...
CHÚA
NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - A
Nhóm
Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe
vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn
đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái
gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh.
Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu
phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông
luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.
Trước
vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi
hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ
hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như
chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó
là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.
Lời
xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng
nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong
tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc
lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu
anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc
chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên
thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ
nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị
thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không
phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực
hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không
phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc
kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức
này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không
phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì
thế, sự
thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ
bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người,
thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói:
Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất
tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không
đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không
bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian
dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ.
Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng
ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công
trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp
của mình trước mặt Thiên Chúa.
Có
một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là
chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô
về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn
lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết
đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối
mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo
đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô
đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì
mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng
thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn
này?
Theo
tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến
Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới
răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng
quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình.
Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn
duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa.
Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể
yêu người.
Từ
đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy
là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của
khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do
Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn
nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi
hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng
có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ
thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào
đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay
cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt
nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ
thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh
thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền
nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần
vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí
trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa
là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người
một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến
Chúa mà thôi.
Bởi
đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như
lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều
người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người
sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con
người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế,
Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng
khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một
khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn
cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã
diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì
Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới
gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá
trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu
thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em.
Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn
có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ
cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề
này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người
Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi
lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng
hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò
gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi
các em đến, ông ôn tồn giải thích:
-
Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh
nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các
cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
-
Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa
bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu
vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm
cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và
chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
-
Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao?
Chúng cháu không biết.
Thưa
anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò
chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị
lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao
trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những
cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường
như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan
tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay
sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
-
Mục
sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục,
nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da
trắng.
-
Đức
Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và
Luther King.
-
Mẹ
Têrêsa thành Calcutta
cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những
người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất
cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn.
Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy
chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu
người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật
Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình
yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv
19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của
Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu
Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan
trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn
các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung
vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều
luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa.
“Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến
Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế
nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa
ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau.
Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến
Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít
ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú
trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có
khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý
Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng
cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều
chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy
nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên
Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc
trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được
tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em
tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con
người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất
trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh
Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang
đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình
yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với
anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy
ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người
Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim
tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh
chị em thân mến,
Chúng
ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng
đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta
biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể
tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ
thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi
sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.
Người
Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ
tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay,
nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng:
LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu
mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp
lý.
Vì
Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là
toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào.
Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt
đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn
nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt
ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều
bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không
những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống
như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:
Yêu
Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình
yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người.
Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình
yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông
đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người
ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì
không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng
ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em
mình” (1Ga 4,20-21).
Còn
hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế
nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét
Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho
chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất
cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn
này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới,
thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của
thiên đàng mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
1)
Yêu
mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2)
Tại
sao ta phải yêu tha nhân?
3)
Bạn
có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
4)
Bạn
nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
Người
Do Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật
cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa
một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu
mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn
nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách
Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa
Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn
thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình."
1.
Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều
người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn
khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa
và điều răn yêu người quy về con người.
Thực
ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang
hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu
thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi
Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa
của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai,
cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình"
(Mt 22, 39).
Qua
dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn
yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu
đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho
những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ
đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có
chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36)
và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc
phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ
từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa
Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những
anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế
nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người
(giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất).
Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai
mà một.
Trong
thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương
người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất
cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2.
Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai
giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy
hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng
bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem
là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh
Phaolô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rôma: "Thật thế, các điều
răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm
cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời
nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm
hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và
Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả
Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,
40)
]]]
Xưa
kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để
giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ
Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy
chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe
phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta
thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ
làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau
đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ
sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà
chặt đầu y.
Thắng
được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự
kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là
giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn
chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn
chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn
giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương
là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Vào
thời Chúa Giêsu có 2 phong trào đối địch cố gắng nắm lấy uy thế lãnh đạo dân Do
thái, đó là phái sa-đốc và biệt phái. Những người sa-đốc đã bị Thày chí thánh
khóa miệng, đến lượt những người Biệt phái tìm cách gây khó cho Ngài; nếu thành
công họ sẽ được hai cái lợi: qua mặt người sa-đốc và tiêu hủy uy tín của Chúa
Giêsu. Họ hội họp nhau trong ý định ấy và thỏa thuận gởi một người trong bọn họ,
chuyên gia về Lề luật, đến gặp Chúa Giêsu để hỏi Người về vấn đề tranh luận bất
tận trong giới ký lục và luật sĩ. Thực vậy họ đã mổ xẻ lề luật và đã chia lề
luật làm 613 huấn giới, 365 điều cấm, 48 chỉ thị. Trước một toàn bộ như thế,
một số người Do thái bỏ hết thời giờ xem xét cách sống của mình để sao cho phù
hợp với lề luật, một số thì chịu. Do đó một số mới tự hào xem mình là công
chính và một số khác sinh lo âu thấy mình là kẻ phạm luật. Cả 2 đều không biết
đến sự tự do tinh thần của tình yêu. Vì thế hiểu được có nhu cầu tổng hợp và
đơn giản hóa lề luật. Các người Biệt phái chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề tế nhị
này. Ngài tổng hợp ra sao, Ngài đơn giản theo nguyên tắc nào? Câu trả lời của
Chúa Giêsu không muốn mới mẻ và đề ra cái độc đáo. Chỉ có thể nằm trong đường
hướng nguyên thủy của một bản luật do Thiên Chúa ban truyền. Câu trả lời chỉ
nhắc lại. Thái độ vụ luật tỉ mỉ chi li của người Biệt phái hay khiến họ quên
điều chính yếu của lề luật: do Thiên Chúa ban truyền. Luật thánh nhằm nối kết
con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc lại ngọn nguồn và ý nghĩa của lề luật
là gì. Lề luật nhằm tạo tương quan yêu thương với Thiên Chúa là Tình thương;
bởi đó tình yêu đồng đều Thiên Chúa ban phát cho mỗi người phải liên kết người
ta lại với nhau bằng một phản ảnh của tình yêu ấy. Giới răn thứ nhất là kính
mến Thiên Chúa và giới răn thứ hai giống như vậy yêu mến người lân cận.
1) Người ta có thể yêu mến Tuyệt đối
được không? Có thể yêu mến Đấng xưng
mình bằng danh “Ta có” không? Thờ phượng Ngài thì được, nhưng yêu mến Ngài? Thế
nhưng tôn giáo Israel
và Kinh thánh không ngừng diễn tả một tác động của tâm hồn phải gọi là tình yêu
mến. Như vậy có nghĩa là mạc khải ban cho dân Thiên Chúa, khác hẳn các tôn giáo
khác. Thông thường các dân chọn và tạo lấy cho mình các huyền thoại, các thần
thánh. Trong trường hợp Israel,
chúng ta thấy chính Thiên Chúa đã chọn lấy một dân, hành động khởi đầu do từ
Thiên Chúa đến và là một hành động yêu mến. Israel được kêu mời yêu mến một
Thiên Chúa không phải trừu tượng xa vời, nhưng là sống động và có mặt điều
khiển lịch sử của dân. Hiểu cho đúng, lề luật đã khơi động tiềm lực của trái
tim. Ta sẽ đặt Luật Ta vào đáy lòng chúng và sẽ viết lên trái tim chúng (Gr
31,33). Phải, người ta có thể yêu mến Tuyệt đối khi Tuyệt đối mang tên Thiên Chúa
Israel.
Do đó Chúa Giêsu quả quyết rằng giới răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa.
2) Nhưng Thiên Chúa Israel đã có mặt và
tích cực hoạt động trong lịch sử một dân tộc và trong tâm hồn các tín hữu, còn muốn hơn nữa, Con Thiên Chúa khi làm người ước
ao được người ta yêu mến bằng tất cả tiềm năng của trái tim loài người. Yêu mến
Đấng “Hằng có” được mạc khải cho Môi-sê là một giai đoạn đáng kể của quá trình
nhân loại vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chưa phải là trình độ của Phúc âm. Từ
Nhập thể Thiên Chúa đã làm người. Ngài có thể làm đối tượng cho toàn thể tác
động thâm sâu bao gồm trí khôn, ý chí, cảm xúc, tóm gọn trong chữ “yêu mến” và
tác động ấy đặt vào một ai có thể đến gần. Con Thiên Chúa đã đích thân đặt mình
vào chỗ khả năng yêu mến của con người có thể tới. Một sự kiện đầy ý nghĩa.
Chúng ta đều biết tầm quan trọng của tên người mà mình yêu trong khi yêu. Vậy
mà Israel
có lề luật tóm tắt trong việc yêu mến đã đánh mất cách đọc chân thật tên Thiên
Chúa mình. Người ta không biết danh hiệu “Giavê” có phù hợp với cách đọc nguyên
thủy của tên Thiên Chúa hay không. Từ Phúc âm thì không còn như thế nữa. Giáo
hội (nghĩa là những người con ưu tú nhất của Giáo Hội) yêu mến Chúa mình là Đức
Kitô đến nỗi sẽ không bao giờ quên Tên mà chỉ đọc lên đã làm vui thỏa các
thánh. Tên cực trọng Giêsu.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ –
Charles E. Miller)
Nếu
một cuộc trưng cầu dân ý được hỏi ý kiến của mọi người xem ai là người đá banh
hay nhất trong mọi thời, hoặc ai là diễn viên giỏi nhất, hoặc ai là nhà soạn
nhạc giỏi nhất, thì sẽ có rất nhiều ý kiến. Vì hôm nay những người đương thời
với Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: điều nào trong lề luật là cao trọng nhất? Điều
đó có một câu trả lời đơn giản hiển nhiên cho bất cứ một ngươi Do thái sốt sắng
nào. Dù cho lề luật của người Do thái rất nhiều những không có gì ngạc nhiên
khi Chúa Giêsu trả lời: “Các người hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa của các
ngươi với hết tâm hồn, hết trái tim, hết trí khôn ngươi”. Những điều đáng ngạc
nhiên là Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm: “Các người sẽ yêu mến người láng giềng
của các người như chính mình”. Câu hỏi: “Lề luật nào là cao trọng nhất?” chỉ có
một câu trả lời: Chúa Giêsu đã cho hai câu:
-
Câu
trả lời đầu tiên được trích từ sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 2
-
Câu
trả lời thứ hai từ sách Lêvi đoạn 19 câu 18.
Chúa
Giêsu không nói một điều gì mới. Sự góp phần độc nhất của Người là nối kết hai
điều luật, trong hai sách tách biệt của Thánh Kinh và làm chúng nên một. Sự
nhấn mạnh của người là không thể có tình yêu thật, tình yêu Thiên Chúa thật,
nếu không có tình yêu người láng giềng, tình yêu tha nhân, và không có tình yêu
tha nhân nếu không có tình yêu Thiên Chúa.
Hầu
hết mọi người có ý ngay lành đều thường nghĩ dễ dàng hơn hoặc ít đòi hỏi hơn,
để yêu mến Thiên Chúa thì dễ hơn yêu mến con người. Sau hết chúng ta biết rằng
Thiên Chúa là hoàn hảo. Nếu như chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa không làm
đúng bằng chúng ta, thì những lỗi nằm trong sự thất bại của chúng ta, chúng ta
dễ hiễu vì chúng ta không phải là Thiên Chúa. Không thể nói về sự liên hệ của
chúng ta với con người cách tương tự. Ngay cả những người mà chúng ta yêu mến
cũng có thể làm phiền chúng ta lúc chúng ta đang tìm kiếm một chút bình an và
thinh lặng, cản trở chúng ta khi chúng ta đang nói chuyện, hoặc khi chúng ta
đang dò các kênh của TV, để tìm một chương trình đặc biệt, lời lẽ hùng biện của
chính trị có thể khiến chúng ta chống lại những người mẹ không kết hôn đang
phải nhờ vào trợ cấp an ninh xã hội, hay là những người tự mãn có thể ảnh hưởng
chúng ta trong việc coi rẽ, khinh thường, những người không có việc làm và
những người vô gia cư, và ý kiến chung có thể chuyển chúng ta tới một sự coi
thường nền tảng sự sống con người qua việc phá thai, chết êm dịu, án tử hình.
Nếu
tôn giáo của chúng ta nhấn mạnh không gì hơn là đến nhà thờ cám ơn Chúa vì
những đặc ân Ngài ban và để cầu nguyện xin Ngài trợ giúp, điều đó sẽ hầu như
luôn luôn là một sự thích thú và một kinh nghiệm dễ dàng. Nhưng ngay trong
thánh lễ, chúng ta được kêu gọi để diễn tả tình yêu của chúng ta cho anh em
đồng loại thấp kém hơn.
Sau
bài giảng chúng ta cất tiếng nài xin cho những dự định quảng đại được thực
hiện. Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của Giáo hội, cho nhà cầm
quyền, cho sự cứu độ của thế giới, cho những người bị bất công, bị cướp mất
những nhu cầu, cho cộng đoàn địa phương của chúng ta. Lời cầu nguyện này là một
phần hợp pháp trong sự thờ lạy Thiên Chúa giúp chúng ta làm viên mãn lề luật
yêu thương tha nhân, chúng ta trao cho nhau những dấu chỉ chúc bình an, và điều
này thật sự là một lời cầu nguyện khiến chúng ta có thể hoàn tất sự hợp nhất và
bình an với những người khác mà Chúa Giêsu trong Thánh Thể đã dự định dành cho
chúng ta.
Sự
cám dỗ là tách biệt tình yêu Thiên Chúa ra khỏi tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu
sẽ không nghe những lời nguyện ấy. Lề luật yêu mến Thiên Chúa và lề luật yêu
mến tha nhân tuy đã được giới thiệu trong hai sách riêng biệt của Thánh Kinh,
nhưng chúng không được tách riêng trong trái tim của chúng ta, trong hành động
của chúng ta.
Một
lần nữa những người Pharisêu muốn giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của
Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn Ngài vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật
lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết, sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải
dạy dỗ hay không.
Chúa
Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một sự tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh
sáng tạo làm cho những người Pharisêu không nói được một lời nào. Ngài trích
dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa... Ngươi phải yêu thương
anh em ngươi...”. Đây là câu trả lời đơn giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút
ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều
thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật
tới gần nhau bằng cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ
giây phút này tình yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương
Thiên Chúa và sẽ không rời ra nữa.
Điều
thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc
duy nhất nay sáng lên bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng
ta nghĩ và làm: tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều
phải làm hoặc không được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu
hỏi: tôi có thể yêu thương như thế nào?
Chúa
Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri,
và do đó tất cả những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều
răn gắn với nhau này. Những người chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc
quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu thương”.
Chúng
ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là
một cách thức triệt để, nhưng có tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi
quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui định. Đàng khác, những qui định này là cần
thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ, phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc
khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi thật sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi
nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng
thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời: làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương
bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận
theo cách này: nếu tôi làm tất cả những gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi
đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói
với chúng ta rằng tất cả trước tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu
thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng hàng ngàn điều phải làm nhưng là
bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo
Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là: trước hết phải thực hành yêu thương điều gì
đó một cách hoàn toàn vô điều kiện. Thế rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần
dần hóa thân vào trong tất cả các biến cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục
–nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu
lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất
và tự do nhất trong số các điều răn của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
Qua
đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất
đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng
như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.
Tuy
nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn
mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ
tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà
sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở
về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn
nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là
chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì?
Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách
vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù
lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con
Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống
mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật
cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn
đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ
như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì
Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng
phải rửa chân cho nhau.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi
vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo.
Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh
thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ.
Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết
mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con
của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã
vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của
mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì
lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và
băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô
Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội
đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý
do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những
anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố,
nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa
khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né…
Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc
làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà
xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh
vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà.
Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia
sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra.
Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc
riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động
thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế,
chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như
thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ
Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong
những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa
lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như
vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để
kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ
nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong
lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua
đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt
tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh
thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời
hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở,
có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già
con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn
thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô
tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú
để người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với
bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt
đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa
cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong
đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa
bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị
thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết
định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong
đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm
hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một
hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược
trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu
chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải
thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm
kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây
nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều
mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy
rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con
người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và
tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc
âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất
của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là: “Yêu thương kẻ khác
như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng
tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin
cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi
người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu
Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người
chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy
thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu
thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách
tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng
còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng
dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ
đó đi!”
Nhóm
Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu
Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn
nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào
truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong
luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt
phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào
những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính
trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài
giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau
một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một
biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay
hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi
người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi
đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để
phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng
chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón
chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn
thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và
ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết
rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng
tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một
nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác
là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi
phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều
người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu,
nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác
ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống
của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu
đề cập đến.
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn,
Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây
gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là
ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em
có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một người mẹ và một người cha thực sự yêu
thương nhau, do đó em biết được tình yêu là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để
nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian
khổ một cách an toàn, do đó em biết được sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện,
và những lời cầu nguyện của em đã được lắng nghe, do đó em biết được đức tin là
gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng
kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm vui là gì. Em yêu anh”.
Tình
yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một niềm vui không giống
như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc
trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường cũng có những giây
phút cảm thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của
Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và quên mình vì
Thiên Chúa và tha nhân.
Niềm
vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã được thăng hoa và
phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến yêu và phụng sự
Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”. Đó chính là tìm
an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như lời Kinh Hoà Bình
của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày
xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình
lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái
thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới
đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng
mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau
cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh
tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy.
Và, giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp
ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình.
Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về
một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.
Từng người một, ba chàng thanh niên đầu
tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết
định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư
kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc
chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa
là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.
Tôi
rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan,
đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu
thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai
yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng tình yêu Kitô
giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được chia sẻ với
hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.
Thời
Giáo Hội sơ khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những
người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là dường nào!” Theo
một truyền thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất
khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu
đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho
cộng đoàn và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”.
Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến
rằng vị môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ
lập đi lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng:
“Không còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương
nhau, đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là
những người Kitô hữu bằng tình yêu thương của chúng ta”.
“Lạy
Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa
tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm
toàn thân con để con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con,
để những người con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện diện trong
con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông, nhưng bằng
cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện
của Mẹ Têrêsa Calcutta).
Có một bản tin “Phở nóng chiều mưa” của
tác giả Bút Bi. Câu chuyện sư sau: “Tiệm phở A đường Kỳ Đồng” chiều hôm kia mưa
như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc
gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang lóng ngóng
lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni lông – ra để trả, một trong hai thanh
niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông
rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ
người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói
thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông
già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói có. Người thanh niên kia
bật cười, bảo nói chơi đó bác ơi. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy
cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói
vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh
niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những
người lao động lam lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm
giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông già phải tự chống gậy đi mua
phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có
khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm
xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!
Nghe
xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấp áp lên tình
con người. Một sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử
yêu thương thầm kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi
hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến nhau hơn.
Điều
cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu thương. Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là Mến Chúa, yêu
người. Đó là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho
người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều
răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Người
Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất
cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên
cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con
người. Thanh ngang của cây thập giá muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến
với tất cả mọi người, để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai,
kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là cây
thập giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu.
Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn
hai giới răn mến Chúa và yêu người mới đích danh là Kitô hữu.
Có
nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu
nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực
ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó.
Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ
mùa.
·
Chúng
ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi
nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng
cao đời sống thiêng liêng.
·
Chúng
ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc,
chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người.
·
Chúng
ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người
trước lương tâm, trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính
mạng.
Mến
Chúa đã khó, yêu người lại càng khó hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến,
dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ
ghét và đáng ghét. Yêu người như Chúa dạy là yêu như chính mình. Có ai lại ghét
mình bao giờ. Trái lại, người ta thường yêu mình quá độ.
·
Chúng
ta chỉ có thể yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta tránh hết sức
không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
·
Chúng
ta chỉ có thể yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng
người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những
kẻ cô thế, cô thân.
·
Chúng
ta chỉ có thể yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại
trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriac
viết: “Ngày nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết
vì giá lạnh”.
Hôm
nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta
một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến
Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong
đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con
người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách
toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để
đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người
Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào
cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy
phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm
trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào
cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng
luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật
vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một
sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công
chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của
thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ
luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ
trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am
tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng
Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời
trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó.
Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ
lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan
trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng
giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình
ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn
đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều
đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.
Chúa
Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử
nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên
Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan
biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có
cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Nếu
có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm
ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi:
"Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ
tôi hài lòng mà thôi ".
Thánh
Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật
táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên
Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi
chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu
người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao
chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để
dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong
đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người
Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên
hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu
của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh
giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang
Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có
một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi
còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo
kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi
để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo
đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ
bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với
tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo
kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ
ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên
hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời bà kiểu đó,
thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy
khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như
câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu
lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa
hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời
sống đạo của mình được.
Khi
chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả
anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình
đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta
hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến
Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà
không mến Chúa thì là sai lầm".
Xin
Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình
như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời.
Suy Niệm
Chúng
ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội.
Nếu
xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì
nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham lam, không giết người...
Thật
ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và
luật buộc, cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi
phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự
yêu mến anh chị em tôi không?
Tất
cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.
Tình
yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu
là bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun
hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước,
và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng
có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu.
Báo
chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu.
Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu.
Chúng
ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này.
Yêu
mến Thiên Chúa là điều răn số một.
Không
phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất
cả con người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn.
Ai
trong chúng ta dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất? Càng lúc tôi
càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh
tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật
chất làm đời sống thiêng liêng bị sa sút.
Điều
răn thứ hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng
ta yêu bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến
nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác
của mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt
hại tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai
điều răn trên không thể tách rời nhau.
Yêu
Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên
Thiên Chúa.
Người
Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa
nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Hai
từ "Tình Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải
có những nét gì?
·
Trong
kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa
tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra
sao?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép
kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn
mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy
Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và
lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng
con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm
lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước
gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và
nhận nhau là anh em.
Câu hỏi gợi ý:
1.
Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều
răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào?
2.
Tại sao thánh Phaolô tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy nhất: “Ai yêu
người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3.
Nếu bạn là một người cha đông con, đồng thời là người cha tốt lành không chút
vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình bằng cách nào?
Chia sẻ
1.
Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Ki-tô giáo
Người
khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ,
điều cốt lõi và điều “bì phu”, điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng
và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm điều chính và
bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều
chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công, không thực hiện nó thì
chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có
thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể
thành công.
Trong
việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan
trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không
thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan
trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề luật: “Tất cả Luật
Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Nếu giữ đạo mà
không phân biệt điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo “kiểu
Pha-ri-siêu” đã bị Đức Giêsu tố cáo: “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà,
thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý,
tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23); “Các người lọc con muỗi, nhưng lại
nuốt con lạc đà” (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không
phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành “những kẻ dẫn đường mù quáng” (23,16). Do
đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Ki-tô hữu muốn giữ
đạo và nên thánh.
2.
Hai điều răn tóm lại thành một điều răn: “yêu thương”
Cũng
trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai
điều răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải
nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng
thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai
giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”, đối tượng của động từ “yêu” này
có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý
thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không thể phân biệt, và
không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai
trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy
duy nhất.
Thật
vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với
tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng
(x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc biệt những
người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta”, và “mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một
trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Tại
sao thế? Vì con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu
một người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp tình
nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con
người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con người đã được
Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga
11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã
cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x.
Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai
yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài
hết mực yêu thương: “ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được
Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).
Như
vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần
gũi chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính
Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Ki-tô hữu có đức tin
đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày,
và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi
tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến
Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ
không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu
thương anh em mình” (4,21).
Quả
thật, không phải là phi lý mà thánh Phaolô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề
luật không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: “Anh em hãy mang
gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2); “Ai
yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Các điều răn đều tóm lại trong
lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (...) Yêu thương là chu
toàn Lề Luật” (13,9-10); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình"“ (Gc 2,8). Không những ta phải yêu
thương những người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ
cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương nữa: “Chúng ta hãy để ý
đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những
việc tốt” (Dt 10,24).
3.
Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để
dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có,
rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có
một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau
khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết
yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách
giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương
thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong
mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho
mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng
chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược
lại, đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn,
đang cần được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi
người cha ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như
thế có hợp lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta
muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều
ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho
nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương
của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất.
Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới
là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em
chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương
yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo
chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em
mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ
yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một
chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh
họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói
điều răn quan trọng nhất chính là “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn”. Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên
Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu
của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai: “yêu người
thân cận như chính mình”. Đức Giêsu đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên
thập giá vì yêu thương con người, đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một
con người), nhưng cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được
Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên
Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người người chung quanh mình, những
người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi
nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu
một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực
tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là hiện thân
của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt
nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha”.
16. MẾN CHÚA THỂ HIỆN QUA ĐỨC YÊU NGƯỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 22,34-40
(34) Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm
cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau
lại. (35) Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử
Người rằng: (36) "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào
là điều răn lớn nhất ?". (37) Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn và hết
trí khôn ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. (39) Còn điều răn thứ hai,
cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình. (40) Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ đều tùy thuộc vào
hai điều răn ấy".
2. Ý CHÍNH:
Câu hỏi của người thông luật trong
nhóm Pha-ri-sêu nêu ra với Đức Giê-su để thử Người vốn là một trong
những vấn đề mà các Rá-bi Do Thái luôn bất đồng ý kiến và không
ngừng tranh cãi nhau: "Trong sách Luật Mô-sê thì điều răn nào là điều
răn lớn nhất ?" Nhưng điều họ cho là khó thì Đức Giê-su lại dễ
dàng giải đáp. Theo Đức Giê-su thì toàn bộ sách Luật và các Ngôn sứ
đều tóm gọn trong hai điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 34-35: + Đức Giê-su đã làm cho
nhóm Xa-đốc phải câm miệng: Trong dân Do Thái có nhiều phe nhóm khác
nhau. Phái Xa-đốc vì chỉ dựa trên Luật thành văn là bộ sách Ngũ Thư,
nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết sống lại (x. Mt 22,23). Họ đã
dựa trên luật "thế huynh" (x. Đnl 25,5-10) để đặt vấn đề với
Đức Giê-su. Người đã trả lời bằng hai điểm: Một là khi sống lại,
người ta sẽ sống như các thiên thần (x. Mt 22,30). Hai là Người nhắc
lại lời Thiên Chúa phán với Mô-sê rằng: Người là Thiên Chúa của các
tổ phụ, ngầm ám chỉ các tổ phụ ấy vẫn đang sống với Người (x. Xh
3,6). Trước những bằng chứng rút từ Thánh Kinh ấy, họ đuối lý và
đành câm miệng. + Thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại: Họp nhau ở
đây nhằm đối phó với Đức Giê-su. Sau này các đầu mục Do Thái cũng
họp nhau để tìm cách giết hại Người (x. Mt 26,3-4). + Một người thông
luật trong nhóm: Đây là một kinh sư trong nhóm Pha-ri-sêu. Thời Đức
Giê-su có khoảng sáu ngàn người thuộc nhóm Pha-ri-sêu hay Biệt Phái.
Cũng như nhóm Ét-sê-ni, nhóm Pha-ri-sêu thường kết nạp những người có
lòng đạo đức muốn chống lại ảnh hưởng ngoại giáo. Nhóm gồm các
kinh sư, các tiến sĩ Luật và cả tư tế nữa. Họ tổ chức thành hội,
nhằm giúp nhau giữ đạo của cha ông và trung thành với Luật Mô-sê. + để
thử Người: Ở đây nhóm Pha-ri-sêu nêu câu hỏi nhằm đưa Đức Giê-su vào
thế bí, để xem Người sẽ giải quyết thế nào đối với một vấn đề nan
giải, thường gây tranh cãi giữa các ráp-bi với nhau.
- C 36-37: + Luật Mô-sê: Luật hay
"Tô-ra" trong tiếng Do Thái, ám chỉ giáo huấn mặc khải của
Thiên Chúa nhằm hướng dẫn cách sống của dân Chúa về nhiều lãnh vực
như: Luân lý, tổ chức gia đình và xã hội, nghi thức phụng tự, các
thừa tác viên và các điều kiện cử hành... Đây là toàn bộ những
điều luật ghi trong Ngũ Thư và chi phối đời sống tôn giáo và trần thế
của dân It-ra-en. Luật Mô-sê gồm 613 điều khoản khác nhau, trong đó có
246 điều truyền buộc và 365 điều luật cấm đoán. + Điều răn nào là
điều răn lớn nhất: Lớn nhất tức là quan trọng nhất. Sở dĩ họ đặt
câu hỏi này với Đức Giê-su, phần vì họ không nhất trí được với nhau,
phần vì muốn thử Đức Giê-su để mong đặt người vào thế bí không thể
giải đáp được. + Ngươi phải yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi: Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến
trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người. Tình yêu ấy phải là
động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác.
+ Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu: Đây là điều răn thứ
nhất trong Thập Giới (x. Đnl 6,5). Tầm mức quan trọng của điều luật
này không phải vì được xếp đầu tiên, nhưng vì việc mến Chúa là điều
quan trọng bậc nhất. Vì thế mỗi người Ít-ra-en đều phải đọc đi đọc lại
Luật này mỗi ngày hai lần: lúc vừa thức giấc cũng như trước khi
nghỉ đêm.
- C 38-40: + Điều răn thứ hai cũng
giống điều thứ nhất: Điều răn thứ hai tuy nói về đức yêu người, nhưng
cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất nói về lòng mến Chúa. Vì
đức yêu người bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cần thiết ngang với lòng
mến Chúa vậy. + Yêu người thân cận: Đối với dân Ít-ra-en: người thân
cận là những người cùng chủng tộc, cùng huyết thống. Nhưng Đức Giê-su
đã mở rộng tình yêu tha nhân đến hết mọi người: Dù là Do Thái hay dân
ngoại, nô lệ hay tự do... và yêu cả kẻ thù của mình nữa (x. Mt
5,43-48). + như chính mình: Yêu kẻ khác giống như yêu bản thân mình, là
đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Nói cách khác yêu người
bằng mình là: "Muốn người ta làm gì cho mình, thì hãy làm cho
người ta như vậy" (x. Mt 7,12), và ngược lại "Điều gì con
không thích thì đừng làm cho ai" (Tb 4,15). + Tất cả Luật Mô-sê và
các sách Ngôn sứ: Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ là cách nói chỉ
toàn bộ Cựu Ước. Luật Mô-sê gồm có năm cuốn sách trong bộ Ngũ Thư.
Còn sách các Ngôn sứ gồm hai loại: sách các Ngôn sứ lớn như I-sai-a, Giê-rê-mi-a,
Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en và sách các Ngôn sứ nhỏ như Ba-rúc, Hô-sê, Giô-en,
A-mốt, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai,
Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. + đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy: Thánh ý
của Thiên Chúa biểu lộ qua các giới răn, và qui về hai giới răn là
"Mến Chúa" và "Yêu người". Như vậy, Đức Giê-su đã
gắn liền điều răn yêu người với điều răn mến Chúa, bằng cách cho cả
hai cùng quan trọng như nhau, và tập trung tất cả lề luật vào hai
điều răn này. Từ nay, người ta không cần phải lo lắng chu toàn tất cả
613 điều khoản, với các chi tiết khó nhớ và khó áp dụng. Nhưng họ
chỉ cần giữ hai điều then chốt là "Mến Chúa hết lòng hết
sức" và "Yêu thương tha nhân như chính mình". Giữ hai điều
này là đã giữ trọn Lề Luật và đã làm theo thánh ý Thiên Chúa rồi.
Sau này, Đức Giê-su còn thêm một điều răn mới là: "Anh em hãy
thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Thái độ của nhóm Pha-ri-sêu
đối với Đức Giê-su thế nào?
ĐÁP:
Trong nhóm Pha-ri-sêu, một số người
có thiện cảm với Đức Giê-su, nên đã mời Người đến nhà (x. Lc
7,36;11,37), trong số đó cũng có người có chức vị thủ lãnh (x. Lc 14,1).
Có người đã bảo vệ Người tránh khỏi bị Hê-rô-đê bắt (x. Lc 13,31).
Ông Ni-cô-đê-mô một thành viên của nhóm Pha-ri-sêu cũng đã bí mật gặp
Đức Giê-su vào ban đêm (x. Ga 3,1-2), và sau đó đã công khai bênh vực
Người (x. Ga 7,50), và góp phần vào việc mai táng Người như một môn
đệ (x. Ga 19,39-40). Ông Ga-ma-li-ên, một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu
trong Thượng Hội Đồng có lần đã lên tiếng bênh vực các Tông đồ (x. Cv
5,34-39). Tông đồ Phao-lô trước khi theo Chúa đã từng là một thành viên
nhiệt thành nhất trong nhóm Pha-ri-sêu (x. Cv 26,4-5). Tuy nhiên, đại đa
số người Pha-ri-sêu không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nên kịch
liệt chống lại Người và giáo lý của Người.
HỎI 2: Thái độ của Đức Giê-su đối
với nhóm Pha-ri-sêu ra sao?
ĐÁP:
Về phần Đức Giê-su, tuy nhiều lần
nặng lời quở trách nhóm Pha-ri-sêu về lối sống vụ Lề Luật, giả đạo
đức, vụ lợi, nói mà không làm, kiêu căng, ưa xu nịnh, khinh thường các
tội nhân và dạy giáo lý sai lạc (x. Mt 9,10-11;23,1-7;16,5.12)... Nhưng
Người công nhận họ siêng năng cầu nguyện, bố thí và ăn chay (x. Mt
6,1-18); nhiệt tâm truyền giáo (x. Mt 23,15), phần nào ăn ở công chính
(x. Mt 5,20), gắn bó với truyền thống của cha ông (x. Mt 6,16), giữ
Luật cách nghiêm nhặt (x. Mt 23,23). Đức Giê-su cho biết Người đến không
nhằm bãi bỏ nhưng kiện toàn luật Mô-sê hay các ngôn sứ (x. Mt 5,17-19),
và nhất là Người kiện toàn luật về ngày hưu lễ Sa-bát và truyền thống rửa tay
trước khi dùng bữa (x Mt 12,2; 15,1-2).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó
là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy
là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 2,37-39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU.
Có một cậu bé 7 tuổi bị mồ côi
cha mẹ, nên được ông nội đón về nhà nuôi. Ông nội cậu bé đang làm chủ
một xí nghiệp lớn có hằng trăm công nhân, sản xuất quy mô theo dây
chuyền. Ông vốn là một người tham lam và độc ác, thường tỏ ra hống
hách và bớt xén tiền lương ít ỏi của công nhân. Nhưng mỗi khi có mặt
cậu bé, ông lại tỏ thái độ nhân hậu và biết quan tâm đến những người
nghèo khổ. Nhất là ông rất yêu thương chăm sóc cậu bé, khiến cậu coi
ông như một thần tượng. Cậu luôn miệng khen những việc tốt ông đã làm,
và cả những việc xấu nhưng đã được cậu bào chữa do động cơ tốt. Cậu
thường nói với ông: "Nội ơi, nội được nhiều người yêu quý lắm
phải không ? Cháu dám cá là họ phải yêu ông nội thật nhiều, giống
như cháu yêu nội vậy !" Chính tình yêu thương của cậu bé khiến
trái tim sơ cứng của người ông dần dần trở nên mềm mại, và cuối cùng
đã biến ông trở thành một người tốt lúc nào không hay, theo những đức
tính mà cậu bé thường hay ca ngợi người ông thân thương của mình.
2) LỜI NÓI HƯƠNG BAY,
GƯƠNG BÀY LÔI KÉO.
Một hôm một người khách đến thăm
một tu viện thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta
sáng lập. Ông ta nhìn thấy các sơ vừa đem về tu viện một bệnh nhân
sắp chết, được tìm thấy đang nằm trên vỉa hè cạnh một lỗ cống xông lên
hôi thối. Trên mình người này đầy những chí rận. Ông khách thấy các sơ
vui vẻ giúp người này tắm rửa, diệt trừ chí rận với thái độ ân cần
đầy cảm thông. Sau đó, ông đến gặp Mẹ Tê-rê-sa và nói: "Thưa mẹ,
khi đến đây con vẫn đang có ác cảm và thù ghét đối với hội thánh
công giáo. Con nghĩ rằng các linh mục và nữ tu chỉ là bọn người đạo
đức giả ! Nhưng giờ đây, con đã loại bỏ tất cả những hiểu lầm và
thành kiến lâu nay. Vì tại tu viện này, con đã chứng kiến tình yêu
Chúa được diễn tả cụ thể qua hành động và thái độ của các sơ, khi
các sơ săn sóc cho người bệnh sắp chết kia. Bây giờ thì con đã xác
tín "Thiên Chúa là tình yêu". Vì nếu không có Thiên Chúa trong
tâm hồn, thì chắc các sơ đã không thể đủ nghị lực để quên mình xả
thân phục vụ cách vô vụ lợi những người bệnh tật bất hạnh như vậy
!"
3. SUY NIỆM:
1) MẾN CHÚA ĐI ĐÔI VỚI YÊU NGƯỜI:
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã trả lời cho một kinh sư thuộc
nhóm Pha-ri-sêu biết hai giới răn quan trọng nhất là: "Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn lớn nhất và điều răn đứng đầu.
Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Người phải yêu người
thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn Sứ đều
tùy thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt 22,37-40). Lời tuyên bố này
giống như lời của một vị tôn sư tối cao, chấm dứt được sự tranh luận
lâu nay của các hệ phái Do Thái về điều răn nào trọng nhất trong bộ
Luật Mô-sê.
2) BA BẬC MẾN CHÚA:
Có ba bậc mến Chúa là mến Chúa
hình thức, mến Chúa thông thường và mến Chúa hết lòng như sau:
+ Mến Chúa hình thức: Một số
người chỉ giữ những việc đạo như mười điều răn, đi lễ Chúa Nhật,
xưng tội rước lễ... vì sợ bị mắc tội nặng phải sa hỏa ngục. Còn
những tội nhẹ như: chửi nhau, tục tĩu, ăn cắp vặt, gian dối, tham
lam... thì họ không quan tâm chừa cải. Những người này giống như những
đứa trẻ chỉ học hành hay làm các việc nhà vì sợ cha mẹ rầy la
trừng phạt, nên dễ dàng đi chơi khi cha mẹ vắng nhà. Đó là những
người "chỉ mến Chúa ngoài môi miệng, còn lòng họ thì ở xa
Chúa" mà người Pha-ri-sêu trong Tin mừng hôm nay là bằng chứng.
+ Mến Chúa thông thường: Một số
người khác cố gắng sống đạo nghĩa là giữ các giới răn để sau này
được lên thiên đàng. Nhưng vì tình mến Chúa không nhiều, nên đến khi
buộc phải hy sinh bản thân thì họ lại làm như các môn đệ trong cuộc khổ
nạn của Chúa: Kẻ thì "hèn nhát chối không biết Thầy là ai"
(Si-mon Phê-rô); Kẻ thì "bỏ Thầy để chạy thoát thân" (các môn đệ
khác); Thậm chí có kẻ còn "liên kết với các đầu mục Do thái để bán
nộp Thầy" (Giu-đa Ít-ca-ri-ốt)...
+ Mến Chúa hết lòng: Chúng ta
phải liệu sao để có đức "Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết
trí khôn", nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn tất cả mọi người
và mọi sự khác trên đời. Chúa Giê-su cũng đòi môn đệ phải yêu Thầy
hơn yêu cha mẹ và con cái (x. Mt 10,37-39), và nếu cần còn phải sẵn
sàng hy sinh cả mạng sống để chứng tỏ tình yêu Thầy (x. Ga 15,13).
Tông đồ Gio-an mến Thầy nên đã can đảm bán sát khi Thầy bị xét xử tại dinh
Thượng Tế và bị hành hình trên đồi Can-va-ri-ô. Thánh Phao-lô thể hiện lòng
yêu Chúa tột đỉnh khi nói: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm
nguy, bắt bớ, gươm giáo ?" (Rm 8,35). Đúng như lời Chúa Giê-su:
"Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Chúng ta cần xin ơn Thánh Thần giúp
chúng ta đạt tới lòng mến Chúa hết lòng như vậy.
3) HAI BẬC YÊU NGƯỜI:
a) Yêu người như yêu bản thân mình: Đây
là tình yêu nhân bản vị tha của Do thái giáo: Như Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a
con: "Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả" (Tb
4,16), và "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì
chính anh em cũng hãy làm cho người ta. Vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế
đó" (Mt 7,12). Ngoài ra còn phải yêu thương hết mọi người, dù là
người thân hay người xa lạ, dù là bạn hay thù như lời Chúa dạy:
"Thầy nói với anh emlaf những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và
làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện
cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai
đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho.
Ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình,
thì cũng hãy làm cho người ta như vậy" (Lc 6,27-31). Mỗi tín hữu chúng ta
cần phải xin Chúa giúp thực tập đức ái theo từng bước như vậy.
b) Yêu người như Chúa đã yêu : Đây là
tỉnh yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa do Chúa Giê-su đề ra, nêu gương và mời gọi
môn đệ học tập làm theo:
- Một tình yêu rộng mở: Khác với tình
yêu bình thường của loài người là chỉ yêu những ai yêu mình và ghét bỏ những ai
ghét mình; Chỉ yêu những người nào đáng yêu, ghét những kẻ dễ ghét; Chỉ giới
hạn tình thương nơi những người thân quen với mình... Còn tình yêu của Thiên
Chúa lại rộng mở: Yêu hết mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không
loại trừ bất cứ ai, kể cả những kè thù ghét làm hại mình, như lời Đức Giê-su đã
dạy: "Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi
anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái Cha anh em, Đấng ngự trên
trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người
tốt. Và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt
5,44b-45). Tình yêu của Thiên Chúa còn thể hiện tới mọi loài mọi vật khác nữa
như các thú vật cỏ cây: "Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo
không gặt, cũng không có kho có lẫm. Thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em
còn quý giá hơn loài chim biết bao!... Hãy nhìn hoa huệ mà suy: Làm sao chúng
không kéo sợi, không dệt vải. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua
Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy."
(Lc 12,24.27).
- Một tình yêu quên mình phục vụ: Vì
yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên loài người, thừa nhận loài người làm con cái
để chia sẻ hạnh phúc với Người. Nhưng loài người đã đáp lại tình yêu ấy bằng
thái độ tệ bạc là nghe lời cám dỗ của ma quỷ phạm tội chống lại Thiên Chúa. vì
thế, loài người phải bị phạt là chịu đau khổ bệnh tật và cuối cùng là bị chết.
Nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc loài người, đã đề ra chương trình cứu độ: Ngài
hứa ban ban dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu con rắn hỏa ngục là ma quỷ, còn
ma quỷ sẽ tìm cách chống lại (x. St 3,15b). Dòng giống người nữ ấy là Chúa Giê-su,
Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa sẽ xuống thế làm
người, vâng lời Chúa Cha, bằng lòng chịu chết thập giá để đền tội thay cho loài
người, và sống lại để mở ra một con đường cứu độ là đạo công giáo, hầu ai tin
Chúa Giê-su và đi con đường mến Chúa yêu người của Người sẽ được hưởng ơn cứu
độ (x Pl 2,5-11).
- Một tình yêu tha thứ vô điều kiện.
Tha thứ là dấu hiệu của một tình thương thực sự. Khi yêu ai, người ta sẽ dễ
dàng tha thứ lỗi lầm của người đó. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đề cập nhiều
đến tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, như trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu.
Người Cha này đã sẵn sàng tha thứ cho đứa con bỏ nhà đi hoang, luôn chờ mong
đứa con hư sớm trở về, vui mừng ra tận cổng đón nó, và lập tức tha thứ lỗi lầm
cho nó, trả lại quyền làm con và mở tiệc ăn mừng. Ông đã trả lời anh con cả
biết lý do vui mừng như sau: "...Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ,
vì em con đây đã chết mà nay lại sống. Đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc
15,32). Đức Giê-su cũng muốn các tín hữu chúng ta noi gương yêu thương của Chúa
Cha: Đối xử bao dung với nhau như Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta: "Và
tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chứng con" (Kinh Lạy
Cha). Chúa muốn chúng ta yêu thương hết mọi người. Nhất là yêu thương những
người nghèo hèn, bất hạnh, bệnh tật và bị bỏ rơi... Chúa muốn chúng ta luôn tha
thứ cho tha nhân đã xúc phạm đến mình cách vô điều kiện (x. Mt 18,21). Chúa
muốn chúng ta có tình yêu thương quảng đại hy sinh, sẵn sàng chấp nhận thua
thiệt. Đó mới chính là tình yêu đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chỉ tình
thương như thế mới bền vững và mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
4. THẢO LUẬN:
1) Làm thế nào để phân biệt một tình
yêu thật sự với tình yêu vụ lợi ngoài môi miệng ? 2) Mỗi tín hữu cần thực
hành Lời Chúa để đi bước trước trong tình yêu tha nhân: "Tất cả những
gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm
cho người ta" (Mt 7,12)?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày nay Chúa
cũng muốn chúng con mở rộng vòng tay đến với hết mọi người. Chúng
con chỉ có thể "nối vòng tay lớn" nếu biết gắn bó với
Chúa. Ước gì khi nhìn lên cây thánh giá, chúng con thấy mẫu gương một
tình thương tột đỉnh của Chúa là hy sinh quên mình chịu chết để cho
chúng con được sống. Tình thương của Chúa mời gọi chúng con giang tay
cầu nguyện, rồi nắm tay nhau để hợp tác xây dựng một thế giới mới ngày
một công bình, yêu thương và an bình thịnh vượng hơn.
- LẠY CHÚA. Ước chi chúng con biết
làm mọi việc vì lòng mến Chúa và sẵn sàng hiến thân phụng sự Chúa như
lời thánh Phao-lô: "Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi" (2
Cr 5,14). "Đối với tôi sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối
lợi" (Pl 1,21); Từ nay "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi,
mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20); Tôi "Không còn được
sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì
tôi" (2 Cr 5,15).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM