội lụy và thánh hóa con người để họ được trở nên
con cái Thiên Chúa. Con người được giao hòa và trở nên con Thiên Chúa nhờ sự
trung thành cho đến chết của người Tôi Trung của Thiên Chúa, Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa, như lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng: “Quả thật, người này là
Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Người Tôi
Trung là người trung thành, đến nỗi chấp nhận cái chết, để thực hiện kế hoạch
cứu độ của Thiên Chúa. Máu của Người đổ ra thanh tẩy lương tâm con người để
xứng đáng được lại gần Thiên Chúa và sống trong tình thương của Ngài. Người Tôi
Trung đó chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Ngôn sứ
Isaia khắc họa hình ảnh người Tôi Trung là người nhạy cảm để lắng nghe, đón
nhận và rao truyền lời Thiên Chúa. Dù gặp khó khăn, thử thách, người Tôi Trung
vẫn kiên vững vì tin rằng luôn có Thiên Chúa ở cùng. Tôi có thể trở nên người
tôi trung của Thiên Chúa? Tôi có sẵn sàng lắng nghe, đón nhận và rao truyền lời
Thiên Chúa cách trung thành? Trong gian truân, thử thách, tôi có xác tín Thiên
Chúa luôn ở cùng tôi?
2/ Thư
Philípphê ca tụng người Tôi Trung Giêsu, Đấng mang thân phận thần linh, nhưng
lại hạ mình đến tận cùng để chấp nhận cái chết, nên được Thiên Chúa tôn vinh là
Đấng Cứu Độ mà muôn loài phải bái thờ. Tôi có muốn mỗi ngày nên giống người Tôi
Trung Giêsu? Tôi có sẵn sàng hạ mình xuống, để thánh ý Thiên Chúa được thể
hiện, để Thiên Chúa được tôn vinh và kính thờ qua cuộc đời và cách sống của
tôi?
3/ Tin Mừng
Máccô làm nổi bật sự trung thành cho đến chết của người Tôi Trung Giêsu. Dù bị
những người thân cận xa lánh, bị người đời nhục mạ, nhạo báng, và cảm thấy như
bị chính Thiên Chúa bỏ rơi, người Tôi Trung Giêsu vẫn trung thành thực hiện ý
Thiên Chúa Cha, để giao hòa con người với Thiên Chúa. Tôi có trung thành với
Chúa ngay cả khi phải chịu những khó khăn, thử thách, cô đơn? Tôi có sẵn sàng
trở thành cầu nối để đưa Chúa đến với những anh chị em đang đau khổ, cô đơn,
thất vọng?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Hôm nay
phụng vụ tung hô Chúa Kitô khải hoàn vào thành Giêrusalem, đồng thời mời gọi
chúng ta tiến bước theo Người trên con đường thập giá. Trong tâm tình thờ lạy,
ngợi khen và tín thác, chúng ta cùng tha thiết dâng lời nguyện xin.
1. Thiên Chúa
đã biểu dương sức mạnh trong sự vâng phục và tự hạ của Đức Giêsu. Chúng ta cùng
cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn biết làm sáng danh Chúa bằng
thái độ mau mắn chu toàn thánh ý Người, và khiêm tốn phục vụ tha nhân.
2. Người Do
Thái tung hô Đức Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Chúng ta cầu xin
cho nhiều người, nhiều quốc gia trên thế giới được ơn nhận biết và qui phục
vương quyền của Thiên Chúa, luôn hướng lên Người như lẽ sống và cùng đích của
cuộc đời.
3. Cuộc vượt
qua của Chúa Kitô đem lại ơn giải thoát toàn diện cho con người. Xin cho những
ai đang đau khổ vì bệnh tật, thiên tai hay bất công xã hội ở khắp nơi, tìm được
niềm an ủi nơi cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, luôn sống trong hy vọng và
bình an đích thực.
4. Thập giá là
con đường duy nhất và chắc chắn đưa tới vinh quang. Xin Chúa cho mỗi người
trong cộng đoàn chúng ta, biết nỗ lực sống các giá trị Tin Mừng, và can đảm đón
nhận thập giá trong đời sống hằng ngày, để xứng đáng được dự phần vinh quang
với Chúa Kitô.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân từ,
cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã đổ tràn hồng ân cứu độ cho nhân
loại. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, và giúp chúng con luôn vững bước theo
Người trên con đường thập giá, để xứng đáng chia sẻ vinh quang phục sinh cùng
với Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.