SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
ĐẠI HỘI
QUỐC TẾ GIỚI TRẺ TAI BALAN
2016
Hôm
17-2-2015, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố Sứ điệp của ĐTC nhân Ngày Quốc Tế
giới trẻ lần thứ 30 sẽ được cử hành ở cấp giáo phận vào chúa nhật Lễ Lá
29-3-2015 với chủ đề ”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy
Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Trong sứ điệp, ĐTC nhắc đến hành trình 3 năm chuẩn bị cho Ngày Quốc Tế giới trẻ cấp hoàn vũ sẽ được cử hành tại Cracovia, Ba Lan, vào tháng 7 năm 2016. Trong tiến trình đó, các bạn trẻ được mời gọi suy tư về các Mối Phúc thật được Chúa Giêsu trình bày trong Bài giảng trên núi.
Cho Ngày Quốc tế Giới trẻ năm nay, ĐTC đặc biệt quảng diễn mối phúc: ”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa”. Ngài nhận định rằng ”các bạn trẻ có ước muốn sâu xa, mong được một tình yêu chân thật, đẹp đẽ và cao cả. Bao nhiêu sức mạnh ở trong khả năng yêu và được yêu! Các bạn đừng để cho giá trị quí báu này bị biến thái, hủy hoại hoặc bị ô uế. Điều này xảy ra khi trong quan hệ của chúng ta có sự lợi dụng tha nhân vào những mục tiêu ích kỷ, đôi khi coi tha nhân như một đồ vật để thỏa mãn lạc thú mà thôi. Con tim bị thương tổn và sầu muộn sau những kinh nghiệm tiêu cực như thế”.
ĐTC viết: ”Tôi xin các bạn đừng sợ tình yêu chân thực, tình yêu mà Chúa Giêsu và Thánh Phaolô đã dạy chúng ta..” (1 Cr 13,4-8). Khi mời gọi các bạn tái khám phá vẻ đẹp của ơn gọi con người sống tình yêu, tôi nhắn nhủ các bạn hãy nổi lên chống lại một xu hướng đang lan tràn tầm thường hóa tình yêu, nhất là khi người ta tìm cách thu hẹp tình yêu vào khía cạnh tính dục, loại bỏ mọi đặc tính thiết yếu của vẻ đẹp, sự hiệp thông, chung thủy và trách nhiệm”.
Trong bối cảnh này, ĐTC mời gọi các bạn trẻ chống lại thứ văn hóa tạm thời, tương đối, trong đó nhiều người rao giảng rằng điều quan trọng là hưởng thụ ngay trong lúc này, và không bõ công dấn thân trọn đời, đưa ra những chọn lựa chung kết, mãi mãi, vì ta không biết ngày mai sẽ ra sao”.
Cũng trong sứ điệp, ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ tìm cách ”nhìn thấy Thiên Chúa”, qua sự siêng năng tìm gặp Chúa trong kinh nguyện, chuyện vãn với Chúa như với người bạn thân nhất, tìm gặp Chúa trong việc đọc và suy niệm Kinh Thánh. Ngài viết: ”Các bạn hãy đọc mỗi ngày một đoạn Tin Mừng. Hãy để cho Lời Chúa nói với con tim các bạn, soi sáng bước đi của các bạn. Các bạn hãy khám phá thấy rằng chúng ta cũng có thể thấy Thiên Chúa nơi khuôn mặt của những ngừơi anh em, nhất là những người bị lãng quên nhất: những người nghèo, người đói khát, người nước ngoài, các bệnh nhân và những người bị cầm tù (Xc Mt 25,31-46).
ĐTC kết luận rằng ”Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện, qua việc đọc Kinh Thánh và đời sống huynh đệ sẽ giúp các bạn biết Chúa và bản thân mình rõ hơn. Như đã xảy ra cho các môn đệ trên đường Emmaus (Xc Lc 24,13-35), tiếng Chúa Giêsu cũng làm cho con tim chúng ta nồng cháy và mắt các bạn sẽ mở ra để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta, và qua đó khám phá dự phóng tình thương mà Chúa dành cho cuộc sống chúng ta” (SD 17-2-2015)
Trong sứ điệp, ĐTC nhắc đến hành trình 3 năm chuẩn bị cho Ngày Quốc Tế giới trẻ cấp hoàn vũ sẽ được cử hành tại Cracovia, Ba Lan, vào tháng 7 năm 2016. Trong tiến trình đó, các bạn trẻ được mời gọi suy tư về các Mối Phúc thật được Chúa Giêsu trình bày trong Bài giảng trên núi.
Cho Ngày Quốc tế Giới trẻ năm nay, ĐTC đặc biệt quảng diễn mối phúc: ”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa”. Ngài nhận định rằng ”các bạn trẻ có ước muốn sâu xa, mong được một tình yêu chân thật, đẹp đẽ và cao cả. Bao nhiêu sức mạnh ở trong khả năng yêu và được yêu! Các bạn đừng để cho giá trị quí báu này bị biến thái, hủy hoại hoặc bị ô uế. Điều này xảy ra khi trong quan hệ của chúng ta có sự lợi dụng tha nhân vào những mục tiêu ích kỷ, đôi khi coi tha nhân như một đồ vật để thỏa mãn lạc thú mà thôi. Con tim bị thương tổn và sầu muộn sau những kinh nghiệm tiêu cực như thế”.
ĐTC viết: ”Tôi xin các bạn đừng sợ tình yêu chân thực, tình yêu mà Chúa Giêsu và Thánh Phaolô đã dạy chúng ta..” (1 Cr 13,4-8). Khi mời gọi các bạn tái khám phá vẻ đẹp của ơn gọi con người sống tình yêu, tôi nhắn nhủ các bạn hãy nổi lên chống lại một xu hướng đang lan tràn tầm thường hóa tình yêu, nhất là khi người ta tìm cách thu hẹp tình yêu vào khía cạnh tính dục, loại bỏ mọi đặc tính thiết yếu của vẻ đẹp, sự hiệp thông, chung thủy và trách nhiệm”.
Trong bối cảnh này, ĐTC mời gọi các bạn trẻ chống lại thứ văn hóa tạm thời, tương đối, trong đó nhiều người rao giảng rằng điều quan trọng là hưởng thụ ngay trong lúc này, và không bõ công dấn thân trọn đời, đưa ra những chọn lựa chung kết, mãi mãi, vì ta không biết ngày mai sẽ ra sao”.
Cũng trong sứ điệp, ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ tìm cách ”nhìn thấy Thiên Chúa”, qua sự siêng năng tìm gặp Chúa trong kinh nguyện, chuyện vãn với Chúa như với người bạn thân nhất, tìm gặp Chúa trong việc đọc và suy niệm Kinh Thánh. Ngài viết: ”Các bạn hãy đọc mỗi ngày một đoạn Tin Mừng. Hãy để cho Lời Chúa nói với con tim các bạn, soi sáng bước đi của các bạn. Các bạn hãy khám phá thấy rằng chúng ta cũng có thể thấy Thiên Chúa nơi khuôn mặt của những ngừơi anh em, nhất là những người bị lãng quên nhất: những người nghèo, người đói khát, người nước ngoài, các bệnh nhân và những người bị cầm tù (Xc Mt 25,31-46).
ĐTC kết luận rằng ”Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện, qua việc đọc Kinh Thánh và đời sống huynh đệ sẽ giúp các bạn biết Chúa và bản thân mình rõ hơn. Như đã xảy ra cho các môn đệ trên đường Emmaus (Xc Lc 24,13-35), tiếng Chúa Giêsu cũng làm cho con tim chúng ta nồng cháy và mắt các bạn sẽ mở ra để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta, và qua đó khám phá dự phóng tình thương mà Chúa dành cho cuộc sống chúng ta” (SD 17-2-2015)
CHÚA NHẬT 1 MÙA
CHAY B
Lời Chúa: St
9,8-15; 1Pr 3,18-22; Mc 1,12-15
MỤC LỤC
1. Cải thiện
2. Nơi hoang dã
3. Chiến thắng lòng tham – Lm. Jos. Tạ
Duy Tuyền
4. Đức Giêsu chia sẻ thân phận con
người
5. Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Giuse
Đỗ Vân Lực
6. Cám dỗ trong hoang địa – Cố Lm. Hồng
Phúc
7. Đức Giêsu trong hoang địa
8. Sống là chiến đấu
9. Vào hoang địa – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
10. Vào hoang địa
11. Hãy sửa đổi đời sống và tin vào Tin
Mừng
12. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình
yêu Thiên Chúa
13. Tin là chấp nhận đường thập giá –
Noel Quesson
14. Nơi hoang địa - ĐGM. Arthur
Tonne
15. Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
16. Cám dỗ
17. Hoang địa
18. Cuộc chiến
19. Dã thú
20. Cám dỗ
21. Suy niệm của JKN
22. Yếu tố con người
23. Chiến thắng cám dỗ
24. Đức Giêsu chiến thắng satan
1. Cải thiện
Có một chàng thanh niên, vừa nghiện ma
tuý, lại can tội giết người, nên bị kết án chung thân. Đêm kia anh đang nằm
trên giường tại phòng giam, thì đột nhiên anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà
anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu
nguyện. Đợi cho người bạn nằm cùng giường ngủ yên, anh mới quỳ xuống cầu
nguyện: Lạy Chúa, con xin tỏ bày cùng Chúa những gì chất chứa trong trái tim
con. Anh nói với Ngài bằng những lời lẽ đơn sơ mộc mạc tất cả những gì anh
muốn, từ những hy vọng đến những thất bại, từ những vui mừng đến những khổ đau.
Sau khi anh cầu nguyện xong, người bạn tưởng chừng như đã ngủ buột miệng kêu
lên: Amen. Và người bạn nói tiêp: Tôi cũng tin Chúa. Tôi nghĩ rằng Ngài luôn ở
với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài mà thôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào lời
Chúa truyền dạy: Hãy sám hối, nghĩa là hãy cải thiện đời sống, thành tâm thú
nhận những gì xấu, không tốt, không đẹp trong đời sống chúng ta, rồi sau đó là
từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với
những tội lỗi trong đời sống, rồi cương quyết uốn nắn sửa đổi.
Hẳn rằng có những lúc chúng ta cũng đã
ý thức về những hỗn loạn xảy ra trong tâm hồn và trong cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn về tính ích kỷ, luôn đặt nhu cầu của chúng ta trên quyền lợi của
người khác. Chẳng hạn về tính kiêu căng, không muốn nhìn nhận những sai lỗi của
mình. Chẳng hạn về sự lười biếng, không muốn giúp đỡ một ai.
Kinh nghiệm cho thấy: Những nhà truyền
giáo thành công nhất trong việc làm cho người khác hối cải, đều là những người
thực hiện theo đoạn Tin Mừng hôm nay. Họ làm cho người khác nhìn nhận rằng mình
chỉ là những kẻ tội lỗi, rồi từ đó giúp họ quay trở về cùng Đức Kitô mà làm lại
cuộc đời. Bởi vì nếu không phải là người tội lỗi, thì cần chi đến Đức Kitô.
Từ khởi điểm này, hôm nay chúng ta cùng
nhau bước vào mùa Chay, là thời gian đặc biệt Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn sủng và
giúp chúng ta cải thiện đời sống. Nếu như mùa Chay trở về, chúng ta biết cố
gắng cải thiện đời sống, uốn nắn lấy một thói hư tật xấu mà thôi, thì có lẽ lúc
này chúng ta đã trở nên một con người khác, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, yêu
thương hơn.
2. Nơi hoang dã
Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang
dã, kể lại câu chuyện như sau: Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm.
Thế nhưng cha nàng không ưng vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức
dập tắt mối tình của chàng. Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia,
sau khi đã uống rượu, chàng gây lộn và đánh nhau với một người trong quán, nên
bị chủ quán tống cổ ra ngoài đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông với con
mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại thế quân bình. Sau khi biết được cô gái hàng
xóm cũng yêu chàng, thế là chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc đời.
Vở kịch được trình diễn một cách rộng
rãi và đã thu hút được nhiều người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung,
vừa nhân bản, lại vừa gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh
hoang dã mà chúng ta đang sống.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn
Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu
đã vào sa mạc, nơi hoang dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm
ngày. Theo Kinh Thánh, sa mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ,
của thử thách.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang
sống trong một nơi hoang dã, một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới
hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con
người thời đại. Giết người không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành
động gian tham, trộm cướp bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người
mỗi năm? Thế nhưng, việc phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số đó
rất nhiều.
Thú dữ mang hình người trong hoang địa
của chúng ta đang phá huy không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt
phá huỷ sự sống tinh thần của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng
hạn như những phim ảnh và sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm
chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn hay không?
Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách
của Chúa Giêsu. Bởi vì chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì
thế mà Ngài đã vào hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu
nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong
thế giới ngày hôm nay.
Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và
hy sinh, chúng ta mới có thể thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi
lòng chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những
hy sinh hãm mình, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt
dọc cuộc đời chúng ta.
3. Chiến thắng lòng tham – Lm. Jos. Tạ
Duy Tuyền
Thông thường con người chúng ta thường
hay ghen ghét, bất hoà, tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều
gì?
Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay
trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp gia phong vì danh
vọng và đồng tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng,
chồng ruồng bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì đồng tiền, bát
gạo, và người ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay quen, là bạn hữu
xa gần chỉ vì một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã hội.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê
muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh
mất tính người. Nhưng có lẽ, cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại
chính là đồng tiền, vì có tiền là có tất cả.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng
đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ,
tình nghĩa thầy trò cũng không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã
từng nói: "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông
tôi". Thật vậy, có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền
lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất
để tôn thờ vì thế dân gian mới có câu: "Ông tiền , ông Phật, ông Tiên - Ba
ông đứng lại, ông tiền cao hơn".
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng
đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp
vội một khối vàng rồi chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám
cướp vàng của kẻ khác như thế?
Anh ta trả lời:
- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên
hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao
mình vào lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung,
cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công,
miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về
việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì?
Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ
khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng
mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn
đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa
là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi
lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó
đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình
diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức
Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho
ma qủy nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với
Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên
bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại
với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm
nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót
và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán
thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh
vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi
lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo,
dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai
khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm
cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại .. . Đó là những mối tội đầu
đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.
Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta
chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về
thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để
lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì
thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận
ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng
ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với tin mừng của Chuá. Sám hối
để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ
hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là
Đấng hoàn thiện.
Lạy Chuá, Chuá đã dựng nên con giống
hình ảnh Chuá. Xin cho con biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc
tránh xa những thói hư tật xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng
trong sạch để xứng đáng nhìn xem Thiên Chuá. Amen.
4. Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm)
Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ
nhất mùa chay. Giáo Hội giúp chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta
qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu sống thân phận con người.
I. Cám dỗ nơi con người và nơi Đức
Giêsu
Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?
Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?
Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh
thần, con người luôn có thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về
điều này.
Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn
những đòi hỏi của thân xác và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ
trên. Chẳng hạn người ta nhận thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính
dục hay khuynh hướng muốn mình giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh
thần muốn mình trổi trang hơn người khác...
Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi
danh lợi tiền bạc địa vị, không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái
tầm thường, đó là những cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.
Muốn trổi trang, không là tội, nhưng
còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên
người khác hoặc trên Thiên Chúa, và xúc phạm người khác.
Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người
tự do trước cám dỗ, con người có thể không thuận theo cám dỗ. "Ví thử
đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?". "Ơn Ta đủ cho
con" (2Cor.12, 8-9).
Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám
dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: "cứ
xin thì được, tìm sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt.7,7).
Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi
con người vươn lên Ngài qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý
trí.
II. Phép rửa khởi đầu đời sống mới
Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma
qủy trong những chọn lựa ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở
lại, để chúng ta khởi đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông
Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50).
Mỗi người chúng ta cũng đã chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi
Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo
mới.
Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về
Thiên Chúa, chúng ta là tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức
Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của
Ngài và sống lại trong sự sống của Ngài.
Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín
trong tâm hồn chúng ta, dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được
Thiên Chúa yêu thương.
III. Giao ước biểu lộ tình yêu của
Thiên Chúa
Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký
kết giao ước với! Chẳng lẽ người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?
Thiên Chúa ký kết giao ước với con
người, để không bao giờ tiêu diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối
với con người thật tuyệt vời biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài
trung thành thực hiện, không bao giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con
người có bất trung phản bội.
Tình thương của Thiên Chúa đối với con
người, được thể hiện trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản
bội, nhưng lịch sử lại ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch
sử, là lịch sử Thiên Chúa cứu độ con người.
Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên
Chúa thực hiện đối với con người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển
dòng lịch sử, can thiệp vào lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ
tất cả loài người.
Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh
cao cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức
Giêsu, con người tìm được con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình
được yêu thương và sẽ là thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm
người. Ngài bị cám dỗ, Ngài vượt qua, "Ngài là đường, là sự thật và là sự
sống". Ngài là thầy, và không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu
có ai trên trần gian này là thầy, là người đó được tham gia "chức
thầy" của Đức Giêsu.
Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của
chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn
toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Ngài.
5. Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Giuse
Đỗ Vân Lực
Cuộc sống muôn mặt. Có buồn. Có vui.
Niềm vui không thiếu trong cuộc đời. Nhưng niềm vui thường chỉ đến với những
người giàu có, thông thái, quyền thế. Hôm nay, Đức Giêsu công bố Tin Mừng cho
những người nghèo khổ. Nước Trời đã tìm thấy trụ sở nơi những tâm hồn đơn sơ,
tầm thường.Vì chính Đức Giêsu cũng phát xuất từ hoàn cảnh khó nghèo đó.
Hơn nữa qua cơn thử thách trong hoang
địa, Đức Giêsu mới cảm thấy thấm thía cơn đói khát của nhân loại trên đường tìm
về hạnh phúc đích thực. Hôm nay hạnh phúc đã xuất hiện trong tầm tay, vì
"Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần" (Mc 1:15). Chúng ta có nhận ra
những dấu chỉ và thời điểm Thiên Chúa đến viếng thăm hay không?
CUỘC ĐỌ SỨC
Đức Giêsu được Thánh Linh dẫn vào hoang
địa để đương đầu với đối thủ lợi hại nhất của Thiên Chúa là Xatan. Tại đây sẽ
xác định cuộc thắng bại, quyết định tất cả sứ mệnh cao cả của Người. Thánh
Marcô thuật lại rất vắn tắt, nhưng cũng cho thấy sau khi "chịu Xatan cám
dỗ", Đức Giêsu "sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người" (Mc 1:13). Sau cơn cám dỗ rất lớn lao đó, Thiên Chúa đã trả lại cho
Đức Giêsu cảnh hòa hợp giữa đất trời. Cảnh hòa bình đó chỉ kiếm thấy trong thời
Mêsia (x. Is 11:6-9). Cuộc chiến thắng Xatan vô cùng cần thiết để chấm dứt cảnh
lộng hành của đầu mục thế gian và mở ra một thời đại mới chan chứa tình người
và hồng ân cứu độ. Đức Giêsu sẽ là thủ lãnh qui tụ muôn dân trong cảnh hòa bình
và hạnh phúc.
Để rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu
đã phải chuẩn bị bằng một cuộc chiến thắng những ồn ào của bao cơn cám dỗ.
Người đã lên tiếng giữa một cảnh thanh bình, giữa cảnh hòa hợp và tương liên
giữa mọi thụ tạo, giữa thiên thần và các muông thú (Disciples in Mission
[Homily Guide, Lent Cycle B 1999:5]). Con người cảm thấy liên đới với muôn thụ
tạo trong ơn cứu độ do Thiên Chúa đã giao ước. "Con người không còn là một
kẻ ngoại cuộc hay kẻ thống trị thiên nhiên. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng mình
là một thành phần của chính thiên nhiên. Vũ trụ hôm nay không phải là một miền
đất lưu đầy cũng không phải chỉ là nguồn khai thác của con người. Nhưng vũ trụ
cũng được Thiên Chúa yêu thương như chúng ta. Tất cả đều lệ thuộc vào luật của
Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta, luật liên kết tất cả "các thụ tạo
có xác" vào một giao ước" (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent
Cycle B 1999:7]). Quả thế, "muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ
ngày cũng sẽ được giải thoát, cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và
vinh quang" (Rm 8:19-21).
Sau khi chiến thắng Xatan, Đức Giêsu
cảm thấy có một sức mạnh phi thường. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Khi nghe
tin "ông Gioan bị nộp" vì đã làm chứng cho công lý, "Đức Giêsu
đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa" (Mc 1:14), một Tin Mừng
"cống hiến cho nhân loại sự tự do, công chính và niềm hi vọng" (Life
Application Study Bible 1991:1727). Nghĩa là Người vẫn không sợ xiềng xích gông
cùm, nhưng can đảm rao giảng "Triều Đại Thiên Chúa" (Mc 1:15), một
Triều Đại được xây dựng trên lẽ công chính, trái tai bạo chúa Hêrôđê và đẩy ông
Gioan vào chỗ chết. Cũng chính vì lẽ công chính đó, Đức Giêsu đã bị bách hại.
Nhưng cũng chính nhờ đó, uy quyền Thiên Chúa bao trùm toàn thể vũ tru,# và nhân
loại mới biết thời đại cánh chung đã đến.
Đã đến phút chót, mọi lời Thiên Chúa
hứa phải được thực hiện. Chính nơi con người Đức Giêsu những lời hứa đó sẽ hiện
thực từng nét. Cũng chính nơi Người, người ta nhận biết và cảm nghiệm
"Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần" (Mc 1:15). Muốn thừa hưởng lời hứa
và sống trong "Triều Đại Thiên Chúa", "anh em hãy sám hối và tin
vào Tin Mừng" (Mc 1:15). Đó là điều kiện duy nhất cho những ai muốn sống
với niềm vui Nước Trời. Không thay đổi não trạng, không chuyển hướng sống,
không thể cảm thấy niềm vui của những người "quay về với Thiên Chúa của
Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới" (Kinh Thánh Tân Ước 1995:184),
một cuộc sống được biến đổi toàn diện nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức
Giêsu Kitô.
Khi sám hối, chúng ta trải qua một cuộc
lột xác, giống như "thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần khí
Người đã được phục sinh" (1 Pr 3:18). Chính Thần Khí sẽ tạo nên cả hai
cuộc biến đổi kỳ diệu đó. Thần Khí sẽ gìm toàn thân chúng ta vào máu của Đức
Giêsu và sẽ nâng chúng ta lên "cùng Thiên Chúa" (1 Pr 3:18), dưới sự
lãnh đạo của Đức Giêsu Kitô. Nhờ cuộc toàn thắng đó, Đức Giêsu đã giựt thoát
nhân loại khỏi nanh vuốt ma quỉ, tội lỗi và sự chết. Nhờ đó, Đức Giêsu trở
thành hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu vô điều kiện đối với các
thụ tạo của Người.
"Sám hối là quay hướng về, đáp trả
lại tiếng mời gọi" (Fuellenbach 1995:590) của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tạo
mọi điều kiện mang lại cho chúng ta niềm vui, nhất là niềm vui của người con
hoang đàng trong ngày vui họp mặt với cha già khả kính. Bởi đó "sám hối là
một dịp vui, chứ không phải một việc phán xét hay lên án" (Fuellenbach
1995:590). Vui vì "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần". Vui vì mọi người
sẽ đón nhận hồng ân cứu độ và được qui tụ về nhà Cha để cùng nhận ra nhau là
anh em.
GẶP GỠ
Niềm vui đó chỉ tìm nơi Đức Giêsu Kitô.
Lý do vì nơi Người, chúng ta tìm được tất cả "sự công chính, bình an và
hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17). Cuộc gặp gỡ Người không dừng lại
nơi lý thuyết hay các nghi lễ, nhưng tận thâm tâm, bản ngã con người. Chỉ có
thể cảm nghiệm, hiểu biết và tưởng tượng được Nước Trời là gì khi bản thân tôi
gặp gỡ "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2:20). Trong cảm
nghiệm sâu xa đó, Đức Giêsu sẽ trở thành "trung tâm của cả cuộc đời chúng
ta" (Fuellenbach 1995:590). Tất cả đều tùy thuộc và quy hướng về Người.
Đức Giêsu chính là cầu vồng nối đất với Trời. Sức sống vươn cao, vì ơn cứu
thoát đến đúng lúc. Thiên Chúa đã có sáng kiến trước, đã làm tất cả cho con
người. Người vẫn kiên nhẫn chờ đợi xem con người phản ứng thế nào trước những
sáng kiến diệu kỳ của Người. Chính vì yêu thương, Người đã không ngần ngại đi
bước trước. Đáp lại sáng kiến đầy tình yêu thương đó, tức là sám hối
(Fuellenbach 1995:590). Nói khác, con đường trở về với Thiên Chúa trải bằng
những cánh hoa hồng tình yêu. Nhưng chỉ những tâm hồn khiêm cung mới thực sự
hiểu được chỗ đứng của mình trong một trần gian đã được kết giao trong máu Đức
Kitô và mới có thể tìm được con đường dẫn đến hoà bình nối kết bằng những tràng
chuỗi Mân Côi ngọc ngà.
Chính vì thế, trong giai đoạn cực kỳ
nghiêm trọng này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới lên tiếng : "trên
hết, chúng ta hãy khẩn xin Thiên Chúa cho mọi người cải hoá nội tâm và mở rộng
tầm nhìn khi đưa ra những quyết định công bình giải quyết những tranh chấp cản
trở cuộc hành trình trần gian hôm nay bằng những phương tiện tương xứng và hoà
bình. Trong mỗi đền thánh dâng kính Mẹ Maria, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên
trời cao những chuỗi Mân Côi cầu xin cho hoà bình. Tôi xác tín rằng các giáo xứ
và gia đình cũng đọc kinh Mân Côi cho công cuộc quan trọng và có tầm ảnh hưởng
lớn lao đó." (Zenit 23/02/03) Chỉ kinh Mân Côi mới mạc khải cho chúng ta
biết "không bao giờ chúng ta có thể sống hạnh phúc nếu chúng ta kình chống
nhau ; tương lai nhân loại không thể bị nhận chìm cùng với chủ thuyết khủng bố
và logic chiến tranh. Đặc biệt các Kitô hữu chúng ta được kêu gọi trở thành
những người bảo vệ hoà bình ở những nơi chúng ta đang sinh sống và làm việc.
Nghĩa là chúng ta cần tỉnh thức, để tiếng lương tâm không khuất phục trước cám
dỗ đầy ích kỷ, sai lầm và bạo động." (Zenit 23/02/03)
6. Cám dỗ trong hoang địa – Cố Lm. Hồng
Phúc
Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay.
Tất cả lời Chúa hôm nay gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm:
"Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin
vào Tin Mừng."
Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời
sắp đến. Mùa Chay là mùa hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi
Giáo đoàn Roma, đã nói lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: "Ở
đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân
(tội lỗi), ngõ hầu Người dủ lòng thương hết mọi người" (Rom 11, 32).
Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có
tính cách như một bài giáo huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói
lên ơn cứu chuộc tràn đầy rằng: "Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi
chúng ta... thay cho chúng ta là kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên
Chúa." Ám chỉ phép rửa tội, Thánh Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa,
vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng
nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống. Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta
cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết
và tội lỗi để ban cho chúng ta sự sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn
ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.
Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất
lãm về việc Chúa bị ma quỉ cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa
dẫn đến sứ vụ Tông đồ của Chúa. Ngài chỉ viết: "Thánh Thần thúc đẩy Chúa
Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống
chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài".
Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh
không, là nơi không có tiếng nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú.
Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng
nhưng không phải là không có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên.
Tiếng nói của chính lương tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã
qua, một khoảng đời sắp tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì "Người thích
nói trong im lặng". Vì thế, ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang
địa Thebes bên Ai cập để sống đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự
ồn ào thành phố Lamã để vào trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.
Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí,
như lời Chúa phán: "Khi tà thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài
những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ ngơi...". Trong chốn thinh không im lặng,
ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá. Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều
hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ
phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong
35 năm.
Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói,
"Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm
ngày, chịu satan cám dỗ". Vị Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám
dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi
Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và
các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà
Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống. Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn
muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với
các Thiên Thần.
Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu
gồm tóm trong hai điểm: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn
sám hối tội lỗi. Đó là phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ
có thế, có biết bao nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng
ta. Nhưng điều tích cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn
chúng ta. Đức tin và sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.
Charles de Foucaul đến gặp một vị linh
mục quen là cha Huvelin và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin.
Cha Huvelin nhìn con người về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội
đi đã. Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị
sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi mới. "Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa
thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì
Người".
"Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin
Mừng."
7. Đức Giêsu trong hoang địa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể
Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm
hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công
việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật
III Thường Niên, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về
sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài
suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo
cách diễn tả của tác giả Mc.
Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức
Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: "Thần Khí liền đẩy Người vào hoang
địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài
dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người" (cc.12-13).
Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa,
"đẩy" Đức Giêsu vào hoang địa. "Đẩy" ở đây là một ẩn dụ chỉ
sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong,
mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức
Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong "hoang địa". Và vì
là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên
sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã
từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như
một con đường (1,2). "Hoang địa" mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì
thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.
Về bản chất, hoang địa này khác hẳn
hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi
chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người;
nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện
của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa
và người ta lãnh ơn tha thứ... Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì
không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động
của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu
cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không
kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong
hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại "cư
dân": Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện
đồng thời của ba loại "cư dân" này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang
địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ
mang tính biểu tượng – thần học.
Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên
Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của
Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn –
phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về
đất hứa. Nay, "hoang địa" cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình
hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong
hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì
"hoang địa" nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó
Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh
của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.
Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình
ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự
tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên
tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong "hoang địa", tức là Người tuyệt đối
không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái
và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự
đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính
chất của ẩn dụ "hoang địa" cho phép chúng ta hiểu như thế.
Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng
đang được Thần Khí đẩy vào "hoang địa" để thực hiện cuộc xuất hành
của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ
không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu
tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân
Israel
xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa "chảy
tràn sữa và mật". Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất
hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa
đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Nhưng "hoang địa" mà Thần Khí
đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra
với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự "đi vào hoang địa" là biểu tượng cho
một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai
lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã
nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai
lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần
Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này,
tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những
nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và
môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá
trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc...
Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của
Thần Khí. "Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống
giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người" (c.13).
Trong Cựu Ước, con số "bốn
mươi" thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình
trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại... Thí dụ
trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là
con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa,
tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38;
Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25...). Vì thế, chi tiết
"Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày" rõ ràng mang giá trị biểu
tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến
đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
Trong "hoang địa", Đức Giêsu
chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. "Satan" là một hạn từ Hípri.
Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối
thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa
chỉ về một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước
mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn
nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu
như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến
chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do
Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh "hoang địa", thì Satan,
trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm
cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong
Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện
chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo "tư tưởng của loài
người". Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc
tử nạn – phục sinh, giữa "hoang địa" là xã hội và tôn giáo Do Thái,
Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin
Mừng hôm nay gọi là "Người chịu Satan cám dỗ".
Loại "cư dân" thứ hai trong
"hoang địa" mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức
Giêsu "sống giữa loài dã thú". Thông thường, các loài dã thú được
hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt
con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói
về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5.
Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ
nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is
11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ "hoang địa" ở
đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và "các loài dã thú" là một
thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is
11,6-9 được.
Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn
dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền
lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần
trong khung cảnh xã hội Do Thái ("hoang địa"), theo nghĩa tương tự
như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng
chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những
thứ quyền lực chính trị – xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên
những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ
bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy
Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu "sống
giữa loài dã thú" tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy
nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.
Loại "cư dân" thứ ba trong
"hoang địa" mà Mc 1,13 nói đến là các "thiên sứ" (aggelos).
Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên "thiên sứ" được nói đến, chính là ở
1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi
Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, "aggelos" vẫn có thể là con
người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận
cách giải thích phía trên về ba hình ảnh "hoang địa",
"Satan" và "dã thú", thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận
cách giải thích, theo đó, ẩn dụ "các thiên sứ" ở đây ám chỉ một nhóm người
nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng
cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu "các
thiên sứ" ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức
Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công
cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa
có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người
đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng
hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc.
Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách
hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh
của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta
nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi
hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính
Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về
những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.
"Thần Khí đẩy Người vào hoang địa.
Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã
thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người" (Mc 1,12-13).
8. Sống là chiến đấu.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện
kia hỏi một tu sĩ: - Hôm nay con đã làm gì?
- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả
lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ
của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con
nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc
một bệnh nhân.
- Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi
lại, những việc như thế làm gì có trong tu viện này?
- Thưa cha bề trên, thật đúng như thế.
Hai con chim ưng là hai con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong
sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của
con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính
đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm
những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để
nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con,
con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân
xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục không xâm nhập và luôn lành
mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì
sống là chiến đấu. Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go
nhất chính là cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù
ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời
trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu
và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công
khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách
–tương tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong
sa mạc để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo
lời xúi giục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái
cấm, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử
thách, kéo theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm
trong sa mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng
đã sa ngã trước thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách
Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày
đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía
Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép,
danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương
quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh
ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui,
nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám
dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và
thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến
thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe
Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu
đã chứng tỏ: con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan,
nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp
nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì
cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật
chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để
làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng
không lòn cúi, quy lụy Satan để được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là
Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta
đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là
sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con
người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả
ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: "Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn
người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng" (Hs 2,16). Sa
mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì
thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi
giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục
như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên
ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống
theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết
bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là
từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận
khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước
thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc,
lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó
với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện
tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với
Chúa và với anh chị em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã nói: "Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm
dân Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh
luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám
phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi
mắt để nhìn thấy nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa
Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở
nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa
không nhà". Đức Thánh Cha còn nói: "Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải
của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng
thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp
cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những
người đang sống túng thiếu"... "Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại
mà Kitô hữu, với tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện
diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi
trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là
một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu
thương"
9. Vào hoang địa – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt.
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi
những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh
Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu
luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các
huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải
tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải
mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu
luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh
theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng
ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có
tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai
vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến
đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến
đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi
chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà
không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối
thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức
là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu
phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa
phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì
lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người
sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu
cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân
Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất
Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã
nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô
lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt
qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm
ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái
lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ
được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu
phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ
thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ
cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài
sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến
cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ
đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ
thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã.
Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu
luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc
nhất của ma quỷ.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã
trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà
nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm
thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ
bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi
vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử
thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc
thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn
thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa
thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn
thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp
được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp
mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý
Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa
Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng
sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi
là "Con yêu dấu" của Chúa Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy
vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh
cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng
ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là
sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn
giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là
kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa
dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là
từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa,
dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là
giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn
toàn thuộc về Chúa để trở nên "Con yêu dấu" của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt
mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ
đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả;
quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó
chịu không?
2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn
đã chống trả thế nào?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để
thêm lòng mến Chúa yêu người?
4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo
ý Chúa không?
10. Vào hoang địa
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Mỗi khi bắt đầu mùa Chay, Hội Thánh lại
mời chúng ta vào hoang địa với Đức Giêsu. Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến
nơi đó, ngay sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan và nhận được Thánh Thần để
lên đường đi sứ vụ.
Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu
nguyện. Một cuộc tĩnh tâm để định hướng tương lai, qua đó Đức Giêsu thấy rõ con
đường Ngài phải đi, và qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa
và nhận ra những cám dỗ đang bủa vây tôi, những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới
lớp áo mới. Nếu đời tôi là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi
những cám dỗ.
Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và
cái xấu. Giữa những cái tốt, tôi có tự do để chọn cái tốt hơn. Biết mình đã lạc
hướng hay lệch hướng là điều cần thiết.
Con người hôm nay không yếu đuối hơn
ngày xưa. Nhưng có lẽ nó bị cám dỗ nhiều hơn xưa, vì cuộc sống tiến bộ cho
người ta nhiều chọn lựa. Tôi phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video, chọn
một loại vải, một kiểu áo, chọn chỗ giải trí tối nay.
Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa
của tôi: áp lực của quảng cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư
luận... Có những mời mọc nhắm vào các giác quan của tôi. Các giác quan như
những cánh của mở của căn nhà trống trải. Bao kích thích khêu gợi như luồng gió
lùa vào nhà. Thắng được những đòi hỏi vô độ của thân xác đòi hỏi một sự tự chủ
lớn lao. Thắng được những đam mê mù quáng của con tim cần có một thái độ anh
hùng từ bỏ. Thắng được sự cứng cỏi, cố chấp của trí tuệ cần có một lòng khiêm
tốn mở ra trước chân lý.
Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không
ngừng, vì con người vẫn nghiêng như tháp Pizza. Cần phải tập nghiêng về điều
ngược lại để tạo lập được sự quân bình trong cuộc sống.
Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con
người khép kín, chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình. Cám dỗ im lặng vì sợ liên
lụy. Cám dỗ giả mù trước sự thật rành rành. Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được
yên thân. Cám dỗ sống một đời sống tầm thường và buông thả. Cái cao cả của con
người là chiến đấu và chiến thắng. Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm
trung tâm, con người mới thành người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của
Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của mình. Nhưng trước hết, chúng
ta cần ăn chay và cầu nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con
người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm
nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ,
mà còn phải xa tránh những nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý
bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?
Cầu Nguyện
Như đoá sen trong đầm lầy, xin giữ tâm
hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình
dục, xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những
thèm muốn chiếm đoạt, để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực vào
những chuyện tình cảm chóng qua, nhưng giúp con tự rèn luyện mình để gánh vác
cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy, xin giữ thân
xác con thanh khiết.
11. Hãy sửa đổi đời sống và tin vào Tin
Mừng.
Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25
năm và xem ra họ là một cặp xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng
có việc làm tốt. Họ cùng nhau đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối
trước ngày họ về hưu. Song giữa họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là
cứ mỗi lần nói chuyện là một lần họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ,
đương nhiên vì đạo giáo họ không thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào
buổi tối kia khi hai người bắt đầu buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông
chồng, "Tôi và ông không thể tiếp tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế
này mãi được, chúng mình phải chấm dứt tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày
đầu tiên của mùa Chay, tại sao tôi và ông không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi
cách sống này. Vợ chồng mình hãy cầu xin Chúa gọi một người trong chúng ta về
với Ngài".
Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy
điều bà vợ nói là sai với tinh thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa
Chay là hồi tâm để canh tân thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để
đời sống tương lai tốt lành hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma
quỉ thì quyến rũ ta về lối khác; câu hỏi là "ta theo ai", sự quyết
định lệ thuộc vào ta hoàn toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
cũng nghe Chúa Cha gọi Ngài theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ
quyến rũ Ngài theo hướng khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn
mươi ngày dài ăn chay thì sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi
khi ấy Ngài rất đói. Ngay lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt
theo đuổi Ngài. "Tại sao không biến những hòn đá kia thành bánh? Ta có thể
làm điều đó và hơn nữa khỏi phải đói!" Sau những ngày một mình trong hoang
địa làm Ngài cảm thấy cô đơn. "Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ để mọi
người chú ý? Chẳng hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không bị
thương tổn? Chà chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào, khi
ấy Ta hết cô đơn!" Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý tưởng về
công cuộc truyền bá của Ngài. "Tại sao Ta không là một anh hùng dũng sĩ
như người ta mong chờ nơi Đấng Thiên Sai? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu có. Ta
có thể làm điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa!" Những quyền lực
hung mãnh trên sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc mà
thiếu các dự bị thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn: một là cố tự bảo vệ cho đến
khi trợ giúp tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám hiểm sa
mạc đã viết: "Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có thể sống
sót qua sa mạc". Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua hoang
mạc và Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của ma
quỉ. Ngài đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho ta
biết "Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày". Theo truyền
thống của Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm
sức mạnh ý chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện
tâm hồn mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân
lý rõ ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá
Tin Mừng của Ngài. Ngài đã nói, "Hãy xéo đi Satan! Vì có lời Thánh Kinh đã
viết: Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình
Ngài" (Mt 4,10).
Đời sống là những chuỗi dài của núi cao
và thung lũng. Chẳng ai trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm
hoang mạc, đó là những giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo
cô đơn. Chắc chắn rằng, vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết
nhất cho chúng ta.
Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn
lẻ loi và thất bại trong cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống,
nhưng chúng ta đừng thất đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với
chính mình để có thể nghe được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng
ta. Trong hoang mạc của đời sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan,
vô mục đích, vô ý nghĩa, nó tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi
quyền lực bên ngoài mà chúng ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối
tìm ra ý nghĩa xác thực và cùng đích của cuộc sống của chúng ta; chỉ có một con
đường để tìm ra ta là ai và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe tiếng
Chúa Kitô trong tâm hồn ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm hoặc sẽ
lâu hơn thế nữa để Tin Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan trọng
cần thiết là ta phải tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe tiếng
Chúa thì là lúc ta thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm, nỗi
trống rỗng sẽ bao bọc và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết chúng
ta.
Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình
ra đi, ta có thể đi qua ánh sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng
chúng ta có thể tự tìm ra câu trả lời "tại sao" cho cuộc sống; và nó
là sự cám dỗ làm chúng ta tự hình thành những "thần tượng" nhỏ bé
trong tâm hồn chúng ta. Ta phải tự nói với chính mình rằng, "Tôi cần Thiên
Chúa nói cho tôi biết tôi là ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu? Tôi
cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi ra khỏi sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài
và Ngài nói cho tôi biết sự toàn hảo của tôi nằm ở đâu? Hãy tránh xa ta đồ quỉ
dữ Satan, vì ngay từ đầu Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả... Ta chỉ
tôn thờ một mình Ngài".
Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm
kiếm Nước Chúa trước tiên là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta,
nó không đơn giản chỉ là tăng thêm cái gì đó vào đời sống; song đúng hơn là một
tính chất mới mẻ nảy sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là
chúng ta đón nhận nguyên cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương
lai đó chính là Thiên Chúa Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là
cái gì nối tiếp từ quá khứ song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không
chỉ là hoạt động sinh lý tự nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ
chính sự sống. Món quà của sự sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến
thắng khải hoàn của Chúa Kitô, vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm
gì được.
Đó chính là sự thành quả hy vọng, công
chính được thoả mãn, tình yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.
12. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình
yêu Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan)
Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa
Chay đã 'nói trúng tim đen của chúng ta' rồi đấy, và làm rung động tận chốn
thâm cung tâm hồn chúng ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung
tín với tình yêu Thiên Chúa. Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những
việc làm chính yếu của Mùa Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng
để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp
tục suốt đời. Đối với một số người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ
thuốc lá, trong khi những người khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ
hằng ngày... Cho dù chúng ta thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ
thúc đẩy chúng ta mới là quan trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì
muốn có thân hình thon thả, hay chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì
trong cộng đồng, thì những nỗ lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta
đã nhận được phần thưởng rồi và vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.
Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa
Giêsu đã đi vào hoang địa suốt 40 ngày đêm - cũng vì thế mà ngày nay chúng ta
tổ chức hẳn một Mùa Chay Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh
nghiệm của Chúa Giêsu là thiết lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân
thiết hơn giữa Thiên Chúa với chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình
vào sa mạc nội tâm nơi đó mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân
thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự
là ai, chúng ta làm gì với những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta
ý thức hơn về tình trạng tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau
lòng mà nhận ra mình cần thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng
cách cầu nguyện chay tỉnh và đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp
chúng ta nhận thức được rằng những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan
trọng hơn những khía cạnh vật chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những
lỗi lầm của bản thân, chúng ta mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều
khác.
Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số
những người chuyên chụp mũ cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc
chính là cơ hội để chúng ta nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói
tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã
có một phương thuốc hữu ích rồi.
Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng
những người mà chúng ta thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm
tình. Bỏ rượu chè cờ bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ
đó chỉ tổ là những nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc...?
Cầu nguyện hằng ngày rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên
lạc sinh tử giữa chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta
với Đức Kitô cũng không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta
phải dành ưu tiên số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin
đức cậy và đức mến, nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin
tưởng cậy trông và đem chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.
Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta
tìm đến tâm linh, kêu mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi
phương diện của cuộc sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của
tội lỗi và ích kỷ bên trong chúng ta.
Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay
đổi hành vi thái cử vì những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm
thui chột sức tăng trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là
thời gian chúng ta cần trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa
Chay trở nên một kinh nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói
"không " với bản thân và nói "có " với Thiên Chúa là tất cả
những gì phải làm trong cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.
13. Tin là chấp nhận đường thập giá –
Noel Quesson
"Anh em phải sám hối và tin vào
Tin Mừng"
Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh
đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết "Bầu trời và Thập giá" của ông,
truyện một người thù ghét thập giá. Thấy thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá
huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ
bằng vàng, anh cũng lừa giật được và ném đi. Anh bảo: "Thập giá là biểu
tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm vui và cuộc sống".
Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư
anh, đến mức thấy bóng thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh
leo lên tận tháp chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh
đập tan cái ban công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá... Anh
nhìn đâu cũng thấy thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình
và bị chết cháy.
Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể
từ cái chết của Chúa Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là
chiến thắng của tình yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù
và đưa thế giới tới chết chóc, diệt vong.
Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô
hữu và cũng là một thử thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa
Giêsu trên thập giá, con người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà
chỉ thấy vô lý khó chịu: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi
thập giá đi" (Mt 27, 40). Thử thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta,
còn tác động trên cả Giáo hội. Người ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống
khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn,
vì "Nhập thể" là hình thức "Yếu đuối" (1 Cr, 1, 25). Một
Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp với mọi tôn giáo....
Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với chủ trương của
Thánh Phaolô Tông đồ: "Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn
ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là gương xấu cho
người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại " (1 Cr. 1, 22-23)
Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá,
nói thế cũng có nghĩa là Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta
đi vào con đường Thập giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để
biểu lộ tình yêu đối với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).
Đó là con đường tốt nhất và duy nhất.
đôi lúc ta ngại đón nhận thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô
hũư của ta "Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ".
14. Nơi hoang địa - ĐGM. Arthur Tonne
Richar Miller là một học sinh cấp ba
vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường
quyền bính. Chàng yêu say đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha
nàng sợ lối sống lập dị của Richar nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất vọng, Richar lui tới một quán
rượu, chàng gặp một phụ nữ tên Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là
"Flirt" (gái giang hồ). Một người đàn bà đùa dỡn với tình yêu không
đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn với một thương gia và bị tống cổ ra khỏi
quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng
lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật, Richar được biết Muriel thực sự yêu chàng.
Chàng quyết định hối cải và đợi nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne
- O'neil viết vào năm 1933 tựa đề "Ah Wilderness " (Nơi hoang tàn) vở
kịch được trình diễn rộng rãi vì nó phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản
trong đời sống hàng ngày, nó vẽ nên phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang
sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta
rằng Đức Giêsu đã ở trong sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40
ngày mùa chay. Sa mạc là nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ
mà Đức Kitô đã đến chế ngự. Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật
thứ nhất mùa Chay. Có gì liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa
chay đầu, với bạn và tôi trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống
trong một nơi "hoang dã" một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới
hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người
thời đại - sát nhân không gớm tay cướp giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con
thú dữ nào giết hại hàng triệu người mỗi năm? việc phá thai làm đúng như thế
đó. Thú dữ hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huỷ không những sự
sống thể xác, mà còn đặc biệt sự sống tinh thần của những người gần chúng ta và
thân yêu của chúng ta nữa; Xin kể một vài con thú xấu xa đó: người quảng cáo ma
tuý, người xuất bản sách báo đồi truỵ, những tác giả chuyện phim và chương
trình truyền hình.
Không có cách nào để kiềm chế những kẻ
tàn phá thể xác và tâm hồn này sao? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều
sự dữ Chúa Kitô đến cứu chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến
thắng những sự dữ này bằng đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa,
chúng ta mới chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện
xin Chúa giúp, bằng sự hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế,
thuần hoá những thú dữ ở giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú
tính trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay.
Trong tinh thần chúng ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong "hoang
địa" ngày nay. Với Người, chúng ta thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng
như người đã chiến thắng sự dữ trong thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến
thắng sự dữ trong hoang địa hiện đại của chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
15. Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' - Lm
Trần Ngà)
Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó
sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.
Người ta dùng một con dao cực bén và
nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho
máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao
được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con
dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ
phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông
đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều
đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng
máu của mình mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và
nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.
Cám dỗ trong đời người
Có thể nói: con người là con vật phải
đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống
(rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của
tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.
Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào
các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như
những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc
nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng
phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.
Không rõ con sói một khi biết có lưỡi
dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa
không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc
thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó
đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng: "thà một phút
huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm" (Xuân Diệu)
Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên
Chúa... nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân. (Philip 2, 6-7)
Vì trở nên người phàm như chúng ta,
"Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta'
(Do-thái 4,15).
Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong
thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi
ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)
Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm
bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không
bao giờ sa chước cám dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và
luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.
Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với
Chúa Giêsu.
Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị
chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có
hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị "xỏ mũi" bởi các đam mê tội lỗi,
thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam
mê và dục vọng xấu xa đen tối.
Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm
riêng. Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo
sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận
thù, ghen ghét, kiêu căng...
Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở
thích của cá; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp
"khẩu vị" của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng
ta.
Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội
kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà
soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi
phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính
những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết;
và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm
giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu
với chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không
bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi
làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến
công vẻ vang như Chúa.
16. Cám dỗ
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi
xin kể lại trường hợp vượt ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta
bị nhốt trong một ngọn tháp thật cao và trong phòng thì lại không có một phương
tiện nào để có thể leo xuống. Vậy ông ta đã làm gì?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ
có hai sợi tóc và xe lại với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một
sợi dây bằng tóc khá dài. Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở
dưới, một người bạn thân đã chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào
đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài.
Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ,
người bạn ấy buộc một dây thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt
đầu kéo lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm
lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ
thì nắm lấy dây thừng lớn và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục
cách an toàn trong một đêm trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng
chính là đường lối ma quỉ vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít
khi ma quỉ cám đỗ chúng ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ
sẽ khiến cho chúng ta sợ hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng
ta phạm một lỗi nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng
ta đến tội trọng.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke.
Đâu có phải chỉ trong một sớm một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc
đầu nó cám dỗ anh ta lân la với những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu
cho biết mùi đời. Sau một điếu, rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở
thành dân ghiền lúc nào cũng không hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã
quá muộn: Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không
bao giờ cám dỗ chúng ta làm hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ
chúng ta làm điều này, nó vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ
cám dỗ này, nó đưa chúng ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế
tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng.
Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào
vòng cờ bạc. Sau khi đã mê cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia
đình bị tan nát. Và nếu gia đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi,
thì sẽ sinh ra gian tham và trộm cắp.
Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu,
chúng ta thấy ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài
quì xuống thờ lạy Satan ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm
phép lạ khiến những hòn đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải
vật chất. Cám đỗ thứ hai nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi
dậy những ước muốn về quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy
nó, để khơi dậy sự chối bỏ Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám
dỗ chúng ta ăn cắp một món tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp
lặt vặt, như tục ngữ đã bảo: Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái
trứng, thì lớn lên sẽ ăn cắp một con bò.
Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi
nhỏ mọn. Rất có thể vì những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ
quay phản bội cùng Chúa.
17. Hoang địa
Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào
hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa
mạc là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì?
Trước hết, hoang địa hay sa mạc là nơi
thử thách. Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân Do Thái, trên đường trở
về miền đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Trong thời
gian này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám dỗ rời bỏ Chúa để chạy
theo những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã bị khuất phục, đã chịu
thua để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã thấy.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại
hoang địa, ngài đã bị Satan cám dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự
chiến thắng của Ngài là một bài học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và
bắt chước. Hãy khiêm nhường, hãy tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối
ăn năn để chúng ta cũng sẽ vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.
Charles de Foucauld đã tâm sự với cha
Huvelin như sau: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con
người từ sa mạc trở về và nói: Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã.
Charles de Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời
của vị sĩ quan bê tha tội lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu rằng
có một Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ
sống vì Ngài. Không phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc còn là nơi
để chúng ta sống thân tình với Chúa.
Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa
mạc, dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ
diệu, chẳng hạn hướng dẫn họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban
cho họ mười điều răn làm giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ
khỏi hiểm họa rắn độc... Thế nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu
được tình thương tuyệt vời ấy, để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.
Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang
địa để sống gắn bó mật thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay
tịnh. Còn chúng ta thì sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng
và chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời
chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng
đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào
sa mạc, để vào hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được
nguồn sinh lực, nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của
cuộc đời.
18. Cuộc chiến
Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công
bố là "Con yêu quý" thì "Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa.
Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các
thiên sứ hầu hạ Người".
Thật là một đoạn văn lạ lùng! Tại sao
đoạn này được đọc cho chúng ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay? Phải chăng vì
nó nói đến thời gian bốn mươi ngày của Chúa Giêsu? Có lẽ đó là một lý do nhưng
còn có những ý nghĩa khác nữa.
Trong chương hai của sách Sáng Thế,
trình thuật sáng tạo bắt đầu trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài
thú vật. Hoang địa là nơi dân Israel
đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và được tự
do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ đe dọa những người lữ khách. Nó cũng
được xem là nơi các quyền lực của thần dữ thống trị được biểu tượng qua các
loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù của Thiên Chúa, ngự trị.
Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ
lùng hôm nay trở nên đầy ý nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa: Chúa
Giêsu đến không phải để sống một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến
đấu với tất cả những gì là sự dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm thương
trong cuộc thử thách thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam trong
vườn địa đàng xưa, Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức là
kiểm soát được sự dữ. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ, chiến
thắng sự dữ và sáng tạo một cái mới.
Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi
đọc bài Tin Mừng này trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa
Giêsu, sau khi chịu bí tích Rửa tội chúng ta vào trong "hoang địa' của thế
gian này, nơi chúng ta phải đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta
đương đầu với hoang địa của chúng ta như thế nào? Chúng ta có vượt qua thử
thách như Chúa Giêsu hay chịu thất bại như dân Israel ngày xưa? Chúng ta có đủ sức
mạnh để loại bỏ mọi cám dỗ của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và
trung thành với bổn phận mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không?
Chúng ta chế ngự và kiểm soát các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và
thói quen xấu của chúng ta như thế nào?
Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có
thể xác định được căn tính của tôi chưa? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ
chống lại kế hoạch của Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không?
Hay tôi giống như một con thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con
đường bạo lực của mình? Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp
Chúa Giêsu, để trung thành phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa Giêsu
trong kế hoạch của Thiên Chúa? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở cho
chúng ta nhiều điều khác nữa đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của chúng
ta, nó chống lại Thiên Chúa và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức là
những đam mê của chúng ta cũng làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên Chúa
nữa. Mặt khác, chúng ta cũng có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta trong
việc phụng sự Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy
nghĩ đến nhiều vấn đề, đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như
Chúa Giêsu, can đảm, mạnh mẽ để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự
Thiên Chúa và tha nhân.
19. Dã thú
Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với
lạc đà mẹ như sau, "Mom! Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón
chân to tổ chảng vậy?" Lạc đà mẹ trả lời, "Để chúng mình băng qua sa
mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!" "Và tại sao chúng mình có
bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?" "Để cát khỏi rơi vào
mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!" "Và Mom, tại
saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?" Bây giờ
thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng
con nữa, nhưng cũng cố trả lời, "Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những
chất béo cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong
một thời gian rất lâu ở sa mạc!" "Đúng vậy, con biết rồi!" lạc
đà con nói, "Chúng mình có ngón chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi
dài để tránh cát bụi khỏi rơi vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa
nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?
Đời sống văn minh hiện đại làm cho
chúng ta có cảm giác giống như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc
để suy nghĩ, nhưng bây giờ đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban
cho ta con tim để yêu thương tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm
việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta cần đi vào trong "sa mạc" để khám
phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào trong cái cảm
nghiệm của loại "sa mạc" này.
Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng
của dân Thiên Chúa. Dân Do Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn
thoát khỏi đất Ai cập trở về miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của
Thiên Chúa. Chính ở trong sa mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao
ước. Trong dòng lịch sử, khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với
Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt, thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám
phá lại cái căn tính của mình là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của
mình, làm thức tỉnh đức tin và củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên
Chúa. Những đại tiên tri như Elijah và Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của
sa mạc: họ sống trong sa mạc, ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn
sơ và khắc nghiệt trong sa mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ
dân Ngài.
Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của
thánh Máccô. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, "Thánh Thần thúc đẩy Ngài
vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với
dã thú; và các thiên thần hầu hạ Ngài". Phúc âm của Matthêu và Luca diễn
tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu
riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã khước từ và nói, "Ngươi phải bái
lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà
thôi". Còn Phúc âm của Máccô, thay vì diễn tả những chi tiết của sự cám
dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: "Sống chung với dã thú". Dã thú là
những con thú nào?
Theo các nhà tu đức thì những con dã thú
đó không phải là những con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta.
Chúng là những con dã thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen
tuông, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh.
Những quyền lực này đè nặng trên chúng
ta khi chúng ta quyết định làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống
giữa sa mạc với đầy những "dã thú". Chúng ta bị vây hãm xung quanh
bởi một bên là những hoàn cảnh khó khăn, còn một bên là những cám dỗ mời gọi.
Chúng ta cần sức mạnh để chống lại những thù nghịch, những gì đang tạo ra cho
chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm nay chúng ta thử đối diện với
"những con dã thú" mà chúng ta thường xuyên phải chiến đấu trong đời
sống tâm linh.
1. Sự ngã lòng.
Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi
hoang địa với nhiều dã thú, khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải
chiến đấu thường xuyên và liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi
hỏi. Không bao giờ giải quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề.
Nhưng chúng ta phải lưu ý rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì
Thánh Kinh nói rằng "các thiên thần hầu hạ Ngài". Nói cách khác, Chúa
Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và
sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của
Thiên Chúa hướng dẫn: "Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa". Chính
Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức
mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với những khó khăn và cám dỗ trong cuộc
đời.
Selma Lagerloeff trong huyền thoại
"The Flanme", đã kể câu chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành
công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ
ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở
tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi
anh trở thành một con người mới. Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến
thích đánh nhau trở thành một con người yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã
bị bọn cướp bóc lột, anh đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng
bất cứ những gì anh có miễn là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn
cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh.
Chúng chỉ để lại cho anh một con ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh
nghiệm của sự nguy khốn, anh đã cưỡi con ngựa già về đến Florence . Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi
những cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và
dùng thân mình để che chở cho ngọn lửa.
Khi những tên đểu cáng trong thị xã
trông thấy anh cưỡi ngựa ngược như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng,
và ra sức đùa nghịch để dập tắt ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để
có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính
tòa, và dùng nó để thắp lên tất cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính
tòa Florence .
Khi người đốt đèn ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt,
anh trả lời, "Ngọn lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó
sẽ không cho phép anh nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm
thấy an toàn một giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn
lửa có thể đã bảo vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn
tỉnh thức để ngăn ngừa ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh".
2. Sợ hãi
Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành
trong sa mạc là mất phương hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên
mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập
nước. Ao giác làm cho con người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn
đến hoang mang sợ hãi. Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến
thắng được sợ hãi. Tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp
nhất cho ta. Tin vào một Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian nguy.
Tin rằng quỷ dữ không có quyền lực gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó
mà thôi. Nó không thể bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính
chúng ta phạm tội. Chúng ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.
"Đừng sợ!" là sứ điệp nhắc
đến trên 300 lần trong Phúc âm. Khi Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với
các môn đệ, các ông hoảng sợ, Ngài nói: "Chính Thầy đây, đừng sợ!"
Thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria: "Hỡi Maria, xin đừng sợ!"
Thiên thần cũng đã nói với Giuse: "Đừng sợ đón Maria vợ ông về". Vào
ngày sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các tông đồ và nói: "Sao anh
em lại hoảng sợ... Chính Thầy đây mà!"
3. Sự tiêu cực
Đây chính là thái độ khiến chúng ta
không thể thành công khi làm bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang
làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần đây tôi lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà
giảng thuyết nổi tiếng tên là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng
ta khỏi niềm hy vọng và sự tích cực về cuộc đời chính là thái độ của chúng ta.
Thái độ tiêu cực có tính cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng.
Chúng ta càng tiêu cực bao nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn
loạn bấy nhiêu. Thái độ tích cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công
việc gì sẽ định hình cho tất cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành
công của công việc sẽ kéo dài về sau.
Frederick Ebright đã chia sẻ kinh
nghiệm đối với thái độ tâm lý của mình như sau: "Khi tôi cảm thấy thật
buồn, tôi viết một lá thư cho người bạn nói với người ấy tất cả những chuyện
rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ
hai gửi cho cùng một người, trong đó tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề
cập đến những điều không may, và thay vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào
lúc lá thư này được viết ra, một phép lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt
hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi,
tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng tiện".
Mùa chay là thời gian để cảm nghiệm về
sa mạc hay hoang địa. Chúng ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng
chúng ta có thể tạo ra một khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa
những xô bồ ồn ào của cuộc sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành
ra một chút thời gian một mình với Thiên Chúa. Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết
mình là ai, biết những điểm mạnh và điểm yếu, biết "thiên thần" xung
quanh cùng "những con dã thú", lắng nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ
của Satan, khám phá lại chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa.
20. Cám dỗ
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường
được người Mỹ và các nước có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là
ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ
ngoại giáo bắt nguồn từ thời của những người Santies trước Công Nguyên mà ngày
lễ vọng các thánh mang một màu sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng
bày những mặt nạ quái dị, những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần
chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng
được khoác lên những nét ma quái, kinh dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như
tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản,
kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên
thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau
nghe những chuyện ma quái. Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để
nhắc nhớ đến sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý
thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ
Bô-đơ-le của Pháp đã có lần nói: "Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục
được con người rằng chúng không hề hiện hữu". Với những khám phá mới trong
ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám
mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay
con người có thể tìm ra nguyên nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự
hào là đã loại trừ được ma quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay
ít được chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy
nhiên, dù muốn dù không, tất cả đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác
động trong tâm trí con người, lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội
lỗi, mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người:
"Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì
tôi lại làm". Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con
người vào tội ác, sức mạnh vô hình đó chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật
hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.
Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào?
Ma quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các thiên thần sa
ngã. Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau, tùy tuổi tác,
tính tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà phạm tội. Rất
ít khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế chúng ta sẽ sợ
hãi không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ trước, rồi mới
dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma quỷ cám dỗ
chúng ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta phạm
tội kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa đến một cơn cám
dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta
sa ngã và phạm tội.
Về chiến thuật cám dỗ của ma quỷ, người
ta thường kể câu chuyện sau: ma quỷ khôn khéo như một phạm nhân bị giam trên
một cái tháp rất cao, không thể nào trèo xuống được, vậy mà anh ta đã thoát
thân được bằng một cách rất tài tình: mỗi ngày anh nhổ hai sợi tóc và xe lại
với nhau, sau một thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài, anh thả xuống qua
cửa sổ, bên dưới, người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất nhẹ vào đầu sợi
dây tóc, cuối sợi dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi dây gai lại buộc
một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây thừng lớn, bằng
sợi dây thừng này, phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được. Đó chính là
đường lối cám dỗ mà ma quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của chúng ta,
nhưng ma quỷ giúp các dục vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế chúng ta
không thấy rõ thứ tự hay tiến trình tuần tự như thế, nhưng nói chung, tất cả
các cám dỗ phạm tội đều như vậy.
Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám
dỗ? Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ
hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba kẻ thù
ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm
tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không? Tức
là chúng ta có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là chính
ý chí của chúng ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh các dịp
nguy hiểm, các cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những vật... có
thể đưa đẩy chúng ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta phải mau lẹ
chống trả ngay từ đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ, trì hoãn, và
nhất là phải cầu nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu chẳng may thất
bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức đứng dậy ngay,
nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi
tái phạm.
Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ,
chỉ khác nhau ở chỗ có sa chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha,
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa,
xin cứu chúng con khỏi ác thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng
ta phải luôn cầu xin Chúa như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ.
21. Suy niệm của JKN
Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công
khai rao giảng Tin Mừng
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao trước khi Đức Giêsu bước ra
đời để loan báo Tin Mừng, Thánh Thần lại đẩy Ngài vào hoang địa để Ngài chịu
cám dỗ? Việc đó có cần thiết hay ích lợi cho Ngài hoặc cho ai không? Mục đích
của Thánh Thần là gì?
2. Bị cám dỗ là điều tốt hay xấu? Cám
dỗ hay thử thách có cần thiết cho việc nên thánh của ta không? Tại sao? Trước
mặt Thiên Chúa, một người giả như chưa hề phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có
thánh thiện hơn người đã từng phạm tội vì tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại
thất bại không?
3. Không nhờ cám dỗ, không nhờ thử
thách, ta có thể xác định sự thánh thiện hay đạo đức của mình hay của một ai
không? Tại sao?
4. Cám dỗ hay thử thách là cần thiết,
vậy có nên tự tìm cho mình những dịp để «được» cám dỗ không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu chịu thử thách trước khi
ra đi loan báo Tin Mừng
Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc
sống để chúng ta có thể chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật
vậy, làm sao ta có thể biết tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân,
tinh thần siêu thoát, lòng đạo đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta
không được thử thách? Tương tự như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm sao
ta có thể biết được những đồ trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là
nguyên chất hay bị pha tạp? và nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào? Để biết
rõ một người trước khi dùng người đó, nhất là vào những chức vụ quan trọng,
giám đốc nhân sự của các công ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử bản
lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm của người đó bằng nhiều phương cách khác nhau.
Ông có thể dàn dựng khéo léo những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng
những viên giám đốc công ty biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản
thân người được thử thách ấy cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã
qua được thử thách một cách thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ
đạt được thành quả tối ưu trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc
thử thách để biết bản lãnh về tài và đức của mình hay của người là một việc cần
thiết và hết sức dễ hiểu.
Quan niệm như thế, ta thấy việc «Thần
Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa» để «chịu Xa-tan cám dỗ» trong «bốn mươi ngày»
trước khi Ngài khai mạc công việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất
yếu phải có. Qua thử thách đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi
người thấy bản lãnh của Ngài để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và
cứu chuộc nhân loại.
2. Thử thách và cám dỗ rất cần thiết
trong đời sống chúng ta
Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng
ta ý thức về tình trạng yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện
tại hay «con người cũ» – vốn «bị tội lỗi thống trị» (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ
đó, ta mới quyết tâm «cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa» (Ep 4,22; x. Cl
3,9) để «mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh
Thiên Chúa hầu thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,24).
Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng
rằng mình tội lỗi, dù rất thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy
nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ
nào, tội lỗi ở chỗ nào... Chính vì thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa mình,
để rồi cuối cùng, chúng ta chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là «mèo vẫn hoàn mèo».
May thay, nhờ có những cám dỗ xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình tội
lỗi thế nào, ở mức độ nào.
Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo
đức, thánh thiện, vì ta cảm thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo
Hội. Ta có cảm tưởng ta rất tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì
ta thấy mình cư xử rất lịch thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ,
hay không hề cư xử bất công với họ... Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ
xưa, nghĩ mình là người luôn luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn
cảnh nào: «Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy» (Mt 26,35). Khi
nói như thế, các ông rất thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông
không thể ngờ được phản ứng của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt: «Các môn
đệ bỏ Người mà chạy trốn hết» (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống
chết với Thầy mình nhất thì «gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần» (Mt
26,75).
Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch
của ta tương tự như độ trong của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được
để lắng trong nhiều ngày. Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một
ly nước suối. Nhưng khi quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước
suối có quậy đến đâu cũng vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta
có cảm tưởng nước ở trong cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao
biết được ly nào là trong thật sự? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết
được ai đạo đức sâu xa, ai đạo đức chỉ ở bề mặt?
3. Chỉ biết mình đạo đức hay không qua
những cám dỗ thử thách
Nguyễn Công Trứ viết: «Ví phỏng đường
đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai». Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi
người đều an bình, thuận buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử
chẳng khác gì người không bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa
hay a-xít thì chẳng sao phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính
trong cơn hoạn nạn ta mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta: «Friend in
need, friend indeed» (Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ
khi gặp những biến cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức
hay không. Muốn biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản
ứng của ta thế nào...
– khi quyền lợi của ta bị va chạm một
cách bất công: lúc đó ta nổi sùng lên và chửi rủa loạn xạ? hay ta bình tĩnh xét
xem nguyên nhân tại đâu, suy nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp nhất,
khôn ngoan nhất, bác ái nhất?
– khi có một quyền lợi nào đó không thể
phân chia xảy đến giữa ta và người bạn của ta: lúc đó ta quyết dành quyền lợi
ấy về cho mình? hay biết nhường cho bạn? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó
có vẻ quấn quít và yêu thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái
xương, thì chúng quay ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng
yêu thương nhau không? Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự không
nếu không có miếng xương để thử?
– khi đứng trước một người gặp nguy
khốn đang cần cứu giúp, nhưng nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều:
lúc đó ta sẽ cứu giúp người ấy bất chấp phải hy sinh? hay sẽ nhường việc cứu
giúp ấy cho người khác?
– khi đứng trước những bất công trước
mắt mà việc lên tiếng của ta có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu
lên tiếng thì ta sẽ bị sách nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở: lúc đó ta sẽ
coi sự đau khổ của đồng loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta? hay ngược
lại?
– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta
bị đe dọa nếu ta làm theo lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao
nồi cơm của những gia đình khác: lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia
đình kia quan trọng hơn nồi cơm của gia đình mình? hay ngược lại?
– khi có hai người giàu và nghèo đến
với ta một lúc, người giàu đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để
nhờ ta một việc khá khó khăn: lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm
nở như nhau? hay ta sẽ đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt?
– v.v...
Rất nhiều người tưởng mình tốt lành
thánh thiện chỉ vì thấy mình chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự
vô tội của mình họ chê bai người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ
là người chưa phạm tội vì chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám
dỗ, chứ không phải họ là những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp
những hoàn cảnh khó khăn, những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn
những người đã từng bị họ chê trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách
của họ chẳng nặng nề bằng những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên
khả năng không phạm tội khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình
trạng vô tội trong hiện tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.
Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh
lắm, hoặc được mọi người coi là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì
tu hành đã lâu năm, hay vì được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo
Hội, v.v... Nhưng khi gặp những thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ
chưa từng gặp, họ mới nhận ra bản lãnh của mình còn non kém, hay đường nhân đức
của mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.
Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách
rất cần thiết cho việc nên thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên
tự tìm cho mình những cám dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa
các dịp tội, những điều kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu «dĩ đào
vi thượng sách» là một phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và
cũng nên nhớ lời khuyên của Phao-lô: «Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng
kẻo ngã» (1Cr 10,12). Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của
ta, ta nên sẵn sàng đón nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại.
Rồi dù thắng hay bại, ta cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp
ta hiểu rõ mình hơn, khiêm nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị
trí nào trên con đường nên thánh.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con thầm tự hào về
mình, tưởng mình đã đạo đức hay thánh thiện lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp
những cơn cám dỗ hơi bất thường một chút, con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi
những cám dỗ ấy đến để con ý thức về bản lãnh của con một cách chính xác hơn,
nhờ đó con khiêm nhường hơn, và biết cảm thông với những yếu đuối của đồng loại
hơn.
22. Yếu tố con người
Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng
lập dòng nữ thừa sai bác ái, khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại
thành phố Calcutta bên An độ, thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi
chốn để chăm sóc họ. Chính quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã
hội này khu nhà trọ của khách hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy
giờ đang là nơi chứa chấp bọn trộm cắp và xì ke.
Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung
ra:
- Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ
lôi kéo những người nghèo An độ theo Công giáo.
Trước nguồn tin này, một nhóm người đã
kéo đến tòa thị chính để phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để
yêu cầu trục xuất người đàn bà đó.
Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết
vụ này. Đích thân ông tới xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc
một bệnh nhân có những vết thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông
ra mùi hôi thối chịu không nổi. Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi
rửa ráy, lau chùi và băng bó như cho chính mình vậy.
Trở về trụ sở, ông gặp lại những người
biểu tình và nói:
- Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà
ngoại quốc này ra khỏi khu vực đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành
động, tôi chỉ xin mỗi người hãy đem theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những
người hấp hối đáng thương kia, thay thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục
xuất.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào
phần kết của đoạn Tin mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng
ta:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc Am.
Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế
nào?
Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay
tới việc ăn năn những lầm lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.
Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi
chưa đủ, tâm tình sám hối còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em.
Hòa giải với Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác,
vì tất cả chúng ta đều là anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia
đình, đó là cộng đồng nhân loại.
Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật
thì con người được Thiên Chúa đặc biệt chú ý đến...Bởi vì con người luôn mang
trong tâm hồn mình một khát vọng sâu thẳm.
Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng
nên cho Thiên Chúa, nên con người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ
nơi Ngài. Đằng khác, vì được dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không
thể khước từ đồng loại của mình.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng
ta vừa hòa giải với Chúa, lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại
vừa trở về với anh em đồng loại.
Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho những người hấp hối
cũng chỉ làm một công việc bình thường, đó là sống trung thực ơn sám hối toàn
diện nói trên.
Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng
người khác. Hãy trở về với Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ
điệp chúng ta cần phải làm ngay trong mùa chay này.
23. Chiến thắng cám dỗ
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ
nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa
Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh
Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba
lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô,
kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: "Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang
địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ". Tuy thánh Marcô không trực
tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin
Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến
đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm
ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến
đấu với Satan và những cám dỗ của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở
đó con người phải luôn chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều
thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con
người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một
cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều
nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường,
đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn
bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm
điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một
chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói:
"Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng
điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm". Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố
gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong
nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ
tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất
vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả,
không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác
rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của
ma quỉ.
Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến
trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy
hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là "xếp
xòng" của loài quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì
làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa
ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài
người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo
chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần
gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch,
nham nhở, nhăng nhít... Tất nhiên có người sẽ nói: có thấy Satan hay quỉ nào
công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng
kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường
hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều
khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí
chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến
thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay
buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Theo nghĩa thông thường chúng ta quen
hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều
về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên
ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một
âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một
sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình
trong trật tự... Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất
cứ là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì
chỉ có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước
cám dỗ thì mới có tội.
Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng
chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma
quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ,
thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng
ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám
dỗ hay không? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta
có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm
chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những
cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho
đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã
bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp
ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp
ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp
ngã, đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám
hối ngay.
24. Đức Giêsu chiến thắng satan
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa
(1,1-15), kể lại những hoạt động đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố cục
Bản văn này gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);
2) "Bản tóm tắt" công việc
rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c.14a),
b- chính "bản tóm tắt" (cc.
14b-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy
Lạp ekballô, "quăng ra; đuổi; kéo ra", thuộc thì "hiện tại lịch
sử" (historic present), một thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm,
động từ này luôn luôn hàm ý sức mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma
quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40;
11,15; 12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt:
anagesthai, "được dẫn"; Lc: agesthai, "được dẫn"). Ý nghĩa:
chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức Giêsu đi vào hoang địa.
- bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc,
giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng
ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số
"40" này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28)
và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.
- hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh
hưởng dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ
mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian
ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân
được Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong
phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử
thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng.
Hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các
nhân vật lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được
chín muồi, hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây,
hoang địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm
xác định một địa điểm theo địa lý.
- Satan (Hp. Sâtân, "kẻ tố cáo, kẻ
chống đối" (HL. satanas; x. Mc 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với
diabolos, "ác thần", "quỷ", kẻ điều hành những sức mạnh xấu
xa, đối thủ của Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.
- cám dỗ (HL. peirazomai, "bị thử
thách", "bị cám dỗ"): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác.
Hành động cám dỗ được mô tả như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác
giả Mc không mô tả chi tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết
là cuộc cám dỗ có một lý do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ
Mêsia. Người đã thắng Satan như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x.
2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t; 20,2.10).
- sống giữa loài dã thú và có các thiên
thần hầu hạ: Hoang địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối
giữa các thiên thần hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một
việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các
thú dữ khiến có thể coi Tv 91,11-13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả
cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới,
có thể đưa ta trở lại Địa đàng.
- Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan
Tẩy Giả lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu hoạt
động công khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này thuộc về lược đồ lịch sử
cứu độ hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể bắt đầu được trước khi vị
Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa về
số phận của Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái bị động) khiến ta phải
thấy ở đây có bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33;
14,41) .
- Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức
với thuộc-cách này vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói
về Thiên Chúa. Đây là một "Tin Mừng", nghĩa là tin về một sự kiện có
thật, chứ không phải là một suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí
một lệnh truyền. Do có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà
người ta không thể thêm vào một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
- Thời kỳ đã mãn: "Thời kỳ"
(kairos [thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm
quyết liệt Thiên Chúa đã định, mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed
7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời
kỳ này (Lc 12,56; 19,44).
- Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần:
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is
43,15; 52,7); và người ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và
Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15;
Dcr 14,9). Đức Giêsu không nói: "Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ
đợi đang hiện diện trong mức viên mãn"; nhưng: "Triều Đại Thiên Chúa
đã đến gần". Đó là đặc điểm của thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng
và thời kỳ quyết liệt, thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu. Như thế, trung tâm của
sứ điệp của Đức Giêsu là: "Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể này đã gần
kề". Người là vị Chúa Tể có quyền quyết định và lo lắng cho chúng ta. Đó
là Tin Mừng tuyệt hảo. "Đến gần" có nghĩa là: khi đến lúc đã định,
Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa
hiện tại và tương lai. Đây là một sự kiện hiện tại và một sự kiện của thời cuối
cùng.
- Anh em hãy sám hối và tin vào Tin
Mừng: Lời này cũng có nghĩa là "Hãy sám hối là tin vào Tin Mừng", tức
bằng cách (diễn tả qua việc) tin vào Tin Mừng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú
giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một
đối trưng của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú,
một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình
trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân
tình với Thiên Chúa cho thấy đó là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không
phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng
để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9; 32, 14-20; 65,25).
Không như dân Israel ngày
xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này
hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là
dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con
Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn
tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức
Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên,
Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ.
Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do
đó, rất có thể Mc nhắm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực
Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức
Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc
về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc.
14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu,
trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại
đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác
định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin
Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho
ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết
rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang
khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn
tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này
khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
+ Kết luận
Không giống như TM Mt (4,1-11) và Lc
(4,1-13), TM Mc không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang
địa. Các câu chuyện Israel
đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào
là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế
nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu
không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với
Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu
hạ Người.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến,
người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin
chịu phép rửa tội, thì chia sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám
dỗ. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên
thần của Người.
2. Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là
Tin Mừng tuyệt hảo, Tin Mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của
chúng ta. Ai đón tiếp Tin Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên
Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.
3. Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ
với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa.
Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng
thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và
có một thái độ thích hợp: "sám hối và tin vào Tin Mừng", tức là biết
chọn lựa.
4. Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải
là nô lệ của chúng ta; chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta
không thể áp đặt cho Người bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và
sức mạnh; Người quyết định và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật
duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp
nói rằng Thiên Chúa là Chúa Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta.
Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.
5. Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi
lúc, nhưng quyền chủ tể của Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó
nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không
hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin,
rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc
khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người
và các hoa trái của Triều Đại Người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét