Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng
kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội
lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia
đình Giáo hội. Mừng kính các thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự
sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quan tràn đầy trước tòa cao
sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi : Thiên đàng là gì ? Thiên đàng là
nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy
mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21). Thiên đàng là nơi người ta yêu
thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và
mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và
nước mắt. Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã
đạt tới hạnh phúc đó.
Hỏi : Các thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự
kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các thánh là những người đói và khát sự
công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát
nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như mối phúc trong Tin
Mừng tuyên bố : "Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ
được no thoả" (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của
ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm các thánh là ai. Các thánh là "những người
giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Như thế, sự thánh
thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là
"tách biệt" khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ "thánh" có nghĩa
chung là "kitô hữu", hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu
làm thành Dân thánh. Sự thánh tác khỏi sự phàm tục. Các thánh tràn đầy sự
thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các thánh là những người đã được Thiên
Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các thánh làm gì trên thiên đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: "Họ đứng trước ngai vàng
và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ
lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai
vàng, và Con Chiên". Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp
tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, " Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa..." (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà các thánh gặp được hạnh
phúc và niềm vui của, "Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ
tôi" (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các
ngài.
Hỏi : Các thánh mặc áo gì? Các thánh
mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các thánh mạc áo đỏ, mặc
áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng
hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các thánh mạc áo vàng khi
tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các thánh là bao nhiêu? Sách Khải
Huyền nói : "số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người,
thuộc mọi chi tộc Israel "
(Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành,
nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ;
họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những
người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa
bìh nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, "họ là
những người từ đau khổ lớn lao mà đến" (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các
Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, Đồng trinh, Hiển tu, Ẩn tu.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi,
thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được
vào sổ những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn
là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống
đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai
ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn
vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn
mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: "Đoàn
người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân
tộc và mọi thứ tiếng" (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng
lớp trong xã hội. Ðó là lí do tại sao hôm nay Giáo hội thiết lập ngày lễ các
thánh, để mừng kính chung các thánh gồm cả các thánh không tên tuổi, trong đó
phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các
thánh, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những
vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cảo sáng rực. Nhưng cũng nhớ và
kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước
mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các
thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận
hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của
tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính các thánh, chúng ta cậy nhờ
các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết
noi gương các ngài sống hiến chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa
Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng
và sự trợ giúp của các thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh
bằng cách tự thánh hóa bản thân như các thánh đã làm, tức là sống theo tinh
thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch,
với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả,
đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống
phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể "vui
mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các
Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời" (Mt 5,
12a).
Lạy Các Thánh
Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ
của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi
cuốn tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay
lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc.
Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những
vị thánh :" Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh
" (1Pr 1, 16). Đọc đoạn Tin Mừng thánh Matthêu (Mt 5, 1-12), một loạt các
từ "phúc" ở đầu mỗi câu, làm chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên
Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.
Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào
lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là "những
người thánh". Chẳng hạn như nơi thư Corintô, thánh Phaolô ngỏ lời với
những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là "chư thánh đã được (Thiên
Chúa) hiệu triệu"(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với
tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người
kitô đã là "thánh" rồi, bởi Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa
Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải
trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh
thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra,
việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng người kitô hữu, hay có thể nói là
của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc
lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, "để trở nên
thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái" (Eph 1, 3-4).
Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta,
dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân,
và được mời gọi trở nên thánh : "Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các
ngươi trên trời là Ðấng trọn lành" (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và
ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên
chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất,
chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm
hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho
chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình
nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng ta lại không ước
mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở
về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng
ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất
thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như
là những con cái Thiên Chúa, trong việc "trở nên giống" Thiên Chúa,
như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong
ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân
loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã
trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh
tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp
và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục
chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có
rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông
đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7,
9).
Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có
quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của
chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn
lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng
nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc
đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta
"cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm" (1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã
dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh
Gioan nói xem "Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến
chúng ta được gọi là con Thiên Chúa" (1 Ga 3, 1). Chính sự tin tưởng vào
Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên
tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con
đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó
là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như
chúng ta: " Phúc cho những ai..." (x. Mt 5, 1-12)
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự
giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao
trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đạt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để
Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ
tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ
cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta
đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại
nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lm
Vinh Sơn Biển
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội
mừng trọng thể lễ các thánh nam nữ. Qua thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi
chúng ta hãy biểu lộ niềm vui mừng, hãnh diện và hy vọng vào ơn cứu độ của
Thiên Chúa dành cho chúng ta là những người cùng chung niềm tin vào Chúa như
các thánh.
Tuy nhiên, hẳn mỗi người chúng ta nhiều
khi tưởng tượng ra sự xuất sắc của các thánh như là những vĩ nhân, những người
siêu quần bạt chúng, hay các ngài như là những người có một cuộc sống đặc biệt,
khác thường nên mới trở nên những vị thánh! Còn chúng ta, những người tầm
thường, có lẽ niềm hy vọng nên thánh là điều khó có thể xảy ra!
Suy nghĩ như thế có đúng hay sai? Và
chúng ta có trở nên thánh trong thời đại hôm nay được hay không?
Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy niệm về
cuộc đời của các thánh, và từ đó, rút ra một giải đáp cho thắc mắc trên.
Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu
xem: các thánh là ai? Và các ngài đã sống như thế nào?
1. Các thánh là ai?
Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta có
thể trả lời ngay rằng: các ngài là những Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, Linh
mục, Tu sĩ và Giáo dân. Các ngài là những người tri thức, nhưng cũng không
thiếu những đấng bình dân học vụ. Các ngài là những người có địa vị trong Giáo
Hội và xã hội, nhưng cũng không thiếu những đấng thường dân. Các ngài là những
người được sinh ra nơi thành phố phồn hoa đô hội, nhưng cũng có vị hiện hữu nơi
cuộc đời này trong cảnh màn trời chiếu đất, nơi thôn quê hẻo lánh... Các ngài
là những bác sĩ, kỹ sư, là những người giàu, nhưng cũng rất nhiều đấng suốt
ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là những người nghèo, cảnh mẹ góa con
côi... Các ngài cũng là những người thánh thiện, tốt lành ngay từ nhỏ, nhưng
cũng không thiếu đấng trước đó là kẻ rối đạo, chối đạo, sống cuộc đời bê tha và
trác táng, nhưng chỉ được ơn sám hối, canh tân, tin tưởng, phó thác nơi Chúa
trước khi nhắm mắt rời bỏ thế gian mà thôi...
Như vậy, các thánh thật đông đảo và các
ngài từ mọi nơi, mọi miền và đủ mọi thành phần. Chính thánh Gioan khi được thị
kiến đã thốt lên: "... kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi,
thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ" (Kh 7, 9); và:
"Một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái
Itraen" (Kh 7, 4); các ngài "... là những người đã đến, sau khi trải
qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên"
(Kh 7,14).
Nói chung, thế giới của các thành gồm
đủ mọi thành phần, và số lượng các thánh không ai đếm xuể. Công việc của các
ngài là tôn vinh, thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa và cầu thay nguyện giúp cho
chúng ta. Các ngài đang được sống một sự sống hạnh phúc nơi quê thật là Nước
Trời.
Việc chúng ta ngưỡng mộ tài cao đức
rộng, cuộc sống phi thường của các thánh hẳn không sai, nhưng không phải là
tuyệt đối đúng, vì thực tế, trong số các thánh, nhiều đấng cũng không hơn gì
chúng ta. Có khi các ngài cũng là nhưng người tội lỗi một thời như Maria
Mađalêna, Phêrô, người trộm lành, Phaolô, Augustinô...
Điều đáng nói ở đây chính là: các ngài
thuộc những người đã trải qua kinh nghiệm về yếu đuối, sa ngã và tội lỗi, nhưng
các ngài đã sám hối, ăn năm, canh tân đời sống theo ánh sáng Tin Mừng của Đức
Giêsu Kitô. Các ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần thứ 100 thì đứng dạy
và đứng luôn trong ân sủng.
Thật vậy, sau khi sa ngã, các ngài đã
nhận được ân sủng và tình thương lớn lao của Thiên Chúa dành cho mình, nên các
ngài đã tin tưởng, phó thác và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, yêu thương anh chị
em tha thiết. Như thế, có thể nói: các thánh đều là những người đã nếm mùi đau
khổ thử thách ở trần gian như chúng ta, xong, các ngài vẫn giữ được lòng trung
thành với Thiên Chúa và kiên trì tuân giữ Giới Luật của Người cũng như thi hành
xuất sắc Tám Mối Phúc Thật.
Cuộc đời hy sinh, đòn vọt, bắt bớ vì
Chúa và tâm tình sám hối, canh tân để trở nên ngày càng đồng hình đồng dạng với
Đức Kitô nơi các thánh được ví như một cuộc thanh luyện và cố gắng liên lỷ.
2. Các thánh là những người trung thành
với Hiến Chương Nước Trời
Tất cả các thánh, không ai là người
sống ngoài bản Hiến Chương Nước Trời mà Tin Mừng hôm này thuật lại. Các ngài
luôn coi bản Hiến Chương Nước Trời như là khuôn vàng thước ngọc cho cuộc đời
mình. Qua bản Hiến Chương này, các ngài đã sống tinh thần nghèo khó, không bị
lệ thuộc vào vật chất, sống hiền lành và bao dung, quảng đại, tha thứ. Cuộc đời
các ngài luôn khao khát sự sống công chính, mong muốn sống trong sạch, yêu
thương, chăm sóc những người đau khổ, luôn kiến tạo hòa bình và khước từ hận
thù, xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất, yêu thương. Các thánh còn là những
người vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, nên chấp nhận mọi sự hiểu lầm, đòn vọt,
bắt bớ, gươm đao và ngay cả cái chết để được mối lợi tuyệt đối là Đức Kitô, vì
người, các ngài đành mất hết (x. Pl 3, 8). Các ngài được ví như những người lái
buôn, đã đánh đổi tất cả một khi đã tìm được Kho Tàng, Viên Ngọc Quý. Vì thế,
đối với các ngài: "...sống là Ðức Kitô, và chết là một mối lợi" (Pl
1, 21), nên không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng
ta có niềm an ủi thật lớn lao, đó là: các thánh không phải là người xa lạ với
chúng ta. Các ngài là những người có cùng niềm tin, là tổ tiên, là cha ông, là
những người thân của chúng ta.
Có những vị thánh nổi tiếng, nhưng cũng
không thiếu những vị thánh bình thường, vô danh.
Đường lối nên thánh cũng không phải chỉ
có một con đường độc điệu, mà là nhiều con đường khác nhau...
Như thế, các thánh là những người rất
gần gũi với cuộc sống thực tế của chúng ta. Bởi vậy, mỗi người đều có quyền hy
vọng rằng: "Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?"
(Thánh Augustino).
3. Hãy trở nên thánh vì ta là Đấng
Thánh
Lời mời gọi nên thánh vẫn luôn là một
điều gì đó mới mẻ và hấp dẫn đối với chúng ta. Tuy nhiên, để sống được lời mời
gọi này, chúng ta phải lội ngược dòng, phải lột xác và chấp nhận sự nghịch lý
của Tin Mừng, bởi lẽ, chúng ta đang sống trong một xã hội thực dụng, thỏa mãn
xác thịt, ham muốn điều bất chính, gây bất hòa, chia rẽ, vô cảm, dửng dưng với
đau khổ của anh chị em, gây nên những bạo lực, đau khổ, sống dối trá, giả hình,
bóc lột, bất công...! Trong khi đó, Lời Chúa và những giá trị của Chân Lý luôn
nhắc nhở và mời gọi chúng ta ý thức rằng: hạnh phúc đích thực của chúng ta ở
nơi Thiên Chúa và quê hương chúng ta ở Trên Trời, chứ không phải ở những thứ
chóng tàn, mau qua sớm hết nơi trần gian này... Vì thế, muốn đạt được Nước Trời
làm gia nghiệp, chúng ta phải chiến đấu liên lỷ để biện phân và lựa chọn giữa
tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa cuộc sống tạm bợ và cuộc sống vĩnh cửu. Chấp
nhận đi theo con đường hẹp của Tin Mừng. Được hạnh phúc hay bất hạnh là do sự
lựa chọn của chúng ta.
Mừng kính lễ các thánh nam nữ hôm nay,
chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những gương sáng ngang qua
cuộc đời của các thánh, từ đó trở thành động lực cho mỗi chúng ta phấn đấu trên
con đường nên thánh. Đồng thời, mỗi khi mừng kính các thánh, chúng ta cũng tạ
ơn Chúa đã ban nhiều ơn thánh trợ giúp, để: con cháu, anh chị em, cha mẹ, ông
bà, tổ tiên... chúng ta đã thành công trên con đường tiến đức và nay đang diện
kiến tôn nhan Chúa.
Mặt khác, qua việc mừng lễ này, sứ điệp
Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội mời gọi chúng ta tái khám phá và làm mới lại
sự quyết tâm trong việc: nghĩ thánh, hành động thánh và sống thánh trong cuộc
sống thực tại hôm nay.
Lạy các thánh nam nữ trên trời, xin
chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
LỄ
CÁC LINH HỒN
|
Nguồn gốc lễ Cầu hồn và tháng Các linh
hồn
Theo Xuanha
|
Theo sách vở ghi
lại, thì thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện
Ngài là người thánh đức, thường cầu nguyện, hi sinh , và dâng lễ cầu cho các linh hồn đã qua đời. Truyện kể rằng: Một hôm, một đan sĩ Dòng ngài đi viếng Đất thánh Giêrusalem. Trên đường trở về Đan viện "Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên Thiên đàng và là sự đau khổ cho quỉ dữ dưới Hỏa ngục".
Sau khi nghe biết sự
việc này, cha Odilo đã lập lễ Cầu hồn vào ngày 2 tháng 11 và trước hết cử
hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói năm 1030). Về sau
lễ cầu hồn đã được truyền sang nuớc Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Giáo
hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma.
Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn, họ đi thăm viếng, sửa mồ mả cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn, họ hát những bài ca cổ truyền cổ động cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục. - Tại nước - Tại miền quê nước ........... - Tại Việt nam, nhất là miền Bắc, trước Công đồng Vaticanô 2 (62-65) người ta thường sửa mồ mả cha ông vào dịp Tết Nguyên đán đầu năm Âm lịch, tính theo mặt trăng, còn lễ Cầu hồn, người ta đi viếng các nhà thờ chung quanh suốt ngày lễ Các Thánh để lãnh ân xá chỉ cho các linh hồn đã qua đời. Cảnh người lớn trẻ em tấp nập ra vào rất vui vẻ. Người ta dự lễ và xin lễ rất nhiều để cầu cho Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ sớm về hưởng phước Thiên đàng. -------------------------- *Thương nhớ người quá cố, nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình là chuyện tự nhiên của con người. *Ao ước cho người thân mình được "nghỉ yên muôn đời trong nơi mát mẻ hạnh phúc" cũng là tâm lí thông thường. *Do đó việc cầu cho người thân đã qua đời là việc cần thiết, vừa cho linh hồn người chết được cứu thoát khỏi Luyện ngục, vừa cho người sống được tỏ lòng hiếu thảo đền ơn. Những điều trên không những hợp lòng người, mà còn hợp giáo lí trong đạo. Giáo lí Công giáo do Đức Thánh cha Gioan Phaolo 2 ban hành năm 1992 có 3 số như sau: - Số 1030: Cần có Luyện ngục: "Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng. - Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: "Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580). Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), Truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện:"Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau" (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau" (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39).
- Số 1032: Người sống
cứu người chết:
"Giáo huấn này
cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh:
"Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội
này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình"
(2 Mcb 12,46).
Ngay từ những thời
gian đầu, Giáo Hội đã tôn kính việc tưởng niệm các người đã qua đời, và dâng
kinh lễ để cầu cho họ, nhất là dâng Thánh lễ( xem DS 856), để họ được thanh
tẩy và tiến vào nơi chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Giáo Hội cũng khuyên làm việc bố
thí, hưởng các ân xá và thi hành những việc đền tạ để giúp các người đã qua
đời:
Chúng ta hãy cứu giúp họ và hãy tưởng nhớ họ. Nếu các con ông Gióp đã được thanh tẩy nhờ lễ hy sinh của cha họ( xem G 1,5), tại sao chúng ta lại có thể hoài nghi rằng những của lễ của chúng ta dâng cầu cho người chết sẽ không mang lại ủi an cho họ? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã ra đi, và dâng những kinh nguyện cầu cho họ (Th. Gioan Kim khẩu, Hom. in 1 Cr 41,5). * Ngày 10 tháng 8 năm 1915, Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục. * Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai "viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13). |
HIỆP THÔNG CÁC THÁNH VÀ ƠN CỨU RỖI
|
Đ.Ô. Phêrô Nguyễn Văn Tài
|
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những
người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh
Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn
năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp
các thánh và ơn cứu rỗi.
Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện
hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không
mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi. Ðể nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện
của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ
điệp mà Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám
mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết
lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn.
Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy
tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay.
Ðức Thánh Cha viết như sau:
"Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên
Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Ðấng mang lại ơn cứu
rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với
thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: "Thánh giá là
nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất
diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng
tối". Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được
ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất,
bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống
thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho
chúng ta".
Ðức Thánh Cha giải thích:
"Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn
nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích
thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa.
Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau:
"Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an
nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa". Do đó, tất cả chúng ta được mời
gọi để sống với Chúa Kitô, Ðấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh
Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người
quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu
Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi
người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu
hình".
Ðức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của
Ðức Phaolô VI như sau:
"Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong
ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi
duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo
Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó
những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội
của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình
nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc
về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng
có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người
ấy".
Chính vì thế mà Ðức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy
cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không
ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn
luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được
thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là
bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức
khác.
Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục
kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập
ngày cầu cho các đẳng, Ðức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau:
"Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng
cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi
anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ,
và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: "Hỡi linh hồn yêu dấu,
hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta".
Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này,
chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện
cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy
cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu,
và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.
|
HAI MẶT CỦA MỘT MẦU NHIỆM
|
Đgm Phaolô Maria Cao Đình Thuyên
|
Hai mặt của một Mầu Nhiệm: Các thánh cùng thông
công (Lễ cầu cho các linh hồn)
Anh chị em thân mến, hôm nay Giáo Hội dâng lễ cầu
cho các linh hồn. Đây là hai mặt của một Mầu Nhiệm: các thánh cùng thông
công. Chúng ta tin rằng, ai đã an nghỉ trong Chúa vẫn còn hiệp thông với cộng
đồng tín hữu đang sống, như tế bào, các bộ phận trong cùng một thân thể. Mọi
người dù còn sống hay đã chết đều liên kết trong thân thể Mầu nhiệm của Chúa
Kitô.
Trong ngày hôm nay cũng như trong suốt hành trình
đức tin của chúng ta, Giáo hội không ngừng mời gọi chúng ta tưởng nhớ và cầu
nguyện cho người quá cố: sự hiện diện của người quá cố trong cuộc lữ hành
trần thế của chúng ta là một ân huệ đặc biệt, nó luôn nhắc nhở chúng ta về
cùng đích chắc chắn của chúng ta. Nó luôn mời gọi chúng ta sống thế nào để
cái cuộc sống mới sung mãn hơn.
Thánh Charles Borromêô (1538 – 1584) sống ở Ý cách
đây đã 400 năm, khi còn trẻ Borromêô đầy những tước vị, nhưng một hôm
Borromêô đã nhận ra rằng, một ngày nào đó mình sẽ bỏ lại tất cả. Ngài muốn
luôn ghi khắc điều đó, nên đã nhờ một họa sỹ nổi tiếng vẽ một bức họa trong
tư thất để diễn tả cái chết. Họa sỹ đã trình thần chết theo lối cổ điển bằng
một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.
Borromêô ngạc nhiên hỏi tại sao họa sỹ lại hình
dung cái chết bằng cái lưỡi hái?
Vì thần chết gặt gái mọi cuộc sống, cái chết hủy hoại
mọi cuộc đời. Đồng ý, nhưng thần chết cũng mở cửa nước trời, cái chết là cổng
mở vào đời sống tốt đẹp hơn, vì thế tôi đề nghị nghệ sỹ xóa chiếc lưỡi hái đi
và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.
ACE thân mến, câu chuyện này giúp chúng ta xét lại
những quan niệm bi quan của chúng ta về cái chết. Thực sự cái chết là thân
phận bi đát nhất của con người. Nó là giới hạn không một ai có thể vượt qua,
thần chết đã hạ gục mọi người, đã chấm dứt cuộc đời ở mọi độ tuổi, thần chết
thường ra tay muộn màng, chậm chạp, nhưng lắm lúc cũng thật chớp nhoáng. Chúa
Kitô đã soi sáng cho chúng ta bằng một quan niệm khác, hoàn toàn lạc quan:
“Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu không thối đi sẽ không nẩy sinh ngàn vạn hạt
lúa mới”. Cái chết cũng là chìa khóa bằng vàng, chìa khóa duy nhất có thể mở
cửa cuộc sống vĩnh cửu. Quan điểm Thánh kinh cũng là quan điểm và niềm tin
của chúng ta. Cổng trời sẽ mở ra, dẫn con người về nhà Cha, cái chết là lưỡi
hái hay chìa khóa, là chuyển biến hay kết thúc, là hư vô hay là cuộc sống vĩnh
hằng, đó chính là điểm khác biệt giữa người tín hữu và người vô tín ngưỡng.
Tuy nhiên, dù chết là chìa khóa vàng, là chuyển
biến, là cuộc sống mới, cũng vẫn gây nên một tang thương mất mát cho chúng
ta. Chúng ta tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc chúng ta đã
ra đi. Chúng ta xa mặt nhưng không xa lòng. Chúng ta hy vọng một cuộc sống
tốt đẹp hơn nơi trời mới đất mới. Niềm hy vọng và xác quyết của chúng ta được
chính Đức Kitô bảo đảm. Chính Ngài đã sống lại từ cõi chết. Thánh Paul nói: “Thần
chết đã bị Đức Kitô hạ gục, thần chết bị nuốt chửng trong chiến thắng. Thần
chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chìa khóa vàng. Cổng trời được mở ra cho
con người vào nhà cha”.
ACE, nghĩ đến người chết để chúng ta xác quyết
rằng: cái chết là chìa khóa mở cửa cho cuộc sống mới. Và cuộc sống mới này
tùy thuộc vào việc tích chứa, xây dựng trong cuộc sống tại thế này. Chúng ta
cần tận dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc dù nhỏ mọn đến đâu,
để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời ta có được giá trị vĩnh cữu. Thiên
Chúa đã ban cho mọi người những khả năng mà hoàn thành trách nhiệm của mình.
Không ai được sinh ra để sống như một kẻ bàng quang, vô trách nhiệm, nhưng ai
cũng sinh ra để gánh vác cuộc đời để chu toàn sứ mạng mà Thiên Chúa đã an bài
xếp đặt.
Chúa Kitô đã dạy: “Hãy dùng của cải đời này mà mua
Nước Trời”. Chúa muốn chúng ta hãy dùng tất cả mọi hoạt động trần thế vào mục
đích ấy và có lẽ không có hoạt động nào có giá trị hơn việc canh tân đời sống
mỗi ngày và thực thi công bình, bác ái, yêu thương, phục vụ. Những việc tốt
đẹp chúng ta làm hôm nay tại trần thế này, chính là những viên gạch sẽ xây
dựng ngôi nhà cho chúng ta trên thiên quốc. Hôm nay thắp một nén hương cho
người quá cố, dâng một lời cầu cho những người ra đi, chúng ta xin Chúa
thương cho các linh hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân nhân bạn hữu sớm được
hưởng nhan thánh Chúa, đồng thời cũng là cầu cho chúng ta biết sử dụng cuộc
sống hôm nay cho hợp với thánh ý Chúa. Đốt lên một ngọn nến cầu cho các linh
hồn được sống đời sống với Chúa, cũng là lúc nhắc nhớ chúng ta: muốn được
sống với Chúa thì hãy cùng chết với Người, chết từng ngày từng giờ cho con
người cũ tội lỗi và sống một cuộc sống mới tốt lành thánh thiện.
Chúng ta vô cùng cám ơn những người ra đi trước
chúng ta về chứng từ niềm tin và hy vọng, về quà tặng bình an, về sự chuyển
cầu mà họ đã chia sẻ cho ta, những người còn lữ hành trong hy vọng.
Chúng ta cũng không quên chia sẻ, như một nghĩa vụ
thiêng liêng với những người đã chết, kinh nguyện và việc lành phúc đức mà
nay họ mong muốn làm để đền bù thiếu sót nhưng không thể.
Cuối cùng chúng ta nguyện xin Chúa cho lễ tế Hội
thánh dâng lên sinh ích cho những người con của Chúa là tổ tiên, ông bà và
thân bằng quyến thuộc của chúng ta đã ly trần. Xưa kia họ đã từng lãnh nhận
Bí tích tình yêu này, giờ đây xin cho tất cả cũng được cùng thần thánh chung
phần vinh phúc với Đức Kitô, Đấng hiển trị muôn đời.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã luôn khơi dậy trong tâm
hồn chúng con sự tưởng nhớ đến người quá cố. Xin cho sự hiện diện của họ
trong cuộc lữ hành đức tin của chúng con luôn là nguồn cảm hứng dẫn chúng con
bước đi trong tin yêu, phó thác, cậy trông và hân hoan.
|
DỤ NGÔN CÂY CHUỐI
|
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
|
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của
một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” –
Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu
trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất
cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng
là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan
sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo
rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình
một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng
chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng
chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh
dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng
cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi
vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết
cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt.
Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một
mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là
chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả
tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta
nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta.
Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình
an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho
đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ,
chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều
này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học
luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ,
từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả
của mẹ cha:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những
ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết
thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ
trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng
đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân
với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi
không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền
nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công
đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
“Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn
hơn”.
Tình thương của cha mẹ thật
lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru
con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh
khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi
trường đời”.
Vậy, những tình yêu mà cha
mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là
tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không
phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời.
Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi
các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
“Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng
sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ
đi”.
Trong đạo hiếu đôi khi những
người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của
mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
“Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm
con”.
Không chỉ ở nhà mới phụng
dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm
lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy
chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai
dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ
bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương
tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi
chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo
bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta
“ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu
thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn
sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài
trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen./.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét