HẠT TÂN SƠN
NHÌ: THƯỜNG HUẤN LẦN III
Vào lúc 08
giờ 00 ngày 18/9/2014, tại nhà thờ giáo xứ Gò Mây, giáo hạt Tân Sơn Nhì, đã
diễn ra ngày Thường huấn lần III năm 2014 cho gần 400 viên chức, là thành viên
Hội đồng Mục vụ (HĐMV) và đại diện Ban Chấp hành các hội đoàn thuộc 18 giáo xứ
trong giáo hạt.
Cha Hạt
trưởng Phanxicô Assisi Lê Quang Đăng đồng hành và chủ tế Thánh lễ tạ ơn. Đồng
tế với ngài là 16 linh mục trong giáo hạt Tân Sơn Nhì.
Khai mạc
Trước hết,
linh mục chánh xứ giáo xứ Gò Mây đã chào mừng quý cha, quý chức giáo hạt Tân
Sơn Nhì đến với giáo xứ, và giới thiệu đôi nét về lịch sử và hoạt động của giáo
xứ Gò Mây.
Cha quản hạt
giới thiệu giáo xứ Gò Mây do Hội Thừa Sai Việt Nam quản lý về mặt nhân sự. Ngài
nhắc chúng ta đã sống gần hết năm Phúc Âm hoá gia đình, nhưng thử hỏi gia đình
chúng ta đã Phúc Âm hoá, sống theo tinh thần của Chúa, sống tốt lành, thánh
thiện, thay đổi, dấn thân làm tông đồ, cha mẹ con cái sống với nhau hạnh phúc
chưa? Qua đó, ngài mời gọi gia đình chúng ta phải là một đền thánh. Ngài cũng
nhắc lại lời của Đức Thánh Cha Phanxicô kêu mời mọi người đọc kinh do ngài soạn
để cầu nguyện cho Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới từ 05-19.10.2014 tại Rôma.
Chia sẻ
Tiếp đến,
linh mục Đặc trách huấn đức Giuse Maria Lê Quốc Thăng chia sẻ đề tài: Gia Đình
– Đền Thánh Tại Gia. Ngài đã đề cập đến thực trạng nhiều gia đình Công giáo
hiện nay không có Chúa trong gia đình, chạy theo trào lưu lối sống thế gian,
nhiều thành viên trong gia đình thiếu tôn trọng nhau, không có sự hiệp nhất yêu
thương, dẫn đến không hạnh phúc. Cho nên, ngài mời gọi mọi người nhìn lại gia
đình của mình là Đền Thánh Tại Gia, nơi đó có Thiên Chúa ngự trị, nơi chúng ta
gặp gỡ Thiên Chúa và sống các mầu nhiệm bí tích.
Cha Giuse
Maria giới thiệu đời sống bí tích của gia đình. Ngài nhấn mạnh các bí tích đều
có mục đích thánh hoá con người, xây dựng Giáo hội và thờ phượng Thiên Chúa.
Sau đó, ngài đi sâu các bí tích Hôn Phối, Thánh Thể và Hoà Giải.
Bí tích Hôn
Phối nhằm thánh hoá đời sống trong gia đình.
Bí tích Thánh
Thể nuôi dưỡng chính tình yêu là sức sống của gia đình.
Bí tích Hoà
Giải đưa con người đến với Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót, biến đổi
chúng ta canh tân đời sống, biết tha thứ cho nhau, trở nên thánh, gia đình hạnh
phúc.
Ngoài ra, Cha
Giuse Maria còn hướng dẫn đời sống kinh nguyện trong gia đình. Cầu nguyện là
cách thế chúng ta đối thoại với Thiên Chúa, khi gia đình hiệp nhất trong đời
sống cầu nguyện thì chính Đức Kitô ở giữa gia đình “Ở đâu có hai hay ba người
tụ họp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy” (Mt 18,20). Kinh
nguyện trong gia đình có hai đặc điểm: (1) Lời kinh nguyên chung, tinh thần
hiệp thông với nhau, chung ý cầu nguyện. (2) Khởi đi từ chính cuộc sống, biến
cố xảy ra, nhu cầu trong gia đình.
Sau chia sẻ,
cha đã trả lời nhiều câu hỏi một cách thoả đáng.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Mt 20,1-16a
1. Chủ vườn nho.
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể
xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào
là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công
ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu.
Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày
hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa
không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn
phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn
phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài
người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công
tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một
giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và
cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng
nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng
vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn
đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các
tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo
đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm
nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ
về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay,
một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của
loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh
chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi
bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng
buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự
ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà
thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như
nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó
đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel
trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên,
bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp,
quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất
của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em
ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do
lòng nhân từ của Chúa gợi ra.
2. Đừng so sánh.
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi
ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà hôm nay có
thể trở thành tài sản lớn.
Có một bác
nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất
của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác
những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó,
người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai
mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng
đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:
-
Này bác, bộ tôi phỉnh gạt
bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị
vì tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm
nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong cuộc sống, đám thợ
trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng cho hạng người nào?
Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được thuê sau là
những kẻ tội lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và đã sám hối ăn
năn. Còn những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ vì thấy những
kẻ tội lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ.
Thái độ của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên tiếng chỉ trích
Chúa, vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút
cuối cùng:
-
Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.
Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta nhận thấy: rất
nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ.
Chúng ta cảm thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn
chúng ta, giỏi hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Chúng ta đã ghen
tị với họ.
Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm
lớn là đã xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ không phải theo những
tiêu chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với đường lối của thế gian,
như lời thánh Phaolô diễn tả:
-
Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem là vô nghĩa để
làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu
nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiện họ chê bai,
khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.
Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một chiếc màng nhện
cũng có thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho chúng ta ẩn náu. Và
như thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với người khác mà hãy
chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:
-
Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là tốt thì
có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với điều người khác đã
làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại không phải là những
gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế nào trong vườn nho
của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì về chúng ta và nhất
là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc cuộc đời chúng ta.
3. Lý lẽ của trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có
công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi
như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một
chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa
giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần
gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy
ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
1) Chúa yêu
thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho
Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời
gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày
ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm
Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ
giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng
cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được
thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị
thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều
tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ
người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa.
Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được
hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc
Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn
nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì
chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người
được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật
chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của
Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa,
ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ
không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu
thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu
trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì
thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là
điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng?
Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may
mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu
thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải
biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan
tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc
đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật
đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư
tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần
gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho
bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn,
nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội.
Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu
thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy
có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể
làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho
con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối có làm
cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn
dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật,
yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?
4. Suy niệm của Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
TA CÓ CHẤP NHẬN ĐỂ CHO
PHÚC ÂM LÀM TA SỬNG SỐT HAY KHÔNG?
Chúa Giêsu theo thói quen thường
dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện.
Những dữ kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp
trong một xã hội đang gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương
xứng với mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ
ngôn và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta
hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái
đất này. Những người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn
Thiên Chúa, Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người,
vì Người đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn
ở những gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số
tiền công tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt
một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một
giờ, cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và
lòng nhân từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng
nhân từ vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân
từ đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần
tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu
được bảo đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu
thêm nữa nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải
tránh suy nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này
thích đáng một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là
Kitô hữu đang cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài
người trong lúc cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một
trong những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ
ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ
thì tôi không được sử dụng của cải như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không
được tự do, nhưng bị ràng buộc do bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng
nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi khế ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu
duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân từ và thúc giục phải ban phát, nó không
muốn tạo ra nơi người thụ hưởng của ban phát bổn phận phải đền trả. Nó ban phát
nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó
chờ đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi ở con người một hành động ý thức
và tự do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang
thụ hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách thông thường qua những lời cám ơn
lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do của
Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người lúc đón nhận.
2) Trình độ Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ
của loài người. Dụ ngôn làm người Biệt phái phải sửng
sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel
trong Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải ngạc nhiên,
bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta
để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công
nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm tốn đặt mình dưới sự cai
quản độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa ban cho ta cũng như cho
anh em ngoại giáo không phải những gì tương xứng với sự công bằng, nhưng những
gì mà lòng nhân từ của Người gợi ra.
5. Thiên Chúa quảng đại –
Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày nay có một điều khẳng định lớn lao mà mọi người
thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng làm một công việc như nhau, cùng một chất
lượng như nhau sẽ được trả bằng nhau. Đó chỉ là sự công bằng. Ngay cái nhìn đầu
tiên vào người chủ nợ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người đã trả cho các người
thợ cùng một mức lương dù có người chỉ làm có nửa giờ. Bạn sẽ trả cho những
người thợ cùng một mức lương nếu bọn họ làm cùng một thời gian.
Một cách để cắt nghĩa hành động lạ lùng của người chủ
này, không hề có sự bất công trong việc trả lương cho những người thợ, từ lúc
bắt đầu cho đến khi chấm dứt, họ đã đồng ý chấp nhận mức lương công nhật rồi.
Không có sự bất công khi trả lương cho những người thợ làm đầu tiên vì họ nhận
đúng những gì họ đã đồng ý. Và phần lớn chúng ta đều không cảm thấy thoải mái
về dụ ngôn này. Chúng ta đã không thấu đáo vấn đề.
Một bước nữa để chúng ta nhận ra mình phải thích ứng
thế nào với dụ ngôn này. Không có lý do nào để chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là
những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà chúng ta lại được
giới thiệu như những người làm giờ thứ nhất, khi họ nói: “Chúng tôi đã làm suốt
cả ngày dưới cái nóng gay gắt”. Thật sự chúng ta đã làm gì cho Chúa nếu chúng
ta so sánh chúng ta với những vị thánh lớn trong suốt nhiều thế kỷ vừa qua? Và
như vậy chúng ta sẽ không có gì phàn nàn về dụ ngôn này nữa.
Vẫn còn có nhiều ý nghĩa hơn ẩn chứa trong dụ ngôn
này, hơn những gì chúng ta có thể khiêm tốn và thận trong áp dụng cho chính
mình. Ý nghĩa đó được tỏ lộ qua những lời của vị chủ vườn. Khi người thợ làm
vào giờ thứ nhất phàn nàn với ông. Ông đã trả lời cách mạnh mẽ “Tôi không hề để
cho anh bị thiệt hại”. Và tiếp đó ông thêm một câu hỏi khó trả lời: “Không phải
tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Đối với câu hỏi này, những người
công nhân sẽ không có cách trả lời nào khác ngoài việc gật đầu xác nhận. Nhưng
người chủ vườn còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: “Hay là
anh ghen tị vì tôi quảng đại chăng?”
Tóm lại, dụ ngôn này nói về sự quảng đại của Thiên
Chúa. Thật sự là tất cả những người thợ, ngoại trừ người cuối cùng, không biểu
thị cho một nhóm người nào trong dân chúng. Chúa Giêsu bao gồm những người thợ
làm sớm trong dụ ngôn chẳng qua vì người muốn nhấn mạnh rằng, Thiên Chúa luôn
luôn công bình nhưng quan trọng hơn là Người rất quảng đại. Thiên Chúa quảng
đại với hết thảy mọi người cuối cùng vào vườn nho biểu thị cho hết thảy chúng
ta.
Thiên Chúa ban phát ân sủng của Người cho mọi người.
Chúng ta không cần phải cố gắng tìm hiểu tại sao một số người có vẻ như coi
thường ân sủng của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta sẽ đặt vào việc nhận biết
những ân sủng quảng đại của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta. Người đã ban
cho chúng ta đời sống, gia đình, thế giới mà chúng ta đang sống và Người đã ban
cho chúng ta đức tin công giáo. Tất cả những điều này đều là ân sủng, là đặc ân
đến từ Thiên Chúa. Không có gì dù đơn sơ mặc lòng mà chúng ta có thể làm để
đáng được hưởng phúc lành của Thiên Chúa.
Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ trong suốt
phụng vụ hy tế Thánh Thể. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu của người
con Thần linh của người. Chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình: “Lạy Chúa, con
chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con”, những vị thánh cao cả nhất cũng không xứng
đáng với Thánh Thể, và các ngài còn không được hưởng dồi dào bí tích ấy như
chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình. Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta đến với Người để lãnh nhận Mình và Máu Người trong đức tin.
Và nhờ đức tin đó mà chúng ta không bao giờ phàn nàn
với Thiên Chúa như những người thợ đã làm đầu tiên, nhưng luôn luôn biết dâng
lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cao vượt hơn cả trí tưởng cuả chúng ta
là sự quảng đại của người dành chúng ta.
6. Tôi đâu có bất công.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15), chúng ta đã
từng thấy thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào nhà, vì anh thấy cha
tỏ ra quá bao dung đối với đứa em hư đốn, chẳng những cha tha thứ mà còn mở đại
tiệc ăn mừng.
“Đã bao năm con hầu hạ cha? thế mà chưa bao giờ? còn
thằng con của cha đó... Vậy mà...”
Anh thấy mình bị cha đối xử bất công!
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm cũng cằn nhằn
vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng.
Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng thẳng có thực do
việc Đức Giêsu thường giao du với tội nhân. Ngài quý trọng từng con chiên lạc,
đem đến cho họ niềm vui sống và sự tự tin. Ngài mời họ hoán cải và hứa ban cho
họ Nước Trời.
Như thế, rốt cuộc những người Do Thái tội lỗi cũng
được hưởng hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li Lề Luật.
Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của Đức Giêsu. Họ
cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Khi nhìn thái độ bực bội của người làm từ sớm, chúng
ta hiểu được thế nào là ghen tỵ.
Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn nho không phải vì
ông đã đối xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền lương mà), nhưng vì
ông đã trả cho người làm sau ngang hàng với họ, là những kẻ vất vả suốt ngày.
Nếu ông trả cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu.
Người ghen tỵ không vui được với người vui vì họ
không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là bạn, nên
sự thành công của ai đó trở thành nỗi đe dọa.
Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Ngài
công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ. Ngài có trái tim để tự do yêu,
có lòng tốt để bất ngờ trao tặng, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người trộm lành,
là chủ của người thợ chỉ làm có một tiếng.
Thiên Chúa công bình lại là người cha đầy yêu thương.
Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân, bớt tự hào về mình, thêm trân
trọng người khác, phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen tương.
Đến khi nào người con cả mới chịu vào nhà để niềm vui
của cha, của em là của anh?
Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết chia vui cùng
người mới làm buổi chiều?
Đến khi nào tôi mới thật sự vui với người kế bên chỉ
vì người ấy là bạn tôi?
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben.
Người ganh tỵ vừa hủy diệt người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn
nuôi lòng ganh tỵ, ghét ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
·
Bạn thấy “vui với người vui” dễ hay khó? Có khi nào bạn vui
trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn không ưa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin
cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả
thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một
biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng
quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả
những người thù ghét con.
7. Công Bằng Hay Bác Ái?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn
sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu
truyện sau đây:
Trong một vở
kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như
ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen
lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng
nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho
mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn
nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải
hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”.
Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc
đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis
Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách
mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ
chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà
người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi
không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích
Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những
chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện
bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta
cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà ChúaGiêsu diễn tả
trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là
hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng
hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên
Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công
cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền
bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay
không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc
nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa
thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi
không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm
thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người
khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người,
nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta
khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác
xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán:
tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không
phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng
cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy
nhiêu”.
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người
chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí,
thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi
sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông
cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có
công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất
cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như
người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối
xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của
nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì
không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa
của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử
với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình
nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn
chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta
hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu
thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội
lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì
xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách
Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc
Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai,
vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị
“sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như
những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên
Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao!
Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa
tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải,
cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao?
Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng
sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân
từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng
ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng
ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực
tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt
khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà
không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của
công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc
sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên
Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương
xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa
luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng
tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình
Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
8. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của
Đức Giêsu, ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
-
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được
gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
-
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Israel , được gấp trăm về mọi sự, và
nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh. Các môn đệ cho đi, và
rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên. Dưới
một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau,
để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng, thưởng
công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng. Người còn là Đấng quảng đại, tốt
lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều
đó. Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”. Trong thế
giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công cho thợ buổi chiều
theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius), tiền này
tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản. Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường
mà không có lời giải thích.
Ông chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì
viên quản lý. Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6) lại không được ông
chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần. Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới
được thuê với tiền công rõ ràng, còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ
công bằng” (c.4). Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu
và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông
chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một
(5 giờ chiều) cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn
tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm, “đã làm việc nặng nhọc cả
ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được
một quan tiền. Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để xem họ sẽ sửng
sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện
như vậy. Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả khi biết cha
mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất
công. Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công, vì
ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những
câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa. “Tôi muốn cho người làm
cuối này như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh,
tôi muốn họ bằng anh: đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa. Tình thương
của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người làm nhiều, làm ít,
công nhiều, công ít. “Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài
sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho
kẻ Người muốn. Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con
người. Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15). Con
mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng, ghen tỵ với
may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành, đặc biệt
trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân. Anh trộm lành trên thập giá
cũng là người thợ giờ thứ mười một. Anh được hưởng những gì mà người khác phải
nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không
đáng. Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh. Hạnh phúc Nước
Trời là một ơn ban hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua
bán của con người. Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành. Cha
thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời. Thậm chí đứa hư
hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người đứng ngoài chợ
suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn
những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn
nho của ông chủ? Chắc chẳng được bao nhiêu. Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một, “những người
không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt
đời, những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao. chỉ
biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng, biết
chắc mình sẽ được trả công một quan tiền. Dụ ngôn không nói đến việc người làm
cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy
ắp những tiếng reo như thế, kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân… Chẳng có
ai vào thiên đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của
mình chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những
người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được. Thiên Chúa không
chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người còn thấy cả thời gian chờ. Nhiều
khi chờ còn mệt hơn làm việc. Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên
Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ, vì lòng
tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá
khứ của họ. Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui. Hãy
đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa. Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư
xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu,
xin cho con
trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ
nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa
hiện diện
và hoạt động
trong đời con.
Sống giữa một
thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con
đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và
nghi ngờ.
Xin dạy con
sự hiền hậu
để con biết
cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con
sự khiêm nhu
để con dám
buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng,
xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi
trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được
cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
9. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa
Làm sao không ghét ông chủ là người nhạo báng những
người thợ can đảm khi trả công (trước mặt họ!) cùng một số tiền với những người
chỉ làm việc có một tiếng đồng hồ được? May thay các nhà chú giải giúp chúng ta
nhận ra hai bài học của dụ ngôn khó hiểu nhưng đẹp đẽ này.
Trước tiên dụ ngôn này cho thấy lòng tốt của Thiên
Chúa, một lòng tốt vô cùng, không tính toán và làm cho phỉ nguyện. Thiên Chúa
muống trao ban Tin Mừng cho tất cả mọi người, Ngài muốn mở rộng cuộc sống vĩnh
cửu cho tất cả mọi người. Thí dụ cuối cùng về người thợ vào giờ thứ mười một
chính là ngươì trộm lành trên thánh giá nhận được mức lương rất lớn: “Hôm nay
ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”.
Nhưng dụ ngôn cũng nhằm vào chúng ta: “Bạn hãy coi
chừng khi người ta nói rằng Thiên Chúa tốt lành đến mức đó. Nếu bạn khó hiểu
thì có lẽ chính bạn là người không tốt”.
Cốt lõi của dụ ngôn này nằm ở câu hỏi của ông chủ nói
với kẻ không bằng lòng: “Có phải anh ganh tỵ hay không?”. Cái nhìn của người
thợ lành nghề đối với những người bạn quá may mắn thì không có thiện cảm: “Đừng
đối xử với những người đến trễ như đối xử với chúng tôi”.
Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn thay đổi những người
Pharisêu. Ngài biết họ nghĩ rằng: “Chúng tôi làm việc nhiều vì Thiên Chúa”.
Điều đó không sai, nhưng từ trên sự tin chắc này họ xét rằng việc Chúa Giêsu
quan tâm đến những kẻ xấu xa, những người thu thuế và những người mại dâm là
điều không thể chịu đựng được. “Làm sao ngài dám đối xử với họ cũng tốt và thậm
chí còn hơn cả chúng ta nữa? Một luât sĩ hay lui tới với hạng người này thì có
gì để nói với chúng ta về Thiên Chuá cơ chứ? Người đó biết gì về Thiên Chúa?”
Này nhé, thật sự kẻ nào đó biết đến lòng tốt của
Thiên Chúa thì biết tất cả về Ngài. Chúa Giêsu muốn mạc khải lòng tốt này và
Ngài đụng chạm với những người nói với Ngài: “Không, không phải hiểu Thiên Chúa
như thế đâu”. Có lẽ có điều gì đó kỳ lạ trong phản ứng này, nhưng nếu chúng ta
suy nghĩ về thái độ của chúng ta thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng tin vào lòng
tốt tuyệt vời và phổ quát của Thiên Chúa thì khó hơn là chúng ta nghĩ.
Không gì ngăn nổi, nhúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa yêu
thương những người tốt lành nhiều nhất, ghét những người hoài nghi, và thế là
chúng ta xét đoán nhân danh Ngài vị linh mục này hoặc người nọ thì độ lượng.
“Quan tâm đến những người liêm chính tốt hơn là lân la trong gia đình này hoặc
nơi những kẻ vô lại kia”.
Một người ly dị tái hôn nói với tôi: “Trong những
cộng đoàn Kitô giáo chúng ta không có nhiều tình thương bao nhiêu”. Một phụ nữ
đã lập gia đình với một linh mục không thể chịu đựng nổi: “Nếu bạn biết được
tôi bị ruồng bỏ như thế nào”. Và trong chính trị, có cái nhìn kỳ cục về những
“người không suy nghĩ cho đúng đắn” biết bao!
Một số người sẽ nói hoan hô, chúng ta sẽ chấp nhận
bất cứ cái gì. Hoan hô những người đến vào giờ thứ mười một và những tên trộm
lành! Thiên Chúa yêu thương mọi người chứ? Thế thì chúng ta đừng mất công tuân
giữ đạo đức làm cái gì nữa.
Còn phải bỏ công sức, cần phải có những người thợ vào
giờ thứ nhất. Họ thật may mắn đã được Thiên Chúa nhanh chóng tuyển dụng một
cách bình thản. Nhưng Ngài yêu thương những người đến cuối cùng làm sao! Họ sẽ
chứng tỏ rằng việc luôn luôn ở gần Chúa đã làm cho họ nhận biết Ngài và tình
yêu của Ngài. Than ôi! nếu họ cứng rắn đối với những người đến trễ và những
người lầm lạc, họ cố gắng không bao giờ bỏ lễ, thì họ vẫn ở xa Thiên Chúa.
Thánh Gioan nói: “Ai không yêu thương, kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa”.
10. Tự do Thiên Chúa
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và
Chúa tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối thượng.
1) Đây là sự
tự do của chủ vườn nho: Ông đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi những ai ông
muốn, sau khi đã quyết định phần thưởng và phân công.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự do khi lên
tiếng kêu gọi. Không một tạo vật nào tự hào có quyền trước mặt Chúa. Mà khi nói
đến ơn gọi là nói đến tự do. Giáo hội là một cộng đồng ơn sủng. Sau khi phạm
tôi, tạo vật lại được nghe thấy tiếng gọi ân sủng mà đáng lẽ tạo vật đã bị vất
bỏ: Tạo vật không hy vọng trở lại nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong hình ảnh
sứ thần cầm gươm canh cửa vườn địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như thế trong
thư gửi giáo đoàn Roma: Không có gì tuỳ thuộc vào ý chí hay hành động nhân
loại, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ ái Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài muốn. “Ta
thương Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành động của Thiên Chúa với
người thợ gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm thường hay quí giá. Người thợ
hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài muốn: Người thì được
gọi từ trong lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác được gọi từ buổi thiếu
thời, người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên Chúa quyết định thời gian.
Thiên Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài muốn. Đức Kitô
tuyên bố với Phêrô: “Người khác thắt lưng con, rồi dẫn con đến nơi mà con không
muốn”. Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo từng người. Người thì được gọi vào giờ
đau khổ để được cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để nên thánh. Người thì được gọi cứu
linh hồn mình. Kẻ khác được gọi để cứu tha nhân. Những người khác nữa nhất là
các thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ mệnh giữa Giáo hội chẳng hạn, các
vị lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng phong trào canh tân và các nhà
tư tưởng…
Thiên Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ nói về công
nghiệp và phần thưởng theo cách bất toàn, và chính Đức Kitô theo sự tự do tuyệt
đối của Ngài đã gọi phần thưởng là ân huệ được tham dự vào vinh quang Thiên
Chúa.
Tất cả những tính toán, những dự liệu pháp lý, những
đòi hỏi, những tham vọng, phải tan biến trước oai nghiêm và tự do của Tạo hoá.
Các tông đồ của Chúa Giêsu phải học biết điều đó bằng
kinh nghiệm riêng. Nếu họ đã không được gọi, họ đã sống cuộc đời vô nghĩa giống
như các ngư phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả sau khi đã được gọi
làm môn đệ, họ cũng chỉ như những người vô danh khác, nếu Đức Kitô không phân
biệt họ khỏi những người khác. Trong số các môn đệ, Simon đã chẳng trở thành
Phêrô nếu Chúa không tự ý thánh hiến ông thành vị thủ lãnh. Mặt khác, dù ngã
quỵ trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ sáu tuần thánh, tất cả đã đánh mất ơn
gọi, nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ tập lại, và sai đi truyền giáo,
nhất là đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã đánh mất chức vụ thủ lãnh, nếu
Chúa không ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba lần tuyên xưng lòng
mến này, Ngài lại trao cho ông quyền chăn dắt đoàn chiên. Đức Kitô hừa cho họ
ngồi trên mười hai toà xét xử mười hai chi họ Israel . Đó là phần thưởng đổi lại
lấy những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn huệ nhưng không. Nếu tất cả
Kitô hữu ý thức về những ân huệ đã nhận được do Thiên Chúa tự ý ban cho, thì
mười hai tông đồ và những ai sống giữa cộng đồng được lựa chọn, đã thụ hưởng
một ơn gọi đặc biệt, là phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa và không ngừng nhớ
tới.
2) Dụ ngôn
này còn có một giá trị giáo huấn nữa. Thiên Chúa dùng tự do của Ngài để thực thi lòng nhân
hậu. Thêm vào lời quyết đáp: “Ta lại không được quyền làm điều ta muốn ư?” Ngài
nói: “Mắt các ngươi xấu vì thấy ta tốt ư?”.
Thiên Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do, khi mời gọi tất
cả mọi người. Trước kia chỉ có một dân tộc duy nhất, một dân tộc nhỏ bé và được
tuyển chọn. Nay nhờ Tin Mừng được loan báo cho tất cả các tạo vật, tất cả mọi
quốc gia trở thành môn đệ Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội nhân cũng sẽ được gọi
đúng như lời Thánh Phaolô dạy: “Thiên Chúa đã để mọi người phạm tội để có thể
thương xót mọi người”.
Lòng thương xót của Chúa thực là cao cả. Mọi người
đều được mời gọi chung hưởng. Suốt đời, con người được tham dự vào vinh quang
Thiên Chúa. Được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người sẽ trở thành
hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, bước đi trong ánh sáng của Ngài, tiến nhanh
nhờ sức mạnh của Ngài, tham dự vào bản tính thần linh của Ngài. Do đó, tội nhân
được gia nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực là cao cả,
nên mới quyết giữ ơn gọi được miên trường. Ơn gọi không phải là một dịp tốt duy
nhất, sẽ mất đi, nếu người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên Chúa theo dõi con
người không ngừng và con người có thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như thế, chỉ khi nào ý thức về ơn sủng, con người mới
hiểu được sự cao trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể xử dụng tự do tuỳ ý.
Thiên Chúa cũng sử dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể hiện trọn vẹn tình yêu.
Thiên Chúa ban phát mà không tính toán. Đến lượt con người họ cũng không được
tỏ ra là người ganh tị hay ti tiện, trái lại, hãy mở rộng lượng của Đấng Tối
cao. Các tông đồ đã nhận được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải ý thức điều đó để
hoan hỉ trao ban những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn đã cằn nhằn vì
chịu khó nhọc nóng nực cả ngày mà không nhận được vào nước Chúa. Khi bắt chước
Đức Kitô, những thử thách này là một đặc ân chứ chưa phải là một việc đền tội,
một ơn huệ hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội để chứng tỏ lòng yêu mến sâu xa và
ưu tiên. Vì ta đã được gọi từ sớm để làm việc nhiều hơn. Con người phải từ bỏ
tiêu chuẩn nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách khác. Từ đây, mức
độ là chính tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính toán. Ai biết phó thác
cho thánh ý Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ tình nguyện tận hiến tình yêu cho
Ngài. Vậy dụ ngôn này có một giá trị đặc biệt để giúp Kitô hữu suy nghĩ đúng
đắn. Dụ ngôn này dạy ta phải hiểu biết cách hành động của Thiên Chúa, Ngài dùng
tự do để bày tỏ tình yêu của Ngài.
11. Ghen tị
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình
như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả
những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng
khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất
vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người
làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận.
Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng,
nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì,
nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc
ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách
đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là
hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên
tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài
rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu
thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những
người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã
khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình,
Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc
ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm
thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa
luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng
nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của
mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông
chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia,
thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo
tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của
mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại
xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng
mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho
mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người
là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho.
Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả
lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị
đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so
đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội
đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn
mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của
người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công,
nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có,
không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào
cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ,
không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng
liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những
người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới
ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng
cá… ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị
và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh
lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta
dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia
buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may
mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen
tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói
xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái
và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay
cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui
cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều:
Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc
nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có
hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người
hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có,
đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và
gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng
về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không
phân bì, ghen tương ai.
12. Ganh tị
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình
đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con
mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào
lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh
lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ
biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải
thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không
luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này
lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và
nhận ra được điều này cũng không phải là dễ, Có lẽ phải mất một thời gian khá
lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do
chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu, lòng
nhân từ và quảng đại.
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể
cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là
điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí
nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay
Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta
biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên
Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều
chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay, dụ ngôn
thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn
cho các nhân công làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho
những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước
khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời
người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm
thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn
hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi
chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành
chăng?”
Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng
số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì tình thương! Tất cả
các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết
những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối
với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để
phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm
họ trở nên bất mãn.
Cuốn phim
“Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756 –
1791). Câu chuyện diễn tả Mozart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn
thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba.
Một trong
những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ
Solieri. Solieri là nhạc sĩ của hoàng cung đã nổi giận với Mozart vì ông tự cho
mình là xứng đáng và giỏi hơn Mozart. Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ
là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là
một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của
Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vâng phục
Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng
hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại
ban cho Mozart?
Ngoài tính
nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ
truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, vua Joseph II Ao Quốc vẫn thích Mozart.
Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó,
chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã
được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ
nhục về tài năng, vừa bị đe doạ về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức
của Mozart.
Solieri rất
ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi
đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri
cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên, ông lại muốn là chính ông đã sáng tác ra nó.
Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính
ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phút phẫn uất và tuyệt
vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh thánh giá treo trên
tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng.
Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ Ngài. Tuy nhiên
như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa
rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu
của tình yêu Thiên Chúa.
13. Ganh tị
Trong cuốn
tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Miserables),
của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu
khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của
bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để
tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người
đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp
Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà giúp việc cực
lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng
bạc mà toà giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, valjean đã ăn cắp
toàn bộ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau
trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức giám mục đã ban cho anh
những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại toà giám
mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến toà giám mục, Đức giám mục đã
nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lại Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh
những cái chân đèn bằng bạc nữa. hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục
này đã gây ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi
hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời
còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ
vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu và lòng nhân
từ, không phải luật lệ của kinh tế hay toán học nhắm vào tư lợi.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày
3/12/2000, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về
13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách
nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự
để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu”. Tồng giám
mục, lúc đó nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa
nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi
sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền các tội ác của anh trong luyện ngục”.
Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Chúa đã
quên tội lỗi của người này. Cũng một sự việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene,
và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho
toàn thế giới”.
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm:
“Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con
chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác
trong chuồng, đối với Chúa Giêsu, một con giá trị bằng 99 con, hay là có khi
hơn nữa.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bằng chữ
“Nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của Nước Trời. Trong cuốn
“The Divine Trap”, Richard Hoefler nói rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ
tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm
với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ
nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa
số phiếu bầu cử”.
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn
đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt phái, là những người đã có quan niệm
rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã
nhận xét:
“Những người Biệt phái đã quên điều này. Vương Quốc
Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe
mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính
trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều
Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội
lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử
với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho
của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ. Ngài có quyền tuyệt đối phân
phát tiền lương và phần thưởng tuỳ theo ý của Ngài và chỉ có thánh ý Ngài mà
thôi”.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư
tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các người, và đường lối của các ngươi
không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta
cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các
ngươi chừng ấy”.
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm
việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành của Ngài thay vì
đòi hỏi và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu
nguyện của Đức Hồng Y John Henry Newmann:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không
ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được
nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi
tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn
cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến
dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài”.
14. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
Trước hết ông
đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa – đang
cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền lương
là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu
tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.
Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta về một số người
thất nghiệp khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ khác nhau trong
ngày. Một ít người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài giờ, và số người
khác nữa làm việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ chỉ trả tiền công
cho họ bằng nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than phiền, nhưng người
chủ trả lời: “Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của tôi?”
Bài học chính này là Thiên Chúa luôn quảng đại, Nước
Trời không hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên Chúa không phải
là đường lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta. Phải, Thiên Chúa
rất quảng đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, chia
sẻ cho chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với lòng quảng đại,
Thiên Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể quyết định yêu mến
Thiên Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay không.
Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều phúc lành về
thể xác và tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự thiếu thốn ngày
nay là do tính tham lam và quản lý tồi của con người.
Con Thiên Chúa là chính lòng quảng đại: Khi Chúa
Giêsu biến nước thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ nước đấy chum
“cho tới miệng”, với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài hóa bánh ra
nhiều với vô số đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi khen ngợi
đồng tiền quảng đại của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh và mối
thương cảm. Và sau hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà cứu độ
chúng ta. Ngài còn tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng như
mỗi thánh lễ trên khắp cả thế giới trong mọi lúc.
Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại dạy ta rằng: “Hãy
cho, người ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu lớn, lắc chặt và
đầy tràn, vì anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38).
Người anh hùng trong câu chuyện, Douglas , một
thợ đóng giày đã kinh nghệm điều này.
Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm được những kết qủa
của lòng quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa vì Ngài luôn quảng
đại với ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
15. Thợ làm vườn nho
Có lẽ nhiều
người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm
giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có tần vào nhà thờ dâng
lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa
nửa đồng, còn lại nửa đồng.
Sáng hôm sau,
khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc, anh ra
mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa đồng,
cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn lại.
Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài trăm
thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số lương cao
hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên cạnh.
Như thế, có
thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần,
nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về
người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những
người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ
làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả
ngày.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con
người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức
tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ
của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị
em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và
ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp
trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị,
khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với
Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do
Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban
mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu
vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng
nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá
lòng chúng ta mong ước.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín
hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó
là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.
Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống
như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà
chúng ta đã đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ
vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm
đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”,
để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục
vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang
trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực
hiện hằng ngày.
Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm
hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con
người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có
thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên
Chúa: “Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại
mà các người lại ganh tị hẹp hòi”.
Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí
các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con
người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật
công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ
sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người
chúng ta tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một
đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những
người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”
Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên
vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của
những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc
nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn
những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những
người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh
tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.
Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối
với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài
muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc
khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu
chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình
đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công,
thiên vị.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt
qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để
chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những
hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa
gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên
xưng qua kinh Tin Kính.
16. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Trích trong ‘Hạt Giống
Nảy Mầm’ – Những gợi ý suy niệm của Lm Trọng Hương)
1. Tư tưởng Của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài
người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn
bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì
đúng, bao nhiêu thì sai?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử
với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu,
cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng
như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán, cũng không
muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con.
Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng dứa con,
Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó
cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn
lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làn
người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên
Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm
việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ
đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không
đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt
ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã
đối xử hơn mức công bình: ông đối xứ theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét
theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xừ với
chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững
được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn
là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử
với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người
thì hay đòi đối xử bầng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng
tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự
với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng
kiến nó: có lần ông đến Cape Town
nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài
đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang
khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến
trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng
áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng,
hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người
đó.Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó MaCarthy
rất hối hận vì đã kết án những người vô tội thất nghiệp ấy. Và ông đã soạn một
lời cầu nguyện như sau:
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và
đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta
cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa,
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con
rất hẹp hòi, chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội. Xin Chúa mở
rộng trí óc và con tim chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành
động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa
đối với người khác
Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được
Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng
thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: “Kẻ sau
hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết “
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng
thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở
nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia
Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy,
vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa hai người con ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số
môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu
trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức Giêsu đã không
dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Đúng
vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.,
Nói “trước hết” và “sau hết là tính theo thời gian.
Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Điểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn
nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng của những thợ
làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì
phải được hưởng càng nhiều.
Đây là não trạng của đa số
tín hữu chung ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự
lễ bao nhiều lần; làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta
chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình.
Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó
cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng
cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy,
ta là ai, Thiên Chúa làm ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là
người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm
ăn: sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình, vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu
có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì
hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng
trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa
thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh
phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm
tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều
hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não
trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Đây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét. Lúc bắt
đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một
nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một
người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm
những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình
tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ
ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người
ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên
bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái thấp hơn chút
nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chù tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích
cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông
tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc
thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
-
Như thế là không công bình!
Ông chủ tịch hỏi lại
-
Tại sao? .
-
Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng. Thì anh đã được thưởng
rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những
người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh.
Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau
chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn
đường 3000 mét như anh.
Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được
tất cả còn họ thì chẳng được gì?
17. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi
ý:
1.
Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại
sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích kỷ của con người
hay dựa trên lòng yêu thương?
2.
Bạn nghĩ sao về chủ trương «Làm theo khả năng, nhưng hưởng
thụ theo nhu cầu»? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia đình bạn không?
3.
Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng có tình thương,
và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công bằng nào?
Suy tư gợi ý:
Theo cách giải thích truyền thống, bài Tin Mừng này
muốn nói tới tính «nhưng không» của Nước Trời: người ta được vào Nước Trời hoàn
toàn do ân sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công lao của
họ, mặc dù người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì thế, sẽ có những
người theo Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu rỗi là một điều
dễ hiểu. Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc đời tội lỗi hoặc
không biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa và theo Chúa.
Cuộc đời họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể một vài năm, mà
cũng có thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp người trộm lành
cùng chịu đóng đinh với Đức Giê-su trong Lc 23,39-43). Những người này cũng
được ơn cứu rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời. Rất có thể những
người sống đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người ấy. Dụ ngôn này
trả lời cho những người ganh tỵ ấy.
Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ ngôn này theo một
kiểu khác, để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị lợi, ít vị kỷ và bớt
tính toán, so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập quan niệm, suy nghĩ
theo cách của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không qui về mình.
1. Hai thứ
công bằng: của trần gian và của Nước Trời
Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy ông chủ làm
vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm
ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ
bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm
ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình thương, người ta
có thể suy nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.
Thật vậy, nhân loại sau này có một lý tưởng rất cao
cả mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả năng và hưởng thụ
theo nhu cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của mình nhiều
hay ít, chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng này ai cũng cho
là hợp lý và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm và hưởng thụ
theo khả năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng ấy: Làm theo
khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người, nếu lý tưởng
này có được thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng Ki-tô hữu
nguyên thủy, một cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Ki-tô hữu về sau.
2. Công bằng
của Nước Trời: công bằng có tình thương
Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng
câu: «Nước Trời giống như…», chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này. Nước
Trời là nước của tình thương, trong đó mọi người đều đối xử với nhau bằng tình
thương, và có như thế Nước Trời mới là nước của hạnh phúc. Do đó, sự công bằng
ở trong Nước Trời là một thứ công bằng có tình thương, chứ không phải là thứ
công bằng vô tâm như ở trần gian. Sự công bằng kiểu trần gian này nếu được thực
hiện thì cũng là phúc cho trần gian, nhưng ngay cả thứ công bằng này nhiều xã
hội cũng chẳng thực hiện được.
Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công bằng trần gian
vẫn gây nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng, có sức khỏe thì
luôn luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những người yếu đuối,
kém tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu cầu lớn hơn hay nhiều
hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn người ít tài kém sức
thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến đâu, nhưng nếu tôi làm
được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như thế thì tôi sẽ rất
thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng nếu anh làm được
nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như thế anh sẽ dư thừa
một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần gian, và ở trần gian
này dường như không thể nào làm khác hơn được.
Còn công bằng theo kiểu có tình thương kia, nếu áp
dụng ở trần gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều người đâm ra
lười biếng: vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người lười. Cứ nghĩ như
thế thì sẽ chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình làm gì, vì có tài
thì chẳng ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có tính ích kỷ, không
ai muốn hy sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn dùng tài năng hay
những lợi thế mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho mình trước đã, không
mấy ai muốn ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém, yếu thế, dù họ có nhu
cầu nhiều hơn mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích lợi cho mình, thì tài
năng để làm gì?
Nhưng Nước Trời không phải là nước trần gian, hay ít
ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời được định
nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc. Để được
hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một cách cụ
thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của mỗi
người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng tài
năng chỉ để vun quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người trong nhà đều
yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống động về Nước
Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền nuôi gia đình.
Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó phải tiêu một
món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật, thì người bệnh
này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu một số tiền
lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại, người làm ra
nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có ít nhu cầu
nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như thế là hợp
lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu cầu của
mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
Chỉ những gia đình sống theo tiêu chuẩn hưởng thụ
theo nhu cầu mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương theo tiêu chuẩn
hưởng thụ theo số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau khổ ê chề.
3. Bạn thích
sống theo thứ công bằng nào?
Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả tiền theo nhu
cầu chứ không theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận của tình thương.
Những người làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm, người nào cũng
đều có vợ con phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người vào làm sau, sở
dĩ họ vào làm trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ sáng sớm, cho dù
họ rất muốn có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy một đặc tính của
Nước Trời, cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình thương. Sự công
bằng trong Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người, mà dựa trên tình
thương phải có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình thương ấy mới là sự
công bằng đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm gương mẫu cho chúng ta
trong xã hội.
Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể áp dụng một cách
phổ biến trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình thương. Nhưng ít ra
nó có thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình Kitô hữu, trong các
cộng đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản. Gia đình bạn, cộng
đoàn Ki-tô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước trời nho nhỏ chưa?
Sự công bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của thế gian hay của
Nước Trời?
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng một cách đại
trà thứ công bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng trong những
cộng đoàn Ki-tô hữu nhỏ bé như gia đình Ki-tô hữu của con, trong cộng đoàn cơ
bản của con, trong đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt, con sẽ cố
gắng cổ võ việc áp dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần nào hưởng nếm
trước hạnh phúc của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng trên tình
thương và do tình thương tạo nên. Amen.
18. Tình yêu
Chuyện xảy ra
vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì
những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà
vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập
hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ
trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng
xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút
trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi
nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: Thà tôi
không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không
ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng,
vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn
hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố:”Tôi xin được chặt đứt một
cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai
cánh tay.
Người ghen tỵ
thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi
mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm
vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một
quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì
người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử
bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu
hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó
chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời
gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên
Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử
theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta
nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng
tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh
em.
Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người
ghen tỵ: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh ta ghen tỵ vì
anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng
ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không
thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến
cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên
phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải
lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng
ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do
nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không
nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết
Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm
lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng
sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi
ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh
nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu,
còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ ngôn hôm nay
muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn
toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng
ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác
được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình
giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính
toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt
thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
19. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN THỢ
LÀM VƯỜN NHO
CHÚ GIẢI CHI
TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã quen với
loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng
giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với
một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc
thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy
là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên
không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định, một
ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều
thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3,
thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày
làm việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người
thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường
đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho
ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng
của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu
cháy”:
Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt
12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái
nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời
mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả
lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ
bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu
câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi
này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc:
“bồ ơi...”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ
mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay
mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết
luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả
tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để
hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ
tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và
Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người.
Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa
các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt
bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của
một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa
tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho
người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu
hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn
nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép
lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim
Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa
Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng
trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau” (PG 58,614).
Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không
phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà
nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào
phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm
ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở
nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện
thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có
thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên
được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề
ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như
nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi
được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn
thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề
ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến
sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa
nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức,
đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui
vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm
này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương
đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù
đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến
làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả
lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng
thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người
cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi
muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy
của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự
bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu
xử bất công với bạn...Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế... Há
tôi lại không được phép.... sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn
cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự
(loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề
ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được
thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng
hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao,
các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không
ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như
thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận
đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để
thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình
diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật
vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự
vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo
sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần
thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn
bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công
nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và
không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng
của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận
rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như
thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc
Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì
lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của
ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản
lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con
người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự
nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu
nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì
theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa,
bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự
thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng
nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với
ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào
lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa
sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có
thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi,
Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ
không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay
cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta
nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền
phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn,
giàu có hơn ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ
ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương,
tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính
toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài
chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của
Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự
trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng
cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ
thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người
khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã
anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với
những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh
nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì
biết mình ở trong tay Thiên Chúa.
20. Chú giải của Fiches Dominicales
TÌNH YÊU VƯỢT XA CÔNG LÝ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Bảo vệ quyền lợi và đặc quyền
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin
tại Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem, đã loan báo lần đầu
tiên về cuộc khổ nạn sắp tới, Ngài không quên cảnh báo các môn đệ: “Ai muốn
theo Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. Tại Caphanaum, Ngài đã
phác hoạ khuôn mặt của cộng đoàn mà Ngài sáng lập phải có, nếu cộng đoàn ấy
muốn phản ánh hình ảnh của “Cha trên trời”. Một cộng đoàn biết quan tâm tới
“những kẻ bé mọn”; một cộng đoàn huynh đệ biết giúp đỡ thương xót và tha thứ
cho nhau.
Hôm nay Ngài đến Giuđêa, bên kia
sông Giođăng (19,1) tại đó Ngài bắt đầu dạy cho những kẻ theo Ngài biết sự đảo
nghịch mà họ phải đi tới. Sự đảo nghịch có trong mọi lãnh vực đời sống, đời
sống vợ chồng, thái độ với trẻ em, mối liên hệ với của cải vật chất (19, 3-39).
Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một -Phúc âm Chúa nhật XXV
Thường niên- cho ta một minh hoạ về sự đảo nghịch Phúc âm này. Thoạt tiên, dụ
ngôn này gây phẫn nộ nơi công chúng quen có mặt trong các buổi quy tụ ngày Chúa
nhật, vẫn nhạy cảm với việc bảo vệ quyền lợi xã hội và với vết thương do nạn
thất nghiệp gây ra. Đức Cha L. Daloz tự hỏi: “Dụ ngôn đó không chống lại tất cả
những quy tắc về công bình phân phối và về quản lý tốt đẹp đó sao. Ai đời đi
thuê mướn thợ vào các giờ giấc khác nhau rồi cuối cùng trả lương cho người cuối
cùng cũng bằng người đầu tiên! Tự nhiên ta dễ đồng ý với những người mong được trả
nhiều hơn, lẩm bẩm kêu trách chủ: “Những người đến sau cùng chỉ làm việc có một
giờ mà ông đối xử cũng thư chúng tôi, trong khi chúng tôi phải chịu vất vả,
nóng nực suốt ngày”. Nếu dụ ngôn muốn dạy ta rằng đó là cung cách hành xử của
Thiên Chúa, thì chúng ta phải thất vọng. Trong Phúc âm, có những lời của Đức
Giêsu rất bí hiểm, nếu không nói là gây vấp phạm ta cảm thấy đồng ý với phản
ứng của người anh của đứa con phung phá khi nó trở về, người cha dọn tiệc ăn
mừng, dù nó đã phung phí hết tiền bạc. Ta không hiểu làm sao những phường trộm
cắp, đĩ điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta. Ta khó mà chấp nhận cung cách
hành xử của người chủ vườn nho. Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã rút ra, một
kết luận: “Vậy những kẻ sau cùng sẽ trở lên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ
trở lên sau cùng”. Ta muốn la lên: không công bình! Vậy thì trung tín, chung
thuỷ có ích gì? Tội gì mà chịu cực giữ luật Thiên Chúa, nếu Ngài ban Nước Trời
cho những kẻ đến sau cùng, chẳng chịu nắng nôi khó nhọc gì, ta cần phải tìm
hiểu dụ ngôn này.”
Việc quan trọng nhất là phải xác
định cử tọa mà dụ ngôn nhằm nói với. Ở đây Đức Giêsu nói với người Do Thái,
đúng hơn, với những thành phần ưu tuyển trong tôn giáo của họ: những biệt phái
và luật sĩ vừa tức giận vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế,
những người tội lỗi, vừa ghen tương vì sự quan tâm mà Đức Giêsu bày tỏ với họ.
Một bối cảnh rất gần với dụ ngôn người cha và hai con trai ở Lc 15 mà dụ ngôn
này có nhiều điểm tương đồng. Đức Giêsu không hề muốn đụng chạm tới lãnh vực công
bình xã hội. Điều Ngài tìm kiếm là, qua dụ ngôn nghịch lý này, dẫn các thính
giả tới chỗ tự tra vấn về mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với anh em:
cả họ nữa, họ đã chẳng bị cám dỗ co lại trong đặc quyền đặc lợi của họ, không
còn biết kinh ngạc trước lòng quảng đại kỳ diệu của Thiên Chúa đối với mọi
người và hoa trái của ân sủng Người nơi anh em họ đó sao?
Câu chuyện khởi đầu rất bình
thường. “Nước Trời giống như ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ thuê người
làm...”? ông chủ vườn nho này “ra đi” nhiều lần (cũng như người cha. trong dụ
ngôn của Luca 15 ra nhiều lần) vào những giờ khác nhau để nhắc lại lời mời gọi:
“Hãy vào làm vườn nho cho ta”, chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải chú ý, cho
tới lúc, bất chấp những luật lệ sơ đẳng về lợi nhuận, ông còn ra chợ “vào lúc 5
giờ chiều”, trong khi mặt trời sắp lặn nhường chỗ cho bóng đêm? Ta vẫn còn chưa
hết ngạc nhiên! Vào lúc chiều tối, thay vì trả công cho người làm sớm nhất và
để cho họ ra về, ông chủ lại ra lệnh cho viên quản lý trả lương 'bắt đâu từ những
người làm sau hết và kết thúc bằng những người làm đầu tiên”, họ sẽ là chứng
nhân cho cử chỉ của ông? Những người được thuê vào lúc 5 giờ chiều tiến đến và
nhận “mỗi người 1 đồng bạc”. Những người đầu tiên, đã chịu cực khổ suốt ngày,
tò mò quan sát cảnh tượng và hy vọng sẽ được trả “nhiều hơn”. Nhưng khi đến
phiên họ, họ cũng chỉ nhận được một đồng bạc như hợp đồng lúc thuê mướn. Từ im
lặng, ngạc nhiên đến “lẩm bẩm kêu trách”: “Họ lẩm bẩm kêu trách ông chủ”. Những
tiếng lẩm bẩm khiến ta nhớ lại tiếng lẩm bẩm của đứa con trưởng khi cha long
trọng đón tiếp đứa con phung phá trở về (Lc 15). Những tiếng lẩm bẩm hoà nhịp
với tiếng lẩm bẩm của con cái Israel suốt thời gian băng qua sa mạc, và tiếng
lẩm bẩm của bọn biệt phái và luật sĩ khi nhìn thấy thái độ của Đức Giêsu đối
với nhưng người thu thuế và tội lỗi họ lẩm bẩm kêu trách Ngài: “Người này tiếp
đón kẻ tội lỗi là ăn uống với họ” (Lc 15). Điều khiến những người thợ đầu tiên
bất mãn đó là thấy những kẻ “chỉ làm việc một giờ” lại được đối xử ngang hàng
với họ: “ông đối xử với họ cũng như chúng tôi”. Việc làm đã xong, những điều
kiện trong đó họ làm việc chẳng đem lại cho họ đặc quyền đặc lợi nào, so với
những người khác, “những người cuối cùng này” mà họ nói đến với sự khinh miệt y
như đứa con trưởng trong dụ ngôn ở Luca 15: “Thằng con trai cha đó” (Lc 15,30)
hoặc người biệt phái trong Luca 18: “tên thu thuế kia”.
2) … hay ngây ngất vì ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho
mọi người.
Ông chủ vườn nho nói với người
phát ngôn của những người thợ bất mãn: “Hay là bạn bất bình vì tôi nhân lành”.
Giống như anh cả của đứa em hoang đàng, những người thợ làm giờ đầu tiên là
biểu tượng cho tất cả những ai nhân danh quyền lợi tự cho là nhận được từ Thiên
Chúa, nhân danh cái gọi là đặc quyền, ngạc nhiên và vấp phạm vì thái độ của Đức
Giêsu đối với những người tội lỗi: đó là những người biệt phái và luật sĩ của
hôm qua… và cả hôm nay nữa. Làm như ơn cứu độ không phải là ân huệ ngoại thường
và nhưng không, vượt xa sự xứng đáng của ta muôn trùng. Đức Giêsu tự đứng về
phía ông chủ vườn nho cũng như về phía người cha đón tiếp đứa con trai đã mất
mà nay lại tìm thấy. Thái độ của hai nhân vật này phản ánh lối sống của họ, lối
sống bị người ta chê trách. Với những người phản đối thái độ của Ngài đối với
người tội lỗi Ngài dám tuyên bố: Thiên Chúa không hành động khác hơn! Thiên
Chúa giống như người Cha ăn mừng đứa con trở lại, như ông chủ vườn nho trả
lương cho người thợ làm sau cùng cũng bằng người thợ làm đầu tiên. Chắc chắn
khi thuật lại dụ ngôn này của Đức Giêsu, Matthêu muốn áp dụng nó vào Giáo Hội
thời đó: “Những người đầu tiên” là những người Do Thái; “những người cuối
cùng”, dân ngoại đã nhận được cái mà Israel coi như đặc quyền. Claude Tassin
kết luận: Vậy, dụ ngôn nhắm tới những người có phản ứng giống như phản ứng của
đứa con trai cả trong truyện người con phung phá. Thiên Chúa đã quyết định tỏ
sự âu yếm đối với những người tội lỗi đó là lý do tại sao Đức Giêsu, sứ giả của
Ngài, lại thích gần những người này đến thế, điều đó gây phẫn nộ cho một số
người công chính vì họ tự coi mình có quyền được Thiên Chúa quan tâm hơn những
phường chẳng ra gì kia, đâu quan tâm gì đến phục vụ Trời - làm như thể khi cứu
vớt những người tội lỗi, Thiên Chúa đã lấy đi điều gì của những kẻ trung thành.
Trái với bài học mà tác giả Phúc âm rút ra. Dụ ngôn không hạ “những người đầu
tiền” xuống hàng “những người sau cùng”, nhưng dụ ngôn chỉ nhấn mạnh đến sự
bình đẳng làm phát sinh ơn phúc lạ thường cho người tội lỗi.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Công bình kỳ cục (G.
Boucher, La terre parle au ciel) Công bình! Ta gọi ngươi bằng tất cả khát vọng.
Ta đấu tranh vì một thế giới công bình hơn. Ta phát động cách mạng để đập tan
bất công. Thậm chí ta còn nói tới thật là ghê tởm- cuộc chiến tranh chính
nghĩa. Các toà án của ta đó để thực thi công bình. Lời cầu nguyện của ta kêu
lên tới Chúa để cho người nghèo, người bị bóc lột được lắng nghe. Niềm vinh dự
của các xã hội, các quốc gia là tạo lập được một hiến pháp, nhưng luật lệ và
những cơ chế giúp cho trật tự công bình tiến bộ. Do đâu dụ ngôn Phúc âm bắt ta
làm ngược lại? Do đâu khi đọc dụ ngôn lần đầu ta khó chịu như những người thợ
làm đầu tiên dã khó chịu, họ tự cho mình và nạn nhân của một sự bất công. Đối
với con người, thực thi công bình không phải là trả cho mỗi người điều gì thuộc
về họ, theo sức lao động và giả trị của họ sao? Nhưng trong khuôn khổ Nước Trời
lại là chuyện khác: có một Đấng tên là Thiên Chúa, là sự viên mãn? ban cho mọi
người những gì chính đáng. Thiên Chúa công chính hoá những ai mong muốn. Ngay
từ giờ đầu tiên. Ngay từ phút khởi đầu. Nhưng cũng có khi ở nữa đời người, thâm
chí cả ở phút chót của cuộc đời nữa. Thiên Chúa kêu mời mọi người hãy đến để
được công chính hoá như người ta nhận một quà tặng, một ân ban. Có người trả
lời ngay tức khắc từ lúc rạng đông. Có kẻ chỉ nghe được lời đề nghị ở giữa ngày.
Đôi khi mãi đến cuối ngày có người mới nhận ra cơ may Chúa ban mà theo ngôn ngữ
bác học, ta gọi là ân sủng. Thiên Chúa làm cho nên công chính như ta trở nên
trong suất khi ta ở trong ánh sáng. Thiên Chúa biến ta nên công chính như chính
Ngài là Đấng công chính, điều đó không có gì giống với những mô hình nhân loại.
Bởi vậy ai nhận biết mình được Thiên Chúa công chính hoá sẽ chỉ có thể mừng vui
khi thấy ân phúc đó đến với người láng giềng, người đối thủ, người đối địch...
vì lối sống của Thiên Chúa đã thấm nhập đời anh. Thời giờ chẳng có gì quan
trọng. Ta chỉ có thể cầu mong cho mọi người biết nắm lấy cơ may của mình, những
người cùng sống trong chung cư những bạn đồng nghiệp, những người thân và cả
những người không thân nữa. Sự công bình theo nghĩa của Thiên Chúa chỉ được
thực hiện khi ta biết nắm bắt cơ may của mình, như người thợ giờ thứ 11 đã chọn
đi làm việc. Và qua kinh nghiệm, ta biết rằng, để lãnh được lô độc đắc của
Thiên Chúa, không có gì bằng một biến cố thúc bách ta, một chứng từ chất vấn ta,
phần ta hãy biết đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho và sống sao cho mọi
người chung quanh ta khao khát được ân sủng ấy, lương bổng ấy.
2. Một ví dụ khiêu khích bắt ta phải tự vấn (MGT. L. Daloz,
Le Règne des cieux siest approché DDB).
Đức Giêsu lấy làm gương thái độ
của người chủ đối với thợ của mình, thực là một ví dụ khiêu khích, chứng minh
điều Thiên Chúa không là, không giống như ta tưởng. Ngài hành động không theo
cách ta làm. Ngài tốt lành vượt xa các ông bố trần gian muôn trùng. Nhờ đó, Đức
Giêsu cho ta chứng nghiệm được tình yêu của ta hẹp hòi biết bao: “Bạn bất bình
vì tôi nhân lành ư?”. Dụ ngôn này dạy ta biết Thiên Chúa, nhưng cũng biết chính
mình. Nếu ta thấy đồng tình với những người thợ lẩm bẩm kêu trách, không phải
vì ta đã tưởng tượng Thiên Chúa theo thước đo của ta, và muốn đóng khung Ngài
trong những quan niệm chật hẹp của tình yêu giới hạn của ta sao? Dụ ngôn của
Đức Giêsu trước hết là nói với dân Do Thái, họ là những người được kêu gọi
trước hết, rồi mới tới dân ngoại. Dụ ngôn soi sáng tình trạng các cộng đoàn đầu
tiên, trong đó những người từ đa thần giáo tới sau cũng có cùng quyền lợi như
các tín hữu gốc Do Thái. Ngày nay, vấn đề vẫn còn đó, tuy hoàn cảnh có khác
Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn có cùng mục đích, cùng hiệu quả: Ngài mạc khải
sự cao thượng của tình yêu Thiên Chúa “chiều cao, chiều rộng và chiều sâu của
tình yêu ấy”. Tình yêu ấy thay đổi đường lối của ta, mở rộng lòng ta. Phản ứng
của ta thường là giới hạn tình yêu ấy theo khuôn thước của ta. Nhưng “giới hạn
của tình yêu là yêu không giới hạn”! Sau cùng, sứ điệp của dụ ngôn phải chăng
không nằm trong những từ ngữ đơn sơ này, chúng nói với ta về Thiên Chúa: “Ta
nhân lành”. Hơn cả lương bổng, điều quan trọng là tiếng gọi, luôn luôn đổi mới
từng ngày, từng giờ, ở mọi thời trong lịch sử cũng như ở mọi lứa tuổi của đời
người, tiếng gọi này không gạt ai ra ngoài lề đó là ân sủng cho những người đầu
tiên cũng như cho những người cuối cùng, tiếng gọi của Thiên Chúa nói với con
người mà Ngài yêu thương không mỏi mệt và Ngài muốn rằng không ai bị bỏ quên:
“Nào, cả anh nữa, hãy đến làm vườn nho cho tôi”.
21. Chú giải của Noel Quesson
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO
Dụ ngôn “những người thợ làm
vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này,
đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và
theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất
kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông
chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn
rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được
hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là
bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến
sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách
đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn”
là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ
cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết
cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa
trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu
chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người
ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia
chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một
câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ
làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm
công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật
thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm
ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong
gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn
đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan
trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy
chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là
mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông
lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo
họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công
bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng
làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác
đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì
hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi
vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ
đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5
giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình
thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ!
Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy:
“Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu
kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là
vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này
không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu
mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông
không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người
nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận
điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ
Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là
biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78,
9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa,
nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho
của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo
người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào
làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì
chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ
chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất
kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng
nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc
ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông
chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc
giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi
đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế
nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia
chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang
hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị
nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có
nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng
lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả
thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách
đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn
bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn
nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt
phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại
Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào
thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người
“đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với
những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói
lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người
được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình
đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin
Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại
trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó
chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng
thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp
của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người
trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận
với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn
cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có
quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà
bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở
trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội
chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây
là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi
người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người,
trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân
huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi
hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ”
không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn
cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ
người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền
lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố
với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển
khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như
thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa,
nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh
diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng:
người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy
(Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn
đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một
niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ
đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê
thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy
nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người
còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót
cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ
được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên
vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng
nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh
em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công
bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề
quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm
lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong
một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức
về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại
ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi
phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng
trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng...
bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của
thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không
cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm
lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của
tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng
nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ
ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).
22. Lm Giuse Nguyễn Hữu An
"Này
bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
Bạn
đã chẳng thỏa thuận với tôi
là
một quan tiền sao?"
(Mt 20,14)
Anh chị em thân mến,
Bài
Tin Mừng chúng vừa nghe nói về lòng quảng đại trong việc phụng sự Thiên
Chúa cũng như đối xử với nhau.
Bài học này, Chúa dùng một dụ ngôn đặc
biệt để dạy chúng ta.
I. Bài dụ ngôn
1. Một người kia có một vườn nho.
- Ông ta là chủ của vườn nho đó cho nên
ông ta có quyền canh tác trên vườn nho đó để thu hoa lợi
- Diện tích vườn nho có lẽ phải lớn cho
nên ông phải thuê người làm cho ông.
- Ở đây chúng ta nên lưu ý một chút về
cách tính giờ của người Do Thái:
Ngày làm việc của người Do Thái bắt đầu
từ lúc mặt trời mọc và kết thúc vào lúc mặt trời lặn. Và căn cứ vào đó thì
chúng ta sẽ có một thời biểu tương ứng như thế này:
Giờ thứ 1, thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ
11, tương đương với 6 giờ, 9 giờ, 12 giờ, 15 giờ, 17 giờ, và kết thúc lúc 18
giờ.
- Có 5 đợt thuê thợ tất cả.
Đợt đầu có sự mặc cả rõ ràng về giá cả
1 đồng/một ngày công.
Các đợt sau thì không có sự mặc cả gì.
- Chiều đến: trả lương.
-
Cách thức trả lương có khác thường... bắt đầu từ người đến làm việc sau
cùng đến người làm đầu tiên.
- Chính cách thức trả lương như thế đã
làm nảy sinh ra vấn đề phân bì giữa những người thợ được thuê làm trong cùng
một vườn nho.
- Người cuối cùng vui vì thái độ đầy
lòng yêu thương và quảng đại của chủ.
- Những người đến làm trước buồn vì cảm
thấy mình như bị thua thiệt.
2. Vấn đề đặt ra ở đây là ông chủ làm như
thế có công bằng không. Ta phải trả lời là có.
-
“Này bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một đồng sao?” (Mt 20,13)
-
Ông đã đối xử với họ theo lẽ công bằng thương mại. Luật pháp gọi là công bằng giao hoán.
- Về phương diện này thì ông chủ hợp lý
và hợp pháp
-
Việc ông chủ đối xử khác, khác hơn lẽ công bằng giao hoán thì lại là vấn đề
khác. Nó đã vượt ra ngoài phạm vi công bằng. Nó đã vươn lên tới một bình diện
cao hơn... đó là lòng Bác ái và ông ta có quyền làm như thế.
Đó là nội dung bài dụ ngôn hôm nay. Thế
nhưng khi đưa ra bài dụ ngôn này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì.
26. Bài học
1. Muốn hiểu được bài học Chúa muốn dạy
qua bài dụ ngôn hôm nay, chúng ta lại phải trở về với những hoàn cảnh của nó.
Tin
Mừng kể lại trước khi nói dụ ngôn này thì có một người thanh niên đến gặp Chúa và muốn xin được làm
môn đệ của Ngài. Chúa bảo anh ta hãy trở về bán tất cả những gì anh có rồi phân
phát cho những người nghèo khó và Chúa coi đó như một điều kiện phải có để Ngài
chấp nhận anh ta. Sự đòi hỏi của Chúa làm cho anh ta chùn bước. Lý do là vì anh
có nhiều của cải. Của cải đã níu kéo quá mạnh, thành thử
anh ta đã bỏ cuộc. Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt tại đấy.
Sau
khi người thanh niên bỏ đi thì ông Phêrô... lại ông Phêrô. Ông Phêrô đứng ra đặt
vấn đề với Chúa. Ông nói như sau “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo
Thầy, chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27)
Câu
hỏi của Phêrô sặc mùi thương mại trần thế. Ông muốn Chúa phải nói rõ cho các ông
biết Chúa sẽ đối xử với các ông thế nào trước những hy sinh từ bỏ của họ.“Chúng con sẽ được gì?”
Chúa
không để cho các ông ấy phải thất vọng. Chúa đã trả lời. Chúa không lẩn tránh
vấn đề. Và câu trả lời của Chúa thật là tuyệt diệu. Tuyệt diệu ở chỗ nó vừa thỏa mãn được
vấn đề các tông đồ đặt ra với Chúa, lại vừa có sức nâng tầm nhìncủa các môn đệ lên tới một bình diện
cao hơn.
“Ai
vì danh Ta mà từ bỏ Cha Mẹ, anh em, con cái, nhà cửa, ruộng đất thì sẽ được gấp
trăm ở đời này và... [tiếng và thật quan trọng (ghi chú của tác
giả)]... và được sự sống đời đời.” (Mt 19,29)
Sự
sống đời đời. Đó là một phần thưởng vô cùng quý giá mà không có một giá trị trần thế nào có
thể đổi chác được. Phần thưởng đó là do ơn lộc của Chúa cũng như do lòng quảng
đại vô bờ vô bến của Ngài.
Trong nước của Thiên Chúa sẽ không có
giao hoán đổi chác, phần thưởng sẽ không dựa vào lao động như thước đo.
Phần
thưởng trong nước Thiên Chúa không được tính theo số lượng giờ giấc nhưng trước hết phải căn cứ vào niềm tin: Tin vào sự quảng đại và tình thương bao
la của Thiên Chúa và sau là trung thành với niềm tin đó.
Vì thế dù chỉ được Chúa kêu gọi một
phút giây trước giờ tàn của cuộc sống thì sự trung thành cũng vẫn cần thiết.
Con người không có quyền ghen tị với sự
quảng đại của Thiên Chúa. Nếu một ai đó thấy cuộc đời của mình không được Chúa
đối xử lại một cách quảng đại, thì lý do không phải tại Chúa, mà họ phải hồi
tâm trở lại với lòng mình xem mình đã sống với Chúa như thế nào:
Ông
chủ trong dụ ngôn đã tính toán với những ai đã muốn tính toán với ông. Nhưng
ông lại rất quảng đại đối với những ai tin tưởng vào ông.
Để minh họa điều này tôi xin mời anh
chị em nghe một câu truyện. Câu truyện này do văn hào Tagore viết ra. Ông là
một người không có đạo nhưng những gì ông viết rất phù hợp với những Lời của
Chúa trong Phúc Âm.
Câu truyện có tựa đề là "Người ăn
xin"
Con đi ăn xin từng nhà trên con đường
làng. Bỗng con thấy một cỗ xe bằng vàng đang từ xa đi tới... như một giấc mơ,
giấc mơ huy hoàng. Con tự hỏi ông vua nào mà lại lộng lẫy như thế? Lòng hy vọng
trào lên trong lòng con. Con tự nghĩ: “Thế là từ nay đời mình sẽ hết khổ!” Và
con chuẩn bị sẵn sàng chờ Ngài đến... tay Ngài bung những đồng tiền vàng vung
vãi trong đám bụi bên đường.
Và cỗ xe dừng lại nơi con đang đứng.
Cái nhìn của đức vua đậu lại trên con... rồi Ngài bước xuống, miệng mỉm cười. Con
cảm thấy như cơ may của đời mình đã tới.
Bỗng dưng con thấy đức vua chìa tay ra
và hỏi “Con có gì cho ta không?”
Con bối rối ngỡ ngàng... Con từ từ thò
tay vào trong bị rút ra một hạt lúa mì và dâng cho Ngài. Nhận hạt lúa mì xong,
Ngài lên xe và tiếp tục đi.
Chiều đến... khi dốc những hạt lúa
trong bị ra... thì thật là ngỡ ngàng biết bao.
Một hạt vàng óng ánh nằm giữa những hạt
lúa mì khác.
Con nức nở khóc và tiếc rẻ. Con tự
nguyền rủa chính mình “Tại sao mình đã không dâng cả cho đức vua tất cả những
hạt lúa mì mình có.”
Có lẽ cuộc sống của chúng ta mỗi người
nhiều khi cũng giống như thế. Chúng ta rất hẹp hòi với Chúa và với anh em. Rồi
nhiều khi chúng ta thấy người nọ người kia được Chúa đối xử hơn chúng ta, thay
vì chúng ta bình tâm xét lại xem chúng ta đã sống cho Chúa như thế nào, chúng
ta lại đâm ra ghen tương phen bì với anh em và cả với Chúa nữa.
Lạy
Chúa, giờ đây, xin Chúa điều chỉnh lại cách sống của chúng con, sao cho những
ngày tháng chúng con sống trên đời là những ngày tháng tràn ngập niềm vui. Vì
đó là những ngày chúng con sống chan hòa với Chúa và với anh chị em chúng con.
Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong
Tông huấn "Christi Fideles Laici" về ơn gọi và và sứ vụ của người
giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới : "Những thành phần giáo dân
trong dân tín hữu Chúa Kitô... hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với
những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu..."Anh
cũng đi vào vườn nho"...Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục
tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người;
những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận
lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới" (số 1-2).
Dụ ngôn " thợ làm vườn nho"
với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời
điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên
lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt
của Ngài.
"Quả thế, về Nước Trời thì cũng
như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông
...". Giữa một "chợ người" ít việc nhiều người, các ông chủ ra
thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ
thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ
vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1
đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc
khác nhau. Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều : - 3 giờ là 9 giờ
sáng - 6 giờ là 12 giờ trưa - 9 giờ là 3 giờ chiều - 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt
lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những
người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ
sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu
từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn,
nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt
thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả
ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu
với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ
khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc
là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và
ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết
yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công
của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ
loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa
thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến
Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh
liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên
Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và
dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông
lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch.
"Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra,
ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não
bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng
vạn". Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến
nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay
Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận
thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam
17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương
quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm
hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
1. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công
không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì
người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất
công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn
mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy
ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ? Đây
là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất
thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải
thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình.
1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là
do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là
loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11
là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước
Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu
đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh
nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân
Nước Trời. 1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều
được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của
Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên
Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt
đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết.
Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như
người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo
lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt.
Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa
trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng
rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui
tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt
lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình
thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn "thợ làm vườn nho",
cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những
người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi
người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn
thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta
chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình
tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối
xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo
tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức
hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng
phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5
nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã
làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu
thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong
công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung
cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt
của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công
lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi
lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công
bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa
kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có
thể chấp nhận "giữ đạo" để được "lên thiên đàng". Nhưng
người ta cũng có thể "sống đạo" chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng
ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô
hữư trở thành "nô lệ", thành "kẻ làm công". Cách sống đạo
như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên
Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự,
khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa,
biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho
vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua
Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người
đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được
Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công
bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc
Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt
Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
Lm
Giuse Nguyễn Hữu An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét