CHÚA NHẬT 2 MÙA
CHAY B
Lời Chúa: St
22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10
MỤC LỤC
1. Vinh quang
2. Đau khổ
3. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
4. Sống thân mật với Chúa
5. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
6. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa
7. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu
8. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?
9. Đức Giêsu hiển dung – Lm. Giuse
Nguyễn Thể Hiện
10. Lên núi cầu nguyện
11. Suy niệm của Đức Ông James M.
Reinert
12. Hãy lắng nghe – Rolland Dionne
13. Được biến đổi hình dạng
14. Hai khuôn mặt một tình yêu
15. Suy niệm của Noel Quesson
16. Vinh quang thập giá
17. Đức tin và đau khổ
18. Chúa biến hình
19. Biến hình
20. Giây phút tột đỉnh
21. Trên đỉnh Taborê
22. Từ Tabor đến Golgotha
– Thiên Phúc
23. Biến hình
24. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
25. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan
26. Chú giải của Noel Quesson
27. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
1. Vinh quang
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều đặt biến cố
Chúa Giêsu biến hình vào giữa hai lần loan báo trước về cuộc khổ nạn. Điều này
rất quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta hiểu rằng: Cuộc biến hình này có liên
quan trực tiếp tới biến cố vượt qua và như vậy có nghĩa là vinh quang mà ba môn
đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến trên đỉnh Taborê hôm nay, báo trước
vinh quang phục sinh của Ngài mai sau.
Tuy nhiên, cuộc biến hình này, mới chỉ là
sự thay đổi hình dạng bên ngoài, đặc biệt là sự thay đổi màu áo, mà theo thánh
Macrô, trở nên trắng tinh, không có thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng được
như vậy. Còn trong mầu nhiệm phục sinh, Đức Kitô không phải chỉ thay hình đổi
dạng, mà Ngài hoàn toàn đổi mới. Thân xác phục sinh của Ngài là thân xác
"có thần khí". Bởi đó mà Ngài có thể đi qua mọi cửa nhà đóng kín, hay
có thể bất thần xuất hiện trên đường Emmau, rồi ngay sau đó lại xuất hiện tại
Giêrusalem. Chính với thần khí đó, mà hôm nay Đức Kitô hiện diện trong Giáo
Hội, trong thế giới và trong tâm hồn mỗi người tín hữu của Ngài.
Nhưng điều đáng cho chúng ta suy niệm,
đó là không một sự biến hình nào mà lại không đòi hỏi một sự trả giá. Trong Tin
Mừng theo thánh Luca, Ngài đã hai lần nhắc đến quy luật này: Đức Kitô phải chịu
khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài. Ở đây, với sự kiện biến hình,
Ngài cũng nói với các môn đệ: Có lời chép về Con Người rằng Ngài phải chịu
nhiều đau khổ và bị khinh chê. Vậy thì đã rõ, mục đích của cuộc biến hình này
chính là giáo dục đức tin cho các môn đệ. Cũng như Chúa đã báo trước cho các
ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết, thì bây giờ Ngài cũng cho các
ông thấy trước vinh quang phục sinh của Ngài.
Thật vậy, khác với sự mong đợi của
nhiều người và của chính các môn đệ, là Đức Kitô sẽ thiết lập một vương quốc
trần gian, nối nghiệp vương đế của nhà Đavít, Ngài khẳng định rằng Nước của
Ngài không thuộc về thế gian này và Ngài đến không phải để được hầu hạ, nhưng
đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Cái
chết của Ngài là một sự dâng hiến, chứ không phải là một thất bại, đó là một sự
hy sinh tự nguyện, để rồi chính Ngài có quyền phục hồi lại được. Đó là lý do
tại sao Ngài đã ba lần báo trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Từ đó chúng ta đi đến kết luật đó là
đừng bao giờ chờ đợi một cuộc chiến thắng mà không phải trả giá, chờ đợi một sự
thành công mà không đòi đổ mồ hôi, nước mắt và gian khổ. Nhưng trái lại, cũng
đừng bao giờ bi quan thất vọng mỗi khi gặp phải gian nan thử thách. Chúa mời
gọi chúng ta hãy vác thánh giá mình mà đi theo Ngài, nhưng không phải với bộ
mặt đưa đám hay với những rên xiết thở than, nhưng với bộ mặt cương quyết rắn
rỏi, với thái độ hiên ngang vì tin tưởng vào lời Ngài đã nói: Trong thế gian,
anh em sẽ phải gian nan khốn khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.
2. Đau khổ.
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu
chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một
điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với
dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể
hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc
Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để
làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với
lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản
đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của
Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu
sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho
tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu
của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là
không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa,
Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức
Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu
Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính
hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như
chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân
yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã
trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh
Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh
Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong
cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là
những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời
đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến
Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc
Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn
hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà
thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công
bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và
trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy
Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi
gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập
giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và
thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
3. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt.
Trong đời, có những giây phút mà ta
mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là
những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi
nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo
trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua
ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi
cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm
đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày
với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng
rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó
đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa
theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn
ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao
giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện.
Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là
nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình
yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật
với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn
mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ
lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa,
mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn
vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì
sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa
sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm
cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ
thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón
nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta.
Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ.
Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với
Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở
bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh
phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng
giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống
núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải
chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh.
Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn
phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn
phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới
tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi
chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa.
Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện
riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất
là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về
đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta
nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát
kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn
để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống
hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của
đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về,
dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua
những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ
của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên
núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và
khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời
giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp
bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người
'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ
cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống
hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn
'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
4. Sống thân mật với Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt)
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là
một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng
giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu
tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những
đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa
mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống
thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ
bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng
ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong
một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa
muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng
người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật
không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên,
trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để
dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi
cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân
mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về
Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi
Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng
và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch
hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân
mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách
rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và
sau khi nghe lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Ta yêu dấu", thánh Phêrô
cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi,
không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một
buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh
Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: "Ai có thể
tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn
khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa
chúng ta" (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa
cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình
của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì
yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn
tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con,
vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: "Không có
tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn
hữu". Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự
đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa
cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là
cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn.
Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân.
Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc
mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy
mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về
bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi
người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến
hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi
người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con
đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện,
giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con.
Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân
mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu
biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời
giờ để sống thân mật với Chúa không?
5. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có
mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có
những lúc ủ dột ưu sầu...
Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết
Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy
rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại
kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương
lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh
hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa
Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ
ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy,
ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián
để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa
sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, "sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các
ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông ... tới một
ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở
nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su."
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức
phấn chấn. "Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng
con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho
ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a."
"Bỗng có một đám mây bao phủ các
ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng
nghe lời Người."
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của
Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ
Gioan vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có
mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có
những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mặt sáng
mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình
sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của
đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh
khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải
van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)... mà
không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất
vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục
sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy
mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh
hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là "Con yêu dấu của Thiên Chúa
Cha" để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn
Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau.
Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành
tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt
phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt
phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng
đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để
ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng
thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn
toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một
con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm,
thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giê-su tỏ cho ba môn đệ
thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh
thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và
đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu
sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn
đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm
sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt
trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người
quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và
đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
6. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người xưa có câu: "chọn mặt gửi
vàng". Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia
cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn
chọn sai người. Vì "Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng người nham hiểm ai đo cho
cùng".
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi
sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu
đông và sáng - trưa - chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật
khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ
xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ "nói vậy mà không
phải vậy". Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba
nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ.
Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo
mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực
ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người
xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật
phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe
biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô
tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và
sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không
sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị
Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở
hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như
tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận
ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền
như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân.
Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu
cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại
nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức
tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người
thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là
quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt
đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những
điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể
khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên
Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và
vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình
ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không
thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị
mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là "nhân
linh ư vạn vật".
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng
giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự
đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ
làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên
ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm
gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê.
Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại
thanh cao. Họ có thể là những con người có "duyện lặn vào trong" dầu
rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận
ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt
nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật
xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt
mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính
chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên
Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải
biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua
cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết
tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giêsu Ngài hoà
nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên
giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá
mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều
theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con
người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa
trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư
nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua
đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là
con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất
tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong
những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết
xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi
chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết
sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ
phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù
quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
7. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa
hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu
thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết
Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài
nhập thể làm người ở giữa con người.
Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên
núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không
nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ "biến
hình;" tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương
mặt và thân xác của Ngài cũng phải "ra khác" một cách rất đặc biệt.
Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ
Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35). Thánh
Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang
Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên
Chúa một cách rất đặc biệt.
Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn
đệ: "Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài." Như vậy, Thiên
Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra,
tước vị "con Thiên Chúa" cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7),
dân Israel
(Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa
gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba
môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận
ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức
Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.
Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức
Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức
Giêsu cũng cảm thấy như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về
miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài
còn bị cám dỗ về đức tin nữa: "Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" (Mc.15,
34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội
(Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng
tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.
II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con
mình cho Thiên Chúa
Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con
người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất
Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ
nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi
theo lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận
ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có
luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và
tài sản khỏi bị người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi
với tài sản và vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên
Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài
sản nhưng còn mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành
Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac.
Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà
giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm
của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại "đổi ý" như vậy? Tại
sao Thiên Chúa không "nhất quán" với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi
của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có
thể vâng lời Thiên Chúa được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác
tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng
Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc
chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng
chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này,
ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm
là một chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn
chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông
điều Ngài đã hứa.
III. Thiên Chúa đã không dung tha chính
Con Ngài
Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai
biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại,
và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và
đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt.
Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô
hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu
thương đến như vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như
thể "trao trứng cho ác" như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng
nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi
Người Con của Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như
vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người
thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.
"Thiên Chúa không dung tha chính Con
Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta." Nhìn Đức Giêsu chết
trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên
Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu
thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu
thương con người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức
Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho
chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con
người vô cùng!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và
phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin
không? (chẳng hạn, không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại
sao bạn nghĩ như vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)
8. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh
sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có
thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ
cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các
ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc
đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ
mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ
ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là
Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần
kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và
mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh
hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực
tế Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân
chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các
môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở
cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người
phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và
sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây
khói. Bởi vậy Thày quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một
điểm mốc cho tương lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu
nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. "Núi là nơi thường chứng kiến những mạc
khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển" (The New Jerome Biblical
Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, "Người biến đổi hình
dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ
nào ở trần gian giặt trắng được như vậy." (Mc 9:3) Đức Giêsu đã xuất hiện
nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin
các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ
hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói
theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con
đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ
hiểu được lời Đức Giêsu hứa về "Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực" (Mc
9:1) và xác tín "Thày là Đức Kitô" (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự
mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò
lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện
để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã
xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày.
Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây
ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì "có một
đám mây bao phủ các ông" (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện.
Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha: "Đây là
Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào!
Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không
ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac
chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người.
Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại,
"đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì
hết thảy chúng ta" (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha
tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in
Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). "Thiên Chúa đã trả giá đắt
mà chuộc lấy anh em" (1 Cr 6:20).
"Tiếng trong đám mây làm liên
tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những
ngày sau hết" (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng
tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe
lời hơn không? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận! Bởi
vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải
chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng
phải đối diện với sự thật. Vì "sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga
8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô
cảm thấy lúng túng. "Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh
hoàng" (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt
vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba
lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng
ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ "ngủ quên trên chiến
thắng". Ngay trên núi, sau khi chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông đã
bị trả về thực tế. "Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ
còn Đức Giêsu với các ông mà thôi" (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực
tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối
tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả
quyết về số phận không thể tránh: "Người phải chịu nhiều đau khổ và bị
khinh chê." (Mc 9:12) Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu
hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao
các ông quên được lời phán từ đám mây: "Hãy vâng nghe lời Người".
Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi
vọng sẽ bừng dậy khi "Con Người từ cõi chết sống lại." (Mc 9:9) Đó
mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả
lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây
giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao
đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng
kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ
mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao "Đức Giêsu truyền cho
các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ
cõi chết sống lại." (Mc 9:9) Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận
thấy rõ ràng "nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ
dân Người." (Fisichella 1995:669) Người chính là vị Thiên sai đến thực
hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân
loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công
còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên.
"Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc
giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã
mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng
ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn
hoành hành"(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất
của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường
hầm, nhưng chiếu toả mãnh liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm ngưỡng dung
nhan Đức Giêsu, các môn đệ đã nhận thấy "sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa
là sức mạnh tình yêu, tình yêu toàn năng" (TGM Angelo Comastri: Zenit
12/3/2003) đang hoạt động mãnh liệt trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.
9. Đức Giêsu hiển dung – Lm. Giuse Nguyễn
Thể Hiện
"Ngày nay, trong rất nhiều trường
hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời
Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi
chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa..."
Có một mối liên hệ sâu xa giữa biến cố
được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 9,2-10) với lời tiên báo về số phận
của Con Người trong Mc 8,31. Trước phản ứng rất mạnh mẽ của ông Phêrô (đại diện
cho nhóm các đồ đệ) đối với lời tiên báo đó (8,32), Đức Giêsu, vốn đầy tình
thương yêu nhân lành đối với các đồ đệ, đã muốn giúp các ông hiểu và đón nhận
chương trình cứu độ của Thiên Chúa, bằng cách cho các ông được trải nghiệm một
thực tại ngoại thường: biến cố hiển dung.
"Khi ấy, Đức Giêsu đem các ông
Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ,
chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao" (c.2). Tác giả Tin Mừng không
nói rõ đó là ngọn núi nào. Có lẽ ông muốn ám chỉ núi Sinai, là ngọn núi mà ở
đó, ông Môsê và ông Êlia (các nhân vật sẽ xuất hiện trong c.4) đã được chứng
kiến các cuộc thần hiện của Thiên Chúa (x. Xh 34,1-8; 1V 19,8-18). Trước đây,
các đồ đệ đã từng được biết rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (8,30), nhưng các ông
lại hiểu sai về tư cách và sứ mạng Mêsia của Người. Đức Giêsu đã cố gắng giúp
họ không hiểu sai, bằng cách nói cho họ biết về số phận đang được dành sẵn cho
Con Người (8,31), nhưng Người đã thất bại trong nỗ lực đó (8,32). Bây giờ Người
đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng ra một nơi, để một lần nữa, giúp
các ông điều chỉnh cái ý tưởng sai lầm của các ông về Đấng Mêsia và giúp các
ông đón nhận những hệ luận của việc gắn bó với Người. Những gì các ông sắp trải
nghiệm sẽ là một cuộc thần hiện, cho các ông thấy tình trạng vinh quang của Đức
Giêsu sau khi Người chiến thắng sự chết. Người muốn cho các ông cảm nghiệm
trước ánh vinh quang của Đấng sắp đi vào cuộc khổ nạn kinh hoàng.
"Người biến đổi hình dạng trước
mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần
gian giặt trắng được như vậy" (cc.2c-3). Vinh quang của Đức Giêsu được
trình bày qua các chi tiết về vẻ huy hoàng của y phục của Người. Theo quan niệm
đương thời, y phục là cách diễn tả con người, và trong trình thuật này, nó có
giá trị ám chỉ nhân tính của Đức Giêsu. Y phục đó bây giờ "trở nên rực rỡ,
trắng tinh". Sự rực rỡ và trắng tinh thuần khiết đó biểu tượng cho vinh
quang thần linh thấm đẫm nhân tính của Người. Đó là vinh quang thực của Đấng bị
trao nộp vào tay người đời vì sự sống thật của nhân loại. Sự chết mà Người sắp
trải qua sẽ thất bại tận căn trước vinh quang thần linh này. Và vẻ huy hoàng
thuần khiết đang được tỏ lộ nơi Đức Giêsu này có nguồn gốc thiên thai, chứ
không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại: "Không có thợ nào ở trần gian
giặt trắng được như vậy".
"Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng
ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu" (c.4). Sự xuất hiện của hai nhân
vật vĩ đại của Cựu Ước là các ông Môsê và Êlia, đã đem vào trong những thực tại
mà các đồ đệ đang trải nghiệm một đường nét và ý nghĩa mới: mối liên hệ của Cựu
Ước với Đức Giêsu. Tác giả Mc đã không nói rằng ông Môsê và ông Êlia đến, mà là
các ông "hiện ra", như thể một thực tại đang còn ẩn giấu bây giờ được
tỏ lộ ra. Đàng khác, ông Môsê và ông Êlia hiện ra là để cho các đồ đệ của Đức Giêsu
thấy, và tác giả không hề nói gì về vẻ vinh quang của các vị ấy. Hai vị là đại
diện của Cựu Ước (Lề Luật và các ngôn sứ) như đã được ban truyền cho dân. Và
tuy hiện ra cho các đồ đệ thấy, nhưng ông Môsê và ông Êlia không nói gì với các
ông mà chỉ đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là Cựu Ước chẳng truyền đạt
cho các đồ đệ của Đức Giêsu sứ điệp nào nếu không qua Đức Giêsu. Ông Môsê và
ông Êlia xuất hiện trong sự quy hướng về Đức Giêsu mà thôi. Chính Đức Giêsu mới
là Đấng xác định giá trị của Cựu Ước. Môsê và Êlia, tức là Lề Luật và các ngôn
sứ, không phải là những giá trị tuyệt đối, mà là những thực tại tùy thuộc vào
thực tại Giêsu. Đức Giêsu và sứ điệp của Người siêu vượt hơn hẳn mọi thực tại
cao quý nhất của mặc khải Cựu Ước. Những gì Đức Giêsu nói và thực hiện thì quan
trọng hơn hẳn những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã dạy.
"Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức
Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng
ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (c.5). Sự
tiến triển của biến cố hiển dung bị đoạn tục bởi sự kiện ông Phêrô lên tiếng.
Được trực tiếp chứng kiến những gì đang diễn ra, ông Phêrô hướng về Đức Giêsu
(chứ không phải về ông Môsê hay ông Êlia) và thưa chuyện với Người.
Ông Phêrô đưa ra một đề nghị, nhân danh
các bạn ("chúng con") và hy vọng sẽ được Đức Giêsu đồng ý. Điểm chính
yếu trong đề nghị là việc làm ba cái lều, một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê
và một cho ông Êlia. Có hai khía cạnh đáng chú ý, được diễn tả bằng danh từ
"lều" và số từ "ba". Hạn từ "lều" gợi ý về lễ
Lều: ông Phêrô nối kết cuộc hiển dung của Đức Giêsu với sứ mạng Mêsia của
Người, và ông hiểu đó là sứ mạng Mêsia theo hướng dân tộc chủ nghĩa. Với số từ
"ba" và được phân chia rõ ràng là "một cho Thầy, một cho ông
Môsê, và một cho ông Êlia", ông Phêrô đang đặt cả ba vị trên cùng một bình
diện, xóa mờ sự tùy thuộc của các ông Môsê và Êlia đối với Đức Giêsu và đặt các
ông ấy trong tư thế độc lập. Thực tại đang xảy ra, như chúng ta đã nói trên
kia, là ông Môsê và ông Êlia xuất hiện chung với nhau trong sự quy hướng về Đức
Giêsu. Nhưng trong đề nghị của ông Phêrô, thì Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia
đồng hàng với nhau, và mỗi vị có vai trò riêng của mình, mỗi vị có
"lều" riêng của mình. Đức Giêsu là Đấng Mêsia; ông Môsê: Lề Luật và
các thiết chế; ông Êlia: nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Bằng cách đó, ông Phêrô
cho thấy ý tưởng của ông về Đấng Mêsia (x. 8,29.33). Một cách gián tiếp, ông
Phêrô phủ nhận sự mới mẻ của sứ điệp và vai trò của Đức Giêsu và Nước Thiên
Chúa.
Rõ ràng ông Phêrô đã được nhìn thấy
vinh quang của Đức Giêsu, nhưng chưa hiểu. Đúng ra, cần phải nối kết vinh quang
đang được hé lộ trong biến cố hiển dung này với thực tại phục sinh của Con
Người sau cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, như Đức Giêsu đã từng nói trước
(8,31), nhưng ông Phêrô chưa thực hiện được sự nối kết đó. Ông vẫn đang còn
mang tư tưởng của loài người chứ chưa phải là tư tưởng của Thiên Chúa (8,33).
"Thực ra, ông không biết phải nói
gì, vì các ông kinh hoàng" (c.6). Tại sao các ông lại kinh hoàng đến độ
không biết nói gì? Có yếu tố nào đe dọa các ông ở đây? Trong sự sợ hãi và cảm
thấy bị đe dọa đó, ông Phêrô lại chỉ ngỏ lời với Đức Giêsu thôi, chứ không nói
gì với các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ ông cảm thấy kinh hoàng là vì một điều gì
đó nơi Đức Giêsu. Quả thực, ông và các bạn đang được chứng kiến vinh quang thần
linh tỏ lộ nơi Đức Giêsu. Các ông hiểu rằng nơi Người đang có mãnh lực thần
linh của chính Thiên Chúa, vốn là mãnh lực có thể gây chết chóc cho người phàm
một khi họ được chứng kiến. Và điều đó gây ra nỗi kinh hoàng tột độ cho các ông.
"Bỗng có một đám mây bao phủ các
ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng
nghe lời Người" (c.7). Xuất hiện yếu tố thứ ba của cuộc thần hiện. Yếu tố
thứ nhất là sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu, cho thấy tư cách và vị thế
thần linh của Người. Yếu tố thứ hai là sự xuất hiện của các ông Môsê và Êlia,
chứng tỏ Đức Giêsu là điểm đến, là đỉnh điểm, là điểm quy chiếu của tất cả Cựu
Ước. Bây giờ xuất hiện yếu tố thứ ba: Đức Giêsu được công bố là Con Thiên Chúa,
Đấng hiến dâng chính mạng sống mình, Đấng là Lời tối hậu của Thiên Chúa cho
nhân loại.
Có thể nói sự xuất hiện của đám mây và
tiếng phán từ đám mây chính là đỉnh điểm của cuộc thần hiện. Đám mây vừa mạc
khải vừa che giấu sự hiện diện của Thiên Chúa. Và trong thực tế, đám mây đã thế
chỗ của những chiếc lều mà ông Phêrô muốn làm. Nói chính xác hơn, sự xuất hiện
của đám mây bao trùm đồng một trật Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, chính là sự
từ chối, hoặc chí ít cũng là sự điều chỉnh, cái đề nghị vừa được phát biểu của
ông Phêrô. Khi đề nghị làm ba cái lều "ở đây" là ông Phêrô đang muốn
cầm giữ cả ba vị trong cõi đất này, với hy vọng rằng vương quốc Mêsia, nhờ các
Ngài, sẽ được khai mở như là một thực tại thế tạm. Trái lại, Thiên Chúa cho
thấy rằng vinh quang của Đức Giêsu và thực tại Người mang đến, tự bản chất,
thuộc về cảnh vực thần linh chứ không phải là những thực tại thế tạm.
Cùng với đám mây và từ đám mây, có
tiếng phán. Tiếng ấy không nói với Đức Giêsu nhưng là nói với các môn đệ và
cung cấp cho các ông lời giải thích về những gì đang diễn ra. Phần thứ nhất của
lời giải thích là một khẳng định: "Đây là Con Ta yêu dấu". Đại từ
"đây" rõ ràng loại trừ ông Môsê và ông Êlia khỏi điều được công bố và
đồng thời nhấn mạnh tính cách hơn hẳn của Đức Giêsu so với hai vị đó. Ngữ đoạn
"là Con của Ta" cho thấy một cách tường minh rằng thực hữu của Đức
Giêsu xuất phát từ chính Thiên Chúa, rằng hành động của Người là hành động của
chính Thiên Chúa, rằng lời của Người là lời của chính Thiên Chúa. Định ngữ
"yêu dấu" nhấn mạnh mối tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa và Đức
Giêsu.
Phần thứ hai là một lời kêu gọi:
"Hãy vâng nghe lời Người". Đức Giêsu là Tôn Sư độc nhất, là Đấng công
bố lời tối hậu của Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ phải vâng nghe lời Người mà thôi.
Cựu Ước (mà đại diện ở đây là các ông Môsê và Êlia) không có gì để nói trực
tiếp với các môn đệ nữa nếu không phải là qua Đức Giêsu. Như thế, không hề có
hai mặc khải song song hay tiếp nối (Cựu Ước và Đức Giêsu), mà chỉ có một mặc
khải duy nhất nơi Đức Giêsu, Đấng thực hiện và hoàn tất những gì được nói trong
Cựu Ước, Đấng quyết định giá trị và đem lại sự trường tồn cho những thực tại
Cựu Ước.
Tác giả Tin
Mừng không nói gì về phản ứng của các môn đệ đối với những gì vừa được công bố
từ đám mây. Trong Kinh Thánh, một khi được ý thức, lời của Thiên Chúa sẽ gây
nên nơi người nghe sự sợ hãi. Nhưng các môn đệ ở đây không phản ứng gì. Hình
như tác giả Tin Mừng có ý ngầm cho biết rằng các ông đã chẳng hiểu đúng ý nghĩa
của những thực tại đang diễn ra, y như trước đây các ông đã không hiểu đúng ý
nghĩa lời tiên báo của Đức Giêsu (x. 8,31tt).
"Các ông chợt nhìn quanh, thì
không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi" (c.8). Trái với
đề nghị của ông Phêrô, các ông Môsê và Êlia đã biến đi. Từ nay, họ không còn
vai trò gì trong lịch sử nữa, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất mà
các môn đệ phải vâng nghe lời, Đấng duy nhất là tôn sư và ngôn sứ. "Chỉ
còn Đức Giêsu với các ông mà thôi".
Sau đó, các Ngài rời cảnh vực thần linh
và trở về với lịch sử trần trụi. Cho đến lúc này, như chúng ta đã hơn một lần
nói ở trên, các môn đệ chưa hiểu đúng những thực tại mà các ông vừa được trải
nghiệm. Vì thế, "ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được
kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống
lại" (c.9). Chỉ khi vinh quang của Người được liên kết chặt chẽ với sự từ
chối và cái chết mà Người đã từng nói cho các ông biết, thì các ông mới có thể
nói lại cho người khác những gì các ông vừa được trải nghiệm trên núi.
"Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết
sống lại" nghĩa là gì" (c.10).
Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp,
chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức
Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ
mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa... Nhưng đồng
thời, ngay trong Mùa Chay thánh này, biết đâu Chúa vẫn đang hiển dung cho chúng
ta một cách nhiệm mầu... Từng chi tiết của cuộc hiển dung trong bài Tin Mừng
hôm nay đều đáng được suy niệm một cách nghiêm túc và đều có ý nghĩa sâu xa đối
với đời sống đức tin của chúng ta....
10. Lên núi cầu nguyện
(Suy niệm của Tôma Nguyễn Xuân Hiệp)
Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia
rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc
đời hết sức thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn
và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu,
thành một thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người
nghèo. Mười năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai
anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người
anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ
lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh
thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về
lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa. Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho
biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình
ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh ta. * Trước tiên là đám mây trên trời:
thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây
ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây
ngày hôm qua. * Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh
rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm
sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không
còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những
chiếc lá khác. * Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân
xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa
học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế
bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn
toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ
mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen
xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt.
Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây
chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở
dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn
với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực
tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu "lên núi" trong đời sống
hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi
chúng ta theo Chúa Giêsu "lên núi cầu nguyện". Bài đọc 1, sách Sáng
Thế tường thuật lại biến cố "lên núi" của Tổ phụ Abraham đầy giân
truân vất vả, cả sự dâng hiến mạng sống người con một yêu dấu theo thánh ý
Thiên Chúa. Chính bởi đức tin mạnh mẽ và quả cảm vượt thắng tất cả mà ông được
gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc phúc. Bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn
Rôma: hãy tín thác vào Thiên Chúa Tình Yêu, cho dẫu hành trình đức tin như một
cuộc "leo núi" đầy khó nguy. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và thể
hiện tình yêu qua Người Con Một: "Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng
chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta". Bài Tin Mừng, thánh sử
Maccô đã tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt các
môn đệ thân tín là: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa Giêsu muốn để
lại cho các tông đồ và mỗi chúng ta bài học hữu ích trong hành trình đức tin
của người kitô hữu là phải "lên núi" "Đức Giêsu lên núi cầu
nguyện" (Mc 9, 28). Đây là bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn
dạy mỗi người chúng ta: Phải cầu nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và
trước những công việc làm. Để thực hiện điều ấy, "Đức Giêsu lên núi",
tức phải vứt bỏ những vướng bận lo toan thành công thất bại, phải dành thời giờ
cho việc leo núi, vượt thắng những cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không
ngừng với thân xác nặng nề để leo lên độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm
linh mới có thể sống tương giao với Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của
Người. Nếu thiếu vắng đời sống tương giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh
lặng, trong thẳm sâu tâm hồn để kín múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì
xem chừng cách cầu nguyện ấy đã đi vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình
thức bên ngoài mà Chúa Giêsu đã từng lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu
cầu nguyện kể lể, huênh hoang báo cáo kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay
kiểu cầu nguyện xem Thiên Chúa chỉ là chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất
bại, gian truân thì sốt sắng đến với Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời
sống tâm lý để giải tỏa những xung đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực
thương đau. Sự sốt sắng cầu nguyện hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở
nhu cầu ích lợi cá nhân chứ chưa đi vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa
để tìm thánh ý Người. Nhà thần học Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại
giáo; một kiểu cầu cạnh tư lợi. Người không biết Chúa và cả những người vô thần
cũng làm như thế. Một kiểu cầu an! Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt
thoát những vướng bận lo toan của đời thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh
ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách
liên lỉ mọi lúc mọi nơi, mọi công việc. (x. Mc 18,1-8. 9-14) Ước mong Lời Chúa
hôm nay soi dẫn mỗi người chúng ta biết "lên núi" mỗi ngày, biết từ
bỏ những cám dỗ đam mê, những vướng bận đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên
Chúa qua Thánh lễ, kinh nguyện, xét mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa ....
Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình
vác thập giá lên núi Canvê và phục sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành
trình đức tin của mỗi người tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta phải "lên
núi" mỗi ngày mới có thể "biến hình", mới có thể phục sinh sáng
láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.
11. Suy niệm của Đức Ông James M.
Reinert
(Đan Quang Tâm dịch)
MÙA CHAY, NHỚ LẠI VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG
CỦA TA TRONG GIÁO HỘI
Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con
trai mình là Ixaác đặt toàn bộ việc cử hành Mùa Chay vào trong một ánh sáng
tuyệt hảo. Thánh Phaolô ám chỉ về câu truyện này trong Thư gửi tín hữu Rôma.
Tuy nhiên, ông nhắc cộng đồng rằng Thiên Chúa không những chỉ sẵn sàng hiến tế
Con của Người nhưng Người còn "đã trao nộp vì hết thảy chúng ta".
Bởi vì hy tế đó, ta có can đảm và sự tự
tin để biết rằng nếu ta trung thành, ta không có gì phải sợ. Thiên Chúa đã làm
tất cả việc này cho chúng ta, Phaolô viết. Làm sao Người lại lên án chứ?
Tất cả điều này được tái củng cố trong
câu truyện Hiển Dung khi Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đừng mất đức tin trong
ngày sắp đến. Trình thuật Hiển Dung trong Phúc âm Thánh Máccô thực tế chỉ là sự
chép lại từng từ trong Phúc âm của Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Ngay cả các
biến cố dẫn đến sự kiện cũng y hệt.
Điều quan trọng là đặt bài Phúc âm ngày
hôm nay vào trong ngữ cảnh. Theo Thánh Máccô, sự kiện xảy ra sáu ngày sau khi
Đức Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thày là ai?" Câu trả lời mà
Thánh Phêrô đưa ra cho Người, quen gọi là lời tuyên tín của Phêrô, "Thầy
là Đức Kitô!", đã đưa Đức Giêsu đến chỗ báo trước lần thứ nhất về cuộc
thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người và vạch ra các đòi hỏi cho các
môn đệ. Một lần nữa, Đức Giêsu sắp nhắc nhở các môn đệ và tất cả chúng ta rằng
đây là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa và từ lúc này trở đi, trong
khi tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, Người sẽ nói về thập giá rất nhiều
lần.
Nay, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem Phêrô,
Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi và Người hiển dung. Chắc chắn đây là một sự nếm
trước về cuộc phục sinh. Hầu như chắc chắn là các môn đệ vẫn còn tìm cách để
hiểu biết đầy đủ điều Đức Giêsu muốn nói khi bảo họ: "Người sẽ bị giết và
sau ba ngày sẽ sống lại". Nay họ được giải thích rõ về lời nói đó. Họ xem
thấy vinh quang của trời; họ thấy mối liên quan giữa "lề luật" trong
Môsê và các "ngôn sứ" trong Êlia và sứ điệp mà Đức Giêsu đã và đang
rao giảng.
Trong Chủ nhật thứ hai này của Mùa
Chay, ta được nhắc đến các vai trò và trách nhiệm của ta trong Giáo hội. Tất cả
điều này đến với ta bằng sự đoan chắc rằng đây là một phần trong kế hoạch của
Thiên Chúa, ta có các nghĩa vụ với tư cách là môn đệ và ta có sự đoan chắc về
Nước Thiên Chúa – mà ta vừa mới nhìn qua – trước hết trong câu truyện Hiển Dung
và rồi trong sự phục sinh của Đức Giêsu vào sáng Chúa nhật Phục sinh.
"Toàn thể dân Chúa đều có một vai
trò để thực hiện trong khi Giáo Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Bằng các cách
thức khác nhau và thông qua mỗi thành viên theo các năng khiếu và cách hành
động thích hợp với ơn gọi của mỗi người, dân Chúa đáp lại bổn phận công bố và
làm chứng cho Tin Mừng (x. 1 Cr 9,16), trong sự nhận thức rằng "hoạt động
truyền giáo là một công việc của mọi Kitô hữu" (Thông điệp Redemptoris
Missio, 2) (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo, 538).
"Đời sống cá nhân và xã hội, cũng
như hành động con người trong thế giới, luôn luôn bị tội lỗi đe doạ. Tuy nhiên,
"bằng cách chịu khổ vì chúng ta..., Đức Giêsu Kitô không những làm gương
cho chúng ta để chúng ta bước theo Người, mà Người còn mở ra cho chúng ta một
con đường. Nếu đi theo con đường ấy, cuộc sống và cái chết của chúng ta sẽ được
thánh hoá và mặc một ý nghĩa mới" (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22).
Trong đức tin và thông qua các bí tích, người môn đệ Đức Kitô gắn bó mật thiết
với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu để con người cũ của mình, cùng với những
khuynh hướng xấu, chịu đóng đinh với Đức Kitô. Rồi khi trở thành thụ tạo mới,
họ được ân sủng tăng sức để có thể "bước đi trong đời sống mới" (Rm
6,4). Điều này "không chỉ đúng với các Kitô hữu, mà còn đúng đối với mọi
người thiện chí, vì ân sủng vẫn đang hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn
những người ấy. Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai ai cũng được mời gọi
hưởng chung một định mệnh duy nhất, là định mệnh thần linh, ta phải tin rằng
Đức Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng trở thành những người thông phần
vào Mầu nhiệm Vượt Qua, bằng phương cách chỉ có Thiên Chúa biết" (Hiến chế
Mục vụ Gaudium et Spes, 22) (sđd, 41).
12. Hãy lắng nghe – Rolland Dionne.
Tha hồ lựa chọn.
"Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin
Mừng". Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài
đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải
chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên
Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?
Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không
phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều
hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số
những vị "giảng đạo" xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới
trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều.
Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất
là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải
tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng ta
biết điều này?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe.
Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của
thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều
trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi
lắng nghe: "Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài". Theo
Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để cho mình được
uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống lại luật của
Ngài: "Chúng không nghe lời Ta".
Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc
biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình
của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu
xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi
triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường
hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không
chút giảm thiểu: "Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài".
Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng
mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì
Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể
thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người
duy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo
những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi
chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường
giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn
nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng
ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ "được ưu
ái".
Tin tưởng.
Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa
Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương
trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa
khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng
ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời
nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi
sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta
sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin
vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào
đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng "lắng nghe" không?
Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có
vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng
ta và chúng ta sẽ có quyền được gọi là "Con yêu dấu".
13. Được biến đổi hình dạng
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó
là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức
Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ
và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh
dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên
cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên
núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha
bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là
một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về
Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên
Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha
biến hình. Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y
phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người
vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp
Đức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại
không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên
Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái
gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu
thẳm của mình: tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã
bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp
của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn
vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi
và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc
khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa
để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn
Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai
góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi
được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa
sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài
và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người
"biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu
xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu
lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin
cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần
vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và
khuôn mặt thật của Chúa.
14. Hai khuôn mặt một tình yêu.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ
chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có
thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm
công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho
mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân mình to lớn, thông thạo võ
thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt
nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ
hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu
trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng
cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ
đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha,
cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên
Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi
Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa
loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn
đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ,
khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải
làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên
Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân
xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục
vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã
cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con
duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí
của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: "Thiên Chúa đã không dung tha chính Con
Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng
ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng
ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham
là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi
Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế,
cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến
mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ
của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa:
"Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa". Người con
trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó
để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa
nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh
tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng
trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta
phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh
quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, "người Cha
của mọi kẻ có lòng tin" đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật
căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất
yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi
sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng
sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích
thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng
láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn
mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang
mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối
với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, "Người Con Một yêu quý
của Cha, người đẹp lòng Cha", đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang
Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta,
Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa.
Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được
Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn
vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm
ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và
bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn
Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế
giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô
trở lại trong vinh quang.
15. Suy niệm của Noel Quesson
CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI.
"Đừng kể lại cho ai nghe... cho
tới khi Con Người từ cõi chết sống lại".
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm
Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y
Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình
Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến
nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời:
"Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một
mái nhà".
Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta
vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý
thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta
xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được
chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho
các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được
sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó,
niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số
điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ
lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu
hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra
trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự
vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục.
Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy
phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của
độ cao... và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa
biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho
bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các
ông được chứng kiến (Mc 5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa
khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông
chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân
tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần
gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: "Đây là Con Ta
yêu dấu, hãy nghe lời Ngài". Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán
xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì
phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận,
nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh
vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh
quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các
ông đừng kể lại với ai 'cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại'. Vì Chúa
biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa.
Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập
tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên
Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng
con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
16. Vinh quang thập giá
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe chúng ta
nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược hẳn với những
gì đã xảy ra trong sa mạc khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn thày trò hôm nay
thật là thú vị, đến nỗi Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày, chúng con được ở đây
thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho
Êlia. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Ngài mà
không được, thì hôm nay chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ, đó là vinh quang
của Con Thiên Chúa. Vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử
của Cựu ước: Maisen và Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng lại bật mí cho
các môn đệ. Tôi xin thưa, chìa khóa của vấn đề được tìm thấy trong chỉ thị của
Ngài ngăn cấm các môn đệ không được tiết lộ điều mắt thấy tai nghe cho đến khi
Con Người từ cõi chết sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là Con Thiên Chúa
bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã từ chối, để
rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì chính thập
giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh hay nhảy từ trên
cao xuống một cách an toàn thì rồi con người cũng có thể làm được. Nhưng sống
lại từ cõi chết thì chỉ mình Thiên Chúa mới thực hiện được mà thôi. Bởi vì cho
đến ngày hôm nay chưa một ai đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng chỉ có cái chết
của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu dương đích thật
quyền năng tuyệt đối của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã chẳng màng đến
của cải, danh vọng thậm chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng chẳng sử dụng và
hơn thế nữa Ngài lại còn chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là bạn với quân thu
thuế và phường tội lỗi, là kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó mà Ngài đã bị kết
án và chết như một phạm nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ nhờ hạ mình thẳm sâu
như thế và quên mình tới mức thánh Phaolô đã coi như là một sự tự hủy, mà Ngài
đã đạt được danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu, đó là Đức Kitô, Đấng
Thánh của Thiên Chúa. Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ đạt được trong mầu
nhiệm thập giá thì hôm nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được thấy với mục đích là
để các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là ước mơ rằng
Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được chia nhau mỗi người một địa
vị. Đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản và tuyệt vọng khi
thấy Ngài bị bắt bị kết án và bị giết chết trên thập giá. Vì thế, biến cố
Taborê gắn liền với biến cố Canvê. Sự biến hình gắn liền với thập giá. Cùng với
cuộc khổ nạn và Phục sinh, thì sự biến hình hôm nay sẽ là một điềm báo trước
cho vinh quang của Ngài, một khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy, nếu hôm nay
chúng ta dám chấp nhận khổ đau, dám vác thập giá mà bước theo Ngài thì trong
ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được tham dự vào vinh quang Phục sinh với Ngài.
17. Đức tin và đau khổ
Đức tin như một con mắt thần hướng
chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như
những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ
chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường
hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và
nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với
vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối
với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử
đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ
toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự
chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên
Chúa đã nhận "lòng tôn kính và tin yêu" của Abraham, vì đã không tiếc
một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho
ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết
bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người
vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên
của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính
đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình,
làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn
sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt
tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ
quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở
vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng
để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh
quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp
chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta
can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng
ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm
sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là "Khi Thiên Chúa
đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ". Thiên Chúa đóng cửa chính là khi
chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện
diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc
chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên
Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới
cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa
chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài
lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành.
Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài
lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn
sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta
bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình
được hòa thuận lại với nhau...
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần
trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng
chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh
nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là
tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không
tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại
cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên
Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ,
những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử
thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng
và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin
và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính,
Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: "Chạy
trời không khỏi nắng", nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của
nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều
xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không? Tự nó chẳng
có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là
thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ
phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận,
chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin
tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói:
"Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ
sức cho".
18. Chúa biến hình
Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô,
Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên
đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non
yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi
Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên
tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách
Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy,
vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ
con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây
các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi
đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành
trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ
xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi
thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như
muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta
sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của các ông hôm nay
rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như
muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng
tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy
trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống
thấp... Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng
mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ
bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như
Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không
còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng,
chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp
như thế chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước
tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi
hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để
dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một
lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải
thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ
ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta
thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế
nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ
nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng
sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành,
bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban
cho những kẻ yêu mến Ngài.
19. Biến hình
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt
chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau
khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng
ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần
tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến
của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào
hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã
chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho
các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một
chuyện thần thoại không? Cách đây ít lâu, trên đài truyền hình thành phố, chúng
ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72
phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành
một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí... đó là những chuyện thần thoại,
không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần
thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường
người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường.
Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một
người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe
những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến
những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài,
bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng "con
người" cho các ông thấy hình dạng "Thiên Chúa" của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là
Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con
yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta
phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính
của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là
mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình,
đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân
tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích
khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước
mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải
qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có
gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông
lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng
thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin
tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người
đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể
tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt
nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu
nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao.
Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã
trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì,
không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống
khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự
ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là
những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người
chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho
chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và
dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của
Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng
ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến
hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng
có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống
với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải
đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho
vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem
lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi
sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống.
"Hãy vác lấy thập giá và theo Ta", đó là lệnh truyền của Ngài. Mang
lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng
lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự
chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm
lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được
mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh
quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài
người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết
chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta:
đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có
Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng
ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng
công cho chúng ta ở đời sau.
20. Giây phút tột đỉnh
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại
câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa
soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa
con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa
con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô
cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng
nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột
đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố
thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu
ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm
thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp
chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài
Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã
thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài
phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa
Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới
này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến
những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao
câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc
buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui
mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến
hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài
phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc
này, ông đã kêu lên: "Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra
cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô:
"Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của
ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi
chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo
Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng
muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến
cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó
để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết
trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có
một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta
cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua
chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta
cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có
thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những
giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của
Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên
Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng
ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa
Cha đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển chọn." Những lúc lo
buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn
cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
21. Trên đỉnh Taborê
Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng
ta không khỏi băn khoăn tự hỏi:
- Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc
lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
- Đó là để soi sáng và củng cố đức tin
cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn
nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên
báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã
nói với các ông:
- Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó
sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can
ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời:
- Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng
hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời
mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói
bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị
chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước
nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn
hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình
trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến
thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận
những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta
sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì
chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và
nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy
thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị
đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo
được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng
ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực
đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung
thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn
thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù
du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như
những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy
Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn
thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết
Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta
sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể
nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi
không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và
phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy
giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự
phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng,
gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
22. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể
một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và
sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp "trai tài gái sắc".Có lẽ
chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật
nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái
táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa
của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy,
cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời
chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan
sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay
"người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay "nàng
già" là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất
cả với thời gian.
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp
đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc
đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng
cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không
gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác
dụng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba
lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia" (Mc 9,5). Vậy là Phêrô,
Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên
trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc
truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ
lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi
Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo
lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong
câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi,
Chúa chỉ mặc "tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì niềm hy vọng
Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ
của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu,
chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình
yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do
tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang
ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng
chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính
là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là
Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha .
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha
cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường
vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: "Sống tình yêu
không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi
Canvê". Thánh Bernadette cầu nguyện:"Con không xin cho mình khỏi phải
đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau".
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can
đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục
Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
23. Biến hình
(Trích trong Tinmung.net)
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt
chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau
khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng
ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần
tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến
của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào
hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã
chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho
các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một
chuyện thần thoại không? Cách đây khá lâu, trên nhiều đài truyền hình, chúng ta
rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép
thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con
vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí... đó là những chuyện thần thoại, không có
thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là
một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường
người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường.
Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một
người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe
những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến
những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài,
bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng "con
người" cho các ông thấy hình dạng "Thiên Chúa" của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là
Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con
yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta
phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính
của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là
mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến
hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân
tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích
khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước
mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải
qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có
gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông
lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng
thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin
tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người
đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể
tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt
nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu
nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao.
Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã
trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì,
không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống
khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự
ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là
những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người
chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho
chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và
dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của
Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng
ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến
hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng
có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống
với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải
đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho
vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem
lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi
sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống.
"Hãy vác lấy thập giá và theo Ta", đó là lệnh truyền của Ngài. Mang
lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng
lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự
chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm
lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được
mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh
quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài
người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết
chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta:
đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có
Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng
ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng
công cho chúng ta ở đời sau.
24. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
Có hai thuyết về ngọn núi nơi Chúa
Giê-su biến đổi hình dạng: có thể là núi Các-men ở miền bắc Ga-li-lê và gần
Xê-da-rê Phi-líp-phê, nơi ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô; còn
truyền thống quen thuộc thì cho đó là núi Ta-bô-rê ở phía nam Ga-li-lê giáp
ranh với Sa-ma-ri và nằm trên đường xuống Giu-đê-a. Nếu ta coi hành trình của
Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem như tột đỉnh sứ mệnh cứu thế của Đấng Ki-tô, thì
Ta-bô-rê quả thực là bước quyết định để Chúa xác tín sứ mệnh ấy và nhất quyết
đi Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ và chịu chết. Tuy nhiên, biến cố biến đổi hình
dạng không chỉ có ý nghĩa đối với Chúa Giê-su, mà còn có ý nghĩa đối với các
môn đệ, những kẻ muốn theo Chúa cũng phải "từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình mà theo".
a) Để Chúa Giê-su xác tín sứ mệnh và
quyết định đi Giê-ru-sa-lem
Sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su mỗi
ngày cần phải được củng cố thêm, sao cho đúng với kế hoạch Chúa Cha đã phác
họa. Sau những ngày tháng thành công và nổi danh tại Ga-li-lê, Chúa Giê-su chắc
chắn bị cám dỗ không muốn rời Ga-li-lê. Tại sao lại rời bỏ môi trường mình đang
gặt hái được những kết quả tốt đẹp? Nhưng Chúa Giê-su đặt thánh ý Chúa Cha lên
trên hết. Người cần phải quyết định rõ ràng, theo "tư tưởng của Thiên
Chúa" hay theo "tư tưởng của loài người", lên Giê-ru-sa-lem hay
ở lại Ga-li-lê. Việc biến đổi hình dạng trên núi có thể coi như một tiến trình
quyết định lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Vậy quyết định đi Giê-ru-sa-lem được
củng cố như thế nào qua những gì xảy ra trên núi Ta-bô-rê?
Trước hết là qua sự xuất hiện của ông
Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a bên cạnh Chúa Giê-su. Ông Mô-sê là người đem Lề Luật
của Thiên Chúa cho Ít-ra-en. Còn Ê-li-a là vị ngôn sứ vĩ đại nhất. Chúa Giê-su
đến để thực hiện tất cả những gì Lề Luật và các ngôn sứ nói. Do đó, sự hiện
diện của hai vị bên cạnh Chúa Giê-su đã nói lên đầy đủ ý nghĩa sứ mệnh của
Người, đồng thời là một khích lệ to lớn. Ta có cảm tưởng câu chuyện giữa Chúa
Giê-su với Mô-sê và Ê-li-a xoay quanh đề tài về sứ mệnh của Chúa Giê-su mà
thôi. Các ông nói với Chúa: "Ngài đã thi hành sứ mệnh cứu thế một cách tốt
đẹp, xin Ngài cứ tiếp tục sứ mệnh ấy!" Các ông nhìn thấy nơi Chúa Giê-su
thể hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã dạy các ông nói trước đây.
Tiếp đến là qua lời xác nhận của chính
Chúa Cha: "Đây là Con Ta yêu dấu". Khi nói những lời này, Chúa Cha
xác nhận tất cả những gì Chúa Giê-su đã làm trong quá khứ đều làm đẹp lòng
Người. Đồng thời những lời đó cũng ngầm hiểu: Con đã quyết định đi
Giê-ru-sa-lem là đúng, vậy Con cứ tiếp tục làm như đã quyết định. Chúa Giê-su
không chỉ thấy việc chấp nhận thập giá như một điều không thể tránh né, nhưng
tích cực hơn như một lẽ sống của Người và của toàn thể nhân loại. Người mong
Chúa Cha sẽ nói qua Người với nhân loại những lời "đây là con Ta yêu
dấu".
b) Biến cố Chúa Giê-su biến đổi hình
dạng mang ý nghĩa đối với môn đệ Người
Các môn đệ nản lòng sau khi Chúa Giê-su
loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Ông Phê-rô thì phổi bò nên "bắt đầu
trách Người". Ông đóng vai trò của Xa-tan cám dỗ Chúa Giê-su đừng làm theo
những gì Người đã loan báo. Ông đã rời chỗ đứng của ông, thay vì bước đi theo
sau Chúa thì ông lại bước lên trước làm chướng ngại con đường thập giá của
Người. Mới đây ông đã thay mặt anh em môn đệ để tuyên xưng đức tin Chúa Giê-su
là Đấng Ki-tô thì bây giờ ông cũng thay mặt anh em để cản đường Chúa lên
Giê-ru-sa-lem. Do đó, việc Chúa biến đổi hình dạng trên núi thật là cần thiết
để ông và các bạn trở về chỗ đứng môn đệ của họ và lấy lại đức tin đã bị lung
lạc do hình ảnh Thương Khó và cái chết của Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Dù hiểu hay
không hiểu sứ mệnh của Chúa Giê-su, thì ít ra lúc này các ông cũng được phục
hồi niềm tin vào Người sau khi nghe những lời Chúa Cha nói với Người: "Đây
là Con Ta yêu dấu". Ngoài ra biến cố trên núi hiển dung cũng chuẩn bị các
ông trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa Giê-su. Vinh hiển các ông được chứng kiến
trên núi là những gì tiên báo cho vinh hiển của Chúa Ki-tô Phục Sinh mà các ông
sẽ rao giảng cho muôn dân.
c) Chúa Giê-su biến đổi hình dạng trong
cuộc sống Ki-tô hữu
Có khi nào ta nghĩ rằng cả cuộc đời
Ki-tô hữu của ta là tiếp diễn cuộc biến đổi hình dạng của Chúa Giê-su theo một
nghĩa nào đó không? Dĩ nhiên ta không dám hiểu đó là một cuộc biến đổi chiếu
tỏa vinh quang, nhưng là một sự thay đổi con người của ta trở nên giống Chúa
Ki-tô mỗi ngày một hơn. Thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng đã nói trong bài giảng của ngài:
"Thiên Chúa đã khôn ngoan dự liệu cho niềm hy vọng của Hội Thánh có nền
tảng vững vàng: Người cho Hội Thánh biết toàn thân thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô
sẽ được biến đổi ra sao. Người cũng dự liệu cho các chi thể tin chắc mình sẽ
được thông phần vinh quang rực rỡ của Đầu là Đức Ki-tô" (Bài đọc 2, giờ
Kinh Sách CN 2 mùa Chay).
Có lẽ thánh Phao-lô đã diễn tả cuộc
biến đổi hình dạng của đời sống Ki-tô hữu một cách cụ thể nhất qua những lời
ngài gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê: "Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô,
nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần
những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết
của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết" (Pl
3:10-11). Việc ta biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô quả thực tiếp
tục cuộc hiển dung của Người trên núi Ta-bô-rê.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thập giá nào trong cuộc sống có thể làm
cho tôi mất đi đức tin vào Chúa Ki-tô? Tôi có nhận ra được ý nghĩa đích thực
của thập giá đó không?
Phụng vụ Lời Chúa lấy câu truyện Chúa
Giê-su biến đổi hình dạng làm chủ đề cho Chúa Nhật 2 mùa Chay có ý nghĩa gì đối
với tôi? Tôi có nhận ra sứ điệp nào đặc biệt không? Và tôi đã đáp lại thế nào?
Ông Phê-rô xin dựng cho Chúa một cái
lều trên núi để ông được tiếp tục cảm nghiệm những giây phút đầy an ủi khích
lệ. Tôi có muốn dựng một cái lều ngay trong đời sống của tôi để Chúa cư ngụ và
biến đổi con người tôi không? Dựng lều như thế nào?
Cầu nguyện
"Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã
quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tan,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn".
- Cha Pi-ô
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 16)
25. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta
một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac,
người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn
cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc
phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con
Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng
này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của
Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên
Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ
giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã
ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham
trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và
đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử
thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu
gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh
chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là
vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết
của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín
thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng
đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa
làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của
Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố
đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ
đã hoàn toàn bị 'hớp hồn' khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút
giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là ai: "Này là
Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người."
Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các
ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối
của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp "đâu vào
đấy" thì rất hiếm hoi và họa hoằn "năm thì mười họa". Không ai
có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được
kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng
trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ
nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến
đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với
thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính là con đường
thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng
ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về
vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn
đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã
lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý
báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm
lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng
một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này
tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và
chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy
sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế
đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay
lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an
trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội
lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ
lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.
26. Chú giải của Noel Quesson
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông
Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện
nào để tính "sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho
ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái,
đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ
là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước
khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai,
Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ:
"sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"... "núi
"... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh
như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà "Lễ lều
tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel
lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ
lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh
trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con
người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một
nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn
đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà
nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến
việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ
chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc
ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc
biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và
ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó
không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên
một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện theo truyền thống
Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản
ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy!
Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu
tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy
tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy
đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch
và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không
khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng,
nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả
dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu
tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt
các ông
Khi con người cố diễn tả những tương
quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan
niệm:
Một quan niệm "bi quan": Cần
phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là
quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm "lạc quan":
Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của
con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là
cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt
đối, là Nước Trời đã đến.
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ
ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo
ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh",
là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian
không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên
núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người,
trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta,
cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính
thống giáo, lễ Biến Hình là đại "Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con
người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một
"kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức
Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người –
hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã
hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng
khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có
lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã
"dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản
tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu
chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng
ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức
gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày
càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí" (2 Cr
3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu
nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa
vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí
ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện
đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng
ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh
quang" (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng
tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô,
thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ
bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa
biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình.
Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là
"giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố
đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong
lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên
trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc
Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến
thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng
của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng
này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết
này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người
cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với
Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong
đợi của Israel
được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng!
cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra "làm vì". Đó là
khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời
với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa.
Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa
trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là
một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân
vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền
thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị
cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu
hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh
trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã
khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu
rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái
lều". Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát
ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm
'tuyên xứng đức tin" (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức
Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một
"người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông,
đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là
những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận
mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2
Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người
chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin
tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều
không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải
nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các
ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng
nghe lời Người".
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là
"Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10).
Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc
1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng
phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi
cơ bản này, ta không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng
không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu
nguyện "riêng một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính
đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều
vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông
không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi
chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ
cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để
các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
27. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành
trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả Mc đã cho thấy dọc theo tác phẩm
của ngài với từ ngữ "con đường" (hodos), đặc biệt trong phân đoạn
8,27–10,45: ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu thường xuyên ở trên đường cùng với
các môn đệ (8,27; 9,33.34; 10,32). Trên đường đi, Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại
cách Người sống. Người tìm cách giải thích cho các môn đệ rằng, một bên, do
chương trình mà Người sẽ thực hiện theo lệnh của Thiên Chúa, bên kia do kế
hoạch của các đối thủ muốn khử trừ Người, Người phải chọn lựa giữa đánh liều
mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã chọn vâng lời Thiên Chúa, Người đi lên
Giêrusalem.
Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là
cốt lõi của đoạn trung tâm 8,27–10,45 và được trực tiếp liên kết với phân đoạn
Phêrô tuyên xưng đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (8,27–9,1).
Chúng ta có lý khi coi bài tường thuật
về Hiển Dung như là cái trục của TM Mc. Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy
bài này có thể dễ dàng tách khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu
về Quang Lâm gần kề (9,1) với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13)
thì thấy tư tưởng cũng như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố
của các bài tường thuật chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai: 9,1:
"Và Người nói"; 9,2: "Và Người lên núi..."; 9,11: "Và
các ông hỏi ...").
Sau khi đã nói đến những gian khổ mà
các môn đệ phải chấp nhận nếu muốn đi theo Người, Đức Giêsu thêm: "Tôi bảo
thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải
nếm cái chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực" (9,1).
Theo tác giả, biến cố Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đến là đối tượng của Tin Mừng
(1,14-15). Còn "uy lực" của Thiên Chúa thì sẽ được biểu lộ vào ngày
Quang Lâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x. 12,18-27; 13,24-27;
14,61-62).
Nếu tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên,
ta thấy cuộc tranh luận sau đó bàn về việc Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá
Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu với Êlia và các ngôn sứ Israel ngày xưa là một đề
tài được Mc thường xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và
8,27-29. Cuộc tranh luận ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ
Malakhi đã loan báo Êlia sẽ trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml
3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc 1,2-8; x.
Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận về việc ngôn sứ Êlia trở lại, cho dù được
coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy Giả, được ghép rất tự nhiên vào một lời
của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước Thiên Chúa đến.
Vậy, bài tường thuật Hiển Dung đã được
tháp vào đây là do nền thần học của tác giả và do cấu trúc ngài cung cấp cho
tác phẩm của ngài, nhưng cũng là để làm một đoạn giải thích sự chậm trễ của
Quang Lâm. Nếu như vậy, tác giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi
vì câu nói về Quang Lâm của Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố
Hiển Dung. Sự xuất hiện của Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu
hỏi về vai trò của Êlia sau đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng
thêm long trọng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (9,2a-b);
2) Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(9,2c-8);
3) Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những
điều đã biết (9,9-10).
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có
một sự "đóng khung" vừa chính xác vừa tinh tế, ở cc. 2 và 8. Một
đàng, Mc viết rằng "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo
mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một
ngọn núi cao". Đàng khác, ông nói rằng "Các ông chợt nhìn chung
quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi": kiểu
đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề
riêng của TM Mc, là bí mật thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về
một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Mc cho hiểu rằng muốn khám
phá ra chân tính của Đấng Mêsia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường
thuật Hiển Dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu
nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một
ngọn núi; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con; cuối cùng, lệnh
truyền giữ kín mạc khải này.
3.- Vài điểm chú giải
- sáu ngày sau (2): Toàn bài gợi tới Xh
24. Cũng như Môsê, Đức Giêsu lên núi với ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh
24,1.9). Tới ngày thứ bảy, Thiên Chúa nói với Môsê; qua sáu ngày, Đức Giêsu lên
núi và có tiếng Thiên Chúa phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết
"sáu ngày sau" mà cho rằng đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng
Mêsia (truyền thống dành ngày thứ bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm
vua). Đám mây, cũng giống như trong Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của
Thiên Chúa.
- một ngọn núi cao: Ta không thể xác
định đây là ngọn núi nào, nhưng nó có thể gợi tới núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn
núi là nơi có các cuộc thần hiển: Thiên Chúa nói với Môsê trên núi (Xh
24,15tt); Ngài tỏ mình ra với Êlia trên núi (1 V 19,8).
- Người biến đổi hình dạng: Không có
kinh nghiệm nào trong quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có
thể giúp hình dung sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu ở đây. Điều đặc biệt là
khi Người ở trong vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức
Giêsu có "y phục rực rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt
trắng được như vậy" (c. 3). Thật ra đây là một "ánh sáng chói
lọi", là màu sắc của những thực tại thiên quốc và cánh chung. Cuộc Hiển
Dung không phải là kết quả của một nỗ lực con người, nhưng là một biến cố được
mô tả theo dạng thái bị động (c. 2: metemorphôthê, aorist passive) để cho thấy
rằng Thiên Chúa là Đấng hành động một mình trong biến cố này.
- thấy ông Êlia cùng ông Môsê (4): Theo
truyền thống, Môsê có vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Thứ tự
Êlia–Môsê của riêng tác giả Mc tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có
trong TM II. Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên
sai hơn Môsê. Tuy nhiên, c. 5, với tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của
truyền thống mà Mc chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ
"Nước Thiên Chúa đã đến gần". Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức
Giêsu hiệp thông với thiên giới, vừa giới thiệu với tư cách và số phận của
Người.
- đàm đạo với Đức Giêsu: Mc không cho
biết đề tài cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và Môsê.
- chúng con xin dựng ba cái lều (5):
Khi ba nhân vật thiên giới đàm đạo với nhau, ba tông đồ, những con người
"phàm phu tục tử", ở cách xa. Do đó, khi ngỏ lời với Đức Giêsu mà chỉ
thưa Người là "Thầy" (rabbi) và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã
chứng tỏ sự ngỡ ngàng hụt hẫng của mình. Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn
cảnh các ông đang trải nghiệm. Tuy nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta
đặt nó vào trong khung cảnh lịch sử của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm
dân Israel đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa (Yhwh), và được
Ngài che chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô
để cho dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ mừng Đức Chúa. Lễ này có thể
trùng hợp với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó bao trùm những
năm dài trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ nhung đời sống
du mục này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để kết thúc chu kỳ Lễ
Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ này có chứa nỗi
niềm chờ mong Đấng Mêsia.
Thật ra, vì mối bận tâm của Mc là cho
thấy hành trình đức tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông
không hiểu gì (tương tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên giới,
ông lại đang muốn tránh những đau khổ chắc chắn phải đi vào.
- kinh hoàng (6): Tác giả đã nhận định:
"Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng" (9,6;
xem 14,40: tình trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh hoàng này (tương tự
sự kinh hoàng của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ, x. 16,5-8) chứng tỏ
các ông khó mà hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức thiên sai của những lời
nói và hành vi của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai cuộc tỏ mình của Đấng
Mêsia trên núi; tất cả những gì ông có thể nói ra đều mang vẻ ngờ nghệch vì ông
kinh hãi trước sự đột nhập của thế giới thần thiêng. Và khi Mc ghi nhận ở c. 8
rằng "các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu
với các ông mà thôi", ta lại không nghe ra như một lời trách nhắm đến đến
các tông đồ là đã không biết tiếp tục dựa vào lòng tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn
không ngừng sống cùng các thánh của Cựu Ước và sống trong tình thân thiết với
Cha Người đó sao? Khi cũng những vị tông đồ này tự hỏi câu "từ cõi chết
sống lại" nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về một vấn đề tín điều (bởi
vì đây là một tín điều được mọi người, trừ phái Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn
khoăn về Đức Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi
qua. Chẳng phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên trời như Êlia, như Môsê sao?
Chẳng lẽ Người lại phải xuống cõi chết trước khi sống lại? Mc đã nêu bật sự tăm
tối của các tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x. 4,13.40-41; 6,50-52;
8,17-21; 9,32; 10,24.26.32.38).
- Từ đám mây (7): Đám mây là tấm phông
trên đó Đức Giêsu biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê đi ra để nói chuyện
với Đức Giêsu và từ đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và Môsê lại biến mất vào
đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của Đức Giêsu. Như trong cuộc
Xuất hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây này
là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực
tại biên giới. Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu đến thế gian và nhận phép
rửa. Đám mây này là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại và
theo lời sấm Đanien; trên đám mây này, Đức Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế
để quy tụ những kẻ được tuyển chọn.
- Đây là con Ta yêu dấu (7): Sự xuất
hiện của đám mây và tiếng nói của Thiên Chúa vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa
trả lời cho phản ứng của Phêrô.
So với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời
công bố này không thêm gì mới về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng
lời này đưa lại một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô
(8,29). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực
Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới
thiệu trước vinh quang của Đức Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm,
Tiếng Nói lại chứng thực Đức Giêsu là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và
gợi ý rằng Người đã có từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy
cuộc truyện trò của Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là
Đấng duy nhất mà các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất
của Giao Ước Mới trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.
- truyền cho các ông không được kể lại
(9): Đây là lệnh im lặng cuối cùng trong Mc, lệnh này có một ý nghĩa căn bản cho
cả các lệnh khác với cùng một giới hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả
hướng bài tường thuật Hiển Dung về Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết
số phận của Đức Kitô và lời loan báo về Triều Đại Thiên Chúa. Những gì ba môn
đệ đã thấy trên núi làm cho các ông thành những người được nhận trước sự hoàn
tất của lời hứa 9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả dừng lại với môn đệ. Các
ông tuân giữ lệnh truyền (ton logon ekratêsan cũng có thể có nghĩa là là
"ghi nhớ ký ức", theo kiểu nói La-tinh [memoria] tenere), nhưng tranh
luận xem "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa là
"cuộc sống lại của Đức Giêsu".
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (2a-b)
Cuộc Hiển Dung lại là một truyện nữa
trong đó Đức Giêsu đưa riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi
(x. chữa con gái Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của
tình trạng gần gũi với Thiên Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức
Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn
đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục
hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người
không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng
Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho
mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi
trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản
thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8)
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước
mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho
Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quan thuộc của con người trần thế
nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng
Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau
phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh
siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị
vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức
Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel.
Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc
tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví
với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu.
Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba
môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về
thế giới của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được
Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn
tất. Tiếng Nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng
của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn
hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu
hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông
phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc
quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là
Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về
nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với
Người. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên
Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và
Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và
thân tình nhất. Bởi vì chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi
với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên
Chúa, Đức Giêsu Đấng giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về
Thiên Chúa (x. Ga 1,18; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia,
bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc Hiển Dung là một đỉnh cao trong
mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại
siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương
quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và
quan trọng nhất về Đức Giêsu. Ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc
khải này trong mức độ ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể
hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy
tình yêu, của Đức Giêsu; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói
và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các
môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc Hiển Dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những
điều đã biết (9-10)
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các
môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc Thương
Khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất
đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không
được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
+ Kết luận
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời
của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa
đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn
cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này
lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại
vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những hoàn cảnh và điều kiện trong
đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ
riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ,
náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe
Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu". Người không
phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có
trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia.
Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch
sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là
một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật
đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức
Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.
3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả
giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với
chúng ta. Càng dành thì giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại
"Đức Giêsu là Con Thiên Chúa", khi đó, chúng ta cũng nhận ra những
hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải "vâng nghe
lời" Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm
chứng.
4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của
Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe
chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi
đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng
định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh
Đức Giêsu cấm các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn
còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng
các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó
khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét