GX. GÒ MÂY ĐÓN CHA XỨ MỚI |
CHA PHÊRÔ M. NGUYỄN HỒNG PHÚC |
GX. LẬP THÀNH KHÁNH THÀNH TRUNG TÂM MỤC VỤ |
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Is. 5, 1-7; Pl. 4, 6-9; Mt.
21, 33-43
SUY NIỆM LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1, 12-14; Gl. 4, 4-7; Lc.
1, 26-38
MỤC LỤC
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Vườn nho
2. Thợ vườn nho
3. Tá điền và vườn nho
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Suy niệm của An Phong
6. Người thợ làm vườn nho
7. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là
chính mình
8. Có một chủ vườn kia
9. Hành động và phản ứng
10. Chủ vườn nho
11. Làm việc
12. Tá điền và vườn nho
13. Được và mất
14. Tá điền vườn nho
15. Dụ ngôn những tá điền sát nhân -
JKN
* LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
1. Niềm vui cứu rỗi
2. Cùng Mẹ xin vâng – Lm. Anmai
3. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
4. Xin Vâng
5. Lá sầu riêng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Kinh Mân Côi
7. Kinh Mân Côi
8. Hiệu quả của Kinh Mân Côi
9. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
11. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
12. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời
13. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
14. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc
1,26-38)
15. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
16. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
17. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas
18. Phương thuốc thần diệu – Lm Trần
Ngà
19. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
20. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
21. Tôi là nữ tỳ của Chúa
22. Chuỗi Mân Côi
23. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?
24. Suy niệm của Lm. FX. Đào Trung Hiệu
25. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
26. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy
Thống
27. Đức Chúa Ở Cùng Bà
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Vườn nho
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi
loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc
cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn chính là dân Do Thái, dân tộc
đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ
được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý
của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và tàn bạo đối với những người
được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính
người con trai duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ
thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng buồn đã xảy ra.
Người con duy nhất này là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết
chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh
vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc
tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá
góc tường là nơi câu móc những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò,
một vị trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân
Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem lại cho
Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta
nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức
chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế nhưng kết quả lại
hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã
không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt,
vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm
hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng
ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người chúng ta vẫn không thể đâm
bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm
lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Nếu như chúng ta trung thành phụng sự
Chúa, thì chúng ta không có chi phải lo buồn sầu khổ. Trái lại, nếu chúng ta đã
có những thái độ và một nếp sống như dân Do Thái ngày xưa, thì chắc hẳn, trong
giờ phút sau hết, Thiên Chúa cũng sẽ loại bỏ chúng ta và trao ban Nước Trời cho
những người khác là những người biết đâm bông và kết trái.
2. Thợ vườn nho
Dụ ngôn những thợ vườn nho phản loạn
thuộc vào loại các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ thân thế của Ngài là Đấng Thiên
Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Chúa Giêsu, khi bị dân
Ngài loại bỏ.
Như thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ
ngôn từ các thực tại mà Ngài nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy,
những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm vườn nho trông
coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa, chẳng hạn như ra nước ngoài, và để
quan lý mùa màng, họ sai những đầy tớ đến với những người thợ làm vườn. Theo
luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, thì thửa
đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu
được lý luận của các thợ làm vườn nho: Đứa con thừa tự đây rồi, nào hãy giết nó
đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, người con thừa tự mà
chết, đất sẽ thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ.
Qua dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với
hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu
rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm vườn nho giết đi, chính Ngài là
viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra
câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ
Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản năng chiếm hữu của họ.
Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm
hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề
luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống
trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ
giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của
Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi
mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có
thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ của Tin Mừng, của chân lý hay không?
Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không chiếm hữu? Tôi xin thưa bằng cách để
cho tinh thần Phúc Âm thấm nhập vài cải tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc
Âm, rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm theo ý riêng của chúng ta. Ngày xưa các
thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của dân chúng tới những ước vọng
thống trị trần gian. Ngày nay cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng
Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm xã hội. Chúng
ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm vào một mục tiêu nào khác ngoài mục
tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích
riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Tin Mừng
mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta
tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những
ý đồ riêng tư của mình.
3. Tá điền và vườn nho
Nếu ruộng lúa, nương khoai, khóm trúc
và con trâu là những hình ảnh quen thuộc của người Việt Nam, thì người Do Thái
cũng có những hình ảnh thân thương đối với họ, đó là đàn chiên và vườn nho.
Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra là người
Do Thái, cũng đã thừa hưởng nền văn hóa con chiên và cây nho ấy. Ngài đã dùng
những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan điểm của Ngài đối với mối tương
giao giữa Thiên Chúa và Israel ,
cũng như mối tương giao giữa bản thân Ngài đối với các tín hữu của mình...
Chẳng hạn trong Tin Mừng theo thánh
Gioan thì Chúa Cha là người trồng nho, bản thân Ngài là cây nho còn các môn đệ
là ngành nho. Điều Ngài muốn truyền dạy là chúng ta phải sống gắn bó mật thiết
với Ngài.
Thế nhưng trong Tin Mừng theo thánh
Matthêu thì hình ảnh cây nho hay nói đúng hơn hình ảnh vườn nho được khai thác
cho một đề tài khác.
Chúa Giêsu đã nói tới lòng tốt của ông
chủ vườn nho không những sẵn sàng thuê mướn mọi người, nhất là những kẻ thất
nghiệp, kém may mắn, mà còn trả công đồng đều cho cả những kẻ làm việc ít giờ
nhất.
Ngài cũng đã nói tới những tá điền, là
những người quản lý có trách nhiệm canh tác vườn nho để giao nộp hoa lợi cho
chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ giả và đã giết chết chính người
con của chủ. Để rồi, chủ đã phải lấy lại vườn nho mà trao cho người khác quản
lý, tức là Giáo Hội.
Hôm nay, khi đọc lại dụ ngôn này, chúng
ta sẽ ung dung tự nhủ: Do Thái là Do Thái và Giáo Hội là Giáo Hội Chúa đã trao
đoàn chiên cũng như vườn nho của Ngài cho Giáo Hội, người quản lý cuối cùng mà
Chúa đã chọn, vì thế không còn gì phải lo sợ: Làm thế nào mà Giáo Hội lại có
thể giết hại các tôi tớ Chúa và cướp đoạt vườn nho Chúa được.
Thế nhưng chúng ta không nên lạc quan
với những nhận định trừu tượng và lý thuyết trên đây mà phải nhìn vào thực tại
trước mắt: Và thực tại trước mắt cho thấy Giáo Hội chính là chúng ta. Cộng đoàn
dân Chúa, gồm những con người bằng xương bằng thịt, mới chỉ được mời gọi và
được ban ơn sủng để nên thánh, hay nên hoàn thiện, nhưng thực tế thường chưa
thánh, chưa hoàn thiện, do đó vẫn còn có thể có những kẻ lười biếng không chịu
làm việc trong vườn nho, tệ hơn nữa vẫn còn có thể có những kẻ hung ác đánh
đập, hành hạ và thậm chí giết hại những người tôi trung của Chúa, những người
làm vườn tốt, để chiếm lấy vườn nho cho mình. Chính những ngôn ngữ chúng ta
thường dùng cũng tố cáo sự chiếm đoạt có khi là vô ý thức đó.
Thực vậy, chúng ta chẳng thường nói:
Con chiên của tôi, nhà thờ của tôi, giáo xứ của tôi, Giáo Hội của tôi. Trong
khi đúng ra phải nói là con chiên của Chúa, nhà thờ của Chúa, giáo xứ của Chúa,
Giáo Hội của Chúa.
Nhìn vào vườn nho Chúa, chúng ta thấy
không thiếu những cây nho cành lá xum xuê mà chẳng sinh được một trái. Cũng
chẳng thiếu những cành nho khô héo èo uột vì chỉ còn dính hờ vào thân cây.
Điều đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng
thiếu gì những tá điền, những người quản lý đã chiếm đoạt vườn nho Chúa làm gia
nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác tùy theo ý muốn, miễn sao có lợi
cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ lo rào dậu, xây tường và kiến tạo những bồn
đạp nho, nhưng lại chẳng chăm sóc gì đến cây nho, khiến vườn nho Chúa mọc lên
những cỏ dại và gai góc.
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO
CÂU CHUYỆN ĐỜI TA
Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối
với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu
điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn
nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa
chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì
yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã
dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của
các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí.
Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón
cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do
Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến
dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn
nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho
còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối
quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa
trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.
Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với
người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh
nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái
trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia
đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh
viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong
tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự
nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như
tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú
dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn
nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo
vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp
bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa
trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho.
Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên
men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao
động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội.
Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của
Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho
các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.
Tiếc là có nhiều người không hiểu được
điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma
quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không
còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá
đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho
mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu
làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương
yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà
không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.
Các con, sinh viên học sinh thân mến,
Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh
đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin
tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa
dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy
đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo
Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con
xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết
phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn
lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ,
luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự
bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình
chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong
bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của
sự thành công.
Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là
một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học
mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương
của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính
là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.
Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới
để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt
đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn
đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển
sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?
2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời
mình và có thái độ xứng hợp không?
3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn
có chu toàn trách nhiệm đó không?
5. Suy niệm của An Phong
CHÚNG TA ĐƯỢC TRAO PHÓ CANH TÁC VƯỜN
NHO THIÊN CHÚA
Câu chuyện giữa Thiên Chúa với con
người là một câu chuyện tình. Tình yêu thương được trao ban, nhưng không được
đón nhận; tình yêu thật quảng đại, nhưng lại bị phản bội cách trắng trợn.
Giu-đa lấy cái hôn để nộp Thầy, đó là một sự phản bội lại tình yêu thương làm
cho Chúa Giêsu đau lòng biết bao. Tình yêu của Thiên Chúa thật bao la; và sự
phản bội tình yêu đó lại là cái gì hết sức phũ phàng. Không có gì đẹp bằng tình
yêu, nhưng cũng không có gì ghê gớm hơn tình yêu bị phản bội.
Trong một xã hội "đấu đá
nhau", những trò đời đã nhiều lúc trở nên khủng khiếp lắm rồi; nhưng khi
"trò đời" lại diễn ra nơi chính bầu khí của tình yêu, trong gia đình
chẳng hạn, thì nó lại trở nên khủng khiếp thế nào: cha mẹ lợi dụng con cái; con
cái bất hiếu, bạc đãi cha mẹ, con cái giết cha mẹ cũng có... Quả thật, chính sự
phản bội trong tình yêu là một đòn chí mạng khiến con người bị gục ngã. Bao
nhiêu bà mẹ đã từng hy sinh mọi sự cho con cái, nhưng rồi cuối đời, những năm
tháng về già, đã gục ngã vì sự phản bội, vì sự bất hiếu của đứa con cưng.
Chúng ta được trao phó cho mảnh vườn
của Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa trao phó cho một gia đình để chăm sóc;
linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn chiên; các người có trách nhiệm
với dân tộc, với cộng đoàn giáo xứ, với các hội đoàn... đều là những người được
Thiên Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc sống này là vườn nho của Thiên Chúa
và mỗi người chúng ta là những người làm vườn nho của Thiên Chúa.
Câu chuyện về sự phản bội của tình yêu
cho chúng ta thấy rằng Tình yêu cũng chính là cái giá con người phải trả lại
cho Thiên Chúa. Ông chủ ban "người con" như một lời mời gọi cuối cùng
của tình yêu cho những người tá điền của mình. Không có gì thật sự là tốt đẹp
mà không cần trả giá đâu. Sự trả giá ở đây chỉ là lòng trung thành, là mở lòng
ra để đón nhận chủ quyền của Thiên Chúa chứ không phải muốn giành lấy gia sản
của Người để hưởng thụ cho chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trả giá cho đời sống chúng con,
không phải là trả một món nợ nào khác,
nhưng là món nợ của tình thương,
món nợ nặng nề nhất và cay đắng nhất.
Xin cho chúng con biết nhận ra
chúng con cũng mắc nợ nhau trong tình
yêu thương
và cũng biết chấp nhận hy sinh vì tình
yêu thương.
6. Người thợ làm vườn nho
(Trích trong 'Suy Niệm Hằng Ngày')
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại dụ
ngôn "Người thợ làm vườn nho". Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc
đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để giúp người nghe
dễ hiểu điều Ngài muốn nói về Nước Trời.
Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho
thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân
riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì yêu
thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành
sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các
nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai phái các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả thật dân Do Thái là một vườn nho
được Chúa trồng, chăm nom săn sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến
xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu
của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm
chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa
Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng là một
tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, đó là những tài năng tinh thần,
là của cải vật chất, để ta sinh thêm hoa lợi và mang về cho Người..
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để ta
phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái
lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc
phạm, lầm lỗi của ta, là để ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để ta ngày
càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho ta các tài năng
là để ta sinh lợi cho phần rỗi của mình. Nếu ta không biết sử dụng ơn lành Chúa
ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác.
Sẽ đến ngày ta phải tường trình về công
việc vườn nho mà Chúa đã trao phó cho ta. Sẽ đến ngày ta phải dâng lên Chúa
những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn
do công việc ta đang làm hôm nay.
***
Lạy Chúa! Xin cho con biết cộng tác vào
vườn nho của Chúa, để làm trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện và làm cho Nước
Chúa được nhiều người biết đến. Amen.
7. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là
chính mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa)
Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa
Giêsu kể về "những tá điền sát nhân", các Thượng Tế và người Pharisêu
hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những
người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về
vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe
trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến
vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền
là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay
là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói
nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.
Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên
nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi
người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh
tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh... thì chủ vườn nho là Thiên Chúa
đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt
ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự
chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây
"hấp thụ dinh dưỡng" từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây "giảm
phát sinh để tăng phát dục", nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra
hoa, kết trái.
Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì
chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa.
Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa.
Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể
thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu
chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa
Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy
ngay các hoa trái trổ sinh.
Quản lý ra quản lý: Người quản lý là
người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom
và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ
ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ
đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích
xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của
công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước... Theo
chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao
phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội
thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì
chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này
khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)
Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ,
thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý
về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về
những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu
thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là
những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của
Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã
bách hại các ngài.
Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên
trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những
người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm
hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một
của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho,
nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm
chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã
ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này
cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ
ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.
Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu
không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái
sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì
phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi
(x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho
kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào
chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo
lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi
phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).
8. Có một chủ vườn kia
"Chủ vườn" là từ quan trọng
trong dụ ngôn này, cùng với một từ khác tương ứng với từ đó: "hoa
trái". Người chủ vườn này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng quan
tâm chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu hoạch tốt đẹp,
nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới: tá
điền giết chết họ. Thế là chủ vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai chính
con trai của mình đến và con trai ông cũng bị giết.
Chúng ta biết rằng người con trai này
chính là Chúa Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn nho nào? Những thợ làm vườn nho
là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện này?
Từ một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ
ngôn kể chuyện những tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều mà Tin Mừng
gọi là Nước Trời: "Ta sẽ là Chúa của các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của
Ta", Chúa đã nói như thế. Đây là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, ông chủ
của mọi sự, người thầy của mọi sự.
Thiên Chúa mong ước ban Nước Trời cho
chúng ta. Là tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho tất cả mọi người thành một dân
tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều luôn luôn liên kết với nhau
một cách chặt chẽ: một dân tộc gồm những con cái được Thiên Chuá yêu thương và
yêu thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những người anh em yêu thương nhau. Đó
là vườn nho và đó là những mùa hái nho.
Để thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên
Chúa đã chọn một dân tộc nhỏ làm hạt giống, làm men, đó là Israel . Ngài đã
giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước trời cho dân tộc này.
Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn
giáo dẫn dắt tồi, Israel
không sử dụng cho đúng những đặc ân của mình. Chúa sai đến cho Israel những sứ
ngôn, những tiên tri, nhưng nước này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá
điền xấu tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ chăm sóc
vườn nho không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên Chúa chỉ sinh hoa kết quả với
Thiên Chúa mà thôi.
Trong một nhiệt tình yêu thương tối
hậu, Thiên Chúa sai Con Trai của Ngài để dạy cho các thợ làm vườn nho biết cách
làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách sống vì Nước Trời như thế nào.
Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận thấy rằng chính Ngài cũng
không được lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng muốn bóp nghẹt tiếng nói của
Ngài.
Thế rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn
toàn không khoan nhượng cho những ai tự xem mình là những người được ưu tiên
vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa
thường đe doạ họ và thậm chí sửa phạt họ một cách nghiêm khắc, nhưng không hề
có ai dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao phó vườn nho của Ngài cho những
người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà
những từ cuối cùng rơi xuống như một cái máy chém: "Nước Trời sẽ được cất
khỏi các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm cho trổ sinh hoa trái",
Lời đe doạ đã được thực hiện, người
Kitô hữu tiếp tục sự nghiệp của người Do thái. Điều này không xoá bỏ sự vĩ đại
của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một dân tộc được chọn này (Rm 11,
28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan báo Đấng Tối Cao bằng đức tin sâu xa và
thường rất anh hùng của họ. Tiếp theo sau và cùng với dân Do thái chúng ta nên
giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn này phải làm cho chúng ta suy nghĩ
về sự vĩ đại và trách nhiệm của chúng ta. Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống
tình yêu, loan truyền tình yêu khắp nơi, tạo ra những kết quả thực sự của Nước
Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô hữu và những nhà lãnh đạo tín hữu
có tỏ ra trên khắp thế giới như là những tá điền tốt, những thợ làm vườn nho
tốt của ông chủ duy nhất của vườn nho hay không?
9. Hành động và phản ứng.
Những người Biệt phái không sẵn sàng
trở lại. Đó là một thái độ thụ động. Nhưng đi xa hơn, họ bước sang hành động
quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ làm vườn nho, Thày chí thánh
đã mô tả cho chúng ta như sau: Israel
là một dân gồm những mục tử và nông dân. Các dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh
thu nhặt trong đời sống đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh,
quốc gia này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa vun trồng săn sóc
đặc biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa
hương thơm đạo đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn nguyện.
Bây giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc đã điểm.
Đó là giờ quyết định thực sự! Bổn phận
mà Israel
chu toàn lại bị coi như là một cố gắng vô ích sao? Quả thực các vị thủ lãnh dân
tộc có một đời sống tôn giáo nông cạn khô khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích
Chúa, mặc dầu Ngài đã góp công phục hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên
tri, những thừa sai của Thiên Chúa, còn chính họ là con cái lại quyết định giết
Chúa.
Theo phương diện lịch sử, giờ quyết
định đã điểm vì tất cả quá khứ của Israel hướng về ngay vị cứu tinh
xuất hiện. Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột đỉnh mong đợi. Đây
Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu lộ. Các thủ lãnh đều có trách
nhiệm về điều đó. họ tự quyết chống lại Ngài, vì họ muốn một vị khác đáp lại
những đòi hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng nhất là công
kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự phục sinh, lại bị chính họ xử
tử.
Lời Chúa đòi p hải có lập trường vững
chắc, nhất là khi hành động. Ngược lại với lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn
thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng triết học, gạt bỏ hệ thống suy luận
của một tư tưởng gia hay những tác phẩm của văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những
thứ đó, nên một năm khó lòng mua được một số sách, do đó nhiều khi sách vở phải
bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa, tiếng gọi và đòi hỏi, đòi phải chọn lựa
khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt
Chúa sang một bên. Làm như thế tức là tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong
khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ, người ta tự ý hướng về tình trạng khai
trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo những chân lý để bàn luận hay xác định
lập trường tùy tiện. Thiên Chúa mời gọi chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục
vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi loạn. Lời Chúa là nền tảng cho đời
sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn đá không ở một nơi, nhưng theo Đức
Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến nát ai chối bỏ nó để ở lại giữa loài người.
Tình trạng cuộc sống không bất động:
mỗi hành động nhân loại đều được Thiên Chúa đáp ứng cách khác nhau. Thực ra,
Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt những ai từ chối, nhưng đôi
khi Ngài chịu đựng để biến đổi sự dữ thành sự lành. Trước hành động của kẻ thù,
Ngài phản ứng lại theo đức công bình và nhất là phản ứng theo lòng yêu thương.
Adam từ chối Thiên Chúa đã gọi mình,
nên đánh mất Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông lại được hứa Đấng Cứu Thế. Lỗi
phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại hồng thủy đưa đến giao ước với
Noe. Tháp Babel biểu thị sự chia rẽ nhân loại, cũng biểu thị ơn gọi của Abraham
là người biến Israel
thành dân duy nhất của Chúa. Việc bán Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho
anh em. Pharaon cứng lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên Chúa.
Lịch sử tiếp tục thể hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức Kitô, đóng đanh
Chúa họ trên núi Calvariô. Sự thất bại tuyệt đối đã được ân sủng tác động để
hình thành giao ước mới với toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong
suốt lịch sử Giáo Hội, máu các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt giống làm trổ
sinh những kitô hữu mới. Cho tới ngày chung cuộc, việc xuất hiện người chống
lại Đức Kitô sẽ kêu mời Đức Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một
thế giới mới, để tất cả tăm tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả sự chết sẽ bị
sự sống thống trị, tội lỗi sẽ bị ơn sủng chế ngự. Hòn đá bị thợ ném đi, được
Chúa can thiệp để trở nên hòn đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu
tú mới, vườn nho được phó thác cho những người thợ mới; những người ấy nhờ tác
động của ơn sủng, sẽ gặt hái hoa trái chín mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu
và kho lẫm Thiên Chúa được tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh
trao hoàn cho Ngài. Tất cả biến thành ơn sủng.
10. Chủ vườn nho
Số phận của những kẻ chống lại chủ vườn
nho sẽ như thế nào?
Mặc dù đoạn Tin Mừng không nói rõ,
nhưng chúng ta cũng thấy được qua câu trả lời của những người nghe Chúa Giêsu:
- Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ
cho người khác thuê vườn nho để cứ đến mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.
Từ câu trả lời này, chúng ta bước vào
lãnh vực siêu nhiên. Vậy số phận của những kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế
nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về vấn đề này:
- Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở
thành viên đá góc tường. Hễ ai vấp ngã trên viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập
nát và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ bị tan xương.
Câu nói này làm cho chúng ta liên tưởng
tới lời cảnh cáo của Chúa Giêsu được gửi tới cho Phaolô trên con đường đi
Đamas:
- Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân
đạp mũi nhọn.
Kinh nghiệm đau thương này đã được thực
hiện qua giòng thời gian nơi các dân tộc cũng như nơi những cá nhân.
Trước hết là nơi các dân tộc.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển
hình. Trường hợp thứ nhất, đó là trường hợp của dân Do Thái.
Trong Cựu ước, họ là một dân tộc được
Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương cách đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi họ quay
lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội lỗi và nhất là quì gối thờ lạy
những thần tượng nhảm nhí, thì lập tức đất nước họ bị quân thù dày xéo còn bản
thân họ thì bị đi lưu đày, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trong Tân ước, họ là một dân tộc được
nghe những lời Ngài truyền dạy và được thấy những việc kỳ diệu Ngài đã làm, thế
nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những lời Chúa cảnh cáo chỉ là như một
thứ nước đổ đầu vịt mà thôi. Họ chống đối Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng
họ đã giết chết Chúa một cách ô nhục trên thập giá. Nhưng rồi sau đó vào năm
70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa dưới sức mạnh của quân đội La Mã
do tướng Titus chỉ huy. Còn bản thân họ thì phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp
bốn phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ áp lục quốc tế, họ mới được trở về
khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong
cuộc cách mạng vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng cho cuộc cách mạng này đã bài
xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là thần tượng tuyệt đối có thể
giải quyết được mọi vấn đề. Thế nhưng hậu quả mà cuộc cách mạng này đã đem lại
như thế nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy chém mọc lên ở khắp nơi, rồi
cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn, đến nỗi chịu không nổi cảnh tượng hỗn
độn vô trật tự ấy, Robespierre đã phải truyền dán trên khắp các ngả dường những
tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn
cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Bây giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số
phận của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai
trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất là trường hợp của
Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng Pháp, hăng hái đả phá
Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt
vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết. Ông đã chết bằng một cái chết đớn
đau và điên khùng.
Trường hợp thú hai là trường hợp của
Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa và Giáo hội. Chính ông vàp
năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết thời. Đúng hai mươi năm sau,
nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê thảm, tru tréo như một con chó
dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể chết, thì cũng không
chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi, nhưng khốn cho
ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Từ những sự việc cụ thể xảy ra cho cá
nhân cũng như cho dân tộc, tôi muốn đi tới một kết luận:
- Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi
chừng.
Xem người phải nghĩ đến thân, bẳng
không, nếu cứ bình chân như vại, đắm chìm trong tội lỗi, chắc chắn số phận
chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ triệt hạ hết những kẻ xằng
bậy và sẽ trao vườn nho cho người khác. Như thế có nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất
khỏi bàn tay chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm luân muôn kiếp.
11. Làm việc
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là
một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa
có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa, được trao cho dân Do Thái.
Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo,
là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên
Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa
đó, nước Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát
và Công giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách
lịch sữ vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có
thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ
của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên
tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ
ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người
được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Elia, Isaia, Giêrêmia, Gioan
Tiền Hô... cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây
chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho. Bài Tin Mừng
cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa
lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này
nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng
công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng.
Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi
người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những
ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng
ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm
về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như
những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng
chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa.
Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời
gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải
làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng,
nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài
mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều
giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai
cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đết. Nhưng Chúa
bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước
đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng
làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành
công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được
những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì
không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có
việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không
đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề
là "vị thiên thần dễ tính" kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin
vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên
thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ
đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: "Ngươi sẽ
được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm
những việc thông thường". Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không
ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú
nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành
công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa
lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ
cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa.
Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi
chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi
sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được
có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn
thêm: "Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành
những việc phi thường đâu". Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của
mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện,
một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con cái, một người
bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình
thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được
tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình
thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những
điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự
cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ
kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc
sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm
việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực,
thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin
trên nước trời.
12. Tá điền và vườn nho
Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó
là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt
trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em này được một người
trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như năm người con khác
trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị em
mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận được tình yêu
thương chân thành trong gia đình mới.
Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi
tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là "hãy trở về
nhà trước 11 giờ khuya". Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn
chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của em canh thức
đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một
lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi chỉ trách
nhẹ em một câu: "Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ không
phải lo lắng đợi chờ con nữa".
Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia
đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu
niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu người mẹ nuôi của em.
Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ
tột cùng chỉ thốt lên một lời: "Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi.
Đây là một hành động vô ơn tột cùng".
Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần
nào hiểu thấu được dụ ngôn: "Người tá điền và vườn nho" được nhắc lại
trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của những người giữ
vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những người làm mà ông chủ sai
đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.
Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một
lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta
hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho,
Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một
khi chúng ta biết trở về với Ngài.
Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta
công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt
đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở
chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận
biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của
việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có
thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những
thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại những sứ giả
mà Ngài đã sai đến với chúng ta.
Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm
được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và ban
hơn nữa cho chúng ta hay không?
Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu
rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng
nghe lởi Người: "Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời
Ngài".
Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất
nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết
chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời mình. Xin Chúa
ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng
Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban
cho mỗi người chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục,
chấp nhận thưa "xin vâng" với Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc
đời: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền". Nhất
là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ
biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã trao phó cho
mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên
Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau
tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
13. Được và mất
Chuyện ngụ ngôn "Lừa và Sói"
kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước đại phóng tới. Lừa
giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì Lừa trả
lời:
- Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc
gai.
Rồi Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt
mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói
soi mói kỹ lưỡng các móng chân Lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ
chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
- Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ
chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thày lang!
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng
ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn "Lừa và Sói" muốn nói với chúng
ta: Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn
"Những người thợ làm vườn nho". Mỗi người chúng ta là một tá điền mà
Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật
chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta,
Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng
của mỗi người. Thánh Matthêu viết: "Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi
xa". Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không
làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc
riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát
hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con
trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: "Ác
giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn
nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông".
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để
chúng ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh
vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc
phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải
để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các
tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử
dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy
chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình
về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên
Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn
toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói:
"Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm,
hay đã cản trở không cho người khác làm".
14. Tá điền vườn nho
Nhân cơ hội các thượng tế và các kỳ lão
chất vấn Chúa Giêsu về việc Người lấy quyền nào mà đánh đuổi những kẻ buôn bán
ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để nói với các ông như những lời
cảnh giác về sự cứng lòng của họ. Dụ ngôn tá điền gian ác là một trong ba dụ
ngôn ấy.
Như đã nói ở trên, câu chuyện dụ ngôn
Đức Giêsu kể trực tiếp nhắm vào các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được
Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho là dân riêng của Chúa. Nhưng
thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi
ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị
họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu
cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm
như thế họ mới chiếm đoạt được trọn quyền thừa kế và hưởng lợi lộc từ vườn nho.
Ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế.
Nhưng chúng ta cần nội tâm hóa câu chuyện để có thể lắng nghe được tiếng gọi
của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không phải chỉ cho những người xa lạ ở
vào những thời đại xa xưa.
Như ông chủ trao phó vườn nho cho các
tá điền, Thiên Chúa cũng tín nhiệm trao phó cho ta chăm sóc những vườn nho của
Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của riêng ta, là những cộng đoàn mà ta
phải phục vụ, là những trách nhiệm mà ta phải hoàn thành.
Như ông chủ vườn nho đã dựng hàng rào,
đã xây tháp canh để bảo vệ vườn nho, đã lắp đặt máy ép nho để giúp cho công
việc của tá điền được dễ dàng, nhờ đó họ có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách
tốt đẹp. Khi trao cho ta những nhiệm vụ, Thiên Chúa cũng ban cho ta phương tiện
là những ân huệ cần thiết để chúng ta thực hiện tốt công việc được trao.
Trao vườn nho rồi, ông chủ đi xa một
thời gian. Ông tin tưởng các tá điền sẽ làm cho vườn nho sinh hoa kết trái.
Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho chúng ta những trách nhiệm.
Người không trực tiếp giám sát chúng ta như những anh công an. Người cũng không
phải là một ông chủ chuyên chế áp đặt tự do và giết chết sáng kiến của chúng
ta. Người tôn trọng chúng ta như những người trưởng thành và để chúng ta tự do
làm việc. Người tin tưởng ở tinh thần trách nhiệm của chúng ta.
Sau một thời gian vắng nhà, khi trở về,
ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi của vườn nho. Sẽ tới ngày chúng ta cũng
phải tính sổ với Thiên Chúa về những công việc được trao phó. Người hỏi chúng
ta về hoa trái của những công việc đã được trao. Người hỏi chúng ta về tinh
thần trách nhiệm.
Những người tá điền đã giết chết các
tôi tớ của ông chủ. Hành vi này tượng trưng cho sự khước từ Thiên Chúa của
chúng ta. Có thể chúng ta đã từng loại trừ Thiên Chúa vì nghĩ rằng Người là một
ông chủ hà khắc, hay đòi hỏi, hay quấy nhiễu con người.
Thay vì tiêu diệt các tá điền, ông chủ
lại sai thêm các đầy tớ khác. Điều này nói lên lòng nhân từ và sự kiên nhẫn của
Thiên Chúa. Người không trừng phạt chúng ta khi chúng ta phản nghịch và chống
lại Người, nhưng Người ban cho ta nhiều cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm và để
trả lời cho tiếng gọi của Người.
Không nhận ra được lòng nhân từ của ông
chủ, những người tá điền lại giết chết cả những anh đầy tớ này. Đó chính là
thái độ cố chấp sống trong tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi là sự bất tuân lệnh
của Thiên Chúa, là cố ý chống lại Thiên Chúa, cố ý đi ra khỏi con đường của
Người.
Không ngã lòng, ông chủ còn sai con
trai mình đến với những người tá điền. Và họ cũng giết chết luôn cả anh con
trai này. Họ bàn bạc với nhau rằng: Phải giết anh con trai thừa tự này đi để
chúng ta chiếm lấy vườn nho. Thì ra tội lỗi của những người tá điền không phải
là không làm cho vườn nho sinh hoa kết trái mà là muốn chiếm đoạt vườn nho của
ông chủ. Thiên Chúa đã dùng mọi phương cách để cứu vớt con người. Người đã chơi
ván bài chót là liều hy sinh chính Con Một của Người để thức tỉnh con người.
Nhưng con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình để có thể sử
dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn. Chúng ta làm việc này việc
khác không phải vì quyền lợi của Thiên Chúa mà chỉ vì ích lợi của bản thân
mình. Chúng ta muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên Chúa để làm của riêng
mình.
Chính trong ý nghĩa nói trên mà câu
chuyện dụ ngôn cũng là câu chuyện của đời thường và câu chuyện của ngày xưa
cũng là câu chuyện của ngày hôm nay. Hàng ngũ lãnh đạo Do thái giáo ngày xưa đã
loại trừ và đã giết chết Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để chỉ cho họ
con đường về Trời. Vụ án giết Con Thiên Chúa vẫn còn kéo dài qua mọi thời cho
tới ngày hôm nay. Và lý hình giết con Thiên Chúa có thể là mỗi người chúng ta.
Điều đó thật là đáng sợ.
15. Dụ ngôn những tá điền sát nhân -
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Dụ ngôn trên ám chỉ những ai? Nó chỉ
áp dụng cho dân Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái giáo thời đó, hay nó có
tính hiện sinh, nghĩa là có thể đúng với chính Ki-tô giáo của chúng ta hiện
nay?
2. Liệu Thiên Chúa có thể nói về Ki-tô
giáo như đã nói về Do Thái giáo: «Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho
dại?». Và Ngài có thể nói về chính bản thân tôi như vậy không?
3. Thiên Chúa có cần phải thay thế
Ki-tô giáo bằng một tôn giáo mới như Ngài đã phải thay thế Do Thái giáo bằng
Ki-tô giáo không?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa dụ ngôn những tá điền sát
nhân
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có
ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước mắt
có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là âm mưu giết Đức Giê-su.
Kết cục được diễn tả trong câu cuối của bài Tin Mừng là: Dân Do Thái được Thiên
Chúa dành ưu tiên trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ tỏ ra không xứng
đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho những dân tộc khác.
Thiên Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều
này được diễn tả trong bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như một
người có một vườn nho mà anh ta rất quí: "Anh ra tay cuốc đất nhặt đá,
giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho"
(Is 5,2a). Anh quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà anh nghĩ nó cần nó
thích: "Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng
làm?" (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn nho đó, nhưng vườn nho đã
làm anh thất vọng: "Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho
dại" (5,2b). Một vườn nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất
vọng vì vườn nho ấy, anh ta đã "hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan
hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo (...) biến thửa vườn thành mảnh
đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây
đừng đổ mưa tưới xuống" (5,5-6). Vườn nho đó được I-sai-a xác định:
"Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính
là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ
máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than"
(5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức
Giê-su tiếp tục khai triển chủ đề "vườn nho" của bài đọc I (Is
5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do Thái; 2. Ông chủ
đất: Thiên Chúa; 3. Bọn tá điền: Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái; 4. Các tôi tớ
của chủ đất: Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con trai của ông
chủ: Đức Giê-su; 6. Các tá điền khác: Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến
trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa
mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn
nhân loại. Để thực hiện mục đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa
đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói của những ngôn sứ này thường
không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì "trung ngôn nghịch
nhĩ", "lời thật mích lòng". Và kết quả là các ngôn sứ này đều bị
ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải
than phiền: "Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en
rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài,
chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại
mạng sống con" (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một
của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết một
cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa
theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất
quyền ưu tiên đối với Nước Trời. Và Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập - gồm
những người tin theo Đức Giê-su - bao gồm những người mà người Do Thái gọi là
dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn dân Do Thái đã bị đào thải khỏi
lịch sử: tháng 9 năm 70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm
hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem, giết rất nhiều người Do
Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước, và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên
thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6
triệu người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do Thái đã lập
quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ đó, họ phải chiến tranh liên tục với
dân Palestin và Ai Cập cho đến nay.
2. Dụ ngôn đó có áp dụng cho Giáo Hội
chúng ta không?
Khi tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh
Thánh cho tôi thường nói: "Israel
là Giáo Hội , Israel là chính tôi". Vì thế,
nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân Do Thái, thì cũng có thể áp dụng cho
Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một tôn giáo do chính
Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm
là các tư tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã trực tiếp can thiệp vào lịch
sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập,
đã đích thân ban hành luật pháp cho họ, đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai
trị họ... Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng chưa được Thiên Chúa trực tiếp can
thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-tô giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra
lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói: "Thiên Chúa là Chúa các đạo binh
phán như thế" (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4; v.
v...) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn giáo của mình do Thiên
Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng lịch sử cho
chúng ta thấy họ đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế bằng Ki-tô
giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của Ki-tô giáo.
Ki-tô giáo hiện nay cũng đang tự hào là
tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết
mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô hữu đều tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn
đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ
biết tự hào như thế mà quên đi niềm mong ước của chính Thiên Chúa đối với mình.
Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về Ki-tô giáo như đã than về Do Thái giáo:
"Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những
mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?" Ki-tô giáo đã hơn Do Thái giáo những
gì?
Đức Giê-su đến để thiết lập một tôn
giáo mới dựa trên nền tảng tình yêu thương, và luật của Ki-tô giáo là luật yêu
thương: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương
nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga
13,34); "Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật" (Rm 13,8.10);
"Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức
Ki-tô" (Gl 6,2); "Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi phải
yêu người thân cận như chính mình" (Gc 2,8).
Luật của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước
của Do Thái giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi trọng luật ấy đủ chưa? đã tập
trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức chưa? Hay Ki-tô giáo lại đi vào
vết xe đã đổ của Do Thái giáo, là thượng tôn nghi thức, quá chú trọng tới những
lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu thương thì
lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của Ki-tô giáo thì mới mẻ và khác hơn
Do Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ hình thức thì chẳng khác gì những
người Do Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự hỏi: ngày nay,
người ngoài nhìn vào cách sống của người Ki-tô hữu, có thể nhận ra đạo của
chúng ta là "đạo yêu thương" như thời Ki-tô giáo sơ khai không? Ngày
nay, lễ "bẻ bánh" có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có thực
trong đời sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở thành một nghi
thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Ki-tô hữu - nhất là những người có
trách nhiệm hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo - cần tự vấn: Thiên Chúa hay Đức
Giê-su có hài lòng với tình trạng Ki-tô giáo hiện nay không? Còn những người
lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có giống như những vị lãnh đạo Do Thái
giáo xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn sàng bạc đãi hoặc bách hại
những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không? Hay ít ra khi họ bị bách
hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im lặng, làm ngơ, để mặc họ
bị bách hại như thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại ấy?
Không khéo Ki-tô giáo của chúng ta
chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng sẽ phải đối xử với chúng ta
như đã đối xử với dân Do Thái: "Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi
không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa
lợi"!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào,
chính con - cũng như bất kỳ Ki-tô hữu nào - đều có phần nào trách nhiệm. Xin
cho con biết sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với tinh thần yêu thương của Ngài.
Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của dân Do Thái để tránh được vết xe đã
đổ.
* LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
1. Niềm vui cứu rỗi
Cái tin mà Chúa Giêsu đem xuống trần
gian là một tin mừng, cho nên đạo của chúng ta là đạo của niềm vui.
Thực vậy, đọc lại Kinh Thánh chúng ta
nhận thấy trong suốt dòng lịch sử, dân Do Thái luôn sống trong vui mừng và hy
vọng, chờ đón ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện ngay giữa lòng dân tộc và giải thoát
họ. Trong cuộc hành trình tiến về miền đất hứa, mỗi khi họ gặp phải khó khăn
hoạn nạn, thì Thiên Chúa hằng ở bên và nâng đỡ họ, để họ được sống trong niềm
vui mừng và hy vọng. Nội dung những lời rao giảng của các tiên tri mà Thiên
Chúa gởi đến với họ đều kêu gọi họ hãy hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến cứu độ
họ: Vui lên Sion này ánh sáng huy hoàng. Vinh danh Giavê đang tràn lan khắp
nơi. Vui ca lên nào thiếu nữ Sion, vì Đấng cứu độ rất oai hùng, Ngài ngự trong
nhà ngươi.
Theo quan niệm Do Thái thì cá nhân
không phải chỉ là một con người riêng biệt, mà còn là hiện thân của tổ tiên.
Những người quá cố vẫn đang sống và hiện diện qua hình hài của con cháu họ. Do
đó mỗi người đều liên kết khắng khít với cha ông, với tổ tiên, với gia đình,
với họ hàng và với cả dân tộc mình. Vì thế, lời mời gọi người thiếu nữ Sion hãy
vui mừng cũng chính là lời mời gọi được gởi đến cho cả một tập thể dân tộc
Người Nữ sẽ sinh ra một Adong mới. Ngài sẽ đến phá tan mọi xiềng xích tội lỗi.
Lời mời gọi ấy Thiên Chúa cũng muốn gởi
đến cho cả một dân tộc mới của Ngài, đến cho những người tin vào tình yêu của
Ngài. Kinh Kính mừng là lời chào hân hoan mà thiên sứ Gabriel đã dành cho Mẹ
Maria, cũng chính là lời mời gọi cho toàn thể Giáo Hội cũng như cho mỗi người
chúng ta là hãy vui lên vì đã được Chúa cứu độ.
Kinh Kính mừng chính là lời chào mang
lại Tin Mừng bởi vì Tin Mừng đã được khởi đầu từ đó. Với hai tiếng xin vâng đầy
tin tưởng và phó thác, Mẹ đã cưu mang Chúa, Đấng đem lại niềm vui cho nhân
loại. Lời chào mừng của sứ thầy Gabriel cũng được Thiên Chúa gởi đến với mỗi
người chúng ta.
Tuy nhiên điều quan trọng đó là thái độ
đáp lại của chúng ta. Liệu chúng ta có sẵn sàng xin vâng, có sẵn sàng mang Đức
Kitô trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình hay không? Liệu chúng ta có chấp
nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không? Chấp nhận tình yêu của Chúa là chấp
nhận đi vào niềm vui ơn cứu độ. Chúng ta có biết rằng mỗi lần đọc kinh Mân Côi
là một lần chúng ta đi vào niềm vui của Mẹ, niềm vui có Chúa ở cùng hay không?
2. Cùng Mẹ xin vâng – Lm. Anmai
Trong số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ
Đức Mẹ Lộ Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ Đức Mẹ Mân Côi, do Đức Giáo Hoàng
Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng để biết nguồn gốc của lễ này trước hết
phải tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi "Rosario ".
Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh "Rosarium" có nghĩa là vườn hồng,
khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân
Côi.
Sở dĩ gọi là "chuỗi hoa hồng"
hay "tràng hoa hồng" là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một
kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ Thiên
Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một loại ngọc,
Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là "Kinh Ngọc", là
"chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ". Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức
Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là
ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít
lưu tâm đến, nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ lùng cho Đạo Binh Thánh Giá chiến
thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571, Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ
biến lễ này một cách rộng rãi trong Hội Thánh toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII
đã giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi trong rất nhiều thông điệp Ngài ban
bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn thế giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng
và tôn kính đặc biệt đối với lễ Mân Côi.
Mẹ Maria với hai tiếng xin vâng đã góp
tay vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu và hiến thân trọn vẹn cho Thiên
Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu:
"Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh".
Thư gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô
gợi lại niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như chúng ta nghe: "Nhưng khi
thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một
người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu
chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa
đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba,
Cha ơi! " Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là
con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa". Thánh Phaolô khẳng định
lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào Ngài thì không còn
sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu thoát.
Đấng Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô
nhắc đó cũng đã được các ngôn sứ, người này người kia trong Cựu Ước nói đến.
Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo nhưng rồi mấy ai đón nhận.
Không ai đón nhận bởi vì họ không tin Đấng Cứu Độ trần gian đến trần gian qua
người phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đó đến trong uy quyền,
đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc của họ được vinh quang nhưng Chúa
đến khác với suy nghĩ của họ.
Trong niềm tin sâu thẳm của lòng mình,
Mẹ Maria đã đón nhận Đấng Cứu độ trần gian. Trang Tin Mừng quá quen thuộc chúng
ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào
trong đời mình. Mẹ tin và hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thánh ý của Chúa.
Ngày hôm nay, lời xin vâng được mở ra,
được bỏ ngõ với biết bao nhiêu biến cố bi thương trong đời của Mẹ. Phải nói rằng
quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ. Không còn gì nhục nhã cho bằng khi
phải đón nhận, khi phải đồng hành, khi cùng với con chịu đau khổ trên hành
trình thương khó và bi thương nhất là cái chết trên thập giá.
Nhưng, niềm tin ấy của không dừng trên
đỉnh đồi Canvê mà còn tiếp tục sau khi chôn con yêu của mình. Sách Công Vụ Tông
Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông đồ bấn loạn, người đi về nhà,
kẻ chán nản vì Thầy của mình đã chết. Không chỉ đơn thuần là Thầy mà là người
mà cả cuộc đời mình tín thác, mình trao phó, thậm chí bỏ cả vợ cả con, cả gia
đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất cả. Các môn đệ tán loạn
nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững niềm tin ấy để quy tụ các môn đệ cùng quay trợ lại
nơi các ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau giữ vững niềm tin vào
Đấng Cứu Độ trần gian.
Niềm tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ
ngày xin vâng lời sứ thần cho đến khi Chúa Giêsu ra đi.
Tràng chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn
con cùng suy niệm chính là cùng nhau suy niệm niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của
Đấng Cứu Thế.
Mừng Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ
vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Không phải mừng lễ Mẹ như là mừng một
biến cố, ghi dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần nữa ta cùng nhau chiêm ngưỡng
niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm ngưỡng nhưng là để cùng nhau
sống niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như Mẹ đã sống.
Cách riêng, trong năm Đức Tin này, một
lần nữa, cơ hội, dịp để chúng ta soi chiếu niềm tin của chúng ta vào Đấng Cứu
Độ trần gian như thế nào? Dĩ nhiên, niềm tin ấy cũng như cơn sóng xô của cuộc
đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh liệt, cũng có lúc cảm thấy mệt nhoài với
những đau khổ trong đời. Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui thì
những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào đâu so với tất cả những nỗi
đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria cũng đau chưa bằng chính Chúa Giêsu con của Mẹ
phải chấp nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình để đem lại ơn cứu độ cho con
người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của mình, Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.
Ngày mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi,
chúng ta cùng đi với Mẹ Maria hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu từ nhập thể,
nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như vậy, chiêm ngắm như vậy, suy niệm
như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa mọi đau thương thử thách của cuộc đời.
Dĩ nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu
và phận người tội lỗi, chúng ta khó có thể đi theo Chúa trên con đường thập
giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ trong cuộc đời, chúng ta sẽ cảm
thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và thanh thản hơn.
Hãy cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa
hai tiếng xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ đau của đời ta nên nhẹ nhàng. Hãy
cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng ta ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời
của chúng ta càng thêm mạnh đủ để chúng ta bắt chước như Mẹ mở toang cuộc đời
của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.
3. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
(Trích trong 'Tin Vui Xuân Lộc")
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa
dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được Giáo hội dành nhiều ưu
ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu,
tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria
với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến
cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về
La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh
Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi
cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời "xưa nay chưa từng nghe có người nào
chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời" đã ứng nghiệm, với
quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước
đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V
đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi
chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị
trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân
Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu
tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay
thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần
sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng
ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên
Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa
"Xin vâng" thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở
nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì
Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố
gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì
những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn
của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như
người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe
và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi
người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết
lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những
gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành
thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội
mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương
thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời. Vì lễ Mẹ Mân Côi
không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến
thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có
chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt
Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi
đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh
Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi
giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như
nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị
của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc
mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: "Thánh Maria
Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử". Amen.
4. Xin Vâng
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai
tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Hai tiếng "Xin Vâng" thật đơn
sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng "Xin
Vâng" có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho
loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng
thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu
con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương
trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý
riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng
phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài
người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ mà thành
công.
Hai tiếng "Xin Vâng" của Đức
Mẹ vọng lại hai tiếng "Xin Vâng" của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã
vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng "Xin
Vâng" với thiên thần, Đức Giêsu cũng nói "Xin Vâng" với Đức Chúa
Cha. Với hai tiếng "Xin Vâng", Đức Mẹ khai thông chương trình cứu
chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng "Xin Vâng", Ngôi Hai xuống thế
làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh
hưởng tới cả cuộc đời
Hai tiếng "Xin Vâng" nghe
thật bé nhỏ, khiêm tốn, nhưng ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì
vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời thánh vịnh:
"Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này
Con đến để làm theo ý Cha". Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp
nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui
lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây thánh giá: "Lạy Cha, nếu có thể
được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin vâng ý
Cha mà thôi".
Cũng vậy, khi nói tiếng "Xin
Vâng" với thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình
của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin
vâng mà phải trốn chạy sang Ai Cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri
Simêon: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà". Vì xin vâng mà theo Đức
Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân
thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng "Xin
Vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói "không"
với chính mình. Để một lần nói "Xin Vâng với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức
Mẹ phải nhiều lần nói "không" với chính mình. Tiếng "Vâng"
lớn thành hình nhờ những tiếng "không" nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện
nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm
thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương
trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu
ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình
của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng "Xin
Vâng" với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ
chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy
xin vâng khi buồn. Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy
noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi
đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi
chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho
những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng "Xin
Vâng" như Mẹ. Amen.
5. Lá sầu riêng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao
cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế
nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi
nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất
nhiều về những hy sinh của mẹ như:
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ
cũng quặn đau vì con:
"Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước
sôi".
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện
"Lá sầu riêng" của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu
chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh
phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với
cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của
đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà
tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng
trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa
đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và
chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo
cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con
nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không
chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều
này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt
sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng
nấc nghẹn ngào: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã
theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở
con?".
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi
cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ
thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người
Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của
Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của
con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng
ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giê-su cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây
thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm
mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao
bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giê-su. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc
chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giê-su con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng
bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của
chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con.
Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn
con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: "Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ
- Năm canh dài thức trọn năm canh".
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm
mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi
Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an
nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa
con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau
khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà
đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản "lá sầu riêng" đang diễn tả nỗi
lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: "Con ơi!
Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ?
Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao?
Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và
để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con".
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra
tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng
ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng
tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta
lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
6. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông
hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu
Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi
đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già
cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là
phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các
đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo "Hãy ăn năn
sám hối và lần hạt Mân Côi". Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật
lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai
không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người
ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia.
Vì đáng lẽ cái thứ "phụng vụ dân gian" này phải được kết hợp với kinh
Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống
vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng
Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca
bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều
thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái
buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ
với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà
ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà
Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của
lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu
độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời
Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có
tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh
nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà
là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được
trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người
ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc
Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu
Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng
công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc
làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì
sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh
Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm
những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng
ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để
hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.
7. Kinh Mân Côi
Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa
sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong
giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem,
ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném
vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên
đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự
xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp
sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ
lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima . Đúng
thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima
với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim
Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một
chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì
nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối
với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu
chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành
thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là
hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo
đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ
chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc
chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima
như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước
đã.
Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi
xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc
trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình
không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học
nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một
thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần
hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: "Vi không biết chữ, nên con
chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy
khác, thì Mẹ ráng chịu vậy". Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của
ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng
mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria... Ông đơn
sơ hỏi: "Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?" Mẹ trả lời:
"Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới
đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc
nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để
choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời". Nói xong Mẹ biến đi, để thầy
dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.
Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh
truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho
Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.
8. Hiệu quả của Kinh Mân Côi
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi
xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.
Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ
13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi
do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa
được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16
ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân
thành Luxembourg
vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới
nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người
giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục
sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi
dân thành Luxembourg
giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.
Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16,
quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến
binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante.
Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức
Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.
Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20.
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng
về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và
những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà
thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức
những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra
tại Fatima , Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc
quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân
côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước.
Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra.
Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các
tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi.
Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ
Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima
và kinh Mân côi.
Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế
giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và
nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không
có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những
học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên
Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không
nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để
Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương
pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.
9. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền
tin kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Với hai tiếng
"Xin Vâng", cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn
sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với
Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng
và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng "Xin
Vâng", Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi
Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được
diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta
khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của
Chúa Giêsu.
Với hai tiếng "Xin Vâng", tâm
hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh
Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ
là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những
điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành
một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình
Thánh Chúa.
Sau khi thưa "Xin Vâng", Mẹ
vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth .
Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ,
không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem
lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn
trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu
Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng "Xin
Vâng", Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi
sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai.
Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật
thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với
lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa.
Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng "Xin Vâng",
không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng
lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana , Mẹ khuyên
nhủ gia nhân: "Người bảo gì các con hãy cứ làm theo" (Ga 2,5). Thái
độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ "nước lã hóa
thành rượu ngon". Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò:
"Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày" (Lc 22-19), thì hãy vâng
lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm
phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ
hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới
chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân
mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã
sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu,
tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống
mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời
sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh
Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng "Xin Vâng",
một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan
là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp
nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp
mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời.
Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả
chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau.
Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh
Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích
Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ,
ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến
Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là
"Người Nữ Thánh Thể". Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc
chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu
nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta
trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì
như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước
Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu
mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời "Xin Vâng" của Đức Mẹ
biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách
để thưa "Xin Vâng" với Chúa trong đau khổ không?.
2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ
"Người bảo gì các anh cứ việc làm theo" nên đã múc nước lã mà không
hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?
3) Khi hiện ra ở Fatima ,
Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng "Xin Vâng" để
thực hiện không?
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta
dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân
thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát
mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô
nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn
hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến,
không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ
thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ
dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để
Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa
mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa.
Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn
cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động
đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng
cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa "Xin
vâng". Lời thưa 'xin vâng' của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham
đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời
gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào
chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào
Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa
gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria
phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ.
Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không
những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái
chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria
đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh
lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ
Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng
mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm
giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ
ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác
không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận
tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc
chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải
chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó
thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị
dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là
con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con
ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức
Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12
tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để
thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã
trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa
Giêsu đã nói: "Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc
cho Cha con ư?". Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy
đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao
giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không
ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
"Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành,
người ấy là anh chị em và là Mẹ ta".
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu
như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái
độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên
hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập
những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria
phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn
khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa
tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên
Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được
mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức
Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa
Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu,
nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức
Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới
chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho
riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông
cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria
từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất
của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên
Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn
lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy
chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm
cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria
đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích
điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi
gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can
đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của
Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh
luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ
sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
11. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Trên một chuyến xe lửa về Paris , một sinh viên trẻ
tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút
trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người
sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng
như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông
vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu
không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn
và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm
sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông
cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá
mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan
cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của
khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi
đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một
thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng
xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy
có ghi: "Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris ".
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời
danh của viện nghiên cứu khoa học Paris .
Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện
với tràng chuỗi Mân Côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ
thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ
thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với
việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc
sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên
lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều
hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma
thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ
chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người
lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các
bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần
chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin
Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn "Lòng sùng kính Đức
Maria" (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến
kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược
Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được
vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh "Ave
Maria" mà chúng ta đọc là "Kính Mừng Maria" thay vì trong nguyên
ngữ Hy Lạp có nghĩa là "Hãy vui lên, Maria!" khi thiên sứ loan báo
Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được
thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa
tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được
hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: "Hãy vui lên, Người đầy ơn
phúc" là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh "Kính mừng Maria"
là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi
từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của
Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái
chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời
của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: "Từ khi thụ thai và những
mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc
Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống
trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc
cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc"
(MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh
Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời
gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người
Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín
thác... Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng,
phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc,
hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình... được
công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi
đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời
vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và
qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những
giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết
đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin
Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách
máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin
Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Khi cầu nguyện
thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được
nhận lời" (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của
Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: "Người giữ kỹ mọi điều ấy
và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe
Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria
làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến
cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào
những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng
Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho
những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy
vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy
can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi
chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên
Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng
với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
12. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời
(Suy niệm của Lm. Vinh Sơn Trần Minh
Hòa)
1. Vai trò của Đức Mẹ trong chương
trình cứu độ.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong
việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không ngụ
nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng là việc cầu nguyện bình
dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi
mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai
trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay
cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách công
vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là
thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử
nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi
những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện chung với các tông đồ
(x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc
đến vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con
người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con
mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa
Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được làm con
Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu mà mọi người có cơ hội được làm
con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca
đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel chào chúc
là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ Maria được chào chúc như vậy bởi
vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã
được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi lời Thiên Chúa nhập thể.
Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần:
"Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói" (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở thành
Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp
nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất
bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ buồn với Chúa
Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với Hội thánh vì
khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan,
đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp công cứu
chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu
hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần
chuỗi Mân Côi.
2. Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình
dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc trên
là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần
chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao
như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái
mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào
thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi,
như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa
Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức
Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh
Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria
đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa
bình, mọi người được bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm
Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu nhiệm
Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh
kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con
lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy để các tông đồ
và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui, thương mừng, sáng diễn tả cô
đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình
cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa Giêsu. Kinh sáng
danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức
Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực
hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng như cho cả
Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh
nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn
Rosarium Virginis Mariae như sau: "Chuỗi Mân Côi là lời kinh tôi yêu thích
nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó ...Đã bao
nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ
nhờ kinh Mân Côi".
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế
giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần
chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa
Giêsu hơn.
13. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
(Trích trong 'Từng Bước Một Thôi' –
ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần
xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô
II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi
cho toàn thế giới như là "lời kinh diệu kỳ".
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp
mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư "Kinh Mân Côi", một lần
nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi
là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng
không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ,
nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho
hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào,
nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức
Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức
Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống
cầu nguyện Việt Nam ,
nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát
dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ "Mẹ
ơi" từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể
làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân
Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc
Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm
thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm
người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong
mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào
với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ
Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu "nải chuối buồng cau, đường
mía lau xôi nếp một" là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian
Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử
thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ
luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì
xét cho cùng chỉ là kẻ có tội "khi nay và trong giờ lâm tử". Chính vì
thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa
Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp
dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu
trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự
Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong
Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là "cuốn Phúc Âm rút gọn",
rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ
sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa
Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua
việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa
Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp
người..., nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là
độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải
là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ
trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là "lưu
giữ và suy niệm trong lòng", tức là "khẩu tụng" đều đều lời kinh
Đức Mẹ và "tâm suy" dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
"Ad Jesum per Mariam" chính
là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân
Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi,
người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt,
nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên
Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp
người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh
Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên
gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi
của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh
nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ
hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981
kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói
bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù "ma quỷ, thế gian, xác
thịt", và là sinh tố tăng cường ba việc "nên thánh, mến Chúa, yêu
người".
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập
tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là
một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ
và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm
ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh
nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo
điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ
nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn
định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà "tu hành"
nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải
đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh
Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện "bỏ túi" (hoặc đeo tay
đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa
này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống
thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu
nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức
Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với
cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết
tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an
hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là
từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
14. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc
1,26-38)
(Trích trong 'Nút Vòng Xoay' - ĐGM.
Giuse Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô
Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia
đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho
tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt
kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm
nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có
gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên
đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một
màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ
người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu,
là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh
bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một
chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm
người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục
Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út
nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui
ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên
thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet
trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng
chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá
nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ,
nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa
tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của
con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc
Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng
tác bằng lời "xin vâng" thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng "xin vâng" không chỉ
bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền
chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin
bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự "nối
mạng", nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện
tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông
gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức
Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như
tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân
Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành
trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với
Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là
nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức
Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima ,
Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt
kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng
muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu
được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: "Kính mừng Maria
đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu
con lòng Bà gồm phúc lạ", nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con
của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến
với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy
rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi
truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống
cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho
cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở
ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh
cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết
nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa
Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai
mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức
Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây
lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần
hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết
người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người
Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng
gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường......? Tại
sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ
em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù
hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người
ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì
lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí
thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông.
Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm
nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công
Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông
trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết
nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức
Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã
quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh
cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là
người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi
nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và
cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói
với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ
có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp
thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
15. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
(Trích trong 'Với Cả Tâm Tình' của ĐGM.
Giuse Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận
chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức
Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công
Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương
yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante,
với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ
đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo
ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó
danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối,
hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung
Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
"Kính mừng Maria đầy ơn
phúc". Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh
Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị
Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và
chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là
một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa.
Phần chìm ấy là tiếng "Xin Vâng".
"Xin Vâng" là tiếng nói của
một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của
Thiên Chúa. "Xin Vâng" là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà
thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi.
"Xin Vâng" là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một
lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu
chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm
của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. "Xin
Vâng" là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi
tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức
làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng "Xin Vâng" đã
thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng:
chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của
Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc", thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra
rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ
hiện qua tiếng "Xin Vâng", để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng
trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
"Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời,
cầu cho chúng con là kẻ có tội". Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu
nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất.
Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở
nên "Đức Mẹ Chúa Trời", thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến
Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó,
danh hiệu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời" chính là lời kính mừng trang
trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc
Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng
những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn
đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng
Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót
xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan "Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo
Hội" một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời "cầu cho chúng con là
kẻ có tội" là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư
thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với
đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn
dám cầu xin "Thánh Maria", và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn
không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông
vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ
chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho
lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng
qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào
ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội
Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ
tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về
một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và
cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người
con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến
thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ
Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ
Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì
thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu
biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là
khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu "Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến
Thắng", để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt
Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh
Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực.
Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn
thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai
khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong
những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện
diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn
đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của
mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối
cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi
là "đất Đức Bà", đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết
tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi
đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến
Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho
chúng con. Amen.
16. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn,
Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương
tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và
nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu
chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần
theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại
cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: "Tôi
đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!"
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một
em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng,
em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn
đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
"Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy
đến với Mẹ Maria?".
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ
Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải
qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối
mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu.
Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi
chúng ta: "Hãy chạy đến với Mẹ Maria".
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế
giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia
đình Công giáo: "Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi
Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng
thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm
hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự
cảm thông...".
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay
trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện
tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: "Chuỗi Mân Côi
là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời
trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những
lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ.
Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói
rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về
Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện
tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta.
Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta
hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa
kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá
nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của
chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần
gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của
con người" (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn "Lòng sùng kính
Đức Maria" (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: "Kinh
Mân Côi là kinh Tin Mừng". Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy
Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là
vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm
Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân
Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ
tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh
Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác
quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ... những giá trị "nên
xác thịt" nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho
tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự
hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ
ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ
khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời.
Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua
với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ
Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày
những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ
Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những
biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã
hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ
Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp
trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa
chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì
Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến
chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát
khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII
đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời
cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng
ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi
đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa.
Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
17. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas
(Trích trong 'Sống Tin Mừng')
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh
nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giờ đây được chỉ định rõ ràng
cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta
tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần
Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria, hãy vui lên,
Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên
vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được,
khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo
hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính
Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào niềm vui và
niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được
Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được
loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng
Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi
Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là
người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể.
Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm
hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời
Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên
nơi nhà ông Dacaria:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà", Mẹ
Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến,
nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa.
"Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến,
đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng
ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel,
là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng
ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
"Hỡi Maria, đừng sợ", kinh
nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người
run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được
mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ
Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định
của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ,
một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình
này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt
cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự
vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi
của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay,
chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ
khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời
hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng
con".
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện
của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria,
chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của
Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng
con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống
trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong
niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
18. Phương thuốc thần diệu – Lm Trần
Ngà.
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Mọi tội lỗi của con người đều do một
cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài
người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và
phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã
không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng
giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường
rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. "Thật vậy,
vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội
nhân..." (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi
đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên
gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương
thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy
ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giê-su.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi
hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa
chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho
chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng
ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công;
khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời
chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta
hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa
đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình
là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng
theo lệnh Chúa truyền. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua
mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn
của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn
vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng)
rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của
Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giê-su trong mầu nhiệm
thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22,
44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà
làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù
phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn răng
chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như
một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng,
nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn bằng lòng chịu đựng và
xin thưa với Cha: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại
phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội
khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giê-su vẫn xin vâng:
"Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu
chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su vẫn một lòng vâng theo ý Cha và
xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Luca 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ
năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giê-su.
Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phao-lô khắc hoạ lại trong bài ca
gửi tín hữu Philíp:
"Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết,
chết trên cây thập tự..." (Philíp
2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa
Giê-su rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống
lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn
Chúa Giê-su vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban
cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt
đối của Chúa Giê-su, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư
mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất (Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài
học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận
gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế
giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ
Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước
gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống
tội lỗi ngay trong lòng mình.
19. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' của
Lm. Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một
cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông
loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường
lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải
chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi
trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu
là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một
người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân...
" (Rôma 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư
vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn
tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giê-su chính là "đầu tàu" nầy:
"Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà
muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giê-su) đã vâng
lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời
động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giê-su và Mẹ Maria, đi theo
con đường vâng phục như Chúa Giê-su và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc
muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của
Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của
mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại
những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên
Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội
dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm
mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn
của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần
Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy
chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn
của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho
Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi
lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự
mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giê-su
Song song với tấm gương vâng phục của
Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giê-su trong mầu nhiệm
thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca
22, 44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con,
mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù
phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn răng
chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể
hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như
một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng,
nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn bằng lòng uống cạn
chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại
phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội
khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa
Giê-su vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý
Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu
chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su vẫn một lòng vâng theo ý Cha và
xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su
rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại
và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa
Giê-su vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho
Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt
đối của Chúa Giê-su, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư
mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất (Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi
chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giê-su và Mẹ Maria. Vâng theo ý
Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giê-su và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển
và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời
Chúa Giê-su dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy
Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha
Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
20. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
(Lc 11,15-26)
Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất
phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy
Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.
Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải
là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại.
Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ
Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.
Có một thời người ta đã không lần hạt
như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm,
nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần
Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày
tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức
tạp và dài dòng.
Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15
ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa
Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin
Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ
được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như
thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không
phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một
lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng
thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ
đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng
ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng
chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm
đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không
phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng
hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước
tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời
chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và
như vậy cũng đã đủ lắm rồi.
Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà
khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một
người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người
chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn
lành và thánh thiện.
Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời
kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta
lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp
chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời
kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.
Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ
đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ
trong cuộc sống.
21. Tôi là nữ tỳ của Chúa
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn
trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối
Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm
người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt
mến thương.
Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng,
là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay
từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do
của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho
Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
"Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô
và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi
chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây
xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì
nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một
cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người
con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp
đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời
gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không
làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu
phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi
xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao
xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín
hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như
sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin.
"Phúc cho em là kẻ đã tin..."
(Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ
Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa
có còn đáng tin không?
Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với
Mẹ, tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý
nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ
không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị
thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn
có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố
trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần
phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa
không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng
thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh
Đức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong
đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana .
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao
giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận
Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm
hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường
mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn
tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên
Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến
gặp gỡ Thiên Chúa.
22. Chuỗi Mân Côi
1. Suy niệm về tràng chuỗi Mân Côi
Mân Côi là một bộ kinh để cầu nguyện
với Mẹ Maria gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa suy gẫm 20 biến cố quan trọng
xảy ra trong cuộc đời Đức Giê-su và Mẹ Maria. Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng
thời suy gẫm một biến cố. 20 biến cố ấy được chia làm 4 nhóm:
a) Năm sự vui: gồm 5 biến cố trong cuộc
đời thơ ấu của Đức Giê-su.
b) Năm sự sáng: gồm 5 biến cố trong
cuộc đời công khai của Đức Giê-su.
c) Năm sự thương: gồm 5 biến cố trong
cuộc khổ nạn của Đức Giê-su.
d) Năm sự mừng: gồm 5 biến cố vinh
quang (Đức Giê-su phục sinh và lên trời, Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa ân
thưởng và tôn vinh Mẹ Maria).
20 biến cố ấy là những biến cố cốt yếu
trong Tin Mừng, nên có người nói chuỗi Mân Côi là một Tin Mừng được tóm gọn. Vì
thế, đọc kinh Mân Côi hay lần chuỗi là một hình thức đặc biệt để suy gẫm Tin
Mừng, theo kiểu miệng đọc tâm suy. Miệng thì đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ
Maria, tâm thì suy niệm những biến cố của Tin Mừng, chủ yếu là những biến cố
quan trọng của cuộc đời Đức Giê-su. Như thế, đọc kinh Mân Côi không chỉ là cầu
nguyện với Mẹ Maria, mà còn là suy gẫm về Đức Giê-su và cầu nguyện với Ngài.
Trong kinh Mân Côi, ta thấy có sự liên
kết hết sức chặt chẽ giữa Đức Giê-su và Mẹ Maria. 20 biến cố của kinh Mân Côi
đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới Mẹ Maria. Chẳng hạn các biến cố của
năm sự thương có vẻ như chỉ là biến cố của Đức Giê-su, nhưng trong thực tế Mẹ
Maria luôn luôn theo dõi hoặc có mặt một cách âm thầm trong đó. Những biến cố
ấy ảnh hưởng rất sâu đậm đối với cuộc đời Mẹ, và một cách nào đó cũng là những
biến cố quan trọng trong cuộc đời Mẹ. Những đau khổ của Đức Giê-su đều trở
thành đau khổ của Mẹ, vì thấy người mình yêu bị đau khổ, và vì không ai yêu Đức
Giê-su bằng Mẹ. Trong những đau khổ ấy, Mẹ cũng đau khổ không kém gì Đức
Giê-su, chỉ khác ở chỗ người đau khổ trong thực tế, còn người đau khổ trong tâm
hồn.
2. Tại sao Mẹ Maria chỉ cho chúng ta
cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi?
Truyền thuyết trong Giáo Hội cho rằng
kinh Mân Côi đã được chính Mẹ Maria truyền dạy cho thánh Đa-minh, và khi hiện
ra tại Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ cũng khuyên các Ki-tô hữu năng lần chuỗi
Mân Côi. Chắc chắn Mẹ Maria không vì muốn người ta ca tụng tung hô mình mà
khuyên họ tôn sùng trái tim mình và năng đọc kinh Mân Côi. Và cũng chắc chắn
rằng không phải hễ ai ca tụng Mẹ, năng đọc kinh Mân Côi thì Mẹ sẽ đặc biệt ưu
ái đối với người ấy vì người ấy ca tụng Mẹ. Nếu Mẹ Maria khi còn sống đã khiêm
nhường hết mực, thì khi lên trời và làm Nữ Vương thiên đàng, chắc chắn Mẹ cũng
vẫn khiêm nhường như vậy, thậm chí còn khiêm nhường cách hoàn hảo hơn nữa. Vì
thế, ta không thể xét đoán theo tâm lý ham được khen ngợi của con người để nghĩ
tương tự cho Mẹ Maria.
Chủ yếu trong việc truyền kinh Mân Côi
cho loài người là Mẹ muốn con người nên thánh thiện, hoàn hảo và nhờ đó cá nhân
được hạnh phúc, xã hội được bình an trật tự, có công bằng bác ái, chứ không
phải để Mẹ được tung hô khen ngợi. Nhưng trong thực tế, không có một mẫu gương
nào trên đời đáng cho mọi người suy gẫm và bắt chước để nên thánh thiện cho
bằng Đức Giê-su và Mẹ. Nên vì ích lợi của con người, Mẹ đã không ngần ngại đưa
mình ra làm gương để con cái bắt chước.
Thật vậy, trong gia đình, người mẹ lấy
mình ra làm gương cụ thể cho con cái bắt chước, thiết tưởng chẳng có gì là quá
đáng hay mang tính kiêu căng, mà trái lại là một phương pháp sư phạm rất khôn
ngoan. Vì đối với đứa con, chẳng có gì gần gũi, thân thiện và cụ thể cho bằng
người mẹ. Chẳng có gương mẫu nào cụ thể dễ bắt chước cho bằng gương của mẹ. Nếu
vì ngại đưa mình ra làm gương nên đã đưa ra một gương khác xa vời và kém xa
mình cho con cái, thì thiết tưởng làm như thế không phải là khôn ngoan, cũng
chẳng phải là khiêm nhường. Cốt tủy của khiêm nhường là tinh thần tự hủy, không
đặt nặng cái tôi, chứ không phải là hành vi tự hạ bên ngoài. Tự hạ bên ngoài mà
vẫn còn quan trọng hóa cái tôi thì không phải là khiêm nhường. Chính khi tự lấy
mình ra làm gương mẫu vì nhắm ích lợi của con cái mình, Mẹ Maria càng chứng tỏ
Mẹ không đặt nặng cái tôi của mình.
3. Cách đọc kinh Mân Côi cho có ích lợi
Điều cốt tủy của kinh Mân Côi không
phải là đọc cho đủ các kinh Kính Mừng cho bằng việc chiêm ngắm các biến cố quan
trọng trong cuộc đời Đức Giê-su và Mẹ Maria để noi gương và bắt chước. Nếu
miệng đọc các kinh Kính mừng còn tâm trí chiêm ngắm và suy nghĩ 20 biến cố cuộc
đời Đức Giê-su và Mẹ Maria, thì các kinh Kính mừng giúp ta hạn định được số
thời gian bằng nhau cho việc chiêm ngắm mỗi biến cố. Nếu mỗi ngày ta đều đọc
một chuỗi Mân Côi, thì nhờ năng chiêm ngắm Đức Giê-su và Mẹ Maria trong các
biến cố cuộc đời các Ngài, mà ngày qua ngày, ta dần dần trở nên giống các Ngài
trong quan niệm, tư tưởng, lời nói và hành động.
Theo các nhà tâm lý học, tự kỷ ám thị
là một phương pháp tự giáo dục vừa đơn giản, dễ dàng lại vừa hữu hiệu. Không
nói tới những ơn ích siêu nhiên, chỉ bàn tới khía cạnh tâm lý tự nhiên thì kinh
Mân Côi vốn là một phương pháp tự kỷ ám thị rất khôn ngoan, có khả năng biến
đổi bên trong con người một cách từ từ nhưng hữu hiệu. Điều quan trọng là có
một khuôn mẫu tốt đẹp nào đó để tưởng tượng và nghĩ tới thường xuyên. Ngày này
qua ngày khác, con người làm như thế sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy.
Điều quan trọng của tự kỷ ám thị không phải là nghĩ tới khuôn mẫu ấy lâu giờ,
mà là năng nghĩ tới khuôn mẫu ấy. Người chăm chỉ đọc kinh Mân Côi thì ngày nào
cũng chiêm ngưỡng cách hành xử khuôn mẫu của Đức Giê-su và Mẹ Maria, nên sẽ
được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy một cách vô thức, không cần phải cố gắng
nhiều.
4. Còn khía cạnh siêu nhiên của kinh Mân
Côi nữa
Nhưng kinh Mân Côi không chỉ là một
phương pháp tự kỷ ám thị để tự giáo dục và thánh hóa mình cách hữu hiệu theo
phương pháp tâm lý tự nhiên. Nó còn là một phương tiện bảo đảm để kéo ơn Chúa
xuống nữa, vì chính Đức Mẹ đã hứa ban dồi dào ơn thánh cho những ai năng đọc
kinh ấy. Như thế, kinh Mân Côi vừa là một phương pháp tâm lý tự nhiên, vừa là
một phương thế siêu nhiên do chính Đức Mẹ giới thiệu để nên thánh. Vì thế, kinh
Mân Côi thật là một cách cầu nguyện tuyệt vời đầy kết quả mà người Ki-tô hữu
khôn ngoan cần phải biết sử dụng để nên thánh và kéo ơn lành xuống cho mình.
23. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính
Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một
gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là 'mầu nhiệm Mân Côi' thứ nhất trong số 20
mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này,
đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4
năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt
vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt
Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống
Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng
giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy
ra trong cuộc đời đức Giê-su và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu
sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở
nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu
độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố
truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo
như tác giả Luca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân
cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân
này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của
Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư
cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và
xã hội loài người, thì "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?" Câu hỏi này
không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra
lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân
Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những
niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những
nỗi buồn, những đổ vỡ..., những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất
bại, những kỳ vọng hay hoài bão...
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả
mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình
yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ
có vấn đề 'thánh hóa = làm phép' các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng
lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần
làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ.
Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã
'ghi nhớ tất cả các điều ấy... và suy đi nghĩ lại trong lòng' (Lc 2,19.51).
Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống
từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình
và suy gẫm các 'mầu nhiệm phép Mân Côi' là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở
thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá
trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn,
hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng
biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi
không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại
tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ
của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống
Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt
tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi
ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không
theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm
tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại)
không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn
trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất
đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ
còn tiếp tục mãi qua mọi thời: "Hãy năng lần Mân Côi!"
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho
con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho
mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã
được nhắc nhở: "Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không
thể làm được'. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con
đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
24. Suy niệm của Lm. FX. Đào Trung Hiệu
KINH MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN
LOẠI MỚI
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ
tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam : Bà quen dùng Kinh Mân Côi làm
đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: "Đi
được ba chuỗi năm chục". Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra
khoảng ba cây số.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7
tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng
thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh
Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu
dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn
thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu
nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn
giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình
huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể
tích cực tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách
viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào,
dường như không bao giờ cạn.
Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng
sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua
mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris ,
có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi
đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh.
Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng
nói: "Bác ơi ! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy
nữa à!".
Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời:
"Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe
đi".
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình:
anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan
lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải
những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ
suốt nửa tiếng.
Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi
sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao
cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên
trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán
phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều
người đạo đức coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là
hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng
chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của
những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu
thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ
những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện
một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật
giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng
thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập
trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa
cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi
hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày
càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ.
Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể
trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra
giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh
quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai
của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua
đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống
trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ
ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh
Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ
Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh "Kính Mừng" quen
thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng vui lên" của thiên sứ
Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1,
28).
Lời chào "Ave" ấy không chỉ
gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào "Đấng
đầy ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn
địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con
rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà,
nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân
sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân
loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện
diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
"Chữ E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve
gửi bình an cho đời".
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa
tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại.
Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng". Lời hứa ấy nay
được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này
đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Giêsu có
nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: "Và Giêsu Con
lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc kinh "Kính Mừng", ta có
thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động
viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới "cao hơn, nhanh
hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ
cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại...
Cũng vậy, qua những lời "Kính mừng
Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo"
của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó,
chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh "Kính
Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một
nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta
sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài
kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức
mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng
ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
25. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm
nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi
Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành
một "chuồng ngựa". Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở
hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã
chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn
Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma
quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc
biệt là Việt Nam
hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi
ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của
tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi
năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong
năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở
thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung
Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao
động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất
khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi
từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất
phát từ... người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng
báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của
người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn
nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là
thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng
cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh
Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê
đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh
Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc
và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và
cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân
đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với
ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba
Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền
sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc
chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của
Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ
về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy
nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung
Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi
dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy,
một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm
kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm
giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và
tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những
hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương
tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan
trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ
bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân
Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy
một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn
rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân
Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, Giáo hội mời gọi
chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ
trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin
Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để
chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành
thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các
linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình
cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn
trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm
ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta
biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của
con người hôm nay. Amen.
26. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy
Thống
TẠI SAO CHÚNG TA ĐỌC KINH MÂN CÔI
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang
mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy
xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam . Bức thư ấy
cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài
liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở
cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho
Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu
nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức
Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn
kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu
mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân
Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà
cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ
sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân
Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé,
vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu
nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện
được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức
Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu
nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn
Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và
còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin
trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn
chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức
Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien
dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng
không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong
Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên
Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi
người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế
nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã
trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân
vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó
mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà
ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển
chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn
khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống
đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên
Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác
Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho
Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều
gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự
sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân
Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì
đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà
mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người
chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp
lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng
kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển
chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu
độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức
Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho
con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu
nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong
cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các
Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như
các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để
làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận
hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay.
Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra
mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế
và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi
một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá
trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống
có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận
thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại
máu A, B, C, D,... Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng
máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng
tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và
mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh
trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng
đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời
sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen
chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức
Mẹ,..., và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là
tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu
nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với
mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự
sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính
nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải
ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó,
đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà
xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để
niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm
vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai
thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan
Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều
điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada... Vì thế, đây
cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu
nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy
tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm
lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15
hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu
cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như
gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ
chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người
chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông
của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui
hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông
với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn
với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có
thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn
giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội,
rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa
Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó
chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng
Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo
Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra
qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư
mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã
hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm
thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh,
mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp
gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào
đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị
lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình
trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ
bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ
của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi
tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước
chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ
hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với
một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện
diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con
dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi,
chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết
được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra.
Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm
niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố
ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng
ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng
ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh,
bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ
gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu
nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng
với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ
dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện
bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để
nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình
cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình.
Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những
người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ
Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín
hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi.
Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một
tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức
sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin
kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây
là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo
phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn
ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
27. Đức Chúa Ở Cùng Bà
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng
thẳng, vội vã.
Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống,
thanh thản bình an
để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca
ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền
tin,
lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã
đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc
biệt yêu thương.
Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc
chưa chào đời,
và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi
mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên
tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và
ân phúc của Mẹ
vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển
chọn, yêu thương
được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ
tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên
Chúa ở cùng,
để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân
Chúa.
Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc
nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu
mang Ngôi Lời,
Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh,
nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện
giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ,
vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng
anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng
và được mời gọi đem Ngài đến cho thế
giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1,
42)
vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ
Đấng Mêsia.
Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú
mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ
có phúc
vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài
nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay
Chúa
và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của
lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành
trình đức tin như Mẹ,
để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc:
"Phúc cho ai không thấy mà
tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là
nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách
tuyệt vời,
vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ
Thiên Chúa,
và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn
như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra
Đức Giêsu,
nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ
của Ngài:
"Mẹ tôi và anh em tôi là những ai
nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực
hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống,
chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại
hôm nay.
Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt
đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách
viên mãn,
mà Hội Thánh và từng người lại không
được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ
lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có
biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và
lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải
là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống
đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên
đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh
Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong
đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở
Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao
giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận
Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ
trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm
hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của
Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên
Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm
hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên
Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét