CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31 –
11,1; Mc 1,40-45
MỤC LỤC
1. Phong cùi
2. Phong cùi
3. "Hãy sống đẹp cho
nhau"
4. Đức Giêsu- Đấng chữa lành mọi bệnh
tật
5. Niềm vui tròn đầy.
6. Giơ tay đụng vào – Lm. Gioan Nguyễn
Văn Ty
7. Tôi muốn anh được sạch
8. Chữa người phong cùi – Radio Veritas
Asia
9. Chạnh lòng thương – Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu
10. Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa –
Yvon Daigneau
11. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
12. Muốn và có thể
13. Người bị loại trừ
14. Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong
tâm hồn
15. Loan báo Tin Mừng
16. "Vì loài người chúng
tôi"
17. Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi
18. Cử chỉ
19. Lòng từ ái
20. Phong cùi
21. Phong cùi
22. Bệnh phong
23. Sự chấp nhận
24. Đức Giêsu chữa một người phong
hủi
25. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Minh
Thông
26. "Tôi muốn, anh sạch
đi!"
29. Chú giải của Noel Quesson
1. Phong cùi
Theo luật Do Thái, những người phong
cùi không được sống trà trộn với dân chúng. Đồng thời ai nấy phải lo giữ mình,
không được động chạm tới họ. Họ phải sống riêng biệt ngoài thành, mặc áo rách,
để tóc dài, không cạo râu. Nếu chẳng may gặp người mắc bệnh thì phải hô to lên
để những người khác tìm lối tránh. Những người mắc bệnh không những chỉ đau khổ
phần xác mà còn đau khổ phần hồn vì họ luôn phải sống trong một tình trạng cô
đơn và tuyệt vọng.
Đối với ngày xưa, cũng như đối với hôm
nay, chứng bệnh này vẫn còn là một nan y khó chữa, chính vì thế chúng ta hiểu
được tại sao người bệnh qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã bất chấp lề luật, chạy
đến tìm gặp Chúa Giêsu, vì anh nghĩ rằng mình không còn phương tiện nào khác để
được khỏi. Niềm hy vọng duy nhất của anh trong lúc bấy giờ là Chúa Giêsu. Bởi
đó, anh đã quỳ xuống, sụp lạy Ngài và xin Ngài cứu chữa. Còn Chúa Giêsu đã đón nhận
anh một cách nhân từ, chữa lành cho anh và bảo anh phải đi trình diện với hàng
tư tế để được chứng nhận là mình đã khỏi thực sự. Qua cử chỉ và thái độ của
Chúa, chúng ta nhận thấy Ngài thực tình thương xót như tiên tri Isaia đã viết:
Ngài coi mọi bệnh tật của chúng ta như là của riêng Ngài, Ngài mang lấy hết mọi
tai ương của chúng ta. Trước thái độ tin tưởng của người phong cùi, Chúa Giêsu
đã đặt tay trên anh và chữa lành cho anh, cũng như Ngài đã từng cứu chữa biết
bao những kẻ bệnh hoạn tật nguyền tìm đến với Ngài.
Tình thương này không phải chỉ được
biểu lộ với những người đau khổ thân xác, mà còn đối với những người đau khổ
phần hồn, tức là những kẻ tội lỗi. Chính Ngài đã xác định lập trường: Ta đến để
kêu gọi những kẻ tội lỗi. Một người tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng
vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối. Chính vì vậy,
Ngài không ngần ngại ngồi ăn uống với những người mà bọn biệt phái liệt vào
hạng tội lỗi như Lêvi và Giakêu. Đồng thời Ngài còn sẵn sàng tha thứ cho người
thiếu phụ ngoại tình, cho tên trộm lành và nhiều người khác nữa.
Hẳn chúng ta đã biết qua về cuộc đời
của cha Đamiêng, vị tông đồ người hủi. Ngài sinh tại nước Bỉ, gia nhập dòng
Trái Tim Chúa và Mẹ Maria. Sau khi làm linh mục, ngài được sai đi giảng đạo tại
Hạ Uy Di. Sau đó ngài tình nguyện đi giúp những người cùi ở Molokai .
Ngài đã hy sinh trót cả cuộc đời, sống với họ, giúp đỡ họ và chết giữa họ.
Như chúng ta đã biết, phong cùi là một
chứng bệnh nan y và ghê sợ, nó làm cho cơ thể bị lở loét, người mắc bệnh mặc dù
còn sống nhưng thực sự chỉ là một thây ma biết đi với một thân hình hôi thối.
Đó cũng chính là hình ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì tội lỗi cũng sẽ làm
cho tâm hồn chúng ta trở thành nhơ nhớp, hôi thối và chết đi như vậy. Tuy nhiên
chúng ta đã có một vị lương y thần diệu đó là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa
lành, chúng ta hãy bắt chước người phong cùi chạy đến sấp mình trước mặt Chúa,
xin Ngài xót thương. Ngài cũng sẽ bảo chúng ta trình diện với linh mục, nghĩa
là hãy chạy đến toà giải tội với tâm tình thống hối ăn năn, hầu nhờ đó mà chúng
ta sẽ được chữa lành, được tha thứ.
2. Phong cùi
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và
theo quan niệm của người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do
tác động của một thứ thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ
dưới quyền lực của ma quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với
người trong sạch. Theo lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng
xã hội của những kẻ mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi
cộng đồng loài người, cả về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.
Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy
chi tiết giúp chúng ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu.
Thực vậy chính người mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và
van xin Ngài cho anh được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh
muốn Chúa Giêsu cho anh được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và
được gia nhập cộng đồng xã hội.
Hành động của người mắc bệnh quả là táo
bạo. Anh đã liều lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh
người khác, thậm chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với
Chúa Giêsu, để trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành.
Hành động liều lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở
quyền năng của Chúa Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ
thương yêu của Ngài, muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã
từng được nghe thiên hạ nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã
không tin tưởng hão huyền. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và
lòng tin của anh. Và Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa anh.
Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu,
chúng ta thấy Ngài cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài
đã giơ tay đặt trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như
là một sự khuyến khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa
Giêsu cho chúng ta thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề
luật, hay nói cách khác, lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề
luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được
lành hãy đi trình diện cùng trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi
thức mà tất cả những người được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để
được công khai và chính thức tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó
được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội.
Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh
tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng
liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó,
với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa
lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh
em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.
3. "Hãy sống đẹp cho nhau"
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống hôm nay rất cần cái đẹp. Cái
đẹp cho bản thân như ăn ngon mặc đẹp. Cái đẹp cho tha nhân như một cử chỉ đẹp,
một phong cách đẹp, một lời nói làm đẹp lòng người. Nhà văn Tolstoy đã kể lại
một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời ông như sau: Một hôm, ông đang ngồi nghỉ mát
trên ghế đá công viên, từ xa có một người quần áo rách nát tả tơi đến gần và
ngả mũ xin ông giúp đỡ. Thấy cảnh cơ cực, nhà văn liền thò tay vào túi định lấy
tiền giúp cho người hành khất. Thế nhưng, ông đưa tay tìm hết túi này đến túi
kia cũng không kiếm được một đồng nào trong túi. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin
và nói trong sự hối tiếc: "Này người anh em! Xin thứ lỗi cho tôi. Rất tiếc
là hôm nay tôi không mang theo một đồng nào trong túi". Nghe lời nói chân
tình đó, người ăn xin không buồn mà còn nở nụ cười rạng rỡ trên môi và nói:
"Không đâu thưa ông. Hôm nay ông đã cho tôi một món quà quý báu còn hơn cả
tiền bạc. Đó là ông đã không khinh dể tôi mà còn coi tôi như người anh em của
ông".
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Marcô cũng
tường thuật lại một cử chỉ đẹp mà Chúa Giêsu đã dành cho người bệnh phong hủi
nan y. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và
dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa
bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh
chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa
giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh
được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng
được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người
đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của
mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã
hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã
hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh
không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được
quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.
Có ai đó đã từng nói rằng: "một
lời nói hay không bằng một cử chỉ đẹp". Cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi
người biết làm đẹp lòng nhau. Cuộc sống sẽ bớt đi những tủi hờn, những cô đơn
và thất vọng nếu chúng ta biết sống đẹp với nhau. Đừng chơi xấu, đừng loại trừ
nhau, nhưng hãy đón nhận nhau. Cuộc sống sẽ vơi đi những nỗi sầu khổ đắng cay
nếu mỗi người chúng ta biết đối xử đẹp với nhau.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn
còn đó những lối sống tiểu nhân tầm thường, nên vẫn còn đó những oan ức, những
giọt nước mắt đắng cay vì tình người phụ bạc, vì tình đời thay trắng đổi đen.
Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những lối sống kém văn hoá, những cư xử thấp hèn
nên vẫn còn đó những ứng xử thô lỗ, cộc cằn, những hành vi phi nhân và bất
nghĩa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy can đảm
loại bỏ những hành vi thô lỗ, cộc cằn, những hành xử thiếu văn hoá khởi đi từ
chính gia đình chúng ta. Mỗi thành viên trong gia đình hãy biết dâng tặng cho
nhau những cử chỉ đẹp như: sự quan tâm, sự khiêm tốn, ôn hoà và hiền hậu với
nhau. Chúng ta không thể "khôn nhà dại chợ", sống tốt với hàng xóm mà
cư xử tệ với anh em. Chúng ta không thể sống trọn vẹn đức ái Kitô giáo nếu
chúng ta không yêu mến gia đình chúng ta. Đức ái luôn mời gọi chúng ta phục vụ
nhau một cách quảng đại, hy sinh và quên mình. Đức ái mời gọi chúng ta sống
khiêm nhu, hiền lành và nhẫn nại với nhau. Đức ái bao hàm sự bao dung và đón
nhận nhau trong yêu thương và tha thứ. Đức ái không cho phép chúng ta loại trừ
hay tẩy chay nhau. Đức ái mời gọi chúng ta dâng tặng cho nhau những nghĩa cử
yêu thương làm đẹp lòng nhau.
Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến
người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì con người anh có
thể lành lặn. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự
quan tâm trìu mến dành cho anh. Phải chăng, Ngài cũng muốn chúng ta hãy tiếp
tục trao ban cho nhau những nghĩa cử yêu thương nồng ấm tình người? Ước gì từng
người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời
nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì lối sống đẹp của chúng ta
sẽ là dấu chỉ chứng nhân tin mừng cho thế giới hôm nay. Amen.
4. Đức Giêsu- Đấng chữa lành mọi bệnh
tật
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm)
Một khi đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời
rao giảng, các tín hữu tiên khởi tiếp tục tìm hiểu về Đức Giêsu qua những gì
các tông đồ kể lại, và phần lớn những điều này được ghi lại nơi các sách Tin
Mừng. Niềm tin vào Đức Giêsu làm thay đổi cuộc đời tín hữu, khi họ nhận ra
Thiên Chúa hằng yêu thương họ, một cách rất đặc biệt qua Đức Giêsu.
1) Tội còn khủng khiếp hơn bệnh phong
cùi nhiều
Ngày nay với tiến bộ của y khoa, người
ta đã chế ngự được bệnh phong. Bệnh phong ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao
bệnh khác. Ngày nay người ta hay có thái độ xa cách đối với những người mắc
bệnh hư miễn nhiễm (HIV, AIDS) như ngày xưa người ta đã có đối với những người
mắc bệnh phong cùi. Kitô hữu tuy phải khôn ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng
không được có thái độ thiếu bác ái trong cách cư xử đối với những người anh chị
em bị mắc những bệnh này.
Ngày xưa khi chưa khắc phục được bệnh
phong cùi, thì bệnh này là một nỗi kinh hoàng cho những người bị nhiễm và cho
cả những thân nhân của người bệnh nữa. Vì là bệnh truyền nhiễm nên người ta đã
phải có biện pháp để bảo vệ những người khác cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là,
bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu diệt, vì thế thậm chí đôi khi người ta áp dụng những
biện pháp rất khắc nghiệt. Người bệnh phải sống tách biệt với người khác, kể cả
những người thân thuộc như vợ chồng con cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống
xa cách, và không được phép lại gần nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai
người nam nữ yêu nhau, nhưng cả đối với người mẹ và người con còn thơ dại.
Mọi tật bệnh và đặc biệt bệnh phong
cùi, theo quan điểm của người Do Thái, là hậu quả của tội. Qua cái gì cụ thể
hữu hình là bệnh, người ta thấy nơi tội một cái gì tương tự như bệnh phong cùi
gây cho con người. Tội là thái độ hận thù ghen ghét anh chị em mình và không
sống như con Thiên Chúa. Tội làm người ta xa nhau, làm người ta bị cô lập với
cộng đoàn, làm người ta mất bình an mất vui và không được hạnh phúc.
2) Đức Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện
diện
Nếu đặt mình vào trường hợp và tâm
trạng của anh bị bệnh phong được Đức Giêsu chữa lành hôm nay, người ta sẽ thấy
anh ta mong ước được khỏi bệnh "khủng khiếp" này đến độ nào. Ao ước
này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta có vợ và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp
anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như niềm hy vọng của anh ta. Anh ta đã qùy
xuống nài xin Đức Giêsu! "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi!"
Làm sao anh ta có thể tin Đức Giêsu như
vậy? Qua cách sống, lời giảng dạy, và những dấu lạ Đức Giêsu làm, người ta tin
vào Đức Giêsu hơn. Xưa tiên tri Elisa cũng đã chữa viên quan Naaman của Syria,
một người bị bệnh cùi chỉ bằng lời truyền cho ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan
(2V.5, 1-27); bây giờ, nếu Thiên Chúa muốn, nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì
Ngài cũng có thể làm như tiên tri Elisa đã làm chứ. Đức tin của người bệnh
phong cùi này phản ảnh đức tin của con người thời đó đối với Đức Giêsu; hơn
nữa, qua anh ta người ta nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi anh ta, làm anh
ta tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã xúc động và thương anh ta
thật sự. Ngài đọc được nỗi khổ của người bị bệnh phong cùi này. Ngài thấy được
khao khát của anh ta qua việc anh qùy gối trước Ngài để nài xin ân huệ được
khỏi bệnh. Đức Giêsu đã đưa tay ra, chạm vào anh và nói: "dĩ nhiên là tôi
muốn, anh hãy lành đi." Đức Giêsu thương anh ta, và qua anh ta, thương tất
cả con người đang đau khổ bệnh tật. Đức Giêsu thương con người, Thiên Chúa yêu
thương con người. Thiên Chúa không muốn con người khổ não, Ngài muốn con người
bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện để yêu thương,
để chữa lành và nối kết con người lại với nhau và với Thiên Chúa.
3) Đức Giêsu không chỉ là một con người
Tại sao Đức Giêsu không chữa tất cả
những người bị bệnh phong cùi thời đó? Tại sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả
mọi bệnh tật của con người? Tại sao Đức Giêsu không biến đổi tất cả để làm con
người đừng thù ghét nhau nữa nhưng luôn yêu thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu
là một người như tất cả mọi người, nên Ngài không thể làm được điều đó. Nếu
Ngài làm được điều đó, người ta sẽ nói Ngài không là người thật vì Ngài không
chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ của con người. Ngài là người, Ngài bất lực và
thậm chỉ không biết cả tương lai nữa. Những gì con người không biết và không
làm được, mà Ngài biết và làm được, thì đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa
ban để giúp con người nhận biết chân tướng của Ngài mà thôi.
Đức Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi
không bằng cách như tiên tri Elisa đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria , nhưng
bằng một lời: "tôi muốn chứ, anh khỏi đi." Cách chữa bệnh bằng lời
của Đức Giêsu, cho người ta biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy quyền,
trổi vượt hơn cả các tiên tri trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người chống đối
ông bị phạt mắc bệnh phong cùi; những người này đã hoảng sợ và xin ông Môsê cầu
khẩn Thiên Chúa tha thứ cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã cho họ được
khỏi. Đức Giêsu đã không chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm như thể Ngài
có quyền chữa bệnh vậy, và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như thể quyền đó
từ Ngài mà ra.
Qua cách trình bày của Tin Mừng hôm
nay, Đức Giêsu là người rất đặc biệt. Ngài thương yêu con người, rung động
trước nỗi khổ của con người, Ngài yêu thương và chữa lành con người, giúp họ
trở lại với cộng đoàn con người, trở lại với người thân yêu và nhận ra Thiên
Chúa vẫn luôn yêu thương họ. Đức Giêsu còn là một người trổi vượt hơn những
người khác, hơn các tiên tri nổi tiếng ngày xưa là Elisa và Môsê. Như thể tự
Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh tật. Ngài là người, và hơn là một con người.
Ngài là Đấng "từ trên."
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với cách hành xử của Đức Giêsu hôm
nay, bạn được đánh động ở điểm nào? Xin chia sẻ?
2. Thánh Phaolô viết: "vậy dù ăn,
dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên
Chúa" (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm được điều này không? bằng cách nào?
5. Niềm vui tròn đầy.
(Suy niệm của John W. Martens - Lm GB.
Văn Hào chuyển ngữ)
Vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền
và loan tin ấy khắp nơi ( Mc 1,45)
Trong tác phẩm "Bàn về sự nhiễm uế
và tội lỗi trong nền văn hóa Do Thái cổ đại", tác giả Jonathan Klawans đã
nêu ra sự khác biệt giữa sự nhiễm uế do tội lỗi, và sự nhiễm uế do tập tục. Sự
nhơ uế mang tính luân lý gồm những tội như ngoại tình và giết người, hàm ngậm
những hành vi tội lỗi và dơ bẩn. Còn sự nhơ uế do phong hóa mang tính tập tục
bao gồm những tiến tình tự nhiên, như việc sinh nở, hành vi giao phối vợ chồng,
chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ v..v.. Những quy trình tự nhiên này không liên
quan gì đến hành vi tội lỗi cả. Bệnh phong hủi, là một trong những bệnh ngoài
da vẫn được người ta xem như một thứ nhơ uế, nhưng chỉ mang tính phong hóa theo
tập tục thời bấy giờ mà thôi.
Cho dù một người mắc bệnh ngoài da, như
những người bệnh phong, sẽ không bị kết án là có tội, nhưng theo sách Lêvi
" người đó vẫn bị coi là nhơ uế bao lâu còn mang bệnh tật trong người. Họ
phải sống một mình, tách khỏi lều trại nơi cộng đồng sinh sống (Lv
13,45-46)". Nhiều người nhiễm bệnh phong hủi còn bị cắt đứt sự tương giao
hoàn toàn, cả về mặt xã hội và cả trong đời sống tôn giáo. Những sự nhiễm uế
khác theo tập tục, như sinh nở, kinh nguyệt, chỉ kéo dài một thời gian ngắn,
thường một ngày hay một tuần, nhưng cách riêng nhiễm uế do bệnh cùi có thể trở
thành vĩnh viễn suốt cả một đời người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi một
người phong hủi đi tìm kiếm và đến gặp Đức Giêsu. Anh ta nài xin Ngài giúp anh
ta trở lại hòa nhập với cộng đồng. Qùy gối trước mặt Đức Giêsu, anh ta khẩn xin
tha thiết với một ước muốn giản đơn " Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho
tôi được sạch". Mặc dù bệnh nhân không nài ép Chúa với một cung điệu ai
oán và trang trọng, nhưng anh ta bày tỏ mong ước với một động thái xác quyết và
tin tưởng, vì " Ngài có thể làm việc này". Đây là một thái độ biểu tỏ
đức tin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Đức Giêsu và tín thác
nơi lòng trắc ẩn của Ngài.
Đức Giêsu chạnh lòng thương đối với
bệnh nhân. Marcô sử dụng hạn từ Splanchnizomai trong tiếng Hy lạp, diễn tả một
tình cảm sâu xa, một sự thương cảm và yêu thương dạt dào. Trái tim của Đức
Giêsu đã lay động trước hoàn cảnh bi thương của người bệnh và Ngài giơ tay chạm
vào anh ta. "Ngài nói: Tôi muốn, anh hãy được sạch. Lập tức bệnh phong hủi
biến mất và anh ta được lành sạch (Mc 1,42)". Khi chạm vào người cùi, Đức
Giêsu có làm điều gì sai trái không? Chắc chắn không và tuyệt đối không. Cho dù
bệnh cùi là căn bệnh lây lan, và luật Do Thái vẫn coi sự sờ chạm đến bệnh nhân
là một sự nhiễm uế, nhưng sự nhiễm uế này hoàn toàn không phải do tội lỗi. Khi
Đức Giêsu chạm đến người cùi để chữa lành cho anh ta, có thể đó là một hành vi
phản khoa học, khiến dễ bị lây nhiễm, nhưng tuyệt đối nơi Ngài không thể có sự
nhiễm uế. Động thái này có nghĩa là gì? Chúng ta thấy Đức Giêsu vẫn cẩn thận
tuân thủ lề luật và Ngài không tỏ ra khinh suất lề luật chút nào.
Sau khi bệnh nhân đã hoàn toàn được
lành lặn, Đức Giêsu nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay và còn căn dặn kỹ lưỡng
" Đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và vì anh đã được
lành sạch, thì hãy dâng những gì Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta biết
(Mc 1,44). Sự đồng cảm của Đức Giêsu được thể hiện không phải bằng một cái ôm
hôn thắm thiết để chúc mừng anh ta, vì anh được trở lại hòa nhập với cộng đồng.
Nhưng, Ngài nói với người được chữa lành là hãy đi thực hành những gì mà luật
Môsê dạy bảo, như đã viết trong sách Lêvi 14,1-32. Bệnh nhân sau khi được lành
bệnh, phải thực hiện điều luật, để được đón nhận trở lại hội nhập với cộng
đồng. Vị tư tế sẽ còn phải kiểm tra, như sách Lêvi đã dạy, và sự kiểm tra này
kéo dài suốt cả tuần lễ. Anh ta đang trên đường để tái hòa nhập, và lúc Đức
Giêsu chữa lành cho anh ta, anh ta vẫn chưa có thể trở lại với cộng đồng một
cách hoàn toàn lúc bấy giờ.
Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nghiêm
giọng bảo anh ta đừng nói gì cho ai biết? Có phải thực sự Đức Giêsu mong muốn
người bệnh đã được chữa lành phải câm lặng tuyệt đối hay không? Có phải bệnh
nhân sau khi được lành sạch sẽ không nói cho vị tư tế biết ai đã chữa lành cho
mình?
Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu là mời
gọi mọi người tiến vào Vương quốc Nước Trời, thế thì tại sao Ngài lại nghiêm
cấm người vừa được chữa lành do quyền năng của Ngài lại phải câm nín? Người
được Đức Giêsu cứu chữa chắc chắn không thể im miệng được. Anh ta ra đi và bắt
đầu công bố cho mọi người, quảng bá rộng khắp tin vui mà mình mới được lãnh
nhận. Vì vậy số người đến tìm gặp Đức Giêsu ngày càng đông đến mức độ Ngài
không thể công khai vào thành nào, mà chỉ có thể ở lại những nơi hoang vắng
ngoài thành ( Mc 1,45) .
Dường như có sự mâu thuẫn và đối kháng
giữa chỉ thị của Đức Giêsu cấm người bệnh đừng nói gì với ai, với sứ mệnh quảng
bá Vương quốc Nước Trời. Trong Tin mừng Marcô, chúng ta thấy nhiều lần Đức
Giêsu đã nói như vậy. Các học giả kinh thánh gọi đó là "Bí mật Thiên
Sai". Một đàng, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy bước theo Ngài và Ngài đã
chữa lành các bệnh nhân một cách công khai, một đàng lại có vẻ như Ngài muốn
bịt miệng các chứng nhân, cấm họ nói bất kỳ điều gì. Có phải đây là một sự đánh
đố mang tính tâm lý mà Đức Giêsu khởi xướng, hay chỉ là một kỹ xảo chơi chữ
theo kiểu văn chương mà Marcô đã sử dụng?
Các học giả cho chúng ta thấy thái độ
phản ứng của bệnh nhân được chữa lành nói lên câu trả lời cho vấn nạn này. Niềm
vui Tin Mừng vọt trào nơi tâm hồn những con người mà Đức Giêsu đã sờ chạm đến,
phải được công bố và được nhân rộng. Niềm vui đó cần được sẻ chia, cần được
quảng bá rộng khắp cho mọi người. Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay đã chu
toàn những gì lề luật đòi hỏi, nhưng anh ta biết rằng mình không thể câm lặng,
ôm giữ cho riêng mình niềm vui sung mãn và ngập tràn đó. Sau khi đã trải nghiệm
sự vui mừng lớn lao vì được thụ lãnh quyền năng chữa lành của Đức Giêsu, anh ta
ra đi và nói cho mọi người biết. Đây là hình mẫu và là chân dung của một nhà
truyền giáo đích thực, mà mỗi người chúng ta cần phải sao chép.
6. Giơ tay đụng vào – Lm. Gioan Nguyễn
Văn Ty
"Người chạnh lòng thương, giơ tay
đụng vào anh và bảo..."
Kể từ cái trải nghiệm nhỏ bé nhận được
trong khóa học BISA VIII tại Bangkok - Thái Lan đúng vào mấy ngày Tết Nhâm
Thìn, tôi đã có một cái nhìn rất khác về 'phép lạ' Đức Giêsu chữa người bị
phong hủi.
BISA (Bishops' Institute for Social
Action) là khóa học dành cho các giám mục Á Châu về các đề tài liên quan tới
phát triển con người theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội do OHD (Office of
Human Development) thuộc FABC (Federation of Asian Bishops' Conferences) tổ
chức. Khóa VIII na7m đó có sự tham dự của khoảng 30 giám mục, 10 đại biểu linh
mục, giáo dân đại diện cho 18 Hội Đồng Giám Mục và 06 tổ chức quốc tế. Tôi được
mời tham dự trong tư cách đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vì đề tài
học tập liên quan đến các di dân và thổ dân. Khóa học được chia làm hai phần,
bốn ngày dành cho chương trìnhthực nghiệm (immersion program) và bốn ngày cho
hội nghị thuyết trình và thảo luận. Trong phần thực nghiệm, các tham dự viên
được chia thành từng nhóm 4-5 người đi thực tế trong một môi trường xã hội cụ
thể. Nhóm tôi gồm 04 người, trong đó có 02 giám mục, đi làm việc tại một trung
tâm PCU-AIDS (Palliative Care Unit for AIDS Patient Center) tại tỉnh Sayong
miền đông nam Bangkok - Thái Lan, gần biên giới Kampuchia. Công việc của chúng
tôi là cùng với các y công và y tá của trung tâm chăm sóc các bệnh nhân AIDS
đang trong giai đoạn cuối. Một trong các công việc tôi được trao là thay tã
(tampers) và chùi rửa các bệnh nhân AIDS hoàn toàn bại liệt.
Việc phục vụ và đụng chạm trực tiếp tới
những con người này (một thứ phong hủi ghê tởm hiện đại?) trong trạng thái dơ
bẩn nhất của thân xác họ, đã để lại nơi tôi một ấn tượng khó quên; mọi cảm xúc
tự nhiên trong mình như muốn nổi loạn, buộc tôi phải gồng mình kiềm chế. Cảm
nghĩ lóe lên nhiều lần trong đầu tôi lúc đó chính là: "Ôi tình yêu nhập
thể, khủng khiệp quá!" Phải, Thiên Chúa trong mầu nhiệm nhập thể đã đụng
chạm trực tiếp tới tình trạng kinh tởm dơ dáy tột cùng của thể xác, nhất là của
tinh thần con người (trường hợp Người giơ tay đụng vào người mắc bệnh phong cùi
ghê tởm ở đây chỉ là một chút điển hình!). Và Người làm hành đông này không có
bất kỳ một thiết bị bảo hộ nào như tôi lúc đó, nào là khẩu trang, bao tay cao
su, nào là các thiết bị y tế, nước sát trùng... và cả các tấm tã cực kỳ tiện
lợi. Điều duy nhất mà Người được trang bị và sở đắc tới độ siêu đẳng (đồng thời
cũng chính là điều tôi hoàn toàn thiếu thốn) đó là 'Người chạnh lòng thương'! Thế
đấy, tình yêu nhập thể thực quá cụ thể và chạm tới những ngõ ngách cùng tận và
tăm tối nhất của kiếp người. Điều mà Đức Giêsu đã làm với người phong hủi xưa,
Người sẽ còn tiếp tục làm mãi với từng con người nhân loại chúng ta, đặc biệt
những ai cùng khổ bất hạnh, bệnh tật kinh tởm nhất, cả về mặt thể lý lẫn luân
lý; bất cứ ai Người cũng chạm tới được miễn là họ biết 'quỳ xuống và van
xin...' như người phong hủi xưa.
Và cũng từ trải nghiệm này tôi còn được
học thêm một điều nữa, đó là việc chữa lành (hay phép lạ) không phải là điều
quan trọng và cần nhấn mạnh nhất. Khi phục vụ tại CPU-AIDS tôi được cho biết,
bệnh nhân nào tìm lại được ý chí muốn sống, người đó mới có cơ may kéo dài cuộc
sống, ngược lại bệnh nhân sẽ tàn lụi vô phương cứu chữa. Tác động lớn nhất
trong việc điều dưỡng không phải là thuốc men hay phương tiện y tế, mà chính là
trả lại cho bệnh nhân niềm tin và hy vọng. Tôi đã thấy vài trường hợp điển hình
ngay nơi các bệnh nhân AIDS mà tôi phục vụ (thay tã, đút cơm hay nắn bóp), một
số họ đã bắt đầu tỏ ra có các dấu hiệu hồi phục rõ ràng. Một bệnh nhân AIDS-TB
(lao phổi) nặng, bị mọi người xa tránh vì dễ lây nhiễm và nhầy nhụa, nhưng khi
được tôi ân cần đút cơm và trò truyện, anh đã nở được nụ cười thật tươi sau
nhiều ngày vật vã... Và bác sĩ cho biết, bệnh tình của anh đã có dấu hiệu khả
quan hơn.
Thế đấy, tác giả Mác-cô viết: 'Người
chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch
đi!" Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch...' ôi sao mà
xác thực quá! 'Chạnh lòng thương' còn quan trọng hơn nhiều việc Đức Giêsu lấy
quyền năng mà làm phép lạ... Nói cách khác, chính 'chạnh lòng thương' mới là
phép lạ lớn hơn hết vì nó đáp ứng trực tiếp nỗi khát vọng thâm sâu nhất của
bệnh nhân phong hủi này, khi anh ta thoát khỏi tình trạng bị mọi người hắt hủi,
và kể từ lúc đó chứng phong hủi của anh khởi sự tiến trình hoàn toàn biến mất.
Ôi, sức mạnh của lòng thương xót thật
vô song, và mong sao mọi linh mục của Đức Ki-tô không những hiểu được điều này
mà còn tham gia tích cực vào quyền năng này nữa!
Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết cảm
tạ Chúa không ngừng, không phải vì các phép lạ hoặc các ơn trọng đại con nhận
được, nhưng vì đã biết tín thác vào lòng Chúa xót thương. Cho dầu không thể sửa
trị được hết các yếu đuối phần hồn phần xác (sẽ không bao giờ, với bất cứ ai!),
con vẫn mừng vui khôn xiết vì Chúa đã chạnh thương chạm tới sự ghê tởm, thấp
hèn và tội lỗi của con, qua đó trả lại cho con niềm hy vọng tràn trề và một sức
sống bất tận. A-men.
7. Tôi muốn anh được sạch
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng
Quang Tiến)
Từ câu 1:39, Marcô ghi nhận là Chúa
Giêsu đã bắt đầu mở rộng hoạt động khắp miền Galilê. Tiếp theo là câu chuyện
chữa lành người phong hủi. Và trong câu kết (1:45), Marcô cho thấy dân chúng ở
Galilê cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi Chúa Giêsu. Họ đến với Người từ mọi vùng,
như dân chúng ở Capharnaum đã làm (1:35-37). Câu chuyện chữa lành người phung
hủi được thuật lại riêng, không chung với các bệnh nhân khác. Hầu hết các bệnh
nhân đều được mang đến cho Chúa Giêsu để được chữa lành (1:32-34), chỉ có bệnh
nhân phung hủi nầy tự mình tìm đến với Người. Lý do là vì sợ bị ô uế, mà chẳng
ai dám đụng đến người phung hủi. Hành động và lời nói của người phung hủi đã
được làm nổi bật cách đặc biệt trong trình thuật nầy.
Hành động đầu tiên của bệnh nhân là đến
lại gần và quỳ gối trước mặt Người. Theo luật Môisen, bệnh phong hủi là một
bệnh ghê tởm. Người mắc bệnh bị xem như người ô uế, bị loại ra khỏi hàng ngũ
của dân Thiên Chúa thánh thiện, và phải xa lánh mọi người (Lv 13). Bệnh nầy bị
đánh giá như là một sự hủy hoại không những thân xác, mà cả mọi tương quan của
bệnh nhân với Thiên Chúa và xã hội. Do đó, đến gần và quỳ gối trước Chúa Giêsu
là một thái độ đức tin. Ông đến với Chúa Giêsu vì đã thấy Người đã chữa lành
nhiều người (1:21-28; 32-34). Và ông cũng thấy Người có quyền năng hơn cả các
luật sĩ (x.1:22), nên ông bất kể luật Môisen mà đến với Người. Ông đến để cầu
xin chữa bệnh: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch."
Lời cầu xin nầy xác nhận đức tin thúc đẩy ông đến với Chúa Giêsu (x. 1:15). Ông
tin Người có quyền năng, và Người có thể làm được nếu Người muốn. Ông phó thác
vào ý muốn của Người. Lời cầu xin cũng phản ánh hiện trạng của ông: bệnh phong
hủi làm cho ông bị ô uế, bị ruồng bỏ và chỉ có Chúa mới làm cho ông được sạch.
Đáp lại cử chỉ đức tin của người phong
hủi, Chúa Giêsu đưa tay đụng đến anh và nói lời chữa bệnh. Đưa tay ra là dấu
hiệu hành động của quyền năng Thiên Chúa (Xh 3:20; 7:5; Tv 138:7), hoặc hành
động nhân danh Thiên Chúa (Xh 14:16.21.27). Đụng đến người phung hủi theo Luật
là vấy uế. Nhưng vì Chúa Giêsu ở trên Luật Môisen (x. 2:10-12), nên khi đụng
đến ông, Người không bị ô uế. Ngược lại, Người làm cho người bị kể là ô uế được
lành sạch hoàn toàn. Cũng đáp lại lời tuyên xưng đức tin của người phung hủi,
Chúa Giêsu dùng lại lời của ông mà chữa ông lành:"Tôi muốn, anh sạch
đi!".
Lý do Chúa Giêsu muốn người phung hủi
ra về trong thinh lặng là để ông có thể cảm nghiệm lâu dài và cách cá nhân
quyền năng của Thiên Chúa, biểu lộ trong Chúa Giêsu, đang thực hiện trong ông.
Quyền năng ấy đã chữa ông lành bệnh phong hủi, đã đưa ông vào lại trong tương
quan và hiệp thông với Thiên Chúa và con người (x. Lv 14:1-32). Nhưng Chúa
Giêsu không thành công. Người không thể kiềm hãm được người phong hủi. Ông được
chữa lành, và ông kinh nghiệm bản thân về lòng thương xót và quyền năng của
Thiên Chúa quá lớn lao trong ông, khiến ông chỉ có một cách là "rao
giảng" kèrussò, tin mừng ấy cho mọi người biết. Sau Gioan (1:4), Chúa
Giêsu (1:14.38. 39), ông là người thứ ba rao giảng những điều kỳ diệu của Thiên
Chúa (1:45), và những người khác sau ông (3:14; 5:20; 6:12; 7:36).
Chúa Giêsu đến để hội nhập lại những
người ngoài trật tự của con người và Thiên Chúa. Người thực hiện điều ấy với
quyền năng và lòng thương xót, nên danh Người vẫn được loan truyền giữa con
người.
8. Chữa người phong cùi – Radio Veritas
Asia
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Raoul Folereau, vị đại ân nhân của
những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Đến một nơi
cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau
nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất
vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người
phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi
chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ
hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế,
một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây,
tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những
vết tích của căn bệnh quái ác này.
Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem
như đại diện của họ và hỏi:
- Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán
ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức
uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất
nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến
ngày Thứ Hai không?
Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi
ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai
đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:
- Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay
được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng
đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.
Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn
vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn
khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.
Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê
sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn
đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã
gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh
hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình
diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này
luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi
trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ
vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là
dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người
không hay biết.
Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng,
dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại.
Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san
sẻ.
9. Chạnh lòng thương – Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu
Suy Niệm:
Đây là quy chế người mắc bệnh phong
theo sách Lêvi (13, 45-46). Người ấy phải mặc quần áo rách, để tóc bù xù, che
môi trên, phải vừa đi vừa kêu lên: "Ô uế ! ô uế !" để người ta biết
mà tránh xa. Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại... Như
thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong và ảnh hưởng
nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh,
người phong phải trình tư tế, phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy
trong tám ngày, và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi
14).
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay
đã không giữ Luật Môsê. Anh dám lại gần Đức Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm
anh được sạch, mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh, chỉ Thiên Chúa mới làm được
chuyện đó.
Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã
làm điều không được phép. Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh, đụng đến da
thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh, dù chỉ một lời của
ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.
Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không
làm ngài bị ô uế. Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy
này, Đức Giêsu đã phải trả giá.
Người phong khi được khỏi, đã không
tránh được chuyện rêu rao. Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở
ngoài thành. Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang
địa!
Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến
người phong của Đức Giêsu đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.
Tại nhiều trại phong ở Việt Nam , ta thấy
bóng dáng của các nữ tu. Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn...
Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong, đụng đến
những vết thương tàn phế nơi thân xác họ. Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen
tiếp xúc với người phong, ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.
Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục
vụ người phong ở khắp nơi, và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo
Hội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho
chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng
con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng
con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng
con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về
Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng
trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta )
10. Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa –
Yvon Daigneau.
Mở đầu.
Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài người đã
được khẳng định trong các trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi người đều
hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp cho vô số
vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài người khỏi quyền lực của tội lỗi và
sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về
sứ vụ của Ngài đối với chúng ta.
Bệnh tật.
Chúng ta thất vọng và chua xót khi
thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại một
cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và cuối
cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu,
người ta hầu như không có cách nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng hoành hành
như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta thường mặc nhiên gán cho bệnh tật
sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của Thiên Chúa
vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại Israel , bệnh
tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành được
nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn bệnh
tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi.
Người phong cùi đến với Chúa Giêsu xin
được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là được hồi phục trong thân xác. Anh
ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã gây cho anh
nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ được tái
sinh.
Thái độ của Chúa Giêsu.
Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của
Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm khắc
của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải giữ
thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều nhận
thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc phiền
toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá hiển
nhiên như thế.
Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch
khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng
mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho
mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến
mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra
kiêu ngạo và sinh tội nữa.
Còn việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ
ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một
cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung
thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ,
còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý Chúa
nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ này.
Người phong cùi.
Theo Tin Mừng, người phong cùi không có
vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng được, anh
nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận
được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép lạ mà mình
sẽ kể cho bà con lối xóm.
Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu
không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành và
anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống mới,
cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó, Ngài
vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những kẻ đã
được thương xót.
Kết luận.
Trong lòng mỗi người chúng ta có một
nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự gắn
bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý thức.
Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương xót.
Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.
11. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
BỆNH PHONG TÂM HỒN
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y,
bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra
ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng
bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải
ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: "Ô uế, ô uế", cho
mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô
uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám
đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương
trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn
dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát
dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng
chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả
cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua
những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến
gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức
Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị
lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.
Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải
thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết
thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi
tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như
bao người khác.
Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi
chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi
những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân
thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị
mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao
giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng.
Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh
cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã
liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái
hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo
như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh
được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài
người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục
hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi
người, như mọi người.
Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè
nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi
buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến
với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành
những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau
vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.
Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước
Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với
những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết
tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm
hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em
mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết
tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh
toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay
bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong
nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm
hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào,
rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con.
Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã
sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người
bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị
người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ
kinh nghiệm đó?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được
Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
12. Muốn và có thể.
(Trích trong 'Manna' – Lm Nguyễn Cao
Siêu)
Suy Niệm
Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta . Những thùng
quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ: "Hãy chạm đến một người phong bằng lòng
trắc ẩn của bạn".
Chạm đến người phong là điều xưa nay ai
cũng sợ. Theo luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu. Đi đâu
người ấy cũng phải la to: "Ô uế! ô uế!" (Lv 13,45-46). Bị cách ly với
mọi người, bị coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn, người phong sống
mà như chết.
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay
khá đặc biệt. Anh tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài. Lời van
xin của anh thật là một lời xin mẫu mực. "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm
cho tôi được sạch".
Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương
xót của Ngài. Anh để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý. Dù rất muốn khỏi
bệnh, nhưng anh lại phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn. Ngài có thể: anh tin
tưởng vào quyền năng của Ngài. Anh không nói như người cha của đứa con bị động
kinh: "Nếu Thầy có thể làm được gì..." (Mc 9,22).
Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa
anh lành bệnh. Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ,
phó thác của anh đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.
Không cưỡng lại được sự tin cậy đó,
Ngài nói: "Tôi muốn." Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong
và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức Giêsu.
Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng
vào anh. Ngài không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế. Bàn tay Ngài đụng
vào da thịt anh với các vết thương. Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh
hết ô uế. Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh, như chính anh
đã mạnh dạn đến với Ngài bằng lòng tin.
Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ
thuộc Lề Luật. Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.
Chúng ta cần nếm niềm vui của người
phong được lành.
Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm
người bình thường, được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên
Chúa. Anh lấy lại phẩm giá, ra khỏi những mặc cảm. Niềm vui quá lớn khiến anh
đi loan báo khắp nơi. Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành. Còn
Đức Giêsu lại phải ở ngoài thành, nơi hoang vắng.
Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh
phong năm 1871, người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành. Họ không còn bị
trục xuất ra đảo xa hay bị bách hại. Nhưng để cho họ được sống như mọi người
vẫn là điều khó.
Cũng có những người bị ta xa tránh như
người phong: những cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập,
những người có tiền án hay thuộc giai cấp cùng đinh... Hãy đến gần họ và để họ
đến gần mình, vì nói cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng
ta ít để cho Chúa được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình.
Lời cầu xin của người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?
Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống
với người phong và lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với
một người bị bỏ rơi, bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có
những ngày đón nhận những người khác là điều vượt quá sức con, vì con kiêu
hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có
những ngày con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì màu da, vì
cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con có những
ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con trong
những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là
con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: "Điều gì chúng con làm cho
người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta"
13. Người bị loại trừ.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Đối với tâm lý người xưa nói chung và
người Do Thái nói riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma
chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh
càng nặng, càng ghê tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.
Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không
bệnh nào nan trị bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức
đã phải có biện pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái
trục xuất người phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi
phải ra khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai
và cũng không được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên
tiếng làm hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô
phúc cho ai bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các
nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong
cùi, khi thấy thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám
nghiệm. Nếu đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy
trước khi được cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã
hội.
Anh chị em thân mến,
Có hiểu số phận thảm thương của người
phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đoạn
Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp
luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một
lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp
luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán: "Ta muốn anh được
sạch", tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong cùi được lành sạch.
Ngày nay, quan niệm khắt khe đối với
bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và đang
xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới. Với đà
tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được
hết bệnh phong cùi.
Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà
khoa học không bao giờ chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội
lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này
mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa.
Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã
đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến
để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần
Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng
ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi
người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên
trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách
chúng ta với Chúa và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo
Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy
sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và
với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đã biết, theo luật pháp Do
Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người,
không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng
tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu,
thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, "Ngài đưa tay ra đụng đến người
phong cùi". Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa
là tất cả cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh
tật...
Thái độ tin tưởng của người phong cùi
và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta đừng
bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập mình với
anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy biết quảng
đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi người.
Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng
ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một "cái mình khác" của
chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ
người nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình
yêu thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn
kém... Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ
lại Lời Chúa: "Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong
các anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40). Chúng ta hãy
nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà
chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Bằng chính lời nói, hành động yêu
thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và thông hiệp với những
người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên trời.
Có lẽ ông bà anh chị em đã được nghe
nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mục Giáo phận Sài Gòn của chúng ta
trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mục Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình
nguyện về sống giữa những bệnh nhân phong cùi thân yêu của ngài ở trại phong
cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị
nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một người bạn của người phong cùi, một
chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, một con người hy sinh phục vụ người phong
cùi, chấp nhận mang lấy bệnh phong cùi của họ và chết đi ở giữa họ.
Mười tám năm trời, ngài sống trong
thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh nhân phong cùi, không mấy ai
biết đến. Nhưng khi ngài mất đi vào năm 1973, mọi người hay biết đều cảm phục
tấm gương hy sinh anh dũng của ngài, ngài đáng được gọi là: "Cha của người
phong cùi".
Tấm gương bác ái cao cả đó, không phải
ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những người,
những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh người
phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi
không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành "cùi" như họ.
Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ,
chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như
vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ
mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng
sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài.
Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta
tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng
ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn
xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống quảng đại
mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho chúng ta.
14. Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong
tâm hồn.
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Trần Ngà)
Thời Chúa Giêsu, người mắc bệnh phong
lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát và thảm hại. Cuộc sống của họ tồi tệ ngàn lần
hơn cái chết. Thà chết phứt đi còn hơn là phải chịu cái chết dần mòn trong đau
đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần. Nỗi đau thương nhất mà người phong hủi
phải gánh chịu là bị cách ly khỏi cha mẹ, bạn trăm năm, con cái, những người
thân yêu và hết thảy mọi người để sống trong sự ghê tởm, ghẻ lạnh của người đời
và kết thúc cuộc đời bằng cái chết cô đơn thảm hại.
Bài trích sách Lêvi được trích đọc
trong phụng vụ hôm nay diễn tả phần nào tình trạng thương tâm đó: "Người
mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô
uế!". Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế. Nó phải ở riêng ra, cách
ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một nơi riêng bên ngoài trại." (Lêvi
13, 45-46)
Tội lỗi cắt lìa chúng ta khỏi thân mình
Chúa Giêsu.
Tội lỗi cũng y như một thứ bệnh phong
hủi trong tâm hồn gây tác hại cho người lỗi phạm không thua kém.
Giáo lý công giáo dạy rằng bí tích
thánh tẩy tháp nhập người tín hữu vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành nho được
tháp vào thân nho và cũng như thân nho chuyển thông nhựa sống nuôi cành thế nào
thì Chúa Giêsu cũng chuyển thông sự sống thần linh của Người cho các tín hữu
như thế.
Bí tích thánh tẩy làm cho "người
tín hữu trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa Giêsu" (giáo lý công giáo số
1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của Chúa Giêsu được thông ban cho họ y như sự
sống của toàn thân châu lưu trong từng chi thể.
Thế nhưng, khi phạm tội trọng, người
tín hữu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giêsu như cành nho bị chặt phăng khỏi thân
nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể.
Hậu quả của việc cắt lìa nầy là họ trở
nên như một cành nho khô héo, thành một bàn tay đứt lìa, và vì thế, sự sống
thiêng liêng của Thiên Chúa không còn được thông ban cho họ nữa. Thân phận của
họ lúc nầy còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi bị gạt ra khỏi gia đình,
thôn xóm và cách ly với mọi người.
Chúa Giêsu cứu ta khỏi tội và đưa ta
hoà nhập lại với Hội Thánh.
Khi "người bị phong hủi đến gặp
Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm
cho tôi được sạch." Chúa Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và
bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh,
và anh được sạch." (Mc 1, 40-42)
Làm sao tả hết nỗi mừng vui hoan hỉ của
người phong được Chúa chữa lành. Anh ta reo lên vui sướng và mặc dù Chúa Giêsu
nghiêm cấm anh tiết lộ danh tánh Người đã cứu chữa anh, nhưng niềm hạnh phúc
trào dâng không thể nào kìm nổi đã khiến anh phải cao rao cho mọi người biết
hồng ân anh đã lãnh nhận. (Mc 1, 42)
Từ đây, anh được thoát khỏi chứng bệnh
quái ác và không còn bị cách ly với xã hội loài người, được giã từ nơi cô tịch
để về sum họp với gia đình, làng xóm, được đoàn tụ với bao người thân yêu.
Hôm nay, để cứu chúng ta khỏi tình
trạng "cành lìa cây", "cánh tay bị cắt lìa cơ thể" do tội
lỗi gây ra, Chúa Giêsu lập nên bí tích giải tội để nối kết chúng ta lại với
Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người tiếp tục truyền qua cho
chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho cành, như sự sống từ thân
mình chuyển qua cho bàn tay.
Ngày qua ngày, Chúa Giêsu vẫn trông chờ
chúng ta ăn năn trở về như người cha chờ đợi đứa con đi hoang, như mẹ hiền mong
ước đứa con lưu lạc trở về. Người vẫn thao thức tìm kiếm chúng ta như người chủ
chiên đi tìm con chiên lạc rất yêu dấu.
Ước gì chúng ta biết thành khẩn tìm đến
với Chúa Giêsu như người mắc bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay, khiêm tốn quỳ
xuống trước mặt Người và tha thiết van xin: "Lạy Chúa, xin thanh tẩy linh
hồn con nên trong sạnh. Xin cho con được giao hoà với Chúa để sự sống của Chúa
lại được thông truyền cho chúng con."
15. Loan báo Tin Mừng
Một người tân tòng mới trở lại cùng
Chúa, ngày kia có anh bạn láng giềng tới chơi và hỏi: Anh biết được những gì về
Đức Kitô? Người tân tòng trả lời: Có, tôi biết nhiều lắm. Người bạn hỏi: Vậy
Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu và chết lúc bao nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi
này, người tân tòng tỏ ra bối rối vì kiến thức của anh về Đức Kitô còn non yếu.
Cuối cùng người tân tòng bèn thú nhận: Phải, về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm,
nhưng có điều này chắc chắn: Trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi say sưa be
bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ. Trước đây, vợ tôi ít khi mỉm cười với tôi. Thấy
bóng tôi là sợ hãi. Nhưng hôm nay, tôi là một người đàn ông tiết độ, hết nợ và
còn dư tiền để tậu một căn nhà mới. Hôm nay, vợ tôi thường tươi cười với tôi.
Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là niềm tin tưởng và xác tín
của tôi.
Tình cảnh của người tân tòng này cũng
phần nào giống với người phong cùi của đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh không
biết nhiều về Đức Kitô, nhưng anh tin chắc Ngài đã chữa lành cho anh và anh ra
đi loan truyền cho mọi người biết điều đó...
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta phải
nói cho mọi người biết những gì Đức Kitô đã làm cho mỗi người chúng ta. Chúng
ta hãy lưu ý tới hành động của Chúa Giêsu. Ngài không sợ bị nhơ bẩn, bị ô uế,
trái lại Ngài đã giơ tay ra, đụng tới người phong cùi và bỗng nhiên cơn bệnh
của anh biến mất.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn giơ
tay ra đụng tới chúng ta và chữa lành chứng bệnh phong cùi tâm hồn chúng ta là
tội lỗi. Thực vậy, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Giải tội, để chữa lành
những ung nhọt tội lỗi. Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Thêm sức, để trao
ban Thánh Linh và gia tăng sức sống. Và nhất là Ngài không phải chỉ đụng đến
chúng ta mà còn ngự vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Rồi khi chúng
ta đau yếu, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Xức dầu để xoa đi những đớn đau
phần hồn cũng như phần xác. Ngài giơ tay ra cho những cô dâu và chú rể để giúp
họ thánh hóa cuộc sống gia đình...
Chính vì thế, chúng ta có thể mượn lời
kinh chúc tụng của Mẹ Maria để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Ngài là Đấng toàn
năng, đã làm cho tôi muôn việc trọng đại. Là những người cha người mẹ, chúng ta
phải nói cho con cái biết những gì Chúa đã làm cho chúng ta và cho gia đình
chúng ta nữa.
Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, cũng
phải nói cho những người tin cũng như không tin, bằng lời nói và bằng đời sống,
những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức
Kitô, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài đã làm chuyển biến, đã làm thay
đổi để chúng ta được trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
16. "Vì loài người chúng tôi"
"Ngài chạnh lòng thương, giơ tay
sờ vào anh ta"
Như bị một ma lực cuốn hút, người phong
cùi cứ rẽ đám đông xấn tới, tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho người ta nạt nộ
quát mắng, ngăn cản anh. Và cũng bất chấp dư luận, Đức Giêsu đã giơ tay ra đón
và sờ vào anh ta. Theo phong tục Do Thái thời Chúa (và bây giờ ở nhiều nơi vẫn
còn như vậy), bệnh nhân phong bị cấm, không được lui tới những xóm thôn, thị
tứ, nơi những "người lành" cư ngụ. Họ bị coi là "kẻ xấu xa"
vì đã bị Thiên Chúa luận phạt ngay ở đời này vì tội lỗi của mình. Họ bị loại
trừ ra khỏi xã hội loài người, sống lang thang vất vưởng như những bóng ma. Họ
là những con ma sống, hay những xác chết còn thở hí hóp. Họ phải la to lên cảnh
báo khi có người tới gần họ. Ai cũng không muốn "dây với người hủi".
Nhưng Đức Giêsu đã giơ tay đón anh ta, sờ vào anh ta. Khi đôi tay nhân lành
chạm vào làn da "sượng sần và tê điếng", lạ thay và cũng cao cả
nhường bao! Làn da vô cảm ấy đã nhẵn nhụi, hồng hào lành lặn trở lại. Ai nói
được hết nỗi vui của anh. Nhưng Đức Giêsu lại bảo anh phải gấp rút đi gặp các
tư tế.
Đây là một thủ tục cần thiết để người
phong có thể hội nhập lại xã hội. Chứng nhận của tư tế sẽ giúp cho gia đình
anh, bạn bè anh, bà con lối xóm vui lòng đón anh trở lại xã hội người. Cứu
người phong khỏi bệnh, Chúa còn trả lại nhân phẩm cho anh, cứu anh khỏi thân
phận bị loại trừ, hất hủi.
Lệnh truyền thứ hai của Chúa đối với
người phong là anh ta không được kể chuyện mình cho ai nghe. Chi tiết này xem
ra mâu thuẫn với việc phải đi bẩm báo các vị tư tế, và ý muốn cho anh hội nhập
xã hội trở lại. Đương sự đã không thể giữ miệng được lâu. "Vừa ra khỏi đó,
anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp nơi". Anh đã trở thành người
rao giảng Tin Mừng cứu độ, bởi vì anh đã được cứu độ, được giải phóng. Việc anh
loan báo tin vui đã khiến Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được.
Chúa không muốn bị người ta xem Ngài là ông thầy lang mát tay, Ngài không muốn
gây một sự cuồng nhiệt nơi quần chúng. Cho dù làm cho người ta hiểu đúng Tin Mừng
của Chúa không phải là một điều dễ dàng.
Thánh Gioan đã gọi các phép lạ của Chúa
là những "dấu chỉ", Chứng tỏ vương quốc tình yêu, công bình, hòa
bình, hạnh phúc của Thiên Chúa đang đến với lịch sử nhân loại. Qua các phép lạ,
Chúa muốn chứng tỏ vì sao Chúa đến. Chúa đến không phải để làm thầy lang, người
trừ qủi, người giảng thuyết, mà là để chia sẻ thân phận cùng khổ, tuyệt vọng
của con người chúng ta, và để cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ. Như chúng ta vẫn
thường tuyên xưng: "Vì loài người chúng tôi và để cứu chuộc chúng tôi,
Người đã từ trời xuống thế".
17. Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa
tôi.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Người phong cùi quỳ xuống cầu xin Chúa:
"Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi".
Bác sĩ Collins là một người vô tín, có
kiến thức cao, ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:
- Bác đi đâu vậy?
- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.
- Chúa của bác to hay nhỏ?
- Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức các
tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim
tôi.
Câu nói của bác nông dân đã tóm gọn đầy
đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi sự.
Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim ta.
Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như vậy.
Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu,
người phong cùi là loại người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung với cha
mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống thành nhóm
riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la lên:
"Ô uế! ô uế!" để người ta biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ
với người phong cùi. Trò chuyện với họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới
thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó, một người phong cùi đã nghe nói về
Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước
mặt Chúa và van xin: "Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi".
Chuyện này xảy ra vào giai đoạn đầu
cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như một
dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng, mới
có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài xua
đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan y.
Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho
thần linh, cho Thượng Đế.
Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động
thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: "Ta muốn anh được
khỏi". Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người
đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi
những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây,
Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi.
Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu,
khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng
con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu thương
đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành
chúng con và những người anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi
khen Ngài.
18. Cử chỉ
So với những cử chỉ lớn lao, thì những
cử chỉ nhỏ bé lại có thể giúp chúng ta thấu hiểu hơn về tính cách của một con
người. Những điều lớn lao chứng tỏ cho chúng ta về sức mạnh nơi một con người.
Còn những điều nhỏ nhoi lại cho chúng ta thấy được bản tính nhân loại nơi một
con người. Chúng ta có được ví dụ rất tốt đẹp này trong bài Tin Mừng hôm nay.
Đó là cử chỉ của Đức Giêsu, qua việc Người đụng chạm vào kẻ bị phong hủi, trước
khi chữa lành cho anh ta. Mặc dù tự thân sự đụng chạm là một điều nhỏ bé, nhưng
trong bối cảnh này, đó là một việc làm lớn lao. Chính những cử chỉ nhỏ bé giống
như vậy, lại khẳng định được nhân cách và giá trị của con người.
Ngày nay, người ta không còn sợ hãi
bệnh phong hủi như trước đây. nếu người nào bị lây nhiễm căn bệnh này, mà được
điều trị kịp thời, thì họ có thể hoàn toàn khỏi bệnh, và không ai biết rằng họ
đã từng bị mắc bệnh. Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, bệnh phong hủi là một trong
những căn bệnh đáng sợ nhất. Đối với dân chúng thời đó bệnh phong hủi tương tự
như căn bệnh AIDS đối với chúng ta ngày nay.
Người mắc bệnh phong hủi bị cấm không
được sống chung với cộng đồng, để bảo vệ cho cả cộng đồng khỏi bị lây nhiễm.
Những người phong hủi cũng bị loại ra khỏi những sinh hoạt tôn giáo, bởi vì họ
bị coi là những kẻ không tinh sạch theo lễ nghi, và không ai dám liên lạc với
họ. Do đó, họ là những kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo. Họ bị mọi người
ruồng rẫy, khinh miệt và người ta tin rằng họ bị chính Thiên Chúa cũng ruồng
rẫy, khinh miệt nữa. Nếu muốn công bố là đã khỏi bệnh, họ phải trải qua một lễ
nghi thanh tẩy, trước khi được chấp nhận trở lại với cộng đồng.
Đức Giêsu biết tất cả những điều này.
Tuy nhiên, Người đã vượt qua những cấm đoán của xã hội và tôn giáo. Đức Giêsu
cho phép người phong hủi lại gần Người. Thế rồi Người đã làm một điều mà không
ai ngờ. Người tiến đến gần, đụng chạm vào người phong hủi, trước khi chữa lành
cho anh. Tại sao Người lại dám làm một điều mà lề luật cấm đoán? Sự đụng chạm
đó cho thấy lòng thương xót lớn lao của Đức Giêsu đối với người sống ngoài lề
xã hội, kẻ tội lỗi và người đau khổ.
Người đụng chạm vào người phong hủi, để
có thể chứng tỏ rằng tất cả mọi sự đều tinh sạch đối với người mà tự bản thân
họ đã tinh sạch. Sự không tinh sạch bên ngoài không hề làm mất đi sự tinh sạch
của tâm hồn. Người đụng chạm vào anh ta, để dạy cho chúng ta rằng không được
khinh miệt bất cứ ai, và coi họ như là những kẻ đáng thương, bởi vì nỗi đau đớn
thể xác của họ. Người đụng chạm vào các thương tích của con người, không phải
để cho các thương tích đó có thể dính chặt vào Người, mà là để Người có thể trừ
khử chúng ta ra khỏi người đang bị đau đớn.
Đối với người phong hủi, cử chỉ đơn
giản đó mang ý nghĩa của cả một thế giới. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người
phong hủi không phải là tự thân căn bệnh, mà là nỗi đau đớn vì bị tất cả mọi
người ruồng rẫy. Khi đụng chạm vào người anh ta, Đức Giêsu đem đến cho anh một
dấu hiệu của sự đón nhận, và sửa đổi nơi anh ý tưởng rằng mình không tinh sạch,
vô giá trị, không là gì cả, chỉ là một con người bỏ đi mà thôi.
Đức Giêsu đã có sự hiểu biết lớn lao,
và có cảm xúc đối với những người đau khổ, Oscar Wilde nói về điều này như sau;
"Đức Giêsu đã thấu hiểu bệnh phong
hủi của người phong hủi, sự tối tăm của người mù, sự bất hạnh do thói tự mãn
của những kẻ sống theo lạc thú, sự nghèo nàn đến kỳ lạ của những kẻ giàu có, sự
thèm khát có thể dẫn con người đến tình trạng uống cả những giòng nước bùn
lầy".
Đức Giêsu nhấn mạnh đến khả năng thương
xót của chúng ta. Người thách đố suy nghĩ của chúng ta về lòng yêu mến. Mỗi
người chúng ta đều có khả năng yêu thương lớn lao. Thật đáng tiếc là chúng ta
thường không sử dụng đến khả năng yêu thương đó. Chúng ta có được khả năng này
trong sức mạnh của chúng ta, để tiếp cận được với những người đang phải chịu
đựng nỗi đau đớn của cảnh bị ruồng rẫy. Chúng ta có thể nhen nhúm lại niềm hy
vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản
ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta nhận
ra được cách cư xử, mà một cộng đoàn Kitô hữu nên có, đối với những kẻ tội lỗi
và những người bị xã hội ruồng bỏ. Trong thời đại của chúng ta, ai là những
người phong hủi (sống ngoài lề xã hội)? Chúng ta đã nhận biết được cách cư xử
của Đức Giêsu đối với họ. Vậy chúng ta phải cư xử với họ ra sao? Và theo mức độ
con người, mỗi người chúng ta đều đã được Đức Kitô thanh tẩy trong phép Rửa
tội, và chúng ta cần phải loan truyền tin vui.
19. Lòng từ ái
Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, người
ta tin rằng căn bệnh phong hủi rất hay lây nhiễm. Vì lý do đó, những người
phong hủi bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Người ta biết đến họ như
là những người không thể đụng chạm vào được. Sự hiện hữu của họ quả thật là
lạnh lùng, cô độc. Họ phải sống xa cách với mái nhà, gia đình và bạn bè của họ.
Họ là những con người đã từng hòa mình trong cuộc sống, thế mà hiện nay, họ
không là gì cả. Cuộc đời của họ là một cái chết sống động. Người ta tin rằng họ
bị Thiên Chúa nguyền rủa. Người ta cho rằng họ không chỉ là những kẻ bệnh hoạn,
mà còn không tinh sạch nữa. Người đàn ông đang tiến lại gần Đức Giêsu chính là
loại người đó. Anh ta không được xuất hiện trước công chúng, mà không rung
chuông, hoặc không la to lên báo hiệu, để cho mọi người cảnh giác. Anh ta có
nguy cơ bị xua đuổi bằng những cục đá. Nhưng anh ta quyết định đi gặp một
người, mà anh ta tin rằng sẽ không xua đuổi anh.
Đức Giêsu nhìn thấy người phong hủi
đang lại gần, và cho phép anh ta tiến thẳng đến với Người. Liệu Người có đụng
chạm vào người phong hủi này không? Nếu Người sờ tay vào người phong hủi, thì
Người sẽ nói gì? Nếu Người không sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói
gì? Nhận thấy tình trạng bi đát của anh ta, Đức Giêsu đã động lòng thương,
Người tiến lại gần và sờ vào anh. Đây là một hành động biểu tượng, chắc chắn sẽ
gây sốc cho những người xem. (Người ta nhận thấy ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả
một cái bắt tay đơn giản, cũng có thể gây rắc rối). Khi đụng chạm vào người
phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự biến mình thành một người không tinh sạch. Hầu
hết mọi người trong chúng ta đều e ngại người đau yếu và người nghèo khổ. Chúng
ta có thể cho người ăn xin một vài đồng lẻ, nhưng chắc chắn chúng ta không hề
có tương quan gì đối với họ. tuy nhiên, chúng ta lại thích được đụng chạm vào.
Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi được một nhân vật quan trọng nào đó bắt tay,
hoặc vỗ vào lưng chúng ta.
Chắc hẳn là sự tiếp xúc về mặt thể lý
tạo cho mọi người, đặc biệt là những người đau yếu và bị thương tật, một cảm
giác nồng ấm và vui tươi. Chính khi đụng chạm vào người khác, chúng ta cảm nhận
được một cách chính xác về người đó. Đức Giêsu đã đụng chạm vào những người
phong hủi, tội lỗi, đau yếu và kẻ chết.
Bạn hãy thử tưởng tượng xem người phong
hủi cảm thấy sung sướng đến thế nào, khi Đức Giêsu đụng chạm vào người anh ta.
Trước hết, anh ta cảm thấy mình là một con người. Thân xác của anh ta đã bị tổn
thương sâu xa hơn – do cảm giác rằng mình bị tất cả mọi người, kể ac Thiên
Chúa, xua đuổi và bỏ rơi. Bằng cách đụng chạm vào anh ta, Đức Giêsu đã chữa
lành tinh thần bị tổn thương của anh ta. Thế rồi người phong hủi nói "Thưa
Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".
Đức Giêsu đáp: "Tất nhiên là tôi
muốn". Và Người đã chữa lành cho anh. Bây giờ, anh được chữa lành cả về
thân xác nữa, hoàn toàn được lành lặn.
Nơi người y bác sĩ, lòng từ ái hầu như
là một điều quan trọng nhất đối với một bệnh nhân. Khi người ta xuất viện sau
một cuộc phẫu thuật hoặc một cơn bệnh, một trong những điều mà người ta luôn
phê bình, đó là về cách cư xử của các bác sỹ và y tá.
Đức Giêsu yêu cầu người phong hủi im
lặng về việc chữa bệnh của Người. Nhưng người này lại loan báo đi khắp mọi nơi
về điều mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta. Và anh ta không chỉ nói về sự kiện Đức
Giêsu chữa lành cho anh, nhưng anh ta còn nói về tấm lòng từ ái và sự tôn trọng
thật đáng kinh ngạc, mà Người đã cư xử với anh.
Đức Giêsu đưa bàn tay đầy yêu thương và
chữa lành về phía một người hạ đẳng. Người thách đố chúng ta – những kẻ đi theo
Người – trong việc tiếp cận với những con người mà ngày nay xã hội ruồng bỏ:
các tù nhân, những người nghiện ma túy, những lữ khách, các nạn nhân Aids...
Những điều mà người ta có thể làm cho
người khác thật đáng kinh ngạc. Người ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang
đến niềm vui sống, thông truyền cảm hứng cho những kế hoạch tương lai, phục hồi
lòng tự trọng và tự hào. Thậm chí người ta còn có thể phản ánh một cách lờ mờ
về lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa nữa.
20. Phong cùi
Như chúng ta đã biết, bệnh phong cùi là
một chứng bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa trị. Nó làm cho người mắc phải, bị đau
đớn nhức nhối, và trở nên hôi thối. Nó gậm nhấm các chi thể, làm cho các chi
thể bị băng hoại, chết dần chết mòn và sau cùng bị rơi rụng.
Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh
rất hay lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở
một nơi riêng rẽ, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của bệnh phong cùi cũng chính
là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta
trở nên xấu xa và hôi thối dưới mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng
ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống của ơn
sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm,
do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung
quanh.
Thế nhưng có một điều bi đát, đó là đối
với những kẻ mắc phải chứng bệnh phong cùi, thì như tôi vừa nói, người ta
thường để họ sống biệt lập tại một nơi hoang vắng, hay trong những trại riêng biệt,
hầu giới hạn sự lây lan của nó.
Còn tội lỗi thì khác, nó đang ở giữa
chúng ta, trà trộn vào trong chúng ta, thế lực và ảnh hưởng của nó mỗi ngày một
bành trướng, nó tràn ngập khắp nơi, từ thôn quê cho tới tỉnh thành, không chỗ
nào mà không có dấu vết của nó, để rồi con người thời nay đã đánh mất ý thức về
nó. Họ coi phạm tội là một chuyện bình thường, như ăn một chén cơm, uống một ly
nước.
Riêng với chúng ta thì sao? Sau khi đã
nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy có lấy một
điều dốc quyết và kiên trì thực hiện điều dốc quyết ấy, đó là thà chết chẳng
thà phạm tội mất lòng Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua
thánh Louis, ngày kia ngài cùng với một số quan chức đi thăm một trại cùi. Ngài
hỏi một viên đại thần. Nếu ngươi được phép chọn lựa: Một là phạm tội trọng hai
là mắc chứng bệnh phong cùi thì ngươi sẽ chọn đường nào.
Viên đại thần trả lời: kẻ hạ thần thà
phạm một trăm tội trọng chứ chẳng thà mắc phải chứng bệnh ghê tởm ấy.
Thế nhưng nhà vua đã nói với ông ta: Còn
trẫm, thà rằng trẫm mắc phải chứng bệnh ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng thà phạm
một tội trọng mất lòng Chúa.
Cố gắng xa tránh tội đã đành, còn khi
trót phạm tội, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa, hãy giục lòng thống hối ăn
năn, như vua thánh Đavid ngày xưa: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã vấp
phạm đến Chúa, rồi sau đó thi hành ngay phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho
người phong cùi.
Phương thế ấy như thế nào: Con hãy đi
trình diện cùng tư tế. Phải chăng mỗi khi chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng
nhắc nhở chúng ta rằng: Con hãy đi gặp linh mục nơi tòa giải tội.
Bởi vì như chúng ta đã biết, bí tích
Giải tội chính là bí tích của lòng thương xót, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa
tha thứ. Và tòa giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên
Chúa.
Có một người khô khan nguội lạnh, tới
gặp một vị linh mục và nói: Thưa cha con tội lỗi nặng nề lắm, chỉ có một cách
là thắt cổ chết quách đi cho rồi. Vị linh mục dẫn người đó tới chân tượng thánh
giá và hỏi:
Ai chịu chết trên đó?
- Thưa, Chúa Giêsu.
Tại sao Ngài lại chịu chết?
- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.
Vậy trong nhân loại có con hay không?
- Thưa, có.
Thế là người đó thêm niềm cậy trông,
giục lòng ăn năn, xưng thú tội lỗi và tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.
Hãy xa tránh tội lỗi để tâm hồn được
bình an, đồng thời hãy ăn năn sám hối để lấy lại được tình nghĩa của Chúa.
21. Phong cùi
Bệnh phong cùi ngày nay không còn là
một chứng bệnh nan y, nếu được chữa trị theo đúng phương pháp. Số người mắc
bệnh cùi ở Việt Nam
vẫn còn nhiều, khoảng 20.000 người. Họ thường phải sống ở những nơi xa xôi hẻo
lánh. Đa số bệnh nhân bị tật nguyền, không thể mưu sinh. Nói chung, họ luôn
thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở cũng như thiếu tình thương chăm sóc.
Phần lớn trong họ chưa biết Chúa, nên
trước những đau khổ thân xác và tinh thần, họ dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng. Đã có
những tấm lòng nhân hậu, noi gương Chúa Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất hạnh của
họ. Chẳng hạn các tu sĩ nam nữ, các giáo dân thiện chí tại những trại phong
cùi, rải rắc trên toàn đất nước.
Thế nhưng, trong bối cảnh của xã hội Do
Thái cách đây hơn 2000 năm, thì phong cùi quả là một chứng bệnh khủng khiếp. Họ
bị đồng hóa với những kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Kiếp sống của họ thật đáng
thương. Họ phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai phải bù xù, râu mép phải che lại.
Họ bị xua đuổi khỏi cộng đoàn, sống tách biệt trong những nơi hoang vắng và nếu
có đi tới đâu, thì phải kêu lớn tiếng: Tôi nhơ bẩn, để người khác nghe thấy mà
tránh cho xa. Người mắc bệnh phong cùi như thế bị coi như là một người đã chết
ngay khi còn đang sống. Họ chỉ là như một thây ma biết di động mà thôi.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu
chuyện một người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta đã làm một điều táo bạo
vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm
như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến.
Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị nhơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài
sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài
và kêu van:
- Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho
tôi nên sạch.
Tất cả ước mơ của anh là được khỏi
bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên
hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được chuyện lớn lao đó, miễn là Ngài
muốn.
Trước tình cảnh bi đát này Chúa Giêsu
đã động lòng thương, Ngài đã đưa tay ra đúng vào con người anh ta. Và Ngài trả
lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Chúa Giêsu không ngại nhơ bẩn, bởi vì
Ngài đã để cho lòng thương xót trào dâng.
Đoạn Tin Mừng trên đòi chúng ta phải
thay đổi thái độ đối với những kẻ bất hạnh. Nếu hiểu phong cùi là chứng bệnh
hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm, thì trong xã hội còn biết bao nhiêu thứ phong
cùi khác nữa. Chẳng hạn những người nghiện ma túy, những người trộm cắp từng
vào tù ra khám, những người mắc bệnh Siđa... Chúng ta dễ có thái độ coi thường
và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở nên lành sạch, muốn mọi người quên đi cái dĩ
vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc đời, nhưng chúng ta lại không tin là họ có
thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta phê phán cái bề dầy của dĩ vãng, chúng ta
khinh bỉ và chê trách họ.
Chúa Giêsu đã đưa tay động tới người
phong cùi và chữa lành cho anh ta. Ước mong phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa được
kéo dài bằng thái độ yêu thương và chăm sóc của chúng ta.
22. Bệnh phong
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển
Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là những người phong: cụt tay, đứt
chân, mắt đui, mày lở, răng rụng... Một hôm, Đức giám mục phụ trách quần đảo
này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu Châu hãy tình nguyện hy sinh sang đó
phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh đã hăng hái đáp lời,
đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm biệt danh "Tông đồ người
phong".
Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha
Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau: chiều hôm đó, trong ngôi nhà
thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu
với mọi người: "Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục
đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh
mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có sung
sướng không?" Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh
Đức Giám Mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu
chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da
gà, trông họ như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng
người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ
vào tay, người thì sờ vào áo cha.. Cha hỏi đức giám mục: "Thưa đưc cha, họ
làm gì vậy?" Đức cha trả lời: "Họ nói họ không thể tưởng tượng được
một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai,
không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này,
họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó vào người cha, xem cha có bị phong như
họ không, và họ nói với nhau: "Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì
cả, cha thương chúng ta quá".
Sống với những người phong ở đây được
một thời gian, dần dần Cha Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha
không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã
quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa.
Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối,
mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể
lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được, nhìn
vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu: "Hình
ai đây mà trông ghê sợ vậy?" cô cháu trả lời: "Một người phong bên
đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy". Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn
nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với
người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh
suốt đời vì họ.
Phong, hủi hay cùi cũng là một thứ
bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong cỡ nặng chưa? Mời anh chị em
vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn... anh chị em sẽ thấy một người phong
nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi sần
sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì
hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh như
thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.
Cũng vậy, bệnh phong đối với xã hội Do
Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô lập riêng
ra một nơi, không được ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng
không được chứa người đó trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một nạn
nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người đó cũng phải lắc chuông loặc kêu lên
"dơ, dơ" để mọi người biết mà tránh xa... Đau khổ nhất là bị cộng
đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại dứt phép thông công, cho nên, người
mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ
sống nhờ của bố thí.
Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng kể lại,
chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin
Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có thể bị
ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều mình như
thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm nhường
quỳ xuống van xin: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được
sạch". Chúng ta hãy để ý câu anh nói "Nếu Ngài muốn", anh nói
như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền năng của Chúa, mà ngược lại, anh
hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh biết rằng Chúa có thể và Chúa có
quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót
của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì:
xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương xót của Chúa.
Đàng khác, người Do Thái hết sức khinh
bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như nói
chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà Chúa
Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong này để chữa lành anh ta thì đủ
nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ phán
một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa dùng cả hai: Chúa vừa nói
"Tôi muốn, anh sạch đi" vừa cầm tay bệnh nhân để nói lên tình thương
của Ngài đối với anh ta.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta:
những người phong là những người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà
xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo
điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.
23. Sự chấp nhận
Chắc hẳn rằng bệnh phong hủi là một căn
bệnh khủng khiếp, nhưng không khủng khiếp bằng cảm giác không được yêu thương,
không ai mong muốn mình bị ruồng bỏ. Một trong những điều tệ hại nhất có thể
xảy ra cho một con người, đó là bị xua đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương cho bất
cứ cảm xúc hoặc tâm trạng nào khác. Điều này làm tổn hại đến giá trị bản thân,
khiến cho người ta cảm thấy mình vô giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho người ta
muốn co rút lại hoặc công khai nổi loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi, có một
hình phạt chủ yếu là tẩy chay.
Sự xua đuổi gây tác hại đối với trẻ
con, người lớn tuổi, người tật nguyền... Đối với một đứa trẻ, tình trạng bị cha
mẹ bỏ rơi tương đương với cái chết. Người lớn tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn hơn là
tất cả những bệnh tật của họ. Những vết thương nặng nề nhất gây ra cho người bị
tật nguyền, không phải là do những hạn chế của họ về mặt thể lý hoặc tâm lý,
nhưng là do tình trạng bị bỏ rơi mà họ đã từng trải qua. Những người làm công
việc sáng tạo (các nhà văn, nghệ sĩ v.v...) đều là những người nhạy cảm, dễ cảm
thấy đau khổ, bất chấp những thành công mà họ đã đạt được. về một phương diện
nào đó, mỗi người chúng ta đều đã từng cảm thấy nỗi đau bị khước từ.
Có những cách để tự cô lập mình khỏi
tình trạng bị khước từ – phiêu lưu đôi chút, không muốn (không cần) gì cả, tránh
né các mối quan hệ. Dường như tốt hơn là nên xây dựng những bức tường, và tránh
né các mối quan hệ, hơn là liều mình chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng điều
này cũng giống như việc cưa chân đi, để khỏi cần phải mang giày.
Người đàn ông tiến lại gần Đức Giêsu là
một người đã bị ruồng bỏ. Vì là một người phong hủi, nên anh ta bị bắt buộc
phải sống bên ngoài cộng đồng. Thậm chí người ta còn không được đụng chạm vào
anh ta. Vào thời kỳ đó, bệnh tật bị coi như một sự trừng phạt vì tội lỗi. Do
đó, người ta coi người phong hủi cũng bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ tệ
hại nhất của người phong hủi không phải là căn bệnh phong hủi, nhưng chính là
nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ.
Khi chúng ta khước từ người nào, là
chúng ta đang thực sự cư xử với họ giống như những "người phong hủi",
mặc dù chúng ta không ý thức về điều đó. Chúng ta có thể khước từ một người,
theo những cách thế nhỏ bé nhưng tinh tế – bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ
bằng một cái nhìn của chúng ta. Nhưng những chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị
khước từ, lại có thể tích lũy thành những hậu quả trầm trọng lâu dài.
Điều thú vị không phải là việc Đức Kitô
chữa lành người phong hủi, nhưng là cách Người chữa lành cho anh ta. Vì bị tất
cả mọi người loại trừ và ruồng bỏ, nên những kẻ phong hủi bắt buộc phải rung
chuông báo hiệu mọi người, mỗi khi người đó ra đường; không một ai muốn đến gần
họ, vì sợ bị lây nhiễm, và bị qui cho là không tinh sạch.
Nhưng Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả điều
này. Người đã động lòng thương, khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của người
phong hủi. Đức Giêsu cho phép người đó đến gần Người. Thật ra Người đã làm một
điều mà không ai ngờ: Người tiến lại gần và đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó,
Người đem đến cho anh một dấu hiệu đón tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng
rằng mình là người dơ bẩn, không xứng đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một
hạng người thừa. Trước khi chữa lành cho thân xác tan nát của anh, Người đã
chữa lành sự nhận thức đầy mặc cảm nơi anh.
Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi
đúng theo con người của anh. Sự chấp nhận là một câu trả lời cho sự khước từ.
Đây là một trong những điều thân ái nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Khi chấp
nhận, chúng ta có cảm giác rằng con người mình có giá trị.
Mỗi người chúng ta đều khát khao được
chấp nhận con người của mình. Chính sự quí mến và chấp nhận của người khác, làm
cho chúng ta được là con người duy nhất theo đúng bản chất của mình. Khi chúng
ta cho rằng mình làm việc chỉ vì công việc, rằng người khác cũng có thể làm
cùng một công việc đó, thậm chí còn tốt đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta không
phải là con người duy nhất. Nhưng khi chúng ta chấp nhận con người của mình,
thì chúng ta có khả năng nhận ra được đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.
Đây là cách Đức Giêsu chấp nhận người
phong hủi, và chấp nhận chúng ta. Và đến lượt mình, đây cũng là cách thế mà
chúng ta phải học hỏi, để biết chấp nhận người khác, và tiếp cận với những
người đang phải chịu đựng nỗi đau khổ tình trạng bị khước từ. Đến lượt mình,
chúng ta phải có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống
nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng
thương xót vô biên của Thiên Chúa.
24. Đức Giêsu chữa một người phong hủi
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời
gian Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế
nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc 5,12-16), chúng
ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo
những bận tâm thần học của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối cùng
này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì
Người chữa lành được bệnh phong hủi.
2.- Bố cục
Bản văn này có ba phần:
1) Chữa lành người phong hủi (cc.
40-42);
2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế
(cc. 43-44);
3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c.
45).
3.- Vài điểm chú giải
- người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã
nói đến chứng bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng
là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta không nói "chữa
lành" nhưng là "được thanh tẩy (làm cho sạch)" khỏi bệnh phong
hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ trên hai từ Híp-ri nâga' ("nó
đánh") và nega' ("đòn đánh"; "vết phong hủi"; "người
mắc bệnh phong hủi") (x. 2 V 15,5; 2 Sb 26,19-20; Is 53,4.8).
Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả
như người phong hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người đã phạm
tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội,
nhưng đây là tội của dân.
Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca
bệnh phong hủi được dành cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân
biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người đã lành bệnh tái tháp nhập
cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).
Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì
người ta coi là chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một
người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có ban quyền chữa bệnh phong
cho những ngôn sứ lớn, như Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V
5,9-14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong hủi trong tương
lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia (x. Mt 11,5)?
- Người chạnh lòng thương (41) (HL.
splanchnistheis, partic. aorist của động từ splanchnizomai do từ ta splanchna,
lòng dạ): "bị rúng động"; "bị chuyển động trong lòng".
- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là
tiêu biểu của một cuộc chữa lành bằng uy quyền. "Đụng" đây không phải
là vi phạm quy định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong sạch, nhưng là
chuyển thông sức mạnh chữa lành.
- Người nghiêm giọng ("làm
gắt", NTT) (43): Động từ Hy Lạp embrimaomai, "khịt khịt" (ngựa);
"phát tiếng hừ hừ do cơn giận dữ trong lòng" (người). Đức Giêsu cho
hiểu rằng Người vừa làm một việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai, ngược lại với
quyết định của Người. Do đó, Người "đuổi" anh này đi ngay để người ta
đừng hiểu sai sứ mạng của Người. Động từ embrimaomai không có từ tương đương
trong ngôn ngữ Tây phương (TOB: s'irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning
him sternly; Mann: sent him away with the stern warning).
- để làm chứng cho người ta biết
("để làm chứng trước mặt họ", NTT) (44): Có những người cho rằng câu
này nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: "pour l'attester au
peuple"). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo
người phong đến trình diện tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv
14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại danh từ quy về các tư
tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều được giải thích là: việc làm chứng sẽ
vượt quá cá nhân vị tư tế chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế,
Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực hiện nơi các tư tế (x. Mc
5,19): việc chữa lành người phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến
họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chữa lành người phong hủi (40-42)
Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa
người phong hủi để kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới
tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt
trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường:
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch" (c. 40). Anh ta
gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là
một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng
nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa:
chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được
chữa lành tức khắc.
* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế
(43-44)
Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với
các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại
trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp
thông vào nền phụng tự của anh em mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm
ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.
* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)
Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh
của Đức Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó,
danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng
tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các
hành vi quyền lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có
người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng
quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần,
để mọi người có thể tin vào Người.
+ Kết luận
Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ
thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về Nước
Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con
người. Tuy nhiên, ơn cứu độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân,
trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa đã làm điều đó nơi Đức
Giêsu, Đấng có một trái tim biết thương cảm.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như người bệnh của bài Tin Mừng,
chúng ta được lưu ý: không ép buộc Thiên Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp
chúng ta và theo cách chúng ta quy định. Chúng ta cứ bày tỏ với Ngài tình cảnh
khốn cùng của chúng ta, rồi để Ngài định liệu:"Nếu Ngài muốn".
2. "Người phong cùi này cung cấp
cho chúng ta một lời khuyên rất tốt về cách cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý
muốn của Chúa, y như thể anh không muốn tin vào sự tốt lành của Người. Khi nói
rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh tẩy anh, anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về
Chúa, đồng thời khẳng định đức tin của anh... Nếu đức tin yếu, đức tin trước
tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó đức tin mới cho thấy tất cả quyền lực của
mình là đạt được việc chữa lành tâm hồn và than xác.
Có lẽ Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin
đó khi bảo: "Người đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ" (Cv 15,9)...
Đức tin tinh tuyền, được sống trong tình yêu, được duy trì nhờ sự nhẫn nại,
kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách khẳng định mình, cương quyết trong
niềm tin tưởng, đầy trọng kính trong lời cầu nguyện và đầy khôn ngoan trong
những gì cầu xin, đức tin này chắc chắn trong mọi hoàn cảnh được nghe lời này
của Chúa: 'Tôi muốn'" (Thánh Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển
đức).
3. Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín
đáo trong việc phục vụ. Như Đức Giêsu, người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì
lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng của anh chị em mình, chứ không phải
để chứng tỏ bản thân. Người Kitô hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không
phải vì thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng của người khác).
4. Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người
phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa,
Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức
chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.
25. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Minh
Thông
TẠI SAO NGƯỜI ĐƯỢC CHỮA LÀNH KHÔNG GIỮ
LỜI ĐỨC GIÊSU CĂN DẶN?
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng Mc 1,40-45 thuật lại việc
Đức Giêsu chữa một người mắc bệnh phong hủi và những gì xảy ra sau đó. Không
phải tình cờ khi bản văn lặp đi lặp lại bốn lần từ "sạch", trong đó 3
lần là động từ katharizô: "sạch" (Mc 1,40.41.42) và 1 lần danh từ
katharismos "sự sạch" (1,44). Người mắc bệnh phong "muốn được
sạch" và Đức Giêsu "muốn anh ta được sạch". Hai ước muốn gặp
nhau và lập tức anh ta được sạch. Sau đó Đức Giêsu nói anh ta đi trình diện tư
tế, để xác nhận "sự sạch" (được chữa lành) nơi anh ta. Như thế, bệnh
phong hủi làm người ta trở thành "không sạch" và bị cách ly khỏi xã
hội. Bệnh phong làm cho sự giao tiếp và tương quan của người bệnh với người
khác bị cắt đứt. Vậy làm thế nào để biến đổi từ tình trạng "không
sạch" trở thành "được sạch", từ tình trạng "tương quan bị
cắt đứt" trở thành "có tương quan với người khác"?
Điều lạ lùng trong cách hành văn là sau
khi chữa lành, Đức Giêsu lại đuổi anh ta đi ngay, dặn anh ra không nói gì với
ai và đi trình diện tư tế, nhưng anh ta đã không giữ lời Đức Giêsu căn dặn.
Thay vì giữ im lặng thì người được chữa lành lại đi "rao giảng nhiều nơi,
đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai đi vào thành" (1,45). Sự việc anh ta
không giữ lời Đức Giêsu trong bản văn có ý nghĩa gì? Bài viết sẽ bàn về việc
chữa lành bệnh phong hủi và phản ứng lạ lùng của người được chữa lành. Cụ thể
là (1) Người mắc bệnh phong đã làm gì trước khi được chữa lành, (2) đã phản ứng
thế nào sau khi được chữa lành và (3) tại sao không làm theo lời Đức Giêsu căn
dặn.
1. Hành động trước khi được chữa lành
Câu chuyện mở đầu bằng việc người mắc
bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin để Người làm cho anh
được sạch. Về phía Đức Giêsu, Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và
nói: "Tôi muốn, anh hãy được sạch" (1,41). Lập tức bệnh phong biến
khỏi và anh ta được sạch. Như thế, việc chữa lành được thực hiện từ cả hai
phía.
Ba động tác về phía người mắc bệnh
phong hủi là "đến với", "quỳ xuống" và "van xin Đức
Giêsu" bằng một lời nói: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi
sạch" (1,40). Về phía Đức Giêsu, Người cũng thực hiện ba bước, trước hết
Người chạnh lòng thương, thứ đến Người đụng vào người phong hủi và sau cùng
Người nói lên ý muốn của Người: "Tôi muốn, anh hãy được sạch" (1,41).
Trong hai lời nói của hai nhân vật, đều xuất hiện động từ "muốn"
(thelô) và động từ "sạch" (katharizô). Như thế, "ước muốn được
sạch" của người bệnh phong chỉ có thể được thực hiện khi anh ta đối diện
với một người vừa "muốn chữa lành", vừa "có khả năng chữa
lành". Nếu "không muốn" và "không xin" thì chẳng có gì
để nói, nhưng nếu "muốn" và "van xin" mà không gặp được
"có khả năng" thì cũng không có gì xảy ra.
Bản văn vừa đề cao hành động của người
bị phong hủi: "Đến với Đức Giêsu" và "van xin Người". Đây
là hành động "cầu xin" dựa trên niềm tin, bởi vì đây không phải là
cách chữa bệnh bình thường. Đồng thời bản văn đề cao "ước muốn" và
"khả năng chữa lành" của Đức Giêsu. Người là Đấng có quyền năng làm
cho người mắc bệnh phong "được sạch", nghĩa là làm cho một người bị
loại trừ khỏi cộng đoàn được hội nhập trở lại và có thể thiết lập tương quan
với mọi người trong cộng đoàn.
2. Phản ứng sau khi được chữa lành
Sự hội nhập cộng đoàn của người được
chữa lành diễn tả qua sự đảo ngược cách ngoạn mục. Từ chỗ anh ta không được
tiếp xúc với cộng đồng đến chỗ trở thành người rao giảng về lời của Đức Giêsu.
Người thuật chuyện cho biết: "Vừa đi khỏi, anh ta đã bắt đầu rao giảng
nhiều nơi và loan truyền lời ấy" (1,45a). Câu kết của bài Tin Mừng cho
thấy tầm ảnh hưởng lời rao giảng của anh ta: "...đến nỗi Người (Đức Giêsu)
không thể công khai đi vào thành, Người đành ở những nơi hoang vắng bên ngoài
và người ta từ khắp nơi đến với Người" (1,45b).
Người mắc bệnh phong được chữa lành là
người đã thi hành sứ vụ của Đức Giêsu: "Rao giảng" (kêrussô). Thực
vậy, trước đoạn văn Mc 1,40-45, tác giả Tin Mừng Máccô cho biết ở Mc 1,39:
"Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng (kêrussô) trong các Hội
đường." Đến Mc 1,45, chính người được chữa lành đi "rao giảng nhiều
nơi", còn Đức Giêsu, Người lại không di chuyển để "giảng dạy" mà
"ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với
Người" (1,45b). Chi tiết: "Người ta từ khắp nơi đến với Người"
cho thấy kết quả lời rao giảng của người bị bệnh phong được chữa lành là ngoài
sức tưởng tượng.
Đầu đoạn văn, người phong "đến với
Đức Giêsu" chứ không phải Đức Giêsu đến với anh ta; đến cuối đoạn văn, Đức
Giêsu lại không thể công khai vào thành, vì người được chữa lành đã làm cho
nhiều người khác từ khắp nơi "đến với Đức Giêsu". Bản văn muốn nói
với độc giả rằng ai đã thực sự gặp được Đức Giêsu và được Người "chữa lành
bệnh tương quan", thì người ấy sẽ phản ứng bằng cách "rao giảng về
Đức Giêsu" và làm cho "nhiều người khác", "đến với
Người". Điều lạ trong bản văn là "lời rao giảng thành công" của
người được chữa lành là do "không giữ lời Đức Giêsu".
3. Ý nghĩa của việc "không vâng
lời" ở Mc 1,44-45
Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức
Giêsu đã làm gì và nói gì với anh ta? Người nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay
và nói với anh ta: "Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình
diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền,
để làm chứng trước mặt họ" (1,44).
Người được chữa lành đã hoàn toàn không
giữ lời Đức Giêsu dặn. Đức Giêsu nói "Coi chừng, đừng nói gì với ai"
thì anh ta lại "loan truyền lời ấy cho cả thành biết". Đức Giêsu bảo
"hãy đi trình diện tư tế và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền" thì
anh ta lại không đi trình diện tư tế và dâng của lễ mà đi vào thành rao giảng
và nói với mọi người về việc anh ta được chữa lành. Tại sao anh ta không giữ
lời Đức Giêsu căn dặn? Kiểu hành văn này có ý nghĩa gì?
Lời dặn của Đức Giêsu có thể hiểu là
nhằm tránh sự hiểu lầm về tư cách Mê-si-a của Người và Người có thể vào các
thành rao giảng. Điều đáng chú ý là việc người được chữa lành không giữ lời dặn
của Đức Giêsu trong đoạn văn mang lại những hiệu quả tích cực. Có thể liệt kê
ba ý sau:
(1) Điều tích cực thứ nhất là anh ta
nói về Đức Giêsu cho mọi người, nhưng lời rao giảng của anh ta không thay thế
lời rao giảng của Đức Giêsu, ngược lại, lời rao giảng của người được chữa lành
đã làm cho "mọi người đến với Đức Giêsu".
(2) Điều tích cực thứ hai là thay vì
Đức Giêsu vào thành, đi rao giảng cho đám đông, thì bây giờ dân chúng từ khắp
nơi đến với Người. Nhờ lời rao giảng của người được chữa lành, Đức Giêsu có thể
giảng dạy mà không phải đi đâu cả. Đồng thời, nhờ anh ta mà cử toạ được chuẩn
bị trước, dân chúng chủ động đến với Đức Giêsu nghĩa là họ thực sự muốn nghe
lời Người.
(3) Điều tích cực thứ ba của việc
"không giữ lời dặn của Đức Giêsu" là cách thức bày tỏ tác động lớn
lao của việc chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta có thể im lặng khi niềm vui
gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được hội nhập vào cộng đồng là
quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương quan mới, anh ta không còn
cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu. Dân chúng khắp nơi đã cảm nhận
được niềm vui và hạnh phúc ấy, nên họ đã kéo đến với Đức Giêsu, để cũng
"được sạch" tâm linh, nghĩa là có thể thiết lập tương quan với Đức
Giêsu và tương quan với người khác.
Đề tài người được chữa lành "không
giữ lời Đức Giêsu dặn" (Mc 1,44-45) còn xuất hiện ở các nơi khác trong Tin
Mừng Mác-cô và đây là một trong những kiểu hành văn độc đáo của văn chương
Mác-cô. Đề tài tương phản: "Càng cấm, càng nói" đã được phân tích
phần nào trong bài viết: "Bí mật công khai". Cấm không được nói mà ai
cũng biết!
(http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/05/tim-hieu-tm-mc-bi-mat-cong-khai-cam.html).
Chi tiết "không vâng lời Đức Giêsu" trong Mc 1,40-15, nhằm cho độc
giả biết hai thông tin:
(1) Theo truyền thống Do Thái, để người
bệnh phong hủi chữa lành có thể hội nhận vào cộng đồng, người ấy phải
"trình diện tư tế, và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền" (1,44).
(2) Đối với độc giả dân ngoại (cũng là
độc giả qua mọi thời đại), họ được mời gọi hành động như người phong được chữa
lành: Ra đi rao giảng để mọi người từ khắp nơi đến với Đức Giêsu.
Kết luận
Đoạn Tin Mừng Mc 1,40-45 giúp độc giả
suy gẫm về hai đề tài lớn: (1) "Tương quan" và "hội nhập cộng
đoàn", "hội nhập xã hội"; (2) Thể hiện niềm vui và hạnh phúc
được chữa lành bằng cách rao giảng "lời ban sự sống" đã đón nhận để
mọi người đến với Đức Giêsu.
Con người có thể "cô đơn" và
"đơn độc" ngay giữa đám đông. Có những người hoàn toàn khoẻ mạnh về
thể lý, nhưng tương quan với người khác lại có thể bị tổn thương, bị rạn nứt,
thậm chí bị cắt đứt, đổ vỡ, nghĩa là trở thành những người "bị tách rời
khỏi cộng đoàn" hay "tự mình cắt đứt tương quan với người khác".
Bài Tin Mừng dùng hình ảnh "bệnh phong hủi" để diễn tả "tương
quan bị cắt đứt" giữa cá nhân và cộng đoàn. Vì thế, cần đến với Đức Giêsu
để được Người chữa lành. Hành trình của người mắc bệnh phong trong bản văn là
lời mời gọi độc giả hãy "đến với và van xin" Đức Giêsu. Người sẽ chữa
lành họ, vì Người là "Đấng muốn chữa lành" và "có khả năng chữa
lành". Nghĩa là Đức Giêsu có khả năng làm cho độc giả được thanh tẩy, được
sạch, được hội nhập cộng đoàn và bước vào tương quan tốt đẹp với người khác.
Đồng thời, một khi đã được chữa lành,
độc giả sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc khôn tả, đó là niềm vui và hạnh phúc
được bước vào tương quan với Đức Giêsu và với mọi người. Niềm vui và hạnh phúc
lớn lao này sẽ thúc đẩy những ai được chữa lành lên đường, ra đi rao giảng và
loan báo về Đức Giêsu để mọi người cũng được đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy
bằng cách tìm đến với Đức Giêsu. Cách thức rao giảng mà bản văn đề cao là rao
giảng như thế nào đó, để không phải mọi người đến với mình, nhưng để họ
"đến với Đức Giêsu", "lắng nghe Đức Giêsu" và tin vào
Người. Ước mong độc giả thực sự gặp gỡ Đức Giêsu, bước vào tương quan tràn đầy sức
sống với Người và với mọi người. Từ đó hân hoan ra đi rao giảng và làm chứng về
Đức Giêsu để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đã lãnh nhận cho những người xung
quanh mình./.
Nguồn:
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/02/mc-140-45-tai-sao-nguoi-uoc-chua-lanh.html
26. "Tôi muốn, anh sạch đi!"
Vài hàng sơ lược
Trong đoạn Phúc Âm này chúng ta nghe
Mác-cô kể lại câu chuyện người bị bệnh phong xin Chúa Giêsu chữa lành. Trước
khi đi vào đoạn Phúc Âm, chúng ta hãy trở về với bối cảnh xã hội Do-thái, để
hiểu được tình trạng và hoàn cảnh của người bị bệnh Phong thời đó. Theo Cha
Cantalamesse thì sách Lêvi dạy rằng, người nào bị nghi mắc bệnh phong, phải
được đưa tới một vị tư tế, vị này, sau khi khám xét, "tuyên bố người đó là
dơ." Để làm cho những sự việc ra xấu hơn, người phong đáng thương hại, bị
loại khỏi tình bạn con người, chính người bịnh phải làm cho kẻ khác tránh xa
mình, bằng cách báo cho họ biết sự nguy hiểm: "Người mắc bệnh phong hủi
phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế! "Bao lâu
còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi
bên ngoài trại." (Lv 13, 45-46)
Về điều này, Rudolf Pesch giải thích
rằng: "Những người bị bệnh Phong được coi là kẻ bị ô uế, những người đáng
chết. Họ phải xa lìa với xã hội, phải tự động cách ly với xã hội. Dù luật lệ
trong Thánh Kinh có nghiêm ngặt, nhưng sự cách ly người Phong ra khỏi xã hội
không được làm triệt đở ở khắp mọi nơi công cộng. Người bệnh Phong không được
bước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng trong các làng mạc, họ không bị cách
ly hoàn toàn. Với những điều kiện đòi hỏi nhất định, hình như người ta cũng có
thể để cho người bị bệnh Phong bước vào đền thờ. Dù thế nào, thì người bệnh
Phong vẫn bị coi là những người bị Thiên Chúa xa cách.
Như vậy ai có thể chữa cho người bị
bệnh Phong? Theo Adolf Pohl thì: "Việc chữa lành khỏi bệnh Phong được coi
như là sự Phục Sinh từ cõi chết. Và người ta chỉ có thể chờ mong Thiên Chúa làm
điều đó. Khi Vua dân Ít-ra-en, trong sách thứ 2 các Vua 5,7, nhận lệnh chữa lành
cho người bị bệnh Phong, thì ông đã thốt lên rằng: "Ta đâu có phải là vị
thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi
bệnh phung hủi?"
Ngoài ra, nói chung chung về bệnh
Phong, theo Cha Cantalamesse thì "hai nhân tố lạ lùng đã góp phần gia tăng
sự ghê tởm trước bệnh phong, đến nỗi biến nó thành biểu tượng của sự bất hạnh
nhất có thể giáng xuống một con người, và cô lập những nạn nhân vô phúc tội
nghiệp trong những con đường vô nhân đạo nhất.
Nhân tố thứ nhất là sự xác tín rằng,
cơn bệnh này lây lan đến nỗi làm nhiễm độc bất cứ ai có thể đã tiếp xúc với
người bệnh; nhân tố thứ hai, cũng không có cơ sở, vì bệnh phong là hình phạt vì
tội lỗi.
Nhân vật đã góp phần hơn hết thay đổi
thái độ và luật pháp đối với những người bệnh phong là Raoul Follereau
(1903-1977). Trong năm 1954 ông đã thiết lập Ngày Thế Giới Bệnh Phong cổ võ
những đại hội khoa học và cuối cùng, trong năm 1975 đã thành công để luật pháp
thu hồi sự kỳ thị những người bệnh phong. Ngoài ra, có một câu chuyện rất cảm động
về tấm lòng của ông Raoul giành cho người Phong: "Khi đến thăm một trại
cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái cùi và đưa tay ra bắt. Cử
chỉ này khiến cô gái bỡ ngỡ. Nhưng lạ thay, cô gái lại không chịu chìa tay ra
đáp lễ. Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc bèn giải thích: Thưa ông, qui
luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách. Cám ơn ông giám
đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, nhưng đâu cấm khách
hôn bệnh nhân phải không? Vừa nói, ông Raoul vừa tiến đến ôm hôn cô gái cùi.
Mọi người sững sờ. Trong phút chốc cả đám người cùi nhào đến bên ông. Và một
tiếng thốt lên trong nghẹn ngào: Hôm nay, tôi cảm thấy chúng tôi là
người."
Trở về với đoạn Phúc Âm, chúng ta có
thể phân ra như sau: câu 40: Cuộc gặp gỡ giữa người Phong với Giêsu, và người
bị Phong mở lời xin được chữa lành. Câu 41: Giêsu chữa lành. Câu 42: Anh bị
bệnh Phong được sạch. Câu 43-44: cấm không được loan truyền tin chữa lành, mà
chỉ đến trình diện các tư tế. Câu 45: Dù bị cấm nhưng người khỏi bệnh vẫn lên
đường loan báo tin vui.
Suy niệm
- Câu 40 kể là có một người bị bệnh
Phong đến gặp Giêsu. Người bị bệnh Phong trong đôi mắt của người Do-thái, là
người có tội với Thiên Chúa, đời sống của họ xa cách Thiên Chúa. Ở đây Adolf
Pohl như đặt mình vào trong thân phận của người Phong và tự nói với mình rằng:
"Tôi không hợp với Chúa. Tôi không xứng đáng có tương quan với Chúa....
Tôi không phải là con cái của Chúa, mà là con cái của thế gian. Tôi chỉ được
"trang điểm" bởi một "lớp phấn Kitô hữu" rất mỏng. Trong
cộng đoàn tốt lành kia, tôi là một cái xác lạ lẫm. Tôi không còn thật nữa:
"Chẳng lẽ người phàm công chính trước Thiên Chúa? "Chẳng lẽ con người
lại thanh sạch trước Đấng dựng nên mình?" (Gióp 4, 17)
Chính người Phong hủi đó hôm nay lại đến
với Giêsu. Trong khi mọi người đều xa lánh anh ta, nếu anh ta xuất hiện trên
đường. Vâng, chỉ có Giêsu thì không chạy trốn, chỉ có Giêsu ở lại và để cho anh
ta đến với mình. Cha Cantalamesse giải thích rằng: "Chúa Giêsu không sợ
lây, Người để kẻ phong đến với Người và quì trước mặt Người. Còn hơn điều đó:
trong một thời đại khi người ta tưởng rằng chỉ sự ở gần người bệnh phong là đã
lây nhiễm rồi, Người giơ tay và đụng vào anh." Chúng ta đừng tưởng tất cả
sự này là tự nhiên và không bắt Chúa Giêsu trả giá nào. Là con người, Chúa chia
sẻ trong sự này, như trong nhiều điểm khác, những xác tín của thời đại Người và
của xã hội Người đương sống. Nhưng sự thương cảm của Người đối với người bệnh
thì mạnh trong Người hơn là sự sợ bệnh phong"
Khi đến gần Giêsu, người Phong quỳ
xuống dưới chân Chúa và mở lời van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể
làm cho tôi được sạch." Thái độ quỳ xuống dưới chân ở đây đúng là thái độ
kêu xin khẩn nài. Chúng ta có thể thấy ở đoạn khác: "Có một ông trưởng hội
đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân
Người" (Mc 5, 22) hay "Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ
bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người." (Mc
7, 26). Thái độ của anh bạn Phong không chỉ nói lên lời khẩn nài kêu xin, mà
theo Rudolf Pesch và Adolf Pohl, thì còn nói lên niềm tin tưởng của anh vào
Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy rằng, anh đã nói: "Nếu Ngài muốn",
chứ không nói như người cha có con bị bệnh câm: "Nhưng nếu Thầy có thể làm
được gì..." (Mc 9, 22). Tâm tình của anh bạn bị Phong hàm chứa một niềm
tin chắc chắn vào Đấng yêu thương và quyền năng. Phải chăng anh ta tin rằng,
Đấng có lần nói với mình: "Con là con yếu dấu của Cha", sẽ không bao
giờ bỏ rơi anh, chính Ngài sẽ giải thoát và cứu chữa anh? Phải chăng, với thái
độ và lời nói của mình, anh muốn cầu nguyện với Chúa rằng: "Lạy Chúa! Xin
thương xót con, con không giấu Chúa những vết thương của con, Chúa là bác sĩ,
con là bệnh nhân; Chúa đầy lòng thương xót, con thì khốn khổ" ("Confessions,"
X,39).
Ngoài ra, Adolf Pohl còn chú ý một điều
nữa, là anh bị bệnh Phong trong câu nói kia, đã nhắc đến hai từ
"Ngài" và chỉ có một từ: "tôi". Chúng ta thấy qua lời xin
trên đụng tới quyền năng của Giêsu. Ở đây theo Rudolf Pesch thì quyền năng của
Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Vâng, Giêsu có muốn sử dụng quyền năng của
mình để cứu chữa người bất hạnh kia không? Với tâm tình của sách Khôn Ngoan 11,
23: "Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi
sự", chúng ta tiếp tục chiêm ngắm thái độ của Giêsu.
- "Người chạnh lòng thương giơ tay
đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" (câu 41) Lời kêu xin
của ang bị bệnh Phong thúc đẩy Giêsu mạnh đế nỗi, Giêsu đã tỏ ra bốn hành động
liên tiếp. Ở đây chúng ta chú ý đến 4 động từ: (1) Người "chạnh lòng
thương". Theo Adolf Pohl thì các tác giả nhất lãm không bao giờ dùng từ
chạnh lòng thương này để chỉ về sự thương hại, sự tội nghiệp cho bất cứ con
người nào. Từ "chạnh lòng thương" như diễn tả lòng thương xót của
Thiên Chúa. Cho nên ở đây không ám chỉ đến cảm giác tội nghiệp của Giêsu, mà
diễn tả thực sự thiên tính của Ngài - một Thiên Chúa là tình yêu. Vâng, với ĐTC
Biển Đức, thì trong câu chuyện này "Chúa Kitô là "bác sĩ" chân
thật của nhân loại, là Đấng Chúa Cha từ trời đã sai xuống thế gian hầu chữa
lành con người, bị đánh dấu trong thân xác và tinh thần bởi sự tội và các hậu
quả sự tội....Tin Mừng Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta Chúa Giêsu Đấng, lúc
bắt đầu thừa tác vụ công khai của Người, hoàn toàn hiến mình để rao giảng và
chữa lành người bệnh trong những làng xứ Galilêa. Những dấu lạ vô kể Người thực
hiện cho người bệnh xác nhận "tin mừng" Nước Chúa. Tin Mừng hôm nay
tường thuật sự chữa lành một người phong và diễn tả với hiệu quả lớn cường độ
tương quan giữa Thiên Chúa và con người, tóm tắt trong một cuộc đối thoại kỳ
lạ: Người phong nói "nếu ngài muốn, ngài có thể chữa tôi được sạch",
Chúa Giêsu trả lời "Tôi muốn, anh hãy sạch", tay Người đụng vào mình
anh và giải cứu anh khỏi bệnh phong (Mc 1, 40-42)." Hành động thứ hai (2)
Người "giơ tay". Theo Rudolf Pesch thì hành động này biểu tượng cho
sức mạnh và động từ (3) "đụng" vào anh là biểu tượng cho việc truyền
sức mạnh của Chúa Giêsu lên trên người bị bệnh Phong. Vâng, sức mạnh của tình
yêu, sức mạnh đem lại sự chữa lành. Chúng ta cũng có thể nhớ lại hình ảnh Giêsu
đối với nhạc mẫu của Phê-rô: "Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn
sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài." (Mc 1,31). Ngoài ra, về hành động
(2) và (3) này ĐTC diễn tả rất hay: "Cử chỉ này của Chúa Giêsu, Đấng giơ
tay và động tới thân mình đầy vết thương của kẻ kêu xin Người, bày tỏ rõ ràng ý
muốn Thiên Chúa chữa lành tạo vật sa ngã của Người, Chúa Kitô là
"tay" Thiên Chúa giang ra cho nhân loại hầu nhân loại có thể được
giải thoát khỏi những đống cát di chuyển bệnh tật và sự chết, hầu trỗi dậy bằng
cách dựa vào tảng đá vững chắc của tình yêu thần linh (x. Tv 39, 2-3)."
Tiếp theo ba hành động kia là lời nói
(4)"Tôi muốn, anh sạch đi! " Đây là lời có sức chữa lành. Lời có sức
chữa lành này Chúa Giêsu cũng lên tiếng với con gái ông Gia-ai: "Người cầm
lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy
truyền cho con: trỗi dậy đi! " (Mc 5, 41) hay Chúa Giêsu đã thốt lên
"Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra" để chữa lành cho người vừa điếc
vừa ngọng.(ss. Mc 7, 34).
- Sau 4 hành động của Chúa Giêsu, thì
điều gì đã xảy ra? "Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được
sạch" (câu 42) Điều xảy ra đúng như ĐTC vừa nói ở trên, là phục hồi sự
sống cho anh bị bệnh Phong "cách dồi dào" (Ga 10,10), sự sống trọn
vẹn, hạnh phúc, đời đời. Cụ thể hơn, chúng ta để ý tới từ "lập tức".
Từ này diễn tả sống động quyền năng và sức mạnh của Giêsu. Ngoài ra, động từ
"biến" thuộc về bản chất của ma quỷ, chúng nhập vào và rồi lại biến
đi. Tuy vậy, câu chuyện chữa lành anh bị Phong đây không thể so sánh được với
những câu chuyện Chúa xua đuổi ma quỷ. Vâng, giờ đây anh được sạch rồi. Một tin
vui thật lớn!
- Tin vui này có được phép loan truyền
rộng rãi ra không? 43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay,44 và bảo anh:
"Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì
anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng
cho người ta biết."(câu 43 và 44)
Nếu anh mới được chữa lành khỏi bệnh
Phong không được phép nói với bất cứ ai về việc Giêsu chữa cho mình, thì không
đúng, vì theo câu 44 anh phải đi trình diện nơi các tư tế, để họ chứng thực anh
được khỏi bệnh, như anh mù trong phúc âm Gioan. (ss. 9, 1-41) Vâng, anh thanh
niên đã được thanh sạch khỏi bệnh Phong cần được xã hội đón nhận, cần có được một
chỗ đứng hẳn hoi. Tương quan với Chúa và tương quan với người khác luôn đi đôi
với nhau. Sau khi trình diện nơi các tư tế xong theo như luật Môi-sê (Lê-vi 14,
1-9), thì anh cần phải dâng lễ vật như Mô-sê đã truyền (ss. Lê-vi 14, 10 và
21tt). Và như vậy người ta sẽ biết về sự thanh sạch của anh. "Người
ta" ở đây chỉ số nhiều, theo Adolf Pohl nghĩa là những tư tế ở Ga-li-lê-a
mà anh ta trình diện, và những tư tế ở Giê-ru-sa-lem nơi anh ta dâng của lễ.
Như vậy phải hiểu làm sao điều Chúa
Giêsu ngăn cấm? Theo Pesch thì anh không nên nói về việc anh được chữa lành, mà
qua chính sự trình diện và nghi thức dâng của lễ theo luật Mô-sê, anh sẽ được
chứng thực khỏi bệnh. Ngoài ra, theo các nhà chú giải, thì vì Chúa Giêsu còn
phải thi hành sứ mạng của Ngài. Nếu danh tánh của Ngài mà bị rao truyền khắp
nơi, có thể Ngài bị cản trở không tự do đi lại được nữa, và qua đó ảnh hưởng
đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ngài. Chúng ta có thể thấy được hậu quả về
điều này, khi đọc câu 45. Sau khi anh ta tung tin ra, thì Chúa Giêsu không thể
công khai vào thành nào được nữa. Mặt khác, sự nghiêm cấm này liên quan đến
chính thân phận của Chúa Giêsu: Trong Ngài chính Đấng Tạo Dựng và công trình
cứu rỗi đang hiện diện. Vâng, Giêsu không phải là một tiên tri, mà là một Tiên
Tri trọn hảo. Ngài là Con Thiên Chúa : "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha
hài lòng về Con." (Mc 1, 11) Và điều này không được phép tiết lộ ra. Vì
nếu người Do Thái, dân đang trông chờ Đấng Messia, mà biết được, thì có lẽ
chương trình của Chúa Giêsu sẽ chưa được nửa đường đã gãy cánh. Vâng, chương
trình của Giêsu, Đấng Messia đích thực, đâu có hợp với sự mường tượng và mong
đợi của dân Do-thái. Chúng ta cứ chiêm ngắm cuộc đời của Ngài thì sẽ nhận ra
ngay.
Như vậy, anh thanh niên được thanh sạch
đã không giữ lời nghiêm cấm của Giêsu. Một cách nào đó chúng ta cũng có thể
thông cảm với anh, vì trước một phép lạ, một ơn cứu rỗi quá lớn lao trên chính
bản thân mình, anh ta không thể nào câm lặng không rao truyền về vị thầy thuốc
tốt lành tài ba. Ở đây, Mác-cô một cách nào đó đã cố ý làm nổi bật việc tung
tin của anh thanh niên này, như là một cách rao giảng Tin Mừng, giống như người
thanh niên được Chúa Giêsu chữa lành khỏi bị quỷ ám trong chương 5, 18-20:
"Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở
với Người. Nhưng Người không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân
nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương
anh như thế nào." Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh
tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc."
Tham khảo
- Về sự chữa bệnh của Chúa Kitô. Bài
huấn dụ của ĐTC Biển Đức XVI trình bày lúc trưa khi ngài đọc kinh Truyền Tin từ
cửa sổ văn phòng ngài với hàng ngàn người tập hơp trong Quảng Trường Thánh
Phêrô. VietCatholic News 13/02/2006
- Cha Raniero Cantalamessa Dòng
Capuchine, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích Tin Mừng Chúa Nhật VI TN:
Những bệnh phong hủi mới của xã hội VietCatholic News 11/02/2006
- Rudolf Pesch,
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium,
Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1
- Adolf Pohl, Das Evangelium des
Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1.
29. Chú giải của Noel Quesson
Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức
Giêsu... và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà
người ta gọi là "gom kết" lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây
được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một
bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp
nơi.
Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp
gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin
dẫn con đến gặp gỡ Chúa.
Anh ta quỳ xuống van xin rằng:
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".
Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của
Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin
phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta
thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.
Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn
còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là
một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những
"dấu chỉ" của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm
tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng
vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là "kêu xin" Thiên
Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được:
"Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh". Đó là một lời
nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.
Động lòng thương trước người đó.
Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ:
"splagknisteis" có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm
động đến tận tâm can, và "orgisteis" có nghĩa là "nổi
giận". Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ "nổi giận"
nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu
nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai "câu dịch"
đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại
sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó,
nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để
nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một "phản ứng
rất nhân bản"! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là "hiện thực",
đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế:
xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm
xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi
giận ... "Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự
nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người". Đức Giêsu nhìn thấy
tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và
Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là
Chính "Thiên Chúa hiện hình cụ thể". Qua thái độ biểu lộ tính khí
trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt
của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn
nộ của biết bao người, nhưng trước "vấn đề sự dữ", họ chỉ biết chống
đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.
"Động lòng thương". Kiểu nói này
ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên
Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa
cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những
thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng "làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ
thể" nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân.
Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của
nó, không thể "hoàn hảo" được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa.
Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là "Chúa".
Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng
một thế gian "không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì
cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con
người, được ghi dấu ấn "hữu hạn", rõ ràng "không phải là
Chúa". Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức
khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các
nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào "thế gian
này". Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và
bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban
cho nó sự sống thần thiêng của Người.
Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn
hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã
làm cho Người "nổi giận", đã khơi dậy "lòng thương xót" của
Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một "dấu
chỉ" báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự "sẽ được hoàn tất"
(Rm 8,18).
Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta
Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến
"bàn tay". Ở đây, đối với một người phong hủi, một người "không
ai được sờ động đến", thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc
biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như
thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để
người khác lánh xa: "Nhơ! Nhơ!": Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá
đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.
Người bảo: "Tôi muốn, tôi cho anh
được khỏi bệnh".
Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một "cử
chỉ" và "bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí
tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ
trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng
được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh
ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một
lời đọc nêu lên ý nghĩa: "Mình Thánh Đức Kitô".
Tôi cũng có thể dành một chút thời gian
để suy gẫm về lời phát biểu: "Tôi muốn!". Ở đây, một lần nữa, người
dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô
(thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: "Nếu Ngài muốn điều
đó", nhưng là nếu Ngài muốn". Và Đức Giêsu cũng không đáp lại:
"Tôi muốn điều đó", mà là "Tôi muốn". Điểm quan trọng muốn
đề cao ở đây, không phải là đại danh từ "điều đó", những quyền năng
thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.
Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi,
và anh ta được khỏi bệnh
Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa
của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái,
bệnh phong hủi là một "hình phạt của Thiên Chúa", Đấng đã phạt
Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).
Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27),
Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ
hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì
thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt
và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi
đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống
thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh
làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là "biểu tượng" của
tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng
bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự "tiếp cận" và "lời" của
Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người
hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ
ba mắc bệnh phong hủi.
Và giũa chúng ta trong những xã hội tân
tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động
"chữa lành" của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là
những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là
những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người
mắc bệnh nan y.
Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.
Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản
văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa:
"Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng"). Nếu tôn
trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng
người "nhu mì", mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho
ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.
Coi chừng, không được nói gì với ai cả.
Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im
lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất
mạnh: "không gì hết", "không với một ai cả".
Đó là "bí mật Thiên Sai" nổi
tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó,
hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do
Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng
đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc
đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền
độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là
nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta
hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng,
Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc
cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được
hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến
lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc "giải
phóng" con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa
bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại .
Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh
đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho
người ta.
Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ
phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho
anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể
tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở
Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên
sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi
họ kết án Người. (Ga 15,22).
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội
công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào
được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi
tuôn đến với Người.
Đối với Maccô. "Lời" được
công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong
Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy
người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên "kẻ cứu độ" người
khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta
chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những "nơi
hoang vắng". Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín
mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một "Thiên Chúa ẩn giấu".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét