Thánh lễ an táng bà
cố Anna Nguyễn Thị Lý
Thánh lễ an
táng bà cố Anna Nguyễn Thị Lý được cử hành lúc 08g30 thứ Ba, ngày 14.10.2014
tại thánh đường giáo xứ Hà Nội, do Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo - Giám mục phụ tá
Giáo phận Xuân Lộc - chủ tế. Bà cố Anna là thân mẫu của cha Giuse Maria Đỗ Đình
Ánh - cha giáo Đại Chủng viện Thánh Giuse, nguyên Chưởng ấn Toà TGM TGP TPHCM,
và Sư huynh Phêrô Đỗ Đình Sáng, SDB.
Đồng tế với
Đức cha Giuse có Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám mục Giáo phận Thái Bình,
cha Tổng Đại diện TGP TPHCM, cha đặc trách linh mục TGP TPHCM, cha phó Giám
tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam, cha Giám đốc và quý cha Đại Chủng viện Thánh
Giuse Sài Gòn, cha Giám đốc và quý cha Trung tâm Mục vụ TGP TPHCM, quý cha Hạt
trưởng, cha chánh xứ Hà Nội kiêm Hạt trưởng hạt Xóm Mới cùng trên 200 quý cha
trong và ngoài Giáo phận, cùng quý cha dòng Don Bosco.
Đến hiệp
dâng Thánh lễ cầu nguyện cho bà cố Anna, còn có quý linh tông và huyết tộc cha
Giuse Maria Đỗ Đình Ánh, trên 100 thầy thuộc Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn
và dòng Don Bosco, quý tu sĩ nam nữ, Hội đồng Mục vụ giáo xứ Hà Nội, các hội
đoàn cùng đông đảo bà con giáo dân trong và ngoài giáo xứ Hà Nội.
Trước Thánh
lễ, cha Giuse Maria Đỗ Đình Ánh ngỏ lời với quý Đức cha, quý cha, quý tu sĩ
cùng cộng đoàn, và trình bày sơ lược tiểu sử bà cố Anna.
Mở lời đầu
Thánh lễ, Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo có lời chia buồn cùng tang quyến, và mời
gọi quý cha và cộng đoàn tiếp tục cầu nguyện cho bà cố Anna.
Chia sẻ Lời Chúa trong Thánh lễ, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ nhắc nhở các
người mẹ trong gia đình, hãy noi theo mẫu gương “Người mẹ của các ơn gọi” là
Đức Mẹ Maria để canh tân và đổi mới đời sống gia đình:
- Đức Maria
không những chỉ cưu mang Chúa Cứu Thế, mà còn cưu mang sự cứu rỗi của Chúa đến
cho nhân loại. Đặc biệt, Mẹ Maria luôn đồng hành với Chúa Giêsu trong công
trình cứu chuộc nhân loại, hiện diện với các thánh Tông đồ khi Chúa Giêsu Phục
sinh và Hội Thánh Chúa cho đến ngày nay.
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Lời
Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN - A
Lời
Chúa: Is. 45, 1.4-6; 1Tx. 1,1-5b; Mt. 22, 15-21
MỤC LỤC
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
2. Hãy đi khắp thế gian
3. Truyền lửa yêu thương – Lm Ignatiô Trần
Ngà
4. Quyền năng từ trên cao
5. Anh em là chứng nhân
6. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà
7. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu
thương
8. Cách thức truyền giáo
9. Nối bước các thừa sai – Lm Giuse Tạ Duy
Tuyền
10. Chứng tá
11. Truyền giáo
12. Hãy loan báo Tin mừng
13. Đời sống chứng nhân
14. Hãy thả lưới bên phải thuyền
15. Thầy Ở Cùng Anh Em
16. Truyền giáo
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
1. Nộp thuế
2. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
3. Trả nợ cuộc đời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Ác ngầm – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
5. Của César
6. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
7. Trả về Thiên Chúa
8. Nên nộp thuế chăng?
9. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An
10. Suy niệm của Lm. Phaolô Đoàn Thanh
Phong
11. Tôn giáo và chính trị
12. Hình ai đây?
13. César
14. Trả về
15. Trả về
16. Viễn vọng kính
17. Nộp thuế cho Xê-da - JKN
18. Nên giống Chúa
19. Xin Thầy cho biết ý kiến
20. Nộp thuế cho Xêda – Lm PX. Vũ Phan
Long
21. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa
22. Chú giải của Noel Quesson
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Kitô hữu, chứng nhân truyền
giáo
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
"Anh chị em đi khắp thế giới, loan
báo Tin Mừng cho muôn dân". Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của
Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của
Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số
người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế
giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người,
thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ,
còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa
với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc
chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn
người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo
trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu
rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng
ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ
13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là
những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo
hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có
đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo
đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại
đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội
Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ
cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và
Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá
trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống
hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau
nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời
đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết
định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo
dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này
lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục
Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo
và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka,
Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ
thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x.
Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng
ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc
có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm
trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp "Sứ Vụ
Đấng Cứu Độ" (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ
mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức
Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: "Tất cả
các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân". Đức
Thánh Cha nói: "Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập
lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa
bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại
Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái
đất" (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô
"chiếm đoạt" (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa
Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi "cho đến tận cùng
trái đất". Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những
nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó,
có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng
thành.
Do đó, "Truyền giáo là vấn đề của
niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu
của Ngài dành cho chúng ta" (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với
nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng
niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền
giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn
xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là
triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta
đánh mất xác tín sâu xa là: "Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ"
(RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin
của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng
theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: "Truyền giáo là một
phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn
thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ
là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân" (số 2).
Thưa anh chị em,
"Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo
Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân.
Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu
ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc
ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và
cả nhân loại" (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin
Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công
bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm
chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là
căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng
không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên
Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn
mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền
giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể
chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc.
Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống
nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên
của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc
trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
2. Hãy đi khắp thế gian
(Trích trong 'Manna')
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin
Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức
nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa.
Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu
dân.
Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những
nơi tôi vẫn sống.
Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết,
miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời
Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng
trừ quỷ,
nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi
hình thức nô lệ,
khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của
trần gian,
khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại
hiệp nhất.
Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm
việc với mình.
Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường
rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách
truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản
thân.
Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi,
sống trung thực, thanh khiết, sống chung
thủy, yêu thương...
Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc,
thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn,
đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất
hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế
giới
hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no,
nơi nhân phẩm của từng người được tôn
trọng,
nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy
lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin
Mừng
bằng những cử chỉ nhân ái với bao người
cùng khổ.
Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập
các cộng đoàn.
Còn thánh Têrêxa nhỏ đã truyền giáo tại
chỗ
bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ
bé.
Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức
tường,
nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ
truyền giáo.
Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng
đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim
cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt
câu hỏi.
Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả
lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý
nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh
nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác
Đấng tôi đã quen.
Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi
Nathanaen đến gặp Chúa.
Cần tập đến với người khác
như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ
Samari.
Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước
Hằng Sống.
Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan
báo Tin Mừng.
Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc
thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng
bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một
người theo đạo,
thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được
thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm
tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh
của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng
khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền
giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý
nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy
tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt
động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội
Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình
yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội
Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
3. Truyền lửa yêu thương – Lm
Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì,
chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng,
khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt
sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến
trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được
chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo
cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin cho có đông
người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin
Mừng cứu độ." Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng
truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất mà
mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: "Lạy Chúa, tuy con bất xứng,
nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay."
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn sứ
của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng
ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người,
nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa
Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành
sứ vụ: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, ... dạy bảo họ
tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em." (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn
phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận:
"Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là
một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin
mừng." (1 Cr 9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa
Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể
Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là truyền lửa yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn
toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp
sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến
Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những
người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như
thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp
lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu
thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp
lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu
thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối
không ngừng.
Chân phước Têrêxa Calcutta cũng cho rằng
truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng
bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu
thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối
diện.
Mẹ nói: "Đối với chúng tôi, điều quan
trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy...
Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của
Đức Kitô... Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương
trọn vẹn) trong giây phút đó."
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục
nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công
giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công
giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem
hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với
một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ
bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng
thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin
Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
4. Quyền năng từ trên cao
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi
Thánh Thần
thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh
truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải chờ ở
Giêrusalem.
Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban
xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban.
Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần
(Cv 1,5).
Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa,
các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho
muôn dân,
và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả
thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có hoạt động
truyền giáo.
Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi
gieo Tin Mừng,
vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh trong
việc rao giảng,
vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong
việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân.
Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận
mắt.
Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy
bằng đức tin.
Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy
bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình,
có tương quan thân thiết với Đấng họ mến
tin.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền một
lý thuyết,
mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị,
là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến
của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế
kỷ
Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa
phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt
nhòa,
vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói?
Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc
rao giảng,
hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng cho
phù hợp?
Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với
mọi người thiện chí,
để xây dựng một thế giới công bằng, nhân
ái hơn,
đòi ta yêu thương và phục vụ những người
nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn
hoá Việt Nam ,
và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá
Việt Nam
vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất
đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi
Ngôi Lời nhập thể,
vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu và
trong Hội Thánh,
và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo,
các nền văn hoá
của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách dễ
hiểu,
gần gũi với tâm thức của đồng bào.
Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức
Giêsu
nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho con
người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết bao những người công
giáo
biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết
kịch, viết báo...
Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào
mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu
số,
nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều
cho dân tộc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại
lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm
sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là
dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu,
Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh
phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho
thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào
Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng
con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc
truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
5. Anh em là chứng nhân
(Trích trong 'Manna')
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một
điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững
chắc
trên những con người có kinh nghiệm cá
nhân
về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn
bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về
Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của
mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
"Phải nhân danh Người mà rao giảng
cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các
tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân
với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban
tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con
người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang
hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi,
nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
"Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm
vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức
Kitô...
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân
hoan."
Chúng ta không thể là những chứng nhân
buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm
vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người
bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo
tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin
Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc
truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu,
Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh
phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho
thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào
Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng
con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc
truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
6. Khánh nhật truyền giáo – Lm
Trần Ngà.
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn
trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao
thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên
Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì
thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn
gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ
yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn,
ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn
khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu
thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng
tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân,
đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến
làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được
kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân
nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng
quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông
dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách
tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở
giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là
chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận
là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng
ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương
nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những
người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết
sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh
mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm
như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên
trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách
rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con
người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta
truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo
đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta,
tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn,
và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh
chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi
người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều
vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta
biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên
Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp,
rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
7. Chứng nhân trong sự hiệp nhất
yêu thương
Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' của Lm Tạ
Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay
luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ
bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam,
người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám
bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức
Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho
người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi
dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết
tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo
hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một
giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ
bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói
rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là
điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ
mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội
sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung.
Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu"
(Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong
tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một
cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm,
nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín
hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem
nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi
những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội
sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của
xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung
quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng
Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội"
(Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi
chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là
những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này
cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận
nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài
hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác
ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa
Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của
kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta
phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho
vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống
chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng,
với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo
xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin
mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể
là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh.
Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người
chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người
kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở
lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ
hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới
mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của
chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè
phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối
đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng
đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn
đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu
lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống
tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng
ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha
nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi
chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang,
không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem
tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con
người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời
xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta
sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng
ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống
triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến
tha nhân như chính mình. Amen.
8. Cách thức truyền giáo
Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' của Lm
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng
ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: "Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi
khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa
cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay
luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa.
Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng
vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như
nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo
đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng
nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu
nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi
lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng
sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta,
ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc
với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác.
Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia
sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành
lẽ sống cho con người, "Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn con
đường tình yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách thức
duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành
cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là
phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc
làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một
trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ,
đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ
là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân
ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ
các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền
giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều
người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời
như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền
giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo,
nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động
sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như
là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có
đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc
Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định
cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng
mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi
liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính
là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo,
chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô
hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất
với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ
đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân
thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn
xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến,
đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu
như chúng ta. Amen.
9. Nối bước các thừa sai – Lm
Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố
Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất truyền
giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ
thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu".
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003
mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức
Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục
vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm
Nay" đã khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng
được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy
nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân
anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em
trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay
trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con
cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì
đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa
lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo
Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam,
chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng
máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin
mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải
"thương người như thể thương thân", thì đạo làm con Chúa đòi hỏi
chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh
Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được
công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi
lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. "Từng đoàn
người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn.
Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển
khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến
tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết,
quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của
các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô
cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng
phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi
phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài
nói: "Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc
16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa
Ky-tô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm
đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Ky-tô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa
mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân
của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung
quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: "Việc truyền
giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được
Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng
Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào
Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho
rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn", hoặc
"làm cho dân ngoại trở về với Chúa"...; song là "mở rộng biên
cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế
giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn
bộ gia sản của Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo là "đưa
Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa". Đó
chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của
Giáo hội Chúa Ky-tô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa
Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa
Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất.
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em" (Ga 20, 21".
"Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái
đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải
có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng
của Chúa Ky-tô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp
nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em
nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi . . # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm
hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có
bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi... nhưng
cùng chịu chết với Đức Ky-tô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên
trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành
nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn
thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
10. Chứng tá
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu.
Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng
Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu.
Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo
hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu.
Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ
nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích,
nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội
và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về
tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân
trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân
giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với
những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi
vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ
xưởng, nhà máy, công trường... nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo
dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em
mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ
không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và
chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn
đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn
cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có
hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời
sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu
thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu
bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân
gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng
ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn
sản xuất, khi xê dịch thăm viếng... để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói,
thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà
truyền giáo như sau: đó là "một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ
không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến
Ngài". Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu
bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của
Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo
thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta
biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà
thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc
đẩy ông theo đạo như sau: "Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh
viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận
tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng
trong phòng, tôi hỏi: "Chị quỳ làm gì thế?". Chị trả lời: "Tôi
cầu nguyện cho ông". Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không
biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa
những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời
cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa".
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương
sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều
người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo
đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay
với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta
sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta
chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người
bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám mục
Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền
giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời
cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời
nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất
yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu
thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa
phán: "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy,
ấy là nếu anh em thương yêu nhau".
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay
nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc
nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc
cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
11. Truyền giáo
"Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh
đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo". Câu
nói trên rất đúng và cũng rất hay.
"Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh
đồng truyền giáo". Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn
còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được
thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay
nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia
tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở
thành thiểu số đáng ngại.
Các nước được mệnh danh là "Công
giáo" như Tây Ban Nha, Pháp, Ý... có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa
tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi,
ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: "Nước Pháp, xứ truyền
giáo". Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ
truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì
thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo.
Nếu đất nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công
giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia
kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.
Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính đến ngày
31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số
dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt Nam vẫn
còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách. Chính
vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất là
trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức
Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để
cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy
sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ
đại ấy.
Truyền giáo là bổn phận của mọi người và
mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm
tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ
bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn
cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một
bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người
nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức... trong mỗi hoàn cảnh
sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức
truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, "Mỗi người ở trong
Chúa là một nhà truyền giáo", câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải
là một nhà truyền giáo.
Đành rằng không phải ai cũng có thời giờ hoặc
khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể
và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo;
đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong
gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên
hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất
và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống
đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi
người.
Cách đây khá lâu, có một cuốn Phim Việt
Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim "Chuyện Tử tế" của đạo
diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong
chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại
quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: "Những người Kitô Việt Nam có thể làm
gì để truyền giáo cho dân tộc họ?" Nhà đạo diễn đã trả lời: "Với tôi,
điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều
họ tin". Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất
nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa,
sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống
niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình
nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế
không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là
sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu
không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này
có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số thành phần
trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi người và
mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu
không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ là đừng
mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại
bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là
sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế là sống vui tươi, sống lạc
quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi
người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và
nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.
12. Hãy loan báo Tin mừng
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết
khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi
không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện
là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò
con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa
thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người
ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn
lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn
và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt
người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có
nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn
điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng
đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người
xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng
ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ,
thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường.
Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi.
Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không
đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn
trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ
đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và
nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng
không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang
khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi
lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng
vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã
cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến
thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới
thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm
cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông.
Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải
vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim
khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người
như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông
sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng
sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi
người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô
nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai
người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ
người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ
được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây
trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông
và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà
dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều
giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80
nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu
nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số
dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức
quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành
công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm
tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa
đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là
một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết
khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là
anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống
đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở
Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa
truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc
truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo.
Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng
mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng
và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
13. Đời sống chứng nhân
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng
ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là
truyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền... Giáo là giáo
lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm... Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng
Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ
nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa
là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái
như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là "trồng" Giáo hội
vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy
trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải
chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh
em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn
sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành
có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là
truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân
cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một
nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các
tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều
của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa
biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa.
Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số
người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được
hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy
nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa
được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất
quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải
chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa
biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những
người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống
một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ
thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như
vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của
riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng
được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải
coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm
của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có
rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải
thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc
truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền
giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời
Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo,
chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo
Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh
Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành
việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không
thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính
đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu
nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo
đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.
Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì "Lời nói
lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta
hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
14. Hãy thả lưới bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà
không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa.
Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể
mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần
ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc
ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí
phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả
thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi
những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công
việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt
đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực
nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền,
tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc
đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông
đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không
ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả
những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công
việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có
nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì.
Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên
trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: "Hãy rao giảng
Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện"
(2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất
vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã
gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra
khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn
làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán
nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc
đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người
truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu
hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy
mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm
lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài
đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hóa bản thân là một điều
kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công
việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng.
Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông
đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn
tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta
biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả.
Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn
thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải
là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn
vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền
giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn
của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý
Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một
nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền
giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên
đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để
biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên
đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm
việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền
giáo. Amen.
15. Thầy Ở Cùng Anh Em
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là
một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ."
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng,
nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa
là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con
người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới,
nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong
mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một
người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa khiến người ta trở
thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào
đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
"Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một
điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở
cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng
(Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta
thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin
Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ
thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình
an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả
lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh
sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay
mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên
niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền
giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con
người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng
nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo
đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn
không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và
đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo
Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã
muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa
vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập
giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc
hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì
chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì
chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
16. Truyền giáo
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – R. Veritas)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng
thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức
công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả
của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999.
Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi
mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài
Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến
nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên
đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ
trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của
bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng.
Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn
bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn
nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại
một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ
nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ
nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm
gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các
cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo
hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc
biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ
đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như
xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá
khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo
Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ
điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và
toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan
nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ
đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến
tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một
mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của
tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành;
tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan
nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề "Con Đường
Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã
viết như sau: "Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi
người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn
luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo
tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một
người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn." Lễ quốc táng mà
chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang
đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ
Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo,
chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta
cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của
Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi
nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người
ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của
việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một
nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có
một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài".
Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng
những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa
Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết
yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và
yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một
giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi
mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho
chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là
thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế
nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một
thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do
cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay
chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
1. Nộp thuế
Thời bấy giờ, dân Do Thái đang sống dưới
ách thống trị của đế quốc Lamã. Có những kẻ cộng tác với đế quốc, thì ủng hộ
việc nộp thuế. Nhưng cũng có những người muốn lật đổ ách thống trị, thì chống
đối việc nộp thuế, bởi vì làm như thế chẳng khác nào nối giáo cho giặc.
Trong một bối cảnh như vậy, câu hỏi có nên
nộp thuế cho César hay không, quả là một cái bẫy. Trả lời là có thì mất lòng
dân. Còn trả lời là không thì sẽ bị kết án là chống đối nhà nước. Trước hết
Chúa Giêsu bảo họ đưa cho mình xem đồng tiền La mã. Hành động này đẩy họ vào
cái thế phải trả lời cho chính câu hỏi đã nêu ra, bởi vì mang trong người đồng
bạc La mã là chấp nhận những sự ràng buộc của La mã. Tiếp đến hình và chữ ký
trên đồng tiền này đã đem lại cho Chúa Giêsu một câu trả lời đầy lý tưởng: Của
César hay trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Với câu trả lời này, Chúa Giêsu không nề
nhằm mục đích đưa ra nền tảng cho một học thuyết chính trị, cũng không hề có ý
định tách biệt thế giới làm hai. Một thuộc về César, một thuộc vê Thiên Chúa.
Ngài để việc này tuỳ cá nhân quyết định vì mỗi người phải giải quyết về những
đối nghịch giữa Thiên Chúa và trần gian.
Là người Kitô hữu, chúng ta có hai quyền
công dân đi đôi với nhau, sở dĩ như vậy vì chúng ta là công dân của hai thế
giới, đó là thế giới trần gian và thế giới thiên quốc. Như vậy, chúng ta phải
tôn trọng những đòi buộc của mỗi bên. Chính vì thế mà trong bức thư gởi tín hữu
Rôma, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Hãy vâng phục các vị cầm quyền, hãy nộp cho
họ những gì chúng ta mắc nợ. Mong rằng giữa hai quyền công dân này không bao
giờ xảy ra những xung đột, nhưng luôn đi song song và bổ túc cho nhau, vì đạo
chỉ đẹp khi ở trong đời và đời chỉ tốt khi ở trong đạo.
Còn nếu chẳng may xảy ra xung đột thì
người Kitô hữu phải biết cách giải quyết: Vâng phục Thiên Chúa hơn vâng phục
loài người. Đó là cách thức đã từng được người Kitô hữu giải quyết trong dòng
lịch sử, mỗi khi có những cấm cách và bách hại xảy đến.
Vua Henri VIII nước Anh đã kết hôn hợp
pháp, nhưng rồi ông xin Đức Giáo Hoàng huỷ bỏ cuộc hôn nhân hợp pháp ấy. Vì
không có nền tảng chính đáng, Đức Giáo Hoàng đã từ chối. Và thế là ông ra lệnh
cho bạn bè và các chức sắc ký vào một bản tuyên bố đồng ý chấp nhận hành động
của ông. Nhiều người đã ký, nhưng Thomas More thì từ chối. Nhà vua yêu cầu
Thomas More ý vào nếu không sẽ bị tống giam và khép vào tội phản loạn, nhưng
Thomas More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận. Một
đối với Thiên Chúa và một đối với nhà vua. Và khi chúng chống đối nhau, ngài
không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc trung thành với lề luật của Thiên
Chúa.
Bởi vì, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất,
phải chiếm địa vị số một trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng ta.
2. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần
Ngà
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')
CỦA XÊ-DA, TRẢ VỀ XÊ-DA; CỦA THIÊN CHÚA,
TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Những người biệt phái và những người thuộc
phe Hê-rô-đê âm mưu gài bẫy hãm hại Chúa Giêsu. Khởi đầu, họ đưa ra những lời
mật ngọt để dụ Người đi vào cạm bẫy: "chúng tôi biết Thầy là người chân
thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể
ai..." rồi tiếp đó, xô Chúa Giêsu vào tròng: "Có được phép nộp thuế
cho Xê-da không?"
Trả lời đằng nào cũng mắc nạn. Nếu bảo
rằng: được phép, thì người Do-Thái sẽ vin vào đó mà kết án Chúa Giêsu là người
ủng hộ đế quốc Rô-ma, phản bội đồng bào; nếu bảo không thì họ sẽ tố giác Người
với chính quyền Rô-ma với tội danh là xúi dân đừng nộp thuế.
Chúa Giêsu biết ngay mưu đồ thâm độc của họ,
Người lách khỏi cạm bẫy cách tài tình khi đề nghị họ cho Người xem đồng tiền
nộp thuế và yêu cầu họ trả lời hình và hiệu trên đồng tiền đó là của ai. Họ trả
lời: "của Xê-da". Chúa Giêsu mượn cơ hội đó để nêu lên cho mọi người
một nhận định đáng quan tâm suy nghĩ: "của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên
Chúa, trả về Thiên Chúa".
* * *
1. Mọi sự đều là của Chúa, nếu Người lấy
đi, ta chẳng còn gì
Mọi thứ chúng ta có đều là của Chúa ban.
Nếu Chúa cất đi những gì Chúa ban, thử hỏi chúng ta còn lại được gì?
Chúng ta hãy nghe lại chuyện ông Gióp để
hình dung xem khi Chúa lấy lại những gì Chúa trao thì con người còn lại những
gì.
"Xưa ở đất Út có một người tên là
Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều
ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc
vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và
một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông...
Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên Chúa.
Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và
xa lánh điều ác.
Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa như
vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ tay
rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa
không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!
Thiên Chúa chấp thuận để cho Satan thử
thách lòng trung tín của ông Gióp đối với Người.
Vậy là một ngày kia, đang khi các con trai
con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người đưa tin đến cho
ông Gióp rằng:
- Trong lúc bò của ông đang cày ruộng và
lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn dùng gươm
giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác
chạy về thưa:
- Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống
đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn
chạy về báo tin ông hay.
Người nầy còn đang nói thì một người khác
chạy về thưa:
- Người Can-đê chia thành ba toán ập vào
cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi
thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác
chạy về thưa:
- Con trai con gái ông đang ăn uống tại
nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn
góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát nạn
chạy về báo tin ông hay.
Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra,
cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng sinh từ lòng
mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy
đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (Gióp 1, 6-22).
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta biết
rằng: mọi sự ta có đều là của Chúa tạm ứng cho ta hưởng dùng, nếu mai đây Chúa
đòi lại thì chúng ta không khác gì ông Gióp: trần trụi, chơ vơ, chẳng còn gì!
Nhờ đôi mắt Chúa ban, chúng ta được nhìn
thấy vẻ huy hoàng của thế giới; nếu Chúa lấy đi, chúng ta thành kẻ mù loà. Đôi
chân nầy cũng là ân huệ Chúa ban, nhờ đó chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi đâu
mình muốn; nếu Chúa lấy đi, chúng ta trở thành người tàn phế. Nhờ hơi thở Chúa
ban, chúng ta còn tồn tại đến hôm nay; nếu Chúa cất đi, chúng ta tắt hơi sau
năm phút. Nhờ ánh sáng mặt trời Chúa ban, chúng ta được sưởi ấm và được sống;
nếu Chúa lấy đi, chúng ta sẽ chết cóng vì lạnh sau nửa tiếng đồng hồ... Chúa
ban cho chúng ta tất cả, chúng ta là những kẻ mắc nợ Ngài trong tất cả những gì
chúng ta có.
Ngoài những món quà vật chất còn có vô số
ân huệ thiêng liêng, mà ân huệ lớn nhất là Thiên Chúa Cha đã trao ban cho ta
ngay cả Con Một của Người để mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu khổ hình và chịu
chết thay cho chúng ta.
Ngoài ra chúng ta cũng mang nợ xã hội rất
nhiều: Thợ hồ xây nhà cho ta ở; thợ mộc đóng bàn ghế cho ta dùng; thợ may cung
cấp cho ta quần áo che thân; thầy giáo cho ta tri thức và văn hoá; cha mẹ sinh
ra, nuôi dạy chúng ta được khôn lớn như ngày hôm nay...
2. Hãy đền đáp công ơn Thiên Chúa vì những
ân huệ Người ban tặng cho ta.
Trong tương quan xã hội, người Việt Nam có
truyền thống đáp nghĩa đền ơn rất chu đáo. Bánh ít đưa đi, bánh dì đưa lại. Có
qua có lại mới toại lòng nhau. Hôm nay có dịp nhận quà mừng của người khác, mai
đây người ta không quên đáp lại bằng một quà mừng tương xứng.
Nợ người đời tuy ít mà người ta còn lo đáp
đền sòng phẳng, huống là những món nợ rất lớn đối với Thiên Chúa toàn năng.
Thầy giảng Anrê Phú Yên là một vị thánh tử
đạo rất trẻ, là học trò của cha Đắc Lộ. Thầy được lãnh bí tích rửa tội năm 15
tuổi, được đào tạo và trở thành giáo lý viên năm 17 tuổi và đến năm 19 tuổi thì
bị quan quân bắt bớ.
Thầy vui lòng được chết để làm chứng cho
Tin Mừng và cho Chúa Kitô. Ước vọng của thầy là muốn dâng hiến trọn vẹn cuộc
đời để đền đáp lại ân tình của Chúa. Ước vọng đó được thầy diễn tả qua câu nói:
"Đem mạng sống đáp đền mạng sống, lấy tình yêu đáp trả tình yêu."
Thiên Chúa đã yêu thầy vô cùng thì thầy cũng đáp lại bằng tình yêu thật lớn.
Thiên Chúa đã chết cho thầy thì thầy cũng muốn dâng hiến mạng sống thầy cho
Chúa. Đó cũng là nội dung lời dạy trong Tin Mừng hôm nay: hãy trả cho Thiên
Chúa những gì thuộc về Người.
Cùng nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta
không vô ơn và tự phụ khi nhận được rất nhiều ân huệ của Thiên Chúa nhưng biết
dâng hiến tất cả những gì Chúa ban, từ thời giờ, sức lực, trí tuệ đến tài năng,
của cải và trọn cuộc sống chúng ta để báo đền vô vàn hồng ân Thiên Chúa.
3. Trả nợ cuộc đời – Lm Giuse Tạ
Duy Tuyền
Có một câu chuyện kể rằng: có một người
con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng giàu sang. Khi
đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự, nhưng vẫn mang dáng dấp quê mùa với
bộ đồ đã bạc màu, cũ kỹ. Sợ khách chê cười và xem thường mình, cô con gái không
dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Dù rằng, cô vẫn biết bà
mẹ nhà quê rất tủi thẹn, nhưng cô vẫn lạnh lùng làm ngơ. Cô con gái đã đánh mất
lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Cô là loại người vong ân bội nghĩa. Cô
đã phạm tội bất hiếu khi đang tâm không nhìn nhận công đức của mẹ đã dành cho
cô: "chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, tất bật nuôi con cho tới khi
trưởng thành". Những loại người như vậy thường bị người đời kết án, tẩy
chay, xem thường...
Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương
tâm chúng ta. Của Xê-za hãy trả về cho Xê-za, của Thiên Chúa hãy trả về cho
Thiên Chúa. Của Xê-za có thể là những thứ công bình bác ái giữa người với
người, hay có thể là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã
hội. Của Thiên Chúa chính là con người phải lệ thuộc vào Thiên Chúa vì sự sống
là của Thiên Chúa ban, và còn được Ngài ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Của
Thiên Chúa còn là những kỳ quan thiên nhiên mà Thiên Chúa đã quan phòng xếp đặt
cho có thời, có lúc để nuôi dưỡng con người. Chính vì thế mà có ai đó nói rằng:
con người sinh ra đã mang kiếp nợ trần. Con người đã mang ơn khi vào trần gian
nên phải trả nợ cho hết cuộc đời. Trả nợ Thiên Chúa và trả nợ tha nhân.
Vậy, chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa
và tha nhân những gì?
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc
về Thiên Chúa. Đó chính là con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là "nhân chi
sơ tính bản thiện". Nhưng đáng tiếc, con người đã quay lưng lại với Thiên
Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê
lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa...
khiến con người trở thành "chó sói của con người" như lời của Saint
paul Sart đã từng thốt lên trong chua chát!
Hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ
sự sống. Nhưng đáng tiếc, con người đã lạm dụng tự do để bức tử các thai nhi vô
tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của
mình.
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự
thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Nhưng đáng tiếc, con người đã
đang tâm phá vỡ khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn
lan, mưa nắng thất thường...
Hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn mà
mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Nhưng đáng tiếc, nhiều người
đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, tình mẹ. Họ đã sống thiếu trách
nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi.
Hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và
bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thượng Đế ban
tặng qua vũ trụ vạn vật. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã làm dụng quyền bính để
vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trả
lại cho Thiên Chúa sự trong trắng tâm hồn của con người là hình ảnh ban đầu mà
Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Hãy trả lại cho tha nhân không chỉ là quyền được
sống mà còn được sống dồi dào trong sự tôn trọng tự do của nhân quyền giữa
người với người, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc . . .
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi
giá trị đang mai một và đảo ngược. Ngay thẳng thật thà thì bị coi là ngu khờ
dại dột... "Lương tâm không bằng lương tháng". Một xã hội mà dối trá
đang ngự trị khắp nơi mà có ai đó nói trong cay đắng rằng: xã hội hôm nay đang
tiến từ thời kỳ đồ đá, đồ đồng sang thời kỳ "đồ đểu"! Một xã hội mà
Cái TÔI lên ngôi Thượng Đế nên có quá nhiều những thị phi. Con người hôm nay
đang lừa dối lòng mình và lừa dối tha nhân khi nói rằng: không có Thiên Chúa,
không có thần linh. Chết là hết... Vì vậy mà người ta luôn đang tâm làm hại lẫn
nhau, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa để dễ dàng làm ngược với lương tri con
người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết nhận ra sự
sống là quà tặng Thiên Chúa ban và được nuôi dưỡng trong tình yêu thương của
đồng loại, để rồi mỗi người chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tri ân Thiên
Chúa và cảm tạ tha nhân. Amen.
4. Ác ngầm – Lm. Phêrô Bùi Quang
Tuấn
Cổ Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện
xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ muốn cầu hoà với vua
Kinh nước Sở nên đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua Kinh yêu nàng ta
mê mệt đến nổi chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua đem cô gái về nước và lập làm
vợ thứ.
Hoàng hậu nước Sở là Thịnh Tụ thấy vua
thương cô gái cũng đem lòng quí mến chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi chơi đâu,
nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy thế vua Kinh mừng lắm, có lần khen:
"Hoàng hậu thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng thương mến như thế thì
có gì khác nào con thảo biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui chủ
mình".
Hoàng hậu thấy vua không nghi ngờ gì nên
một dịp kia mới bảo cô gái đẹp: "Đức vua thương yêu ngươi lắm, chỉ ghét có
cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi lần trông thấy đức vua, ngươi che mũi lại
thì chắc sẽ được yêu thương hơn nhiều".
Nghe lời khuyên nên hễ vừa thấy đức vua,
cô gái nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh mới dò thăm với hoàng hậu. Trước
thì hoàng hậu trả lời "không biết" đến khi thấy vua cứ gặng hỏi, bà
mới nói; "Thiếp nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi hôi khó ngửi,
nên cứ phải che mũi thế đấy".
Nghe vậy nhà vua nổi giận quát lên:
"Thế thì xẻo ngay cái mũi của nó cho ta".
Lập tức một tên lính cầm dao đi xẻo mũi cô
gái, bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì phải thi hành ngay.
Ôi nham hiểm và thâm độc thay! Lòng bừng
bừng ghen tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô bờ. Bên trong muốn xé nát
người ta, nhưng bên ngoài vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng, bằng một
mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ được hai "con nhạn": tình địch bị cắt mũi,
nhà vua mất người yêu. Thế mới hay tác hại kinh khủng của những kẻ khẩu tâm bất
nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao găm.
Tội nghiệp nhà vua, vô tư đến nỗi tưởng lời
nói của hoàng hậu là chân tình. Thấy người ta thuận ý thì đắc chí, khi nghe
tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần suy xét, nên mắc vào cạm bẫy gian
manh.
Hôm nay, một chiếc bẫy cũng được giương
lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng người họ muốn
gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.
Các ký lục biệt phái cùng nhóm người
Hêrôđê giăng lên một chiếc bẫy. Họ chắc mẩm Chúa có chạy đường trời cũng không
thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là "chúng
tôi biết Thầy là người ngay chính", nên chúng tôi tìm đến. Nào là
"Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa", nên
chúng tôi xin học hỏi. Nào là "Thầy không thiên tư tây vị ai", nên
thầy sẽ nói tất cả, chẳng sợ mất lòng người nào.
Thật ghê gớm! Lời ca tụng của họ ngầm bảo
rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở miệng. Mà như thế ắt sẽ mắc quai.
Sau khi rào đầu chắn đuôi, họ mới giăng
bẫy để Chúa bước vào: "Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê không?".
Nếu không im lặng thì câu trả lời chỉ còn là "có" hay
"không". Nhưng "có" cũng chết, mà "không" cũng
hết sống. Vì khi trả lời "có", lập tức Đức Giêsu bị ghép với phường
thu thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp
thuế hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem như bọn cấu kết với ngoại
bang, thiếu tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng kính, đáng tôn.
Nhưng nếu Đức Giêsu nói "không",
ngay lập tức bọn theo phe Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần dấy loạn, dám
chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên Ngài sẽ khó tránh khỏi án phạt đích
đáng.
Một câu hỏi đơn sơ nhưng sao khó giải
quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn không phức tạp cho bằng giải quyết
lòng người. Phức tạp là vì người hỏi không mang chủ đích tìm một con đường hay
một hướng đi cho đời, nhưng là để làm hại kẻ khác. Phức tạp còn là vì người hỏi
không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có câu trả lời theo ý
mình muốn.
Đừng tưởng chỉ có đời xưa người ta mới hỏi
phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi!
Có người từng đặt vấn đề: "Con đi làm,
bị chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính nhiều có tội không? Mình 'ăn'
tiền chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ có sao không?" Có người
lại thắc mắc: Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia đình đang biến thành hoả
ngục, li dị hay ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng tại sao Giáo hội
không cho phép?" Người khác còn nói: "Thời buổi này nuôi dạy con cái
không dễ, nhưng sao Giáo quyền không cho ngừa thai như chính quyền cho phép?
Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để đáp ứng lối sống và nhu cầu con
người thời đại? Dường như lề luật của Chúa và Giáo hội làm nên xiềng xích trói
buộc tự do và hạnh phúc con người?"
Thế đấy, xưa và nay không thiếu những câu
hỏi "đơn sơ" như của biệt phái và bè Sađoc.
Nhưng một câu hỏi và cũng là câu trả lời
căn bản nhất sẽ là: Tại sao người ta không chịu thay đổi lối sống cho phù hợp
với những giá trị bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy sinh, bác ái, yêu
thương, tha thứ, tôn trọng sự sống, một vợ một chồng..., mà lại cứ đòi Chúa
Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở thích và đam mê của con người? Tại
sao không dùng những phương cách chính đáng để đạt đến mục đích tốt lành mà lại
dùng những mục đích rất kêu để biện minh cho các hành động vô luân và bất nhân?
Thành ra vấn nạn không phải nơi Thiên Chúa
nhưng là nơi con người. Thay vì "con vâng ý cha", người ta lại cứ
muốn "Cha theo ý con". Vấn đề không phải là Thiên Chúa hay Giáo hội
khắt khe, độc tài, thiếu cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là vì con người cứ
cho mình hiểu biết hơn Thiên Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh. Thế rồi khi lên
tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân lý, muốn tìm con
đường đúng nhất hầu có được niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại phát xuất từ ích kỷ
dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội lỗi. Chúng đến từ ý tưởng của thế
gian chứ không phải từ Thiên Chúa.
Trong khi người ta hỏi Chúa Giêsu về
chuyện thế tục, Ngài lại hướng họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả cho Thiên
Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp người ta nhận được mà
không đến từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để đi đến Thiên Chúa, vượt
qua vật chất để hướng về tâm linh là bổn phận cần thiết nhất trong đời con
người.
Ước chi bao tâm tư mỗi ngày đời tôi sẽ
luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình xây đắp nhân phẩm,
tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an; cuộc sống sẽ chứa
chan tin yêu hy vọng.
5. Của César
Ngày nay trước vấn đề tục hoá, vai trò của
tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng rải rác đó đây vẫn còn những
sự kiện đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn giáo chủ Khomenei ra lệnh hành
quyết đối với nhà văn Salman Rushdie vì ông này đã báng bổ Hồi giáo qua cuốn
"Vần thơ của ác quỷ". Và cũng đã lâu, các học giả Hồi giáo đòi lấy
đầu bà Thủ tướng Butto nước Pakistan vì bà này dám huỷ bỏ luật chặt tay những
kẻ trộm cắp. Trong bối cảnh đó thì đoạn Tin Mừng sáng hôm nay có ý nghĩa gì?
Đây là lần đầu tiên bọn biệt phái và phe
Hêrôđê liên kết với nhau tưởng rằng sẽ mưu cầu đại sự, ai ngờ chỉ nhằm loại bỏ
Chúa Giêsu bằng cách gài bẫy Ngài trước một vấn đề xem ra nan giải: Có được
phép nộp thuế cho César hay không? Nêu lên câu hỏi này, bọn biệt pháp chỉ chờ
câu trả lời có để ghép tội Chúa Giêsu là kẻ chống phá tôn giáo, đi với đế quốc.
Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời không để xếp Ngài vào số những kẻ
thù địch với chính quyền. Có hay không, phần thiệt luôn nghiêng về Chúa Giêsu.
Nhưng thật bất ngờ đến độ chưng hửng, Chúa
Giêsu không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ, mà còn đẩy họ tới chỗ
phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Ngài nói: Của César hãy trả
cho César. Đây là một sự kiện thực tế bởi vì họ tiêu dùng tiền Rôma thì cũng
phải đóng thuế cho Rôma. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ. Nộp thuế cho César
không phải là một hành vi phạm thánh như bọn biệt phái cố tình dàn dựng, nhưng
là một hành động hợp lý với những ai có ý thức xã hội.
Bọn biệt phái thì chưng hửng còn phe
Hêrôđê thì cụt hứng. Những tưởng đã chụp mũ được Chúa Giêsu trong góc độ chính
trị, nếu Ngài phủ nhận quyền bính của César, nhưng Ngài lại muốn khẳng định
mình trong cương vị tôn giáo. Thế nên, chẳng thể bảo Ngài là thoả hiệp hay
chống đối, bởi vì Ngài là con người tôn giáo biết chu toàn mọi bổn phận công
dân.
Vượt trên vấn nạn của kẻ thù, Chúa Giêsu
còn mời gọi họ bước tới với trách nhiệm tôn giáo. Dù đứng trong lập trường nào,
họ đều là những người Do Thái, kính mến Thiên Chúa và tuân giữ luật lệ của
Maisen, nên bổn phận trước hết của họ phải là bổn phận tôn giáo: của Thiên Chúa
hãy trả cho Thiên Chúa. Qua đó Ngài cũng xác quyết vê quyền tối thượng của
Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa là chủ và quyền năng của Ngài bao trùm mọi
lãnh vực. Ngài không tự đặt mình ngang hàng với César để tranh chấp hay bảo vệ
những quyền lợi của mình. Bởi vì nộp thuế hay không nộp thuế cho César đâu có
thêm bớt được cho vinh quang của Ngài. Do đó, chúng ta có thể chu toàn những
bổn phận đối với Thiên Chúa mà vẫn cứ an tâm nộp thuế cho César.
Chúng ta không phải chỉ ngỡ ngàng và thán
phục cung cách trả lời của Chúa Giêsu, mà còn ngỡ ngàng và thán phục hơn nữa
với nội dung của lời giải đáp, có sức làm bật tung những lối nhìn tù túng. Có
thể nói được rằng chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng
bao trùm trong mọi lãnh vực. Bởi vì đạo chỉ đẹp hơn khi ở trong đời và đời chỉ
tốt hơn khi ở trong đạo.
6. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt.
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra
câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: "Của César trả
cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa". Với câu trả lời này, Chúa
Giêsu minh định hai điều:
Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt
nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn
giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm
vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là "trả cho César" những gì của César.
Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: "trả cho Thiên Chúa" những gì thuộc về
Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là
của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được
tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên
Chúa.
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César,
người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con
người cũng phải ra sức làm việc.
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau.
Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc
theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên
Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và
cho đi.
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất
về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể,
lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh
Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương
cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa
chân cho từng môn đệ.
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh
Thể. Chúa Giêsu đã nói: "Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu
Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội" (Lc 22,19).
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường.
Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà
chẳng một lời oán thán.
Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà
còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: "Lạy Cha, xin tha cho
họ, vì họ lầm không biết" (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành:
"Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng" (Lc
23,43).
Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên
Người truyền cho ta: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày" (Lc
22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta,
tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.
Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người
cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì
thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người.
Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người,
nghĩa là sống như Người.
Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương
phục vụ. Vì Chúa đã dạy: "Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng
hãy rửa chân cho nhau" (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự
hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe,
tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì
Chúa đã dạy: "Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong
lòng" (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7
lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống
động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những
gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách
thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống
cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của
Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết
sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên
giống Chúa hơn. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Ban đã phải trả cho César những gì
thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người
không?
2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?
3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu
được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?
7. Trả về Thiên Chúa
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Có được phép nộp thuế cho Xê-da
không?"
Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi.
Nếu Đức Giêsu bảo phải nộp, ắt Ngài chẳng
yêu nước yêu dân. Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều ô nhục. Nhưng
nếu Ngài bảo đừng nộp, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo.
"Cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng
thuế."
Khi đưa cho Đức Giêsu đồng bạc có hình
Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này, và như thế họ đã
mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da.
Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là
của Xê-da, Đức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: "Vậy hãy trả lại cho
Xê-da những gì của Xê-da". Ngài nhìn nhận một sự độc lập nào đó của ông.
Ông có quyền điều hành đế quốc của ông như ông muốn. Đối với người Do Thái sử
dụng đồng bạc của Xê-da, Đức Giêsu không hề ngăn cản họ nộp thuế cho ông ấy,
như sau này có kẻ tố cáo (x. Lc 23,2). Nhưng Ngài cũng không buộc mọi người
phải nột thuế cho Xê-da, vì có người coi việc nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma
là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Chẳng những Đức Giêsu không bị mắc bẫy mà
Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: "Hãy trả lại cho Thiên
Chúa những gì của Thiên Chúa." Đây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan
tâm.
Chúng ta tự hỏi: có cái gì ngoài Thiên
Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài?
Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình
và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình Ngài, những gì
đã được ghi khắc tên Ngài trên đó.
Hình ảnh nổi bật nhất là con người (x. St
1,26). Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai được khinh miệt
phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự trong sáng của
lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa.
Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ
con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả con người lại
cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài trên đời
ta.
Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên
Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại
cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món
quà Ngài đã tặng.
Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa
(x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp với ý Ngài, cũng là
phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người.
Chúng ta có chiếm đoạt điều gì của Thiên
Chúa không?
Hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi rõ hay mờ
nhạt?
Có lớp bụi nào che khuất khuôn mặt Chúa
nơi tôi?
Ước gì tôi đọc được tên Thiên Chúa, tên
Đức Giêsu trên những người tôi gặp, những biến cố tôi sống mỗi ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về những điểm giống nhau và
khác nhau giữa quyền của quốc gia và quyền của Hội Thánh? Theo bạn, đâu là giới
hạn của những quyền này?
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người nhiều
khi đã bị che lấp và những hình ảnh khác đã chiếm chỗ. Theo bạn, đâu là những
hình ảnh khác đang in dấu trên con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Có những người bạn trẻ thích xăm hình lên
người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể thao hay điện ảnh.
Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu thích.
Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì
mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của Cha:
Cha quảng đại mở ra để chia sẻ hạnh phúc
thần linh,
Cha khiêm tốn tôn trọng tự do của con
người,
Cha yêu thương đến nỗi dám trao hiến Người
Con Một chí ái,
Cha bao dung tha thứ trước những tâm hồn
hoán cải,
Cha luôn tận tụy làm việc để nâng đỡ cả
thế giới.
Ước gì người ta biết Cha trên trời, khi
gặp chúng con ở dưới đất.
Ước gì người ta đọc thấy tên Cha trong tim
của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.
8. Nên nộp thuế chăng?
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – R. Veritas)
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư
đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung
gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị
Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả
thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất
nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel
Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ
đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ
là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần
chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì
không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu
tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng
người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: "Hỡi
nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?". Câu hỏi ấy ngài đi
thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: "Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn
giáo trong cuộc sống của mỗi người?".
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu
lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng
phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ
với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi
người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt
phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
Khi tuyên bố: "Của Xêda hãy trả lại
cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa", Chúa Giêsu không
những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê.
Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: "Của Thiên Chúa
hãy trả cho Thiên Chúa".
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay
vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho
con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người.
Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm
Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài
không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở
khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. "Của Thiên Chúa
hãy trả lại cho Thiên Chúa", có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong
cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn
lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo
không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường
của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một
đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi
chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
Khi niềm tin được sống một cách triệt để
như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có
sức cải tạo và thay đ
ổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu
Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và
hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc
đời.
9. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An.
CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi
tiếng:
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết
sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo
ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều
Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là
tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn
kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên
tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho
thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng điên nào mà chẳng
biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho". Đức Phật liền
nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận
đâu nhé". Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói
tiếp: "Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc
nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại
sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một
người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt
hắn mà thôi." (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167)
Câu chuyện trên là một minh họa cho cuộc
tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua bài Tin mừng
hôm nay.
Nhóm Biệt phái bàn mưu để làm cho Đức
Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp
thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel, còn phe
Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi.
Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức Giêsu. Một
mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm
được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy
Người trong vấn đề chính trị. "Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay
không?" Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài
sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu
Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế.
Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành
với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt,
Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng
không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va danh
hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là "của Xêda" Đức Giêsu liền
tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên
Chúa". Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Đức
Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa
hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ,
nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời
nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị
kết án (Mt 12, 37).
Sứ mạng của Đức Giêsu khi đến trần gian là
sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không phải là chính
trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc theo mong đợi
của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi bật chân lý ấy. Với sứ
mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa, trả
cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn nhìn Đức
Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị
phải thấy Người là con người tôn giáo.
Một cuộc đối thoại giữa thần quyền và thế
quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc đối thoại với
Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để
tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Qua
lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của mình, một vương
quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế
quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ muôn thưở. Đức
Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của người Do thái.
Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị hoàng đế Xêda hay
như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy
công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng Người tự đặt mình
vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể hiện hoàn toàn
khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời là vương quốc
trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không có
thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.
Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda. Xêda
là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời lịch sử đã qua.
Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng quyền bính và danh
lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người.
Những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên
Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa.
Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả cho
Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc ghi tên Ngài trên
đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ con người mang dấu
ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa. Trả con người
lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài. Trả vũ
trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con người món quà lớn lao mà
Ngài đã trao tặng.
Mỗi người Kitô hữu luôn hãnh diện vì mang
trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn sống phong cách của
Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha thứ, khiêm tốn phục
vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình ảnh Thiên Chúa ngày
càng rõ nét trong cuộc đời mình.
10. Suy niệm của Lm. Phaolô Đoàn
Thanh Phong
CỦA CESAR, TRẢ VỀ CESAR
CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Thưa Anh Chị Em,
Nếu có dịp đến viện bảo tàng Manchester
bên nước Anh, và khi đến ghé thăm khu trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời
đế quốc Rôma, ai cũng có thể nhìn thấy đồng tiền Denarius bằng bạc, trên có đúc
niên biểu và hình của hoàng đế Roma. Đây là đồng tiền được lưu hành trong nước
Do Thái thời Chúa Giêsu. Trên đồng tiền này, có in hình Ce'sar Tiberius, đầu
đội vòng hoa như một vị thần, cùng với dòng chữ: "Ce'sar Tiberio, con của
thần Augusto" (cf. Tassin). Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể
liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông
chủ vườn nho đã trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có
thể liên tưởng đến đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm
Pharisêu và Herodes trong Tin Mừng hôm nay.
Thực ra, đây là 2 nhóm người khác nhau về
nguyên tắc, về quan điểm sống. Nếu như những người thuộc nhóm Herodes chấp nhận
nộp thuế cho hoàng đế, như là phương cách bảo vệ chỗ đứng của mình trong bộ máy
cai trị, thì trái lại, nhóm Pharisêu chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng.
Bởi, họ không đón nhận thái độ của các Ce'sar Rôma luôn tự coi mình là thần
minh, cho nên đối với họ, việc nộp thuế cho đế quốc được xem như một sự xúc
phạm đến Thiên Chúa. Vì thế, không chỉ phải nộp thuế, mà ngay cả việc mang
trong mình đồng tiền của kẻ ngoại bang đã là một hành vi bội giáo. Nhưng vì
cùng mâu thuẫn, xung đột tư tưởng với Chúa Giêsu, nên họ sẵn sàng xóa bỏ nguyên
tắc, quan điểm riêng, chấp nhận liên minh lại với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu
bằng câu hỏi: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế Ce'sar không?". Đây
là một vấn đề mới nghe qua thật bình thường, nhưng sự thực lại không hề đơn
giản. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trả lời rằng nên nộp thuế, thì chính Ngài đã
nhìn nhận Ce'sar là Chúa của mình,Ngài sẽ trở thành một kẻ bội giáo, mất tín
nhiệm với số đông quần chúng. Còn nếu Ngài trả lời rằng không nộp thuế, thì
Ngài sẽ bị tố cáo là kẻ chống lại hoàng đế, chống lại chính quyền Rôma. Thật
"tiến thoái lưỡng nan", trả lời thế nào cũng khó. Thế nhưng, thật bất
ngờ Ngài lại dùng đồng tiền hai mặt của Rôma để trả lời: "Của Ce'sar, trả
về Ce'sar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17). Trả lời như thế,
không những Chúa Giêsu thoát được cái bẫy thâm độc của những người đạo đức giả,
mà còn khẳng định chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời sống, trong vũ trụ:
"Phải trả cho Ce'sar đồng tiền mang hình ảnh và tên của Ce'sar thế nào,
thì cũng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dáng hình của Thiên
Chúa". Trả lời như vậy là Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng mỗi người luôn có
hai bổn phận phải thực hiện giữa đời và trong đạo. Vì có đạo nào lại không ở
trong đời và có đời nào lại không là của đạo. Một người Kitô hữu trong đạo cũng
là công dân của một đất nước, cho nên cần phải chu toàn cả hai bổn phận thì mới
đúng là người Kitô hữu đích thực, là công dân trong đất nước và cũng là công
dân trong Nước Trời mai sau.
+ Sống giữa đời phải hiểu rằng: Quốc gia
thì có luật pháp; Gia đình thì có gia pháp; Cộng đoàn thì có luật riêng của
cộng đoàn. Vì thế, ai ai cũng phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận với đời,
với xã hội. Cụ thể, gia đình Nagiarét, dù Mẹ Maria sắp đến ngày sinh con, nhưng
họ vẫn tùng phục luật xã hội, phải rời miền Bắc trở về miền Nam. khi được lệnh
trở về quê để khai báo hộ khẩu.
+ Sống trong đạo thì phải chu toàn bổn
phận đối với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu luôn ưu tiên cho công việc của Chúa
Cha. Nên khi hành hương ở hội đường, Ngài đã ở lại để giảng dạy giáo lý, qua
đó, Ngài muốn khẳng định rằng: lo việc của Thiên Chúa thì hơn lo việc trần thế
(x.Lc 2,46). Không chỉ Ngài đề cao việc của Cha Ngài, mà những người theo Ngài,
Ngài cũng đòi hỏi rất gắt gao: "Kẻ nào đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ,
con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đệ của
Ta" (Lc 14,26-27). Và cũng vì thế, mà Thánh Phaolô xác định: "Nếu tôi
luôn luôn làm hài lòng mọi người, thì tôi không còn là môn đệ của Chúa
Giêsu" (Gl 1,10). Nghĩa là, Ngài phải làm hài lòng Thiên Chúa trước, thì
Ngài mới có khả năng làm hài lòng mọi người. Rõ ràng, với câu trả lời của Chúa
Giêsu "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc
12,17), thì hai bổn phận đối với đời và đối với đạo, với Thiên Chúa, luôn cần
phải đi song hành với nhau, không có sự loại trừ. Bởi vì, Đạo Công Giáo không
phải là Đạo Duy Tâm mà là Đạo có : Có Chúa Kitô, có linh hồn và thể xác, có
nhân tính và thần tính, có đời này và có đời sau.
Thưa Anh Chị Em,
Một trong những khuynh hướng tiêu cực nơi
những người có tôn giáo đó là khuynh hướng phân chia đời sống thành nhiều phạm
vi tách rời nhau: phạm vi ở phố chợ khác với ở gia đình, và lại càng khác với
phạm vi trong khuôn viên nhà thờ, giáo xứ. Sự tách biệt ấy dễ làm nên những bộ
mặt tương phản nơi người tín hữu: Ở nhà thờ là dung mạo rất đạo đức hiền lành
và đơn sơ, nhưng bên ngoài pham vi nhà thờ, thì lại là một bộ mặt khác xấu xí hơn
như người ta thường nói vui với nhau: Ơ nhà thờ thì hứa với Chúa thật nhiều và
ra khỏi nhà thờ thì thất hứa với Chúa cũng thật nhiều. Vì vậy, cần phải hiểu
rằng Thiên Chúa hiện diện - không chỉ ở trong một góc nào đó của nhà thờ khi cử
hành phụng Vụ hay trong những buổi cầu nguyện sốt sắng. Chúng ta có thể gặp
thấy Ngài ở mọi nơi, cả trong các sinh hoạt đời thường. Vì Thiên Chúa là Đấng
Emmanuel – một Thiên Chúa ở với con người, nhưng quan trọng hơn, con người là
nơi hình ảnh của Thiên Chúa được thể hiện tròn đầy nhất. Được tạo thành theo
dáng hình Thiên Chúa, con người chỉ thực sự lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn
gọi làm con Chúa khi thể hiện đúng vai trò bổn phận của mình trong thế giới hôm
nay và trong lòng Hội Thánh. Vì vậy, lắng nghe lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi
người chúng ta ý thức bổn phận của mình trong xã hội cũng như trong Giáo hội để
có thể thống nhất trong phương cách thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa. Có
như thế, chúng ta mới thực sự làm đúng như lời Chúa Giêsu mời gọi: "Của
Cesar, trả về Cesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Amen.
11. Tôn giáo và chính trị
- Nếu Thầy chống nộp thuế thì Thầy chống
lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế, thì Thầy chống lại Thiên Chúa.
Để làm hại Chúa Giêsu, người ta giăng một
cái bẫy buộc Ngài phải rơi vào đó. Đất nước đang sống dưới sự chiếm đóng của
Rôma và người Do thái biến đều đó thành một vấn đề tôn giáo. Cho nên đó là điều
Tin Mừng muốn làm cho chúng ta suy nghĩ: tôn giáo và chính trị.
Những người theo Hêrôđê là những người hợp
tác và rình mò Chúa Giêsu có lời nào bất cẩn nhằm tố cáo Ngài là người xách
động. Nhưng những người Pharisêu, và thực tế là toàn thể dân Do thái, ghét
người Rôma và xem họ là những kẻ đàn áp và là dân ngoại. Đóng thuế, tức là công
nhận phục tùng một vị hoàng đế ngoại đạo. Như thế chẳng phải là chống lại Thiên
Chúa hay sao? Thầy tự xưng là Đấng Cứu Thế, Thầy không thể chấp nhận điều đó,
Thầy không ủng hộ việc đóng thuế chứ?
Chúa Giêsu bẻ gẫy cái bẫy kết hợp đó: các
ngươi đang sử dụng tiền của César, các ngươi chấp nhận tình cảnh đất nước bị
chiếm đóng, do đó, "hãy trả cho César những gì thuộc về César", nhưng
các ngươi đừng trộn lẫn điều này bất cứ như thế nào với đức tin của các ngươi
vào Thiên Chúa.
Cho nên Chúa Giêsu phân biệt tôn giáo với
chính trị. Không như người ta thường làm bằng cách cắt cuộc sống ra làm hai:
một bên là lãnh vực của César, chính trị, và bên kia là lãnh vực của Thiên
Chúa, tôn giáo. Không, tôn giáo và chính trị khác hẳn nhau, tuy nhiên chúng
chồng chéo lên nhau.
Hẳn có hai lãnh vực, hoặc đúng hơn là
nhiều lãnh vực. Trước hết là lãnh vực của Thiên Chúa là lãnh vực bao trùm tất
cả. "Hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa" có nghĩa là:
các ngươi hãy xem tất cả trong cuộc sống của các ngươi liên quan đến Thiên Chúa
như thế nào. Ai cũng có quyền có quan điểm. Cho nên phải "trả lại cho
Thiên Chúa" tất cả những gì chúng ta làm trong chính trị cũng như trong
tất cả. Đó là ánh sáng rõ ràng về các vấn đề "đức tin và chính trị"
và về bao nhiêu vấn đề khác nữa.
Bởi vì bên trong quyền tối thượng hoàn
toàn cuả Thiên Chúa, có biết bao nhiêu là lãnh vực trong đó chúng ta phải thực
thi tự do của chúng ta: cuộc sống cá nhân, gia đình, xí nghiệp, xã hội. Không
có vấn đề sống tất cả những cuộc sống đó một cách độc lập với Thiên Chúa. Cũng
không có vấn đề ràng buộc Ngài với sự chọn lựa của chúng ta, trong khi tuyên bố
rằng thái độ chính trị này là thái độ chính trị duy nhất của người Kitô hữu
chẳng hạn. Trước kia, người ta dễ dàng nghĩ rằng bỏ phiếu cho cánh hữu là
"vì Thiên Chúa"; ngày nay, đúng hơn là ngược lại, và đây là cũng sai
nốt. Dầu sao thì cũng có cám dỗ lớn lao trong việc đặt Thiên Chúa vào trong
những đề cương bầu cử hoặc trong nhiệt tình chính trị. Không, đó là César chứ
không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn thuộc về cánh hữu hay cánh tả nữa.
Nhưng cám dỗ ngược lại cũng xấu: tìm cách
thoát ra để gần Chúa, xa rời mọi sự dấn thân tập thể. Thế là chúng ta trốn
tránh yêu thương anh em chúng ta, bởi vì phần lớn nhờ hoạt động chính trị mà
chúng ta có thể thăng tiến công bằng xã hội và chất lượng cuộc sống. Ở kỹ trong
nơi ấm áp, đọc kinh, và để cho người ta làm bất cứ điều gì trong nước thì đó
không phải là đạo đức mà là ích kỷ.
Người ta đã sử dụng câu trả lời của Chúa
Giêsu theo nhiều cách. Tôi nghĩ rằng đây là nguyên tắc phát xuất từ đó cho phép
từ chối sự tách biệt hoàn toàn giữa đức tin và chính trị trong khi tránh được
sự tập hợp các khuynh hướng: không có một nền chính trị nào có thể ràng buộc
Thiên Chúa, nhưng tất cả các nền chính trị đều phải trả lẽ cho Ngài.
12. Hình ai đây?
Mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng
nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí. Có lý trí để hiểu biết và có tâm
tình để yêu mến. Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa phán: "Ta hãy
dựng nên con người như hình ảnh Ta và giống Ta... và Thiên Chúa đã thực hiện dự
định ấy: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa". Cái hình
ảnh ấy con người mang trong mình từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người
có những đức tính giống Thiên Chúa, nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm,
thì con người càng trở nên giống Chúa hơn. Tư tưởng ấy Chúa Kitô đã nhắc lại
cho chúng ta hôm nay trong dịp tranh luận với nhóm Pharisêu.
Chúa là sự thật hiện thân, là chân lý vĩnh
cửu, nên Ngài rất ghét những kẻ giả hình: bề ngoài thơn thớt nói cười mà bề
trong nham hiểm giết người không gươm. Họ định đến gài bẫy để bắt lỗi Chúa thế
mà họ chỉ dùng toàn những lời tâng bốc xu nịnh: "Thưa Thầy, chúng tôi biết
Thầy là người chân thật... chẳng vị nể ai...". Chúa không thể chịu được
cái giọng dối trá ấy, vì đối với Ngài thì "có phải nói là có, không thì
nói là không, còn những cái quá trớn đều là xấu xa". Vì không thể chịu
được nên Chúa đã phải gọi họ là bọn giả hình, và Ngài đã cho họ biết những mánh
lới quỷ quyệt của họ không làm gì nổi Ngài. Chúa bảo họ cho Ngài xem một đồng
tiền vẫn đóng thuế. Thời ấy ở Palestine, dân chúng tiêu dùng hai thứ tiền: khi
đóng thuế vào đền thờ thì bắt buộc phải dùng tiền Do Thái, bởi vì theo luật Do
Thái, không một hình ảnh sinh vật nào được đưa vào khu vực đền thờ, mà tiền
ngoại quốc lại thường có hình người hay vật, còn tiền Do Thái chỉ có số và niên
hiệu mà không có hình ảnh gì. Trái lại, khi nộp thuế cho chính phủ bảo hộ thì
phải dùng tiền Rôma, tiền của Xêda. Ai đổi lấy tiền ấy, tức là bằng lòng đóng
thuế. Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết thứ tiền ấy, mà Ngài
chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu hại Chúa. Nghĩa là Chúa
làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ muốn hay ít nữa bằng lòng
đóng thuế cho Xêda rồi. Chúa sẽ không trả lời câu họ hỏi có nên hay không nên
nộp thuế mà Ngài chỉ nói: "Của Xêda thì trả về Xêda", nghĩa là các
ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng đóng thuế cho Xêda rồi, còn
hỏi làm gì nữa? Hãy đưa cái của nợ ấy mà hoàn lại cho Xêda, thế là xong. Câu
trả lời của Chúa còn bao hàm một ý nghĩa về quyền lợi của chính phủ hay chính
quyền hợp pháp, "Quyền hành hợp pháp là do Thiên Chúa".
Thánh Phaolô đã viết như thế cho giáo đoàn
Rôma và Ngài còn thêm: "Những gì ta nợ ai thì phải trả cho người ấy",
mắc sưu thì trả sưu, mắc thuế thì trả thuế, mắc tôn trọng thì trả tôn trọng,
mắc yêu mến thì trả yêu mến. Những cái đó cũng là những món nợ: nợ vật chất và
tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có
quyền đòi hỏi ở chúng ta. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người
mà thôi, mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Để làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng, Chúa
Giêsu đã không ngần ngại thêm: "Và hãy trả về Thiên Chúa những gì của
Thiên Chúa". Chúng ta nợ Chúa những gì? Chúng ta nợ tất cả. Thánh Phaolô
viết cho giáo đoàn Côrintô: "Ngươi có cái chi mà ngươi đã không nhận được?
Nếu ngươi đã nhận được ở chỗ khác thì sao lại hãnh diện như là không".
Ngoài những đức tính, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người: linh
hồn, lý trí, ý chí, những cái chúng ta nhận được khi thụ thai, những cái làm
cho chúng ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn
chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh, nhiều vốn khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào
trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh Con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh
thật tốt, không thể tẩy xoá đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng
ta có nhiệm vụ bảo tồn hình ảnh ấy được nguyên vẹn, mà chúng ta còn có bổn phận
tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, tươi đẹp. Hình ảnh ấy không thể chỉ là bức
hoạt hoạ hay hí hoạ. Bức hoạt hoạ chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi. Bức hình
ấy phải là bức ảnh truyền thần tô mầu, đúng chân dung Chúa Kitô: Chúa là Đấng
đáng yêu mến, quý trọng... thì hình ảnh của Ngài cũng phải gợi lên được những tâm
tình ấy, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng
ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng yêu mến quý trọng của Ngài,
nếu không, chúng ta chỉ là bức hí hoạ của Chúa. Những người mới tập vẽ hay
những hoạ sĩ kém khi vẽ một bức chân dung xong, cho dù cố gắng mấy vẫn còn phải
đề tên người được vẽ ở dưới, không thì người xem bức hình ấy sẽ không biết là
ai. "Hình này là hình ai đây?". Câu ấy có thể là một câu mà Chúa muốn
đặt ra cho chúng ta chăng? Có biết bao tín hữu đều là những bức hình cần phải
đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm áo hay một huy
hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được họ là tín hữu. Trên
cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải đeo một tấm bảng nhỏ ghi: "Đây là một tín
hữu", bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con người họ, trong tư
tưởng, trong lời nói, trong hành động của họ một nét nào là nét Chúa nữa.
Hôm nay, Chúa đòi và mong muốn chúng ta sẽ
mang lại cho Chúa hình ảnh mà Chúa đã trao cho chúng ta khi chúng ta được thụ
thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội, và không những chỉ một hình ảnh y
nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi Chúa, mà còn phải là một hình ảnh đẹp gấp
bội nữa, bởi vì nén vàng nén bạc trao cho chúng ta cần phải sinh lời ra nữa,
bức hình trao cho chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa. "Hình ai đây?".
Hằng ngày chúng ta hãy tự cảnh tỉnh mình như thế: tôi làm việc này, tôi nghĩ
ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa không? Hành động này, tư tưởng
ấy, lời nói kia là hình ảnh ai đó? Chúa hay Xêda? Hãy trả ngay cho Xêda những
gì là của Xêda. Và nhất là hãy giữ lại để trao về cho Chúa những gì là của
Chúa.
13. César
Người Do Thái lúc bấy giờ đang sống dưới
ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải nộp những thứ thuế khá nặng cho
hoàng đế César. Đứng trước vấn đề này, họ có ba thái độ khác nhau.
Thái độ thứ nhất của những người thuộc
phái Sađốc và đảng Hêrôđê, họ chấp nhận việc nộp thuế, nhằm bảo đảm cho chỗ
đứng của họ và sự bao bọc của chính quyền Rôma.
Thái độ thứ hai là của bọn Biệt phái, miễn
cưỡng chấp nhận nộp thuế. Họ coi ách đô hộ của người La mã là một thứ hình phạt
của Thiên Chúa, vì thế cần phải tu thân tích đức để được tha thứ.
Cuối cùng là thái độ của những người ái
quốc, họ không chấp nhận sự hiện diện của ngoại bang trên quê hương đất nước.
Họ chủ trương dùng võ lực để đánh đuổi thực dân và coi việc nộp thuế là điều ô
nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa, vì không chấp nhận để Thiên Chúa thống trị trên
Israel là dân riêng của Ngài.
Còn thái độ của Chúa Giêsu là như thế nào?
Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình của bọn Biệt phái: Họ giả bộ khen ngợi Ngài
bằng những lời đẹp đẽ nhất:
- Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người
chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy chẳng vị nể ai và không đánh
giá theo bề ngoài.
Thế nhưng bên trong những lời đẹp đẽ ấy
lại là một ý đồ đen tối, muốn gài bẫy để hại Ngài. Bởi vì nếu Ngài trả lời phải
nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng phản đối. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp
thuế thì họ sẽ tố giác Ngài với chính quyền Rôma.
Vì thế, Ngài bảo họ cho xem đồng tiền nộp
thuế. Đây là một đồng tiền bằng bạc, được lưu hành trong toàn đế quốc La mã từ
năm 268 trước công nguyên, mãi đến năm 200 sau công nguyên vẫn còn được xử
dụng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của hoàng đế Tibêriô Xêda. Chúa Giêsu
cầm đồng tiền và hỏi:
- Hình và dòng chữ này là của ai?
Và khi biết là của Xêda, Ngài bèn nói:
- Của Xêda hãy trả cho Xêda, còn của Thiên
Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Câu nói đó có ý nghĩa: Đồng tiền mang hình
Xêda nên chúng ta phải trả cho Xêda, còn con người chúng ta mang hình ảnh Thiên
Chúa, nên chúng ta phải trả toàn bộ bản thân chúng ta cho Thiên Chúa. Ngài
không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xêda để bày tỏ sự phục tùng,
nhưng nếu chúng ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ thì cũng đừng quên rằng mình
thuộc về Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài mới có quyền tối thượng, mới là Đấng
chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự.
Tóm lại, tiền bạc của con người có thể
thuộc về hoàng đế, còn chính bản thân chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa. Vì
Ngài có quyền tối thượng trên mọi người và mọi quyền bính trần gian.
Những gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên
Chúa. Đó là lời nhắn nhủ thật bất ngờ khiến chúng ta phải kiểm điểm lại cuộc
sống, bởi vì chúng ta có bổn phận phải tôn trọng những đòi hỏi của Ngài. Thế
nhưng khi bon chen trong lãnh vực trần thế, chúng ta đã thực sự chu toàn những
bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa hay chưa?
14. Trả về
Một thương gia tuổi đã trung niên, vừa đáp
máy bay xuống phi trường sau một chuyến đi làm ăn xa trở về. Bà vợ ra phi trường
đón chồng ngay tại cửa máy bay. Vừa bước ra khỏi cửa, người chồng gặp cô chiêu
đãi viên hàng không trẻ đẹp và hấp dẫn đi ngang qua. Với vẻ mặt rạng rỡ, ông
thương gia nói với cô chiêu đãi viên hàng không rằng: "Tôi hy vọng chúng
mình sẽ bay chung với nhau nữa, cô Saunders". "Làm sao anh biết tên
cô ấy?" Bà vợ liền hỏi chồng. Ông chồng trả lời ngon lành, "Em nhìn
thấy không, tên của cô ấy được ghi trên bảng ngay phía trước máy bay, dưới tên
của người phi công chính và phi công phụ". Căn cứ vào lời chồng nói, bà vợ
hỏi tiếp, "Thế hả, vậy anh nói cho em biết tên của người phi công chính và
phi công phụ đi?" Ông thương gia đỏ mặt lúng túng. Sự gian dối, giả hình
đã bị lộ tẩy.
Phúc âm hôm nay, cho chúng ta thêm một ví
dụ nữa về lòng dạ gian dối của những người Pharisêu khi họ cố tình gài bẫy Chúa
Giêsu. Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của họ bằng những lời lẽ thật
nặng nề: "Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình!"
"Khốn cho các ngươi, hỡi những người Pharisêu!"
Trong chương trình "Late Show"
kể chuyện hài hước trên tivi, Jay Leno nói về bài diễn văn nhận chức tổng thống
của tổng thống George Washington kéo dài chỉ có một phút rưỡi mà thôi. Leno đã
nói: "Tôi đoán rằng sẽ chẳng có chuyện gì nhiều để nói nếu bạn là một nhà
chính trị mà lại không nói dối!"
Những người Pharisêu là những chức sắc
trong tôn giáo, mặt trong họ chống lại chính quyền Lamã đang cai trị dân Do
Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị. Họ
đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính
quyền Lamã thu thuế ở Palestine, hỏi Chúa Giêsu rằng: "Có được phép nộp
thuế cho Cêsarê không?". Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Lamã
bắt vì tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và
quần chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi,
theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Chúa không trả lời "không"
hay "có", nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: "Trả về
Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa".
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta
không nên giải thích rằng Thiên Chúa và Cêsarê nằm trên hai đường thẳng song
song, không nên nghĩ rằng Thiên Chúa và xã hội trần gian sẽ không bao giờ gặp
gỡ nhau. Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con
người.
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một
ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý
mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ
niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái
nhất nước đến và hỏi: "Tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ
không thể tìm thấy Ngài?" Nhà thông thái thứ nhất trả lời: "Hãy dấu
Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm
ra Ngài". Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: "Như thế không được!
Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành
tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy
đại dương". Người thứ ba phản đối: "Như thế cũng không được! Một ngày
nào dân này sẽ biết cách lặn xuống đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt
hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người; không ai có thể
tìm thấy Ngài cả!"
Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt
của con người, và con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết và
yêu mến Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo đã dạy ở số 1. bắt đầu sách giáo
lý rằng: "Trong một dự tính hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa vô cùng
toàn hảo và hạnh phúc nơi bản thân mình, đã tự ý sáng tạo nên con người để cho
con người được thông phần vào sự sống diễm phúc của Ngài. Bởi vậy, ở mọi nơi và
mọi thời, Ngài muốn ở gần con người. Ngài kêu gọi con người, giúp con người tìm
kiếm Ngài, nhận biết và yêu mến Ngài hết sức mình".
15. Trả về
Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của
Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề
của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã
không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng
của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết
của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận
phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý
kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung
là: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh
hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn
điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân
cận như chính mình",
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng,
Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn
cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không
thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa
mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu,
thánh Gioan đã viết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà
lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh
em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy...
ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình".
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo
hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng
phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này
của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn
bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung
thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính
sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu
toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói:
"Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ
của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật
tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy
của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều
nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục
vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. "Trả về Cêsarê cái gì
của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa". "Phải vâng
phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta".
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng
muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên
ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký,
vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành
quyết và trở thành một vị thánh.
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại
đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của
Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức.
Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những
lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, "Chúng ta
không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung
thành". Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả
mọi sự.
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống
gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô
Washington D.C... Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ
trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của
chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng
mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc
hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ:
"Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi
quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!"
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm
một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi
đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn
tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu
chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha
của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu
tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè,
cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng
thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy
nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã
sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý
thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức
của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những
mái gia đình đang tự do: "trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên
Chúa cái gì của Thiên Chúa".
16. Viễn vọng kính
Vua nước Đức Frederic tự cho mình là học
rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp mới, khả dĩ làm cho
nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng tính đi tính lại: Cứ
mỗi năm chim sẻ ăn hết hai triệu thùng thóc trên toàn lãnh thổ. Vì thế, ông
truyền phát động chiến dịch bài trừ sẻ. Giết được một con chim là được một phần
thưởng.
Toàn dân hưởng ứng nhiệt liệt vì thấy công
việc dễ dàng và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết, một số khác bay
về một phương trời xa. Cuối cùng, chẳng còn thấy một mống nào trên toàn lãnh
thổ. Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ thành công rực
rỡ.
Nhưng có ngờ đâu, vừa khi ngày mùa tươi
tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đâu từng bầy sâu bọ đua nhau kéo đến,
từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh thổ, không cách nào
diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng lòng buồn ủ rũ,
chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ.
Các qui luật của thiên nhiên, các định
luật trong vũ trụ, đều được Thiên Chúa an bài, sắp xếp, để nên tốt đẹp và hữu
ích cho con người. Một khi con người đã phá vỡ những qui luật ấy thì tai họa sẽ
ập tới chỉ còn là vấn đề thời gian.
Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, đã không
chỉ thoát khỏi cạm bẫy của nhóm Pharisêu: "Có được phép nộp thuế cho Xêda
hay không?". Người còn bất ngờ đưa ra một câu nói thời gian khiến bọn họ
phải câm miệng: "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên
Chúa". Qua câu này, Đức Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xêda. Nhưng có
quyền gì của Xêda, mà lại chẳng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giêsu đáp lại
Philatô: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho
ngài".
Nếu phải trả lại cho Xêda đồng bạc mang
hình danh hiệu của Xêda, thì có loài thụ nào mà không mang hình hài và tên gọi
của Thiên Chúa. Nhà bác học Newton đã nói: "Tôi nhìn thấy Thiên Chúa trên
đầu viễn vọng kính của tôi".
Người ta phá vỡ hình ảnh bao la hùng vĩ
của Thiên Chúa, khi người ta chặt cây, đốt rừng cho lụt lội tràn lan; rồi thải
khí carbonic lên bầu trời, cho lủng tầng Ozone.
Người ta phá vỡ hình ảnh xinh đẹp của
Thiên Chúa, khi người ta ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tình luyến ái.
Người ta phá vỡ hình ảnh chân thật của
Thiên Chúa, khi người ta đọc kinh, đi lễ; nhưng sống ích kỷ, lường gạt và gian
lận.
Sách Sáng Thế viết: "Thiên Chúa sáng
tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa". Vì thế, con người là tác phẩm
tuyệt vời mà Thiên Chúa nhìn thấy rất rõ hình ảnh của Người trong đó. "Của
Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa". Hãy trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh con
người đã được Người dựng nên rất thanh khiết thuở ban đầu. Hãy trả lại cho
Thiên Chúa vũ trụ, tài nguyên và muôn sinh vật, hình ảnh trong lành mà Người đã
dựng nên. Hãy trả lại cho Thiên Chúa thế giới do Người tạo nên, hình ảnh của an
bình và yêu thương.
Chính Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước
bằng một tình yêu vô biên. Vì thế hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận tình yêu
Chúa. Huyền diệu của tình yêu là khi nào người kia lãnh nhận, tình yêu ấy mới
thực sự thành tình yêu. Tình yêu cho đi, không người nhận, sẽ trở về với người
đã trao ban.
17. Nộp thuế cho Xê-da - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong cuộc đời, bạn có gặp trường hợp
xung đột giữa hai «bản tịch» như Đức Giêsu, nghĩa là trung thành với tôn giáo
thì bị kết án là phản bội đất nước, và ngược lại, trung thành với đất nước thì
bị kết án là phản bội tôn giáo không? Trong trường hợp đó, bạn cần phải hành xử
thế nào?
2. Bạn có phân biệt rõ rệt như Đức Giêsu:
cái gì của Xê-da, cái gì của Thiên Chúa không? Nghĩa là phân biệt thánh ý Thiên
Chúa và ý muốn của các thế lực đạo đời đang chi phối mình không? Phải coi ý
muốn của ai quan trọng hơn?
CHIA SẺ
1. Tình trạng hai «bản tịch» của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự xung đột
giữa hai «bản tịch» của Đức Giêsu cũng như của mọi Kitô hữu có quê hương dân
tộc, nghĩa là vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức «giáo tịch», vừa là người dân
của một đất nước, tức «quốc tịch». Ngài cũng như chúng ta, vừa phải yêu mến
Thiên Chúa và có những bổn phận tôn giáo (như thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ
Giáo Hội, hành xử theo lương tâm...), vừa phải yêu quê hương đồng bào và có
nghĩa vụ đối với đất nước của mình (như tôn trọng pháp luật, đóng thuế, quân dịch...).
Hai thứ trách nhiệm này thường phù hợp với nhau, nhưng cũng có rất nhiều trường
hợp chúng xung đột nhau: trung thành với tôn giáo thì có vẻ như phản bội đất
nước, và ngược lại.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người
Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê hợp nhau đặt bẫy Đức Giêsu. Người Pha-ri-siêu
là phe chủ trương trung thành với Do Thái giáo và đất nước Do Thái, vì thế, họ
âm thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn phe đảng Hê-rốt là
người của Hê-rô-đê An-ti-pa - tiểu vương miền Ga-li-lê - chủ trương ủng hộ
chính sách đô hộ của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống đối nhau kịch
liệt: người Pha-ri-siêu coi phe Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản quốc; còn
phe Hê-rô-đê là tay sai của đế quốc, tìm cách giết chết từ trong trứng nước
những mầm mống chống lại đế quốc trong dân Do Thái.
Điều rất lạ là trong bài Tin Mừng này hai
phe chống đối nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại Đức Giêsu, bằng cách đặt
Ngài vào một trường hợp thật khó xử là sự xung đột giữa hai «bản tịch» ấy. Họ
chất vấn Ngài: «Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?» Trả lời thế nào
Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói «được phép», Ngài sẽ bị người Pha-ri-siêu lên
án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng thời chống lại Thiên Chúa
mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo «không được» thì
người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền Rô-ma vì tội tuyên truyền
phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng Đức Giêsu đã trả lời họ một
cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài được, đồng thời cho
chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai «bản tịch» trên. Đó là «của
Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa».
2. Thần quyền hợp với thế quyền bách hại
Đức Giêsu
Người mang hai «bản tịch» như thế bị chi
phối rất nhiều bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo và thế quyền bên đất
nước, xã hội. Lý tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan tâm đến những thiện
ích chung của mọi người để cùng cộng tác với nhau, mưu lợi ích và hạnh phúc cho
toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho mọi người dân, mọi tín đồ. Nhưng tại
nhiều quốc gia, thần quyền và thế quyền chống đối nhau, nhất là khi hai bên có
những quan điểm căn bản ngược lại nhau. Chẳng hạn khi thế quyền chủ trương vô
tôn giáo, hoặc nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn giáo đó là quốc
giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào thế bị bạc đãi. Lúc đó, những
người dân hai «bản tịch» bị ngược đãi ấy bị buộc phải chọn một bên và bỏ một
bên một cách thật đau lòng. Đau lòng là vì họ chẳng muốn bỏ một bên nào, bên
nào cũng hết sức thân thiết với họ. Họ lâm vào thế kẹt: hễ trung thành với tôn
giáo thì bị nhà nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì bị tôn giáo kết
án.
Nhưng cũng có những trường hợp thần quyền
và thế quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột người dân vốn thấp cổ bé miệng, như
trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần quyền có thể trở thành công cụ của
thế quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng thế của nhau để áp bức người dân, để
cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp với nhau, bênh vực hay tương nhượng lẫn
nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành động sai trái, bất chấp
quyền lợi chung của đất nước, tôn giáo, hay người dân.
Thần quyền cũng như thế quyền đều được lập
nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và của các tín đồ. Thần quyền
còn nhằm phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các quốc gia và các tôn giáo, cũng
như cuộc đời của Đức Giêsu cho thấy: không phải lúc nào thần quyền và thế quyền
cũng đi đúng mục đích của mình. Nhiều trường hợp họ theo đuổi những mục đích cá
nhân hay tập thể nhỏ của họ. Thiết tưởng các Kitô hữu chân chính, tức những môn
đệ đích thực của Đức Giêsu, cho dù hoạt động trong thần quyền hay thế quyền,
cũng luôn luôn đặt quyền lợi của Thiên Chúa, của đất nước, của tôn giáo và của
dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh bản thân, quyền lợi cá nhân cũng
như tập thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả ấy. Nếu không thì càng giữ chức vụ
cao, họ càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự ác, và đương nhiên chức vụ
cao ấy sẽ là nhân duyên tạo nên sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho họ.
3. Áp dụng nguyên tắc của Đức Giêsu
Là tín đồ của một tôn giáo trong một đất
nước, chúng ta có hai «bản tịch» với hai loại nghĩa vụ: một là đối với Thiên
Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người; hai là đối với quốc
gia, xã hội. Người Kitô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn chừng nào có thể hai
loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo và đời cùng đồng quan
điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó, cả hai thế lực đều là
những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh lệnh của những thế lực
ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa ra nguyên tắc: «Hãy tôn
trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng
nhà vua» (1Pr 2,16). Đối với nhà nước phục vụ ích lợi chung như thế, thánh
Phao-lô nói: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào
mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết
lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra,
và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt» (Rm 13,1-2). Đó chính là áp dụng lời
của Đức Giêsu: «Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa»,
nghĩa là nghĩa vụ thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa vụ ở bên nấy.
Tuy nhiên, lý tưởng trên nhiều khi không
xảy ra, lúc đó người dân hai «bản tịch» sẽ gặp nhiều khó khăn. Là người Kitô
hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con người lên trên
hết. Và kế đó là phải phân biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của hai
thế lực đạo, đời ấy. Chủ trương và động lực của hai thế lực này không phải luôn
luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và lương tâm con người. Hai thế lực ấy
vốn là bề trên, là bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân phục. Đức vâng phục
Kitô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao lâu chúng ta
biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng nào chúng ta
thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, thì dù
bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải tuân phục. Vì «phải
vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Nếu ta biết ý của bề
trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt vâng lời là ta đã phạm tội
đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì hùa theo giới lãnh đạo tôn
giáo giết Đức Giêsu và các ngôn sứ, mà hậu quả là nước Do Thái đã bị xóa tên
trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.
Điều quan trọng là chúng ta phải thực hành
thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện qua lương tâm ngay thẳng và được giáo dục
của mình, bất chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay thương mại hay gì gì
khác nữa. Chúng ta không chủ trương làm chính trị hay thương mại, mà chỉ chủ
trương làm theo thánh Thiên Chúa hay lương tâm. Không thể vì một bổn phận nào
đó mang ý nghĩa chính trị hay thương mại mà chúng ta có quyền miễn làm theo
thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm. Trước những xung đột như
thế, hãy tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên Chúa hay theo ý muốn của con người?
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế
gian đầy phức tạp, việc sống theo ý muốn của Cha không phải là đơn giản, vì rất
nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, chúng con
phải biết nguyên tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao nhất mà Kinh Thánh mặc
khải cho, chính là: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv
5,29), hay «Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được
vào Nước Trời mà thôi» (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ nguyên tắc ấy qua
lương tri và lương tâm của con. Amen.
18. Nên giống Chúa
Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông
Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời gian đất nước
loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị
yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm chọn người kế vị
lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa bé còn nằm trong
nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con
người yêu chuộng hoà bình?
Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn
đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong nôi như hai thên
thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt
tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi lại rằng đó là
vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
Đây là hình ảnh kỳ diệu của Chúa Giêsu dịu
hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài xuống thế, lúc ở
trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây thập giá, Ngài đưa tay ra trong dáng điệu
đón nhận.
Mỗi người trong chúng ta đã được Chúa dựng
nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và có tâm tình để
yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được thụ thai trong
lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng hơn, có những
khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển
thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận ra giống
hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên đời sống
em.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt câu
hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây? Câu ấy có thể là câu một Chúa muốn đặt ra
cho chúng ta chăng? Ngoài những đức tinh, những khả năng tự nhiên của bản tính
loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những cái ta nhận được khi
thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào
trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào
trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh
thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng
ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi đẹp... nghĩa
là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh
của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu không,
chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn bảo
nhóm biệt phái Do thái: "Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa thì hãy
trả cho Thiên Chúa". Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và
thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: "Những gì ta nợ ai, thì
phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho
kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính" (Roma
13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh
toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta.
Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ
loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha
nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Những gì
làm cho họ "là" làm cho chính Ngài". (Mt 25,40)
Mong rằng: chúng ta sẽ mang lại cho Chúa
hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu
phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận
được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp bội nữa, bởi vì
chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
19. Xin Thầy cho biết ý kiến
Bài Phúc âm hôm nay có một câu đặc biệt
thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa
hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa
Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và
những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái
ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha
ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và
trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền
Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ
nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là
người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không
chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ
thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu
thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu
liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại
ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống
trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn
mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay
không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt
Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn
nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố
cáo Chúa với dân chúng làChúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị
lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của
họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả
lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa
Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu
còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa
hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm
nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong
vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên
Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng
ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà
lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những
gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả
những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con
người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy
mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này
chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà
thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ
tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì
thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình,
thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con
người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau
như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho
Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên
Chúa".
Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô
hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống
của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi
biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều
do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng lời cảm lạ và
tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều là do Chúa ban
cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau
tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
20. Nộp thuế cho Xêda – Lm PX. Vũ
Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tiếp sau phân đoạn 21,23–22,14 về các dụ
ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức Giêsu đánh bại các đối thù
trong các cuộc tranh luận tại Đền Thờ. Có thể gọi đây là các "truyện về
tranh luận". Nét tiêu biểu của các truyện này là người tường thuật không
quan tâm đến lập trường của các đối thủ của Đức Giêsu. Ông thường cho thấy:
hoặc các đối thủ giăng một cái bẫy bằng câu hỏi hiểm độc (cc. 15-22), hoặc câu
hỏi của họ tạo ra cơ hội cho một câu trả lời (cc. 34-40). Nếu có nói đến lập
trường của họ, thì chỉ nói rất ngắn gọn (cc. 23.42), vì cần phải nói ra cho
cuộc tranh luận. Các đối thủ của Đức Giêsu được mô tả giống như các diễn viên
ranh ma nhưng thừa thãi.
Hình thái của bốn truyện cũng có đặc tính
của cuộc tranh luận tại lớp học, trong đó các học trò đặt câu hỏi cho thầy
(22,16.24.36). Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do Thái, các tranh
luận nhà trường được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và được đặt tên
như sau:
1- [K]hokmâh ("sự khôn ngoan"):
đây là một tranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những bản văn pháp
luật;
2- Haggadâh ("truyện ký"): đây
là một lối giải thích các băn văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn với nhau;
3- Bôrut ("sự tầm thường"): đây
là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành một trò hề;
4- Derek 'erets ("đường đất"):
đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của đời sống luân lý.
Chúng ta có thể cho rằng tác giả Mt đã
trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo lược đồ này,
nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào cuối cuộc đối
chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu hỏi cuối cùng
của Đức Giêsu (x. c. 42):
1- [K]hokmâh:22,15-22,
2- Bôrut: 22,23-33;
3- Derek 'erets: 22,34-40,
4- Haggadâh: 22,41-46.
Ba tranh luận đầu được gợi lên bởi ba nhóm
đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính
những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan
trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và
Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái
Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái tuân thủ luật
Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị
Rabbi: "Thưa Thầy" (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho
thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần Đức Giêsu lại
đưa họ đến một câu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ động đặt rõ
ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ trong Đền thờ,
và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu
(22,15);
2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho
Xêda (22,16-17);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,18-21):
a) lật mặt nạ bằng nhận định mở đầu (c.
18),
b) lật mặt nạ bằng cách dùng đồng tiền nộp
thuế (cc. 19-21a),
c) giáo huấn quan trọng nhất của Đức Kitô:
tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).
Bài đọc phụng vụ bỏ câu kết của cuộc tranh
luận (c. 22).
3.- Vài điểm chú giải
- người Pharisêu ... người thuộc phe
Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan nhượng về
tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước chính quyền
Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc nâng đỡ các
tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.
- người chân thật ... chẳng vị nể ai (16):
Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng: trung thành với Lề
Luật và không cả nể, thiên vị.
- được phép ... hay không (17): "Được
phép" (exestin) [và "không được phép"] là công thức tiêu biểu
của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi "được phép
không?" thường được người tín hữu Do Thái đặt ra cho mình và cho các kinh
sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa, tức dưới ánh
sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi không được đặt
ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.
- nộp thuế (17): Ngoài nhiều khoản thu
được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường, thuế quan...), các
tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để bày tỏ sự thuần
phục. Người Do Thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá Khích thì buộc
phải coi việc từ chối nộp như một bổn phận tôn giáo.
- đồng tiền nộp thuế (19): Người Do Thái
chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền
của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng
quan (dênarion). Chẳng hạn, đồng quan của hoàng đế Tibêriô có một bên là hình
cái đầu hoàng đế, bên kia là hình bà Livia, mẹ của hoàng đế, được coi như nữ
thần hòa bình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu
(15)
Câu 15 mở đầu cho toàn phân đoạn (cc.
15-46). Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền Thờ, các thượng
tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục trong dân
(21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến lượt
những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này những
người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người
Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để
chống một kẻ thù "chung".
Hôm nay nhóm Pharisêu nhắm rút được một
tuyên bố (logos) của Đức Giêsu, để lời ấy trở thành một cái bẫy hại Người.
* Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda
(16-17)
Ở đây những người Pharisêu sai các môn đệ
của họ (thật ra người Pharisêu không có môn đệ, mà là các kinh sư) cùng đi với
những người thuộc phe Hêrôđê mà gài bẫy Đức Giêsu. Ở Mc 12,14-15, câu hỏi của
họ vừa có tính lý thuyết ("có được phép nộp thuế?") vừa thực tiễn
("chúng tôi có phải nộp thuế?"); ngược lại trong Mt, câu hỏi chỉ có
tính lý thuyết (như ở Lc 20,20-26). Thật ra câu hỏi của họ hết sức nham hiểm.
Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi ngờ, là một lời khen hết sức
giả hình (c. 16: captatio benevolentiae): họ chào Người là "Thầy"
(Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí công vô tư của Người. Thật
ra, Đức Giêsu đúng là như thế, nhưng nơi môi miệng của những sứ giả do người
Pharisêu thù nghịch gửi đi, các lời của họ rỗng tuếch và không lương thiện. Từ
đó, họ xin Người ban giáo huấn về một vấn đề phức tạp; họ "nhả chất độc
ra" (c. 17): một câu hỏi dứt khoát và đột ngột: "có được phép nộp
thuế cho Xêda hay không?". Nếu trả lời "có", Đức Giêsu sẽ khiến
dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế quốc; và người
Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người trước mặt dân
chúng. Còn nếu trả lời "không", Người sẽ bị coi là chống chính quyền
Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo Người là người muốn
phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học, bởi vì các nhóm Do
Thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như một kiểu thờ ngẫu tượng,
mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh hoàng đế hoặc các biểu
hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền Thờ để khỏi làm giảm thiểu vương
quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn Philatô) đã tìm cách
làm như thế để hạ nhục người Do Thái, các vị này đã gặp phải phản ứng chống đối
gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt Thành) dứt khoát không
nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không đặt vấn đề về lý thuyết
hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái độ trung dung; họ đã chấp
nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu rất
nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: "có được nộp thuế hay
không?". Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (18-21)
Trước tiên, Đức Giêsu lật mặt nạ của họ
bằng nhận định mở đầu: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ đạo
đức giả" (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù khờ. Họ đã mở
đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết tìm kiếm chân
lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan, để hại Người.
Họ đáng bị gọi là "những kẻ đạo đức giả" theo hai nghĩa: trước tiên,
bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến một vấn đề thời sự; kế đó, bởi vì khi sử dụng
đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận quyền của Hoàng đế
từ lâu rồi.
Kế đó, dù câu hỏi được đặt ở bình diện lý
thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời ("Cho tôi
xem đồng tiền nộp thuế", c. 19). Nếu họ cũng như mọi người Do Thái có
trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất kính, ngẫu
tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có một giải pháp cho vấn đề. Tại sao khi dùng
đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy náy bao nhiêu,
mà bây giờ "trả về Xêda" (nộp thuế) thì họ lại áy náy đến thế? Nếu có
vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp thuế. Trong lãnh
vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.
Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá câu hỏi được
đặt ra: chỉ có một điều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể làm ngay khi
phải sống dưới ách đô hộ, đó là "trả về Thiên Chúa", điều thuộc về
Người (c. 21b). Đây là điều Đức Giêsu đã không ngừng nói đến kể từ khi ra đi
hoạt động: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33. Xem Bài
giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai trật tự
khác nhau là Quốc gia và Hội Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau, cũng không
biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng
chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so với các
vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế, chứ
không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh né,
vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào đúng
chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa. Các
quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa thì đã
được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi của
Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.
+ Kết luận
Thật ra, Đức Giêsu không muốn thiết lập
hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể;
Người cũng không dạy về thái độ tùng phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn
đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể có những
xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn nói rằng
xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người nào thật
sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự công chính
của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những giới hạn
của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại lời
người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan tính giả hình,
để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người không uốn cong
các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về thời cơ hoặc
nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga 14,6). Đức Giêsu
dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay sự khôn ngoan
loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là "ánh sáng cho
thế gian" dẫn đưa chúng ta (Ga 8,12), để chúng ta khỏi đi trong bóng tối.
Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1 Tm 2,3-6), nên không
bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh xã hội của con người
(x. Ga 3,28).
2. Thiên Chúa vẫn dành chỗ cho Hoàng đế.
Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn các quy định của
Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản thân thì thuộc
về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của mình. Thiên Chúa đòi
hỏi một điều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho Xêda, Người đòi hỏi
một điều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân con người, cách tuyệt
đối và trọn vẹn ("Yêu mến Thiên Chúa hết lòng...").
3. Quyền dân sự nằm trong bình diện trần thế,
là bình diện phải lê thuộc các thực tại của bình diện tôn giáo. Ở trong bình
diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho chính quyền Rôma
chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết: "Anh em nợ
ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế
cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính" (Rm 13,7).
Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn các bổn phận tôn giáo
để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong quốc gia. Chúng ta là
công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy tại một quê hương
trần thế.
21. Của Thiên Chúa trả cho Thiên
Chúa
Của Caesar trả cho Caesar,
Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa
** Bối Cảnh Đoạn Tin Mừng:
Đế quốc Rôma thống trị xứ Palestin từ năm
63 trước Chúa giáng sinh và đã đặt nền cai trị rất vững chắc tại đất nước này.
Họ cũng đặt vua Hêrôđê là người Do Thái để đại diện Rôma cai trị dân. Nhưng dân
Do Thái lại chia ra nhiều phe: Phe Hêrôđê và những người thuộc nhóm Sađucêô thì
ủng hộ việc đóng thuế cho Rôma để củng-cố địa vị và tài sản. Phe Pharisêô thì
bất đắc dĩ phải nộp thuế, nhưng trong lòng không muốn tuân phục. Còn phe thứ
ba, thuộc nhóm những người yêu nước quá khích thì hoàn toàn tẩy chay việc đóng
thuế cho đế quốc Rôma mà họ coi là dân ngoại, không có quyền chi trên dân của
Chúa!
Dân Do Thái lại gồm 3 loại người:
- Công Dân Rôma là những người có quốc
tịch Rôma (như Thánh Phaolô...)
- Người tự do là những người dân thường.
Chúa Giêsu thuộc nhóm người tự do.
- Người nô-lệ.
Theo luật Rôma, tất cả mọi người cả nam
cũng như nữ từ 14 tới 65 tuổi, hàng năm phải đóng thuế cho Rôma 1 đồng bạc
DENARIUS. Đồng bạc. Đồng DENARIUS được đúc bằng bạc, nặng 3,8g. Đồng DENARIUS
đã được đế quốc Rôma dùng từ năm 268 trước Chúa Giáng Sinh và mãi tới năm 200
sau Công Nguyên vẫn còn tiếp tục dùng trong đế quốc Rôma. Đồng bạc được khắc
hình các hoàng đế Rôma, thời Chúa Giêsu, thì hình và hiệu trên đồng DENARIUS là
hình và hiệu của hoàng đế Tibêriô, ông cai trị từ năm 31 trước Chúa giáng sinh
và băng hà năm 14 sau Chúa giáng sinh.
Câu hỏi nham hiểm:
Với bối cảnh trên, sau khi 2 nhóm Pharisêô
và Sađucêô đã thất-bại trong việc cấu kết lại với nhau để cật-vấn Chúa Giêsu
nhiều điều, mục đích để hại Chúa, nhưng Chúa đã khiến bọn họ phải "Câm Họng!",
nên lần này, chúng cấu-kết với nhóm Hêrôđê, nhóm III thiên về chính trị, ủng hộ
đế quốc Rôma để gài bẫy hầu có thể kết án tử cho Chúa Giêsu. Chúng đến với Chúa
Giêsu với bề ngoài rất cung kính, muốn tìm hiểu con đường Công Chính để noi
theo. Họ lễ phép thưa: "Thưa Thầy!" –(RABBI là tiếng học trò thưa với
thầy) "Chúng tôi biết Thầy là người Công Chính, không tây vị ai, Xin Thầy
nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có nên nộp thuế cho Caesar hay
không?" (Mt 22:17).
Đây là câu hỏi vô cùng nham hiểm, nhưng
dưới bề ngoài rất chân thành, vô tội, muốn biết sự thật để sống theo Sự Thật,
nhưng với dã tâm của chúng, chúng nghĩ rằng: chắc chắn sẽ đưa Chúa vào gọng
kìm, không thể thoát được! Đây là miếng mồi nhìn thoáng qua rất dễ nuốt, nhưng
bên trong là lưỡi câu sắc bén, đầy nguy hiểm! Bởi vì : Nếu Chúa trả lời :
"NÊN nộp thuế thì những người Do Thái yêu nước sẽ nghĩ rằng Chúa về phe
với Rôma hà hiếp dân và do đó sẽ chẳng ai tôn kính, nghe lời dạy của Chúa nữa!
Còn nếu Chúa trả lời: "KHÔNG NÊN nộp thuế cho Caesar! Thì nhà cầm quyền sẽ
liệt Ngài vào số những người phản loạn và sẽ không tránh được án tử hình!
Đứng trước cạm bẫy vô cùng nguy hiểm mà
những người thù ghét Chúa giăng ra, Chúa Giêsu thấu rõ dã tâm quỷ quyệt của
chúng, nên, trước khi trả lời, Chúa thẳng tay vạch mặt nạ đáng tởm của chúng.
Ngài nghiêm nghị phán: "Hỡi bọn giả hình! Các ngươi gài bẫy Ta làm
chi?" (Mt 22: 18) Thật xấu hổ cho bọn người nham hiểm muốn giăng bẫy hại
Chúa!
Đoạn Chúa bảo: "Hãy đưa cho Ta đồng
tiền!", đoạn Chúa hỏi họ: "Hình và hiệu này là của ai?". Chúng
trả lời: "Của Caesar". Chúa trả lời thẳng thắn, không cần úp mở:
"CỦA CAESAR thì trả cho Caesar,
của THIÊN CHÚA thì trả cho Thiên
Chúa!" (Mt 22:21)
Câu trả lời của Chúa Giêsu trở thành thời
danh và trở thành nguyên-tắc cho Sự Công Bằng cho toàn nhân loại noi theo! Thần
quyền và thế quyền là hai phương diện hoàn toàn khác nhau. Con người trần thế,
vì có xác, có hồn nên cần chu toàn các luật lệ trần thế cũng như về Thiên-Luật.
Tuy nhiên, vì Thiên Chúa là Chủ-Tể Tối Cao, Đấng vượt trên mọi loài trên trời
dưới đất, nên Thiên Luật phải được tuyệt đối chấp hành.
CỦA CAESAR:
Các nhân luật: Chẳng hạn như luật của Liên
Bang, luật tiểu bang, luật giao thông, luật thuế vụ, luật của thành phố... nói
chung: Những luật đem lại công ích cho nhân loại, cho dân tộc, chúng ta phải
chấp hành. Tuy nhiên, những luật trái với Đạo Lý, trái Công Bằng, chẳng hạn:
những luật cho phép phá thai, hôn nhân đồng tính hay an-tử... là những luật
trái với đạo đức thì các công dân không bao giờ được phép làm. Đặc biệt là
những luật chống lại Thiên Chúa thì không bao giờ được tuân theo, vì đó là phản
loạn với Đấng Tạo Hoá, Đấng đã tạo dựng, gìn giữ và bang trợ hết thảy muôn loài
muôn vật!
** Của Caesar: Đó là những gì CỦA NGƯỜI
KHÁC như: Tiền bạc, sản nghiệp, tiếng khen, nghề nghiệp... hoàn toàn thuộc
quyền sở hữu của cá nhân đó, người khác hoàn toàn không có quyền tiêu dùng, làm
hao hụt hay lấy đi trái với ý rõ ràng của chủ của. Phạm quyền sở hữu, bất cứ
bằng cách nào đều là tội Lỗi Đức Công Bằng!
** Của Caesar: Cũng nên để ý về VIỆC ĐÓNG
THUẾ cho chính phủ. Mọi công dân trong nước đều được hưởng những tiện nghi công
cộng như: đường xá, trật tự an ninh, cứu hoả, nhà thương, bưu điện... Tất cả
những chi phí đó đều lấy từ tiền đóng thuế của toàn dân. Trong khi những người
khác đóng thuế mà ta không đóng, thì đó là tội lỗi Đức Công Bằng!... Có người
có gia tài to lớn, có 2, 3 nhà cho thuê, nhưng lại cho người khác đứng tên để
được hưởng TRỢ CẤP NGƯỜI GIÀ... thì đó cũng là tội lỗi Đức Công Bằng!
CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa là Chủ Tể muôn loài, muôn vật,
nhờ Ngài, muôn loài được tạo dựng, bảo trì và nuôi dưỡng. Ngài nắm giữ mọi vận
mạng các quốc gia, dân tộc. Do đó chỉ mình Thiên Chúa mới xứng đáng nhân loại
tôn thờ và yêu mến. Mình Thiên Chúa vì thế có Quyền Tối Thượng, Quyền Tuyệt
Đối, quyền vượt trên mọi quyền trần gian, không ai được hành động trái với
Thánh luật của Chúa.
Riêng con người, chúng ta được Thiên Chúa
vô vàn trân quý và "Sáng tạo giống hình ảnh của Người" (Sáng Thế Ký
1:27). Vì thế, nhân loại mọi nơi, mọi thời đại, tất cả, dù da trắng, da vàng,
da đen, mọi ngôn ngữ chủng tộc đều là CON THƯỢNG ĐẾ, và do đó, chúng ta vô cùng
Hạnh Phúc vì được Thiên Chúa yêu thương, bang trợ và dẫn đưa về tới Bến Bờ
Phước Hạnh Vô Biên trong vương quốc của Chúa là Gia Nghiệp mà Cha Thiên Thượng
đang dành sẵn cho tất cả các con yêu của Ngài.
Đã là con, chúng ta có bổn phận phải hết
lòng hiếu thảo, yêu mến và tuân theo Thánh Chỉ của Cha. Hơn nữa, chúng ta cần
chân nhận rằng: Tất cả những gì chúng ta có, đều bởi Cha chúng ta: Linh hồn, thân
xác, sức khoẻ, tài năng, cơ hội, địa vị, thời giờ... tất cả đều bởi Cha Thiên
Thượng mà có. Và do đó, chúng ta hãy trả lại cho Cha chúng ta để tỏ lòng suy
tôn, tùng phục Thánh Ý của Cha. Sống như thế mới trọn đạo con thảo đối với Cha!
** Chúng ta hãy lắng đọng tâm tư xem chúng
ta có TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA những gì thuộc về Thiên Chúa, hay chúng ta nghĩ
rằng những thứ đó hoàn toàn do chúng ta mà có được!
Sách NHỊ LUẬT dạy "phải dâng Thiên
Chúa ít nhất 10% mọi hoa lợi của chúng ta" (Nhị Luật 14:22-27):
Thời giờ: Chúng ta mỗi ngày đã dùng mấy
phút để tôn vinh, ca ngợi Chúa?
Về sức khoẻ, tài năng... chúng ta có dùng
để làm vinh danh Chúa hay chỉ để lo cho thân xác???
Linh hồn và thân xác... chúng ta có dùng
toàn thể con người từ ý tưởng, lời nói, việc làm để tôn vinh Chúa hay chỉ để
phục vụ cho thân xác của riêng ta??
Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên
Chúa: Chúng ta được phước hạnh và bổn phận phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức,
hết linh hồn, hết trí khôn, thì đó mới hoàn thành bổn phận được Thiên Chúa yêu
thương và tạo thành và sẽ được chung hưởng Phước Lộc Vô Tận mai sau với Ngài!
** CHÚA GIÊSU CÓ CHẤP HÀNH LUẬT TRẦN THẾ
KHÔNG?
Mặc dầu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng
phàm, đáng lẽ Ngài không cần và không buộc phải chấp hành các luật trần thế, bởi
vì Ngài vượt trên tất cả các vua chúa trần gian, nhưng Ngài vẫn nêu gương tuân
phục:
Cha Mẹ của Chúa Giêsu đã tuân lêựnh hoàng
đế để trở về Bethlêhem để khai sổ nhân đinh (Lc 2:4)
Chính Chúa Giêsu đã truyền cho ông Phêrô
đi đánh cá để nộp thuế cho Ngài và cho ông Phêrô (Mt 17:26)
Mặc dầu chính Tổng-trấn Philatô- người kết
án tử cho Chúa Giêsu- đã xác-nhận Ngài hoàn toàn vô tội... Thế nhưng chính Chúa
Giêsu thì hoàn toàn không một lời phản-đối! Ngài chấp nhận chịu chết do bản án
bất-công đó! (Lc 23:22)
** GƯƠNG THÁNH THOMAS MORE
Thánh Thomas More bên nước Anh vị thủ lãnh
các quan trong triều, rất được Vua Henri VIII kính phục và thương mến. Tuy
nhiên, vua muốn xin Toà Thánh để ly-dị bà hoàng-hậu Catherin D'Aragon nhưng Toà
Thánh không thể chấp nhận vì trái với luật Chúa. Vua liền cưới bà vợ khác và
bắt tất cả quần thần phải ký vào văn bản chấp nhận hành động của vua, ai không
tuân thì bị giết chết. Thánh Thômas More nhất định không làm theo mệnh lệnh của
nhà vua nên bị xử tử.
Thánh Thomas More đã yêu mến và tuân theo
luật Chúa hơn lệnh của Đức Vua. Ngài đã chứng tỏ tình yêu trung kiên với Thiên
Chúa xứng đáng triều thiên vinh quang các Thánh Tử Đạo
22. Chú giải của Noel Quesson
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc
với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ
của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu...
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời
đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự "nhất trí về
đạo đức và xã hội" hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày
tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối
diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng,
chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém.
Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La
Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng
âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ
mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những
người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế.
Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết,
có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít
hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy
Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe
Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo "cánh hữu' hay "cánh
tả", Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa
Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của
Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá
người ta."
Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi
xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà
các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức
Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra,
chúng ta biết rằng Đức Gi'êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm
đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La
Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một
trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu
9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức
Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng
con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật... để đi theo chính lộ
của Thiên Chúa... không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa
chúng con đến nơi mà chúng con không muốn... để chúng con luôn luôn được tự do
hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề
ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: "Có
được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?".
Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt:
Nếu Đức Giêsu trả lời "có", Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ
vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược... Nếu Người trả lời
"không", Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy
hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi
thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể
trực tiếp làm chính trị... nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu
sao đi nữa, dầu nói "có" hoặc nói "không", dầu có nói hay
không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời
đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người
nói: "Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền
nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người
không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ
chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ
rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo
thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết
sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế
không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu
này là của ai đây?". Họ đáp: "Của Xê-da".
Những người La Mã giành quyền đúc đồng
tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế
với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ
thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng
nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh
tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về
cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: 'Thế thì của Xê-da,
trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một
câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang
hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như
thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời "Giáo Hội và Nhà
Nước" đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính
trị...hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được
tham gia vào các công việc trần thế...
Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của
Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng
đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận
có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da...
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi
quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu
tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa
xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa "dù không biết Thiên
Chúa" (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu
cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô
3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự
liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi
muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và
Giáo Hội có thể không biết đến chính trị... như thể tôn giáo phải quanh quẩn
trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc,
gia đình, luật pháp, thuế khóa... Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng
vai trò của "Đấng Mê-si-a" xã hội chính trị mà người ta muốn bắt
Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với
Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người
chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa
bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này
xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý
nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: "Tôi là vua, nhưng
nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức
Giêsu: "của Xê-da, trả về Xê-da", khó mà không nhận thấy một lời mời
gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của
nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt
cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da...
nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục
thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc
mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ,
những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa...
Chúng ta là những con người hiện đại nên
chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư
tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội "không Thiên
Chúa" cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh,
nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho
Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao "bổn phận của chúng
ta đối với Thiên Chúa" là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta
không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh
đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. "Của Thiên Chúa
trả về Thiên Chúa". Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta
điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích,
không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người.
"Con người không chỉ sống bởi bánh"... bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi
sự sản xuất. Được tạo dựng theo "hình ảnh của Thiên Chúa" "theo
hình và hiệu của Thiên Chúa", con người có số phận phải chia sẻ chính sự
sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền
và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết
bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải
"trả mình" trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được
tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức
Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần
nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại
của Thiên Chúa... và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người!
Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi
chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả
cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn
toàn cho Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét