CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A
Lời Chúa: St 12,1-4a; 2Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9
MỤC
LỤC
1. Những sự việc
bình thường
2. Chúa biến hình
3. Núi Tabor hôm
nay – ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
4. Đỉnh cao hôm
nay – Đỉnh cao ngày mai
5. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Người biến đổi
hình dạng
7. Thiên Chúa vẫn
còn hiển dung
8. Chúa hiển dung
– Lm. Ignatiô Trần Ngà
9. Con yêu dấu –
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
10. Hãy biết mình
– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
11. Chúa Hiển
Dung – Radio Veritas Asia
12. Lên núi cao –
Lm Giuse Lê Minh Thông
13. Chúa hiển
dung bộ mặt nào?
14. Đường về đỉnh
vinh quang
15. Biến hình
16. Đức Giêsu
biến đổi hình dạng
17. Dõi theo bước
Chúa – R. Veritas
18. Biến hình –
Richard Gutzwiller
19. Con yêu dấu
20. Khuôn mặt
21. Phêrô
22. Thập giá
23. Suy niệm của JKN
24. Chú giải của
Noel Quession
1. Những
sự việc bình thường
"Này là con
Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài."
Vào lúc Chúa
Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng
cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ
người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến
hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi
người phải vâng nghe.
Tiếng bởi trời đã
tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức
Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn
thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh
huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm
ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là
Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng ta rất dễ
bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới
thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt
Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy
lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây
thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho
Môsê và một cho Elia.
Nhưng hiện tại
vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái
chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải
là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài
đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.
Với sự kiện Chúa
biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài
trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những
lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này,
chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo.
Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng
ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc,
chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới... Chính Ngài cũng đã
sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả
năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép
lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã
dứt khoát từ khước.
Ngày hôm nay,
Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường của cuộc
sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh ý Ngài
hay không?
2. Chúa
biến hình
Tại sao Chúa
Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?
Ngay từ đầu đoạn
Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông
Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy
không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành
động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn
được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn
cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống
lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo
trước ngày sụp đổ của đền thờ.
Có thể nói:
Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc
Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến
cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội
ngày hôm nay.
Như chúng ta đã
biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã
xác quyết trước mặt Philatô:
- Nếu từ trên
chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.
Thế nhưng quan
niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền
hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là
để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:
- Thủ lãnh các
dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy,
ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.
Chính Ngài, trong
bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:
- Mặc dầu các con
gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn
quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Cũng trong chiều
hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là "servus servorum",
đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa
biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô
đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông
sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là
phục vụ.
Còn chúng ta thì
sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa
Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn
của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương,
đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và
giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?
Bởi vì trong ngày
sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những
hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người
chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình
vinh quang trong ngày sau hết.
3. Núi
Tabor hôm nay – ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
Chúa Giêsu dẫn
các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có
lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung
trước mặt các ông.
Trước núi Tabor,
Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương
Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi
dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi
Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập
giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi
Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi
sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt
Qua.
Người xưa tin
rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ
dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận
bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp
Chúa hơn thật:
- Thanh vắng, yên
tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;
- Trên cao, thấy
rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời,
trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn...
- Trên cao, thấy
công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.
Lên núi là điều
không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới
cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm
Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ,
tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi
chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín
hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt
Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt
của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.
Một thường dân
Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình
vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và
được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình
để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.
4. Đỉnh
cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Cao Luật)
Bên kia những
thực tại hữu hình
Bản văn của thánh
Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình,
qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm:
căn tính của Đức Giêsu.
Nơi chốn:
"một nơi riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một
địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã
muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có
thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.
Đàng khác,
"ngọn núi cao" luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như
nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của
mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.
Thời gian: đã
được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc
Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá
khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian
vượt-thời-gian.
Các nhân vật:
thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt
xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn
tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn
đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô
hữu.
Một bức tranh để
chiêm ngắm
Việc Đức Giêsu
biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một
bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng
và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang
bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.
Biến cố Hiển Dung
xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần
của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt
vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật
ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi riêng" với Đức
Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng
hội đường sống lại (Mc 5,37).
Tuy vậy, sự kiện
này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ
được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo
Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với
Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã
tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ
được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của
tình yêu.
Như vậy, ba vị
cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh
quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua
con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.
Thình lình, các
ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ
khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu.
Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức
Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường
của vẻ đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây
ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc
lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu
đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn,
Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và
nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.
Đang khi Đức
Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia,
thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân
thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo
Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.
Ngoài ra, nội
dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều
Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của
Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã
kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.
Cuối cùng, sự
hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt
khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.
Ở đây, cũng như
trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực
hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối
hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời
giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy vâng nghe lời
Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực
hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự
phục sinh. Đó là ơn cứu độ.
Hãy rời ngọn núi,
tiếp tục con đường
Một tuần lễ trước
khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà
không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường
tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái
gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi
Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang
hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang
vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và
ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang.
Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự
kiện (xem 2 Pr 1,16-20).
Bởi vậy, trước
khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con
đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi
Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh
quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ
xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên
thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ.
Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.
Biến cố Hiển Dung
của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham
dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh
giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó
hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên
qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu
trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang
vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó
chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.
5. Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
MẮT ĐỨC TIN, MẮT
CỦA TRÁI TIM
Có nhiều điều ta
nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những
dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình
yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái
tim.
Có nhiều điều ta
chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người,
ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm
của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người
ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức
tin.
Chúa Giêsu xuống
thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính
vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận
ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.
Hôm nay, khi Chúa
tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn
thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân
tính được tôn vinh. "Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục
Người trở nên trắng tinh như ánh sáng".
Thần tính Chúa
Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của
bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn
lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.
Ánh sáng thần
tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa
Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả
vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời
mệt mỏi của ta.
Ánh sáng ấy cho
tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất
của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: "Người ởi bên trong,
còn tôi ở bên ngoài".
Người ẩn tàng
trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu.
Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của
hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.
Ánh sáng ấy ngầm
nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng
tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau
những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi
thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung
nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng
tới gần Chúa.
Nhận thức ấy giúp
tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự
trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng
cao quý.
Như thế, sống Mùa
Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được
Chúa.
Ăn chay là đến
với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi
nảy lộc trong các tâm hồn.
Chương trình hành
động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu
vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân
loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh
sáng thần linh.
Như thế ta đang
công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô,
đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.
Lạy Chúa Kitô,
xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho
con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.
6. Người
biến đổi hình dạng
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
Trong các hình
ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật
ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như
ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
"Ai thấy Ta
là thấy Cha" (Ga 14,9).
Khuôn mặt con
người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Đức
Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng
ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá
quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt
chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc
khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây
phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người."
Thầy Giêsu vừa là
Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan
báo (Đnl 18,15).
Phêrô không quên
được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: "Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy
phong lẫm liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi
chúng tôi ở trên núi thánh với Người" (2Pr 1,16-18).
Đức Giêsu được
biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của
Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.
Biến hình là một
bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Đức
Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng
đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng
được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ,
để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có
lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu,
nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và
khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay
không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào
khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và
hy vọng.
Sám hối là đổi
tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về
khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người
khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?
Bạn nghĩ gì về
khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này,
bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy
Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước
Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe
lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn
mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người
thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay
không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết
nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập
ghềnh. Amen.
7. Thiên
Chúa vẫn còn hiển dung
(Trích từ 'Cùng
Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu bạn là một
người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy
trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh
bướm, mỗi bông hoa... đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến
rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của
chúng.
Thế nhưng trong
thực tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật
như thế. Tại sao?
Vì mỗi lần nhìn
vào những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc
nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta
không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về
chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên
những vật đó.
Thế là vạn vật
chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của
chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển
dung ra được nữa. Một trong những nổ lực của thiền nhân là thanh tẩy cái nhìn
mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng
với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.
Trong cuốn sách
The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu
kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.
Một buổi chiều
hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn
một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới
tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được
nghe chúng hót hay đến thế.
Đang lúc tiếp tục
bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười
niềm nở chào đón cậu trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede
cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế
nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng
của chúng.
Sau cùng cậu tìm
đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần
chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô
cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm
xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của
Thiên Chúa trong tạo vật của Ngài.
* * *
Theo Tin Mừng
Matthêu được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phêrô,
Gioan và Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giêsu. Cũng vẫn là
Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng
ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài dưới một dung mạo mới: thật
sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Môi-sê và tiên tri Êlia hiện
ra đàm đạo với Ngài.
Lòng đầy hoan
lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu
kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu:
"Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại
đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
* * *
Hôm nay, Thiên
Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che
phủ nên không nhận ra Ngài.
* Vinh quang của
Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Ngài, qua bầu
trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh
đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua
mọi tạo vật chung quanh...
Vua Đavít cảm
nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:
"Trời xanh
tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan
báo việc tay Người làm" (Tv 19, 2)
* Tình yêu của
Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của
người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt
kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn...
* Mầu nhiệm Ba
Ngôi Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia đình đấm ấm thuận hoà, chan
chứa yêu thương hiệp nhất.
* Và đặc biệt,
Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng
tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn
dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh chúng ta.
Thông thường,
chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ thấy được
khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta để có thể
nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu.
Ba môn đệ nhận ra
Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Đức Giêsu thì chúng ta cũng
xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang
sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được
sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như thánh Phêrô xưa: chúng con được ở
chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. (Mt 17,4)
8. Chúa
hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người đời thường
mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển
dung (biểu lộ ra bên ngoài).
Khi nhập thể làm
người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con
người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người
đồng hương Na-da-rét gọi Người là "Bác thợ" (Mác-cô 6,3) hay
"con Bác thợ Giu-se, con bà Maria" (Lc 4, 22. Mt 13, 55)
Hầu hết người
Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa
Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng
ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. "Ông là người phàm mà tự
xưng mình là Con Thiên Chúa."
Nhưng ngoài bản
tính nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu
hiển dung
Trước khi bước
vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ lên
Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các
môn đồ bấn loạn.
Để củng cố tinh
thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp
đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín
thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của
Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: "Đức Giêsu
đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan ... tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến
đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y
phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và
ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người." ... "Chợt có đám mây sáng ngời
bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Dung mạo Thiên
Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm cho tâm
hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô muốn sống
mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên đó. Ông đề
nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: "Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức
Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con
xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông
Êlia."
Sự hiển dung của
Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn ngập niềm vui
và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ khuôn mặt
thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?
Khi chúng ta hiển
dung
Jiddu
Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi
tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba
"nhân vật" đang chung sống:
* Một là
"tôi-là". Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ:
bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng...)
* Hai là
"Tôi-muốn-là". Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con
người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ,
lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng đại, vị tha, năng động...
* Ba là
"Tôi-tưởng-tôi-là". Đây cũng không phải là bản chất con người tôi,
nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa
Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công
chính đạo đức.
Đây chính là cái
mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình. Từ lâu nay
tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực... Tôi nhập vai khá tốt nên
những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính và ngay cả
bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở một nơi nào
đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ tôi mới
"hiển dung", mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.
Bài học từ Lời
Chúa
Lời Chúa trong
Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn xuyên qua
vai diễn mà tôi đang đóng - vai "tôi-tưởng-tôi-là " - để nhận ra bản
chất con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về
mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi
cho mình những phẩm chất cao đẹp.
Nhờ thế, khi phải
"hiển dung" (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người khác (dù muốn
hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi u ám, xám
xịt, mốc meo... nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như chân dung
chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ năm xưa.
9. Con
yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mầu nhiệm Ngôi
Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người
chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy
là ánh sáng thế gian."(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật.
Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý
nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người,
Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả
mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không
gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là
Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về
Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần,
thiên thần đồng thanh ca tụng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an
dưới thế cho loài người Chúa thương." (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép
rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con
yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến hình
trên núi có tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta,
các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết,
Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình
an cho các ông: "Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các
ông và bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy
hình ảnh xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem
bình an cho nhân loại.
Chúa đã chia sẻ
cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh
áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm
của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo,
Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy
tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ
dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê
thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ
rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá
và mang đèn phải mang dầu theo.
Chúa lôi cuốn
quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa
không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó
hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có
thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe.
Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã
thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục
sâu đậm.
Chúa còn thực
hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù
được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi
tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy
tràn và cho kẻ chết sống lại... Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên
vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình
cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên
thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân
phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự
nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ
mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)
Chúa Giêsu có hai
bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong
thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua
đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh
giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã
từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là mặt
trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái:
"Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả
sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn
nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào
thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con
người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.
Tiếng từ trời
cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người
(Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay
nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra
khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các
tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống
để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu
dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị
người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ
một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.
Con Ta yêu dấu
chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng
chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu
soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy
ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của
Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy
Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở
bên Chúa.
Hình ảnh Chúa
Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ.
Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và
qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh 59
quang đích thực
khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ
tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng
Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình (Ga. 15,13).
Chúng ta được cứu
chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền
tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ
nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự
sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho
chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh
sáng ngàn thu với Ngài.
Trong cuộc lữ
hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta
phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường
Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang.
Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn
khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi
bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).
Sau khi biến hình
sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực
tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi
trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự
giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết.
Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con
Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi
Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá.
Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống
và cứu con người lên.
Chúng ta không
thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút
giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ
và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và
gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết
rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.
Đây chính là hồng
ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi
chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn
ngàn đời.
10. Hãy
biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cái quý nhất của
con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất
của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và
điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân
cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều
người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin
rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con
người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của
mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là
một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và "cá lớn nuốt cá bé". Họ không
nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải
tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là
hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế
giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà
làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện
ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu
ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và
doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó
nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh,
em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên
đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó". Thằng cha này
không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và
bảo rằng:
- "Thế mày
có nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời:
- Sao lại không?
Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó
thôi.
Sư tử càng tức
điên người lên và hỏi:
- Nó ở đâu? dẫn
tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư
tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần
giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một
tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng,
tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ
lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức
đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một
trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư
tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử
chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối
thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của
mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh
em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra
hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng
tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng
loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng
giềng đáng lẽ "tối lửa tắt đèn có nhau", nhưng lại "bới lông tìm
vết" và làm hại lẫn nhau.
Hôm nay, lễ Chúa
hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan
thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài.
Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh
đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy
Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó
chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của
chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể
hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm
ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống "nhân chi sơ tính bản thiện" của phẩm
giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa
mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi
trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm
lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn
danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy
hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân
trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh
lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một
chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm
giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp
chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin
Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người
của mình và của tha nhân. Amen.
11. Chúa
Hiển Dung – Radio Veritas Asia
(Trích từ 'Mỗi
Ngày Một Tin Vui')
Trong phụng vụ
Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư
của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được
Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào
vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm
hồn tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết
họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say
đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có
những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng
ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu
hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí,
trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để
chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau:
"Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người". Còn hai ông Gioan và
Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính nóng nảy, hai ông đã được Chúa
Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách
vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón
Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về
cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi
cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất
phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư
nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì
một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng
Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất
hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá
kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê
sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và
được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể
lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình ngây ngất, choáng
ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ
Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa
Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt
nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhưng dường như
Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những
chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn
sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà
thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã
từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết
rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá
nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác
nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của
Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững
bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình
như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc vì
chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa
Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh
hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những
dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều
này trong tác phẩm "Lời Dâng" như sau:
"Anh không
nghe thấy ư?
Bước chân Người
thầm lặng
Người tới, tới và
luôn luôn thường tới
Người tới, tới và
luôn luôn thường tới
Hàng giờ, hàng
đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi".
Lạy Chúa Giêsu,
trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho
con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho
con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để
nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa
để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt
vời ấy mà vững tâm sống đạo.
12. Lên
núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông
LÊN NÚI CAO ĐỂ
THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng
"Biến đổi hình dạng ở trên núi" (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức
Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở
Mt 17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: "Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc
Thương Khó", nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh
bằng một câu ngắn ngủi: "Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy" (Mt 16,21;
17,23; 20,19).
Có lẽ nói ngắn
quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả
độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế,
trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh
quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn đệ và cho độc giả
biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.
Trình thuật Đức
Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một bức tranh
tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và ngôn từ
rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:
1) Tách rời khỏi
thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm ngưỡng
thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe mặc
khải của Thiên Chúa bằng tai.
1) Tách rời khỏi
thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
Trình thuật bắt
đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con
người: "Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em
ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn
núi cao" (Mt 17,1).
a) Yếu tố thời
gian là "sáu ngày sau", đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra
trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu
ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành
một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
b) Trình thuật
nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa
lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả không nên
tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là nơi Thiên
Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào để đưa
độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới thường ngày,
thế giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài thời gian và
không gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt khỏi giới
hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ như
Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.
(Trình thuật
không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến
cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt,
chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh
đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố
này).
c) Tách biệt về
con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: "Phêrô, Giacôbê và Gioan".
Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự
tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng
chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ
này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được
biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được
thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.
Sau khi được tách
biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc
về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng
cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được.
Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị
giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
2) Chiêm ngưỡng
thế giới của Thiên Chúa bằng mắt
Trước hết, Đức
Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà "Người được biến đổi hình
dạng" (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác
nhân được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu
được biến đổi hình dạng.
Sự biến đổi này
không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ transfigurer có
nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu tiên là
mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser,
có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản chất (morphoser).
Tiếng Việt có thể dùng cụm từ "biến đổi hình dạng".
Đức Giêsu được
biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến sự
kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: "Dung nhan Người chói lọi
như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng." Nếu dung
nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà
không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì
làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có
thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là
cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải
Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những
thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn
ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì
điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người.
Bằng ngôn ngữ,
sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các
từ: "như", "giống như", "tựa như"... còn điều
trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3:
"Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng
ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh
ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc". Kh 4,6 viết: "Trước ngai
có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê." "Trông giống như...",
"như..." còn thực sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên
núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy "thị kiến" về Đức
Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh
"như": "Chói lọi như mặt trời", "trắng tinh như ánh
sáng", nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải là mặt trời, và y phục
của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là "như", "giống
như" mà thôi.
Trong thế giới
thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo
với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII
TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ
I SCN.
Nội dung đàm đạo
không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong
thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã
khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không
còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài
sự nắm bắt của người phàm.
Lời Phêrô nói với
Đức Giêsu: "Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con
xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông
Êlia" (17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị
kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị
làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê
và Êlia không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người
phàm lại không cần lều.
3) Lắng nghe mặc
khải của Thiên Chúa bằng tai
Mặc khải bằng thị
kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang
hình thức mặc khải thứ hai: "Tiếng nói từ đám mây": "Đây là Con
yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người."
(17,5).
Từ kinh nghiệm
thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các
môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách "nghe". Tiếng phát
ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và
bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của
Thiên Chúa.
Cách thứ nhất, mặc
khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng những gì còn ẩn
dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu,
ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời
mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc khải, nhằm giúp ba
môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.
Lời phát ra từ
đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa
ở đầu sách Tin Mừng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người" (Mt 3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) "Hãy vâng nghe
lời Người", dịch sát: "Hãy nghe Người (akouete autou)", (2)
Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả
qua mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và tương quan của Người với Thiên
Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới thiệu: "Đây là Con yêu dấu
của Ta" và một mệnh lệnh: "Các người hãy nghe Người."
Khi gọi ai là Con
(huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ và độc giả
biết Đức Giêsu có tương quan "Cha – Con" với Thiên Chúa, Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: "Hãy
nghe Người" là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong
tương quan giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức
Giêsu là Con yêu dấu của Người.
Thực vậy, trước
khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức
Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế,
tương quan "Thiên Chúa / dân" trong Cựu Ước trở thành tương quan
"Đức Giêsu / môn đệ" trong Tân Ước, và đây là ý muốn của Chúa Cha.
Nghe lời Đức
Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo
Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm
hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế, biến cố
trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật khác.
Ngược lại, lời mời gọi "nghe lời Đức Giêsu", nối kết biến cố trên núi
cao với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối diện với thế
giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã "kinh hoàng,
ngã sấp mặt xuống đất" (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại đời
thường bằng cách chạm vào các ông và nói: "Chỗi dậy đi, đừng sợ", các
ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì
đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa hai lần báo
trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời
thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra nhằm mặc
khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của
Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là
Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng
nghe giáo huấn của Đức Giêsu.
Trình thuật Đức
Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây là những
tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc đời của
độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong khó khăn
thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và chưa biết
rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến cố Phục Sinh,
trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho ba môn đệ
và cho độc giả.
Đọc xong trình
thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy ra trên
núi như ba môn đệ hay không?
Liệu độc giả có
cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ đẹp của thế
giới trên cao hay không?
Liệu độc giả mọi
nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con
Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?
Ước gì mặc khải
ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe có khả năng
gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu
trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Mong sao mệnh
lệnh "Hãy nghe Người" là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc
Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho
cuộc đời này
13. Chúa
hiển dung bộ mặt nào?
(Suy niệm của Lm
Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi được biết:
trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung ('sự hóa thân'
theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự kiện thâu
tóm tất cả mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút nào, vì
Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải gói ghém trong đó một
thực tế (sản phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn không
phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn là cuộc
khổ nạn, như nhiều khi chúng ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để củng cố
các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì việc
biến hình đã thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ nói chung, cách riêng
Phêrô - một trong ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục
đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó phải làm lộ rõ nội
dung vinh quang đích thực của Thập Giá
Theo lối suy nghĩ
tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng tách vinh quang
ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt tới vinh quang.
'Per crucem ad lucem', người ta thường quan niệm thế, phải qua thập giá đau
thương mới tới được vinh quang phục sinh. Nói như thế thì tự nó Thập giá không
bao giờ là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện như một phần thưởng sau thập giá,
trong ánh sáng phục sinh. Thông thường người ta quan niệm, thập giá chỉ là
phương tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự như đau khổ là con đường dẫn
tới thành công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang phục sinh chứ không
thể yêu thích thập giá, và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực của Thiên Chúa
chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không thể trong đau khổ thập giá.
Ngược hẳn với lối
suy nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố Hiển Dung, đều cho thấy vinh
quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai ông Êlia và Môsê, hiện thân
tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu "về cuộc xuất
hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem" (Lc 9,31). Để thấu hiểu biến
cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn - phục sinh của Đức Giêsu.
"Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi
dậy". Theo tác giả Gio-an thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải Phục
sinh) mới được Đức Giêsu coi như mục tiêu chính của mạc khải Người, là 'giờ của
Người', là sự tôn vinh' của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga
12,20-33). Chỉ có Đức Giêsu của hiển dung - thập giá mới được Chúa Cha từ trời
giới thiệu: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi
hãy vâng nghe lời Người!"
Hiểu được vinh
quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng
còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc 8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm
ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót
không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn
nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả
của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn
cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều
duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của
Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải
toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình
yêu của Ngài.
Vì vậy đối với Kitô
hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn
nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời gian mời gọi mọi Kitô hữu hãy say
sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh quang và quyền lực lớn lao nhất
của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi, nhưng chất đầy vui mừng
và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm của mùa chay phải là Thập giá,
nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết chóc, mà là Thập giá ánh
lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của Thiên Chúa là Cha nhân
lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế, hoặc như Phêrô, tôi
chối bỏ vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua đuổi như Sa-tan, tức là
kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Mùa chay vì thế
không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để khám phá và củng cố niềm
tin. Tôi có ý thức điều đó không?
Lạy Chúa, khi mời
gọi con vác thập giá theo chân Chúa là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham
gia vào vinh quang vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục
của Chúa, không còn coi Thập Giá là biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã
trở thành biểu tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho
con diện mạo yêu thương tự hiến của Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin
cho Thánh Giá từ nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men
14. Đường
về đỉnh vinh quang
(Suy niệm của Lm
Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu
chuyện xưa có tên "Người kế vị", nội dung như thế này: Ở ngôi chùa
kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người
bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật "sinh, tử" của Tạo Hóa
là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế
vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng
nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.
Cứ khoảng vài ba
ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây
có trộm cắp.
Ít lâu sau, vị
cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy
kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất
siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp
đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến
trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.
Thấy A, vị cao
tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo
các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa
bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi,
không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A
trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: "Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ
- nhận thức) được rồi".
Vị cao tăng đỡ A
dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng
như lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH
VINH QUANG.
"Vinh quang
trên đỉnh núi" hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ
xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.
Đức Giêsu biến
hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách
xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần
thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang lúc Người
cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói
lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia.
Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn
thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).
Trong cuộc biến
hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu
ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong thoáng
chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ - "nhận biết" được Đức
Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng "Thầy
là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống", nhưng ông không thể "nhận
biết" được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ
bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.
Xin Chúa thương,
đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức Kitô biến
hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức
Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. "Thầy là đường, là sự
thật và là sự sống".
Niềm tin vào Chúa
Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn
luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên "đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô trong cái chết của Người" (Pl.3,10).
Sự biến đổi ấy
đòi hỏi mọi người phải "thông phần những đau khổ của Người", bằng sự
sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.
Không trở nên
đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể
"đồng hình dồng dạng với Người" trong vinh quang được.
NHỮNG THỬ THÁCH
Trước đông đảo
các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa
bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi,
không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A
trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: "Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ
- nhận thức) được rồi".
Vị cao tăng đỡ A
dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng
như lòng muốn.
Điều gì đã diễn
ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe
nội tâm, đối diện với chính mình.
Một vị "chân
tu", không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng sau hành động
bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm
được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng lên, danh dự bị
thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy mình. Có thể tất cả
đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn
đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù
một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự
vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.
Chúa thành tín
trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).
Đó là sự xác tín
căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta
tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi
không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những
chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để
chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người
kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).
Để tiến bước mạnh
mẽ, để "lao mình về phía trước", để "chạy thẳng tới đích",
đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp "cái tôi" hẹp hòi,
"chết đi con người cũ", đó là "thập giá của đời ta".
Nếu con người chỉ
suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát
vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối
hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con
người thuộc về thế giới của Sa-tan.
"Xa-tan, lui
lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng
của Thiên Chúa, mà là của loài người!" (Mt.16,23).
Không phải chúng
ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được
trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.
Vì sự sống là từ
Thiên Chúa.
Nên con người
phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là
của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng
không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).
Sự biến đổi này,
không phải chỉ là "nhận biết" Thiên Chúa, "ngộ" được Thiên
Chúa, mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, "thông phần vào bản tính Thiên
Chúa" (2Pr.1,4).
Người đã trở nên
giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy,
cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh
hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.
Anh em là giống
nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên
Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u
tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)
THỰC TẾ HÔM NAY
Chúa Giêsu đã
biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng
kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có
gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu
dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).
Nhưng Chúa Giêsu
đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở
lại trước mắt. "Đỉnh vinh quang" không một sớm một chiều mà có được
để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách.
Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng.
Có những người chọn bến bờ khác.
Nghe rồi, nhiều
môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?"
(Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều
môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải biến đổi con
người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự
hủy diệt mình đi mới "sống lại" một cuộc đời mới, sự sống mới.
Nếu hạt lúa mì
gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi,
nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn
biết cố gắng vươn lên,
từng giây phút
đổi thay đời mình,
đến gần sự thiện
hảo hơn,
để con được hưởng
vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu
của Chúa. Amen.
15. Biến
hình
(Sưu tầm của Linh
Xuân Thôn)
Một nhà giáo dục
nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có
tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là:
"Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này".
Khi đã lớn tuổi
và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một
người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: "Lạy
Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của
con."
Giờ đây tôi đã
già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện
của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con
nghị lực để biến đổi chính mình con."
Và ông kết luận:
"Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng
phí cả cuộc đời."
(Anthony de
Mello, Trích trong "The Song of the Bird")
***
Bạn thân mến! Tin
Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại một cuộc biến đổi. Đó là cuộc biến đổi
hình dạng của Đức Giêsu trên núi Tabo. Trong ngày hôm đó, Đức Giêsu đã mang
theo các môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ngài đưa
các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi
Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông (Mt.17,2).
Trong cuộc biến
hình đổi dạng đó, Ngài cởi bỏ thân phận con người để mặc lấy Thiên Tính của
Thiên Chúa. Ngài cho các ông được nhìn thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa, để
thêm lòng tin cho các ông.
Hơn hai ngàn năm
trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabo. Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn
tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay. Ngài biến hình qua bàn tay của
Linh mục trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để trở thành
xương thịt của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở thành những
giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con người.
Ngày nay Đức
Giêsu cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ. Ngài không mang tôi và bạn lên
núi Taboo như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa kia, nhưng Ngài mang tôi và bạn
đến trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu Thánh Thể, đến trong các bí tích
mà ta lãnh nhận... nơi đó Ngài dành cho ta những giây phút thinh lặng thánh
thiêng mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài cũng biến đổi hình dạng để
thêm lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho ta lòng mến, sự tin yêu cậy
trông phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi theo Ngài trên bước đường lữ
thứ trần gian này.
Hôm nay, Đức
Giêsu mời bạn và tôi cùng "biến hình" với Ngài. Biến hình không phải
là trở thành cái gì xa lạ khác thường, nhưng biến hình là để trở về với cái tôi
sâu thẳm của chính mình: "Tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa". Đó là
ơn được làm con cái Thiên Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng nhất của
người Kitô.
Biến hình với Đức
Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta
một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và cậy trông phó thác.
Biến hình với Đức
Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa,
là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.
Biến hình với Đức
Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên giống Ngài mỗi
ngày mỗi hơn.
Lạy Chúa Giêsu!
Xin ban ơn giúp sức cho con để con cũng được "biến hình" với Chúa
trong Mùa Chay Thánh này, để con được trở nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và
để con cũng được Thiên Chúa Cha nói với con rằng: "Đây là con Ta yêu dấu,
Ta hài lòng về con..." (Mt.17,5). Amen
16. Đức
Giêsu biến đổi hình dạng
(Suy niệm của Lm.
FX. Vũ Phan Long)
Cuộc Hiển Dung
vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các
tông đồ.
I. NGỮ CẢNH
Cả ba Tin Mừng
Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng
của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số
phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc
9,23-27).
Riêng Tin Mừng Mt
đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra
đi thi hành sứ vụ: trên "một ngọn núi rất cao" (4,8), quỷ đã cám dỗ
Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: "Tôi
sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi" (4,9). Nhưng
Người đã dứt khoát từ chối.
- Khi kết thúc sứ
mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một
"tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến" (28,16). Tại đây Người
tuyên bố là Người "đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới
đất" (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo
Tin Mừng "cho muôn dân".
Vì Người đã từ
chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành
từ tay Thiên Chúa.
- Giữa hai biến
cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu
biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã
được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề
nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa,
có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón
trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy
ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh
quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn
lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha.
Điểm này được minh chứng theo văn mạch gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa
hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể
chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến
(17,2-8):
a) Mở đầu: Đức
Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình
huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa
phán,
c) Kết: các môn
đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI
- Sáu ngày sau
(1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu
ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê
và Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
- một ngọn núi
cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả
núi này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi
Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen
hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan
trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối
Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và
Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).
- biến đổi hình
dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều
rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.
- Môsê và Êlia
(3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với
núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện
cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là
những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
- ba cái lều (4):
Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm
8,14-18).
- đám mây sáng
ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động
từ episkiazein, "bao phủ; rợp bóng" là động từ cổ điển để lưu ý về sự
hiện diện (Hp shekinah) của Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình
huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
- tiếng từ đám
mây phán (5): Trong Cựu Ước, "tiếng nói" thường xuất hiện trong các
bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm
3,4; Is 6,8; Gr 1,11 ....
- Đây là Con yêu
dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ
ngữ "con" trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái
thân tình, kết hợp và hiệp thông.
- Nghe vậy, các
môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh
Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).
- Đức Giêsu lại
gần (7): Động từ proserchomai, "đi đến, đến gần", là một động từ Mt
thích dùng (52 lần; 5 lần trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần
được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản
văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi
hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7
6 Khi các môn đệ
nghe vậy
họ ngã sấp mặt
xuống đất
và hết sức kinh
hoàng
7 Bấy giờ Đức
Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo:
"Trỗi dậy
đi, đừng sợ" Mt 28,16-20
16 Mười một môn
đệ...
17 Khi thấy
Người,
các ông bái lạy
Người, nhưng có mấy ông hoài nghi.
18 Đức Giêsu đến
gần
nói với các ông:
19 "...toàn quyền..." 20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày"
- thị kiến (9):
Hoạt cảnh này vừa là "thị kiến" ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu
khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải
huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16;
24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức
Giêsu hiển vinh là một "thị kiến" được Thiên Chúa ban cho.
IV. Ý NGHĨA CỦA
BẢN VĂN
Bản văn chúng ta
đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến
cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và
rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho
chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu
tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta
hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định
thời gian "sáu ngày sau" muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả
lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ
được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu
chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?
Chi tiết
"sáu ngày sau" hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể
rằng "sau sáu ngày", mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên
Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi
ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ "đi riêng với mình, lên
một ngọn núi cao", bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh
Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn
độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại
diện bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-8)
Sau phần mở, tác
giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc
của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này,
khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy
các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự "biến
hóa; biến thái" (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân
tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa
trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô
hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa
được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là "sự tái
sinh", "sự công chính hóa". Ánh sáng, màu sắc, sự "biến
hóa" nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc
thế giới khác, là "Con Người" mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn
7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng
Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi
hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự
xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong
của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức
Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với
Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về "cuộc xuất
hành" Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao
đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền
thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi
nhận là "dung nhan Người chói lọi như mặt trời", hẳn là tác giả Mt
muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có "da mặt sáng
chói" mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của
Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa
các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu,
ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức
Giêsu mắng là "Satan". Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý
nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình
không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho "thịt và
máu" (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách
của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần
này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là "người kém tin" (14,31)
hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh
các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như
thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để
được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con
của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27).
Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các "bản văn
thiên sai" (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, "tiếng
nói" từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu.
Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng
chương trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế
hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người
tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).
Tác giả hoàn tất
khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây
là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để
diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò
thiên thần trấn an. Các lời "Đừng sợ" thường được nói lên trong các
thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
Câu cuối của hoạt
cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi "hóa thân", Đức
Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, "chỉ còn một mình Đức
Giêsu mà thôi", bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà
loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người,
nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở
lại (x. 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi
xuống, lời nhắc "giữ bí mật" xác nhận rằng bản văn này song song với
các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp
(chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định
"cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy" cho thấy con đường đúng
để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên
sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là
cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả
những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên
Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung
vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các
tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới
trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết
định của các ông.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Muốn có một
kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra
khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta
vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này
không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và
dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người
khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã
phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng
ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ "trong đám mây sáng chói".
2. Phêrô đã thưa
với Đức Giêsu: "Lạy Ngài (= Chúa)", nhưng rất có thể theo nghĩa là đế
vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm
nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập
pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa
là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc;
các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận
cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn
mà loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những
gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được
biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với
đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều
chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là
Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc
khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình
Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của
Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích.
Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ
về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và
Phêrô có thể kêu lên: "Lạy Chúa, ở đây thật là hay!". Sau đó, cần có
can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang
dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x.
Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học
Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như
lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con
yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những
giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.
17. Dõi
theo bước Chúa – R. Veritas
(Trích từ 'Niềm
Vui Chia Sẻ')
Người ta kể rằng
năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ
hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa
hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải
thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc
đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp
lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn
Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban
tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.
Bỗng chốc bầu khí
yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: "Chai-san, mày
trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi". Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc
nuối nói với cha: "Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!".
Thưa anh chị em,
Trong truyền
thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem
như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải
quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên
núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã
ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp
Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên
núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để
cầu nguyện cùng Cha Ngài.
Trong Tin Mừng
hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh
quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra
được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh
quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh,
như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Thế nhưng, thưa
anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con
đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên
Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt
với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ
trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc
đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.
Thật vậy, cuộc tỏ
vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng:
"Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Lời tuyên xưng này lại
gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời
mời gọi: "anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy" (Mt 16,24).
Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu
Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các
ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày
đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn
đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô
đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì.
Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn
quay sang mắng ông: "Satan, cút đi!". Vì ông đã tự đồng hóa với Satan
cám dỗ Chúa trong sa mạc.
Rồi bây giờ thì
lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây
sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng
rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng
rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống
núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.
Chính trong giờ
phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa
Giêsu về "cuộc ra đi" Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng
Chúa Cha phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi
hãy vâng nghe lời Ngài". Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước
đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo
Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác
phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh
quang Phục Sinh.
Anh chị em thân
mến,
Không phải hông
có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm
nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta
chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin
tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi
xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy
sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào
người như "đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ", để thức tỉnh chúng
ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường
đời.
Con đường Thương
Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình
"không còn hình tượng người ta nữa", để dạy chúng ta biết phải đi qua
con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ
La-tinh, người ta chơi chữ: "Per crucem ad lucem", nghĩa là "qua
thập giá đến ánh sáng". Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh.
Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng
của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.
Thưa anh chị em,
Trong cuộc hành
trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi
cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc
cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc
đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc
sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc,
sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người
anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn
của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi
qua.
Xin ánh sáng Phục
sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận
và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô
chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên
dấu chân của Ngài.
18. Biến
hình – Richard Gutzwiller.
(Trích trong 'Suy
Niệm Tin Mừng Matthêu')
Quang cảnh trên
núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người
sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã
hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng
leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia
làm hai phần rõ rệt:
PHẦN THỨ NHẤT:
Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ
miều này: Trước hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ
phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư
tưởng thần linh. Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm
chứng vì đã thấy vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải
học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.
Họ thấy Chúa biến
hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ
của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng
Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo
những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất
đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô
vinh quang.
Môisen và Êlia
xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao
truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông
chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính
Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi
ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm
gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội.
Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện
cuộc biến hình muôn thuở.
Êlia là người thứ
nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái
đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời
cao và vũ trụ.
Trước hết, người
đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách
là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức
Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật
chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời.
Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng
về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại
dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên
trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm
chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập
vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.
Đó là một thái độ
dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không
thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi
lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh
vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền
tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng
chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho
các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn
về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.
PHẦN THỨ HAI: Đám
mây bao phủ làm tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo
là dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ
ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự
tìm hiểu để cảm nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai,
phảng phất đám mây giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên
núi Sinai vang dội các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà
Do Thái phải vâng lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ
thị tôi tớ nhưng là ấm tử.
Như thế, những
đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước
vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng
sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay
họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy
diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu
một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là
khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô
hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây
lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng
để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị
thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người
đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những
người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.
Đức Kitô còn cao
trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức
về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực
sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định
mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển
hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng
mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.
19. Con
yêu dấu
Này là Con Ta yêu
dấu. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu
dấu của mình những hai lần.
Thực vậy, lần thứ
nhất là bên bờ sông Giócđan, khi Đức Kitô đến lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền
hô. Phúc âm đã ghi lại khi Ngài lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa
lấy hình chim bồ câu đổ xuống và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta
yêu dấu.
Lần thứ hai là
trên đỉnh Taborê như chúng ta vừa nghe đọc. Hôm ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ
thân tín nhất lên đỉnh núi Taborê, tại đây Ngài đã biến hình trước mặt các ông,
áo Ngài trở nên trắng như tuyết, rồi lại có Môisê và Êlia đến đàm đạo với Ngài.
Giữa lúc ấy có một đám mây bao phủ rồi từ trong đám mây có tiếng phán:
- Này là Con Ta
yêu dấu.
Thế nhưng, đâu là
cái bí quyết làm cho Đức Kitô trở thành người con yêu dấu của Chúa Cha. Xin
thưa:
- Cái bí quyết ấy
rất đơn giản đó là Đức Kitô luôn làm vui lòng Chúa Cha, hay nói một cách khác,
Đức Kitô luôn vâng theo thánh ý của Chúa Cha.
Thực vậy, vì vâng
theo thánh ý Chúa Cha mà Đức Kitô đã xuống thế làm người, sinh ra giữa đêm đông
giá lạnh, lớn lên trong cảnh nghèo túng cơ cực. Rồi trong cuộc đời công khai,
nỗi băn khoăn số một của Ngài là tìm biết và thực thi thánh ý Chúa Cha, như
Ngài đã xác quyết với các môn đệ bên bờ giếng Giacob:
- Của ăn của Ta
là làm theo thánh ý Cha Ta.
Đỉnh cao tuyệt
vời nhất của sự vâng phục đó là cái chết trên thập giá như lời thánh Phaolô đã
viết:
- Ngài đã vâng
lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Còn đối với chúng
ta thì sao? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên
Chúa. Chúng ta giống như Môisê, sau ngày được vớt lên khỏi nước. Thực vậy,
trước kia Môisê là một người phải chết, và nếu có sống thì cũng chỉ sống một
kiếp sống nô lệ đọa đầy... Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Môisê được nàng
công chúa nhận làm con nuôi và có một địa vị sáng chói.
Cũng thế, trước
khi được rửa tội chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội Adong, nhưng
sau khi được vớt lên khỏi nước do bí tích rửa tội chúng ta trở thành con cái
Thiên Chúa và có quyền thừa hưởng gia nghiệp nước trời.
Bởi đó chúng ta
phải cám ơn Thiên Chúa vì đã dành cho chúng ta cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta
hãy suy nghĩ như bà già nhà quê mỗi khi đọc kinh lạy Cha:
- Lạy Chúa, Chúa
là ai mà con là ai. Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, còn con chỉ là một bà lão
già nua xấu xí, thế mà Chúa ban cho con một đặc ân cao cả, đó là được gọi Chúa
là Cha.
Cám ơn Chúa mà
thôi chưa đủ. Hãnh diện về địa ấy mà thôi chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta
phải sống đúng cái địa vị cao cả ấy, nghĩa là chúng ta phải trở nên là những
người con ngoan, là những người con yêu dấu của Chúa.
Muốn được như thế
chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Kitô, bằng cách luôn vâng theo thánh ý
Chúa Cha. Một đứa con ngoan sẽ không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi
khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là đứa con mau mắn vâng nghe những
lời chỉ bảo ấy.
Bởi đó, để trở
thành những người con ngoan của Chúa, chúng ta cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng
theo thánh ý Chúa Cha, thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua
mười giới răn, qua Tin mừng Phúc âm và qua những điều giáo huấn của Hội Thánh.
Có mau mắn vâng
nghe thánh ý Chúa Cha, thì rồi Chúa Cha mới tuyên phong chúng ta như đã tuyên
phong Đức Kitô trên đỉnh Taborê:
- Này là Con Ta
yêu dấu.
20. Khuôn
mặt
Một vị ẩn sĩ nọ
suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy
có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ
hy sinh của ông.
Ngày nọ, vị ẩn sĩ
quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc
ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ
chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên.
Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé
đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng
ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình,
còn cô gái không nỡ uống một mình.
Họ càng đi, cơn
khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải
quằn quại trong cơn khát. Ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng
và cô bé cũng mỉm cười uống nước với ông.
Sau khi đã uống
nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao
hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã
biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng
nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông.
Sau khi đã chay
tịnh nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được
trời cao chứng giám bằng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.
Đức Giêsu sau khi
chấp nhận cuộc khổ nạn, quyết tâm thi hành thánh ý Cha, liền được "biến
hình đổi dạng" trên núi cao. "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời,
và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" (Mt 17,2). Người còn được
Chúa Cha chứng giám cho việc Người chấp nhận khổ giá vì yêu Cha và vì yêu nhân
loại tội lỗi, bằng một lời ngợi khen long trọng: "Đây là con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người" (Mt
17,5".
Đức Giêsu biến
hình sáng láng trước mặt ba môn đệ thân tín, là để các ông cảm nghiệm được
trước vinh quang Phục sinh của Người. Cũng là để dọn lòng trí các ông dễ dàng
đón nhận cuộc khổ nạn cà cái chết thương đau của Người trên thập giá sau này.
Vì qua đau khổ mới tới vinh quang. Có khổ nhục ngày thứ Sáu Tuần Thánh, mới
rạng rỡ sáng Chúa nhật Phục sinh.
Người kitô hữu
chỉ có thể biến hình đổi dạng khi họ sẵn lòng cùng vác thánh giá lên đồi Canvê
với Đức Kitô.
Người Kitô hữu
chỉ có thể bừng sáng rạng ngời khi họ dám hy sinh bản thân để hiến dâng cho
Thiên Chúa và tha nhân bằng một tình yêu trao ban vô vị lợi.
Chúng ta sẽ nhận
ra khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô khi chúng ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của
anh em.
Chúng ta sẽ minh
họa được khuôn mặt sáng láng của Đức Kitô khi chúng ta luôn mang khuôn mặt vui
tươi, an bình và hạnh phúc.
Người tín hữu
thường nếm vinh quang Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng đón nhận gian nan Núi Sọ lại
rất nhiều. Tuy thế họ vẫn vui tươi và thanh thản, an bình và hạnh phúc? Phải
chăng họ đã cảm nghiệm được khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô trong cuộc đời
mình. Như người lực sĩ điền kinh nhắm chiếc huy chương vàng mà gắng sức về đích
để giành phần thắng, thì người tín hữu Kitô cũng phấn đấu vượt qua những chặng
đường thánh giá cuộc đời, để đạt được phần thưởng vô giá là vinh quang Phục
sinh rạng ngời.
Mùa Chay là mùa
sám hối và canh tân. Sám hối – Canh tân là bỏ đi con người tự mãn tự kiêu để
mặc vào con người nhu mì khiêm tốn, là tháo gỡ khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận
lại khuôn mặt ngời sáng thánh thiện, là tẩy chay tâm địa ích kỷ để đón nhận
tinh thần phục vụ yêu thương.
Nước mắt sám hối
khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi.
Nước mắt sám hối bao giờ cũng có giá trị trong sự tha thứ.
Canh tân là lao
mình về phía trước, trong niềm vui đổi mới. Lúc đó, chúng ta không cần đi tìm
mùa xuân, vì chính chúng ta đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.
21. Phêrô
Qua đoạn Tin mừng
hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về thái độ của Phêrô.
Như chúng ta đã
thấy: trước sự hiện diện của Môisê và Êlia cùng với ánh vinh quang bao phủ,
Phêrô đã vui mừng hớn hở thưa lên:
- Lạy Thày, được
ở đây thì tốt lắm. Nếu Thày muốn, chúng con xin làm ba lều.
Thế nhưng sau đó,
cũng chính Phêrô đã lên tiếng can ngăn Chúa khi Ngài tiên báo về những khổ đau
sẽ phải chịu, để rồi Ngài đã phải nặng lời quở trách:
- Hỡi Satan, hãy
xéo đi, ngươi chỉ biết những việc thuộc về trần thế mà chẳng biết chi những
việc thuộc về Thiên Chúa.
Rồi cũng chính Phêrô
trong sân nhà thày cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần chỉ vì câu hỏi bâng quơ
của một đứa nữ tỳ. Phải chăng thái độ của Phêrô cũng là thái độ của người đời
như tục ngữ đã nói:
- Khi vui thì vỗ
tay vào,
Đến khi hoạn nạn
thì nào thấy ai.
Đúng thế, khi chúng
ta có tiền và có quyền thì cũng thường có nhiều tình. Người xưa đã từng bảo:
- Bần cư chung
thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghèo mà ở ngay giữa phố chợ
thì cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở tận chỗ núi cao rừng thẳm, thì vẫn khối
người tìm đến.
Hay như tục ngữ
cũng nói:
- Thấy người sang
bắt quàng làm họ.
Thế nhưng khi
tiền hết và quyền hết thì tình cũng thường chắp cánh bay cao:
- Hết cơm hết gạo
hết ông tôi.
Không những hết
tình mà đôi khi vào lúc sa cơ thất thế, những kẻ trước kia đã hàm ơn, không
chừng sẽ trở mặt, phản lại chúng ta, giậu đổ bìm leo, để rồi chính chúng ta sẽ
phải âm thầm và cay đắng ghi nhận:
- Thế thái nhân
tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc
bạc như vôi.
Hay lẩm bẩm kêu
trách:
- C'est la vie,
đời là thế.
Tuy nhiên chúng
ta đừng vội trách người cũng như đừng vội trách đời, mà hãy trách chính bản
thân chúng ta trước, bởi vì đó cũng chính là thái độ của chúng ta đối với những
tha nhân và nhất là đối với Thiên Chúa.
Thực vậy, kinh
nghiệm cho hay: Khi gặp được may mắn và hạnh phúc chúng ta dường như cảm thấy
Thiên Chúa thật gần gũi, thật dễ thương, thế nhưng khi gặp phải những gian nguy
thử thách, những đớn đau buồn phiền, chúng ta lại cảm thấy Thiên Chúa thật xa
vời và độc địa như lời thơ cổ:
- Trẻ tạo hóa
đành hanh chi ngán,
Chết đuối người
trên cạn mà chơi.
Rồi từ đó chúng
ta bực bội tức tối và lên tiếng nguyền rủa Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta
chỉ muốn bước theo Chúa lên đỉnh Taborê, chứ không muốn bước theo Chúa lên đỉnh
Canvê. Chúng ta chỉ muốn cắm lều trong vinh quang, chứ không muốn đóng đinh
mình vào thập giá. Chúng ta đã nhìn đau khổ qua cặp kính màu đen tuyệt vọng,
chúng ta kéo lê thập giá chứ không vui vẻ vác lấy và coi thập giá như phương
tiện cứu độ.
Tuy nhiên, chúng
ta phải nhớ rằng:
- Đỉnh Canvê mới
chính là nơi để Chúa Giêsu chu toàn sứ mạng cứu độ của mình, mới chính là nơi
để Ngài gieo mầm phục sinh cho nhân loại.
Là môn đệ của
Chúa chúng ta không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, như lời
Ngài đã nói:
- Ai muốn theo
ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta.
Chúng ta không
dừng lại tại thập giá và khổ đau, nhưng cùng với Đức Kitô tiến vào vinh quang
và phục sinh. Vì thế, mặc dù vai vác thập giá nhưng mắt chúng ta vẫn luôn hướng
tới trời cao. Trời cao, sự sống và hạnh phúc phải là điểm kết thúc cho con
đường thập giá. Những hy sinh chúng ta gặp phải sẽ kết thành cây thập giá đời
thường, nếu chúng ta trung thành vác lấy, cây thập giá đời thường ấy sẽ là con
đường dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
22. Thập
giá
Anh chị em có
biết tại sao khi nghe hai chữ thập giá, chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có
khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ Chúa Giêsu nghe nói đến thập giá
thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì
chúng ta chỉ nhìn thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng
gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ
thập giá gợi lên trong chúng ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ Chúa thì
trái lại, các ông chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc...
và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh
một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng
giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ,
trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình
sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.
Nhưng Chúa Giêsu
không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng, nói thật và
Chúa đòi ai theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: "Ai
muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau
Thầy". Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa, thì Ngài lại nói đến thập giá. Thập giá Chúa nói ở đây như mặt sau
của tấm huân chương. Rồi sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, cho
các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môisê và
Êlia: một vị đã được Chúa dùng để giao ước Sinai, còn vị kia thì được Chúa trao
nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.
Chúng ta có thể
đảo lại thế này: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm cho các ông
run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đằng sau cây thập giá có gì. Cũng vậy,
sau này, trên đường Emmau, chúng ta thấy Chúa quở trách hai môn đệ thất vọng bỏ
đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá:
"Chẳng phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài
sao?".
Nếu ôm lấy cây
thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn.
Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã
nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Đàng sau thập giá là vinh quang mà
chỉ có đức tin mới cho chúng ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá
đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa, chúng ta mới
tới được vinh quang ở phía sau cây thập giá.
Cuộc sống có
những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi
cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa, chát
chúa của khách qua đường. Chúng ta cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng
giữa trời và đất. Chúng ta khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm
thông, nhưng quanh chúng ta chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa, chỉ có
phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy chúng ta mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của
cây thập giá. Có khi chúng ta cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Chúng
ta cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: "Lạy Chúa, nhân
sao Chúa bỏ con...".
Những lúc ấy
chúng ta phải vận dụng sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy
được đằng sau cây thập giá. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đấng đang vác thập giá
đi đằng trước chúng ta, chớ rời mắt xa Ngài. Nhưng chúng ta đừng chờ tới lúc đó
mới nhìn vào Ngài. Chúng ta phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi,
mọi lúc, mọi việc. Chúng ta hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Nếu
chúng ta biết sống với Ngài trong niềm vui, chúng ta cũng biết sống với Ngài
trong nỗi buồn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài khi hạnh phúc, chúng ta cũng
biết sống trong Ngài lúc đau khổ. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong ngày
hội, chúng ta cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn. Nếu chúng ta biết sống trong
Ngài lúc đầy tiền của, chúng ta cũng biết sống trong Ngài khi trắng tay...
Điều chúng ta cần
ghi nhớ là chúng ta đừng mang thập giá một mình. Chúng ta sẽ không bước nổi
đâu, và nếu chúng ta có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được
thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của chúng ta chỉ là cây gỗ chết mà
thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang con
Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống: "Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta
sẽ sống với Ngài".
Như vậy, Chúa
Giêsu hiển dung là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các môn
đệ quá sợ các đau khổ, không chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở
vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để đem lại cho các ông một niềm
tin và một hy vọng vào ngày mai. Do đó, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho
các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang. Chính Thầy của
các ông là Con Thiên Chúa, mà còn phải chịu đau khổ mới bước đến vinh quang thì
các ông cũng phải đi theo con đường đó: không thể đến cõi hằng sống mà không
phải qua đau khổ, thử thách.
Sống ở đời, không
ai trong chúng ta tránh được những đau khổ chúng ta gọi là những thánh giá mà
Chúa muốn chúng ta vác. Dù trong bậc nào vẫn phải vác thánh giá của mình. Ngay
chính lúc này, mỗi người chúng ta đều cảm thấy những lo âu, những buồn phiền,
những khổ đau... Tất cả đều là thánh giá. Nếu biết vác cho nên, với một thái độ
khiêm ngường, với lòng cậy tin, thì Chúa sẽ ở bên chúng ta, và sẽ thưởng công
cho chúng ta. Những công phúc tuy vô hình, chúng ta không trông thấy, nhưng
chúng sẽ là những hạt men, những hạt giống sẽ nở ra trong đời sau và trong thế
hệ con cháu chúng ta.
23. Suy
niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ý nghĩa của
những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển dung là gì?
2. Lời Chúa Cha giới
thiệu về Đức Giêsu: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi
hãy vâng nghe lời Người!». Nội dung của lời giới thiệu này có mấy điểm? Là
những điểm nào?
3. Vâng nghe lời
Đức Giêsu như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi ích gì?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa thị
kiến hiển dung của Đức Giêsu
Đây là một thị
kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải
cho ba môn đệ thấy thần tính của Đức Giêsu. Những gì thấy trong thị kiến đều có
một ý nghĩa thần bí:
– ngọn núi cao:
biểu tượng sự siêu việt, thánh thiện, cao cả, thanh thoát, xa rời thế tục
– chỉ có bốn thầy
trò với nhau: sự mạc khải chỉ biểu lộ cho những người thân thiết nhất, mang
tính riêng tư.
– sự biến hình
đổi dạng: cho thấy một bản chất sâu xa bên trong, một cái gì sẽ được tỏ hiện
trong tương lai. Người thường không thấy được điều ấy, họ chỉ thấy được cái gì
hiện ra bên ngoài trong hiện tại.
– dung nhan chói
lọi như mặt trời: biểu tượng của thần tính, hay thiên tính, đầy vinh quang,
quyền lực.
– y phục trắng tinh
như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn
toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết.
– Môsê và Êlia
hiện ra đàm đạo: đây là hai nhân vật lớn nhất tiêu biểu cho Cựu Ước, hay Giao
Ước cũ. Môsê, nhà làm luật, tượng trưng cho luật pháp, Êlia, ngôn sứ lớn nhất
trong Cựu Ước, đại diện các ngôn sứ. Luật pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là
những thứ biểu trưng và thiêng liêng nhất trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai
người có thế giá nhất đã báo trước sự ra đời của Đức Giêsu. Môsê là tác giả của
bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu của Cựu Ước) đã tiên báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Đnl
18,15-19). Còn Êlia là nhân vật mà Thiên Chúa sai đến như một dấu chứng báo
trước ngày mà chính Thiên Chúa đến trần gian (x. Ml 3,23). Trong thị kiến này,
hai ông biểu tượng cho hai chứng từ sống động nhất làm chứng cho thiên tính của
Đức Giêsu.
– Đám mây sáng
ngời bao phủ cả ba người: tượng trưng cả ba người đều đến từ Thiên Chúa, và
đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh (cũng như trong các
kinh điển của các tôn giáo), đám mây tượng trưng cho mầu nhiệm Thiên Chúa đang
hiện diện: chẳng hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái qua biển đỏ (Xh 13,21-24),
cột mây trước Lều Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay Gia-Vê thường hiện ra với
Môsê trong đám mây (Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,15-16).
– Tiếng phán ra
từ đám mây: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy
vâng nghe lời Người!»: Đây là dấu chứng mạnh nhất, vĩ đại nhất mang tính dứt
khoát cho biết Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, mà mọi người có thể tin tưởng
và vâng phục. Chính Chúa Cha trực tiếp giới thiệu «Con Yêu Dấu» của mình. Còn
lời chứng nào giá trị hơn nữa?
2. Hãy vững tin
vào thiên tính của Đức Giêsu
Qua thị kiến hiển
dung này, Thiên Chúa đã trực tiếp củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín nhất
của Đức Giêsu vào Ngài, và cũng gián tiếp củng cố niềm tin của các môn đệ khác,
và cả chúng ta nữa. Thị kiến này các ông đã mang theo trong tâm trí suốt cuộc
đời như một hành trang quý báu giúp các ông tin vững chắc vào Đức Giêsu là Con
Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế mà mọi người đều trông mong. Nhờ
niềm tin vững chắc này, các ông rao giảng về Đức Giêsu một cách xác tín, và
vượt qua được mọi gian lao thử thách do việc rao giảng ấy. Thánh Phêrô đã nhắc
lại biến cố này như một dấu chứng chắc chắn để mọi người tin vào lời chứng của
mình: «Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm
của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những
chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận
mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha
ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán
với Người: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". Tiếng
đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi
thánh với Người» (2Pr 1,16-18).
Nếu mục đích của
sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các tông đồ vào thiên tính của Đức
Giêsu, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin mỗi người chúng ta. Đức tin
được càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm, chứ không chỉ tuyên xưng
ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Kitô hữu càng thêm sâu sắc và phong phú, càng
làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.
3. «Hãy vâng nghe
lời Người!»
Qua biến cố hiển
dung, Đức Giêsu chẳng những được giới thiệu cho chúng ta. Sự giới thiệu có giá
trị hay không, và giá trị đến mức nào tùy thuộc vào thế giá của người giới
thiệu. Còn ai có thế giá trong tôn giáo cho bằng Môsê và Êlia, và nhất là còn
ai thế giá trong toàn vũ trụ bằng Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ bao la
này. Chúa Cha đã giới thiệu Ngài: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!».
Lời giới thiệu ấy
tuy ngắn ngủi nhưng nội dung rất quan trọng, gồm 3 điểm sau đây:
a) Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa: Đó là một chức vị duy nhất và cao nhất sau Chúa Cha trong toàn
vũ trụ. Ngài là Con duy nhất của một Thiên Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên
Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất
Thiên Chúa của Ngài.
b) Đức Giêsu rất
đẹp lòng Chúa Cha: Một người đẹp lòng Chúa Cha tất nhiên hết sức hoàn hảo,
không một khiếm khuyết nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do
phẩm chất hết sức cao quí của Ngài.
c) Vì thế, Chúa
Cha khuyên chúng ta «hãy vâng nghe lời Người!». Lời khuyên của Thiên Chúa yêu
thương chúng ta vô cùng lại đầy khôn ngoan và quyền năng ắt phải có một giá trị
vô cùng lớn. Không một lời khuyên nào đối với ta có thể khôn ngoan và đem lại
lợi ích cho ta như vậy. Vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Đức Giêsu.
Thánh Phêrô,
người đã chứng kiến việc hiển dung của Đức Giêsu và đã nghe được lời giới thiệu
về Ngài của Chúa Cha, đã phải thốt lên tâm tình của mình: «Thưa Thầy, bỏ Thầy
thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời»
(Ga 6,68). Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận: «Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không
bao giờ phải chết» (Ga 8,51). «Không bao giờ phải chết» ở đây nghĩa là có được
sự sống đời đời.
4. Sự sống đời
đời do vâng nghe lời Đức Giêsu
Lợi ích lớn lao
do việc vâng nghe lời Đức Giêsu chính là có được sự sống đời đời. Sự sống đời
đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm
nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở
đời này, thậm chí «tại đây và lúc này» (hic et nunc) một cách hết sức hiện
sinh. Sự sống ấy đã được Đức Giêsu nói đến trong câu: «Tôi đến để cho chiên
được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện
bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và
hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho
tha nhân không mệt mỏi. Đó là thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ
có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Đó là sự bình an và hạnh phúc vô
biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu
tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
Sự sống đời đời
ấy ta có được là do vâng nghe lời Đức Giêsu, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời,
quan niệm mọi sự như Đức Giêsu đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói
năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự
sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh
hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được «hạt giống sự sống đời đời» ở đời
này do việc vâng nghe lời Đức Giêsu, ta mới có được «cây sự sống đời đời» ấy ở
đời sau (x. Kh 22,2.14.19).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã
giới thiệu Đức Giêsu cho con, đã khuyên con hãy vâng nghe lời Ngài. Con biết:
sự sống đời đời – là điều con ao ước nhất và có khả năng làm thỏa mãn con nhất
– con có thể tìm được nhờ vâng nghe lời Ngài một cách triệt để và sâu xa. Xin
Cha giúp con thực hiện được điều ấy. Amen.
24. Chú
giải của Noel Quession
Mỗi năm, ngay sau
chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta
suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình.
Chúa nhật trước,
chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người
khiêm tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường.
Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của
Người.
Ba sách Tin Mừng
nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban
đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc
nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu
lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi
muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả "tầng lớp
trí thức" tôn giáo thời Người lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý
tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người
và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1;
16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức
Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai
nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền
Palestine.
Ở đó tình hình từ
nay đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền
Xêdarê Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy
Phêrô tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu
nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử,
và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu
khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng
vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: "Bởi vì
Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh quang của Con
Người..." (Mt 16,27-28). Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng
chúng ta sắp đọc, xảy đến.
Sáu ngày sau. Đức
Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người
đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng
tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con
đường núi. Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí
trở nên tươi tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa.
Ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được
Thiên Chúa trong chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để
sống cô liêu, trong mùa Chay này?
Nhưng chúng ta
cũng biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi
hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly
của Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được
tái hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi
đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6);
chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh
quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ.
Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các
nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá
hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?
Rồi Người biến
đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y
phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Matthêu, hơn hai
tác giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp
nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng
(Xh 34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh
có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa... Động từ Hy Lạp được Matthêu
sử dụng ở đây, "metamorphoun" có nghĩa chữ là "biến dạng";
đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu
hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà
Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: "Ngài khi ấy ở trong hình
dạng Thiên Chúa,... đã lấy hình dạng con người đầy tớ... (Pl 2,6-7). Nhưng làm
thế nào nói được những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng phải dùng
thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.
Và bỗng các ông
thấy ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.
Từ muôn thuở,
người đã lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại
chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với "hủy dạng" của
Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã
cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho
họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ mình của Người.
Bấy giờ ông Phêrô
thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn,
con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông
Êlia.
Phêrô, là người
mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng
đức tin của mình, lên tiếng và nói "tôi" đầy quả quyết, hăng hái,
quảng đại, ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt
của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ... Môsê là
người đã khởi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở
về để chuẩn bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt
17,10-13).
Hoàn toàn vui
mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh
phúc này và có thể nói là cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang
này: "Tôi sẽ dựng nhiều lều...". Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có
thể bắt được hạnh phúc và cố định nó lại!
Ông còn đang nói,
chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.
Đám mây này, biểu
tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt
ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa;
mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc
nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che.
Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng
minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một
cảnh tượng. Động từ 'lấy bóng mình bao phủ' bằng tiếng Hy Lạp
"Episkiazô", chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và
vào ngày lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35).
Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất
"shékinah", nghĩa là "nhà ở", "Hiện Diện" của
Thiên Chúa.
Và có tiếng từ
đám mây phán rằng: "Đây là con yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi
hãy vâng nghe lời Người!".
Cái từ 'Đây là',
bề ngoài có vẻ không quan trọng. "Đây là" chính nó cũng mang đầy ý
nghĩa. Trong chuyện kể nó được lặp lại ba lần: "đây là một sự hiện ra...
đây là một đám mây... đây là một tiếng nói...". Trong Kinh Thánh, đó là
dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là
thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm gì cả.
Tiếng của Thiên
Chúa này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn
"hơn" cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã
được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ
của Người... bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.
Lạy Chúa, trong
thời gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa,
với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ
điệp quan trọng cho chúng con.
Nghe vậy các môn
đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và
bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.
Trong khi gục mặt
xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở
trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước
một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành
vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo
dựng để thu mình lại với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo
dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực
hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang
hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải
chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa,
mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần,
đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ
cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.
Các ông ngước mắt
lên, không thấy ai nữa chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ
trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến
ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy".
Sách kinh lễ
không dám dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng
một từ Hy Lạp "Egeirein", "vực dậy", để nói rằng Đức Giêsu
đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì
đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất... mà để làm cho con người
sống lại. Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi
lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống
những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những bách hại.
"Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông
nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một
lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một trạm dừng lại để được tưới mát trên
núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng ta, với
kỷ niệm...
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét