THÔNG BÁO TUYỂN SINH
THÔNG BÁO TUYỂN SINH
• Có ước muốn tìm hiểu đời sống tu trì • Đã tốt nghiệp PTTH : tuổi từ 18-23; Nếu đang theo tốt nghiệp đại học: tuổi không quá 30
Nếu đã trúng tuyển Đại Học, tuổi không
quá 25.
II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH • Thời gian : Từ nay cho đến ngày 30 tháng 07 năm 2014 • Địa điểm : 17/24 Ấp Chiến Lược, P.Bình Hưng Hòa A Quận Bình Tân, Tp. HCM III. Liên hệ: (1) Cha Antôn M. Lê Văn Thi – Tel : 0973 677 711; 0854 084 565 (2) Cha Giuse M. Nguyễn Hồng Phúc – Tel: 0918 541 630
(3) Cha Giuse Đỗ Văn Thụy - Tel: 0918 874
938
(4) Email cha phụ trách ơn gọi : rakhoi999@gmail.com IV. Hồ sơ gồm:
1.
Đơn xin tìm hiểu ơn gọi theo mẫu (có dán ảnh và cha xứ
xác nhận)
2.
Bản sao Bằng Tốt Nghiệp Phổ Thông Trung Học hoặc Tốt Nghiệp
Đại Học
3.
Bản sao học bạ cấp ba hoặc bảng điểm những năm Đại học
4.
Bản sao CMND và sổ Hộ Khẩu, sổ Rửa Tội(photô)
Hồ sơ có thể nộp trực tiếp cho Ban Đặc Trách Ơn Gọi hoặc gởi qua đường bưu điện theo địa chỉ : Lm Antôn M. Lê văn Thi 17/24 Ấp Chiến Lược, P.Bình Hưng Hòa A Quận Bình Tân, Tp. HCM V. THỜI GIAN VÀ MÔN THI VÀO ỨNG SINH:
1.
Ngày 31/07/2014 tại cộng đoàn Bình Hưng Hòa
2.
Môn thi: gồm Anh Văn, Việt Văn và Giáo Lý.
3.
Thời gian: 8h - 9h30 môn Việt Văn; 9h45 - 11h:Giáo Lý;
15-16 Anh văn
Ban Đặc Trách Ơn Gọi
HỘI THƯA SAI VIỆT |
|
HỘI THỪA
SAI VIỆT NAM
BAN ỨNG SINH
17/24, P BÌNH HƯNG HÒA A,Q. BÌNH TÂN, Tp HCM
Tel :
0854084565 – 0973 677 711 Email : rakhoi999@gmail.com
ĐƠN
XIN TÌM HIỂU
ƠN GỌI THỪA
SAI VIỆT NAM
Kính gởi : ĐỨC CHA
PHÊRÔ ĐẶC TRÁCH HỘI THỪA SAI VIỆT NAM
BAN TUYỂN SINH ƠN GỌI THỪA SAI VIỆT NAM
Con
là (tên Thánh, Họ và tên):………………………………………………..
Sinh
ngày…… tháng……. Năm………………tại :…………………………
RT:…………………………..TS:…………………….tại………………………
Do
:………………….……………………………………………………………
Số
CMND :………………… Ngày cấp : ………….Nơi cấp :……………….
Tốt
nghiệp phổ thông trung học năm :………………………………………..
Tốt
nghiệp Đại học năm:…………………Cao đẳng……………….....................
Chuyên
ngành:…………………………………………………………………........
Tên
cha:…………………………………….. Sinh năm:…………………………..
Tên
mẹ:…………………………………….. Sinh năm:…………………………..
Số
anh chị em : [ ] anh trai,
[ ] chị gái, [ ] em
trai, [ ] em
gái
Địa
chỉ gia đình
:................................................................................................
Thuộc
giáo xứ :.........................cha
xứ...............................Tel:…………… ….
Giáo
phận:..................................................................................................... ….
Đã
tìm hiểu dòng(nếucó) :............................................................................. …
Tên
Cha bề trên :..................................... Tel :…………………………….. …..
Địa
chỉ liên lạc (của bản thân):…………………………………………………. …..
Điện
thoại: ………………………. Email ……………… ………………………
Ngày
xin gia nhập ứng sinh Hội TSVN:……………………………………….. …
Ngày
được gia nhập công đoàn:………………………………………………. …..
Con
xin tìm hiểu ơn gọi Thừa Sai Việt Nam
Giáo
xứ ……………….., ngày tháng
năm 2014
Xác nhận của cha xứ Ứng
sinh ký tên
Thông báo về
các khoá linh thao dành cho sinh viên năm 2014
Các bạn trẻ
thân mến,
Linh Thao là tất cả những phương thức luyện tập; trau dồi và bổ dưỡng cho đời sống nội tâm; là tất cả những cách chuẩn bị và chỉnh đốn đời sống nội tâm nhằm loại bỏ những quyến luyến lệch lạc, và sau đó tìm kiếm ý Chúa hầu sắp đặt cuộc đời làm sao để có thể mưu ích cho linh hồn mình. Linh Thao là một phương thức tĩnh tâm rất phổ biến trong Giáo Hội, chào đời đã hơn bốn thế kỷ, từ kinh nghiệm nội tâm của thánh Inhaxio Loyola, đấng sáng lập Dòng Tên.
Hằng năm, Dòng Tên ViệtNam
đều tổ chức các cuộc tĩnh tâm Linh thao vào dịp hè dành cho các bạn sinh viên
Công giáo khắp cả nước. Chúng tôi xin thông báo lịch của các khoá Linh thao
Sinh viên năm 2014 như sau:
1. Đà Lạt 1
Trung tâm Mục vụ, 51 Vạn Kiếp, P.8, TP. Đà Lạt
Thời gian: 01-08/07/2014
Khoá này dành cho sinh viên Đà Lạt và nhận thêm khoảng 50 bạn từ nơi khác đến.
Xin các bạn đăng ký với bạn Huy (đt: 0166 612 4152; email: ngochuy241093@gmail.com) hoặc với bạn Ngọc Uyên (đt: 0168 985 7860; email uyensh35@gmail.com).
Thông tin đăng ký gồm: tên thánh, họ và tên, năm sinh, số CMND, email và địa chỉ thường trú của bạn.
* Lưu ý:
- Các bạn tham dự cần mang theo áo ấm vì trời thường mưa và hơi lạnh và có mặt trước 4g00 chiều ngày 01/07/2014.
- Không đăng ký sẽ không được nhận trong khoá này.
2. Đà Lạt 2
Trung tâm Mục vụ, 51 Vạn Kiếp, P.8, TP. Đà Lạt
Thời gian: 14-21/07/2014
Khoá này ưu tiên dành cho các bạn sinh viên thuộc Giáo phận Đà Lạt. Nhưng các bạn từ các giáo phận khác vẫn có thể tham dự.
Xin đăng ký với bạn Ngọc Uyên (đt: 01689857860; email: uyensh35@gmail.com). Thông tin đăng ký gồm: tên thánh, họ và tên, năm sinh, số CMND, email và địa chỉ thường trú của bạn.
Các bạn tham dự cần mang theo áo ấm vì trời thường mưa và hơi lạnh và có mặt trước 4g00 chiều ngày 14/07/2014.
3. La Vang
Trung tâm Hành hương, thôn Phú Hưng, xã Phú Hải, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Thời gian: 01-08/07/2014.
Khoá này dành cho các thao viên ở Huế, Đà Nẵng và các tỉnh thành kề cận.
4. Cần Thơ
Đại Chủng viện Thánh Quý, 87/1 Võ Tánh, Cái Răng, TP. Cần Thơ.
Thời gian: 14-21/07/2014.
5. Thanh Hóa
Toà Giám mục Thanh Hoá, 50 Nguyễn Trường Tộ, TP. Thanh Hoá.
Thời gian: 01-07/08/2014.
6. Thái Bình
Chủng viện Thánh Tâm Mỹ Đức, xóm 07, xã Đông Hoà, TP. Thái Bình.
Thời gian: 14-21/07/2014.
7. Hưng Hoá
Trung tâm Mục vụ Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ.
Thời gian: 31/07-06/08/2014.
8. Vũng Tàu 1
Dòng XitôNam ,
140/10 Trần Phú, P.5, Bãi Dâu, TP. Vũng Tàu.
Thời gian: 31/07-06/08/2014.
9. Vũng Tàu 2
Dòng XitôNam ,
140/10 Trần Phú, P.5, Bãi Dâu, TP. Vũng Tàu.
Thời gian: 22-29/08/2014
10. Sài Gòn 1
Linh Thao là tất cả những phương thức luyện tập; trau dồi và bổ dưỡng cho đời sống nội tâm; là tất cả những cách chuẩn bị và chỉnh đốn đời sống nội tâm nhằm loại bỏ những quyến luyến lệch lạc, và sau đó tìm kiếm ý Chúa hầu sắp đặt cuộc đời làm sao để có thể mưu ích cho linh hồn mình. Linh Thao là một phương thức tĩnh tâm rất phổ biến trong Giáo Hội, chào đời đã hơn bốn thế kỷ, từ kinh nghiệm nội tâm của thánh Inhaxio Loyola, đấng sáng lập Dòng Tên.
Hằng năm, Dòng Tên Việt
1. Đà Lạt 1
Trung tâm Mục vụ, 51 Vạn Kiếp, P.8, TP. Đà Lạt
Thời gian: 01-08/07/2014
Khoá này dành cho sinh viên Đà Lạt và nhận thêm khoảng 50 bạn từ nơi khác đến.
Xin các bạn đăng ký với bạn Huy (đt: 0166 612 4152; email: ngochuy241093@gmail.com) hoặc với bạn Ngọc Uyên (đt: 0168 985 7860; email uyensh35@gmail.com).
Thông tin đăng ký gồm: tên thánh, họ và tên, năm sinh, số CMND, email và địa chỉ thường trú của bạn.
* Lưu ý:
- Các bạn tham dự cần mang theo áo ấm vì trời thường mưa và hơi lạnh và có mặt trước 4g00 chiều ngày 01/07/2014.
- Không đăng ký sẽ không được nhận trong khoá này.
2. Đà Lạt 2
Trung tâm Mục vụ, 51 Vạn Kiếp, P.8, TP. Đà Lạt
Thời gian: 14-21/07/2014
Khoá này ưu tiên dành cho các bạn sinh viên thuộc Giáo phận Đà Lạt. Nhưng các bạn từ các giáo phận khác vẫn có thể tham dự.
Xin đăng ký với bạn Ngọc Uyên (đt: 01689857860; email: uyensh35@gmail.com). Thông tin đăng ký gồm: tên thánh, họ và tên, năm sinh, số CMND, email và địa chỉ thường trú của bạn.
Các bạn tham dự cần mang theo áo ấm vì trời thường mưa và hơi lạnh và có mặt trước 4g00 chiều ngày 14/07/2014.
3. La Vang
Trung tâm Hành hương, thôn Phú Hưng, xã Phú Hải, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Thời gian: 01-08/07/2014.
Khoá này dành cho các thao viên ở Huế, Đà Nẵng và các tỉnh thành kề cận.
4. Cần Thơ
Đại Chủng viện Thánh Quý, 87/1 Võ Tánh, Cái Răng, TP. Cần Thơ.
Thời gian: 14-21/07/2014.
5. Thanh Hóa
Toà Giám mục Thanh Hoá, 50 Nguyễn Trường Tộ, TP. Thanh Hoá.
Thời gian: 01-07/08/2014.
6. Thái Bình
Chủng viện Thánh Tâm Mỹ Đức, xóm 07, xã Đông Hoà, TP. Thái Bình.
Thời gian: 14-21/07/2014.
7. Hưng Hoá
Trung tâm Mục vụ Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ.
Thời gian: 31/07-06/08/2014.
8. Vũng Tàu 1
Dòng Xitô
Thời gian: 31/07-06/08/2014.
9. Vũng Tàu 2
Dòng Xitô
Thời gian: 22-29/08/2014
10. Sài Gòn 1
Dòng Biển Đức
Thời gian: 20-26/08/2014.
11. Sài Gòn 2
Dòng Phanxicô, 42 Đình Phong Phú, KP. 2, P. Tăng Phú, Nhơn, Q.9.
Thời gian: 13-19/08/2014.
***
ĐÔI ĐIỀU CẦN LƯU Ý
Xin các bạn tham dự Linh Thao sinh viên 2014 đọc kỹ những lưu ý sau:
1. Các Khoá Linh Thao sinh viên chỉ dành cho các bạn sinh viên Công giáo. Không nhận sinh viên từ các tôn giáo khác.
2. Cần đem theo thẻ sinh viên và Chứng Minh Nhân Dân (CMND) khi đi linh thao. Không có thẻ sinh viên và CMND sẽ không được nhận.
3. Không sử dụng điện thoại trong suốt 5 ngày linh thao. Không nên đem nhiều tiền. Tốt nhất trước khi vào linh thao, các bạn gởi điện thoại, tiền và giấy tờ cá nhân nơi các soeur, các thầy và các cha để khỏi bị chia trí.
4. Mang theo: Kinh Thánh (ít là Tân Ước); bút tập ghi chép, quần áo, kem đánh răng, xà bông gội đầu,…
5. Về chi phí: Các bạn tự túc tiền xe đến địa điểm linh thao. Nhà dòng sẽ cố gắng giúp các bạn từ 40% đến 50% tiền ăn. Tiền ăn mỗi ngày giao động từ 60.000 đến 80.000, tuỳ giá cả mỗi nơi. Chúng ta ăn bữa tối ngày tập trung, 5 ngày linh thao, 1 ngày picnic và bữa ăn sáng ngày ra về. Tổng cộng gần 7 ngày. Vậy, các bạn chuẩn bị khoảng 300.000 đến 350.000 tiền ăn cho toàn khoá linh thao. Bạn nào khó khăn, nhà dòng cố gắng giúp. Bạn nào có khả năng, đóng thêm cũng không sao.
6. Các bạn có mặt tại địa điểm linh thao lúc 16h để ghi danh, đóng tiền. Ví dụ, khóa Đà Lạt từ ngày 01.07 đến ngày 08.07, thì chiều ngày 01.07 các bạn phải có mặt lúc 4g00. Sáng ngày 08.07, sau khi ăn sáng, chúng ta ra về.
7. Khóa đà lạt 01 cần đăng ký trước, vì khoá này thường đông, nhưng chỗ ở thì có giới hạn. Các khoá khác, các bạn không cần đăng ký trước.
8. Cuối cùng, trong suốt 5 ngày này, các bạn được hướng dẫn cầu nguyện và tâm sự với Chúa trong thinh lặng tuyệt đối. Vì vậy, không ai được phép nói chuyện với nhau trong 5 ngày này. Linh thao không phải là đi hội thao, chơi các môn thể thao như một số bạn đã từng hiểu trước đây. Để biết thêm linh thao, mời bạn đọc thêm trên trang web về Linh Thao của Dòng: http://linhthao.net
Chúc các bạn chuẩn bị tốt cho đợt linh thao bạn sẽ chọn cho mình. Ước mong mỗi người chúng ta gặp được Chúa và can đảm làm chứng cho Chúa nơi môi trường mình sống và làm việc.
Nếu các bạn có thắc mắc muốn hỏi riêng, xin vui lòng liên hệ thầy Phaolô Nguyễn Thái Sơn, S.J., qua địa chỉ email: banhdabalang01@gmail.com
------------------------------------------------
Bắt đầu tiến
trình xin phong chân phước cho Cha Matteo Ricci
Hơn 400 năm
sau cái chết của Cha Matteo Ricci, một linh mục Dòng Tên người Ý nổi tiếng vì
những nỗ lực loan báo Tin Mừng tại Trung Hoa trong suốt thế kỷ 16, Vatican đã
nhận được thỉnh nguyện chính thức xin phong chân phước cho ngài.
Cha Matteo Ricci và quan
Phaolô Từ Quang Khải
“Những
tài liệu liên quan đến tiến trình phong chân phước cho Cha Matteo Ricci đã được
Bộ Phong thánh tiếp nhận”, Đức cha Claudio Giuliodori, Giám mục Giáo phận
Macerata, phía Nam nước Ý, nơi Cha Ricci chào đời năm 1552, cho biết.
Cha Ricci qua đời tại Bắc Kinh năm 1610. Ngài là một trong những tu sĩ Dòng Tên đầu tiên sống tại Trung Hoa. Ngài đã giới thiệu một lối tiếp cận mới để loan báo đức tin Công giáo tại đất nước này bằng việc thích nghi với văn hoá địa phương. Ngài đã học ngôn ngữ và có tiếng là một học giả uyên thâm. Thậm chí, ngài đã được mời đến làm việc trong triều của Hoàng đế Vạn Lịch.
Bất chấp những thành công bước đầu của Cha Ricci trong việc loan báo Tin Mừng tại Trung Hoa, Vatican lúc đó vẫn còn có cái nhìn e ngại về phương pháp hoà nhập đạo Công giáo với văn hoá Trung Hoa. Đặc biệt là vấn đề Cha Ricci đã chấp nhận việc thờ cúng tổ tiên và xem đó là việc tưởng niệm không mang tính thần học mà những người tân tòng có thể thực hiện. Sau bao thập kỷ tranh cãi,
Hiện nay quan hệ giữa Toà Thánh và Trung Hoa rất mong manh. Chế độ cộng sản ở Trung Hoa đã cắt đứt liên hệ với Vatican năm 1951 và 6 năm sau đã thành lập Hội Công giáo Yêu nước vốn là tổ chức không được Đức Giáo hoàng công nhận.
Đức cha Giuliodori nói rằng việc đề nghị phong chân phước cho Cha Ricci được xem như là nỗ lực để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn với Trung Hoa. “Tôi hy vọng rằng nhờ sự ủng hộ của Đức Giáo hoàng Phanxicô, việc loan báo Tin Mừng và đối thoại với Trung Hoa sẽ có nhiều tiến bộ”, Đức cha Giuliodori nói. Đức Giáo hoàng Phanxicô rất ngưỡng mộ Cha Ricci và đã từng ao ước trở thành một nhà truyền giáo tại Nhật Bản khi ngài còn là một linh mục trẻ Dòng Tên.
Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng đã ca ngợi Cha Ricci như là một mẫu gương truyền giáo. “Chúng ta phải xin lỗi và xấu hổ nhìn những thất bại trong việc tông đồ do việc thiếu lòng can đảm. Tôi đang nghĩ đến trực giác tiên phong của Cha Matteo Ricci, vào thời điểm đó, đã bị khước từ”, Đức Giáo hoàng phát biểu hôm tháng 11 năm 2013.
Nguồn: Chỉnh
Trần, S.J., - dongtenvn
Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới
(Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)
Giêrusalem, Mùa Chay 2014
Linh
Mục Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J. (Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh
Gierusalem)
Bài Thương Khó
theo thánh Matthêu
1. Nhận
xét mở đầu.
1/
Trong Phụng Vụ Tuần Thánh hiện nay, ngày chúa nhật Lễ Lá, chúng ta đọc Bài
Thương Khó theo Thánh Matthêu (năm A); thánh Mac-cô (năm B); thánh Luca (năm
C). Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh thì năm nào cũng đọc Bài Thương Khó theo Thánh
Gioan.
Cũng
là một phần trong các sách Tin Mừng, nhưng người đọc không công bố theo công
thức hàng ngày: “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô...”, cũng không chào chúc : “Chúa ở
cùng anh chị em”, mà xướng : “Cuộc Thương Khó Đức Giêsu Kitô theo thánh…” Công
thức phụng vụ này nhiều khi làm chúng ta quên rằng Cuộc Thương Khó cũng là Tin
Mừng, và cùng với Tin Mừng Chúa Phục sinh làm thành cốt lõi của Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô.
2/
Lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ là công bố mầu nhiệm Chúa Giêsu chết và
phục sinh. Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu loan báo cái chết và sự phục
sinh của Chúa như hai thì của một biến cố duy nhất mà chúng ta gọi là “mầu
nhiệm Vượt Qua”, Chúa Giêsu vượt qua cái chết để vào cõi sống và dắt chúng ta
theo. Thời Trung Cổ, người ta thường vẽ Chúa Giêsu Phục Sinh bước ra khỏi mồ,
một tay dắt ông Adong, một tay dắt bà Evà; hoặc một tay cầm thánh giá, một tay
dắt ông Adong.
3/
Điều này giúp hiểu tại sao các sách Tin Mừng kể về cái chết của Chúa Giêsu với
nhiều chi tiết diễn tả những đau đớn, nhục nhã nhưng không cay đắng, giận dữ,
oán hận, trái lại rất điềm tĩnh, tế nhị và tinh vi nêu lên những nét mà những
người xét xử, hành hạ, sỉ nhục Chúa Giêsu tưởng mình thắng thế, nhưng lại vô
tình làm theo những gì đã được báo trước trong Kinh Thánh. Chính yếu tố “hợp
như lời Thánh Kinh” này giúp ta nhìn ra ý nghĩa thật của cái chết và
sự phục sinh của Chúa Giêsu.
4/
Trong các sách Tin Mừng, trình thuật Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa
Giêsu nằm ở cuối sách, nhưng trong quá trình loan báo Tin Mừng thì đây là điểm
khởi đầu. Những người nghe lời công bố Tin Mừng và tin nhận Đức Giêsu Nadarét
là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa thì thống hối và chịu phép Rửa. Họ họp với các
môn đệ thành cộng đoàn tín hữu đầu tiên “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng
dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh,
và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Ở giai đoạn “giảng dạy” này các
Tông Đồ mới đưa người tín hữu ngược dòng, tìm hiểu những lời giáo huấn và những
việc Chúa Giêsu đã làm trước đó, dưới ánh sáng của biến cố chết và Phục sinh là
biến cố làm cho người ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là
Đấng Cứu Độ trần gian. Sách Tin Mừng thu tập các yếu tố đã khai triển trong quá
trình giảng dạy này và trình bày “mạch lạc” (x. Lc 1,1-4), nghĩa là giúp
cho người đọc thấy được cuộc sống, hành động và lời rao giảng của Chúa và cuộc
Thương Khó cùng sự phục sinh của Chúa ăn khớp với nhau như thế nào.
5/ Vì
thế trình thuật Cuộc Thương Khó và Phục sinh trong mỗi sách Tin Mừng cũng có
những tính cách riêng và phải đọc trong mạch văn của mỗi sách Tin Mừng mới hiểu
được; lý do là mỗi sách Tin Mừng có môt cách nhìn riêng về Chúa Giêsu, cách
nhìn này chi phối sự lựa chọn tư liệu, thứ tự và cách thức trình bày, ăn khớp
với nhau từ đầu đến cuối. Điều rất quan trọng là đừng “xào chung” bốn bài
Thương Khó với nhau hay bài Thương Khó trong sách Tin Mừng này với các yếu tố
trong toàn bộ sách Tin Mừng khác, vì sẽ tự gây những thắc mắc khó khăn. Xin
minh họa bằng một thí dụ : trong sách Tin Mừng Mt 5,39 và Lc 6,29,
Chúa Giêsu bảo: “Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa!”,
nhưng trong sách Tin Mừng Gioan 18,22-23, khi tên thuộc hạ của
Thượng Tế vả vào mặt Chúa để trấn áp thì Chúa không đưa má bên kia mà lại
hỏi anh ta: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi
nói phải, sao anh lại đánh tôi”. Nếu xào chung thì hóa ra Chúa không thực
hành lời Chúa dạy môn đệ à? Trong Mt vàLc, Chúa dạy về
thái độ không trả thù và hóa giải bạo lực: suốt cuộc Thương Khó Chúa im lặng
chấp nhận mọi sự hành hạ sỉ nhục, “để lại tấm gương cho chúng ta” như
thánh Phêrô nói (x. I Pr 3,21-23); còn trong TM Gioan, Chúa
Giêsu phải “làm chứng cho sự thật” nên Chúa không cho phép
ai dùng bạo lực trấn áp sự thật.
2. Những
yếu tố giúp hiểu bài Thương Khó theo thánh Matthêu.
1/ “Ông
phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi
của họ”
2/ “Em-ma-nu-en, Chúa ở cùng chúng ta”
3/ “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh
lấy các bệnh hoạn của ta” (8,17).
4/ “Người đưa công lý đến toàn thắng và muôn dân đặt
niềm hy vọng nơi danh Người” (12,17-21).
5/ “Khi Đức Giêsu giảng dạy tất cả những điều ấy xong…”
6/ “Đây là máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra cho muôn
người được tha tội”
7/ Ba lần Chúa Giêsu báo trước.
Như đã nói ở trên, quá trình khai triển sự hiểu biết về
mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô đi từ mầu nhiệm Khổ Nạn - Phục sinh ngược lên, nhưng
khi viết sách Phúc Âm thì lại đi xuôi từ đầu cuộc sống của Chúa Giêsu.
1-2/ Giêsu – Em-ma-nu-en: Truyền thống rao
giảng Tin Mừng trong đó sách Tin Mừng Matthêu được viết ra, đã ngược lên tới
thời thơ ấu của Chúa Giêsu, cho thấy Tin Mừng ơn cứu độ không chỉ bắt đầu từ
lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (x. Cv 1,21-22), nhưng ngay từ khi
thành thai trong lòng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria (Tin Mừng thời thơ ấu), Người đã
là Đấng Kitô, “Đấng Cứu dân mình khỏi tội lỗi của họ”. Tin Mừng thời thơ
ấu theo thánh Matthêu cho thấy toàn thể mầu nhiệm Chúa Giêsu
là sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Ap-ra-ham và Đavit. Chúa Giêsu
vừa là điểm tới của lời hứa ban dòng dõi theo huyết nhục, vừa là khởi đầu mới
để lời hứa được thực hiện qua một dòng dõi mới, không phải do huyết nhục nhưng
do Thánh Thần. Khi sinh làm người, Chúa Giêsu đã là “Thiên Chúa ở cùng chúng
ta” để thiết lập Giao Ước Mới, nhưng khi đã chết và phục sinh để nhận mọi
quyền trên trời dưới đất, thì Chúa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho
đến tận thế” và muôn dân được vào trong Giao Ước bằng Máu của Chúa, nhờ
chịu phép rửa và tuân giữ mọi điều Chúa truyền dạy.
3/ Người tôi tớ đau khổ: Chết và phục sinh là
cách Chúa cứu dân mình khỏi tội lỗi của họ. Tại sao lại như vậy? Sách Tin
Mừng Mt dẫn chúng ta vào mầu nhiệm này bằng cách vạch cho thấy
đó là kế hoạch của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo. Ngay sau bài giảng
trên núi (công bố Luật của Giao Ước Mới, chúng ta sẽ trở lại điểm này), Chúa
Giêsu bắt đầu chữa lành bệnh tật, vốn được coi là hậu quả của tội lỗi, Mt lý
giải bằng cách cho thấy đó là ứng nghiệm lời loan báo về người tôi tớ đau khổ
trong sách Isaia 53,4: “Người đã mang lấy các bệnh hoạn tật
nguyền của ta”.
Bài ca “người tôi tớ đau khổ” (Is 52,13 -
53,12) được cả bốn sách tin Mừng vận dụng để giải nghĩa cái chết và
sự phục sinh của Chúa, mỗi sách vận dụng một cách khác nhau; Mt trích
dẫn rõ ràng ở đây để cho thấy rằng khi chữa lành bệnh tật thì không phải Chúa
xua trừ nó, nhưng là mang lấy vào thân mình. Mc theo phong
cách khác trong nghệ thuật kể chuyện, không trích dẫn, nhưng kể rằng sau khi
đưa tay chạm vào người phong cùi để cho người ấy được lành thì Chúa Giêsu không
thể công khai vào thành nào được mà ở lại nơi hoang vắng (thế chỗ người phong
cùi!) (Mc 1,45 và Is 53,3). Bài ca này còn chứa nhiều yếu tố
khác sẽ được ứng nghiệm trong mầu nhiệm Chúa Giêsu chết và Phục Sinh. Lc dùng
như một sơ đồ để viết trình thuật cuộc Thương Khó.
4/ Người tôi tớ hiền lành: Sau bài giảng về
cung cách và số phận của ngươi được sai đi loan báo Tin Mừng (Mt 10),
trong đó Chúa Giêsu đã nói đến sự bách hại và điều kiện để làm môn đệ, Mt tiếp
tục kể việc Chúa Giêsu đi rao giảng, chữa lành và khi bị chống đối thì Chúa
lánh đi và cấm người ta không được tiết lộ Người là ai. Để lý giải thái độ này
của Chúa, Mt 12,16-21 trưng dẫn bài ca thứ nhất về người tôi
tớ của Thiên Chúa trong Is 42,1-7. Hiền lành, khiêm nhượng,
thinh lặng là cung cách của người tôi tớ “không yếu hèn, không chịu phục cho
đến khi thiết lập công lý trên địa cầu”. Chúa Giêsu mời gọi “Hãy mang
lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, gánh tôi nhẹ
nhàng” (Mt 11,29-30). Cung cách hiền lành, khiêm nhường và thinh lặng
sẽ thể hiện tuyệt vời trong cuộc Thương Khó, qua đó Chúa Giêsu sẽ thực hiện sứ
mạng Thiên Chúa trao như được diễn tả trong bài ca: “Ta đã gọi ngươi vì muốn
làm sáng tỏ Đức Công Chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, giữ gìn ngươi và đặt
làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai
mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi
trong chốn tối tăm” (Is 42,6-7). Mt sẽ cho thấy khi
chết là lúc Chúa Giêsu đi vào phá ngục tù của cõi chết mà đưa những người bị
giam giữ trong đó ra khỏi tù.
5-6/ Tin Mừng thời thơ ấu của Mt đã có
nhiều ám chỉ, so sánh với chuyện Môsê và dân It-ra-en trong sách Xuất
Hành. Cấu trúc phần thân của sách Mt gom lời giảng
dạy của Chúa Giêsu thành 5 bài giảng, khiến chúng ta không thể không nghĩ tới
Ngũ Thư (5 cuốn sách đầu của Cựu Ước) được coi là Luật Giao Ước do Môsê ghi
chép. Bài giảng đầu tiên là bài giảng trên núi, trong đó Mt trình
bày Chúa Giêsu như là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để mở miệng dạy dỗ chúng ta:
“Thấy đám đông dân chúng, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ
đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng…” (bản dịch CGKPV
1999 - đáng tiếc là lần tái bản năm 2008, nhóm “CGKPV” đã bỏ cách dịch này vốn
theo sát bản Hy Lạp, làm mất đi một khía cạnh quan trọng của sự tương phản với
cảnh trên núi Xinai như thấy sau đây).
Quang cảnh và cách Thiên Chúa nói trong sách Xuất
Hành 19-20 thật là khác:
“Ông Môsê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên
Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong
đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… Ông
Môsê nói và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm” (Xh 19,17-18).
Kết quả là: “Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi
thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với
ông Môsê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin
Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20,18-19).
Lời truyền dạy của Chúa Giêsu là Luật của Giáo Ước Mới.
Trong bài giảng này Chúa Giêsu không bãi bỏ luật Môsê nhưng làm cho nó nên trọn
vẹn. Luật Giao Ước Mới được ghi trong lòng, trong tim nên phải tuân giữ
tận đáy lòng, phải thực hành với cả tấm lòng chứ không phải chỉ bề ngoài
(x. Gr 31,33-34 và Ed 36,25-27).
Mỗi bài giảng đều kết thúc với một câu chuyển tiếp giống
nhau:
“khi Đức Giêsu giảng dạy
những điều ấy xong, đám đông dân chúng
sửng sốt” (7,26);
“khi Đức Giêsu ra chỉ
thị cho mười hai môn đệ xong, Người rời
chỗ đó” (11,1);
“khi Đức Giêsu kể các
dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó” (13,53);
“khi Đức Giêsu giảng
dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền
Galilê” (19,1);
“khi Đức Giêsu giảng
dạy TẤT CẢ những điều ấy xong, Người bảo
các môn đệ của Người rằng: “Anh em biết còn hai ngày nữa là
đến lễ Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá”
(26,1).
Sau bài giảng trên núi, câu chuyển tiếp nêu phản ứng của
dân chúng, cấu trúc tương tự trong sách Xuất Hành, nhưng nội dung khác
hẳn: “Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc
khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông Môsê: “Xin chính
ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói
với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20,18-19).Còn khi nghe Đức Giêsu
thì “đám đông dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng
dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt
7,28-29). Dân ở núi Xinai nghe sấm sét thì sợ, xin Môsê nói, đừng để
Thiên Chúa nói. Kinh sư giảng dạy Luật Môsê, chỉ lặp lại những gì đã nghe chứ
không dám nói điều gì mới. Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền, hơn
cả Môsê, vì Người là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để “ngồi trên núi và mở
miệng” rao truyền Luật Giao Ước Mới.
Sau bài giảng 2, 3, 4 câu chuyển tiếp nêu sự di chuyển
trong không gian: rời chỗ đó, đi khỏi nơi đó, rời khỏi miền
Galilê (bản dịch ở đây sát với bản Hy Lạp).
Sau bài giảng thứ năm, câu chuyển tiếp có thêm một yếu
tố: TẤT CẢ, và không nêu di chuyển trong không gian, nhưng loan báo
biến cố sắp xảy ra: “hai ngày nữa là lễ Vượt Qua và Con Người sắp bị nộp để
chịu đóng đinh vào thập giá.” Điều Chúa đã báo trước 3 lần, bây giờ sắp xảy
ra: hai ngày nữa.
Câu chuyển tiếp này gợi lại lời ở cuối sách Đệ Nhị Luật:
“khi ông Môsê đã nói xong tất cả những lời ấy với toàn thể It-ra-en, thì ông
bảo họ…” (32,45).
Nhưng lời Chúa Giêsu bảo môn đệ “hai ngày nữa là lễ
Vượt Qua và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá” lại
gợi nhớ việc lập Giao Ước trong Xh 24,1-8:
“Thiên Chúa phán với ông Môsê: “Hãy lên với Đức Chúa…
Ông Môse xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và
mọi điều luật…
Ông Môsê chép lại mọi lời Đức Chúa…
Sáng hôm sau ông Môsê dạy sớm…Ông Môsê sai các thanh niên
trong dân It-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức
Chúa. Ông Môsê lấy một nửa phần máu đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy
lên bàn thờ.
Ông lấy cuốn sách Giao Ước đọc cho dân nghe. Họ thưa:
“Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” Bấy
giờ, ông Môsê lấy máu rẩy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập
với anh em, dựa trên những lời này”.
Trình tự diễn biến sau đó đối chiếu sát đoạn sách Xuất
Hành:
“Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, các môn đệ
đến thưa với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”
“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn
đệ… Rồi Người cầm lấy chén rượu… “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn
người được tha tội…”
Trong sách Xuất Hành, theo lời Thiên Chúa truyền, ông
Môsê lên với Đức Chúa trên núi và “xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức
Chúa”.
Trong Tin Mừng Mt 24,1-26,1 chúng
ta gặp lại Chúa Giêsu trên núi, lần này thì núi có tên:
“Chúa Giêsu ngồi trên núi Ôliu, các môn đệ tới gặp
riêng Người và thưa: “Xin Thầy nói cho chúng con biết…”
Kết thúc: “khi Đức Giêsu giảng
dạy TẤT CẢ những điều ấy xong, Người bảo
các môn đệ của Người rằng: “Anh em biết còn hai ngày nữa là đến lễ
Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá”
Khi Chúa Giêsu đổ máu mình ra và chết trên thánh giá,
chính là lúc Chúa lập Giao ước bằng Máu của Chúa. Mặc dù trong bản văn Mt Chúa
Giêsu chỉ nói Giao Ước, không có chữ “Mới” như trong bản vănLc, nhưng
đây là Giao Ước bằng Máu của Chúa chứ không phải bằng máu các con vật như
ở núi Xinai, và máu này lại đem ơn tha tội nữa, nên đương nhiên là Giao Ước
Mới.
7/ Đến đây còn phải chú ý tới một điều trong thân sách
Tin Mừng Mt, đó là ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương Khó và Phục Sinh.
Mặc dù trong bài giảng về thân phận người được sai đi loan báo Tin Mừng Chúa
Giêsu đã nói đến điều kiện để theo Chúa, trong đó có sự bách hại và sự từ bỏ
gia đình, Chúa vẫn chưa nói đến thập giá. Chỉ sau khi thánh Phêrô tuyên xưng “Thầy
là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa mới bắt đầu nói đến viêc Chúa
phải lên Giêrusalem và bị giết chết và ngày thứ ba sống lại. Sau đó Chúa nói
đến điều kiện để theo Chúa là “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Như vậy cuộc Thương Khó là con đường Chúa phải đi qua mới nhận được quyền năng
của Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Sau khi Phục Sinh Chúa mới tuyên bố “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất… Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến
tận thế” (28,20).
Chết và phục sinh là cuộc tấn phong của Đức Kitô, là sự
hiển linh trọn vẹn của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
3. Chúa
Giêsu tự ý đón nhận cuộc Thương Khó.
Cuộc thương khó không phải là một bất ngờ với Chúa Giêsu,
vì Chúa đã báo trước ba lần, và khi kết thúc hoạt động rao giảng, Chúa
báo rõ: “Còn hai ngày nữa…” (26,1).
Phe lãnh đạo họp nhau âm mưu thủ tiêu Chúa Giêsu cho gọn
lẹ, không để dân chúng can thiệp. Trong khi ấy Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà một
người từng bị phong cùi và đón nhận chai dầu thơm quí giá do một người phụ nữ
trút lên đầu Chúa, coi như chuẩn bị mai táng Chúa.
Đavit được Sa-mu-en đổ nguyên một sừng dầu lên đầu để xức
dầu cho ông làm vua (I Sm 16,1-13). Chúa Giêsu cũng sắp nhận mọi quyền trên
trời dưới đất qua cái chết và phục sinh, nên Chúa chấp nhận được xức dầu.
Người ta nhân danh người nghèo để coi đó là phí phạm, thì
Chúa nhận mình là một người nghèo đặc biệt “không có mãi đâu”. Nghĩa
tử là nghĩa tận, chỉ có thể mai táng Chúa một lần thôi. Người nghèo thì người
ta luôn có bên cạnh. Cử chỉ của người phu nữ này đuợc gằn liền với Tin Mừng về
cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa: “Tin Mừng này được loan báo ở đâu trong
thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô”. Trước
khi Chúa lập bí tích Thánh Thể để chúng ta làm mà nhớ tới Chúa thì Chúa đã bảo
“kể lại việc này mà nhớ tới cô”. Mt không cho chúng ta
biết tên người phụ nữ này, chúng ta chỉ nhớ đến “người phụ nữ đã đổ dầu thơm
lên đầu Chúa Giêsu để chuẩn bị mai táng”. Đứng trước cái chết của Chúa thì
người ta chỉ có thể làm một điều: yêu mến và biết ơn. Người phụ nữ không tên
này là khung hình để trống cho mỗi người ghép hình của mình vô.
Đối ngược với hình ảnh người phụ nữ yêu mến
và quảng đại, Mt tả Giuđa, một người trong nhóm Mười Hai là
những người thân tín nhất của Chúa, như một kẻ tham tiền đi bán Thầy.
Trong khi người ta âm mưu giết Chúa và một người trong
nhóm 12 tiếp tay cho họ, thì Chúa Giêsu sai môn đệ đi dọn ăn lễ Vượt Qua. Trong
bữa ăn này Chúa cho nhóm 12 biết là một người trong các ông sẽ nộp Chúa, rồi
Chúa lập bí tích Thánh Thể như bí tích của Giao Ước Mới. Người ta mưu giết Chúa
nhưng Chúa dùng bàn tay sát nhân của họ để hoàn thành sứ mạng của Chúa.
Chúa lại ra núi Ô-liu để chính thức đi vào cuộc khổ nạn
từ chính nơi Chúa đã báo: hai ngày nữa! Chúa cũng chấp nhận cả sự phũ phàng là
đêm nay đàn chiên của Chúa sẽ tan tác: nhóm 12 sẽ bỏ Chúa và Phêrô, người đã
tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” sẽ chối Chúa nhanh hơn
gà gáy. Chúa chấp nhận tất cả và Chúa báo cho họ biết là Chúa sẽ trỗi dậy và về
Galilê trước họ. Hẹn gặp lại ở Galilê, nơi Ngài và các môn đệ đã bắt đầu, để
lại bắt đầu.
Chúa đi vào cầu nguyện để thưa “VÂNG” với Chúa Cha. Một
mình đối diện với Chúa Cha thì Chúa Giêsu không dấu nỗi buồn rầu xao xuyến: “Tâm
hồn Thầy buồn đến chết được”. Nhóm 12 đã bỏ Chúa từ lúc này rồi. Ba người
thân tín nhất cũng bỏ Chúa một mình, không thức nổi với Chúa. Ba lần cầu
nguyện, Chúa chỉ làm một việc là nộp mình để thi hành ý muốn của Cha. Chúa đã
chiến thắng nỗi “buồn đến chết được” để ra đón cái chết: “Đứng dậy, ta đi
nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”
Chúa Giêsu đã chiến thắng trong cầu nguyện rồi nên giờ
đây Chúa hoàn toàn làm chủ tình hình: Chúa ra đón kẻ phản nộp và những kẻ đến
bắt Chúa. Chúa vạch cho Giuđa thấy ông ta đang làm gì, Chúa ra lệnh cho môn đệ
không dùng bạo lực, hãy để cho kế hoạch của Thiên Chúa thể hiện.
Chúa vạch trần sự ám muội của những kẻ đến bắt Chúa và
cho thấy mọi toan tình của họ không qua khỏi kế hoạch của Thiên Chúa mà các
ngôn sứ đã loan báo.
4. Phi
pháp.
Luật Rôma cũng như luật Môsê đều không chấp nhận bắt
người ban đêm trừ khi là bắt quả tang trôm cướp. Vì thế Chúa Giêsu bảo bọn thủ
lãnh và sai nha đến bắt Chúa: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem
gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi…” Rồi Chúa cho biết đó là “để ứng nghiệm
lời chép trong sách các ngôn sứ.” Bài ca “người tôi tớ đau khổ” đã
nói “Người bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12).
Không có luật pháp nào cho phép xét xử ban đêm, thế nhưng
kinh sư và kỳ mục đã tụ họp sẵn tại nhà thương tế Cai-pha chờ sai nha giải Chúa
Giêsu tới. Họ họp nhau không phải để xét xử, nhưng là “tìm lời chứng gian
buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình”. Hôm trước họ đã họp nhau “bàn
tính dùng mưu bắt Đức Giêsu” (26,4), bây giờ bắt được rồi thì phải tính
bước tiếp theo: “tìm lời chứng gian”. Họ thất bại thê thảm: “Nhưng
họ không tìm ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian”. Chúa
Giêsu là Đấng Công Chính, trong sáng đến nỗi tìm chứng gian cũng không nổi!
Đến lúc Thượng Tế Cai-pha chứng tỏ bản lãnh của ông: tìm
chứng gian không được thì ông phải dựa vào sự thật để kết án tử hình: “nhân
danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông
có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?” Chúa Giêsu vẫn thinh lặng khi
người ta tìm chứng gian. Bây giờ Thượng Tế đòi biết sự thật nhân danh Thiên
Chúa hằng sống. Sự thật ấy chính ông ta phát biểu, trùng với lời tuyên xưng của
thánh Phêrô lúc ở Galilê. Chúa Giêsu xác nhận lời ông nói và còn giải thích
thêm bằng lời trong sách Da-ni-en 7,13. Thượng Tế hùng hồn
minh họa lời phán xét bằng cử chỉ xé áo: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần
gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng, quý vị nghĩ sao?”
“Họ liền đáp: nó đáng chết!” Thượng tế thành công
một trăm phần trăm! Họ hả hê đắc thắng. Chúa Giêsu tiếp tục im lặng, mặc cho họ
đấm đánh, khạc nhổ vào mặt và chế diễu. Người tôi tớ bị ngược đãi của
bài ca thứ ba Is 50,4-9 đang ở trước mắt chúng ta: “Tôi đã
đưa lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho người ta giật râu. Tôi đã không che
mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”.
5. Phêrô
khóc lóc thảm thiết.
Phêrô đã thề thốt quyết liệt: “Dầu có phải chết với
Thầy, con cũng không chối Thầy. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (26,35).
Nhưng khi Chúa Giêsu đã tự nộp mình thì “bấy giờ tất cả các môn đệ bỏ Người
mà chạy trốn hết” (26,56).
Có một người tỏ ra lì hơn: “Ông Phêrô theo Người xa
xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với đám thuộc hạ, xem kết
cuộc ra sao?”
Kết cuộc là thế này đây: đang khi trong đại sảnh, thượng
tế dùng đến thủ đoạn cuối cùng để yêu cầu Chúa Giêsu xác nhận điều ông Phêrô đã
tuyên xưng khi còn ở Galilê: “Lúc ấy ông Phêrô ngồi ngoài sân. Một người tớ
gái đến bên ông và nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giêsu, người
Galilê!” Ông liền chối trước mặt mọi người: “Tôi không biết cô muốn nói gì!”
Chuyện lặp lại nguyên văn với một người tớ gái khác. Lần
thứ ba thì không phải một tớ gái mà là cả bọn đứng đó nhao nhao lên: “Đúng
là bác cũng thuộc nhóm họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay”.
Bị bắt thóp, hết đường chối, ông Phêrô cũng dùng biện pháp cuối cùng, đối
xứng với thượng tế ở trong kia: “Bấy giờ ông liền thốt lên những lời độc địa
và thề rằng: “Tôi không biết người ấy”.
Nhưng có một lời mạnh hơn lời thề độc địa của ông: “Lúc
đó gà liền gáy. Ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã
chối Thầy đến ba lần”.
Tim ông tan chảy khi nhớ lại lời ấy: “Ông ra ngòai
khóc lóc thảm thiết”.
6. Giuđa
không biết khóc.
Cuộc họp ban đêm kết thúc với lời hô hoán: “Nó đáng
chết!”. Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua
tay tổng trấn Rôma là Philatô. “Trời vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ
mục trong dân bàn kế hại Đức Giêsu để giết được Người. Rồi họ trói Người lại và
điệu đi nộp cho tổng trân Philatô”.
Phêrô theo vào trong sân để xem kết cuộc ra sao. Kết cuộc
là ông chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, rồi nhờ tiếng gà gáy ông nhớ lại lời
Chúa Giêsu và “ra ngoài khóc lóc thảm thiết”.
Mt không cho biết Giuđa ở đâu trong đêm
ấy.
Đến khi “họ trói Chúa Giêsu lại và điệu đi nộp cho cho
tổng trấn Philatô” thì Mt cho chúng ta gặp lại Giuđa:
“Bấy giờ Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận”.
Làm sao bây giờ?
Giuđa không nhớ lại lời nào của Chúa, nhưng nhớ lại lời
những kẻ đã ngả giá với ông và quay lại gặp họ: “Hắn đem ba mươi đồng bạc
trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô
tội”.
Thật phũ phàng. Họ đâu phải là bạn hữu của Giuđa. Tiền
trao cháo múc. Chúa Giêsu đã vào tay họ, tiền đã trao tay Giuđa: “Can gì đến
chúng tôi. Mặc kệ anh.”
Đất sụp dưới chân Giuđa. Không còn ai, không còn gì trên
mặt đất niú ông lại.
Giuđa bỗng thấy mình lơ lửng giữa trời và đất. Ông chọn ở
lại trong tư thế này.
Sợi giây vĩnh viễn không bao giờ cho tiếng khóc bật lên
từ cổ họng ông được nữa.
7. Philatô
và máu người vô tội.
Các tổng trấn Rôma cai trị xứ Giuđa từ khi A-khê-la-ô con
của Hêrôđê Cả bị phát lưu (năm 6 sau CGS), chẳng có vị nào yêu thương cái dân
bị trị này. Họ chỉ đua nhau tàn ác và bóc lột. Philatô sau này cũng sẽ bị phát
lưu vì quá tàn bạo.
Hôm nay lãnh đạo dân Giuđa lại tỏ ra phục quyền, dẫn một
người đến xin ông Philatô xử. Philatô chỉ hỏi Chúa một câu: “Ông có phải là
vua dân Do Thái không?” Chúa cũng chỉ trả lời một lần. Câu trả lời của Chúa
nghe bí ẩn : “Chính ngài nói đó”.
Những kẻ tố cáo thì um sùm. Chúa Giêsu chỉ im lặng. “Tổng
trấn Philatô rất đỗi kinh ngạc”. “Thật vậy, ông thừa biết vì ghen tị mà
họ nộp Người.”
Bà vợ làm cho ông thêm lúng túng với lời nhắn: “Ông
đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy
mình phải khổ nhiều vì ông ấy”.
Philatô phải đối diện với những kẻ đòi giết. Làm sao né
vụ này đây. Philatô đề nghị tráo con bài:
Tráo mạng Giêsu, người vô tội bằng mạng “một người tù
khét tiếng tên là Ba-ra-ba”. Philatô tính sai nước cờ. Ba-ra-ba là người
của họ! Họ xúi dân (đám đông có mặt đó) hô “Ba-ra-ba!”. Philatô ra mặt
bênh người vô tội: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Nhưng họ chỉ
muốn giết, không cần lý do gì cả: “Đóng đinh nó vào thập giá”.
“Ông Philatô thấy đã chẳng đươc ích gì mà còn thêm náo
động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: ”Ta vô can trong vụ đổ
máu người này. Mặc các ngươi liệu lấy”.
Các thượng tế và kinh sư cùng đám đông hùa theo họ hiểu
rất rõ cử chỉ của Philatô, và họ chấp nhận: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng
tôi và con cháu chúng tôi.” Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “Bấy giờ
ông thả Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giêsu thì ông truyền đánh đòn, rồi trao nộp Người
để Người chịu đóng đinh vào thập giá.”
Có những điều nghịch lý cần nghiền
ngẫm ở đây.
Các thượng tế và kinh sư phủi tay với Giuđa: “Can gì
đến chúng tôi. Mặc kệ anh”
Philatô rửa tay trước mặt họ: “Ta vô can trong vụ đổ
máu người này. Mặc các ngươi liệu lấy”
Câu hỏi của ông chứng tỏ ông biết và nhìn nhận Chúa Giêsu
vô tội và đám đông hiểu ông muốn nói gì. Khi định đoạt về số tiền Giuđa quăng
trả lại, các thượng tế và kinh sư biết đó là “giá máu”. Nhưng trong phút quyết
liệt này họ nhận trách nhiệm: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu
chúng tôi”.
Họ không biết là máu Chúa Giêsu là “máu Giao ước đổ ra
cho muôn người được tha tội”.
Cái vô lý là tất cả: Giuđa, Philatô, các thượng tế và
kinh sư, đều nhìn nhận Chúa Giêsu vô tội nhưng vẫn bắt Chúa phải chết.
Giuđa nhìn nhận: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội”
Philatô với “bàn tay sạch” trao Chúa Giêsu để chịu đánh
đòn. [Đánh đòn là để cho mau chết trên thập giá]. “Rồi ông trao nộp Chúa
Giêsu để Người chịu đóng đinh vào thập giá”.
Mt kể vắn tắt như thể lính đánh đòn rồi
điệu đi đóng đinh không qua trước mặt Philatô nữa, nhưng câu tóm tắt vừa nêu
lại cho thấy là hai hồi khác nhau và đều có sự chỉ đạo của Philatô: “Ông
truyền đánh đòn rồi trao nộp để Người chịu đóng đinh vào thập giá.”
Lính của tổng trấn thực hiện việc đổ máu.
Đấng vô tội thì im lặng như con chiên bị đem đi làm thịt,
“Người chẳng hề mở miệng”
Lính đem Chúa Giêsu đi đánh đòn, chế diễu dựa trên câu
hỏi đầu tiên họ đã nghe từ miệng Philatô: “Ông có phải là vua dân Do Thái
không?”
“Chế diễu chán… chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập
giá”.
Thế là Giuđa nộp máu người vô tội, Philatô cũng nộp máu
người vô tội.
Các thượng tế và đám đông hứng máu người vô tội cho mình
và cho con cháu.
Mt 27,25 viết: “toàn dân đáp
lại: Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi”.
Trong lịch sử, người Kitô hữu thường hiểu rằng dân Do Thái bị tan tác vì đã đổ
máu Chúa Giêsu. Nhưng Sách Thánh không cho phép giải thích như vậy, bởi vì Máu
Chúa Giêsu là máu ban ơn tha tội như chính Chúa tuyên bố khi lập bí tích Thánh
Thể. Thư gởi tín hữu Hip-ri cũng nói: “Anh em đã tới cùng vị trung gian Giao
Ước Mới là Đức Giêsu và được Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu lên còn mạnh
hơn cả máu A-ben” (Hr 12,24). Máu A-ben kêu lên xin Thiên Chúa xét
xử, còn máu Chúa Giêsu “mạnh hơn” vì đem lại ơn tha tội và đưa vào Giao Ước
mới.
“Ông Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo
động” (27,25)
Cái “ích” mà Philatô tìm là cái gì? Ông muốn tha
Chúa Giêsu hay muốn dân để cho ông yên? Nếu ông muốn tha “người công chính” vì
“ông thừa biết vì ghen tị mà họ nộp Người” thì đề nghị của ông là sai
lầm lớn. Nếu ông muốn bênh vực công lý thì ông chỉ có một đường là thi hành
trách nhiệm và chấp nhận hậu quả. Ông cứ việc tuyên bố tha Chúa Giêsu vì không
có lý do gì để buộc tội. Nhưng cái “ích” mà ông tìm là được yên thân!
Khi quyết định “trao nộp Người để chịu đóng đinh vào thập giá” thì ông
cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ: “vì ghen tị mà họ nộp Người” cho
ông và gào xin “đóng đinh nó vào thập giá”, đến lượt ông thì vì
muốn yên thân “ông trao nộp Người để chịu đóng đinh vào thập giá” như họ
xin.
Tất cả những điều nghịch lý, những cái biết và không
biết Mt gợi cho người đọc trình thuật cuộc Thương
Khó này tới đây đã cho thấy là những gì ngôn sứ Isaia mô tả
trong bài ca “người tôi tớ đau khổ” (52,13 – 53,12) được thực
hiện rất sát. Bài ca này làm rõ nghĩa cái chết có vẻ vô nghĩa của Chúa Giêsu.
Đến đây có thể tạm ngừng để nghiền ngẫm bài ca của Isaia một
lần trước khi đọc tiếp bài Thương Khó.
8. Chúa
Giêsu trên thập giá.
“Lính điệu Chúa Giêsu đi đóng đinh vào thập giá. Đang
đi ra, chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn, chúng bắt ông vác thập giá
của Người”.
Mt không nói tại sao lại như vậy và chúng ta
cũng đừng “chia trí” đi hỏi tại sao. Hãy nhìn hình ảnh Si-môn vác thập giá và
để cho những lời khác trong sách Tin Mừng vang vọng trong tâm trí để hiểu Mt muốn
truyền đạt điều gì.
Chúa Giêsu đã tuyên bố điều kiện để theo Chúa là vác thập
giá. Những người đã theo Chúa bấy lâu nay đều đã bỏ chạy. Si-môn Phêrô, người
thề thốt hùng hồn quyết liệt nhất thì đã chối Chúa nhanh hơn gà gáy và bây giờ
đang ngồi đâu đó khóc lóc thảm thiết. Lính gặp một người trùng tên Simôn, chỉ
có điều ông là người Kyrênê, bên kia Địa Trung Hải… tình cờ đi ngang bị lính
gặp và bắt vác thập giá của Chúa.
Thập giá của Chúa?! Thật ra thì cả trình thuật đã cho
thấy rõ là Chúa vô tội, mọi người trong cuộc đều nhận ra là Chúa vô tội. Vậy
thì thập giá này là của ai? Của mỗi người chúng ta là kẻ có tội đấy. Chúa vác
là để cho chúng ta có thể vác mà đi đàng sau Chúa. Vác thập giá một mình và đi
một mình thì chẳng có nghĩa gì cả. Simôn vác thập giá là hình tượng người môn
đệ đúng nghĩa Mt khắc họa cho chúng ta đấy.
Chúng cho Người uống rượu pha mật đắng (Tv 69,22) đến đây Mt kể
những chi tiết gợi nhớ các thánh vịnh về người công chính bị bách hại: 69; 38;
22 và 18. Các thánh vịnh là lời kinh quen thuộc của các tín hữu, nên chỉ cần
nêu lên những từ ngữ quen thuộc trong đó là người nghe liên kết được liền và
thấy rõ Chúa Giêsu đang chịu số phận của người công chính bị bách hai. Lời sách
Thánh ứng nghiệm đến từng chi tiêt.
Đóng đinh Người vào thập giá xong… Mt
không nói đến hình dạng cây thập giá cũng không nói đến những chi tiết khác,
chúng ta cũng đừng “chia trí”, cư theo sát những gì được kể cho chúng ta. Chúng
đem áo Người ra bắt thăm. Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người” (Tv 22,18-19).
“Người này là Giêsu, vua dân Do Thái”. Đó là bản án
viết treo trên thập giá phía trên đầu Người. Thế là Philatô chiếu tướng ngược!
Philatô đã hỏi Chúa Giêsu “Ông có phải là vua dân Do Thái không”; dĩ
nhiên là ông nghe qua những kẻ nộp Chúa Giêsu cho ông. Phe lãnh đạo và
đám đông nhất định đòi đóng đinh người vô tội, mặc dù Philatô nuốn tha. Bị áp
lực phải đổ máu người vô tội thì Philatô biến thành công trạng của mình, bằng
cách viết bản án như thế. Ông có thể báo cáo thành tích là đã đóng đinh được
vua dân Do Thái, mọi người đều có thể làm chứng cho ông! Chuyện sẽ đến tai
Hoàng đế ở Rôma và Philatô sẽ được ghi công.
Một bất ngờ nữa trước mắt chúng ta: “Cùng bị đóng đinh
với Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, mỗt tên bên trái”. Điều Chúa
Giêsu chất vấn những kẻ đến bắt Chúa thì bây giờ họ trả lời: họ đặt Chúa giữa
hai tên cướp, coi như Chúa là tướng cướp. Hợp như lời Kinh Thánh: “Người bị
liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12).
“Kẻ qua người lại đều nhục mạ người”. Dậu đổ bìm
leo. Những cám dỗ của Xatan trong hoang địa bây giờ trở thành khúc khải hoàn
với một giàn hợp xướng nhiều bè: kẻ qua người lại, thượng tế và kinh sư, hai
tên cùng bị đóng đinh. Điệp khúc là một biến tấu của câu “Nếu hắn là Con
Thiên Chúa”. Nỗi đau xé lồng ngực Chúa Giêsu trên thập giá vì không chỉ
Người, mà chính Chúa Cha bị nhục mạ, thách đố.
“Âu cũng vì Ngài mà con bị người đời thóa mạ, chịu
nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày…
Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời,
Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, luống công chờ không
được một ai,
đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng
thấy đâu”
Thay vì đồ ăn chúng trao mật đắng, con khát nước lại cho
uống giấm chua”
(Tv 69,8.21-22) .
9. Thiên
Chúa trả lời
“Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ
thứ chín”
Lời mô tả này gợi cho chúng ta hình ảnh cuộc hiển linh
của Thiên Chúa để phán xét: “Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa,
và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng” (Amốt 8,9)
và cũng là để cứu độ. Khi đưa dân Chúa ra khỏi Ai Cập, “Chúa giăng mây làm
màn che phủ họ” (Tv 105,39; x.Xh 14,19).
Khi Thiên Chúa xuống trên núi Xinai để ban truyền Luật
Giao Ước thì “Núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tói mây đen mù mịt.
Đức Chúa phán với anh em từ trong đám lửa, anh em nghe thấy tiếng nói nhưng
không thấy hình bóng nào, chỉ có tiếng thôi” (Đnl 4,11-12).
Cả ba khung cảnh này đều có thể giúp chúng ta hiểu về
bóng tối giữa trưa. Thiên Chúa đến phán xét và cứu Con của Người đồng thời xác
lập Giao Uớc bằng Máu của Chúa Giêsu. Thiên Chúa trả lời những kẻ thách đố: “Hắn
cậy vào Thiên Chúa thì bây giờ Thiên Chúa đến cứu hắn đi, nếu quả thật Người
thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là con Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa đã nói
với Chúa Giêsu ở bờ sông Giođan và với các môn đệ ở trên núi. Thiên Chúa
hiển linh, lấy bóng tối che cho Con trong cuộc Vượt Qua này. Thánh vịnh
18 (17) diễn tả cảnh người công chính tin tưởng vào Chúa và kêu cầu khi
“sóng tử thần dồn dập chung quanh…” thì:
“Chúa nghiêng trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù, ngự
trên thần hộ giá, trên cánh gió lượn bay: Chúa dùng bóng tối làm màn
bao phủ, lấy mây đen nghịt làm trướng che thân…”(câu10-12)
Trong quang cảnh hiển linh ấy, Mt cho
chúng ta nghe lời cầu nguyện của Chúa Giêsu qua thánh vịnh 22(21), là
thánh vịnh diễn tả rất sát hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Lời cầu
nguyện cũng bị xuyên tạc để chế diễu. Có kẻ đưa giấm lên cho Chúa uống: ứng
nghiệm thánh vịnh 69,22. Thánh vịnh 18 vừa kể
trên : “Lúc ngặt nghèo tôi kêu cầu Chúa… Từ Thánh Điện Người đã nghe tiếng
tôi cầu cứu” (câu 7).
“Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn rồi trút hơi”
(dịch sát bản Hy Lạp). Tiếng thét này gợi lên tiếng của Thiên Chúa phán xét và
tiếng của Con Thiên Chúa đã nát tan kiệt sức. Cha Con gặp nhau trong một tiếng
thét chung, làm nên nét bi hùng nhất:
Khi Thiên Chúa hiển linh để bênh vực Đấng Ngài đã xức
dầu: “Nổi trận lôi đình Ngài quát nạt”( Tv 2,5); “Chúa nổi sấm vang
trời, Đấng Tối Cao lớn tiếng”( Tv 18,14).
Tv 38,9: “Bị suy nhược, nát tan kiệt sức, Tim thét gào
thì miệng phải rống lên”.
10. Khai mở một kỷ nguyên mới
“Bỗng bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên
xuống dưới.”. Bức màn trướng trong Đền Thờ tức là bức màn
ngăn nơi Cực Thánh, mỗi năm thượng tế qua bức màn này vào phía trong nơi Cực
Thánh một lần ngày lễ xá tội (Xh 26,31-34; 36,35-36 và Levi,16).
Thư Hip-ri, chương 9 diễn tả ý nghĩa của cái chết hiến tế của Chúa Giêsu: Nơi
Cực Thánh trong Đền Thờ chỉ là hình bóng: “Thánh Thần tỏ cho biết là lối vào
thánh điện chưa được mở bao lâu lều thứ nhất vẫn còn đó” (Hr 9,8). “Đức
Kitô đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn… Máu của Đức Kitô còn thanh tẩy
lương tâm chúng ta… để chúng tra phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Đó là máu của
Đấng đã tự hiến tế, làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí hằng hữu
thúc đẩy. Bởi vậy Người là trung gian của một Giao Ước Mới” (Hr 9,11-15).
“Đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị
thánh đã an nghỉ được trỗi dậy”. Khi Thiên Chúa ngự xuống trên núi
Xinai thì “cả núi rung chuyển mạnh” (Xh 19,18). Khi Thiên Chúa
xuất hiện để bênh vực người công chính: “Trái đất bỗng ầm ầm rung chuyển,
chân núi đồi chấn động lung lay và Chúa nổi lôi đình” (Tv 18,8).
Bóng tối và động đất là dấu hiệu hiển linh của Thiên
Chúa. Với cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã hiển linh để khai mở một ỷ
nguyên mới, trong đó Thiên Chúa thật sự “ở với chúng ta”, không còn bức
màn ngăn cách.
Cuộc hiển linh này là cuộc chiến thắng cả trong cõi chết:
Chúa Giêsu đi vào cõi chết, tiêu diệt cả quyền lực của cái chết vốn ngự trị từ
khi tội lỗi vào được thế giới loài người.
Mt sử dụng một ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh rất
hiện đại để gợi cho chúng ta cảnh Chúa Giêsu đi vào cõi chết và chiến thắng.
Chúng ta hãy mường tượng một cuốn phim, trong đó vị anh
hùng phải tiêu diệt cho được một kẻ thù hung dữ vốn ẩn núp rất kỹ. Cuối cùng
trên màn hình chúng ta thấy vị anh hùng một mình một súng thận trọng từng bước
tiến về một ngôi nhà trong rừng sâu mà ta chỉ đoán được vì có một đốm lửa phía
trước… rồi ta bỗng nghe tiếng súng nổ, lửa chớp qua khung cửa sổ vừa bật tung…
rồi im lặng … vị anh hùng với họng súng còn bốc khói đứng giữa mấy cái xác
chết, trong một góc, mấy ngượi bị bắt làm con tin đang ngóc đầu lên, vừa mừng
vừa sợ.
“Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng
và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất sợ hãi và nói: “Quả thật ông
này là Con Thiên Chúa”. Những người ngoại đạo nhận ra ý nghĩa
của các dấu hiệu. Mt 8, 5-13 đã kể chuyện một viên đại đội
trưởng đến xin Chúa chữa một tên đầy tớ của ông và được Chúa khen: “Tôi
không thấy một người nào trong dân It-ra-en có lòng tin như thế” và Chúa
tuyên bố: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng
Ap-ra-ham, I-xa-ac và Gia-cop trong Nước Trời”. Lời ấy đã thành sự thật
ngay lúc này. Họ đã nhận ra sự hiển linh của Thiên Chúa. Họ là những người đầu
tiên nhận ra vị anh hùng đến giải cứu.
“Ở đó, có nhiều phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này
đã đi theo Đức Giêsu từ Galilê để phục vụ Người…” Nhìn hình ảnh
này, chúng ta lại chợt hỏi, các bà đứng đây, tuy đứng nhìn từ đàng xa, còn
những người môn đệ thân tín thì đâu hết rồi! Mt cho chúng ta
thấy nốt quang cảnh người “tội nhân lâm cơn cùng khốn” mô tả trong thánh
vịnh 38,12: “Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột
thịt cũng đứng xa”. Chúa Giêsu vô tội nhưng đã bị liệt vào hàng tội nhân và
chịu tất cả thân phận của một tội nhân, “nhưng thực ra Người đã mang lấy tội
muôn người” (Is 53,12).
“Chiều đến, có một nguời giàu sang đến…”. Mt tiếp
tục gợi cho chúng ta hình ảnh người tôi tớ đau khổ, bị liệt vào
hàng tội nhân, chết giữa các tội nhân nhưng lại có phần mộ với người giàu có (Is
53,9). Ông Giô-xép người Arimathê, là người giàu sang mà cũng là môn đệ Đức
Giêsu, lần đầu tiên xuất hiện trong sách Tin Mừng. Ông xin được xác Đức Giêsu,
“lấy tấm vải gai sạch mà liệm và đặt vào ngôi mộ mới ông đã đục sẵn trong
núi đá, dành cho ông.”
Thế là thập giá của Chúa thì ông Simôn vác nhưng Chúa
chịu đóng đinh trên đó, còn mộ của ông Giô-xép thì chính ông lai đặt xác Chúa
Giêsu vào đó, “lăn tảng đá lấp cửa mộ, rồi ra về. Thế là trọn vẹn:
người đã chết và chịu mai táng vì đã mang lấy tội lỗi của chúng ta.
Một lần nữa Mt kéo chúng ta chú ý tới
hai người phụ nữ cùng mang tên Maria, hai bà ngồi lại đó, quay mặt vào mộ. Hình
ảnh chuyển tiếp sang cảnh tiếp theo.
Ta hãy tạm ghi nhận tên các nhân vật: Giô-xép và Maria.
Mở đầu sách tin Mừng, Mt đã kể trong gia phả: “ông Gia-cóp sinh ông
Giuse, chồng của bà Maria, do bà mà Đức Giêsu sinh ra, gọi là Kitô”. Trong
phần đầu gia phả có tên ông Giacop. Ông Giacop cũng có một người con tên
là Giuse, người đã bị bán sang Ai Cập, nhưng lại cứu được cả gia đình khỏi chết
đói bằng cách đưa cả gia đình sang Ai Cập. Ông Giuse mới cũng có nhiệm vụ cứu “hài
nhi và mẹ người” khỏi tay Herođê bằng cách trốn sang Ai Cập.
Khi Chúa Giêsu chết thì laị có một ông Giuse cứu xác Chúa
khỏi bị quăng vào hố tập thể, mai táng đàng hoàng trong ngôi mộ của ông, có hai
bà cùng tên Maria ngồi quay vào mộ.
Trong truyện Môsê thì Môsê được đặt trong thúng, thả giữa
đám sậy trên sông Nin, có “người chị (tên là
Maria) đứng đàng xa để xem cho biết cái gì sẽ xảy ra...” (Xh
2,1-5).
Cùng với hai bà ta hãy chờ xem cái gì sẽ xảy ra!
11. Chuyện bịp bợm cuối cùng, hồi
một.
Giết được Chúa Giêsu rồi mà phe thượng tế và kinh sư vẫn
chưa chịu ngồi yên. Họ đến xin Philatô cho niêm phong và đặt lính canh mộ. Họ
gọi Chúa Giêsu là “tên bịp bợm” và họ cũng biết lời Chúa báo trước là “sau
ba ngày Ta sẽ trỗi dậy”, họ sợ môn đệ “đến lấy trộm xác rồi phao trong
dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ
còn tệ hại hơn chuyện trước”.
Lối châm biếm của Mt thật là thú vị.
Chúa bị bắt thì môn đệ chạy trốn hết, còn ai mà đến lấy trộm xác! Có một ông
môn đệ “chui” bỗng dưng xuất hiện thì lại để đi xin xác mà chôn. Niêm phong và
đặt lính canh để làm gì? Để làm chứng là Chúa đã sống lại thật à?!
Hãy chờ xem ai là kẻ bịp bợm, đâu là chuyện
bịp bợm truớc và đâu là chuyện bịp bợm cuối cùng?
12. Tin Mừng chiến thắng
“Khi ngày thứ nhât trong tuần sắp bắt đầu”, ta lại
thấy hai bà trùng tên Maria hôm trước ngồi quay vào mộ bây giờ đi ra mộ.
“Bỗng đất rung chuyển dữ dội; thiên sứ của Chúa từ trời
xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo Người như ánh chớp, và y
phục trắng như tuyết”.
Đất lại rung chuyển dữ dội như khi Chúa Giêsu trút hơi.
Lần này thì không thấy đá vỡ, nhưng có sứ thần của Chúa từ trời xuống lăn tảng
đá lấp cửa mồ ra, rồi ngồi lên trên. Mt cho biết ngay nhân vật
này là sứ thần của Chúa từ trời xuống, diện mạo như ánh chớp, áo trắng
như tuyết, so với lúc Chúa Giêsu hiển dung: “dung nhan Người chói lọi
như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” thì thua xa.
Vậy thì đúng là thiên sứ chứ không phải là chính Chúa Giêsu phục sinh. Sau khi
Chúa Giêsu chiến thắng Xa-tan trong hoang địa thì “có các thiên sứ đến hầu
hạ Người”, hôm nay Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, vào trong vinh
quang, thi thiên sứ đến với diện mạo như ánh chớp để long
trọng mở cửa mồ và ngồi lên trên. Hình ảnh rõ ràng diễn tả sự chiến thắng, như
trong đô vật, người chiến thắng ngồi lên trên kẻ thua. Hình ảnh gợi lên thánh
vịnh 110,1: “Bên hữu Cha đây Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha
sẽ đặt làm bệ dưới chân con.”
Tình thế đảo ngược: “Thấy Người, lính canh sợ
hãi run rẩy và ra như chết” (dịch sát).
Còn các bà thì được thiên sứ cho biết là “phe ta” và cho
biết cái gì đã xảy ra trong ngôi mộ mà hôm trước các bà đã ngồi nhìn: “Phần
các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh.
Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ
Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ
cõi chết, và Người đi đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy
Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay. ”
Thế là chuyện mà mấy ông thượng tế và Pharisêu lo sợ thì
đã xảy ra, nhưng không phải như họ tuởng tuợng: Người không còn trong mộ. Đất
sợ rung chuyển mạnh, lính sợ run lẩy bẩy, ra như chết; Thiên sứ từ trời xuống
phục vụ: mở cửa, tiếp khách, trả lời, mời các bà vô nơi Người đã nằm mà kiểm
chứng, truyền đạt mệnh lệnh. Mọi sự đúng như lời Chúa đã báo trước. Ngay trên
đường ra núi Ô-liu, khi Chúa Giêsu báo trước việc các môn đệ tan tác thì Chúa
đã bảo “sau khi trỗi dậy Thầy sẽ đến Galilê trước anh em.”
“Các bà vội vã rời khỏi mồ, vừa sợ hãi, vừa rất đỗi
vui mừng, chạy về báo tin cho các môn đệ Đức Giêsu”. Đi báo Tin mừng thì
lòng đầy vui mừng, phải vội vã chứ làm sao mà đi chậm được!
Nhưng Chúa Giêsu cũng nóng ruột không chờ được. Chúa đón
gặp các bà, cho các bà niềm vui được thấy, được ôm lấy chân Chúa và được nghe
chính Chúa truyền lại điều thiên sứ nói.
13. Chuyện bịp bợm cuối cùng, hồi
cuối.
Trong khi các bà rất đỗi vui mừng chạy đi báo tin, được
Chúa đón gặp, cho niềm vui trọn vẹn và xác nhận sứ mạng của các bà là đi báo
tin cho các môn đệ, thì bọn lính canh cũng hoàn hồn, lo lắng chạy về báo cáo
cho những người đã trao nhiệm vụ cho họ “biết mọi việc đã xảy ra”. Lại
một phen lúng túng hơn nữa. Họ họp, bàn và có giải pháp: tiền! lại tiền! Công
quỹ thiếu gì tiền! Người Việt nam thế kỷ 21 cũng nói: “Tiền nhà nước tiêu như
nước”. Hôm trước họ cho Giuđa ba chục đồng bạc để nộp Chúa cho họ, hôm nay “họ
cho lính một số bạc lớn, và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: “Ban đêm đang
lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Nếu sự việc này đến
tai tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với ông ấy và lo cho các anh được vô
sự”.
Thế là vừa có tiền vừa được nhà cầm quyền che chở!
Thực tế hai ngàn năm trước lại phản ánh đúng bài vè trào
phúng của người Việt Nam thế kỷ hai muơi mốt, khai triển câu châm ngôn “có tiền
mua tiên cũng được”:
“Ôi đồng tiền, là tiên là phật, là sức bật của con
người, là tiếng cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của
danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý. Ôi đồng tiền: hết
ý”.
“Lính đã nhận số bạc và làm theo lời họ dạy. Câu
chuyện này được phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay”.
Chỉ cần có một giọt trí khôn cũng đủ để biết thắc mắc:
“Sao bọn lính có nhiệm vụ canh gác mà lại ngủ? Ngủ thì làm sao biết là môn đệ
đến lấy trộm xác? Sao lính không hoàn thành nhiệm vụ mà không bị phạt? Sau này
trong sách Công Vụ (ch.12,1-19), một toán lính 16 người canh ngục giữ ông
Phêrô. Ban đêm thiên thần vào ngục giải cứu ông Phêrô. Đến sáng cửa ngục vẫn
đóng, lính vẫn gác nghiêm chỉnh chứ không ngủ, nhưng không thấy ông Phêrô đâu!
Cả 16 người đã bị vua Agrippa truyền xử tử.
Nhưng chuyện cho tiền bọn lính để ra quán rượu tung tin,
cũng làm trọn thêm lời thánh vịnh:
“Bọn ngồi lê đôi mách cứ gièm pha,
Quân rượu chè cũng đặt vè châm chọc” (Tv
69,13)
Thế là bằng một lối châm biếm thâm thúy, Mt vạch
cho thấy ai là kẻ bịp bợm, đâu là sự bịp bợm cuối cùng. thượng tế và kỳ mục là
giới lãnh đạo, có nhiệm vụ dạy dỗ dân, đã thành thầy dậy sự dối trá.
14. Gia phả tiếp tục với những
người rao giảng sự thật.
Mt tiếp tục kể chuyện mười một môn đệ sau
khi nhận được tin nhắn của Chúa Giêsu: “Về Galilê gặp lại”. Tin nhắn vắn
gọn được tiết lộ cho chúng ta không nói rõ điểm hẹn. Nhưng các môn đệ biết điểm
hẹn: “các ông đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền”.
Trong truyện tổ phụ Ap-ra-ham, Thiên Chúa truyền cho ông:
“Hãy đem con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ac, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia
mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St
22,3). Trong cuộc tế lễ này Thiên Chúa đã liệu một con cừu để thế cho
I-xa-ac, rồi Thiên Chúa phán với ông Ap-ra-ham: “Ta lấy chính Danh Ta mà
thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của
ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên
đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…” (22,16-17).
Hôm nay Con thiên Chúa, sau khi dâng mình làm hy lễ, chỉ
thị cho các môn đệ về xứ Galilê, đến ngọn núi Chúa đã truyền. Hai ngọn núi này
liên hệ gì với nhau? Cả hai đều không có tên, nhưng trước là ngọn núi Thiên
Chúa truyền cho Ap-ra-ham, sau là ngọn núi Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ.
Tới nơi các ông gặp thấy Chúa đang chờ, “các ông bái
lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”. Chúa cũng chẳng cần sửa dạy thêm,
nhưng: “Chúa đến gần, nói với các ông”. Hôm Chúa lên núi để giảng
(núi ấy cũng không có tên!) thì “Chúa ngồi xuống, các môn đệ tới gần, Chúa
mở miệng dạy”, hôm nay thì “các ông bái lạy, Chúa đến gần, nói với các
ông”.
Hôm nay Chúa không dạy các ông nữa mà truyền cho các ông
đi dạy. Hồi sai các ông đi thực tập, Chúa bảo “không được đến với dân ngoại”,
nhưng hôm nay vì Chúa đã được (Chúa Cha) trao mọi quyền trên trời dưới đất, nên
Chúa sai các ông đi “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ…
và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.
Còn Chúa làm gì? “Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày
cho đến tận thế.”
Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Chúa đã nhận
mọi quyền trên trời duới đất và ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bọn
lính được sai đi tung tin dối trá thì có tiền và có nhà cầm quyền bảo trợ. “Lính
đã nhận số bạc và làm theo lời họ dạy”. Các môn đệ đuợc sai đi làm cho muôn
dân trở thành môn đệ và dạy họ tuân giữ mọi điều Chúa đã truyền thì không có
tiền, không được nhà cầm quyền bảo trợ, nhưng có “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”,
Đấng đã nhận mọi quyền trên trời dưới đất trực tiếp ở với họ mọi ngày cho đến
tận thế.
Hai ngọn núi.
Trên ngọn núi Thiên Chúa truyền cho Ap-ra-ham đem
con lên tế lễ, Thiên Chúa hứa ban cho ông dòng dõi đông đúc và nhờ dòng dõi ông
muôn dân sẽ được chúc phúc (22,16-18)
Trên ngọn núi Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ lời Thiên
Chúa hứa cho Ap-ra-ham được thực hiện. Chúa Giêsu vừa là dòng dõi Ap-ra-ham vừa
là Con Thiên Chúa, đã đầu thai bởi quyền năng Thánh Thần và là Thiên Chúa ở
cùng chúng ta, đứng trên núi này để sai nhóm Mười Một đi làm cho muôn dân thành
môn đệ, bằng cách làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần và dạy
bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền cho các ông.
Thế là gia phả từ Ap-ra-ham tới Chúa Giêsu không ngừng
lại nhưng tiếp tục và mở rộng đến mọi dân tộc nhờ quyền năng Thánh Thần, mọi
dân tộc thành dòng dõi Ap-ra-ham nhờ phép rửa và giáo huấn của Chúa Giêsu.
Hai người phụ nữ cùng mang tên Maria.
Từ chương thứ hai, Mt đã gợi cho chúng
ta đối chiếu với chuyện Môsê và dân It-ra-en bên Ai-cập trong sách Xuất
Hành.
Pharaô
ra lệnh cho hai bà đỡ phải trông chừng khi đỡ cho các bà mẹ Hip-ri, thấy con
trai thì giết, thấy con gái thì cho sống. Hai bà kính sợ Chúa nên không làm
theo lệnh vua. Vua hỏi thì cac bà nói là các bà mẹ Hip-ri khỏe lắm, bà đỡ chưa
tới kịp thì họ đã sanh rồi. Hai bà trùng tên Maria, đi ra mộ, tới nơi thì mộ đã
mở toang rồi và thiên sứ đón ở cửa báo tin: Người không còn ở đây vì Người đã
trỗi dạy rồi. Cửa mồ đã mở, sự sống mới đã ra khỏi mồ rồi.
Khi
Môsê bị bỏ trong đám sậy ở sông Nin, thì người chị tên là Maria đứng xa xa
trông chừng xem chuyện gì sẽ xảy ra. Hai bà cùng tên Maria đã đứng xa xa nhìn
xem khi Chúa Giêsu bị thả trong dòng nước của đau khổ và cái chết, rồi hai bà
ngồi nhìn vào mộ. Khi thấy công chúa đã vớt em lên thì Maria chạy lại hỏi: bà
có muốn con tìm cho bà một người mẹ để nuôi em bé này không. Công chúa đồng ý.
Maria chạy về gọi mẹ ra… Hai bà Maria đi ra mộ để xem lại (Mt không nói là hai
bà đem thuốc thơm để ưóp xác), được tin Chúa đã trỗi dậy, vội vã chạy về báo
tin cho môn đệ.
Nghệ
thuật kể chuyện của Mt ở phần này đạt tới đỉnh cao: không lý
giải, nhưng gợi những hình ảnh để cho chúng ta chiêm ngắm và nghiền ngẫm mà cảm
nếm ý nghĩa của những điều xảy ra, từ lúc Chúa đi vào cuộc Thương Khó cho đến
lúc Chúa gặp lại các môn đệ trên núi, vì ngôn ngữ loài nguời không thể diễn tả
hết được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét