Cha Giuse Trần Văn Toản,
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
bổ nhiệm Tân giám mục phụ
tá
cho giáo phận Long Xuyên
"Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm cha Giuse Trần Văn Toản,
Giám đốc Trung tâm Mục vụ giáo phận Long Xuyên, làm Giám mục phụ tá giáo phận
Long Xuyên, Việt Nam, hiệu toà Acalisso".
Tiểu sử Đức Tân Giám mục Giuse Trần Văn
Toản:
07-04-1955: Sinh tại Quảng Nam
1966 – 1970: Học tại Tiểu chủng viện Á
Thánh Phụng - Châu Đốc
1970 – 1974: Học tại Tiểu chủng viện
Têrêxa - Long Xuyên
1974 – 1975: Học triết học tại Đại
chủng viện Tôma Long Xuyên
1975 – 1976: Học triết học tại Đài Đức
Mẹ Tân Hiệp, Long Xuyên
1976 – 1977: Học thần học tại Toà Giám
mục Long Xuyên
1977 – 1979: Giúp xứ Môi Khôi Láng Sen,
Thạnh Quới
1979 – 1980: Học thần học tại Toà Giám
mục Long Xuyên
1980 – 1988: Giúp xứ Môi Khôi Láng Sen,
Thạnh Quới
28/11/1988: Chịu chức Phó tế do Đức cha
Gioan B. Bùi Tuần
1988 – 1992: Thi hành tác vụ Phó tế tại
giáo xứ Môi Khôi Láng Sen
16/1/1992: Chịu chức Linh mục do Đức
cha Gioan B. Bùi Tuần
1992 – 1999: Phó giáo xứ Môi Khôi Láng
Sen, Thạnh Quới
1999 – 2000: Học tại East Asian
Pastoral Institute, Manila, Philippines
2000 – 2005: Học tại Đại học De La
Salle ở Manila, Philippines và tốt nghiệp với bằng Tiến sĩ về Giáo dục
2006 – 2014:
– Phục vụ tại Toà Giám mục Long Xuyên
– Phụ trách dự tu giáo phận
– Giám đốc Trung tâm Mục vụ giáo phận
Long Xuyên
– Điều phối sinh hoạt của các Uỷ ban và
các Ban trong giáo phận
– Điều hướng các đoàn thể đạo đức hoạt
động trong giáo phận
– Giáo sư môn Truyền giáo học tại
Đại chủng viện Thánh Quý.
(Nguồn:
http://press.vatican.va và Giáo phận Long Xuyên)
LỄ PHỤC SINH
Lời Chúa: Cv
10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
MỤC LỤC
1. Ơn Phục Sinh
2. Đấng Phục Sinh
3. Đức Kitô sống lại
4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
5. Đón nhận ơn Phục Sinh
6. Biến đổi trở thành con người mới
7. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
8. Chúa đã sống lại
9. Câu trả lời của ngôi mộ trống
10. Tình yêu dẫn đến đức tin
11. Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết
12. Suy niệm của Lm Gioan Phan Văn Định
13. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu
14. Bước vào đời sống mới
15. Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông
16. Hy vọng mạnh hơn thất bại – Achille
Degeest
17. Người đã trỗi dậy rồi
18. Mặt trời hé mọc
19. Chúa đã sống lại! Alleluia – R.
Veritas
20. Mộ mở toang
21. Hai cái nhìn
22. Ngôi mộ trống - JKN
23. Chú giải của Noel Quesson
1. Ơn Phục Sinh
Cuốn sách "Ngang qua thung lũng
sông Kwai" cho chúng ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính
đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến
Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây
thật là khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi
lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ
này đã làm cho họ trở nên độc ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm
cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ điểm lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có
hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng
nhau học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm
hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và
cảm thông với họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói
khát mệt mỏi, đã từng bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói,
những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ.
Đám tù nhân không còn nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ
không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng
thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những
tiếng hát vui tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt
sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi
xảy ra trong trại tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng
lẫn nhau thay vì trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau
thay vì trước đó chỉ biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay
vì trước đó chỉ tìm cách chỉ điểm lẫn nhau.
Ơn phục sinh và sự biến đổi này cũng có
thể xảy ra cho bản thân chúng ta, nếu như chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón
nhận Đức Kitô và ơn sủng của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tin tưởng
nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta yêu thương nhau
như xưa chứ đừng từ khước nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tiếp tục hy vọng
khi niềm tin tưởng đã tan vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vụn
và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá bỏ chúng đi. Hãy
cộng tác với Ngài trong cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời vì như
lời thánh Augustinô đã từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng
thuận và cộng tác với Ngài.
Và như thế, không cần phải đợi đến lúc
chết, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham dự vào quyền
năng phục sinh của Chúa.
2. Đấng Phục Sinh.
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết
hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu.
Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con
mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang
ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với
Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa,
mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa
Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những
người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao
nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con
người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo
thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại,
chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống
lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng
Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một
giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết
của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của
biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh
trở về đời sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé
gái 12 tuổi, và đặc biệt là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống
lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với
đời sống cũ. Có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung
của loài người là trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn
khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa
là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi
lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới
mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào
có thể ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài
chuyện vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một
người đang sống chứ không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của
sự sống lại mà một số môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài
hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh,
các môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng
ấy là: "Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo
huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài". Họ không thể là
một nhóm người lừa bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của
mình đeể làm chứng cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu
sợi dây được nối kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín
hữu Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế
giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu
Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì
mà khoa học không thể kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật
không thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa
học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc
rằng với không biết bao nhiêu sóng gió đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục
sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn
tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu Việt Nam cố gắng sống thánh
thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì họ thực sự có Đấng Phục
sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất mát thương đau của cuộc
sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự Phục sinh mà họ cũng sẽ được
tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc
sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can
đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
3. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta
cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do
Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy
dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong
huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới
nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến
sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong
tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến
mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua
một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo
tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà
đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ
chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống
trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối
Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn
lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại
sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu
óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối
các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan
sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế
nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu
thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông
được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo
chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với
Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai,
chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong
cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó,
Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn
đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết
không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có
tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta
chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố
trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn
tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.
4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH
Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ
rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người
Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người
bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn
đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự
ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên
những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của
các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn.
Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là
lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh,
tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt
sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống
lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào
các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh
dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi
sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ
không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung
cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn
vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn
đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui,
hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người
chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục
Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì
không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền.
Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam
kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn
phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan
nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai
bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn
Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu
trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền
bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời
sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó
khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc
đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao
thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và
vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục
Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất
chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong
chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng,
ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin
đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn
Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với
Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc
liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh
trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự
chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết
không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho
mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa
Phục Sinh thế nào?
5. Đón nhận ơn Phục Sinh
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt)
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ
biến đổi lạ lùng. Maria Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi.
Tô-ma cứng cỏi trở nên tin tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến.
Tất cả các môn đệ hèn yếu trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho
quyền lợi bản thân trở nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh
dành địa vị trở nên đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với
mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài
một nguồn sống mới. Tâm hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm
tắt trong một câu ngắn gọn: "Ông đã thấy và ông đã tin". Nhờ đâu các
ngài đã thấy?
Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa.
Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ
Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng
đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa.
Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.
Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá
khứ. Khi nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ
trống rỗng. Không có gì, nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì
thật đáng buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi
mộ còn xác là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy
niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm
nên một trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết
nhưng nên gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết
chóc, nhưng nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.
Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm
nhường. Tin mừng thuật lại: Các ngài đã "cúi xuống nhìn vào ngôi mộ".
Khi cúi xuống nhìn vào ngôi mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống
sâu các ngài thấy rõ mình. Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa
mọi sóng gió xôn xao. Càng nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an.
Bình an là quà tặng Chúa Phục sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi
Người sống lại.
Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt
tin yêu. Thánh Gioan quan sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở
ngoài mộ nhìn vào "Ông thấy những băng vải còn ở đó". Khi đã bước vào
trong mộ, Ông "thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn
này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi".
Là người gần gũi, quen biết các thói
quen của Thày, thánh Gioan lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được
xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là
Người đang sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan
nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn
đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi
các môn đệ, biết tha thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn,
biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm
vào đáy sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón
nhận được ơn Chúa Phục sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta,
biến đổi ta nên người mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy
sự quảng đại, tràn đầy tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh
hồn con được sống lại thật. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm
hồn các tông đồ đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao
ta chưa thay đổi đời sống?
2) Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng:
"Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh
hồn", bạn suy nghĩ gì? Bạn có thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?
3) Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh
Chúa ban?
6. Biến đổi trở thành con người mới
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – Radio
Veritas Asia)
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể
về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng
tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào
trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử
được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không
chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng
tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị
gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng
này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem
trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những
khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý.
Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày
đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng
và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử
cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có
thể được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình.
Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải
giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội
lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với
khuyết tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết
tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những
khuyết tật này, Hoàng tử có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người
Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng
tử nhờ nhìn vào bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng
người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa
Giêsu Kitô và không những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực
hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống
Chúa đến mức độ trở nên giống Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống:
"Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là
chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã
thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng
ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn
nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo
hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát
mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng
thẳng lên sống lại cuộc sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta
phải nhất quyết luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự
sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
7. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(Trích từ 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm
Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt
bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề
tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại
phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá... Chúa Giêsu đã
gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng
lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được
đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng
đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa
những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn
người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn
đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa
lành, người câm được nói, người điếc được nghe... Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy
quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho
bao người...
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn
hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân
yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau
thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày
thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi
bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong
không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các
môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng
gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết
là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc
đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho
một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những
lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy
Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và
Maria: "Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ
được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ."
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội
lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã
mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm
mà đã phải tiêu vong... Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống
và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi
người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển,
Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã
thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn
phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của
Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi
mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời
sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu
cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài
tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh
cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục
sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
8. Chúa đã sống lại
(Trích từ 'Mỗi Ngày Một Tin Vui' –
Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan
chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba
Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu
với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra.
Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena
vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai
ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở
đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa
Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa
Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người
có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới
cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu
thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc
đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để
sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải
thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người
chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần
chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã
được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh
nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn
cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa
Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết
định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về
đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất
an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu,
chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có
sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc
sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp
bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy
bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng
siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp
chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt
thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh
cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho
cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối
không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta
loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta.
Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ
trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những
lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng
ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn
đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông
không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh
Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội
vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách
đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình
yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu
hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con
phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa
giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà
Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin
rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
9. Câu trả lời của ngôi mộ trống
(Trích từ 'Suy Niệm Hàng Ngày' – Trầm
Tĩnh Nguyện)
"Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã
tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin" (Ga 20,8).
Hai hôm sau ngày Chúa Giêsu chịu chết
và được táng xác trong huyệt đá, trời vừa hửng sáng, Maria Mađalêna đi ra thăm
mộ Chúa Giêsu và thấy tảng đá đậy cửa mộ đã bị lăn đi, còn mộ thì trống không.
Bà chạy về báo tin cho ông Simon Phêrô
và người được mệnh danh là "môn đệ Chúa Giêsu thương mến". Cả ba cùng
hối hả chạy ra mộ.
Họ đã cùng chứng kiến cảnh ngôi mộ
trống không, khăn liệm xếp lại gọn gàng. Nhưng trong thâm tâm, mỗi người lại có
những suy nghĩ khác nhau:
Bà Maria Mađalêna cứ đinh ninh rằng xác
Chúa Giêsu đã bị đánh cắp (Ga 20,13-15).
Ông Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự
việc đã xảy ra (Lc 24,12).
Còn "người môn đệ Chúa Giêsu
thương mến" thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã tiên
báo (Ga 20,9).
Cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều
thái độ đức tin khác nhau.
Điều này vẫn thường xảy ra trong đời
sống của mỗi Kitô hữu.
***
Sống đức tin là biết nhìn tất cả mọi
việc theo quan điểm của Thiên Chúa và trong ý hướng của Thiên Chúa.
Sống đức tin là xác tín rằng Thiên Chúa
đang thực hiện chương trình của Ngài xuyên qua mọi biến cố trong cuộc đời.
Nhưng làm thế nào để biết được ý Chúa?
Cách thế duy nhất và hữu hiệu nhất là
sống bằng chính Lời của Ngài.
Lời Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta biết
rõ ý Chúa, sẽ giúp chúng ta củng cố, phát triển và kiện toàn đức tin.
***
Chúa Kitô đã sống lại, chỉ còn ngôi mộ
trống không.
Trong cuộc sống, chẳng thiếu gì lúc
chúng ta gặp thấy ngôi mộ trống này.
Đó là những lúc chúng ta kiếm tìm một
dấu chứng để củng cố lòng tin đang bị lung lay của mình.
Nhưng thay vì một chứng cớ rõ ràng,
Chúa Kitô lại chỉ đưa ra cho chúng ta một biến cố tạo nghi vấn.
Thay vì trả lời, Ngài lại bắt chúng ta
tự đặt ra câu hỏi cho chính mình:
"Như thế nghĩa là gì?"
Quả thật lắm lúc chúng ta đã bối rối
phân vân trước câu hỏi bỏ ngỏ ấy.
"Chúa muốn nói gì?"
Thật khó mà xác tín được!
***
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta trả
lời câu hỏi ấy:
Cũng như cái chết và sự sống lại của
Chúa Giêsu đã được tiên báo trong Kinh Thánh, sứ mạng của mỗi người chúng ta
cũng đã được Thiên Chúa tỏ lộ bằng cách này hay cách khác trong chính cuộc đời
chúng ta.
Thiên Chúa cũng đã mở sẵn cho chúng ta
một tương lai bằng cách chuẩn bị cho chúng ta những bước đường trong quá khứ.
Xuyên qua những hỗn độn trong cuộc
sống, Thiên Chúa đã tỏ ý của Ngài cho chúng ta bằng những biến cố bỏ ngỏ, những
"ngôi mộ trống" mà Ngài đặt trước mắt chúng ta.
Muốn biết được những "ngôi mộ
trống" ấy muốn nói gì, chúng ta phải duyệt xét lại quãng đời đã qua của
mình, để nắm bắt những dữ kiện chính và xếp đặt chúng lại dưới ánh sáng của Tin
Mừng.
Với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần,
chúng ta sẽ nhận ra được thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
***
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống cuộc sống trần gian, đã
chịu chết và đã sống lại để mở ra cho nhân loại đường về cõi trường sinh.
Con tin chắc một điều là Chúa cũng muốn
con sống, chết và sống lại như thế.
Nhưng để được sống lại như Chúa, con
phải theo con đường nào để hiến tế bản thân con?
Đâu là đỉnh núi Sọ của con?
Xin Chúa dạy con biết nhìn để thấy được
điều Chúa muốn con thi hành.
Và xin Chúa trợ giúp để con đủ nghị lực
hoàn thành điều Chúa muốn.
Những lúc Chúa cho con xem thấy
"ngôi mộ trống", thì xin Chúa cũng cho con luôn nhớ rằng Chúa đã phục
sinh. Amen!
10. Tình yêu dẫn đến đức tin
(Trích từ 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio
Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phúc Sinh,
thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna,
Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi
người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một
sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã
sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã
tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở
lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ
xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập
giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của
họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được
hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt
trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo
hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ
sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà
thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm
xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói
lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó
vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá
và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà
nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ
đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem
thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy
ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.
Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi
Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ
đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin
Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ
mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc
chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để
tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra
tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối
Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy.
Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì
rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có
sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo
nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và
xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những
gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao
thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể
nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu
và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một
điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người
môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự,
tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối
cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập
giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng
và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho
thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của
người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh
Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống
lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện
sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng
rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria
Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của
Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa
ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta
cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể
hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương
Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
11. Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết
(Trích từ 'Bước Theo' – Phêrô Trần Đình
Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý vị, đây không phải
là lời của người ta, mà là Lời của Kinh Thánh. Kinh Thánh là dòng chảy của lịch
sử thuộc về Thiên Chúa. Nên chi, dù tin hay không Kinh Thánh vẫn thuộc về Thiên
Chúa. Đó là chân lý.
Đây là chóp đỉnh của lịch sử ơn cứu độ
và là chóp đỉnh của Đức Tin. Ngôi Mộ trống, cả bốn Tin Mừng đều ghi là
"Ngôi Mộ Trống". Mầu nhiệm Tử Nạn, thì người ta được mục kích rõ
ràng, nhưng mầu nhiệm phục sinh thì không ai được nhìn thấy, kể cả các môn đệ.
Điều nầy nói lên điều gì, thưa quý vị?
Thưa nói lên rằng: Khi Đức Kitô từ cõi
chết sống lại, thì Người không bị lệ thuộc vào bất cứ điều gì thuộc về trần
thế. Đồng thời nói rõ, Người là Thiên Chúa Hằng Hữu. Người không lệ thuộc vào
không gian và thời gian, con người và lịch sử, không một thế lực nào không chế
được Người. Nói lên, phần Thiên tính của Người là vô biên. Chúng ta thấy biên
giới giữa cái chết và sự sống thật gần gũi đối với mầu nhiệm Tử Nạn và Phục
Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Tuần Thánh là giai đoạn đau khổ tột đỉnh của mầu
nhiệm Vượt Qua, đưa Con Người vào cái chết bi thương. Có thể nói, không ai là
không hãi hùng đối với cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế, một người bình thường
không thể chịu đựng nỗi sự đau khổ cùng cực và thể xác đau đớn đến khiếp đảm
như cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. Sự cứu chuộc của Người vượt quá sự chịu đựng
của một con người. Vì vậy có thể nói dù Đấng Cứu Thế chịu đựng bởi phần nhân
tính của Người, nhưng trong kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa, Người mới có thể
hoàn tất.
Biết bao cuộc suy niệm, biết bao lời
dẫn chứng, cùng biết bao sách vở nói về cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, nhưng không
ai có thể cảm nghiệm hoàn toàn đủ về cuộc khổ nạn của Người, nhất là trong
những giây phút hoàn toàn bi thương nhất.
Vì vậy, để đối nghịch lại với cuộc
thương khó, sự Phục Sinh của Người hoàn toàn là một mầu nhiệm của sự chiến
thắng, hai mầu nhiệm của cùng một Đấng Cứu Thế, nhưng hoàn toàn phản diện nhau.
Như vậy giá trị của đau khổ không phải là đau khổ mà là vượt qua đau khổ. Hiển
nhiên bên kia của đau khổ là vinh quang, nhưng sự đau khổ của Con Thiên Chúa là
sự đau khổ vinh quang, giá trị đau khồ mà Chúa Giêsu đã thực hiện là giá trị
của Hy Lễ dâng lên Thiên Chúa Cha khác với giá trị đau khổ của phàm nhân. Vì
vậy, người mang đau khổ vì Hy lễ thì khác với người mang đau khổ không có giá
trị hy lễ.Như vậy, con người thì phải chết, nhưng Con Thiên Chúa thì Phục Sinh.
Đó là niềm tin và hy vọng tuyệt đối cho những ai được xưng danh Kitô hữu đến
giây phút cuối cùng.
Đoạn Tinh Mừng (Ga 20,1-9) hôm nay,
cũng như (Lc 24,1-12), hay (Mc 16,1-8), ( Mt 28,1-8) tường thuật cùng một sự
kiện là "Mồ Trống". Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ cho thấy
là mồ trống. Còn những yếu tố khác hiển nhiên là không ai thấy được. Điều nầy
có nghĩa là khi đã hoàn tất cuộc khổ nạn. Con Thiên Chúa không còn giới hạn
trong nhân tính của Người, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh không mặc khải như mầu
nhiệm Tử Nạn. Chúa Giêsu không còn là Người, nghĩa là nhân tính của Người bây
giờ là siêu nhiên trong sự Hữu Hình. Phần nhân tính đã ở lại trong Phép Thánh
Thể mà Người đã thiết lập ngày thứ năm Tuần Thánh. Như vậy, sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu là sự kiện mồ trống, không dừng lại ở yếu tố nầy, mà là hàng loạt
cuộc hiện ra với các môn đệ, mà đặc biệt chỉ có Thánh Luca ghi lại "trên
đường Emau" (Lc 24, 13-35). Còn thánh Gioan thì ghi lại ba lần Chúa Giêsu
hiện ra với các môn đệ, sau khi Người từ cõi chết trỗi dậy. Rõ ràng sự kiện
Phục Sinh không dừng lại ở đoạn Tin Mừng hôm nay, mà liên kết những lần hiện ra
sau Phục Sinh, vì vậy, Lễ Phục Sinh không phải chỉ Mừng Kính Trọng Thể một
ngày, mà là Lễ Phục Sinh với tuần Bát Nhật Phục Sinh, và một mùa Phục Sinh.
Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan
trong lễ Phục Sinh, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng, đồng thời cả Triều Thần
Thiên Quốc cùng nhau chúc tụng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh!
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa đã sống
lại thật! Alleluja! Người đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Alleluja! Xin
cầu cùng Chúa cho chúng con. Alleluja!
12. Suy niệm của Lm Gioan Phan Văn Định
Niềm tin Phục Sinh là vấn đề cốt lõi
của giáo lý Kitô giáo, như Thánh Phaolô đã tuyên xưng trong thư gửi tín hữu
Côrintô: "Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hảo
huyền" (1Cr. 15, 17).
Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa Tin
Mừng Luca và Gioan liên quan đến sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Hình như vì yêu
mến các bà hơn, nên Thánh Luca đã kể rằng: sau khi được Thiên Thần hướng dẫn,
các bà đã tin; nhưng khi các bà báo lại cho các Tông Đồ, các ông cho đó là
chuyện vớ vẩn (x. Lc. 24, 1-11). Ngược lại, có vẻ vì bênh vực các Tông Đồ hơn,
nên Thánh Gioan lại nói rằng: các bà chưa tin và tưởng rằng xác của Chúa đã bị
ăn cắp; nhưng khi đến nơi, Gioan liền tin rằng Chúa đã Phục Sinh (x. Ga. 20,
1-10).
Ngày nay người ta vẫn còn nói đến ba lý
thuyết khác nhau xoay quanh việc Chúa Phục Sinh: Xác của Ông Giêsu đã bị ăn
cắp; Ông Giêsu chết giả, các môn đệ giải cứu và đưa sang Ấn Độ; Chúa Phục Sinh
thực sự. Đâu là sự thật cho những vấn nạn này?
Thực ra, mầu nhiệm đức tin không thể
giải thích hoàn toàn bằng những luận chứng khoa học. Trong đoạn Tin Mừng hôm
nay, thánh Gioan muốn trình bày về niềm tin của chính mình – người môn đệ Chúa
yêu, sau khi đã nghiền ngẫm và rao giảng trong suốt thời gian dài, hơn là cố ý
trình bày sự kiện lịch sử. Thánh Gioan trình bày ba phản ứng khác nhau của con
người về niềm tin Phục Sinh:
- Các bà đi đến cửa mộ nhưng không vào
trong, không quan sát, không đặt vấn đề và suy nghĩ về sự kiện. Các bà kết luận
theo cái nhìn khả giác rằng xác của Chúa đã bị ăn cắp. Dường như các bà suy
nghĩ cách đơn sơ, hời hợt, và ý tưởng Chúa Phục Sinh chưa hiện diện nơi tâm trí
các bà.
- Phêrô vào trong ngôi mộ, quan sát
những băng vải và khăn che đầu của Chúa, nhưng không kết luận điều gì. Ngài suy
nghĩ bằng lý trí, không đưa ra kết luận Chúa có Phục Sinh hay không.
- Thánh Gioan yêu mến Chúa nhiều, và có
lẽ nhờ sức trẻ, ông đã chạy nhanh hơn. Ông cúi xuống để suy nghĩ, chiêm ngắm sự
kiện và ông đã tin. Thánh Gioan không dừng lại ở cái nhìn khả giác hay lý trí,
nhưng còn chiêm ngắm bằng tình yêu. Tình yêu giúp ngài nhớ lại và tin những
điều Chúa đã báo loan báo.
Con người thời đại thường có tham vọng
tìm bằng chứng Phục Sinh bằng giác quan hay lý trí. Nhưng làm sao ta có thể
đóng khung cái vô hạn vào cái hữu hạn. Vì thế, mầu nhiệm Phục Sinh là kho tàng
vô tận để con người khám phá và kín múc. Chìa khoá bước vào mầu nhiệm là tình
yêu và kinh nghiệm gắn bó với Chúa mang tính cá vị, như thánh Gioan Tông Đồ.
Những băng vải vẫn còn đó, nhưng được
xếp lại gọn gàng. Dấu vết của cái ác vẫn còn hiện diện, nhưng việc sống gắn bó
với Chúa Phục Sinh sẽ giúp ta sắp xếp lại những khúc mắc hỗn độn của cuộc sống.
Ngôi mộ là biểu tượng của sự dữ, chết
chóc và đau buồn. Chúa Giêsu Phục Sinh mở toang cửa mộ, giải thoát con người
khỏi sự kìm hãm của sự dữ, mở ra thời đại mới, thời đại của hy vọng và chiến
thắng. Niềm tin Phục Sinh cho phép ta có đủ lý do để hy vọng về sự chiến thắng
những cơn giống tố của cuộc đời.
Là người Kitô hữu, chúng ta không đặt
vấn đề lịch sử tính cho bằng nhận ra sự điệp Phục Sinh. Nơi sâu thẳm tâm hồn
mỗi người thường tồn tại những nấm mộ bất khả xâm phạm. Nấm mộ ấy chôn cất
nhiều nút thắt khó sắp xếp và tháo cởi như: đau buồn về những yếu kém của bản
thân, những cố gắng không được như ý, những khốn khó vùi dập liên hồi, và sự
giằng co giữa ý Chúa và ý mình. Ta phản ứng thế nào với nấm mộ của mình: thất
vọng, sợ hãi và không dám nghĩ đến; tự mình suy nghĩ tìm cách giải quyết; hay
để Chúa cùng song hành, phó thác, vui lòng đón nhận và sống trong hy vọng để
thánh ý Chúa được thực hiện nơi bản thân?
Đến đây, ta có thể viết tiếp lời tuyên
xưng của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô: "Bao lâu hy vọng Phục
Sinh chưa tác động trên cuộc đời, thì việc giữ đạo cũng sẽ trống rỗng."
13. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu
Suy niệm:
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ
hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà
Maria Mácđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt
được,
chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân
thập giá (Ga 19,25)
và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt
27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra
mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ được Ðức Giêsu
thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai
môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc
khoải,
đó là họ đang để Người ở đâu (Ga
20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa
phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã
chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và
Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải
đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp
riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy
đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ
khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của
bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin
như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa
của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi đát trên Núi
Sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn
xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt
hoảng,
trước những thất bại, đổ vỡ mất mát
trong cuộc đời.
Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ
trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng
còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga
20,11)
Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên
trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,
những băng vải không ngăn được Ngài ra
đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái
chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị
hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ
cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy
trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở
ngoài mộ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió
cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi
tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời
con.
14. Bước vào đời sống mới
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn
Tiếng)
SUY NIỆM
Có câu chuyện trong thế giới triết học
người ta đặt tên là "Xóa tan dấu vết đời mình", nội dung như sau:
Là con trai của nhà hiền triết, nhưng
Pédiantre lại không có một chút thiên tư minh triết nào, ông là một nhà độc tài
mới lên của thành Corinthe. Người ta biết ông hung bạo và mất quân bình. Trong
một cơn giận dữ, ông đã giết vợ lúc bà đang mang thai, chỉ vì tin vào lời bà
thiếp nói rằng vợ ông bất trung. Tuyệt vọng, ông thiêu sống luôn bà thiếp này.
Ngoài tính khí bất thường và ghen tuông
giết người, định mệnh đã an bài cho ông có một bà mẹ mê ông. Những nụ hôn dành
cho đứa con khi còn nhỏ, dần dần biến chất khi nó lớn lên. Để quyến rũ con, bà
làm cho ông tin là có một người đàn bà rất đẹp muốn trao thân với ông, nhưng
với điều kiện là phải làm trong bóng tối hoàn toàn, và người đàn bà này không
được nói với ông một lời nào...
Như thế, Cratéia trở thành tình nhân
của con mình. Nghi ngờ, ông nhờ một nữ tỳ cầm đuốc vào phòng lúc bất ngờ. Thế
là ông khám phá mưu mô của bà. Ông muốn chết. Muốn xóa hết dấu vết cuộc đời
ông.
Để hủy diệt cuộc đời ô nhục, để làm
biến mất tấm thân xấu xa nhuốm tình mẫu tử, cái bóng hình làm dơ bẩn cuộc đời
phàm này của ông. Ông quyết định hủy bỏ dấu vết của nó trên quả đất, xóa luôn
ký ức của loài người có về ông.
Một tối không trăng nọ, ông kêu hai tên
đầy tớ vào:
Tụi bây có biết con đường đàng sau bụi
rậm kia không, con đường khuất hút đàng sau rừng cây?
Họ gật đầu có vẻ ngạc nhiên.
Tụi bây đi theo con đường đó. Đi thật
lâu. Khi nào gặp một người đi một mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn. Tiền đây.
Hai người ra đi mà không dám đặt câu
hỏi. Người ta không thể nào trái lệnh Périandre.
Một lát sau, ông kêu bốn người đầy tớ
khác tới và bảo họ đi cùng con đường ông đã chỉ.
Khi các ông thấy hai người đàn ông đi
lang thang trong đám cây rậm rạp kia, các ông giết họ rồi chôn xác họ. Tiền
đây.
Bốn người đàn ông ra đi. Vì tiền hậu
thưởng nhiều, vì không ai trái lệnh nhà độc tài Périandre thành Corinthe.
Từng nhóm nhỏ, các người đàn ông này
mang vũ khí vào rừng cây, đi tìm hai người đi lang thang để thủ tiêu mà không
cần nói lý do. Và thế là Périandre từ từ đi đến chỗ hẹn. ("Khi nào gặp một
người đi một mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn". - Người đi một mình đó
chính là ông). Kế hoạch của ông thật là hoàn hảo! Nhân chứng này tiếp tục giết
nhân chứng kia! Còn ai biết được xác Périandre chôn ở đâu, nếu xác của người
giết ông, rồi xác của người giết "người giết ông" không tìm thấy?
Làm rối tung dấu vết. Làm xóa mờ dấu
vết. Chẳng bao giờ có mộ bia. Đối với nhà minh triết ngược đời này, chắc chắn
đây là tự do tối thượng. Khi nghĩ đến một loạt xác chết sẽ xảy ra, ông cảm thấy
như có một lưỡi gươm đang đâm vào sườn. Đêm tối mịt. Tối hoàn toàn.
Jean-Philippe de Tonnac.
CHẾT ĐI CON NGƯỜI CŨ...
Trước khi "bước vào đời sống
mới", chúng ta phải "chết đi" con người cũ.
"Chết đi con người cũ", không
có nghĩa là "xóa tan dấu vết đời mình", ngược lại, là "tên tuổi
được vinh quang" vì được chia sẻ "vinh danh Thiên Chúa".
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa
Giêsu: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng
con sẽ được gì? Chúa Giêsu đáp: Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã
theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự Tòa Vinh Hiển, anh em cũng
sẽ được ngự trên 12 tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà
cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Danh Thầy, thì sẽ được
gấp bội, và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Mt 19,27-29).
Có một dòng tư tưởng mang nặng triết lý
hiện sinh, rằng, suy cho cùng, tất cả suy nghĩ và hành động của con người đều
là vị kỷ, đều nhắm vào cái lợi cho riêng mình. Ngay cả việc con người cố vươn
lên để nên Thánh, để vào Thiên Đàng, để hưởng Niết Bàn, cũng là vì ích lợi cho
riêng mình.
Cách phân tích như vậy, thoáng nghe
qua, có vẻ rất đúng với thực tế, nhưng cách lập luận như vậy, nó đã mang nặng
sự vị kỷ ngay từ ở căn tính tội lỗi của con người. Điều đó cũng có nghĩa là
thừa nhận bước đi thăng hoa của Tôn Giáo trong tâm hồn của con người.
Đúng là khi nhắm tới mục tiêu "nên
Thánh", con người đã nghĩ đến thế giới hạnh phúc vĩnh hằng cho chính mình,
nhưng, đồng thời, con người cũng nhắm tới mục tiêu "yêu thương đổng
loại", không ai có thể làm lành lánh dữ mà "chỉ có một mình"!
và, do đó, không ai nên Thánh "chỉ một mình!".
Để có được sự sống đời đời làm gia
nghiệp – như Chúa Kitô đã hứa – con người phải biết thực thi Giới Luật Yêu
Thương, và Yêu Thương không như kiểu con người, mà Yêu Thương như Thầy, Yêu
Thương như Chúa Giêsu.
Để sống đúng như Giáo Huấn của Ngài,
con người không được vị kỷ, mà phải "hủy diệt" chính mình. Con người
khi yêu thương đồng loại, không phải để được hưởng vinh quang Thiên Quốc, nhưng
là vì Yêu Mến Thiên Chúa. "Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn".
Cũng như Chúa Giêsu yêu thương con
người, chết vì con người, không phải để tìm Vinh Quang Chúa Cha ban tặng, vì tự
Ngài đã là Thiên Chúa, mà chỉ vì Ngài yêu thương Chúa Cha. Ngài muốn thực thi
hoàn toàn Thánh Ý Chúa Cha. Chúa Cha yêu thương con người, Ngài yêu thương con
người như Chúa Cha. Tình Yêu ấy là một.
"Con đã cho họ biết danh Cha, và
sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng
ở trong họ nữa."(Ga.17,26).
"Tình Cha đã yêu thương con ở
trong họ". Khi tình yêu bao la ấy chiếm ngự trọn vẹn trái tim con người,
thì làm gì còn sự ích kỷ hẹp hòi nơi con người nữa? Trái tim ấy trào tràn Tình
Yêu Thiên Chúa, và tình yêu ấy lan tràn đến tha nhân. Đó là lúc "đóng
đinh" con người ích kỷ, hẹp hòi vào Thập Giá, đó là lúc "xóa tan dấu
vết bợn nhơ của đời mình", chứ không phải xóa tan "cuộc sống
mình". Chúng ta vẫn sống, và sống với một trái tim mới, một cuộc đời mới.
"Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả
tim mới, sẽ đặt thần thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng
đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng
thịt" (Ez.36,26).
"Chúng ta biết rằng: Con người cũ
nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào Thập Giá với Đức Kitô, như vậy con người do
tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi
nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi". (Rm 6,6-7).
...BƯỚC VÀO ĐỜI SỐNG MỚI
Bước vào đời sống mới với sự sống lại
cùng Chúa Kitô và sống như Chúa Kitô. "Tôi sống, nhưng không phải tôi
sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi." (Gal.2,20).
Để "Chúa Kitô sống trong
tôi", lòng trí ta phải luôn hướng về Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên
Chúa ta đã được Chúa Giêsu giảng dạy trong Giới Luật Yêu Thương. Đời của Ngài
là bài học sống động để ta noi gương tiến bước, từ sự chiến thắng cơn cám dỗ
của Satan nơi hoang địa, đến cuộc chiến thắng trên đỉnh Can-vê.
Ta được rửa sạch mọi bợn nhơ nhờ dòng
máu cứu chuộc của Ngài. Ta được Ngài ban Thánh Thần để vươn lên thượng giới.
Như con thuyền giữa biển đời, ta đủ sức vượt qua giông tố với điều kiện ta đừng
buông tay lái, và tin tưởng Ngài luôn hiện hiện bên ta. Đồng hành với ta. Sống
trong ta. Nếu ta sống buông thả, xuôi đời mình theo những chuyến tàu dục vọng,
ta mất sức mạnh của Ngài ban. Ta mất Thánh Thần. Ta đánh mất Ơn Cứu Độ.
"Những ai sống theo tính xác thịt,
thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì
hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn
hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an" (Rm 8,5-6)
Bước ra khỏi nấm mồ nô lệ tội lỗi,
không phải để bước vào nấm mồ khác của hoang mang, hoài nghi, lo sợ. Đó không
phải là một cuộc vượt ngục bước ra khỏi nấm mồ nô lệ và đứng trước vùng đất xa
lạ không biết đâu là con đường đi đến tự do.
Bước ra khỏi nấm mồ sự chết, ta bước
vào đời sống mới. Bỏ lại sau lưng mùi tang tóc sự chết và đọa đày, hít thở
không khí trong lành và bắt đầu tận hưởng cuộc sống mới tự do và ngập tràn hạnh
phúc yêu thương.
Ngay từ hôm nay, chứ không phải đợi chờ
hứa hẹn. Bình an ngay hôm nay trong sự hoan lạc vinh quang của Chúa Kitô Phục
Sinh. Lòng ta nhẹ nhàng bay bổng khi trút bỏ được bao thứ rác rưởi phù phiếm
trần gian mà ta cứ nhọc công tom góp và sống chết vì nó. Ta hạnh phúc biết bao
khi Ánh Sáng Phục Sinh soi rọi cho ta thấy những giá trị đích thực của đời
người mà từ lâu đôi mắt ta mù lòa không nhận ra được thật hư. Ta vui mừng, vì
cuối cùng, ta không phải đau đớn "xóa tan dấu vết đời mình" mà không
hiểu vì sao ta sống!
"Thật vậy, anh em đã chết, và sự
sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức
Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và
cùng Người hưởng phúc vinh quang." (Cl.3,3-4).
Lạy Chúa,
Còn đó đoạn đường trần chông gai,
và một đời yếu đuối.
Xin cho con từng ngày,
chịu đóng đinh cùng Ngài,
được Phục Sinh với Ngài,
trong Tình Yêu Vĩnh Cửu của Ngài. Amen.
15. Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông
"Ông đã thấy và đã tin"
(20,8).
Ai thấy? Thấy gì? Tin gì?
CHIA SẺ
Đoạn Tin Mừng Ga 20,1-9 nói về tiến
trình "thấy" và "tin" của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến.
Xin chia sẻ đôi nét về người môn đệ bí ẩn này và ý nghĩa của việc
"thấy" và "tin".
Truyền thống đồng hóa môn đệ Đức Giêsu
yêu mến với tông đồ Gioan. Nhưng thực tế không đơn giản. Trong Tin Mừng Nhất
Lãm, tông đồ Gioan thuộc nhóm ba môn đệ thân tín của Đức Giêsu: Phêrô, Gioan và
Giacôbê. Hình ảnh tông đồ Gioan, cũng như các môn đệ khác, thường là không hiểu
Đức Giêsu. Khi Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên hữu và bên tả, Đức Giêsu nói:
"Các anh không biết các anh xin gì" (Mc 10,38a). Khi những người
Sa-ma-ri không tiếp đón Thầy trò, Giacôbê và Gioan nói: "Thưa Thầy, Thầy
có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" Và
Đức Giêsu đã quay lại quở mắng các ông (Lc 9,54-55). Ở vườn Ghết-sê-ma-ni, ba
môn đệ thân tín ngủ khi Thầy đang hấp hối (Mc 9,32-42). Trong Tin Mừng Nhất
Lãm, Phêrô đóng vai trò tông đồ trưởng và nổi bật hơn tông đồ Gioan.
Trong Tin Mừng thứ tư, người môn đệ Đức
Giêsu yêu mến có một vị trí đặc biệt và nổi bật hơn Phêrô và các môn đệ khác
trong nhiều khía cạnh. Người môn đệ này xuất hiện lần đầu tiên trong bữa tiệc
ly (Ga 13,1-32). Phêrô phải nhờ người môn đệ này hỏi Đức Giêsu xem ai là người
sẽ nộp Thầy (Ga 13,23-24). Người môn đệ này có vị trí gần Đức Giêsu hơn Phêrô
và hiểu Đức Giêsu hơn Phêrô. Trong biến cố Thương Khó, các môn đệ khác sợ sệt
bỏ chạy, thì người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đứng dưới chân thập giá và được Đức
Giêsu trao phó chăm sóc Mẹ của Người (Ga 19,26-27). Trong trình thuật ngôi mộ
trống (Ga 20,1-9), người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy và đã tin, còn lòng
tin của Phêrô không được nói đến. Khi Đấng Phục Sinh hiện ra trên bờ biển hồ
Ti-bê-ri-a (Ga 21,1-14), người môn đệ này là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu.
Như thế, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến
trổi vượt hơn Phêrô và các môn đệ khác về ba phương diện:
1) Về vị trí, ông ở bên cạnh Đức Giêsu
trong bữa tiệc Vượt qua cuối cùng (Ga 13,23).
2) Về lòng tin, ông đã thấy và đã tin
trước ngôi mộ trống (Ga 20,8).
3) Về sự hiểu biết, ông nhận ra Chúa
trước tất cả các môn đệ khác (Ga 21,7).
Việc người môn đệ Đức Giêsu yêu mến
thường hiện diện với Phêrô trong Tin Mừng thứ tư không đủ để đồng hóa người môn
đệ này với tông đồ Gioan trong Tin Mừng Nhất Lãm.
Với sự thân tín đặc biệt và được trình
bày cách lạ lùng trong Tin Mừng Gioan, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến là một
nhân vật lịch sử đã trở thành nhân vật biểu tượng. Đây là người môn đệ lý tưởng
và mẫu mực cho người tin qua mọi thời đại.
Đoạn Tin Mừng Ga 20,1-9 cho biết thế
nào là "thấy" và "tin". Có thể hiểu người môn đệ này không
vào mồ trước, vì tôn trọng Phêrô là trưởng Nhóm Mười Hai; nhưng mạch văn cho
thấy, ông trổi vượt hơn Phêrô về ba khía cạnh:
1) Trước hết, ông chạy trước Phêrô để
tới mộ trước. Việc ông mau mắn hơn Phêrô cho thấy sự gắn bó giữa ông và Đức
Giêsu.
2) Thứ đến, ông là người thấy những
băng vải trong mộ trước Phêrô.
3) Cuối cùng, sự thấy của ông có hiệu
lực hơn sự thấy của Phêrô: Những điều Phêrô thấy chỉ có tính cách thông tin,
còn những gì người môn đệ này thấy bằng mắt thể lý đã dẫn tới thấy bằng mắt đức
tin, "ông đã thấy và đã tin" (20,8).
Hai động từ "thấy" và
"tin" không có bổ túc từ nên có thể hiểu theo nghĩa rộng. Những điều
người môn đệ này thấy không chỉ là thấy những băng vải như đã kể ở trên, mà ông
còn thấy ngôi mộ trống rỗng, thấy Đức Giêsu không còn đó. Xa hơn, gợi đến những
gì ông đã thấy khi đứng dưới chân thập giá.
Tuy nhiên, đây không phải là
"thấy" bình thường mà là thấy đúng theo ý Thiên Chúa. Nghĩa là
"thấy" và "tin" gắn kết với nhau như Đức Giêsu đã nói:
"Đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào
Người thì có sự sống đời đời" (6,40).
Động từ "tin" trong câu:
"Ông đã thấy và đã tin" (20,8) cũng không có túc từ và cho phép hiểu:
Người môn đệ này không chỉ tin vào việc Đức Giêsu sống lại mà còn tin vào những
lời Đức Giêsu đã nói, tin Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến, tin là Đức Giêsu
có thể ban sự sống đời đời. Và ở mức độ cao nhất: Tin Đức Giêsu là Chúa và là
Thiên Chúa như lời Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh: "Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con" (20,28). "Thấy" và "tin"
theo nghĩa tuyệt đối, không có túc từ, cho thấy người môn đệ Đức Giêsu yêu mến
đã hiểu ý nghĩa của biến cố Thương Khó.
Tuy nhiên, giữa việc "thấy bằng
mắt" và "tin" có một khoảng cách lớn lao. Bởi lẽ ngôi mộ trống
và những băng vải không phải là bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giêsu Phục
Sinh. Người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy dấu chỉ, chứ không thấy Đức Giêsu
sống lại. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi Tin Mừng thứ tư kết thúc với
lời động viên các tín hữu thế hệ sau: "Phúc cho những người không thấy mà
là những người tin" (20,29).
Thực ra, không ai có bằng chứng hiển
nhiên về việc Đức Giêsu sống lại. Dù chúng ta là những người không thấy mà tin,
bài Tin Mừng mời gọi chúng ta đạt tới hành động "thấy" đích thực như
người môn đệ Đức Giêsu yêu mến. Từ việc thấy dấu chỉ được kể lại trong Tin
Mừng, dẫn tới việc thấy bằng con mắt đức tin, nghĩa là nhận ra sự hiện diện của
Đấng Phục Sinh trong cuộc đời.
Việc Đức Giêsu Phục Sinh đã mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ, xin cho tất cả chúng ta "thấy" và
"tin" qua những dấu chỉ thuật lại trong Tin Mừng và qua những dấu chỉ
trong cuộc sống hôm nay để đón nhận sự sống, niềm vui và bình an của Đấng Phục
sinh ban tặng.
16. Hy vọng mạnh hơn thất bại – Achille
Degeest.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật')
Điều gì người ta sống cách sâu đậm nhất
là điều khó diễn tả nhất. Đó là trường hợp của kinh nghiệm về đức tin nơi Chúa
Giêsu Kitô Phục Sinh. Đối với người vô thần, sự sống lại của Đức Kitô là cái gì
chỉ có trong lòng tin của người Kitô hữu. Đối với người Kitô hữu, đó là một
thực tại còn chắc chắn hơn sự kiện lịch sử được chứng minh cách vững vàng nhất.
Họ có thể diễn tả thế nào lòng tin của mình trước người không tin, hoặc ngay
trước những đòi hỏi hợp lý của chính lý trí mình?
Ai tin Đức Kitô sống lại, chỉ còn cách
có thái độ như các Tông đồ. Với ngôn ngữ và cách suy nghĩ của riêng mình, các
ngài làm chứng rằng đã biết Chúa Giêsu trước khi Người chết, và đã gặp lại
Người sau khi sống lại. Làm chứng, nghĩa là quả quyết đã sống và đã thấy. Các
ngài không hiểu bằng cách nào Chúa Giêsu đã từ cõi chết đi vào cõi sống, đã
hiện ra trong những điều kiện khác với điều kiện trước khi chết. Các ngài không
nói gì về điểm này. Nhưng quả quyết một cách vô cùng chắc chắn là sự việc đã xảy
ra.
Người Kitô hữu ngày nay cũng thế, họ
tin Chúa chịu chết và phục sinh nhưng không thể trả lời cho những ai chất vấn
họ, xin họ giải thích. Vậy mà sự hiện diện và hoạt động của Chúa Phục Sinh
trong cuộc sống họ là một kinh nghiệm biến đổi cả con người họ. Họ có thể làm
chứng mà không thể cắt nghĩa việc ấy.
Chúng ta có thể rút từ bài đọc của
thánh Gioan hai đề tài suy niệm:
1) Hai người đều chạy.
Phêrô và Gioan khi nghe Maria Madalêna
báo tin liền vội vàng chạy tới mồ. Trong sự vội vàng và sự 'hướng về' này,
chúng ta nhìn thấy một ý nghĩa tượng trưng. Ta có hướng về Chúa Giêsu sống lại
và đang sống không? Đối với Phêrô và Gioan, ngôi mộ tượng trưng cho thất bại ê
chề, kể từ chiều thứ sáu (sau khi Chúa tắt thở). Bây giờ thì họ lại hướng về
một hy vọng tuy còn mập mờ, bí ẩn, nhưng họ vẫn lao mình chạy. Trong đời ta
phải chăng cũng có những thất bại mà ta tưởng là nhất định rồi. Chẳng hạn một
ước muốn không thành, một công việc tông đồ không kết quả, một hạnh phúc hợp lý
rơi vào thất bại... Ta có hay chăng một niềm hy vọng biết nhìn thấy quyền năng
Phục Sinh Chúa dành cho ta qua thử thách, dù lớn lao thế nào đi nữa? Ta là môn
đệ của Chúa sống lại. Người kêu mời ta đừng bao giờ đặt một viên đá tuyệt vọng
trên cái gì hết, song hãy hy vọng. Cái được phục sinh có thể sẽ khác với ta chờ
đợi nhưng 'khác' hơn theo nghĩa 'tốt' hơn.
2) Ông thấy và tin.
Điều này nói về tông đồ Gioan. Bản văn
thêm rằng lúc đó ông hiểu rõ Kinh Thánh, tức Cựu Ước. Quả thật con người và
lịch sử của Chúa Giêsu là ánh sáng soi chiếu toàn bộ Cựu Ước, cũng như Tân Ước.
Phải đọc Thánh Kinh thế nào? Thưa bằng cách tìm gặp ở đó Chúa Giêsu Kitô là
chân lý ta, là sức mạnh ta, là sự chỉ giáo, luân lý, đời sống của ta.
17. Người đã trỗi dậy rồi
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng
ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức
xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta
thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên.
Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn
đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc
thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ thần không hiện ra giải thích
thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười
Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn
thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần
bảo là Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại.
Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều
khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời
loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau
quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại
những gì Ngài dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc
cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc
này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và
tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau
thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy
vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở
nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng
phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá
và phần mộ.
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự
sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con
đường. Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi
ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của
Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là
Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ.
Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh
ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó
có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo
bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước
mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên
mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin
hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin
hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh
em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông
Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không
được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá
cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài
mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên
chúng con. Amen.
18. Mặt trời hé mọc
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng
ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga
19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là
một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không
có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ
che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ
được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm,
như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai
thấy được một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho
chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy
nằm đó.
Và khi loé lên những tia nắng đầu tiên
của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để
ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận
tâm: "Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một
trở ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên
rồi, và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng:
Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa
nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần
phải xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không
thể chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy
vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ,
đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm
ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn
lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm
được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời
tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối,
đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết
và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần
phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự
sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình
an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm
vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy
vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
19. Chúa đã sống lại! Alleluia – R.
Veritas
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một cuốn phim mang tựa đề "Thế
Giới Trong Tăm Tối" diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ
chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào
bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng
được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa
Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau
bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: "Tôi đã
tìm được xác ông Giêsu". Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ
hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày
tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác
người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm
thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu
qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im
lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu
lớn tiếng: "Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã
được táng xác" và nhà khảo cổ tiếp lời: "Vâng, đúng thế, bị đóng
đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta
vẫn còn nằm đây".
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của
cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất
Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối
dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà
khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận:
"Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí
mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này".
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn
người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm
trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn
nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường
tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình
yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến, câu truyện phim
giả tưởng trên đây mang sứ điệp của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng
ta tưởng niệm và mừng kính hôm nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không
chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài mà còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của
toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy
vọng của tôi cũng như của anh chị em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì
chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không
ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta
sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện
hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô
nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người
là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã
cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua
bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu
diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự
sống mới. Chúa Giêsu sống lại, Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng
là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng
mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh
Phaolô đã kêu gọi: "Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến
những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất". Đây không phải là
lời khuyên xa lánh các thực tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi
người Kitô hữu hãy tìm và thể hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa
Giêsu đã mạc khải qua các giáo huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột
miệng thốt lên: "Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!". Mỗi khi gặp điều
gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự nhủ: "Chúa đã sống lại, hãy vui
lên!". Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi bà thốt lên thành tiếng, con
trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em thốt lên câu đó mỗi khi em gặp
điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều không được như ý... Và thú
thật, khi thốt lên câu: "Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!" thì em
bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố gắng sống niềm
vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng nhất của đạo
Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy vọng. Tình
yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng
được mời gọi làm chứng cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã
sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không
còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là
sống cho Chúa và như Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi
Thánh lễ Phục Sinh hôm nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta
thực thi cụ thể trong cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: "Chúng con loan
truyền Chúa đã chịu chết. Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi
chờ ngày Chúa quang lâm".
20. Mộ mở toang
Gioan "cúi xuống và nhìn thấy
những băng vải còn ở đó... Ông đã thấy và đã tin.
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết.
Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta
thấy gì? Một hố sau thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng
đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng
mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn
văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả
mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm
mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ
đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Đức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không
câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói
với ta. Ta có bị cụt hứng không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính
là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại,
đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì
ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất
cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của
Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống.
Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở lòng mớ trí ta. Ký ức sống
và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã vượt
qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo
trước. (G. Boucher, "Le ciel sur terre", được trích dịch trong Fiches
dominicales, năm A, trang 122 -123).
Một vài tuần trước lễ Phục sinh, người
chồng đã chết vì một tai nạn đột ngột: đang khi ông đốt các nhánh cây vụn trong
khu vườn của gia đình, ông đã sơ ý để lửa bắt vào mình.
Tai nạn đã làm cho bà vợ trở nên như
người mất trí, một đàng vì nó đột ngột quá, đàng khác vì nó xảy ra tại chính
khu vườn của gia đình. Bà không giám bước chân ra vườn. Thậm chí không dám nhìn
về hướng đó nữa.
Rồi tới lễ Phục sinh. Hai người hàng
xóm đến thăm bà và rủ bà đi ra vườn. Mới nghe tới đó, bà co rúm người lại.
Nhưng các bà hàng xóm tin rằng việc này sẽ có ích cho bà nên cứ khuyến khích.
Thế là cả 3 ra vườn, đến chính nơi xảy ra tai nạn. Người vợ muốn quay lưng bỏ
vào nhà. Nhưng đúng lúc ấy, một lời trong Tin Mừng lóe lên trong đầu bà:
"Sao lại tìm người sống nơi chỗ kẻ chết? Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã
sống lại rồi". Bà nghĩ lời đó nói về chính người chồng của bà.
Thế là nỗi buồn sầu bấy lâu nay chắp
cánh bay mất. Bà tìm lại được niềm vui.
21. Hai cái nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có
hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái
nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ,
tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà
chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: "Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!"
Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu,
lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu
được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi
để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn
liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu
đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái
nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: "Ông đã thấy và đã tin".
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống
như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại,
nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định
nghĩa, "Tín hữu" là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự
nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng
đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang
ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là
bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết
đều tốt cả: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi".
Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến
trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận "Tất cả là hồng ân".
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng
sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng
và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi
sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có
thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
22. Ngôi mộ trống - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng
gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con
người bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu
trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí,
điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ
đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày
Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và
mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của
chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng
của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr
15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão
huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người
đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức
Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi
người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho
cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống
lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời
sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống
của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một
biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có
Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức
Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả
đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi
vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng,
hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải
đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử,
cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích
lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và
vấn đề ấy tuỳ thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối
với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con
người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho
chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại
đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã
làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại
từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho
thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có
được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho
Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người
mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa
Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta
sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí
ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ
phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi,
nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự
sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với
tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng,
con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy,
con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ
cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con
người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa
dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người
mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống
công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ,
cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta
phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo
cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm
gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người
chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng
ta mới có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành
vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú,
nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ
sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ,
nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công
lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng
khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái
tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một
thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy
sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi
ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt
đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức
sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức
Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống
mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh
nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao
giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài
lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình,
càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái
lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người
cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu
khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha,
biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác
định: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa»
(Ep 4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình
ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người
hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ khi được Thiên
Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung
thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một
tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một
quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân
mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống
vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức,
Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta,
biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải
quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau
đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy
để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta
tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách
suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có
như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu
của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức
Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì
tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi.
Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị
tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
23. Chú giải của Noel Quesson
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch
sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ
Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho
rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi
đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ
hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên
Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu
ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm
Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên"
công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không
tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không
còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ
đã biến mất" (Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi
đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện
lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra
"biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một
người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu
hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền
chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này
rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin.
Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không
ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có
trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho
"môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương
mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là
chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự
ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi
tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi
khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết:
Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí:
Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất
cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại
để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó
có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng
đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi
mộ" được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ.
Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ
trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng
giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố
khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua
mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường
hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại
sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng
vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào
thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn
này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do
Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung
ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại
riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó".
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào
đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra
tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung
quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn
còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ
trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước
vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan
trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại
cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về
nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết" (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu
nhân loại: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã
thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như
Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm
hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao
Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu
này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin
sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến"
sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu
luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa
hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo
hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong
tình yêu". Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được
sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn
thấy "băng vải tuột ra" và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại
chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã
không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người
đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y
nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói
lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao
ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt
qua "cái thấy được", để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức
Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga
20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không
thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực
tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những
người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do
đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra
chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp
bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai
lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó
thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc
gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và
quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu
hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã
làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau
hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện "mộ trống" và
"những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng", chỉ những ai yêu nhiều, mới
có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những
dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu
rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau:
"Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ
chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ!
"Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp
Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển,
mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn
biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs
6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước
những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó,
nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân
lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét