CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm A
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN
CHÚA
Lời Chúa: Cv 2,42-47; 1Pr 1,3-9; Ga
20,19-31
MỤC LỤC
1. Tôma
2. Tin vào Chúa sống lại
3. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
4. Bình an cho các con – Radio Veritas
Asia
5. Cuộc sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần
Ngà
6. Lòng Chúa xót thương – Lm Giuse Tạ
Duy Tuyền
7. Củng cố đức tin – Radio Veritas Asia
8. Mối phúc thật Đức Tin – Cố Lm Hồng
Phúc
9. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
10. Chúng tôi đã thấy Chúa
11. Hãy nhìn xem
12. Tần số tình yêu – Thiên Phúc
13. Nỗi oan Tôma – ĐGM. Giuse Vũ Duy
Thống
14. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
15. Tin
16. Dấu ấn của đau khổ
17. Dấu chân của Thiên Chúa – R.
Veritas
18. Phục sinh
19. Niềm tin
20. Suy niệm của JKN
21. Chú giải mục vụ của Alain
Marchabour
22. Chú giải của Noel Quesson
23.
Chú giải của ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
1. Tôma
Một phần nào đó, tất cả chúng ta đều
giống Tôma. Thực vậy, chúng ta chỉ tin một khi đã thấy. Tinh thần khoa học ngày
nay làm cho chúng ta đặt lại tất tất cả các vấn đề. Chúng ta phê bình, chúng ta
phân tích, chúng ta thí nghiệm, chúng ta kiểm chứng trước khi ưng thuận.
Rồi từ đó chúng ta bước sang lãnh vực
đức tin. Chúng ta đòi hỏi đức tin phải có những lý lẽ hợp lý, xác thực như
những sự kiện của khoa học. Vì thế, những chân lý mạc khải, đối với chúng ta
thật khó mà chấp nhận.
Tuy nhiên, để khỏi lầm lẫn tai hại,
chúng ta cần phải xác định: đối tượng của đức tin không phải là đối tượng của
khoa học. Phạm vi của khoa học là vật chất, cho nên nó đòi hỏi những sự vật cụ
thể, khả dĩ có thể thực nghiệm được. Còn phạm vi của đức tin là siêu nhiên, cho
nên nó đòi hỏi những chân lý khả dĩ đem lại cho con người sự giải thoát. Và
những chân lý ấy phải được dựa trên uy quyền và lời chứng của Đức Kitô. Khoa
học chỉ có thể biến đổi cái thế giới vật chất bên ngoài, nhưng đức tin sẽ biến
đổi cái thế giới tâm linh bên trong của mỗi người chúng ta.
Chúng ta thấy khi Chúa hiện đến, Tôma
liền nhận ra Ngài và quỳ gối xuống tuyên xưng đức tin: "Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa của tôi". Tất cả mọi nghi ngờ đều tan biến. Tôma chấp nhận toàn
bộ thực tế và nhìn nhận Đức Kitô, người đã chết mà nay lại đang sống. Ông không
cần sờ vào vết thương của Ngài, chỉ sự hiện diện của Ngài, một sự hiện diện đầy
yêu thương và uy quyền đã củng cố niềm tin và thay đổi hẳn con người Tôma.
Và như thế, chúng ta sẽ rút ra được một
bài học quý giá, đó là trong phạm vi đức tin, chúng ta cần tìm tòi, cần đào sâu
để có được một đức tin kiên vững. Đó mới chỉ là bước thứ nhất. Bởi vì có đức
tin mà thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là phải sống đức tin. Hay nói một cách
khác liệu đức tin có đủ mạnh để làm chuyển biến cuộc đời, cũng như đổi thay
chính con người chúng ta hay không?
Muốn được như thế, không gì hơn là hãy
sống gắn bó và tiếp xúc thân mật với Đức Kitô. Sự tiếp xúc này, ngày xưa đã
biến đổi các môn đệ từ những người u mê dốt nát, hèn nhát và sợ sệt trở thành
những người thông suốt giáo lý Tin Mừng và nhất là can đảm loan truyền và làm
chứng cho Tin Mừng đó. Lạy Đức Kitô phục sinh, xin hãy biến đổi và uốn nắn con
người chúng con.
2. Tin vào Chúa sống lại
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần
Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra cách nhau vừa đúng một tuần.
Lần thứ nhất Ngài hiện ra với nhóm các
môn đệ đang run sợ trong một căn phòng đóng kín. Ngài đã cầu chúc bình an, còn
các ông thì vui mừng khi gặp lại Ngài. Chúa Giêsu hiện ra không phải chỉ để đem
lại cho các ông niềm vui mừng và an ủi sau những giờ phút kinh hoàng của cuộc
thương khó. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn muốn mời gọi các ông tham dự vào sự
biến đổi sâu xa nơi bản thân Ngài. Hay nói cách khác, Ngài muốn đưa các ông đi
vào mối quan hệ với chính Ngài. Các ông đã biết Ngài trong cuộc sống thân xác,
nhưng cuộc sống ấy đã qua bởi vì Ngài đã sống lại, đã được đổi mới trong Thánh
Thần cho một cuộc sống mới, trong một cuộc sáng tạo mới.
Đúng thế, khi tạo dựng Adong nguyên tổ
loài người, Thiên Chúa đã hà hơi ban sinh khí thì nay vào ngày đầu tiên của
công cuộc tạo dựng mới, Đức Kitô Phục sinh cũng đã hà hơi trên các môn đệ đang
như chết cóng vì hợ hãi, để ban cho các ông sinh khí mới là Thánh thần. Chính
nguồn sinh khí mới này sẽ đem lại cho các ông quyền tha tội, mà trước đây chỉ
dành cho một mình Chúa Giêsu. Các con hãy chịu lấy Chúa Thánh Thần, các con tha
tội cho ai thì tội người ấy được tha. Như thế, chúng ta thấy: Chúa Thánh Thần
và quyền tha tội được nối kết chặt chẽ với nhau, vì mục đích chính yếu của Chúa
Thánh Thần là tẩy luyện, là đổi mới. Tiếp đến các ông được Chúa sai đi, hầu
tham dự vào công cuộc tẩy luyện và đổi mới trần gian. Trước kia, khi Chúa Giêsu
còn ở với các ông, các ông có thể sống ỷ lại và tầm thường, nhưng giờ đây thì
không được nữa, bởi vì các ông đã lãnh nhận một sứ mạng lớn lao: Như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai các con. VÌ thế các ông tiếp nối chính sứ mạng được sai đi
của Chúa Giêsu. Các ông sẽ lên đường và làm chứng về Ngài cho đến tận cùng bờ
cõi trái đất.
Lần thứ hai Chúa Giêsu hiện ra với các
tông đồ, trong đó có cả Tôma một người vốn cứng lòng. Và chúng ta thấy Tôma đã
tuyên xưng đức tin của mình sau khi đã nhìn thấy những vết thương nơi tay chân
và trái tim của Chúa. Từ đó, Ngài mời gọi các ông hãy có lấy một lòng tin mới.
Từ nay lòng tin sẽ không còn đặt nền tảng trên giác quan, mà là trên chứng từ
của những người đã thấy. Chính với lòng tin này mà người Kitô hữu được kết hiệp
mật thiết với Đức Kitô Phục sinh.
Ngày nay, Giáo Hội nói chung và mỗi
người tín hữu nói riêng cũng sẽ tiếp nối sứ mạng được sai đi mà ngày xưa Ngài
đã trao cho các môn đệ. Chúng ta được sai đi để rao tỉang sự sống lại, để xây
dựng một quan hệ mới giữa con người với con người. Con người tội lỗi, thuộc thế
giới cũ, bị đặt dưới quyền lực của sự chết và bị coi như thù địch. Trong khi
đó, con người phục sinh với cuộc sống mới, phải đối xử với nhau như anh em phải
yêu thương và đùm bọc lấy nhau. Thực hiện được sứ mạng sai đi như thế, là chúng
ta đã chu toàn được điều Đức Kitô Phục sinh nhắn gởi đến mỗi người chúng ta.
3. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng
Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta
nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện
ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô
đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới
hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau.
Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi
các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một
quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ
họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô
lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian
khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên
mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới
hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya.
Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất
hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời
sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian
nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới
hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như
người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài
chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện
như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa.
Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để
soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục
sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối,
bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc
các ông: "Bình an cho các con". Người còn thổi hơi vào các ông và
nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại
việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần
LinhChúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng,
đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn
các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi
ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn
đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp
Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt
vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức
lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan
bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho
các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm
nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một
bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán
chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa
gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống
trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao
được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những
xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở
lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại
rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một
ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục
sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ
cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý
nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao
đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem
ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối
đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám
ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin
Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói
với các ông: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu
Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các
môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục
sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là
một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn
cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang
hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh
khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc
xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không
gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình,
trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ
vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở
bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị
tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên
ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được
Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân
Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an,
linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú,
sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm
trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
4. Bình an cho các con – Radio Veritas
Asia
(Trích trong 'Sống Tin Mừng')
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa
Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phúc Âm
thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn
nữa là một tổng kết cho con đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các
Tông đồ, củng cố đức tin của họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi
với sứ mạng mà Chúa đã chuẩn bị các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh:
"Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi".
Con đường đức tin của các Tông đồ từ
ngày được gọi theo Chúa cho đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền
năng của Chúa Phục Sinh. Chọn theo con đường đức tin này như được gợi lại cho
chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, trước hết chúng ta nhìn
thấy các Tông đồ lo sợ thu mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những
chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa
đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà
họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ
sức để thi hành. Nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa
Phục Sinh đến đổi mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng
thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn
sứ mạng Chúa trao phó cho.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta
được chứng kiến một cuộc thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng
kiến một cuộc đổi mới và kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được
củng cố để ra đi bắt đầu sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đến, các Tông
đồ đang sống trong lo sợ, đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng.
Ai trong chúng ta đã không trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là
đang trải qua thử thách đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất
đức tin vào Chúa về những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập
giá trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ
Bảy, có một đoạn đối thoại thật ý nghĩa:
Thần chết hiện ra trong dung mạo của
một người phàm và đã đối thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:
Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:
Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao
Ngài không xuất hiện mạc khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa
không đưa tay Ngài ra và chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời
với chúng ta?
Thần chết trả lời:
Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó
được, không phải vậy sao? Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài
chỉ giữ im lặng.
Dũng sĩ tiếp:
Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì
như vậy, Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi
khi tôi nghi ngờ không biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?
Thần chết trả lời:
Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia,
có thể không ai hiện hữu bên kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện
một mình nơi cõi đời này mà thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có
lẽ Thiên Chúa không có đâu, chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế
giới này mà thôi.
Anh chị em thân mến!
Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng
ta suy nghĩ thêm. Các Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói,
được sống với Chúa như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng
không phải vì thế mà các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào
Chúa khi Chúa trải qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên
Chúa, là Đấng đã chết và đã phục sinh.
Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là
Tôma, cũng như chúng ta đã đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm
chứng một cách cụ thể: "Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây". Chúng ta
ngày hôm nay không thể nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối
thoại tưởng tượng giữa Dũng sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa,
chúng ta cần tin vào Chúa để không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn
sứ mạng của Chúa. Lời Chúa phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó
là: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".
Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa
Thánh Thần, xin Chúa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta
trong đức tin. Amen.
5. Cuộc sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần
Ngà
Ngày thứ nhất của nhân loại cũ
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất
muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên Ađam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một
khối đất bất động, không hề có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi
Ađam (St 2,7), tức thì Ađam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành
một con người đầy sức sống và được trở thành thuỷ tổ loài người đông đảo trên
khắp trái đất.
Đó là ngày thứ nhất của lịch sử loài
người, ngày khai sinh nhân loại cũ, khởi đi từ con người đầu tiên được Thiên
Chúa tạo dựng, thông ban sự sống và những phẩm tính cao đẹp của Ngài.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên
Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất
cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời nên Thiên
Chúa phải thực hiện kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Ngày thứ nhất của nhân loại mới
Thế rồi, "vào ngày thứ nhất trong
tuần - và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới - nơi các môn đệ ở,
các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các
ông và nói: "Chúc anh em được bình an!" (Ga 20, 19-22)
Kế đó, như thời khởi thuỷ, Thiên Chúa
thổi hơi vào lỗ mũi Ađam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu
cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những xác không hồn để thông ban
Chúa Thánh Thần cho họ: "Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón
nhận sức sống mới, các ông được hồi sinh, được trở nên can đảm mạnh mẽ, thoát
ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua
để ra đi khắp các nẻo đường, hô vang Tin Mừng cứu độ.
Đó là ngày thứ nhất trong tuần đồng
thời cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử của nhân loại mới.
Ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn
đệ
Vậy mà cho đến hôm nay, sau hơn hai
ngàn năm Chúa Giêsu khai sinh nhân loại mới, vẫn còn trong ta sự ương ngạnh của
Ađam, muốn sống theo dục vọng của mình bất chấp lời giáo huấn của Thiên Chúa.
Vẫn còn trong ta tính ù lì khiếp nhược của các tông đồ sau biến cố Thầy Giêsu
thụ nạn, tự giam mình trong phòng kín như mộ địa tối tăm. Vẫn còn trong ta con
người ích kỷ chỉ biết sống cho mình, cho gia đình mình mà chưa mở ra với tha
nhân và lối xóm.
Thế nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần
Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng ta như Ngài đã thực
hiện cho các tông đồ xưa, để chúng ta được hồi sinh, được vượt ra khỏi ngục tù
do lòng tham lam ích kỷ dựng nên, thoát ra khỏi mộ địa do chính sự hèn yếu của
chúng ta vây bọc.
Và nhờ đó, ngày thứ nhất trong cuộc đời
người môn đệ được khai mở trong ta.
6. Lòng Chúa xót thương – Lm Giuse Tạ
Duy Tuyền
Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa
thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu
vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả
thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót
xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình
yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ,
xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua
dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không
đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy
Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác
mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối
diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực
tâm lý khi nghe tiếng gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh
của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn
thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng
ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?".
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt
vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa
không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ
đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho
tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét
trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến
mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của
cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành
Giêrusalem "đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài
xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì "họ không biết việc họ làm";
Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường
sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây
thập giá: "ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh
tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm
khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật
với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh.
Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về
là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của
Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua
Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa
cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện
trong cuốn "Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ"
như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu
mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ.
Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe
nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong
giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói
chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại,
vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng
còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta
thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện
đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ
chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng
minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các
ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của
Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu
chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự
hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta
cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô
hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền
thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng
loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại
dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân,
mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng,
nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao
hơn năm trước".
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con
người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những
cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành
ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi
Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công
chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều
người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ
vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết
phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì
mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh
và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là
Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
7. Củng cố đức tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới
đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho
Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào
Chúa Nhật thứ hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi
tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa
Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ
của Chúa.
Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta
được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt
Thomas, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an:
"Bình an cho các con". Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự
được vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các
tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho
Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này - trong phần thứ nhất của
đoạn Phúc Âm hôm nay - đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Thomas: "Chúng
tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Thomas không tin và đòi kiểm chứng một cách
cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng
tin của Thomas đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng
đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể
nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là
một cộng đoàn của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa
Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự
hiệp nhất của cộng đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui
của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự
bình an, Chúa Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một cộng đoàn lý
tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua
muôn thế hệ. Đó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã
thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm
vui, sự bình an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là
những con người cụ thể, như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của
mình và cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải
trải qua những thử thách, những trở ngại.
Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của
Thomas, thái độ của Thomas, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên
sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi
người chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh
chị em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa
Giêsu đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui
và sự bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Thomas để
biến đổi ông, và Thomas đã tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời
tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các
môn đệ của Ngài từ đó không nên thách thức như Thomas nữa: "Phúc cho những
ai không thấy mà tin".
Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực
hiện lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu
Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an
của Chúa trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách
xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới
hạn và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho
chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng
đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là
bí tích Hòa Giải: "Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con
cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại".
Không có phương pháp nhân loại nào khác
có sức phục hồi và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng
phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử
dụng, và chúng ta biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự tha thứ
bí tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích
tha thứ của Chúa để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại
sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể
chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi
người chúng ta cần hành động như Thomas, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và
loại bỏ đi những gì không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để
có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa
Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con."
Cần phải canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được củng cố thêm
mãi, để chúng ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa
mọi nơi, mọi lúc.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh
tân đức tin và củng cố đức tin.
8. Mối phúc thật Đức Tin – Cố Lm Hồng
Phúc
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật
Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn
bản của Đức Tin chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Nếu Chúa Giêsu không sống lại
thì niềm tin của chúng ta vẫn còn trong tội lỗi" (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp
ngoài đường phố những bàn thờ "kính thần vô danh". Phaolô dùng sự
kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện.
Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã Phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến
việc người chết sống lại, một nhà trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời
của nhà hiền triết Eschyle rằng: "Khi tro bụi đã uống máu một con người,
người ấy không bao giờ sống lại". Phaolô buồn "rũ áo" đi đến
cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết
lý theo quan niệm Hy lạp, một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn:
một mầu nhiệm, một sự sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải
cho người khôn ngoan hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của
người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ
họp nhau trong nhà Tiệc ly nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và
hứa rằng Ngài sẽ trở lại. Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất
hiện. Ngài đứng đó và nói: Shalom - Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng
an vui mừng cho họ và sai họ đi phổ cập ơn cứu rỗi: "Như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sai chúng con". Chúa Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội,
quyền năng của một Thiên Chúa (Mt 9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn
đệ bằng một lời nói, bằng một hơi thở, "Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy
chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha, các con cầm
tội ai thì tội họ bị cầm lại". Ngày khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban
sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên
Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga 5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn
đệ thiếu mặt Tôma, một con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp
xúc với ngoại giới, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý
trí để kiểm chứng, dùng niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn
thấy Thầy vì Thầy đã sống lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: "Còn khuya
tôi mới tin", nếu tôi không kiểm chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ
của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có
Tôma hiện diện. Chúa nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma
không biết làm gì hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, "Lạy Chúa
là Chúa Trời tôi", một lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng
của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta
nhưng nay Ngài đã phục sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa,
chính là Thiên Chúa. Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một
mối phúc thật khác là phúc thật Đức Tin. Ngài nói: "Tôma, vì con đã xem
thấy Thầy, nên con đã tin, Phúc cho ai không thấy mà tin" (Gio 20, 29).
Đức Tin là một đặc ân của Thiên Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng
như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và
làm nhiều phép lạ. Cách đây 50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis
Carrel và nhà văn Emile Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến
một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối,
bệnh lao đến thời kỳ tuyệt vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: "Bà
này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi tin!" Người đàn bà sắp chết đó đi tắm
suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi
ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước
mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn "Hành
trình Lộ-Đức" để nói lên sự thật; Zola chối sự thật trong cuốn
"Lourdes" của ông.
"Tôma, vì con thấy Thầy nên con
tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin".
Xin Chúa ban cho con mối phúc thật niềm
Tin ấy.
9. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của Tin Mừng
Gioan, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về
Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin
Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng
lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống
không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày
Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các
môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang
ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức
Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và
Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha
tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
không có Tôma (20,19-23):
a) Lời chào "bình an" thứ
nhất với việc chứng minh (cc. 19-20),
b) Lời chào "bình an" thứ hai
với sứ mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và
Tôma (20,24-29):
a) Tôma không tin anh em (cc. 24-25),
b) Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);
3) Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu
sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).
3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất
trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn
Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều,
Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem
ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ
"ngày ấy" mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung,
ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc.
14,20; 16,23.26). Tác giả dùng công thức "Ngày thứ nhất trong tuần"
cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông
muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào "ngày thứ
nhất trong tuần" (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu
ra trong bản văn là "vì các ông sợ người Do Thái", nhưng có lẽ tác
giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa
đóng kín. Đây cũng có thể là một ghi nhận về hoàn cảnh hiện tại của các môn đệ.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng
Hípri, shâlôm (= bình an, HL eirênê) là một lời chào thông thường. Nhưng trong
văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là
"Cầu chúc anh em được bình an", như thể họ còn phải chờ đợi sự bình
an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại:
chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong
các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây,
mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga,
xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh em
hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của
Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập
giá, Người đã "trao Thần Khí" (paredôken to pneuma; trước đây, vì
không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là "trút hơi
thở") (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân
thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của
Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai ...; anh em cầm
giữ ai... (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy Lạp (Bản LXX),
Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Hípri,
vua Balác xác tín rằng "kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền
rủa" (Ds 22,6 Hípri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam
tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có
đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược
lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa có thể giải
thích theo hai hướng: có thể hiểu "được phúc" (eulogêntai) và
"mắc họa/bị nguyền rủa" (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ
xảy ra trong tương lai gần (bản văn Hípri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo
nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc
phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền
rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: "Ngươi không được đi
với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar
eulogêmenon)". Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng
được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã
đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông
không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai ("được
tha") và kekratêntai ("bị cầm giữ") ở Ga 20,23 có thể được hiểu
như thế.
- Chúng tôi đã được thấy Chúa
(heôrakamen ton kyrion, 25): Heôrakamen là thì hoàn tất của động từ horaô, diễn
tả việc "thấy" kèm theo sự hiểu biết thật sự.
- Nếu tôi không thấy dấu đinh... (25):
Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng
phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng
yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
- Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin
(27): Dịch sát là "đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin
đi". Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.
- Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con (28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng chủ-cách (=
"Lạy Chúa và lạy Thiên Chúa của con!") vừa là một lời tuyên xưng đức
tin (= "Ngài là Chúa và Thiên Chúa của con") độc đáo chưa ai làm.
"Chúa của con" nhắm đến Đức Giêsu của lịch sử, còn "Thiên Chúa
của con" là một lượng định mang tính thần học về bản thân Người. Tuyên
xưng Đức Giêsu là "Đức Chúa" thì Maria Mácđala và các môn đệ đều đã
làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị "Chúa tể" này là "Thiên
Chúa", thì chỉ có Tôma mới làm ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là
một phép thế đôi (hendiadys): "Chúa của con" cũng là "Thiên Chúa
của con".
- là để anh em tin rằng (31): Bản văn
Hy Lạp ghi "để anh em tin" là hina pisteu[s]ête (với con chữ sigma
nằm trong ngoặc đơn), tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc hina pisteuête. Cả
hai cách đọc đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa rất khác nhau:
(1) Cách đọc thứ nhất, hina pisteusête
(subjuntive aorist): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: "để anh em có
thể đi đến đức tin". Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật là
truyền giáo. Những người nhận bản văn hẳn là những người ở bên ngoài cộng đoàn
Kitô hữu.
(2) Cách đọc thứ hai, hina pisteuête
(subjuntive present): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: "để anh em tiếp
tục tin". Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến
thiện. Những người nhận bản văn hẳn là những người thuộc về cộng đoàn Kitô hữu.
Cho dù cách hợp lý hơn là cách đọc thứ
hai, ta cũng không thể chỉ vì có hoặc không có một con chữ sigma (s) mà phân
biệt để xác định rằng mục đích của tác phẩm là truyền giáo hay không. Ta còn
phải khảo sát tất cả các cách dùng liên từ hina, rồi khảo sát cấu trúc văn
chương tổng quát của tác phẩm. Dù sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có
thể nghĩ rằng tác phẩm được ngỏ với những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong cả hai lần Đức Giêsu hiện ra,
thời gian là "ngày thứ nhất trong tuần", "ngày của Chúa",
ngày Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những lời như nhau, "Bình an cho
anh em!". Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu
Phục Sinh tỏ mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
không có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống trong căn nhà cửa
đóng then cài, "vì sợ người Do Thái" (c. 19). Điều này hiểu được sau
khi Đức Giêsu qua đời, nhưng có lẽ cũng phản ánh hoàn cảnh của các môn đệ vào
lúc Gioan viết Tin Mừng. Nhiều lần, trong tác phẩm, ta thấy những ai thuộc về
nhóm Đức Giêsu đều sợ bị đuổi ra khỏi hội đường (x. 9,22). Các môn đệ lúc này
không còn là mười hai nữa, mà là mười một, rồi đọc thêm nữa thì thấy chỉ còn có
mười. Khi hiện ra, điều đầu tiên Đức Giêsu làm là cho các môn đệ thấy rằng các
ông có Người đang sống giữa các ông. Rồi Người nói: "Bình an (eirênê) cho
anh em!" (c. 19). Không chỉ nói về bình an, Người còn cung cấp nền tảng
chắc chắn cho lời của Người: các vết thương (tay [chân] và cạnh sườn). Vậy
Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Không
có sự buồn phiền khi trông thấy các dấu vết của cuộc Thương Khó. "Các môn
đệ vui mừng vì được thấy Chúa" (c. 20). Chỉ có niềm vui bởi vì thời điểm
tiêu cực cuộc cuộc Thương Khó đã bị vượt qua. Các môn đệ vui mừng bởi vì Đức
Giêsu vui mừng và chuyển thông niềm vui cho họ. Các ông cũng vui mừng bởi vì
Đức Giêsu đã hoàn tất sứ mạng của Người.
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho
các ông một lần nữa, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính
sự sống và quyền của Người là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong
trường hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức
Giêsu nói tiếp: "Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em" (c. 21). Chỉ là một chuyển động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con,
Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm
chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các
ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất quan trọng: tất cả những gì các
môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng làm theo lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu toàn được sứ
mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần: "Anh em hãy nhận lấy
Thánh Thần" (c. 22). Chính Thánh Thần sẽ ban cho các môn đệ sức mạnh để
làm chứng "ad extra" (hướng ra bên ngoài). Nhưng không chỉ có thế.
Dấu chỉ cụ thể của ân ban này là sự tha tội: "Anh em tha tội cho ai, thì
người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (c. 23).
Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Có dây liên kết
rõ ràng giữa ân ban Thánh Thần và quyền tha tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn.
Đều này nêu bật chiều kích "ad intra" (hướng vào bên trong). Sứ mạng
và sự tha tội đi chung với nhau và là hoa trái của cùng một Thánh Thần do Đức
Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới đang làm cho các
ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33)
và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các
ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế
giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới,
nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và
Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến, Tôma, một trong Nhóm
Mười Hai, không ở với các môn đệ. Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra
và được Người sai đi (cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: "Chúng tôi đã được
thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion)!" (c. 25). Đây không phải chỉ là lời
chia sẻ thông tin về một sự kiện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin: các ông
("chúng tôi" , tương tự cộng đồng Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà các ông
gọi là "Chúa" (danh xứng của Đức Giêsu sau Phục Sinh), và các ông đã
hiểu, đã tin. Nhưng Tôma không tin anh em; ông nêu ra những điều kiện:
"Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ
đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin" (c. 25).
Tôma muốn làm cho rõ ra là Đấng Phục Sinh chẳng phải là ai khác, mà chính là
Đấng đã chịu đau khổ và đã chết, là đây không phải là một Giêsu khác, nhưng vẫn
là Giêsu như trước đây. Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì cả, là quá đáng!
Ông muốn có một kinh nghiệm cá nhân, ông muốn chính ông đạt tới đức tin. Đức
Giêsu đã chấp nhận các điều kiện của ông. Người chấp nhận tỏ mình ra theo cách
có thể giúp Tôma nhận biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ,
và cũng như lần trước, Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở.
Rồi Người ngỏ lời với Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã xảy ra? Chúng ta
không biết, vì bản văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu
chứng tỏ rằng kể từ nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho dù về thể
lý, họ không nhìn thấy Người. Người bảo Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và
hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy" (c. 27).
Người cho Tôma thấy những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng
chứng minh rằng Người là nguồn mạch ơn cứu độ. Có người cho rằng Tôma đã đưa
tay chạm tới Đức Giêsu. Hẳn là không cần như thế. Tôma đã tuyên xưng niềm tin
vào Đức Giêsu, một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên: "Lạy Chúa của con
và là Thiên Chúa của con" (c. 28). Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi
anh em, nhưng ông đã đến gần Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông,
Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ.
Quan hệ với Người có tính vững bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa. Sau
đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự đối lập giữa "thấy" (horaô) và
"tin" (pisteuô) (cc. 8b. 18. 20b. 25ab. 27. 29ab; x. 1,45; 4,50), và
nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay, chứng từ về kinh nghiệm mà
các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là động lực đưa moi người đến đức
tin, chứ không phải là kinh nghiệm về một cuộc hiện ra trực tiếp của Đấng Phục
Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu
sứ mạng của Đức Giêsu (30-31)
Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục
tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy, đối với những người không được
thấy, đâu là nẻo đường đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi tin
vào Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với Người,
và nhờ Người là Chúa Con, chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha. Đó là
sự sống đời đời. Phải chăng ở đây có nguy cơ chủ quan? Chính là xuyên qua tính
chủ quan mà ta đạt được tính khách quan. Kinh nghiệm đức tin của một người
riêng lẻ phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn. Đức tin của
một người tự nó không đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn cần để bảo đảm cho đức
tin của từng người. Tuy nhiên, đức tin của cộng đoàn không bao giờ thay thế đức
tin của từng người. Nếu TM IV có nhấn mạnh là nhấn mạnh trên điểm này: chiều
kích cá vị của tương quan với Đức Giêsu Phục Sinh.
+ Kết luận
Chúng ta có thể đọc bản văn trên đây
như một bức tranh bộ đôi: trong tất cả các bài tường thuật này, ta ghi nhận
chiều kích cá vị trong tương quan với Đức Giêsu. Ân ban căn bản của Đấng Phục
Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã
hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này
vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người
đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế
gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người,
Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính
Người là nền tảng của sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời chứng của các môn
đệ, kinh nghiệm của Tôma, các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật,
Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối
kết họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con, các Kitô hữu được đưa vào hiệp
thông với Thiên Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín
rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông
cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù
đã sống lại; Người chính là "Con Chiên đứng như thể đã bị giết" (Kh
5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng
là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn
luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực
tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
2. Tôma đã tuyên xưng đức tin vào Đức
Giêsu theo cách chưa ai làm: "Lạy Chúa của con và lạy Thiên Chúa của
con". Ông đã đi theo con đường dài hơn con đường của các anh em, nhưng đã
đến gần Đức Giêsu hơn. Đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là Thiên
Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu, ông bày tỏ niềm tin vào Người. Maria
Mácđala cũng như các môn đệ đã tin vào Đức Giêsu như là Đức Chúa. Tương quan
của họ với Người nay có giá trị vĩnh viễn và trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính
là Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang tìm đến gần con người để ban
cho con người sự sống đời đời. Tôma nhận biết Đức Giêsu như thế và gắn bó với
Người. Do đó, người nào chỉ nói đến một Tôma thiếu lòng tin, là quên mất là ông
đã đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của Đức Giêsu. Thật ra các tông đồ đều
thấy tin vào sự Phục Sinh là điều không dễ chút nào!
3. Chúng ta thấy Đức Giêsu để cho mình
được nhận biết bởi bà Maria Mácđala, bởi người môn đệ Người yêu mến và bởi Tôma
theo cách khác nhau. Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Gioan. Các "dấu
chỉ" hoặc các "bằng chứng", được thích ứng với từng người. Đức
Giêsu thuận theo các đòi hỏi của mỗi người. Rồi Người đưa mỗi người đến với đức
tin ở bên kia các dấu chỉ ấy. Luôn luôn cần những dấu chỉ, nhưng cũng phải luôn
luôn vượt qua các dấu chỉ. Đàng khác, kinh nghiệm đức tin của mỗi người phải
được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn.
4. Nghe lời "Phúc cho những người
không thấy mà tin", chúng ta cảm thấy phấn khởi vì chúng ta đâu có được
thấy Đức Giêsu bằng xương bằng thịt! Nhưng tại sao lại "có phúc" có
lẽ chúng ta nghĩ rằng bởi vì tin dù không thấy thì khó hơn, nên có công trạng
hơn. Thật ra, "có phúc" là vì niềm tin này trung thực hơn, tinh trong
hơn. Người nào thấy thì đã có sự chắc chắn, có chứng cớ không thể chối cãi về
một sự kiện, nhưng như thế thì không phải là đức tin.
5. Hôm nay, ngày lễ "Lòng Thương
xót Chúa" mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000,
chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska
(1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng
Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành,
bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng
trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương
Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức
Gioan-Phaolô II thưa với Người: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào
Người!" Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối
sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
10. Chúng tôi đã thấy Chúa
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được
tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các
môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi
thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co
quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần
(c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết
thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ
nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa,
vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai anh em."
Chỉ có một người không vui, đó là ông
Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp
Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã "không ở với" các môn đệ, lúc
Ngài đến. Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên
rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn:
"Chúng tôi đã thấy Chúa." Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào
giác quan. "Nếu tôi không thấy... nếu tôi không xỏ ngón tay... nếu tôi
không thọc bàn tay... tôi sẽ chẳng tin đâu." Ông có thái độ như một nhà
khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng
không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài
hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài
vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh
em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên
đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng
Ngài sống lại. Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi "thấy
và chạm đến" những thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu "thấy và chạm" có nghĩa
là "có cảm nghiệm", thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã
cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp
người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật. Chúng ta cần sống
như người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao,
cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng
của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin,
làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng
ta phải nói được rằng: "Tôi đã thấy Chúa" (Ga 20,18). Và tất cả cộng
đoàn chúng ta phải nói được rằng: "Chúng tôi đã thấy Chúa" (Ga
20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có
khi nào bạn thấy đức tin đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự
phục sinh, bạn có thấy cuộc đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao
không?
2. Có ai là Tôma trong nhóm của bạn
không? Có ai chưa được hưởng niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống
đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày
của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con
xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn
Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về
người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui
sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục
sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống
mãnh liệt của Chúa.
11. Hãy nhìn xem
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết
sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả
một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã
qua. Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra thăm
các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và
cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị
đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục
sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ
xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên
thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng
nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc
khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các
vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập
gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình
yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các
vết thương đã lành. Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo
của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ
bị thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu
đinh. Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh
để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh
phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện
đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm
mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín,
tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo
của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt
khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo
kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo
của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn
đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
"Phúc cho những ai không thấy mà
tin", và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy
Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu
trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa
Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi.
Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho
con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh
con, những người - cũng như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho
con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp
con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận
khổ đau và bệnh tật như một lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín
thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu
thương muôn đời. Amen.
12. Tần số tình yêu – Thiên Phúc
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang
qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người
cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là
ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm
nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì
đâu!
- Muốn nghe được những thông tin và các
chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng
tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu
hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng
bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại
hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: "Tôma, hãy nhìn
xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng
hãy tin" (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: "Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ
trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã
được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác
nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở
đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay
vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng
con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã
khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho
Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông
trở nên "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống
và khăn liệm, mà Phêrô thì "rất đỗi ngạc nhiên" còn Gioan thì
"Ông đã thấy và ông đã tin"? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng
vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua
cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói:
"Phúc thay những người đã không thấy mà tin!" (Ga 20,29). Đó cũng
chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ
trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh
Thánh: "ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy" (Hs 6,2) và
phép lạ "ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm" (Gn 2,1). Vâng,
chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của
Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của
chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào
lời chứng chắc chắn của các Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên
của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng tuyên bố
rằng: "chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này,
tất cả chúng tôi xin làm chứng" (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của
Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: "Nếu
Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em
vẫn còn sống trong tội lỗi của mình" (1Cr 15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình
yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy
niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ
đường chúng con đi. Amen.
13. Nỗi oan Tôma – ĐGM. Giuse Vũ Duy
Thống
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam,
danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình,
chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm
hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von
"cứng lòng như Tôma"; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những
sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả "con cháu thánh
Tôma". Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại
là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc
thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay
"Phúc cho kẻ không thấy mà tin", được trở thành hiện thực trong đời
mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là
cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: "Chúng
tôi đã được thấy Chúa". Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự
vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ
nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình
thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức
tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm
thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. "Nếu tôi không thấy... tôi không
tin". Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ
rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là
người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn
trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có
được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy
mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã
tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm
thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của
tôi".
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả
khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi
sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được
Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông
được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông
nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu
cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và
thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là
chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta
hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp
giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy
cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu
nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả
tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý
trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại
và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không
hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng
không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng
đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài
có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo
giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm
lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như
một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho
niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời
gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng
hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở
cuối chặng đường gặp gỡ: "Nhưng hãy tin!"
3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay
cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy
Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin
như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ
đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành
niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà
còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh
phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn
còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình
sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con
người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc
cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã
trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin
hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như
trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm
tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng
thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất
vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người
thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về
đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều
mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có
lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một
mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông
chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn
thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo
rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh
rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin
thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người
đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
14. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH
EM
Đức Giêsu đã phục sinh. Nhưng điều này
đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng
chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được?
Đức Giêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức
Giêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ
giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới
tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu
bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người
tin vào Đức Giêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức
Giêsu Phục Sinh cho con người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa
dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì
người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được
những điều lớn lao hơn cả Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng nói: "Kẻ tin vào
Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao
hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha" (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ
đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín
hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.
Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói
những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền
tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa
Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái
không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài
không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội "phạm thượng": là người
phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều
Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như
vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang
hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài
là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người
vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại
sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là
người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người
như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều
ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu nói với các tông đồ: "như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai các con". Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô
hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.
Sứ mạng của Đức Giêsu, của Ngôi Lời
nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để
làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn,
đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập
giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh
ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian
biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín
hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức
Giêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình
yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức
Giêsu là Thiên Chúa?
2. Các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên
Chúa khi nào? Tại sao bạn biết vậy?
3. Sứ mạng của các Kitô hữu hôm nay là
gì?
15. Tin
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ:
Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại
đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối.
Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta,
cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải chấp nhận có một
thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa
học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà
thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã
tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng
thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay
quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy
Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình
vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là
trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi
chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau,
nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào.
Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết
về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay
sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi
chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe
nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài
luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc
đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống
lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức
tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con
người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con
người vẫn có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế
giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.
Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc
sống về đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất
cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi
đức tin còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng
sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như
vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất...
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng
chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng
có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải
có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm
giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.
Sống đức tin và đón nhận niềm vui của
Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức
tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với
kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại,
Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
16. Dấu ấn của đau khổ
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi
của Tôma. Điều làm tôi suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao thân xác phục sinh
của Đức Kitô lại còn mang những thương tích, những dấu ấn của đau khổ?
Tôi cứ nghĩ rằng: sau khi sống lại,
thân xác vinh quang của Đức Kitô hẳn không còn vết tích nào của những cực hình
phải chịu.
Bởi vì, sau cuộc thương khó là sự sống
lại, sau đau khổ là vinh quang, sau ngày thứ sáu tuần thánh là sáng Chúa nhật
phục sinh. Sự tương phản mãnh liệt đến độ chúng ta tưởng như có một bước nhảy
vọt, cắt đứt và chia lìa giữa hai tình trạng kể trên, như thể sự phục sinh và
vinh quang là phần thưởng cho những đau khổ Ngài đã phải chịu trong suốt cuộc
thương khó, để rồi chúng ta sẽ dần dần quên đi những kỷ niệm bi đát ấy.
Trong cuộc sống chúng ta thấy người ta
thường tặng thưởng huân chương cho những kẻ can đảm cứu vớt người bị chết đuối
hạy gặp phải tai ương hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng với những hy sinh mà
kẻ ấy đã phải gánh chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui ước do xã hội đặt
ra.
Sự phục sinh của Đức Kitô thì khác. Đó
không phải chỉ là một dấu chứng của chiến thắng, của phần thưởng mà thôi, nhưng
còn là một diễn tiến liên tục nơi thân xác Đức Kitô. Chính Ngài đã cắt nghĩa:
- Như hạt lúa mì rơi xuống đất, có mục
nát đi thì mới trổ sinh nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được gieo trồng và bông
lúa chín vàng dưới ắng nắng mặt trời có một sự liên tục trong phát triển. Bông
lúa chỉ là kết quả của hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng nói:
- Như người đàn bà lo âu khi giờ của
mình đã đến, nhưng sau đó thì vui mừng vì đã sinh được một người cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết quả của việc thai
nghén. Giữa hai sự kiện này luôn có một sự liên tục trong phát triển.
Cũng thế, Đức Kitô đã bước vào sự chết
và sống lại. Chúa nhật phục sinh không phải chỉ đến sau ngày thứ sáu tuần
thánh, mà còn là một sự tiếp nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta hiểu được tại
sao Tôma có thể nhìn thấy những dấu ấn của đau khổ, của cực hình trên thân xác
sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát từ thập giá và
những dấu đanh đã không làm xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm cho thân xác phục
sinh của Ngài.
Cũng giống như trên khuôn mặt nhăn nheo
của một cụ già. Những nếp nhăn ấy chính là kết quả những năm tháng dài của cuộc
đời với những khổ đau và tang tóc, những hy sinh và gian khổ, những yêu thương
và phục vụ. Những nếp nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh nghiệm, của già dặn và
chín chắn. Và rồi cặp mắt của cụ già sáng lên niềm hy vọng được gặp lại chính
cái nhìn của Thiên Chúa.
Để kết luận, chúng ta hãy suy gẫm lời
Chúa đã phán để hiểu được toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con người phải chịu
đau khổ, và phải chết đi trước khi được bước vào vinh quang.
17. Dấu chân của Thiên Chúa – R.
Veritas
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Nhiều năm trước đây có một nhà bác học
vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy
cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người
Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời
chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời không chút do dự:
Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng
tôi.
Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:
- Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ
chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào
chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
- Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt
thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
- Các ông thực là những người điên, các
ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai
chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không
đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng,
nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
- Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối
hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng
loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu
hỏi liên tiếp:
- Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi
ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông
ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
- Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu
có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
- Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người
điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông
lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
- Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông
không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo
dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay
trịnh trọng tuyên bố:
- Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn
xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy
hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông
Tôma: "Phúc cho ai không thấy mà tin". Thời đại chúng ta đang sống là
thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi
khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa
học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được.
Tinh thần khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo.
Người ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm
nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái
độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không khác bao
nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong
câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: "Chúng tôi đã
xem thấy Chúa Phục Sinh", ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh
nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng
đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông:
"Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy... Hãy đưa bàn
tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy". Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông:
"Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin...". Không những tin vì đã
thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời Chúa, ông
Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân
lý này: "Ai không thấy mà tin mới là người có phúc".
Thưa anh chị em,
"Ai không thấy mà tin mới là người
có phúc". Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm
nay mà lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh
nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta
hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những
bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có
thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng
đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội
Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô "Lạy Chúa là Thiên Chúa của
con!".
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự
đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác
quyết: "Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ
được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu
độ" (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn
tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong cuộc
sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: "Họ chuyên cần nghe các Tông đồ
giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ
Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng... Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết
và để mọi sự làm của chung... Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng
mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông" (Cv
2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm
nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước
những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến
cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng
Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem
lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay
là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những
người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến
sĩ cầu nguyện: "Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông
Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào
Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa". Và có lẽ đó cũng là lời cầu
xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế
này cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
18. Phục sinh
Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô,
không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục
sinh hiện ra với nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của
những người đã tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ
cung cấp cho chúng ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.
Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc
thánh Tôma vắng mặt, cho nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế,
ông đòi hỏi một sự kiểm chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt
nhìn thấy và đích thân gặp gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhận
lời của anh em khác không? Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là
chuyện rất khó chấp nhận. Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao
núng, kể cả sau khi đã gặp Đấng Phục sinh.
Chúng ta không nên trách Tôma, ngược
lại phải biết ơn ngài. Bởi vì chính "sự cứng lòng" của ngài lại làm
kiên vững cho niềm tin yếu đuối của chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi
hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của thánh Tôma: "Tôma hãy đặt ngón tay
vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy". Điều
này không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh Tôma, mà còn đáp trả cho yêu
cầu của tất cả chúng ta, những kẻ "không thấy" mà được gọi là
"tin", nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.
Đồng thời, "sự cứng lòng" của
thánh Tôma cũng làm cho lời chứng của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng
ta đều là những người không thấy mà tin dựa vào lời chứng của các tông đồ –
những kẻ dám sống, dám chết cho niềm tin của mình.
Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa
sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm
chứng về việc Phục sinh, ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên
xưng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Khi ông tuyên xưng như
thế, thì lời chứng của các tông đồ thật sự trở thành "đắt giá", thật
sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô
hữu.
Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra
không chỉ để chứng minh Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống
mới "Người thổi hơi vào các ông..."
Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có
thể trở nên sống động qua việc "thổi hơi" của Thiên Chúa. Thì ở đây,
chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo
mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút
nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc
bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.
Đồng thời với việc ban sự sống mới là
mệnh lệnh sai đi: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em". Tiếng
"như" ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn
cội của mệnh lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế
mà Đấng Phục sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục
sinh và để nối dài hành động của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát
thế giới khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức mạnh lớn nhất của nó là sự chết
đã bị vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng
được mời gọi trở nên những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi
trường sống của mình.
Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm
chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng
chính cuộc sống của chúng ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người
nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng hoảng hoặc
không cần biết đến ý nghĩa cuộc sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không
thoát ra được. Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những con
người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải là những người đi bước trước đem
sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa
cho cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám
đi sâu vào thế giới để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không
bo bo trong vỏ ốc nhưng phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà
thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất
cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông
bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: "Nếu anh muốn
người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc
cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất,
Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?".
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng
lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon!
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây,
đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh
chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn "ngày thứ
nhất trong tuần" làm ngày gặp gỡ các tông đồ. Như thế, "Ngày thứ nhất
trong tuần" đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát
mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc "sáng tạo mới". Xin
cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện,
hiệp thông, yêu thương... Để mỗi chúng ta trở thành một bằng chứng cho sự hiện
diện sống động của Đấng Phục sinh.
19. Niềm tin
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn
suy nghĩ về thái độ của Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn
tin vào những gì là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã
vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại
cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ:
- Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã
nghĩ tới hằng triệu triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa
một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một
lần nhìn thấy Ngài, chưa một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được
nghe Ngài giảng, chưa một lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng
ta vẫn tin tưởng, yêu mến và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
- Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng
vào một người đã sống cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích
hợp với não trạng của con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
- Đức tin của chúng ta không mù quáng,
nhưng dựa trên những cơ sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu
là một sự kiện lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm
về trước, các tiên tri đã loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã
được xác định một cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và
những việc Ngài đã làm. Qua đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi
vậy, chúng ta hãy tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích
và nguyện vọng riêng tư của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
- Nếu đó là những sự kiện cụ thể và
hiển nhiên, tại sao không lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày
nay có nhiều người trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có
một cái nhìn đứng đắn, chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên
không phải là những chân lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần
phải có một tâm hồn sẵn sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên
Chúa. Những đam mê vẩn đục thường là những chướng ngại vật cản ngăn con đường
đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã
làm cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng,
những kẻ chứng kiến đã có phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
- Có những người đã tin vào Chúa, nhưng
có những kẻ lại hậm hực tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự
kiện hiển nhiên như thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào
Ngài. Kẻ thì bảo: Ông ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học
Công giáo thì cũng có những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của
tác dụng ơn Chúa trong tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước
và làm cho ơn Chúa trở nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
- Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư
hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại
này luôn luôn chia thành hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng
vào Chúa và giới tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào
thời nguyên thủy đã có những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về
giới tuyến nào? Hãy tuyên xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa tôi.
20. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Người cứng tin như Tô-ma có gì hay
hơn kẻ tin dễ dàng không?
2. Người thời đại có dễ tin như những
người thời đại trước không? Người thời đại sau thì sao? Tại sao lại như vậy?
3. Có cần phải thay đổi phong cách rao
giảng Tin Mừng cho những thế hệ con cháu chúng ta không? Tại sao? Một cách thực
tế phải thay đổi thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tô-ma là một mẫu người có tính thực
nghiệm.
Khi chưa đích thực gặp lại thân xác đã
sống lại của Đức Giêsu, thì ngoài Tô-ma ra, các tông đồ khác dường như không
cảm thấy có vấn đề gì trong việc tin Ngài đã sống lại. Các ông đã tỏ ra tương
đối dễ tin. Nhưng riêng Tô-ma, ông không tin dễ dàng như thế, vì từ xưa đến
nay, ông chưa hề nghe nói có một ai tự mình sống lại từ cõi chết bao giờ. Cứ
bình thường mà xét, phải nói rằng Tô-ma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông
đồ khác.
Đối với người như Tô-ma, Đức Giêsu đã
không phiền trách gì về sự cứng lòng tin của ông. Ngài chỉ nói một câu rất nhẹ
nhàng để bổ túc cho sự cứng tin hợp lý ấy: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!" Và Đức Giêsu đã cho phép Tô-ma
được xỏ tay vào lỗ đinh ở tay và lỗ đòng đâm ở cạnh sườn Ngài. Nhưng có lẽ
chính nhờ như thế mà Tô-ma sẽ tin chắc vào sự sống lại của Ngài hơn ai hết.
Người cứng tin mà đã tin thì sẽ tin rất vững. Còn kẻ quá dễ tin thì cũng sẽ dễ
dàng mất niềm tin, hoặc cũng sẽ dễ dàng tin những điều khác dù chưa đủ nền tảng
để tin.
2. Con người thời nay và nhất là những
thế hệ sau sẽ càng ngày càng có tính thực nghiệm giống như Tô-ma.
Ngày nay, con người đã bước vào kỷ
nguyên của khoa học kỹ thuật, nên con người chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa
học thực nghiệm rất nhiều. Tinh thần khoa học thực nghiệm chính là tinh thần
của Descartes (1596-1650): "Chỉ tin sau khi đã chứng minh". Và tinh
thần ấy được thể hiện thành chủ trương "nghi ngờ có phương pháp và phổ
quát" (doute méthodique et universel) của ông. Nghi ngờ để tìm tòi hầu đi
đến kết luận chắc chắn. Tinh thần khoa học thực nghiệm ấy đòi hỏi con người
trước khi đi đến một kết luận, cần phải trải qua ba giai đoạn: nhận xét, đưa ra
giả thuyết, và thí nghiệm kiểm chứng như đòi hỏi của Claude Bernard
(1813-1873).
Tinh thần ấy chính là tinh thần của
Tô-ma, chính vì thế, các nhà khoa học Công giáo đã nhận thánh Tô-ma làm bổn
mạng của các nhà khoa học. Riêng bản thân tôi, người viết bài này, cũng rất thích
sự cứng tin của Tô-ma, và coi đó như một đức tính rất cần thiết để sự phán đoán
và lời nói của mình có giá trị, đáng tin. Sự đáng tin không chỉ đòi hỏi đức
tính chân thật, mà còn đòi hỏi sự phán đoán chính xác và chắc chắn. Một người
hết sức thật thà không bao giờ muốn lừa dối ai, nhưng lại dễ tin và hay bị
lường gạt, thì phán đoán và lời nói của người ấy không còn đáng tin nữa. Thiết
tưởng những người rao giảng chân lý, ngoài đức tính chân thật, cần phải có sự
chững chạc trong cách phán đoán để trở nên đáng tin trước mặt mọi người.
3. Đối tượng Phúc Âm hóa trong tương
lai là những thế hệ có đầu óc khoa học thực nghiệm như Tô-ma.
Những nhà truyền giáo hiện nay tại Việt
Nam thường thuộc lứa tuổi giao thời giữa hai thời đại: thời khoa học chưa ảnh
hưởng mạnh và thời khoa học ảnh hưởng rất mạnh trên lề lối suy nghĩ của con
người. Thời trước, người ta dễ tin những ai có uy tín (như các giám mục, linh
mục, tu sĩ, hoặc ông bà cha mẹ, cô dì chú bác). Trẻ con dễ tin vào những điều
người lớn nói, không đặt vấn đề điều đó đáng tin tới mức nào. Nhưng thời nay và
nhất là những thế hệ mai sau, người ta không dễ tin như thế nữa. Họ thường đòi
hỏi "nói có sách, mách có chứng". Muốn họ tin thì phải có bằng chứng.
Nếu không chứng minh bằng sự kiện thì ít nhất phải chứng minh được sự khả tín
của điều mình nói. Ngoài ra, lập luận phải vững chắc, trình bày rõ ràng. Vì
thế, việc rao giảng Tin Mừng hay sứ điệp Kitô giáo không thể theo phương cách
cũ mang nặng tính giáo điều được.
Ngày xưa, tại Việt Nam, trình độ văn
hóa giữa linh mục và giáo dân có sự chênh lệch rất cao. Ngày nay, sự chênh lệch
ấy giảm đi rất nhiều, thậm chí không còn nữa. Rất nhiều giáo dân có trình độ
văn hóa cao hơn những linh mục bình thường. Tuy nhiên các linh mục vẫn thường
hơn giáo dân trong những kiến thức về thần học, giáo lý, v.v... vì người giáo
dân hiện nay không được quan tâm đào tạo về mặt này, hoặc không có điều kiện để
quan tâm. Vì thế, các linh mục thường đảm trách việc loan báo và rao giảng Tin
Mừng cho giáo dân và người ngoại. Nhưng vì trình độ văn hóa của người bình
thường ngày càng cao hơn, nên việc rao giảng Tin Mừng không còn dễ dàng như
ngày xưa. Điều ấy đòi hỏi những người rao giảng Tin Mừng cũng phải có một tinh
thần khoa học thực nghiệm trong cách rao giảng, cần chú trọng đến những bằng chứng
xác thực, những lý luận chặt chẽ, cho dù đức tin không phải đến từ những thứ
ấy. Nhưng nếu không chú trọng đến những thứ ấy, lời rao giảng sẽ bị từ chối
ngay từ đầu.
4. Hội nhập văn hóa theo chiều dọc.
Tại châu Á, Giáo Hội đã thành công rất
khiêm nhường trong việc truyền giáo, không thành công rực rỡ như ở châu Âu. Một
phần khá lớn là do thiếu hội nhập văn hóa, vì trước đây, có sự khác biệt về văn
hóa giữa dân tộc truyền giáo với dân tộc được truyền giáo. Ngày nay, với việc
toàn cầu hóa, sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc bị giảm thiểu rất nhiều,
nên việc hội nhập văn hóa theo chiều ngang không còn cần thiết và quan trọng
như xưa. Trái lại, sự khác biệt về văn hóa giữa thế hệ trước với thế hệ sau
ngày càng gia tăng. Lề lối suy nghĩ của các thế hệ sau càng ngày càng thấm
nhuần tinh thần khoa học thực nghiệm hơn. Vì thế, nếu không có sự thích ứng
khôn ngoan của thế hệ Phúc Âm hóa (thế hệ trước) với thế hệ được Phúc Âm hóa
(thế hệ sau) trong việc diễn tả sứ điệp, chắc chắn việc Phúc Âm hóa sẽ thất bại.
Do đó, hiện nay việc hội nhập văn hóa theo chiều dọc cần được Giáo Hội quan tâm
và thực hiện nhiều hơn là hội nhập văn hóa theo chiều ngang.
5. Rao giảng bằng việc làm đi đôi với
rao giảng bằng lời nói
Tinh thần khoa học thực nghiệm của con
người thời đại đòi hỏi những dấu chứng cụ thể mới tin được. Do đó, những xác
quyết trong rao giảng cần được chứng tỏ bằng thực tế đời sống. Thật vậy, ai mà
tin được cái Tin mà chúng ta rao giảng là Tin Mừng khi chúng ta rao giảng nó
với bộ mặt buồn so, ảo não? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Giải Phóng
khi mà người rao giảng nó vẫn sẵn sàng khom lưng làm nô lệ cho người, cho vật,
cho sự này sự khác, hoặc cho chính bản thân? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin
Mừng Cứu Độ khi mà nó không làm cho người người rao giảng nó hoặc theo nó sống
tốt hơn, có tình có nghĩa hơn, và hạnh phúc hơn những người bình thường khác?
Thiết tưởng đã tới lúc chúng ta - những
ai còn tha thiết với tiền đồ của Kitô giáo - cần đặt lại vấn đề sống đạo một
cách nghiêm túc hơn và hãy thành thật với chính lòng mình. Nếu ta cảm thấy Kitô
giáo trong thực tế đã không đem lại một thứ hạnh phúc tự tại cho chúng ta,
không tạo được một động lực đủ mạnh để thúc đẩy ta sống tốt đẹp hơn người
ngoài, mà ta vẫn cứ mạnh miệng rao giảng như là một tôn giáo tốt nhất, hữu hiệu
nhất, thì việc rao giảng của chúng ta đúng là một sự lừa dối có hệ thống. Nếu
như thế chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về sự lừa dối ấy. Chúng ta
tưởng mình có đức tin, nhưng trong thực tế, đức tin ấy đã chết hay mất đi từ
lâu mà ta tưởng là ta vẫn còn đức tin. Vì đức tin không phải là một chấp nhận
xuông, hay chỉ là hành động tuyên xưng ngoài miệng, mà là một cái gì tự nhiên
ảnh hưởng rất sâu xa vào đời sống, khiến ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động
nên tốt đẹp hơn, và đời sống ta hạnh phúc hơn rất nhiều. Nếu không được như
thế, "đức tin" mà ta tưởng rằng ta có, không phải là đức tin đích
thực.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, rất nhiều khi con chê trách
Tô-ma là quá cứng tin, và tự hào mình dễ tin hơn nhiều. Nhưng trong thực tế,
đức tin của con chẳng ảnh hưởng gì trên cuộc sống con bao nhiêu, nó chẳng làm
con hạnh phúc hơn người không đức tin, chẳng làm con sống tốt đẹp và yêu thương
hơn họ. Xin cho con nhận ra đức tin ấy chưa phải là đức tin đích thật. Xin Cha
hãy ban cho con đức tin đích thực có khả năng thay đổi con người của con, làm
con nên thật sự tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.
21. Chú giải mục vụ của Alain
Marchabour
HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ
KHÔNG CÓ ÔNG TÔMA (20,19-23)
Chúa hiện đến (19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm
ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ
(ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33
thêm "các bạn hữu" vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu
sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự
đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những
điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình.
Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách
khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn
bình an. Người nói "Chúc anh em được bình an", điều này không chỉ là
một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của
niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của
Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của
Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là
ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường
của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa
Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ
nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan
vui mừng.
Sứ vụ (21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục
đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. "Như": đây không chỉ là một
sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng
chữ "làm Tông đồ") để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần
đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười
Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế
(17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã
ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa,
thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên
các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ
mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi,
bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến
là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng
cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi,
khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà
tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là
"thì thụ động thần linh" nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ
động. Ta có thể dịch như thế này: "Bất cứ người nào anh em tha... Thiên
Chúa sẽ tha tội cho họ... Bất cứ người nào... Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội
họ".
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp
theo, đều diễn ra vào "ngày của Chúa', nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên
khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với
cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực
hóa một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.
Ông Tôma: Không thấy mà tin (20,24-29)
Việc ông Tôma vắng mặt cho phép người
kể chuyện đưa vào cảnh tượng tiếp sau. Sự cứng lòng không tin của ông Tôma được
đặc biệt nhấn mạnh, bởi lẽ điều này được diễn tả gần như cùng một từ ngữ như
trong 4,48: "Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin
đâu". Ông Tôma, là người tuy đã mời gọi các bạn đồng môn cùng đi cùng chết
với Chúa Giêsu (11,16), lại chối từ cùng với các bạn đi theo Chúa trong đức tin
vào Chúa Giêsu hằng sống. Ông có hai lỗi: trước hết không tin vào lời chứng của
các Tông đồ; sau nữa, nghi ngờ Chúa Giêsu sống lại.
Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai cũng
được miêu tả với những từ ngữ như lần thứ nhất. Tuy nhiên sự cứng lòng tin của
ông Tôma cho phép thánh sử thực hiện hai mục tiêu: trước tiên việc nhấn mạnh về
những dấu vết thương tích đánh dấu sự liên tục và sự liên kết giữa Chúa Giêsu
chịu đóng đinh và Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính việc nâng cao là thập giá làm
nên mặc khải tối thượng về tình yêu của Chúa Cha và vinh quang của Chúa Con.
Tiếp đến, đức tin mà ông Tôma, kẻ không tin, tìm gặp lại, trổi vượt đức tin của
các môn đệ bởi vì ông dành cho Chúa Giêsu tước hiệu vĩ đại nhất của cả Tin
Mừng: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!". Trong số tất cả
các tước hiệu của Chúa Giêsu đã được khai trình giữa chương đầu này, chúng ta
đạt đến tột đỉnh mà mọi định nghĩa giáo lý sau này đều không thể vượt qua được.
Giữa "Ngôi Lời là Thiên Chúa" ở Lời Tựa (1,1) và lời tuyên xưng Chúa
Giêsu là "Chúa và Thiên Chúa", mọi sự đều đã rõ. Quả là ngược mặc
khải, kẻ làm chứng về chân lý này lại là người không muốn tin vào lời chứng của
các Tông đồ.
Hạnh phúc cuối cùng là kết luận của Tin
Mừng và là sự lặp lại chủ đề chính yếu của đối tượng: giữa thấy và tin, cảnh
tượng và nghe biết, sự kỳ lạ và lời nói, thì chính phần thứ hai mới là điều
kiện thường tình và lý tưởng của kẻ tin. Ngay cả những kẻ đã thấy, cũng phải
tin hơn điều họ đã thấy. Ngôi Lời từ lúc mặc lấy các phàm, nghĩa là nhân tính
nơi mà vẫn phải "nhận biết Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang".
Chúng ta, những người lãnh nhận Tin Mừng, chúng ta quả có phúc vì đã không thấy
mà nhờ những lời chứng của các Tông đồ, chúng ta gắn bó với Chúa Kitô và trở
nên những kẻ tin vào Người.
KẾT LUẬN (20,30-31)
Hai câu này làm thành đoạn kết của Tin
Mừng trước khi chương 21 được thêm vào. Gioan là tác giả duy nhất trong các
thánh sử đã đưa vào tác phẩm của mình đoạn kết. Để cho độc giả tương lai tiện
sử dụng, ông có hai xác định quan trọng:
Trước hết, Gioan nhận biết đã cố ý thực
hiện một sự tuyển chọn trong số các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu. Vậy nên
cần phải ghi nhớ điều đó mỗi khi thấy một vài thời kỳ trong cuộc đời của Chúa
Giêsu được các Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, còn ông thì vẫn im lặng, và đừng
vội kết luận rằng ông không hay biết các sự kiện đó. Trong khi định trước các
môn đệ như những người lãnh nhận các dấu lạ, Gioan đặc biệt liên tưởng đến các
độc giả của mình, tuy đã trở thành môn đệ, nhưng lại không thấy các dấu lạ được
thực hiện trong cuộc đời của ông.
Sau nữa và nhất là, ông minh định mục
tiêu của mình: kiên định các môn đệ trong đức tin vào Chúa Giêsu, vừa là Đấng
Mêsia như Kinh Thánh đã hứa, vừa là Con Thiên Chúa, từ đó các môn đệ có được sự
sống nhờ Chúa Giêsu. Như vậy, độc giả có sẵn chìa khóa để học hiểu. Tin Mừng
không phải là một quyển sách bình thường, sáng tác để cho độc giả giải trí, mà
là một quyển sách có sự sống; thừa hưởng cũng một năng lực từ sự xác tín và
cũng một tiềm năng sự sống như lúc Chúa Giêsu còn tại thế. Đối với các độc giả
sinh sống vào thời mà Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xác thể nữa, thì có
quyển sách này đây, sẵn sàng cho cuộc hội ngộ giữa độc giả và quyển sách, làm
nảy sinh sự sống do đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa.
22. Chú giải của Noel Quesson
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong
tuần... các môn đệ khi đó tụ tập lại... Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong
nhà...
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho
chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách
tự nhiên, chúng ta có xu hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó
là với Tôma... bởi vì chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được
một giải pháp thực tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một
người nào đó khó tin... và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu
lòng tin của chính chúng ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta
với Tôma không ngăn chúng ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý
rằng Đức Giêsu hằng sống hiện ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa
nhật. Ngày thứ nhất trong tuần. Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu
không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình.
Họ không thể luôn luôn ở với nhau được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp
gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm
khi nghĩ rằng đức tin là một công việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân:
chúng ta nhận thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người
ta thử nghiệm, nhận biết, cảm thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn.
Họ ở với nhau,...hội họp lại... trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ
ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu hiện đến và ở giữa họ.
Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc
ấy luôn luôn là thời gian sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói
quen khi hội họp ở nhà người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau... Họ tin cậy
nhau. Có những vụ bỏ cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm... Họ cũng sợ... Họ
cài chốt các cửa lại. Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm
lại, Chúa nhật đầu tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những
người thân của Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma.
Vâng, mỗi Chúa nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng
con, và chính Chúa đã làm cho chúng con được sống... Không thấy Chúa, chúng con
vẫn tin.
Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám
dỗ cài chết cữa nhà một cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức
tường trong nhà tù của chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con
trở lại: Chúng ta hãy mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm
Tin Mừng này chúng ta hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng
ta sống lại khỏi tình huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức
khỏe, như những gò bó đau đớn và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp...
Nơi mà ở đó họ đã gài then cửa!
Người nói với họ: "Bình an cho anh
em!".Nói xong Người cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn
ngập vui mừng khi thấy Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: "Bình an cho anh
em!"
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo
trước hết không phải là một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui
nâng chúng ta lên cao khi mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi
trẻ ở đó đầy sức sống, khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các
quan hệ bạn bè và gia đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui
đến sau sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ
bản là thất vọng (cái chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước
đoạt được! Đó là niềm vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi
cuộc hội họp Chúa nhật, giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua
tiếng nói của vị linh mục: "Bình an cho anh chị em!". Và Công đồng
Vatican II đã lập lại truyền thống xưa "hôn bình an: các Kitô hữu được mời
ban bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy
nhau, mỉm cười với nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó
không phải là một cử chỉ tầm thướng... chính là "trở nên Đức Kitô"
với người gần ta..., khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa
họ.
"Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy
cũng sai anh em.."
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt
như thế!chính Đức Kitô nói lại với chúng ta... Tôi, người đàn ông đáng thương
người đàn bà đáng thương, tôi là "Giêsu" được sai đến cùng anh em
tôi... đúng như Người đã được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ
này. Ta đừng đi quá nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại
trên các từ về Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao
cho chúng ta: "sứ mệnh" của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi,
một phần. Tôi được Đức Giêsu sai đi... như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi
còn phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ
Latinh và Hy Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. "Sứ mệnh" có nghĩa
"sự sai đi" (từ missus trong Latinh)... và "tông đồ có nghĩa là
"người được sai đi" (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)...
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong
công việc của tôi, trong môi trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân
danh riêng tôi, vì lợi ích của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh
Người, vì lợi ích của chính Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi
còn phải nói với một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều
mà tôi sắp nói với bạn... người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của
Người, ở gần với Người, để tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ
và Người nói với các ông: "Anh em nhận lấy Thánh Thần".
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo
mới... Thần Khí của Đức Giêsu được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức
Giêsu đã chết, "trở lại cùng với Cha". Nhưng người Kitô hữu nhận lấy
đà tiếp sức! Họ là những người mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người...
họ đi theo công trình của Người: Thánh Phaolô sẽ nói: "Anh em là Thân thể
Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng
ta thấy, vì lợi ích chính mình, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng
Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7): "Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến
(Veni, Creator Spintua)".
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là
buổi chiều ngày Lễ PS cái chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người
chiến thắng cái chết, chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức
Giêsu sống lại từ trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là
điều mà chúng ta khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức
Chúa, và Ngài ban sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều
ngày Phục sinh, và Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau,
vào ngày lễ Hiện Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một
đòn bậc Thầy nếu ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng
thời mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. "Nhờ sự Phục Sinh
Người được lập là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần".
"Anh em tha tội cho ai, thì người
ấy được tha.."
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm
buộc... các tội lỗi. Lời lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng
hai từ trái nghĩa để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên
từ "tích cực". Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu
cũng ban cho các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình:
Từ nay, trên trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của
Thiên Chúa... như Đức Giêsu khi trước: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai
anh em". Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là
của Người, trong giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên
Chúa ngự trên tôi, Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi
mang Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa,
giải thoát những người tù đầy " (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang
tinh thần đó, Thần Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu
thương, và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục
sinh.
Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó
không ở với các ông, khi Đức Giêsu hiện đến... ông tuyên bố: "Nếu tôi không
thấy... tôi sẽ không tin..."
Đấy là "người đến trễ, đến sau
cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri
của mình, con người tích cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu.
"Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu" (Ga 14,15). Khi Đức
Giêsu nói về sự sống lại của La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết
(Ga11,15-16).
Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến:
"Đặt ngón tay anh vào đây, hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin
nữa..."
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính
khôi hài? Người đã để cho Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính
với một cách mỉm cười mà tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như
có vẻ nói với ông: Anh bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và
vắng mặt, khi bạn nói với các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin... nhưng
tôi vẫn ở đó, vô hình, có nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho
bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của
Người.
Tôma nói: "Lạy Chúa của con và Thiên
Chúa của con".
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một
người mà đối với anh ta, sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng
Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng
có mặt ở đó.
Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay
những ai không thấy mà tin.
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng.
Người ta không thể trông thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có
đức tin mới đưa chúng ta tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.
Phục Sinh: Ðức
cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Cv 2,42-47; 1P 1,3-9; Yn 20,19-31
Chúng ta đã có thể nhận thấy vì sao
Phụng vụ hôm nay lại đọc cho chúng ta đoạn Tin Mừng vừa nghe. Bởi vì hôm nay là
ngày thứ 8 sau lễ Phục sinh; thế mà 8 ngày sau khi sống lại Chúa đã hiện ra đặc
biệt cho Thôma.
A. Bài Tin Mừng Yoan
Câu chuyện về người Tông đồ này, chúng
ta đã từng nghe biết. Và khi muốn chế nhạo ai, nhiều khi chúng ta bảo họ cứng
lòng tin như Thôma. Nhưng thật sự, Thôma vẫn là một vị thánh Tông đồ và người
đáng kính phục hơn chúng ta tưởng. Ít nhất người cũng hơn chúng ta nhiều. Theo
Tin Mừng Yoan, Thôma là vị Tông đồ có suy nghĩ sáng sủa và nhiệt tình quả cảm.
Khi Ðức Yêsu nói với các môn đệ rằng: con đường Người đi, sau này họ cũng sẽ
đi. Thôma liền thưa: nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao biết
được đường lối của Thầy? (14,5). Nhưng dù vậy, khi thấy Chúa dứt khoát muốn lên
Yêrusalem, không kể chi đến những nguy hiểm đang chờ, Thôma đã bảo anh em: Nào
cả chúng ta nữa hãy lên Yêrusalem chịu chết với Người. Một tính tình như vậy
chỉ đáng khen, chứ có gì là đáng chê.
Riêng trong câu chuyện hôm nay, thoạt
tiên Thôma có vẻ như là người Tông đồ duy nhất không muốn tin việc Chúa sống
lại. Ðó chỉ là lối thuật truyện của tác giả Tin Mừng thứ tư. Những sách Tin
Mừng khác cho biết lúc đầu nhiều môn đệ không muốn tin như vậy. Nhưng Yoan khi
kể chuyện thích nói đến "một" người để làm nổi bật ý nghĩa lên. Ông
có lý để chọn Thôma vì người Tông đồ này, như ta đã nói, có óc suy nghĩ sáng
sủa. Những môn đệ khác đã được thấy Chúa; còn ông, ông cũng muốn được hân hạnh
đó, nếu có thể được. Và hơn nữa, ông muốn có bằng chứng xác thực hơn kiểu cách
anh em mô tả. Ông muốn được mắt thấy tay sờ. Yoan mô tả thái độ của ông như vậy
để khẳng định rằng: niềm tin của các Tông đồ vào việc Chúa sống lại căn cứ vào
những cơ sở thật chắc chắn.
Ðó là chủ đích của cả đoạn Tin Mừng Yn
20. Từ đầu chí cuối, tác giả muốn nhấn mạnh: niềm tin vào việc Chúa sống lại phát xuất từ những sự kiện không
chối cãi được. Yoan và Phêrô chỉ tin sau khi đã thấy mồ trống và các khăn liệm
xác. Maria Magđala chỉ nhận ra Thầy đã sống lại sau khi nghe rõ tiếng Thầy gọi
tên mình. Mọi Tông đồ khác, kể cả Thôma, con người có suy nghĩ sáng sủa, cũng
chỉ công nhận Chúa đã phục sinh khi đã nhìn thấy Người. Ðức tin của các Tông đồ
có cơ sở chắc chắn. Họ thật là các chứng nhân của việc Chúa sống lại.
Thành ra kết câu chuyện về Thôma cũng
giống như chuyện về Maria Magđala. Cả hai đều vắng mặt khi những người khác
được "ơn". Ðiều ấy thúc đẩy họ khao khát được ơn lớn hơn. Và quả
thật, Chúa đã thưởng công những tâm hồn cậy tin. Maria đã được hơn Yoan và
Phêrô vì Chúa đã hiện ra với bà và thân mật dịu dàng gọi tên bà. Thôma cũng
vậy, ông được Chúa hiện ra cho một mình ông, nếu ta nói được như thế.
Còn câu Chúa nói: "Bởi thấy Ta,
con đã tin; phúc cho những ai không thấy mà tin", không thể làm Thôma
buồn, vì ông thuộc thế hệ các Tông đồ, những người đã thấy và đã tin. Ai dám
bảo thế hệ ấy không có phúc? Chính Chúa đã có lần nói với họ: Phúc cho chúng
con vì được xem thấy, nghe thấy bao điều mà các tiên tri vua chúa không được
thấy và nghe. Họ có phúc vì đã thấy và đã tin, đang khi có bao kẻ cũng thấy mà
không tin. Ðức tin không chỉ căn cứ vào những điều đã thấy. Bọn Biệt phái có
mắt mà như mù. Nên Thôma đã thấy và đã tin, thì đã có phúc rồi. Và chắc chắn
niềm vui của ông thật đã to lớn khi thấy Chúa hiện ra và nói với mình. Câu nói
kia không nhắm ông nữa, nhưng hướng về độc giả sách Tin Mừng và chúng ta hết
thảy. Chúng ta không thuộc thế hệ những người mắt thấy, mà chúng ta tin, thì
chúng ta là những người có phúc. Có phúc vì đã được ơn Chúa ban, vì đức tin,
cuối cùng, là ơn ban của Chúa. Người ban cho những ai Người đã tiền định. Chính
cái phúc đó mà chúng ta phải suy nghĩ bây giờ theo lời thư 1 Phêrô.
B. Bài Thư Phêrô
Tác giả bắt đầu bằng lời chúc tụng
Thiên Chúa vì nghĩ đến hạnh phúc mình đã được với tư cách là tín hữu. Quả vậy,
chỉ vì lòng thương lớn lao mà Người đã ban cho tất cả chúng ta được ơn tái sinh
nhờ mầu nhiệm Ðức Kitô Phục sinh từ cõi chết. Chúng ta đâu đã thấy Người, thế
mà chúng ta vẫn mến tin Người. Do đâu vậy, nếu không phải do lòng thương xót
lớn lao của Người? Chính lòng thương xót ấy đã ban Ðức Kitô cho chúng ta, đã để
Người chết cho chúng ta và đã phục sinh Người từ kẻ chết cho chúng ta. Tất cả
những việc lớn lao đó nằm trong kế hoạch tình yêu muốn cho chúng ta được ơn tha
thứ tội lỗi và trở nên nghĩa tử trong Ðức Kitô, khiến chúng ta được trông đợi
hồng phúc lớn lao bất diệt sau này. Sánh với phúc lộc ấy, những đau khổ ở đời
này có là chi? Ðó chỉ là tạm bợ và rơm rác làm cho vàng sáng tỏ. Thế nên chúng
ta hãy giữ vững niềm tin, nhìn vào Ðức Kitô sống lại trong vinh quang mà chắc
chắn vào tương lai rực rỡ đang chờ mình. Hạnh phúc ở ngay trong niềm tin ấy.
Như vậy bài thư Phêrô đã tiếp nối bài
Tin Mừng Yoan, cho chúng ta thấy hạnh phúc của mình khi tin Ðức Kitô sống lại
và dùng niềm tin ấy khuyến khích chúng ta trong cuộc đời phấn đấu ở trần gian.
Nhưng thật lầm tưởng khi suy nghĩ việc Chúa Phục sinh nguyên trong tương quan
với mình mà thôi. Khi nói với Thôma: phúc cho những ai không thấy mà tin, Chúa
sống lại gián tiếp ngỏ ý muốn có những người như vậy; nghĩa là Thôma và các
Tông đồ phải đi tìm những người như thế. Người cũng đã dạy Maria, khi đã nhận
ra Người sống lại, hãy đi báo tin cho các môn đệ. Niềm tin phục sinh bao hàm sứ
điệp truyền giáo. Ðức tin của những người đã thấy làm cho những kẻ không thấy
mà tin. Những kẻ này có phúc qua trung gian những người trên. Chúng ta nay được
phúc lộc nhờ lời giảng của các Tông đồ. Và tác động của các Ngài tới chúng ta
qua Giáo Hội mà buổi đầu đã được tác giả sách Công vụ mô tả như chúng ta vừa
nghe đọc. Chúng ta cần tìm hiểu đoạn Thánh Kinh này để biết rõ môi trường phải
nung nấu niềm tin hạnh phúc của chúng ta vào việc Chúa phục sinh.
C. Bài Sách Công Vụ
Rõ ràng câu cuối bài sách Công vụ cho
thấy "số những kẻ được cứu rỗi cứ mỗi ngày được Chúa ban thêm" cho
cộng đoàn các Tông đồ lập ra. Và ta phải hiểu niềm tin cứu rỗi nơi mỗi người
cũng chỉ tăng trong các cộng đoàn như thế. Thế nên tìm hiểu các cộng đoàn này
là một nghĩa vụ.
Tác giả sách Công vụ - thánh Luca - đã
nhiệt tình làm công việc ấy. Ở đây rõ ràng người không phác họa tự ý. Bản văn
của người thiếu thứ tự và có nhiều nét lặp lại, khiến ta có thể nói người đã
nghe tin về nhiều cộng đoàn khác nhau và thấy Ơn Chúa Thánh Thần làm việc ở các
cộng đoàn khác nhau thế nào, người ghi tất cả lại như là một bản thống kê các
sinh hoạt phong phú của Chúa Thánh Thần.
Trước hết chúng ta thấy các tín hữu bấy
giờ kiên trì (hay chuyên cần) với giáo huấn của các Tông đồ và sự hiệp thông,
việc bẻ bánh và kinh nguyện. Không có sự chuyên cần với giáo huấn của các Tông
đồ, không thể đào sâu và giữ vững đức tin. Người ta sẽ tin hời hợt và có thể
lạc mất niềm tin. Việc kiên trì kết hợp với các Tông đồ, với quyền giáo huấn ở
trong Hội Thánh là điều kiện để giữ được liên lạc và kết hợp được với Ðức Kitô
hầu khỏi bỏ rơi mất niềm tin.
Ðồng thời khi liên kết với đầu, người
ta cũng mật thiết với anh em là cùng chi thể trong một thân thể. Các tín hữu
đầu tiên đã chuyên cần với hiệp thông, không những trong cùng một đức tin nhưng
còn trong một lòng mến. Họ chỉ có một lòng một ý (4,32). Không một người nào
nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung. Chắc
chắn chúng ta không nên hiểu chế độ "của chung" đã phổ cập ở mọi nơi,
trong những cộng đoàn đông đảo. Nhưng sự kiện có một số người sau khi đã đón
nhận đức tin, đã biết tình nguyện bỏ chung của để chia sẻ và tương trợ nhau,
cũng nói lên ơn Chúa Thánh Thần làm việc mạnh mẽ nơi tâm hồn các tín hữu. Luca
ghi nhận sự kiện ấy như là dấu chỉ về đời sống mới và hạnh phúc phục sinh. Ðó
có thể là lý tưởng, nhưng vẫn là đặc sủng, là tiếng gọi, là biểu thị của đức
tin sống động và toàn vẹn, là dấu chỉ đời sống phục sinh phát triển đến mức cụ
thể chi phối đến cả đời sống vật chất.
Tuy nhiên sự hiệp thông sâu xa và căn
bản nằm ở bình diện khác. Chính Thiên Chúa và sự sống của Người là nguồn mạch
phát sinh ra sự sống trong Hội Thánh. Thế nên hàng ngày các tín hữu chuyên cần
với việc bẻ bánh và kinh nguyện. Sách Công vụ nói: họ bẻ bánh ở nhà vì đó là
nghi lễ riêng của Kitô giáo, không làm tại Ðền thờ được. Họ làm việc ấy
"lòng hân hoan, dạ đơn thành, trong lòng ngợi khen Thiên Chúa", vì
đây là lễ Tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ mọi người nơi Ðức Yêsu Kitô Tử nạn
và Phục sinh. Chính trong nghi lễ bẻ bánh họ nhận ra sự hiện diện của Chúa đã
chết và sống lại; họ thấy Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người, nên lòng họ hân
hoan, miệng dâng lời ngợi khen. Lúc ấy tâm hồn được bồi dưỡng, dạ họ trở nên
đơn thành; họ trở nên tạo vật mới, nên bánh không men của lễ Vượt Qua, tức của
mầu nhiệm Phục sinh.
Ngoài ra, họ tỏ ra chuyên cần với việc
cầu nguyện vì đó là thái độ chung của mọi người có tin tưởng. Người Dothái
trung thành với kinh nguyện ở Ðền thờ. Các môn đệ Chúa cũng vậy. Sách Công vụ
kể Phêrô và Yoan lên Ðền thờ cầu nguyện vào giờ chung với mọi người. Nhưng ngay
từ đầu các tín hữu đã có lối cầu nguyện riêng chung với nhau, như khi chờ nhận
ơn Chúa Thánh Thần. Và việc cầu nguyện này cần cho đời sống mới đến nỗi Phêrô
khẳng định các việc từ thiện bác ái không được làm suy giảm.
Chính nhờ nếp sống chuyên cần với việc
giáo huấn, hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện như thế mà Hội Thánh lớn lên trong
sự mến phục của toàn dân và được Chúa chúc lành cho tăng trưởng.
Thế thì đời sống đức tin mới của mỗi
người cũng chỉ có thể phát huy được nhờ bốn sự chuyên cần trên, tức là nhờ việc
tham gia vào nếp sống chuyên cần của Giáo hội. Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta
qua Ðức Yêsu-Kitô, Ðấng đã chết và sống lại. Thôma đã xem thấy Người và đã tin.
Chúng ta không thấy nhưng vẫn tin vì Người đang hoạt động nơi các Tông đồ và
Giáo hội. Chính việc liên kết với các Tông đồ và hiệp thông với anh em trong
việc bẻ bánh và cầu nguyện làm cho chúng ta được hợp nhất với Chúa và nhận lấy
sự sống của Người. Sự sống này là sự sống Thần Linh hay Thánh Thần mà Ðức Kitô
đã đem lại khi Người Tử nạn-Phục sinh. Khi phát triển sự sống ấy có thể phát
sinh ra một nếp sống mới thật sự khiến toàn dân mến phục và nhiều người theo
Chúa.
Chúng ta cần suy nghĩ về những điều ấy
và đem ra thực hành. Chắc chắn đời sống riêng của chúng ta và đời sống chung
của giáo xứ sẽ khả quan hơn nhiều. Và để bắt đầu, chúng ta hãy sốt sắng hiệp
thông với nhau trong việc tuyên xưng một đức tin, trong việc cầu nguyện và bẻ
bánh, để có thể hiệp thông trong việc chia sẻ tương trợ nhau trong đời sống.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời
Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn
Sơn Lâm)
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét