Thứ Năm, 13 tháng 6, 2013

BÀI GIẢNG CN XI TN - MỪNG LỄ THÁNH ANTÔN 13/06/2013

BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT XI TN C  - MỪNG LỄ THÁNH ANTÔN VÀ HÔN XƯƠNG THÁNH ANTÔN HAY LÀM PHÉP LẠ


               CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: 2Sm 12, 7-10.13; Gl 2, 16.19-21; Lc 7,36 – 8,3
MỤC LỤC
1. Lòng Chúa xót thương
2. Lòng Chúa xót thương
3. Yêu nhiều tha nhiều – Thiên Phúc 
4. Tình yêu cứu độ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 
5. Hãy sám hối ăn năn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền 
6. Sự thất bại lớn của Simon – André Sève 
7. Tình yêu tăng giá trị con người - Achille Degeest 
8. Thiên Chúa khuyến dụ ta yêu mến Ngài
9. Suy niệm của Lm. Văn Quy 
10. Yêu nhiều, yêu ít – Lm ViKiNi 
11. Suy niệm của Lm. Duy Ân Mai 
12. Lòng Chúa xót thương
13. Kẻ đột nhập vào bữa tiệc - McCarthy 
14. Tình thương và tha thứ 
15. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin 
16. Chú giải của Noel Quesson 
17. Chú giải của R. Gutzwiller 
18. Yêu nhiều tha nhiều, yêu ít tha ít - William Barclay 

1. Lòng Chúa xót thương.
Sự kiện mà đoạn Tin Mừng sáng nay vừa kể lại sẽ được ghi nhớ mãi mãi và chẳng bao giờ bị chìm vào quên lãng. Bởi vì nó là một đề tài cho những người đạo đức giả phản đối, nhưng lại là niềm vui mừng cho những tâm hồn tội lỗi.
Hôm đó một ông biệt phái mời Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà mình và Chúa Giêsu đã chấp nhận lời mời ấy. Đang khi dùng bữa, thì Madalena, một thiếu phụ tội lỗi, nổi tiếng ở trong thành. Nàng bước vào với một bình dầu thơm trên tay. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía nàng. Người ta chờ xem nàng sẽ làm những gì. Bất chấp những cái nhìn soi mói, nàng quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu, khóc lóc cho quãng đời dĩ vãng. Rồi đổ thứ thuốc thơm xức chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau.
Trước sự việc bất ngờ ấy, chắc hẳn nhiều người đã thoáng có ý tưởng khinh bỉ và chỉ trích. Nhưng Phúc Âm chỉ chú trọng tới lập trường của ông biệt phái. Ông thầm nghĩ rằng: Nếu Chúa Giêsu là một vị tiên tri hẳn phải biết người đang quỳ dưới chân mình chỉ là một kẻ tội lỗi và sẽ không chấp nhận những biểu lộ như thế. Thế nhưng Chúa Giêsu đã thấu suốt những ý nghĩ thầm kín của ông ta. Ngài muốn cho ông ta hiểu được giá trị của những hành động ấy, cũng như tỏ cho ông ta thấy lòng thương xót vô bờ của Ngài. Ngài bắt đầu bàng câu chuyện về hai con nợ. Một mắc nợ nhiều và một mắc nợ ít, rốt cuộc cả hai đều được tha thứ, thì lý đương nhiên kẻ được tha thứ nhiều thì sẽ yêu mến ông chủ nhiều hơn. Từ đó Chúa Giêsu đã đi tới kết luận: Tôi nói cho ông hay: tội lỗi của nàng tuy nhiều nhưng đã được tha thứ hết bởi vì nàng đã yêu mến nhiều.
Từ câu chuyện trên, tôi muốn đi tới một nhận định như thế này: Làm cho kẻ chết sống lại là một phép lạ vĩ đại, cũng thế, làm cho kẻ tội lỗi ăn năn là một phép lạ vĩ đại không kém. Ngày nay Chúa vẫn còn tác động và lôi kéo biết bao nhiêu tâm hồn như Madalena thuở trước. Từ chỗ bùn nhơ tội lỗi đã trở nên những người con yêu dấu. Một khi đã hoán cải cuộc đời và mặc lấy một cuộc sống mới, họ sẽ dấn thân, không một chút nề hà để phục vụ cho Thiên Chúa.
Thế nhưng để phép lạ ấy được thực hiện nơi bản thân chúng ta thì điều kiện chúng ta cần phải có đó là khiêm nhường và yêu mến. Khiêm nhường nhận ra thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình. Yêu mến để được tha thứ và được tẩy sạch mọi dấu vết của tội lỗi, cũng để có được nghị lực sống đời sống mới. Như Madalena, chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, để nhờ đó giục lòng sám hối ăn năn, thú nhận tội lỗi hầu lãnh nhận ơn Chúa thứ tha.
2. Lòng Chúa xót thương.
Mađalêna là một thiếu phụ tội lỗi. Chắc hẳn nàng đã có một dĩ vãng bê bối, khiến cho mọi người, một khi biết tiếng, đều phải tránh xa, như tránh một cơn bệnh truyền nhiễm. Thế nhưng, kể từ ngày được nghe Chúa giảng dạy, nàng đã quyết tâm ăn năn sám hối và làm lại cuộc đời.
Hôm đó, được tin Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông Simon biệt phái, bất chấp mọi con mắt dòm ngó và mọi miệng lưỡi chê bai, nàng đã tới, đổ thuốc thơm xức chân Ngài, rồi lấy tóc mình mà lau, để biểu lộ tấm lòng tan nát khiêm cung.
Rồi sau đó một thời gian, trong cuộc thương khó đang khi các môn đệ bỏ Chúa mà chạy trốn, thì nàng vẫn can đảm đứng dưới chân cây thập giá và lo toan việc chôn cất Ngài. Chính vì thế, nàng là người đầu tiên có diễm phúc được Chúa hiện ra sau khi sống lại và được Chúa sai đi loan báo tin mừng Phục sinh cho các môn đệ khác.
Từ hình ảnh và việc làm của Mađalêna, chúng ta đi vào cuộc sống riêng tư. Thực vậy, con người tự bản chất vốn đã là như một chiếc bình sành có thể rơi vỡ bất kỳ lúc nào. Và thực tế cho thấy nhiều người trong chúng ta cũng đã từng sa ngã, vấp phạm nặng nề, chẳng hạn như Mađalêna, như Phêrô, như Augustinô...Thế nhưng, điều quan trọng đó là chúng ta phải biết tin tưởng vào lòng Chúa xót thương, để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và quay trở về với Ngài. Hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa đã phán:
- Không phải người khoẻ mạnh, mà là những kẻ yếu đuối mới cần tới thầy thuốc...Ta đến không phải để tìm kiếm người công chính, nhưng đến để tìm kiếm kẻ tội lỗi...Một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Cũng như ngày hôm nay, Ngài đã xác quyết với ông Simon biệt phái:
- Tội của nàng tuy nhiều, nhưng đã được tha thứ hết, bởi vì nàng đã yêu mến nhiều.
Với chúng ta cũng thế. Việc thứ nhất chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy dứt khoát với tội lỗi.
Như chúng ta đã biết: Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và tốt lành vô cùng, còn tội lỗi thì xấu xa gớm ghiếc. Vì thế, Thiên Chúa và tội lỗi không thể nào đội trời chung với nhau, không thể nào cùng nhau sánh bước đi chung một con đường. Do đó, chúng ta cũng không được phép có thế đứng trung lập, hay có thái độ lửng lơ con cá vàng, nhung phải dứt khoát chọn Chúa hay chọn tội lỗi, thuộc hẳn về Chúa hay thuộc hẳn về tội lỗi, như một câu danh ngôn:
- Sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước uốn trôi.
Vì thế, muốn trở về cùng Chúa, thì lý đương nhiên chúng ta phải dứt khoát với tội lỗi. Sự dứt khoát này chính là bước chân đầu tiên trên nẻo đường tìm về với Chúa.
Tiếp đến, việc thứ hai chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy yêu mến Chúa.
Đúng thế, mến Chúa như Mađalêna, đã bất chấp mọi sự dòm ngó và soi mói. Mến Chúa như Phaolô, đã dấn thân một cách trọn vẹn cho những hoạt động tông đồ, truyền bá Phúc âm, để chứng tỏ cho mọi người thấy: Dù thiên đàng hay hoả ngục, dù sự sống hay sự chết, dù hiện tại hay tương lai, dù bất cứ tạo vật nào cũng không thể tách biệt ngài ra khỏi lòng mến Đức Kitô.
Mức độ được tha thứ lệ thuộc trực tiếp vào lòng yêu mến của chúng ta. Càng yêu mến nhiều, thì càng được tha thứ nhiều. Hay như lời thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quod vis, nghĩa là hãy yêu mến rồi mốn làm chi cũng được.
Bởi vì mọi hành động xuất phát từ lòng yêu mến chân thành, đều có được một giá trị thiêng liêng to lớn trước mặt Thiên Chúa.

3. Yêu nhiều tha nhiều – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Thánh Phanxicô Salêsiô giám mục có người giúp việc bê tha rượu chè. Một đêm kia, anh ta say mèm. Mọi người trong nhà đã ngủ hết, chỉ còn một mình thánh nhân thức khuya đọc sách. Chính người đã dìu anh về giường và lấy mền đắp cho anh, rồi sáng hôm sau mới nói cho anh biết lỗi.
Thánh nhân nói: "Giả sử lúc anh đang say, sẩy chân ngã xuống giếng thì sao? Hoặc lỡ bị gió độc mà chết thì sẽ thế nào? Linh hồn ở đâu bây giờ?". Nghe vậy, anh ta hối hận, xin tha thứ và trước mặt người, anh xin cam đoan sẽ không còn uống một giọt rượu nào nữa. Nhưng người bảo anh: "Đừng chừa vội quá như thế!".
Từ đó, anh ta xin nhận thánh nhân làm cha giải tội riêng cho mình và dần dần, đã biết chừa hẳn tội cũ, sống rất đạo hạnh tử tế.
"Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít" (Lc 7,47). Người phụ nữ tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay không khác chi người giúp việc nát rượu của thánh Phanxicô trong câu chuyện trên đây. Họ đều là những người yếu đuối lầm lỡ trong tội, nhưng đã được Đức Giêsu cũng như thánh Phanxicô bao dung tha thứ, nên họ đã mau mắn đáp lại tình yêu, để rồi cuộc đời của họ bắt đầu từ nay được đổi mới.
Medaleine Danielou đã viết: "Tha thứ thật sự là hành động thần linh mà chúng ta chỉ học được từ nơi Thiên Chúa". Vâng, có thể nói: "Lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A. Pope). Nhưng người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi đã có lòng tin: tin nơi Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, tin rằng Người sẵn sàng tha thứ và sẽ còn tha thứ mãi. Chúa phán: "Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an" (Lc 7,50). Chính lòng tin đã đem lại ơn tha thứ, và ơn tha thứ đã làm đổi mới tội nhân, để họ mãi bước đi trong bình an.
Tuy nhiên, tình yêu và lòng tin của chúng ta cần phải được biểu lộ cách cụ thể qua lòng sám hối, vì sám hối tức là nhận mình có lầm lỗi, và chỉ có những ai nhận mình lầm lỗi mới được Thiên Chúa thứ tha. Vì thế mà Thomas Carlyle đã nói một câu bất hủ: "Không nhận ra lầm lỗi là lỗi lớn nhất trong mọi lỗi lầm". Quả thật, nếu ai cho mình không có tội thì đâu cần Thiên Chúa thứ tha. Nhưng Thánh Gioan lại nói rằng: "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1Ga 1,8)
Lạy Chúa, sa ngã trong tội là bản chất của con người, nhưng ở lại trong tội lại là quỷ sứ.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình, và mau mắn chân thành sám hối, để được Chúa tha thứ và ban cho ơn bình an. Amen.

4. Tình yêu cứu độ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bữa tiệc hôm nay diễn ra trong một khung cảnh đầy mâu thuẫn. Một bên là căn nhà sang trọng của thủ lĩnh biệt phái, một bên là Chúa Giêsu ăn mặc đơn sơ trong bộ quần áo của dân nghèo. Một bên là ông Simon người được coi là đạo cao đức trọng, một bên là người phụ nữ bị coi là đại tội nhân. Một bên là mâm cao cỗ đầy, mọi người vui tươi ănuống, một bên là người phụ nữ quì mọp sát đất, không dám ngẩng mặt lên, gục đầu khóc lóc. Chính trong khung cảnh đầy mâu thuẫn, trái ngược ấy, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu thương bao la của Người.
Đó là tình yêu bao dung chấp nhận mọi người. Chúa chấp nhận ông Simon dù Chúa không ưa lối sống của ông và của những người biệt phái, vì họ tự tôn cho rằng mình đạo đức mà khinh miệt những người khác. Hơn nữa, lối sống đạo của họ chỉ là hình thức giả dối bề ngoài. Thế nhưng Chúa vẫn chấp nhận ông, chấp nhận lời mời của ông, đến dự tiệc với ông, ngồi đồng bàn với ông, chia sẻ món ăn và câu chuyện với ông. Không chỉ chấp nhận ông Simon, Chúa còn chấp nhận người phụ nữ bị coi là tội lỗi công khai. Chị vào nhà trong ánh mắt khinh thị của mọi người. Nhưng Chúa vẫn điềm nhiên để chị khóc ướt chân mình. Chúa đã để chị hôn chân mình. Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình. Chúa đã để chị xức dầu tràn đầy trên chân mình. Còn hơn thế nữa, Chúa lên tiếng công khai bênh vực chị. Nếu Chúa công khai bày tỏ thịnh tình với ông Simon khi đến nhà ông dự tiệc thì Chúa cũng công khai bày tỏ thịnh tình với người phụ nữ khi lên tiếng bênh vực chị. Chúa chấp nhận tất cả mọi người.
Đó là tình yêu bao dung tha thứ mọi tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ tội lỗi là thái độ bao dung tha thứ. Chúa để cho chị vào nhà. Hơn thế nữa, Chúa để cho chị gục đầu vào chân Chúa, khóc ướt chân Chúa, lấy tóc lau chân Chúa và xức dầu thơm lên chân Chúa. Chị làm điều ấy ở nơi kín đáo còn đỡ gây chống đối, đằng này chị làm điều ấy công khai trước mắt mọi người, mà lại là những người ghen ghét, chống đối và kết án chị. Aùnh mắt và thái độ của những người chung quanh, đặc biệt là của ông Simon không lọt ngoài tầm mắt Chúa. Nhưng Chúa vẫn để chị làm những gì biểu lộ lòng thống hối, lòng yêu mến của Chị. Sau đó Chúa còn công khai lên tiếng ca ngợi tình yêu và niềm tin của Chị và công khai tha thứ cho chị.
Đó là tình yêu bao dung hoán cải. Chúa không ưa thói hợm hĩnh, giả hình của người biệt phái. Nhưng Chúa vẫn tìm cách hoán cải họ. Vì thế hôm nay Chúa nhận lời đến nhà ông Simon dự tiệc. Thấy thái độ của ông đối với người phụ nữ và những ý nghĩ thầm kín của ông phê phán Chúa, Chúa không để ông trong lầm lạc, nhưng đã lên tiếng giải thích cho ông hiểu những điều then chốt trong đời sống đạo và những gì có giá trị thực sự trước mặt Chúa. Chúa phải tốn công giải thích cặn kẽ vì Chúa yêu thương ông, muốn ông hiểu và hoán cải tâm hồn.
Đó là tình yêu ban ơn cứu độ. Tất cả những gì Chúa làm là mong đem ơn cứu độ cho loài người, cho tất cả mọi người không loại trừ một ai. Chúa muốn cứu độ cả ông Simon là người tưởng lầm mình đạo đức nhưng chỉ là đạo đức bên ngoài. Chúa muốn cứu độ cả người phụ nữ bị mang tiếng tội lỗi, bị mọi người khinh miệt, loại trừ. Tình yêu của Chúa không phải là thứ cảm tính nhất thời, đem đến an ủi nhất thời. Đó là tình yêu đem đến ơn cứu độ, đem đến hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu cho con người.
Lạy Chúa, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Lạy Chúa, xin cứu độ con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thường xét đoán và khinh miệt, loại trừ người khác như ông Simon biệt phái không?
2- Bạn có thái độ khiêm nhường thống hối, tha thiết yêu mến như người phụ nữ tội lỗi không?
3- Chúa Giêsu nêu gương gì cho bạn trong cách đối xử với mọi người, người tội lỗi cũng như người tự xưng mình công chính?
4- Khi yêu thương người khác, bạn có dẫn người khác đến ơn cứu độ không?

5. Hãy sám hối ăn năn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Trong tiểu thuyết "Giường đàn bà" đã kể lại những cuộc tình bị đồng tiền làm hoen ố. Tình yêu chỉ là một món hàng mà người có tiền hay không có tiền đều dùng nó để mua bán trao đổi. Câu chuyện xoay quanh các nhân vật: Mạch - một phóng viên trẻ, đang học đại học, là nhân tình của một tổng biên tập giàu có và đa tình - người trả tiền nhà và đóng học phí cho cô.
Sau khi tan vỡ mong ước được làm mẹ do người tình một mực đòi cô phá thai, cuộc sống tinh thần của Mạch bị đảo lộn. Cô quyết định trả thù người tình bằng cách cặp với Bob - một nhà văn nghèo đang tìm kiếm vốn tài trợ cho bộ phim mà anh chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết của mình.
Tình yêu khó khăn giữa Mạch và Bob vừa nhen nhóm đã bị những giá trị vật chất trong cuộc sống lấn lướt và dập tắt. Bob phải ngủ với bà Thẩm Xán - một chủ doanh nghiệp giàu sang để hòng moi tiền đầu tư làm phim. Mạch bị sự giàu sang và phong trần của giám đốc đẹp trai Trần Tả - chồng của Thẩm Xán - quyến rũ. Bob chấp nhận cầm tiền của Trần Tả để bỏ rơi Mạch. Mạch bị Thẩm Xán đánh ghen tới trụy thai...
Tiểu thuyết hé lộ một phần sự thật về cuộc sống tàn nhẫn ở các thành phố lớn, hiện đại - nơi giá trị vật chất chiến thắng giá trị đạo đức và con người không vượt qua nổi chính mình. Đồng tiền trôi nổi cũng kéo theo phận người nổi trôi đầy sóng gió nghi nan. Con người lao vào vòng xoáy của vật chất đến vong thân chính mình. Con người đã quên mất mục đích sống của mình nên cũng đánh mất phẩm giá làm người của mình.
Nhân loại hôm nay dường như người ta chỉ cần tiền và bằng mọi cách kiếm ra tiền. Vì tiền mà người ta bỏ ra ngoài tất cả những giá trị đạo đức, tình yêu, lòng chung thuỷ...; Cuộc sống nếu đề cao đồng tiền lên trên mọi thứ luân lý, đạo đức thì đó là một xã hội suy đồi, nơi đó con người khó mà có những giây phút hạnh phúc đích thực, mà chỉ là những hạnh phúc giả tạo, mong manh dễ tan vỡ mà thôi.
Điều đáng tiếc cho xã hội hội hôm nay là người ta mất ý thức về tội. Người ta đề cao tự do đến nỗi luôn làm theo ý mình mà gạt bỏ lề lật của Chúa hay những luân thường đạo lý. Người ta luôn dùng mục đích để biện minh cho phương tiện, cho dù đó là phương tiện xấu xa, đê tiện. Có biết bao cô gái trẻ bán thân vì lý do để lấy tiền trang trải cho gia đình, hay cho việc học bản thân. Có biết bao người ngoại tình vì để đền ơn cho kẻ giúp đỡ thi ân. Có biết bao người phá thai vì đông con, vì nghèo đói...; Có phải vì nghèo đói để rồi mình có thể làm tất cả mọi chuyện cho dù đó là những chuyện phi nhân thất đức hay không? Có phải vì tiền mà mình có thể loại bỏ luân thường đạo lý hay không? Cuộc sống nếu không còn những giá trị đạo đức sẽ là một bể khổ đối với con người. Vì con người luôn phải đối đầu với biết bao con người xấu, với biết bao tệ nạn xấu. Xã hội loài người sẽ hỗn loạn nếu con người đặt vật chất lên trên mọi giá trị tinh thần. Nếu con người đề cao vật chất thì người ta sẽ dễ dàng chà đạp lên nhau chỉ vì một chút vật chất tầm thường mau qua.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một tấm lòng sám hối chân thành như Đa-vít, hay như người phụ nữ tội lỗi đã khóc dưới chân Chúa và lấy tóc mà lau chân Chúa. Họ đều là những con người có quá khứ tội lỗi. Họ đều mang thân phận yếu đuối của con người. Họ đã phạm tội nhưng họ đã biết trỗi dậy. Cuộc đời họ đã ngụp lặn trong biết bao đam mê lầm lạc nhưng lương tâm luôn làm họ cắn rứt. Họ đã từng chọn những phù phiếm trần gian hơn là những giá trị đạo đức. Thế nhưng, họ không có bình an tâm hồn khi sống xa luật Chúa để lao vào những chuyện phi nhân thất đức. Họ đã trở về với lòng sám hối chân thành. Đa-vít đã mặc áo nhặm để sám hối ăn năn. Người phụ nữ đã quyết tâm đập bể bình ngọc như phá bỏ những hào nhoáng, phù phiếm mau qua. Họ đã nhận ra giá trị đích thực của con người là biết làm chủ chính mình, biết giữ được phẩm giá làm người của mình. Một con người có lý trí để biết đâu là thiện là ác, có ý chi để hướng dẫn hành vi mình đi theo lẽ phải. Giá trị của con người là biết làm chủ bản thân để sống đúng với phẩm giá làm người, với luân thường đạo lý. Nếu con người không còn khả năng làm chủ bản thân để đi theo lề luật thì con người đâu hơn loài vật. Nếu con người sống chỉ biết tranh giành nhau danh lợi thú trần gian thì con người đang tự đầy đoạ mình trong khổ ải trần gian.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Ước gì mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng nói sự thật như Đa-vít để thật lòng ăn năn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót xin giúp sức để chúng ta can đảm sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

6. Sự thất bại lớn của Simon – André Sève
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Nói chung, chúng ta quan tâm đến người phụ nữ tội lỗi làm cho xúc động hơn là quan tâm đến Simon, người biệt phái. Nhưng có thể chúng ta là những Simon.
Simon đã mời ông thầy trẻ này đến nhà để kiểm tra: có phải ông Giêsu đây thực sự là tiên tri hay chăng? Ông hết sức lầm lẫn bởi vì ông nghĩ Chúa Giêsu sẽ phản ứng như ông, như tất cả những người tốt ngay khi họ nhìn thấy người phụ nữ này vào: phải đuổi chị ta ra! Bởi vì cái người gọi là tiên tri này tiếp đón chị và để cho chị đến gần chẳng phải là tiên tri gì cả. Ông ta không có khả năng thấy rõ chị là ai.
Không bao lâu sau ông Simon đáng thương này chỉ nghĩ rằng Chúa Giêsu biết rõ Ngài phải đụng độ với ai nhưng vẫn tiếp đón người phụ nữ bị khinh miệt. Đối với ông, người biệt phái, công việc đã được sắp xếp rồi. Đáng lẽ ra, ông đã có cuộc gặp gỡ lớn trong cuộc đời thế mà ông tránh qua một bên.
Tại sao có sự thất bại này? Bởi vì ông tin rằng mình công bằng. Ở trong sự công bằng này, ông đã tạo ra một Thiên Chúa công bằng, một Thiên Chúa là Đấng lên án, Đấng phải lên án những kẻ tội lỗi. Một gái điếm là một gái điếm. Ông không thể nghĩ rằng Thiên Chúa nhìn chúng ta không phải với một sự công bằng kiểu biệt phái, mà là với một sự công bằng rất yêu thương. Ông sắp sửa khám phá ra sự công bằng này trong khi nhìn Chúa Giêsu, nhưng ông nhìn tồi bởi vì tấm lòng của ông chai đá. Phải có một tấm lòng yêu thương để nhận biết Chúa Giêsu và chấp nhận vị Thiên Chúa mà Ngài vừa mặc khải: "Ai yêu thương thì nhận biết Thiên Chúa" (1Ga 4,7). Đó là cơ may của cô gái điếm, chị sẵn sàng yêu thương, chị sắp thành công trong cuộc gặp gỡ.
Do đó, để gặp Chúa Giêsu, có cần phải là một đại tội nhân hoặc cố ý không thấy tội lỗi? Chắc chắn là không. Nhưng phải có một tấm lòng cởi mở, không khô khan và đóng kín như Simon.
Người phụ nữ tội lỗi có tấm lòng này và Chúa Giêsu có thể biến đổi chị hoàn toàn nhờ sự tha thứ. Chị cảm thấy rằng Chúa Giêsu có quyền tha thứ bởi vì chính chị sẵn sàng để được tha thứ và sẵn sàng yêu thương ngàn lần hơn vì đã được tha thứ như thế.
Có quyền tha thứ! Toàn bộ trần thuật này hướng lên sự kinh ngạc cuối cùng: "Ông này là ai mà tha được tội?", những khách mời tự hỏi, Simon hẳn cũng tự hỏi điều đó, ông còn có cơ may, nhưng trần thuật này ngưng lại ở đó và để cho chúng ta nghĩ rằng người biệt phái này trăm phần khép kín với bao điều bất ngờ. Cuối cùng ông đành tiếp đón một tiên tri rất xứng hợp, chứ không phải con người hay làm hoang mang và đòi hỏi quá đáng này.
Dầu sao thì Simon cũng thông minh. Chúa Giêsu nói với ông không phải không có tính cách châm biếm: "Ông đoán đúng!" Nhưng nghĩ rằng mình không có tội, ông không chờ đợi Đấng Cứu Thế, chúng ta là Simon khi chúng ta mất đi cảm tưởng mình là người tội lỗi. Không còn nhìn thấy đủ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế của chúng ta, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ngài có nguy cơ ở hời hợt trên bề mặt cuộc sống của chúng ta và trên bề mặt của sự tha thứ của Ngài. Một sự thất bại.

7. Tình yêu tăng giá trị con người - Achille Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Những nhà nghiên cứu Kinh Thánh nhận diện người đàn bà tội lỗi nói đến trong đoạn Phúc Âm hôm nay là Maria người xứ Magđala, hoặc Maria người xứ Bêtania, hay một phụ nữ nào đó tên tuổi không thấy ghi lại. Ở đây chi tiết đó không đáng kể. Bài tường thuật đúng là một trang tuyệt bút, đáng cho người ta không dám phụ thêm chú giải. Chúng ta hãy theo mấy gợi ý của bản văn để suy niệm:
1) Đức Giêsu đặt con người -như người đàn bà tội lỗi hay Simon người biệt phái chẳng hạn- vào vị trí đối diện với Thiên Chúa chứ không đối diện xã hội. Simon người biệt phái thuộc giới trưởng giả Do thái. Giới này có lý để coi trọng sự tuân thủ lề luật, nhưng họ bị cám dỗ trở nên cực đoan, khai trừ những kẻ nào (kể cả đàn bà) không theo những nghi thức, không giữ những cấm kỵ, tóm lại không sống như họ. Giới ấy có lý khi đề cao giới luật, nhưng vô lý khi trục xuất kẻ vô tội. Đức Giêsu can thiệp, đặt kẻ "công chính" chung với kẻ tội lỗi cùng một "chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa". Lúc đó viễn ảnh hiện ra rất rõ. Kẻ công chính phải dung hoà sự tuân giữ giới luật với lòng thương yêu tha nhân, bởi lẽ giới luật được Thiên Chúa ban hành vì thương yêu nhân loại –kẻ có tội có lý để tin vào tình yêu đại lượng tha thứ, nhưng tình yêu ấy nhắc nhở phải tuân giữ giới luật. Tưởng tượng rằng người phụ nữ tội lỗi được tha thứ vô điều kiện, không bị cảnh cáo phải trở lại trật tự, một trật tự của tình yêu đem bình an cho tâm hồn- nghĩ như vậy là theo chủ nghĩa lãng mạn xấu. Đức Giêsu tha tội, nghĩa là cho người ấy đi vào sự bình an của một đời sống được thanh tẩy, được sắp đặt lại. Bình an ở đây không phải là thứ yên ổn bé nhỏ của một trật tự xã hội nào đó, dù cho là của giới trưởng giả, bình an là hệ quả một sự tổ chức lại nếp sống trước mặt Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, con người phô bày rõ chân tướng tốt xấu, không thêm bớt.
2) Đức Giêsu nhắc nhở rằng giới luật chỉ có giá trị nếu người ta coi là lệnh truyền phải tuân theo, là biểu hiệu sống động của một Ý Muốn yêu thương. Giới luật Thiên Chúa là gì? Thiên Chúa muốn cho chúng ta thành đạt, chính Người chỉ vẽ cho chúng ta phương pháp thành đạt. Giới luật Thiên Chúa biểu hiện cho tình yêu của Người. Không hề tỏ uy quyền với con cái là không thương yêu chúng. Thiên Chúa thương yêu chúng ta, cho nên Người tỏ uy quyền lẫn tình thương, vừa ân vừa uy, chúng ta gọi những lời răn bảo vì thương yêu của Thiên Chúa là giới luật. Giới luật tôn trọng quyền tự do của chúng ta, lại vừa giúp chúng ta phát huy bản thể, dẫn chúng ta đi vào con đường hạnh phúc. Nếu chúng ta quên mất khối lượng tình yêu sống động hàm chứa trong giới luật, giới luật sẽ trở nên vô nghĩa lý.
3) Đức Giêsu vượt lên trên danh hiệu 'cách mạng' hoặc 'bảo thủ', Chúa làm cho con người lại có được giá trị. Một số người có xu hướng muốn kéo những điều gì vượt khỏi họ xuống tầm cỡ thấp kém của họ. Họ muốn thu hẹp sứ mạng Đức Giêsu vào phạm vi xã hội học, muốn xem Chúa như một người làm cách mạng hoặc một người bảo thủ. Thật ra, Chúa đặt quan hệ nhân bản giữa Chúa và người đàn bà tội lỗi hoặc người biệt phái Simon, Chúa đưa họ lên ngang tầm quan hệ thần thánh giữa người và Thiên Chúa. Xử sự lịch thiệp khi nhận lời mời của người biệt phái tỏ lòng từ bi đại lượng khi nhận bình dầu thơm của người đàn bà ăn năn sám hối, tại sao vậy? Chúa làm thế để mặc khải cho hai người ấy bằng những lời nói khác nhau rằng, bên trên cuộc đời họ có một tình thương. Tình yêu thương của Thiên Chúa trên mỗi con người làm tăng giá trị bản thể người ấy, biến đổi thành một con người được thánh hoá phải được tôn trọng.

8. Thiên Chúa khuyến dụ ta yêu mến Ngài.
(Trích dẫn từ 'Giảng Lễ Chúa Nhật' – Charles E. Miller)
Thiên Chúa thật sự trông như thế nào? Ngài có phải quá xa xôi, mơ hồ, không dễ gì tiếp cận và rất khác biệt với chúng ta và thế giới này? Liệu Ngài có quan tâm đến nhân loại hay những gì xảy đến với chúng ta? Làm sao có thể biết Thiên Chúa trông như thế nào?
Giáo Hội quả quyết rằng ta phải thấy sự mạc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, bởi lẽ Người là Thánh Tử của Thiên Chúa, là hình ảnh toàn hảo của Chúa Cha và giống Ngài. Đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống trần gian, mặc lấy xác thịt phàm nhân giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Với nhân tính của Người, Chúa Giêsu giống như một bảng thiết kế, một chương trình mang lấy thịt và máu. Chúng ta biết Thiên Chúa trông như thế nào bằng cách nhìn vào con người Chúa Giêsu.
Gặp Chúa Giêsu trong Phúc Âm và nghe lời Người dạy, ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng hết lòng yêu thương nhân loại: Ngài sai Con Một đi tìm con chiên lạc (x. Mt 18,12-14), và mừng đón ta như người cha nhân hậu chạy ra ôm lấy đứa con hư hỏng nay biết ăn năn hối cải trở về (x. Lc 15,11-32). Chúng ta cũng biết trong cơn hấp hối, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho họ" (Lc 23,34). Chưa hết, Người còn bào chữa cho những kẻ đã đóng đinh Người, "vì họ không biết việc họ làm". Đó là dung mạo, là bản tính của Thiên Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay đưa ra một bài học độc đáo. Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa là Đấng không những đi tìm kẻ tội lỗi, mà còn dùng mọi phương tiện giúp ta yêu mến Ngài nhiều hơn.
Một người thuộc nhóm Pharisêu tên là Simon tin Chúa, nhưng biết rất ít về Người. Ông không hiểu làm sao Đức Giêsu lại có thể đoái thương người phụ nữ tội lỗi đã lấy dầu thơm rửa chân cho Người. Ông không nhận ra là Đức Giêsu nức lòng tha tội cho chị ta để chị sẵn sàng đáp lại bằng tình yêu. Người muốn người phụ nữ ấy phải yêu mến Chúa nhiều.
Vì đã được tha nhiều, chị đáp lại bằng cách yêu mến Chúa nhiều. Về mặt nào đó, Đức Giêsu, "Đấng săn đuổi từ trời", kết tội người phụ nữ tội lỗi, cũng như Đức Chúa kết tội Vua Đavít là người đã phạm tội ngoại tình, rồi còn làm trầm trọng hơn với tội sát nhân. Tại một số nơi, Hội Thánh đã có thời chủ trương không tha hai loại tội này. Đây là một thái độ nghiêm khắc vượt quá cách hành xử của Thiên Chúa, như anh chị em vừa nghe qua bài đọc một. Ngài sai ngôn sứ Nathan đến ban cho Đavít ơn hối cải. Theo tiếng Hipri, "Đavít" có nghĩa "được yêu mến". Thiên Chúa yêu Đavít đến nỗi quyết tâm không để mất ông. Và để đáp lại lòng sám hối của Đavít, Ngài tha hết các tội sát nhân và ngoại tình ông đã phạm. Đức khoan dung của Thiên Chúa khiến Đavít yêu mến Ngài.
Và Thiên Chúa muốn chúng ta cũng yêu mến Ngài. Ngài hy sinh cả mạng sống Con Ngài ngõ hầu ta được tha tội. Trong mỗi Thánh Lễ, ta nghe Chúa Giêsu tuyên bố: "Này là chén Máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội". Anh chị em phải hiểu đây là Chúa Giêsu đang nói với chúng ta qua miệng linh mục chủ tế. Chúng ta nằm trong số "các con" ấy, những người mà Đức Kitô đã đổ máu mình ra để cứu chuộc.
Anh chị em đừng bao giờ ngưng chiêm niệm về mức độ bao la của tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, như đã thấy qua cuộc thương khó của Đức Kitô. Chúng ta quả diễm phúc xiết bao vì tội của mình đã được cất đi. Vậy Thiên Chúa muốn ta làm gì để đáp lại? Thiên Chúa muốn chúng ta yêu mến Ngài.

9. Suy niệm của Lm. Văn Quy
(Trích dẫn từ 'Phúc Âm Chúa Nhật')
I. TÌM HIỂU
Câu truyện kể ở đây là đặc biệt của thánh Luca
Không được lẫn câu truyện thánh Luca kể đây với một việc xức dầu ở nhà ông Simon tật phong kể trong Matthêu 26,6-13 và Marcô 14,3-9 và Ga 12,1-8
Cũng không nên lẫn người tội lỗi này với bà Maria quê ở Bêtania, ông Simon mời Chúa đến dự tiệc. Simon là một tên rất thông thường của người Do Thái. Ông không phải là bạn thân Chúa; ông không dành cho Chúa sự tôn kính thường lệ (c.44tt).
Ông mời Chúa vì tò mò muốn có một quan niệm về một nhân vật đã được thiên hạ đồn đãi rất nhiều.
Không thấy nói rõ việc xẩy ra ở đâu: Capharnaum, hay Giêrusalem? Tên người đàn bà cũng không được nêu lên. Chỉ biết là một người đời sống đã gây tai tiếng. Chắc cũng không phải là kỹ nữ buôn son bán phấn, vì gái như thế không vào nhà người Biệt phái được.
Nghe biết Chúa, biết lòng nhân hậu của Chúa, bà hối tiếc đời sống, cương quyết đến với Ngài để được tha thứ.
Bà vào trong phòng tiệc, những người dự tiệc nằm trên những đi-văng, chân thò ra ngoài. Đến chỗ Chúa nằm, không thấy Chúa đuổi, bà phần vui mừng, phần đau đớn vì tội lỗi, nước mắt tuôn rơi trên chân Chúa, rồi bà lấy tóc dài của bà lau đi. Sau đó bà hôn chân Chúa. Sau cùng bà đập bể một bình thuốc thơm quý giá đổ trên chân Chúa. Bà nghĩ không xứng đáng đổ trên đầu. Bà không nói câu nào, nhưng cử chỉ đã nói tất cả.
Chúa tỏ ra như chấp nhận việc đó, vì thế ông chủ nhà nghĩ rằng Chúa Giêsu không phải là vị tiên tri: vì nếu Ngài là tiên tri, thì âu là đã biết lòng người (1V 14,6; 2V 1,3; 5,24tt)
Đây ông chủ nhà không hồ nghi về sự thánh thiện của Chúa, mà nghi ngờ về sự biết rõ lòng con người. Vì thế, Chúa Giêsu cho ông thấy rằng, Ngài thấu suốt ý nghĩ của ông, dầu rất thầm kín.
Chúa Giêsu kể một dụ ngôn vắn tắt để dạy ông chủ nhà một bài học. Kể dụ ngôn rồi Chúa lại đưa ra một kết luận ngược với cái ý nghĩ của người ta. Vì thế các nhà chú giải không đồng ý kiến với nhau về cách cắt nghĩa.
Đại khái dụ ngôn: Hai con nợ, một người nợ chủ 500 đồng, một người nợ 50. Chủ tha cho cả hai. Vậy người nào sẽ yêu chủ nợ hơn? Ông Simon thưa: kẻ được tha nhiều. Chúa nhận câu trả lời đúng.
Vậy áp dụng vào trường hợp bà tội lỗi này, lẽ ra Chúa phải kết luận "Tội bà rất nhiều đã được tha nếu bà đã được yêu mến nhiều". Những cử chỉ yêu mến tôn trọng rất nhiều của bà từ khi bước vào nhà là vì bà đã được tha nhiều. Nhưng đây Chúa lại tuyên bố: "Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi vì bà đã yêu mến nhiều". Theo lời tuyên bố của Chúa: tình yêu của tội nhân thay vì là hiệu quả thì lại là nguyên nhân sự tha thứ.
Kết luận như thế để làm bài học rất quan trọng cho Simon cũng như cho các người dự tiệc. Chúa tha tội không phải không đòi hỏi một tâm tình nội tâm của tội nhân. Để được tha thứ, tội nhân phải thống hối trước đã.
Bài học khác: Ông Simon biệt phái cũng như nhóm biệt phái của ông hay tự phụ khinh chê tội nhân. Chúa cho ông biết rằng: ông nhầm, tất cả mọi việc người đàn bà này làm đều chứng thực lòng quý mến thực sự của bà. Chúa đã cảm thấy và cho ông Simon cảm thấy như thế.
Ông biệt phái này coi món nợ của mình nhẹ. Ông đặt tin tưởng ở sự đạo đức của ông hơn là tin ở lòng thương xót Chúa. Sự tự mãn đó không để chỗ cho lòng yêu mến Chúa. Yêu ít nên được tha ít.
Sau khi đã cho Simon một bài học, Chúa quay ra nói với người đàn bà tội lỗi: "Tội con đã được tha rồi". Những người ở đó ngạc nhiên; nhưng Chúa nhấn mạnh thêm bằng một nguyên tắc mới Chúa đưa ra: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Người đàn bà tội lỗi này là ai?
Từ đời thánh Grêgôriô Cả (+604) một số tác giả Tây phương hay đồng nhất hóa người đàn bà tội lỗi này với bà Maria Madalêna và bà Maria quê ở Bêtania. Theo sự nghiên cứu rất kỹ lưỡng của linh mục Holzmeister thì sự đồng nhất hóa đó không dựa trên một truyền thống nào vững chắc, Đông cũng như Tây.
Có phải bà là Maria quê Bêtania, chị ông Lagiarô, em bà thánh Matta chăng? Người ta đã lẫn hai người này vì câu truyện thánh Gioan kể ở 12,1tt. Nhưng không được lẫn. Bà Maria xức thuốc thơm Đức Giêsu ở Bêtania trước ngày Người chịu đau khổ. Đây sự việc xẩy ra ở Galilê, vào đầu đời giảng giáo của Chúa. Đàng khác, chị ông Lagiarô chưa bao giờ thấy kể là một tội nhân.
Tinh thần hai cảnh khác hẳn nhau. Trong thánh Luca tinh thần thống hối đứng đầu. Còn trong thánh Gioan chính là sự báo trước việc chịu đau khổ.
Có phải bà là Maria Madalêna chăng?
Có người dựa vào Luca 8,2 mà cho rằng người đàn bà tội lỗi đây là Maria Madalêna, vì bà này đã được Chúa trừ 7 quỷ. Nói Chúa trừ 7 quỷ mà không nói là người tội lỗi. Vì thế không có đủ lý để đồng nhất hóa hai người. Vả chăng tiếp sau câu truyện này, thánh Luca nêu lên tên bà Maria Madalêna như là một nhân vật mới.
Vậy câu hỏi: người đàn bà tội lỗi này là ai, vẫn chưa có câu trả lời. Nhưng mà không nên đồng hóa vô căn cứ.
Những người phụ nữ theo giúp Chúa (8,1-3)
Một số phụ nữ tỏ lòng biết ơn Chúa đã chữa cho khỏi bệnh, khỏi quỷ ám; đi theo giúp Chúa và ủng hộ Chúa bằng tiền bạc.
Đây không phải là những người trước kia tội lỗi trở lại, nhưng là những người đau ốm, hoặc bị quỷ ám được chữa khỏi. Trong số có bà Gioanna vợ của ông Chouza, quản lý của vua Hêrôđê Antipas. Ta phải đoán rằng gia đình này khá giả. Bà Suzanna, ta chỉ biết tên mà không biết gì hơn về bà. Bà Maria quê thành Magdala, Chúa đã xua đuổi 7 quỷ. Số 7 đây chỉ có nghĩa là tình trạng đau khổ thực sự và nặng nề. Ngoài ra theo thánh Marcô và thánh Matthêu còn có một số bà khác nữa, thí dụ bà Maria mẹ ông Giacôbê, và ông Giuse; bà Salomê mẹ hai con ông Dêbêđê.
Các bà theo giúp Chúa và các Tông đồ. Người đời bấy giờ không ai ngạc nhiên vì sự giúp đỡ này. Theo thánh Jêrôme: "Đó là thói quen người Do Thái và cũng phù hợp với cựu tục của dân tộc".
II. ÁP DỤNG THỰC HÀNH
Nhìn bên ngoài
Chỉ nhìn bên ngoài sự vật: ông Simon, nhà biệt phái mời Chúa Giêsu ăn. Chúa Giêsu vào bàn tiệc với một số khách được mời. Một người đàn bà có tiếng là tội lỗi, nhân cơ hội cũng bước vào, theo tục Đông phương, cửa không đóng.
Bà ta đã đối xử với Chúa rất tốt, khóc lóc tràn trề, nước mắt chảy đầy chân Chúa, bà ta lấy tóc lau, rồi hôn đi hôn lại chân Chúa; sau cùng lại đập bể bình thuốc thơm đổ trên chân Chúa.
Ba nhân vật được làm nổi bật: Simon, người đàn bà tội lỗi và Chúa Giêsu.
Xét đoán theo bên ngoài, Simon đã nhìn mọi cái dưới khía cạnh xấu và theo hình thức bên ngoài. Xem ra ông có lý. Ông chủ nhà không vấp phạm vì bà này là phụ nữ trắc nết, mà chỉ vấp phạm vì xét đoán Chúa không phải là vị tiên tri như thiên hạ đồn. Nếu Ngài là tiên tri ắt Ngài phải biết người đàn bà đó đáng khinh bỉ, một tội nhân ai cũng biết.
Nhưng điều mà ông Simon không biết là bà này là một tội nhân đã được tha. Người đàn bà đó biết và Đức Giêsu đã làm cho bà hiểu điều đó mà không cần nói ra.
Simon xét đoán một cách khắt khe người phụ nữ này và Chúa Giêsu; cho bà là một đĩ tõa và cho Chúa không phải là tiên tri. Trái lại, ông cho mình là người tốt, đáng kính, quảng đại, lịch sự.
Sự thật bên trong
Người đàn bà tội lỗi đã được tha hết tội. Những cử chỉ bên ngoài chứng tỏ lòng yêu mến của bà đối với Chúa nhiều, nên đã được tha nhiều và sự thực Chúa đã tuyên bố bà được tha mọi tội lỗi dù nhiều đến đâu. Còn ông Simon bị khiển trách là đã quá sơ sài trong những xã giao rất thường đối với Chúa. Hơn nữa, ông chỉ để trí xét nét những cái nhỏ nhặt bên ngoài. Điều đó tỏ ra ông ít lòng yêu mến đối với Chúa, nên Chúa tuyên bố: "Kẻ được tha ít thì yêu mến ít".
Giáo huấn của Công Đồng Vatican II
Lương tâm con người là tấm gương trong sáng phản ảnh sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhưng lương tâm đó bị tội lỗi làm lu mờ đi trước sự kêu mời vươn lên của Thiên Chúa. Chúa Kitô đến để giải thoát lương tâm khỏi nô lệ tội lỗi. Ta hãy đọc lại tư tưởng của Công Đồng Vatican II: "Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia. Quả thật con người có lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy nữa. Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em, và được biểu lộ cách kỳ diệu. Trung thành với lương tâm, người Kitô giáo liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội. Bởi vậy lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân và cộng đoàn càng tránh được độc đoán mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Tuy nhiên, lương tâm nhiều khi lầm lạc vì vô tri bất khả thắng, nhưng cũng không vì thế mà mất hết phẩm giá. Nhưng không thể nói như vậy khi con người ít lo lắng tìm kiếm điều chân và điều thiện cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng...".
(Hiến Chế Gaudium et Spes, số 16)

10. Yêu nhiều, yêu ít – Lm ViKiNi
(Trích dẫn từ 'Xây Nhà Trên Đá')
Chúng ta thường thấy những nghi thức đón chào khách quốc tế rất long trọng, có lúc rất sơ sài, tùy theo vị khách nào được yêu mến, quý trọng nhiều hay ít.
Hôm nay ông Simon mở tiệc đãi khách, có mời Đức Giêsu nữa, tuy ông là người thuộc phái Pharisiêu, nhưng có lẽ ông cũng có ít nhiều thiện cảm với Người. Còn hầu hết các người Pharisiêu đều không ưa Người, có kẻ còn chống đối Đức Giêsu mạnh mẽ nữa. Ông Simon đón tiếp Người cũng sơ sài, không theo nghi thức đón tiếp đàng hoàng: Không có nước rửa chân tay, không hôn chào, không xức dầu thơm, theo như tục lệ. Trong khi đó có một phụ nữ nổi tiếng tội lỗi, đột nhiên đến lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc lau chân và xức dầu chân Người để tỏ lòng tôn trọng yêu mến Người rất cuồng nhiệt.
Trước hai cảnh tiếp đón Chúa như vậy, gợi cho chúng ta mấy suy nghĩ:
1) Lối đánh giá của Đức Giêsu: Người đánh giá ta theo lòng yêu mến, chứ không theo tội lỗi. Dù tội nặng nề tầy trời đến đâu, Người cũng không kể, không kết án. Người chỉ xét theo lòng mến Chúa và yêu người của ta thôi. Càng có lòng mến nhiều, càng được tha thứ nhiều, càng được đánh giá cao. Kẻ khô khan thờ ơ, nguội lạnh, dù có giữ trọn các giới răn cũng bị Người coi là kẻ giả hình như Pharisiêu. Họ giữ luật lệ rất kỹ, rất khắt khe, nhưng lòng họ xa Thiên Chúa. Họ đã bị Người vạch mặt: "Quân này mến Ta ngoài môi ngoài miệng mà lòng thì xa Ta... Họ như mồ mả sơn phết cho đẹp, mà trong đầy hôi thối". Thánh Phaolô, trước thuộc phái Pharisiêu, khi trở lại với Chúa, đã biết rõ lối sống nào là có giá trị, nên Ngài đã viết: "Con người được công chính hóa không phải do các việc làm như luật dậy, nhưng chỉ nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô" (Gal. 2, 16) Lòng tin do lòng mến mà ra.
2- Lối đánh giá của Pharisiêu: Lối nhìn tha nhân của Đức Giêsu khác với lối nhìn của Pharisiêu và của chúng ta. Pharisiêu và chúng ta thường nhìn người khác theo lý lịch quá khứ. Họ nhìn người phụ nữ theo lý lịch tội lỗi: Một nàng chơi, sống ngoài đường phố xấu nết, ô nhục, không được phép động đến ai, để hạng phụ nữ này đụng đến sẽ làm nhơ nhớp, đáng khinh bỉ. Họ cũng nhìn Đức Giêsu bằng con mắt xấu: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi". Như vậy, khi ông Simon mời Đức Giêsu, ông mong được vinh dự đón một ngôn sứ của Thiên Chúa, thôi bây giờ hết vinh dự rồi. Ông còn sợ bạn hữu chê cười, vì đã mời một người đụng chạm với phụ nữ tội lỗi. Có lẽ ông rất buồn và hổ then! Thấy vậy, Đức Giêsu vừa tháo gỡ tâm trạng hổ thẹn của ông, vừa khen người phụ nữ can đảm đã hạ mình xuống trước mặt hạng người Pharisiêu có tiếng là đạo đức và khắt khe với kẻ tội lỗi. Qua ví dụ hai con nợ, con nợ được tha nhiều thì yêu chủ nhiều, con nợ được tha ít thì mến ít, Đức Giêsu đã cho phái Pharisiêu biết người phụ nữ này được tha nhiều nên mến Chúa rất mãnh liệt, còn các ông cậy mình vô tội, nên các ông còn ít mến Chúa lắm. Vậy lối nhìn của Đức Giêsu đối với phụ nữ tội lỗi theo tâm tình đổi mới: Một tâm tình sám hối cải thiện, một tâm tình khiêm tốn hạ mình xuống như nô lệ, lấy nước mắt và tóc lau chân, hôn chân, xức dầu chân Người, tôn vinh Người là chủ, là Chúa của mình trước mặt mọi người.
Chị đã hạ mình xuống và đã được nâng lên hàng các thánh. Còn Pharisiêu và chúng ta cứ nâng mình lên, trách cứ và đấm ngực người khác, moi móc cái rác trong mắt người khác, không lo lấy cái xà trong mắt mình ra, không chịu đấm ngực mình ăn năn, thì sẽ bị hạ xuống vực thẳm đời đời.
3) Cách dự tiệc Thánh: Người Do Thái mời khách, đón khách theo nghi thức có chất văn hoá rất đẹp: bưng nước rửa tay chân sạch sẽ, mát mẻ, hôn chào niềm nở thân ái, xức dầu thơm trên đầu vừa cho dễ chịu thoải mái, vừa có ý tôn vinh khách như ông hoàng. Những cách cư xử văn hóa đó rất đáng cảm phục.
Khi chúng ta đến dự tiệc Thánh, chúng ta có phong độ văn hóa nào đẹp chăng?
Đối với Chúa, tấm lòng đẹp nhất là khiêm tốn và hạ mình xuống ăn năn mọi lỗi lầm và hết lòng khát khao yêu mến rước Chúa vào nhà linh hồn.
Đối với cộng đoàn, chúng ta nên giữ đúng giờ kinh lễ, đến trước một chút để chuẩn bị tâm hồn là hay nhất, đừng vô tâm đến trễ gây cảnh hỗn độn mất trật tự. Ai đến trước ngồi trước, nhường chỗ cho người đến sau, người đến sau phải đi qua đi lại trước mặt, rất khó coi và gây chia trí. Đồng thời biết tham gia với cộng đồng cùng thưa đáp lời kinh tiếng hát, biểu lộ sự hiệp thông, hiệp nhất. Chúng ta cũng luôn giữ hết sức nghiêm trang, cung kính, nhân nhượng và ăn mặc đứng đắn để tôn trọng nơi thánh. Nhất là tránh hết sức những tiếng động, ồn ào, ho ngáp, thở dài, hôi miệng, hơi rượu, hơi thuốc làm người khác rất khó chịu và sợ mất vệ sinh.

11. Suy niệm của Lm. Duy Ân Mai
Sự tha thứ mà Đức Giêsu ban cho không phải là một thái độ ban ơn, Người không hạ thấp người tội lỗi được thứ tha, nhưng Người làm nẩy sinh trong người ấy một tình thương mà người ấy không biết.
Khi để cho người đàn bà tội lỗi đến gần và đụng chạm. Đức Giêsu mắc một sự ô uế theo lề luật, điều mà Người có thể tránh, nếu Người là ngôn sứ, Simon nghĩ vậy.
Vì thế, trước hết, Đức Giêsu nói với Simon: sự trìu mến mà người đàn bà tỏ bày là dấu chỉ Thiên Chúa đã tha thứ nhiều cho bà.
Còn ông, hỡi Simon, ông tỏ ra không tế nhị, ông ít để ý đến người ông mời, phải chăng ông thiếu kinh nghiệm của ơn tha thứ giải thoát của Thiên Chúa?
Đoạn Người ngỏ lời với người đàn bà để loan báo cho bà biết bà đã được Người tha thứ, bởi vì bà đã yêu mến nhiều, và tình yêu của bà đã chuộc các tội lỗi của bà.
Bởi vậy tình yêu vừa là hậu quả vừa là nguyên nhân, ít ra là điều kiện cần thiết để được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Nhưng Đấng gợi lên tình yêu trong lòng người đàn bà tội lỗi và đồng thời tha thứ cho bà, chứng tỏ Đấng ấy lớn hơn một ngôn sứ: Người này là ai?
Chính Giáo Hội, cộng đồng của những đàn ông đàn bà đã được Đức Giêsu giải thoát, phải nói lên điều đó.
Người này là ai mà khi đến gần Người làm nẩy sinh một tình yêu như thế trong tâm hồn những người tội lỗi khi họ khám phá ra được thứ tha!
Chính chúng ta là những người tội lỗi được thứ tha. Hãy nói lên câu trả lời.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
với Tông Đồ Phaolô, chúng con tin rằng chúng con được cứu chuộc nhờ lòng tin vào Con Chúa, Đấng đã yêu mến chúng con và đã hiến mình vì chúng con.
Không ai được trở nên công chính trước mặt Chúa nhờ công trạng của riêng mình.
Chính nhờ ơn Chúa, mà chúng con nên con cái Chúa. Chúng con sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong chúng con, nhờ Thần Khí đã được đổ tràn trong tâm hồn chúng con.
Chớ gì sự hiện diện này trong chúng con mạnh hơn tư tưởng ám ảnh tội lỗi của chúng con.
Xin Chúa làm cho chúng con chỗi dậy và ban cho chúng con sự bình an.

12. Lòng Chúa xót thương.
Câu chuyện về chàng trai phung phá chỉ là một hình ảnh, còn câu chuyện về Mađalêna chúng ta vừa nghe lại là một sự thật.
Giữa hình ảnh và thực tại có những điểm thật giống nhau. Chàng trai đã sống những ngày tháng phóng đãng để rồi cuối cùng phải đi chăn heo. Còn Mađalêna cũng đã chạy theo những vui thú, nhận chìm tâm hồn trong bùn nhơ tội lỗi đến nỗi mọi người trong thành đều hay biết, để cuối cùng nàng bị lương tâm dày vò cắn rứt.
Chàng trai đã quyết định chỗi dậy trở về nhà cha và đã được cha già tiếp đón nồng hậu và tha thứ hết mọi lỗi phạm của chàng. Còn Mađalêna, nàng cũng đã quyết tâm tìm gặp Chúa Giêsu, thú nhận mọi tội lỗi của mình và sau cùng nàng cũng đã được tha thứ như lời Chúa đã phán:
- Tội của nàng tuy nhiều nhưng đã được tha thứ hết, bởi vì nàng đã yêu mến nhiều.
Trước lòng nhân từ của người cha, đứa anh đã lên tiếng phản đối. Cũng vậy, trước tình thương của Chúa Giêsu, bọn Biệt phái đã lên tiếng chỉ trích.
Vậy Chúa Giêsu đã giải đáp, đã cắt nghĩa như thế nào? Câu chuyện của thực tại cuộc sống đã xảy ra như sau: Hôm đó ông Simong, người Biệt phái đã mời Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà mình. Đang khi dùng bữa, thì Mađalêna, một người đàn bà tội lỗi mà mọi người trong thành đều biết tiếng bước vào. Nàng mang theo một bình thuốc thơm. Đến trước mặt Chúa Giêsu, nàng quì gối, khóc lóc cho quãng đời dĩ vãng của mình, rồi đổ thuốc thơm xức dầu vào chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau.
Trước cảnh tượng bất ngờ ấy, ông Biệt phái thầm nghĩ:
- Nếu người này là một vị tiên tri hẳn phải biết con mẹ đàn bà đụng đến mình là ai, nó chỉ là một kẻ tội lỗi.
Thấu suốt được những ý nghĩ ấy, Chúa Giêsu đã nói với ông Biệt phái:
- Có hai con nợ, một mắc nợ nhiều còn một mắc nợ ít, vì cả hai không có gì để trả nên chủ đã tha cho hết. Vậy thì ai trong hai sẽ yêu mến chủ nhiều hơn.
Ông Biệt phái trả lời:
- Dĩ nhiên là người đã được tha nhiều.
Chúa Giêsu nói:
- Ông xét đoán đúng lắm. Ông có nhìn thấy người đàn bà này không. Tôi vào nhà ông mà ông chẳng đổ nước rửa chân cho tôi, còn nàng, nàng đã dùng nước mắt mà thấm ướt chân tôi rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng xức dầu thơm trên đầu tôi, còn nàng không ngừng xức thuốc thơm cho chân tôi. Vì thế, tôi nói với ông rằng: tội nàng tuy nhiều nhưng đã được tha thứ hết bởi vì nàng đã yêu mến nhiều.
Một chi tiết nhỏ đáng để chúng ta suy nghĩ, đó là suốt cả câu chuyện, Mađalêna đã không nói một lời. Nàng yên lặng và nhỏ những giọt nước mắt. Đây là những giọt nước mắt của lòng mến chân thành, của tâm tình sám hối ăn năn. Những giọt nước mắt này có sức hồi sinh và đem lại sự sống cho tâm hồn, bởi vì nó tẩy rửa được những vết nhơ của tội lỗi.
Với chúng ta cũng vậy, mỗi khi trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta cũng hãy biết nhỏ những giọt nước mắt là tâm tình sám hối ăn năn để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Chúa tha thứ. Bởi vì, như lời Thánh vịnh đã nói:
- Chúa không bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.
13. Kẻ đột nhập vào bữa tiệc - McCarthy
Suy Niệm 1. HOÁN CẢI MỘT CON NGƯỜI
Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cái đèn cũ đốt bằng mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và đen thui. Dù sao, ông cũng đốt đèn và nó toả ra một ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc đèn bốc khói toả ra một mùi khét lẹt. Thật là quá mức đối với một người thích mọi vật hoàn hảo như ông. "Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi", ông nói với vợ ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.
Ba tuần sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu đẹp, đốt lên. Một ánh sáng màu hồng toả ra làm cả nhà thích thú.
"Cái đèn này tuyệt thật!" ông chồng nói: "Bà mua nó ở đâu?"
"Đó là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy", bà đáp.
Sau khi đến thật gần để xem xét, ông nói: "Chắc tốn khá nhiều tiền để tân trang nói như thế này?"
"Thật ra chẳng tốn gì mấy", bà đáp. "Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải bỏ nhiều thời gian và công sức lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đã nhận thấy dưới lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao?"
"Tôi hoàn toàn đồng ý với bà", ông đáp.
Vứt bỏ một cái đèn dầu thì dễ hơn vứt bỏ thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Với con người cũng thế, gán cho họ một loại người nào đó rồi xếp xó họ thì dễ dàng hơn việc đối xử với họ như bạn bè và giúp đỡ họ vượt lên sự khốn cùng của họ. Hoán cải một người là nhiệm vụ tế nhị và khó khăn.
Ông Simon là một người Pharisêu hay biệt phái, và những người biệt phái "tách biệt" họ với những người tội lỗi. Vì thế, ông Simon cảm thấy bị xúc phạm khi thấy Đức Giêsu cho phép một người tội lỗi không chỉ đến gần Người mà còn sờ vào Người nữa.
Trong đầu óc của Simon, người phụ nữ ấy ở bên ngoài ơn cứu chuộc: chị ta là người tội lỗi, và luôn luôn là người tội lỗi. Vì thế, ông không muốn dính dáng gì đến chị ta. Bạn có thể nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã bị một người như chị ta quấy nhiễu. Tuy nhiên Người cho phép chị ta đến gần Người và sờ vào Người không có một lời ám chỉ nào để lên án.
Trong xã hội chúng ta, có nhiều người không chấp nhận khả năng người ta có thể thay đối? Họ không muốn cho người ta một cơ hội thứ hai. Một nền văn hoá không tin vào sự cứu chuộc là một nền văn hoá không hy vọng.
Đức Giêsu biết rõ người phụ nữ ấy là một người tội lỗi. Nhưng Người nhìn thấy nơi chị một khía cạnh khác tốt đẹp hơn. Người thấy rằng chị khao khát được coi như một con người chứ không phải là một đồ vật. Bằng việc vui lòng chấp nhận sự phục vụ khiêm hạ và yêu thương, Người giúp chị tin vào khía cạnh tốt đẹp ấy của mình để bộc lộ nó ra. Thật tuyệt vời khi chúng ta cảm thấy có người tín nhiệm chúng ta, không xét đoán hoặc lên án nhưng yêu thương chúng ta.
Chúng ta phải học nhìn ra điều tốt lành nơi một người khác và xác nhận điều đó. Khuyết điểm của người khác chỉ có thể được sửa chữa bằng cách yêu thương họ. Chúng ta không thể yêu thương một ai nếu chúng ta không chấp nhận con người thật của họ. Lên án không giải thoát mà áp bức. Chúa Giêsu không lên án người phụ nữ. Người thấy sự đau xót, khiêm hạ, lòng can đảm và yêu mến của chị. Người khẳng định khía cạnh ấy của chị.
Người phụ nữ ấy trước đây, chưa bao giờ cảm nghiệm một điều gì giống như thế. Chị chưa bao giờ gặp được một người tốt và hôm nay Đức Giêsu là người tốt nhất chị gặp. Người không chỉ tha thứ mà còn yêu thương chị. Chị hạnh phúc đến nỗi chi gần như kinh hoàng về niềm hạnh phúc ấy. Khi họ ra đi, và như người Châu Phi nói, chị bước đi cùng với trăng sao.
Suy Niệm 2. ĐƯA SỰ PHÁN XÉT VỀ CHÍNH MÌNH
Trong Kinh Thánh chúng ta đọc câu chuyện Vua Đavit đem lòng yêu thương người vợ của một chiến sĩ của ông là Urgia. Để cưới được bà, ông đã đưa Urigia ra mặt trận với hy vọng ông này bị quân thù giết chết, và điều này đã xảy ra. Làm việc hại người như thế quả là ghê tởm. Ngôn sứ Nathan quyết định vạch trần tội lỗi của Đavit. Tuy nhiên, thay vì trực tiếp tố giác Đavit, ông kể cho nhà vua nghe một câu chuyện đại khái như sau:
"Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chúng bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái.
"Một hôm có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Trái lại, ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông".
"Vua Đavit bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Nathan: "Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết!" Ông Nathan nói với vua Đavit: Kẻ đó chính là Ngài!"
Vua Đavit công nhận điều Nathan muốn nói. Và ông nói: "Tôi đã phạm tội chống Đức Chúa". Nathan làm cho ông yên tâm rằng Thiên Chúa đã tha thứ cho ông.
Bằng một cách đề cập tế nhị, Nathan khiến Đavit có thể nhìn thấy tính chất nghiêm trọng của tội lỗi của mình và chính mình lên án nó. Nỗ lực của Nathan đạt đến tầm mức cao cả nhất ở chỗ người bị lên án nhìn thấy điều ác của mình đã làm, đưa ra sự phán xét về chính mình và hối hận: "Một sự đau nhói của lương tâm có giá trị hơn nhiều trận đòn roi" (Kinh Talmud).
Giờ đây chúng ta hãy trở lại để tìm hiểu về người phụ nữ tội lỗi trong Tin Mừng. Chị ta phải lấy hết can đảm để bước vào ngôi nhà của Pharisêu và đến trước mặt Đức Giêsu trong tình trạng tội lỗi của mình. Khi làm như thế, chị càng dễ bị làm cho tổn thương nặng nề. Chị liều mình hứng chịu sự lên án và sỉ nhục của dân chúng.
Thay vì xua đuổi chị, Đức Giêsu đã đón nhận chị một cách tử tế, dịu dàng và khoan dung. Người đã xúc động sâu xa bởi các tội lỗi của chị. Chị đã đau đớn biết tội của mình, và hối hận về những tội ấy. Người bảo đảm chị đã được tha thứ. Không những thế, Người để cho chị hiểu rằng chị được yêu thương. Như thế chị có thể thực hiện một sứ bắt đầu mới mẻ.
Một ngày kia một người bạn đến thăm Michel-Angelo. Ông thấy nhà điêu khắc vĩ đại đang đục đẽo một tảng đá cẩm thạch lớn. Sân nhà phủ đầy những mảnh cẩm thạch vỡ và bụi bặm. Một cảnh tượng không lấy gì đẹp lắm.
"Chúa ơi, ông đang làm gì vậy?" người bạn hỏi.
"Tôi đang thả thiên thần bị giam trong khối cẩm thạch này ra" Michel-Angelo đáp.
Người Pharisêu Simon nhìn người phụ nữ chỉ thấy chị ta là tội nhân và mãi mãi là tội nhân. Đức Giêsu nhìn người phụ nữ và thấy chị ta là một người phụ nữ tội lỗi có khả năng trở thành một vị thánh. Nhờ có sự gặp gỡ với Đức Giêsu, người phụ nữ bắt đầu sống một đời sống mới tốt đẹp hơn. Và chị ta có thể hành trình trên con đường ấy xa hơn những người đã xét đoán chị. Bằng việc tiếp xúc tử tế và chấp nhận quà tặng của chị với lòng khoan dung. Đức Giêsu đã thổi gió vào cánh buồm đời chị.
14. Tình thương và tha thứ
Không gì đè nặng trên một tâm hồn cho bằng tội lỗi. Và không gì an ủi cho bằng lời của tiên tri Nathan, trong bài đọc I, nói cùng Đavít: "Thiên Chúa đã tha tội cho ngươi".
Vua Đavít phạm tội ngoại tình và để ém nhẹm và phi tang đã nhúng tay vào máu, cướp vợ người ta. Tưởng thế là xong, ai ngờ Chúa gửi tiên tri Nathan đến, kể cho ông nghe câu chuyện một người giàu có cướp con chiên, gia sản của một người nghèo khó. Đavít nổi giận đòi trừng phạt con người bất lương. Tiên tri nói: "Người bất lương đó chính là ông". Đavít đã cúi đầu thú nhận tội lỗi, nhận lãnh việc đền tội. Thánh Vịnh Miserere 50, ngàn đời còn vang vang như tiếng nức nở của một tâm hồn thống hối ăn năn thì câu nói của tiên tri Nathan: "Thiên Chúa tha tội cho ngươi" là một niềm an ủi vô tận.
Chúa là tình thương và là Đấng hay tha thứ. Chỉ có một phương thế để đáng được tha thứ là: thú nhận tội lỗi và sự yếu hèn của mình, nhận thức rằng chỉ có Chúa mới có thể cứu thoát và hoàn tòan trông cậy và phó thác.
Bài Phúc Âm hôm nay đã cụ thể hóa giáo lý tình thương và tha thứ ấy trong câu chuyện "người đàn bà tội lỗi đến gặp Chúa trong bữa tiệc tại nhà ông Simon".
Trong khi Matthêu và Marcô luôn trình bày người biệt phái như đối thủ cố chấp của Chúa, thì Luca, viết cho dân ngoại, mô tả một thứ biệt phái lễ độ hơn, biết mời Chúa đến nhà dùng bữa. Hôm nay, chúng ta đang ở trong nhà của ông Simon. Có thể ông mời nhà rabbi trẻ tuổi để có dịp quan sát hơn là vì hiếu khách, nhưng ông tỏ ra có chút lễ độ. Trong nhà có đám tiệc, kẻ ra người vào là thường. Một người đàn bà, ai cũng biết thuộc phường 'tội lỗi' lẻn vào đứng sau đám thực khách. Bà mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Rồi quỳ xuống phía chân Chúa, bà khóc nức nở, xức dầu thơm, hôn bàn chân ướt đẫm nước mắt và lấy tóc lau. Mọi người im lặng trối mắt nhìn. Simon coi đó là một cử chỉ quái gở và lẩm bẩm: "Ông này là một nhà tiên tri sao? Không, thật quá rõ ràng. Ai lại để cho hạng đàn bà ấy động đến mình!".
Chúa Giêsu nhìn thấy tất cả, đọc cả những cảm nghĩ thầm kín của Simon. Với bao tế nhị, Ngài kể dụ ngôn người chủ nợ tha cho hai con nợ không có gì đền trả. Và, theo thói quen thông thường, Ngài để cho thính giả tự trả lời. Ngài hỏi: "Ai trong hai người yêu chủ nợ nhiều hơn?". Do thái dùng chữ 'yêu' để thay thế chữ 'cảm ơn', không có trong từ ngữ. Yêu mến vì tri ân. Ông Simon thận trọng trả lời: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Đúng vậy.
Bầu khí ngột ngạt đã lắng dịu, Chúa hướng mọi người về phía người thiếu phụ. "Ông thấy người đàn bà này chứ?". Cách đối xử của bà và của người biệt phái khác biệt nhau biết chừng nào! Nếu ông biết trọng khách, biết yêu mến Ngài hơn thì ông đã không từ chối những cử chỉ lễ phép xã giao đó. Nhưng ông là biệt phái nên ông cho là không phải lệ thuộc ai, kể cả Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu kết luận: "Tội bà rất nhiều nhưng đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều". Tình yêu là nguyên do hay là kết quả của ơn tha thứ? Dụ ngôn cho thấy tình yêu lớn lao của bà là dấu chỉ của một ơn tha thứ lớn lao hơn của Chúa. Bà đã nghe Chúa giảng dạy, đã hiểu rằng thời hồng ân tha thứ đã đến và bà đã tin. Hôm nay bà đến, tâm hồn nhẹ nhõm vì mình đã được tha thứ để cảm tạ Chúa. Chúa nói với bà một lời bảo đảm: "Tội con đã được tha rồi. Hãy đi bình an".
Lạy Chúa, "con xưng ra với Chúa tội phạm của con và lỗi lầm của con, con đã không che dấu. Con thú thực điều gian ác của con và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con" (Tv 31).
15. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
CHÚA GIÊSU THA THỨ CHO NGƯỜI PHỤ NỮ TỘI LỖI (7,36-50)
Luca đưa vào đây một đoạn văn mà độ dài nói lên được tầm quan trọng mà ông gán cho nó; đoạn này là của riêng ông, dù không hoàn toàn không có những đoạn song song ở Mc 14,3 (và Matthêu) và ở Gs 12,3. Một sự liên hệ kép nối liền nó với những gì được nói ở trước (đặc biệt các câu 29-30 và 34 được minh hoạ khá dài ở đây): đó là những người tội lỗi biết nhìn nhận Chúa Giêsu như ngôn sứ; việc Ngài tiếp đón họ làm cho những người Pharisêu từ chối tính cách ngôn sứ của Ngài.
Tuy nhiên, câu chuyện bắt đầu thật hay: một người Pharisêu mời Chúa Giêsu đến nhà dùng một bữa tiệc mừng, trong đó khách được mời nằm mà ăn. Một sự cố mở màn cho câu chuyện: một người phụ nữ tội lỗi đi vào phòng ăn và đến nơi Chúa Giêsu đang nằm và thái độ của cô ta quá suồng sã, đúng là gai mắt thật, mãi dâm có lẽ, dù sao cô ta cũng là một người đàn bà bị ô uế. Bấy giờ Chúa Giêsu đang dùng bữa tại nhà, cô nhận ra nơi Ngài –mà chân Ngài đã đẫm ướt vì nước mắt của cô ta rồi- Đấng mang lại sự thứ tha và ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người tội lỗi. Đó là ý nghĩa mà Chúa Giêsu –vị Ngôn Sứ sẽ đem đến tiếp theo đó là cử chỉ của người phụ nữ này. Nhưng ông chủ biệt phái lại không nhìn thấy xa được như thế, ông chỉ dừng lại ở ngoài mắt của những đụng chạm này- tất cả đối với ông ta có vẻ khiêu khích quá. Kết luận lầm lạc mà ông nghĩ trong thâm tâm dựa vào hai xác tín: một ngôn sứ phải có khả năng hiểu thấu lý lịch của những kẻ mình tiếp xúc và ông phải giữ khoảng cách giữa cái tinh sạch và cái ô uế (cc.36-39). Thái độ của vị chủ nhà này rất đặc biệt: ông mời Chúa Giêsu vì những lần Ngài chữa lành bệnh tật thể lý –có thể cả những lời giảng dạy của Ngài nữa- đón tiếp kẻ tội lỗi và kẻ bị ruồng bỏ- không ăn khớp với tư tưởng mà ông ta có về một sứ giả của Thiên Chúa.
Khi lên tiếng nói, Chúa Giêsu biểu lộ sự hiểu biết có tính tiên tri của mình mà ông Simêon ngấm ngầm chối bỏ. Ngài bắt đầu kể một dụ ngôn dường như chẳng ăn nhập gì với tình thế này (cc.40-43). Nó không đưa ra một tri thức nào, nhưng trước tiên nó đưa ra một khoảng cách mà Simêon chỉ có thể đồng ý với người mà ông ta vừa chỉ trích trong thâm tâm ông. Câu chuyện này bao hàm một yếu tố đến từ cái bình thường: sẽ thật lạ lùng khi một chủ nợ xoá bỏ những món nợ không thể thanh toán nổi (năm trăm quan tiền bằng tám tháng lương của một công nhân). "Ông thương tình tha cho cả hai" chi tiết không bình thường này cho thấy chuyện thường ngày đó nhắc ta nghĩ đến một thực tại sâu sắc hơn: mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Bởi đó, tình yêu của các con nợ là biết ơn đối với kẻ tha nợ cho mình. Đó là bài học mà Chúa Giêsu rút ra từ vấn nạn được nêu lên với Simon (và với độc giả) và nó mời gọi một lời đáp không có gì bất ngờ. Như vẻ do dự (tôi thiết nghĩ...) của ông cho thấy, Simon đoán được Chúa Giêsu sẽ đưa mình đi tới đâu; nhưng ông bị kẹt trong câu chuyện dụ ngôn và không thể trả lời cách khác được. Ngược với kết luận sai lầm mà ông có trong đầu, lần này ông đã công khai phán đoán đúng.
"Ông thấy người phụ nữ này chứ?". Vừa được sự đồng tình của người Pharisêu, Chúa Giêsu chuyển chú ý về đối tượng của cuộc tranh cãi và đưa ra việc áp dụng dụ ngôn (cc. 44-47). Ngài đối chiếu cách hành xử của Simon tuy đúng nhưng thiếu sự niềm nở hiếu khách với ba cử chỉ của người phụ nữ vô danh rất quan tâm đến đôi chân Chúa Giêsu (được lặp lại mỗi lần); càng rõ hơn nữa về dầu thơm, Chúa Giêsu phân biệt việc xức dầu trên đầu mà Simon đã không làm cho Ngài với việc người phụ nữ đổ dầu trên chân Ngài. Điều đó làm ta nghĩ tới thái độ khiêm tốn của người phụ nữ đứng bên chân Chúa Giêsu (c. 38); đó là cử chỉ chính yếu đã khiến cho xảy ra ba hành vi được miêu tả ở đây. Trong mạch văn, kết luận mà Chúa Giêsu rút ra (c.47) chỉ muốn nói lên một điều: thái độ của người phụ nữ là hậu quả của tình yêu Thiên Chúa mà chị đã lãnh nhận. Tội lỗi đầy tràn của chị đã được Thiên Chúa tha hết, điều đó thể hiện rõ ràng qua thái độ của chị. Tình yêu là lời đáp của con người khi được Chúa tha nợ và tha tội. Như những người thu thuế – một dạng tội nhân công khai khác (x. 7,29), người phụ nữ này đã nhìn nhận rằng Thiên Chúa công chính và đã đón nhận tha thứ của Người. Trái lại, ông Pharisêu vẫn ở trong chiều hướng của các bạn đồng nghiệp (x. 7,30), ông đã khước từ ý định của Thiên Chúa về ông. Nhưng ai biết được? Bài học tên sẽ mang lại kết quả và ông Pharisêu, sau khi ăn tiệc này, sẽ được biến đổi chăng?
Lần đầu tiên Chúa Giêsu nói với người phụ nữ (cc.48-50) và tuyên bố với chị Thiên Chúa đã tha thứ cho chị và từ nay chị được hưởng ơn tha thứ đó. Khi những khách mời khác phản ứng như các Kinh sư và Pharisêu trong dịp người bại liệt được ơn tha tội (5,20-21), thì Chúa Giêsu lại cho thấy rõ tiến trình của ơn cứu độ. Tình yêu mà người phụ nữ đã bày tỏ đối với Ngài, chứng tỏ rằng chị ta hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và vào vị sứ giả của Ngài; hình ảnh mà chị có về Thiên Chúa là đúng, trong khi ông Pharisêu lại có ý niệm sai lạc về Ngài. Đức tin của người phụ nữ đã là điểm khởi hành của một tiến trình hoán cải, đức tin ấy là nguyên nhân ơn cứu độ của chị.
NHỮNG PHỤ NỮ ĐI THEO CHÚA GIÊSU (8,1-3)
Với tư cách một văn sĩ Hy Lạp có tài, Luca thay đổi thể loại văn; đây là một tóm lược về cuộc hành trình truyền giáo mà Chúa Giêsu không ngừng thực hiện ở Galilê: Có hai nhóm người là nhân chứng cho những hành động và quyền năng và những giáo huấn của Chúa Giêsu và sẽ sát cánh với nhau làm bảo chứng cho những điều ấy (x.23,49). Trước hết là nhóm Mười Hai, mà chỉ được nói rõ là ở với Người – phải đợi đến 9,1 họ mới cộng tác vào sứ vụ của Chúa Giêsu.
Rồi tới nhóm các phụ nữ được triển khai rộng hơn. Không có chỗ nào Luca mô tả một cách chi tiết những việc trừ quỷ và chữa lành mà các bà được hưởng và duờng như, về phía các bà, những việc đó đóng một vai trò tương tự như việc kêu gọi các ông (5,10-11; 27-28); người ta nhắc đến ba tên trong số các bà như đã làm đối với nhóm Mười Hai (6,12-16). Bù lại, các bà này sẽ lại xuất hiện ở hàng đầu trong những thời điểm then chốt, lúc Chúa Giêsu chết trên thập giá và lúc chôn cất Người (23,49-55), rồi ở ngôi mộ trống ở đó đặc biệt có mặt bà Maria Magđala và bà Gioanna; người ta cũng sẽ gặp các bà này với nhóm Mười Hai và mấy người khác trong phòng lầu trên trước lễ Ngũ tuần (Cv 1,14). Ở đây các bà này sống Chúa Giêsu và nhóm Mười Hai, đặc biệt lấy của cải mình mà giúp đỡ –Luca cũng sẽ dùng cùng một động từ trong Cv 6,2 khi nói nhóm Bảy (phó tế); trong số các bà, có một người trước đây bệnh hoạn nhiều hơn cả (bảy quỷ x. 11,26), Maria gọi là Magđala (một làng gần hồ Gênêsaret); một bà thuộc xã hội thượng lưu, Gioanna, đã từ bỏ chồng và triều đình Hêrôđê (x.5,11), một chi tiết làm ta có thể hiểu được việc can thiệp của vua Hêrôđê ở 9,7-9.
Các phụ nữ chiếm một chỗ quan trọng trong Luca và Công vụ. Tác giả không nêu ra tính cách bất tiện vì sự có mặt của các bà khi họ đi theo Chúa Giêsu và nhóm các ông. Chúa Giêsu tỏ ra tự do một cách làm ta phải kinh ngạc khi đem các bà theo trong nhóm đệ tử lưu động của Người. Như thế, trong Tin Mừng của ông, không một đối thủ nào trách cứ Chúa Giêsu về điểm này, trong khi việc Ngài dám tiếp với những người tội lỗi và ăn uống với họ đã bị chỉ trích nhiều lần.
16. Chú giải của Noel Quesson
Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn.
Ba lần, Luca ghi lại những người Pharisêu đã mời Đức Giêsu dùng bữa (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Trái lại Máccô và Mátthêu đã mô tả một cách có hệ thống những người Pharisêu đại thể là những đối thủ của Đức Giêsu. Sự nhận định tinh tế của Luca có lẽ gần với sự thật lịch sử hơn. Đức Giêsu đã không bị loại trừ một cách tiên hiền. Nếu Người đã thường xuyên đụng chạm với một số người thì không phải vì Người khinh bỉ họ. Chính họ đã không chấp nhận thái độ hết sức cởi mở của Người đối với những kẻ tội lỗi.
Lạy Chúa, theo gương Chúa, xin Chúa cho chúng con đừng trở thành tù nhân của bất cứ phe phái nào, xu hướng nào để luôn cởi mở với những người thường chống đối chúng con và không suy nghĩ giống như chúng con. Thật vật Đức Giêsu có thể đã làm cho người ta "khó chịu" một cách chính đáng: hoàn toàn không giống với điều người ta chờ đợi? Chính Gioan Tẩy Giả trong đoạn văn liền trước đó (Lc 7,18-35) phải đặt câu hỏi: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?". Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ của Thiên Chúa sống trong sa mạc lánh xa các thành phố, không ăn gì, không uống gì: ông là một nhà khổ tu (Lc 7,33). Còn Đức Giêsu sống trong thế gian, chấp nhận những bữa ăn mà người ta mời Người, đến nỗi làm người ta phải gọi Người là "tay ăn nhậu" (Lc 7,34). Gioan Tẩy giả loan báo sự phán xét của Thiên. Chúa chống lại kẻ tội lỗi. Còn Đức Giêsu là "bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Con nhìn ngắm Đức Giêsu ngồi vào bàn, trong một bữa tiệc, ăn và uống!
Thiên Chúa không chống lại đời sống con người. Chính Người đã ban đời sống ấy cho chúng ta. Môn đệ của Đức Giêsu không phải là một con người rầu rĩ ủ dột. Đức Giêsu chấp nhận những lời mời Từ ngữ Hy lạp được dùng ở đây (Katéklithè): thực ra có nghĩa là; "Người nằm ở bàn ăn". Vậy thì đây là một bữa tiệc mừng mà người ta nằm dài trên các đi văng để dùng bữa, trong một khung cảnh tiện nghi. Xét về bản thân, Đức Giêsu là một người nghèo. Nhưng Người đã sống tiếp xúc với những Người giàu có, và không khinh bỉ một ai.
Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Ở Phương Đông, người ta có thể tự do vào nhà có tiệc. Cũng thế, khí hậu nóng bức ở Phương Đông giải thích việc sử dụng nhiều nước hoa. Dâng tặng nước hoa làm cho tươi tỉnh là một dấu chỉ lòng hiếu khách bình thường.
Người ta đã biết người phụ nữ ấy. Trong thành phố, mọi người xem ra đều biết trường hợp của chị: Đó là một "phụ nữ tội lỗi", và có lẽ là một gái điếm. Chị ta phạm nhiều tội lỗi. Nhưng chị đã hối hận về những tội lỗi ấy. Chị khóc lóc trước đám đông! Chị chán ngán chính mình. "Sự dễ dãi, trong đời sống đạo đức không làm cho người ta hạnh phúc". Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói như thế với giới trẻ để trả lời mỗi câu hỏi về tình dục.
Thế là người phụ nữ tội lỗi đã quỳ sấp trên mặt đất dưới chân của Đức Giêsu. Những tiếng nức nở vang lên làm toàn thân chị run rẩy. Chị hôn lên chân Đức Giêsu nhiều lần và làm cho phòng tiệc sực nức mùi thơm. Các thánh sử đã có thể kể lại những cảnh hàm hồ như thế ra sao? Về việc này, chính Đức Giêsu đã nói ra nhột sứ điệp chủ yếu.
Tôi nghĩ đến những tội lỗi của tôi, và con thủy triều dơ bẩn màu đen của mọi tội lỗi thế gian. Lạy Chúa, Chúa phải quen thấy con người phạm tội từ khi Chúa đã tạo ra con người có tự do, từ khi có con người trên mặt đất.
Thấy vậy ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: "Một người tội lỗi!"
Ông Pharisêu ấy khinh bỉ đàn bà. Quả thật, theo Luật pháp của Israel, người ta trở thành "ô uế" khi chạm vào một Người đàn bà tội lỗi, cũng như vào một xác chết hay một con heo. Vì thế có dư luận giữa người Pharisêu: Đức Giêsu không phải là một người của Thiên Chúa, không phải là một ngôn sứ.
Vậy bạn thử nghĩ xem, Người đã để cho một phụ nữ xõa tóc mình mà lau chân Người, một hành động đáng xấu hổ và sỗ sàng ngay cả ngày hôm nay cúng thế trong thế giới Do Thái và Hồi giáo truyền thống nơi Người phụ nữ phải dùng khăn trùm mà che giấu tóc họ.
Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông!". Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói". Đức Giêsu nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?". Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn". Đức Giêsu bảo: "ông xét đúng lắm".
Thông thường những chủ nợ loài nói thì không như thế! Nhưng Thiên Chúa thì như thế. Đức Giêsu quả là ngôn sứ, Người đã làm cho tình yêu thương của Thiên Chúa Cha trở nên hữu hình...
Sau cùng khi nào chúng ta mới hiểu rằng Thiên Chúa không phải là "Đấng xét xử" nhưng là "Đấng tha nợ", Đấng tha thứ những người tội lỗi? Và ai yêu cầu chúng ta có thái độ giống như thế: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: "ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây đã không ngừng hôn chân tôi Dàu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi còn chị ấy lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.
Đức Giêsu đã ngợi khen chị ấy. Người đề cao chị ấy.
Người nhấn mạnh tất cả những việc tốt chị đã làm, từng chi tiết một. Trước đó, chị đã đau khổ biết bao. Lạy Chúa, xin giúp cho con nhìn những kẻ tội lỗi và cả chính con với ánh mắt của Chúa, đầy lòng nhân từ và thương xót. Xin Chúa ban cho các Kitô hữu quyền năng phục hồi những kẻ có tội dưới mắt họ. Lạy Chúa ước gì mọi lời nói và thái độ của Giáo Hội Chúa nói lên rằng Chúa nhân hậu dường bao! Lạy Chúa, ước gì mọi linh mục của Chúa đều đầy lòng nhân từ. Lạy Chúa Giêsu, xin cho họ giống Chúa, xin cho họ là những thánh chức đem sự hòa giải lại cho mọi kẻ tội lỗi.
Vì thế tôi nói cho ông hay: "Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít".
Dụ ngôn nói trên về hai người mắc nợ có ý nghĩa rõ ràng: Bởi vì người đã tha thứ cho chị nhiều nên chị đã yêu mến nhiều. Trong khi mà bản dịch của sách Kinh Thánh dường như rút ra kết luận ngược lại: vì chị đã yêu mến nhiều nên người ta đã tha thứ cho chị nhiều. Thật vậy, truyền thống to lớn của Kinh Thánh đã lặp lại không mệt mỏi với chúng ta rằng không phải kẻ tội lỗi xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ nhưng Thiên Chúa đã tha thứ không đòi hỏi bởi một sáng kiến tự do của tình yêu phổ quát của Người.
Nhưng, dù sao chân lý có thể có trong cả hai lập luận: Tình yêu là nguyên nhân của sự tha thứ: "Tội của chị được tha vì chị đã yêu mến nhiều".
- Tình yêu là hậu quả của sự tha thứ: "Người ta càng được tha thứ, người ta càng hướng về lòng yêu mến".
Tình yêu khiến cho tha thứ! Vâng đúng vậy.
Tha thứ khiến cho mến yêu! Còn đúng hơn nữa.
Như thế bản văn này của Luca, vị thánh sử của lòng thương xót, là một viên ngọc quý của Tin Mừng. Đức Giêsu đã trả lời cho người Pharisêu ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ tội lỗi chạm vào Đức Giêsu và có vẻ nghi ngờ quyền năng ngôn sứ phải biết được bí mật các tâm hồn của Người: "Tôi biết rất rõ chị ấy là ai và chính vì tôi biết mà tôi đã để cho chị ấy chạm vào tôi: Bởi vì tôi đến vì những kẻ tội lỗi chứ không phải vì nhũng người công chính" (Lc 5,31-32).
Con cám ơn Chúa về sự mạc khải này. Có lẽ vì điều đó Chúa cho phép chúng con lạm dụng sự tự do mà phạm tội để một ngày kia tội lỗi của chúng con biến đổi thành tình yêu to lớn hơn, bởi vì chúng con sẽ hiểu và đón nhận sự tha thứ của Chúa. Ôi mầu nhiệm biết bao khi mỗi tội lỗi của con có thể trở thành một cơ hội yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn: Giây phút tuyệt vời khi con ý thức được lòng thương xót; khi con đoán biết Thiên Chúa yêu thương con đến mức độ nào; Chính sự tha thứ là tình yêu cao cả nhất. Chẳng đáng bỏ công cử hành sự tha thứ ấy trong một bí tích hay sao? Giáo Hội hiện nay thật có lý muốn gọi bí tích này là bí tích "hòa giải", thay vì là bí tích "sám hối"? Tôi có thích thực hành bí tích ấy không? Thánh âu-tinh đã viết: "Sự xưng thú tội lỗi chỉ có ý nghĩa Kitô giáo nếu nó được thực hiện trong sự tuyên xưng lời khen ngợi". Xưng thú tội lỗi của chúng ta, chính là tuyên xưng tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi". Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an!".
Một cách hoàn toàn tự nhiên, Đức Giêsu cư xử như một người có quyền bính của Thiên Chúa, Đấng tha thứ mọi tội lỗi. Chính vì những thái độ và lời nói, như thế đã khiến cho các môn đệ thắc mắc về căn tính sâu xa của Người: "Vậy thì người "này là ai?" Ngày trong các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, Người ta đã dám trả lời rằng: "Đức Giêsu Kitô là Đức Chúa!".
Sau đó, Đức Gìêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ...
Theo thói quen, Luca nhấn mạnh đến các "phụ nữ", như thế là phản ứng lại xã hội và các tôn giáo trong thời của ngài Các giáo trưởng Do Thái đã loại các phụ nữ ra khỏi tập thể các môn đệ của họ. Quả là một cuộc cách mạng thật sự đã bắt đầu với Đức Giêsu. Dù chưa hoàn tất.
17. Chú giải của R. Gutzwiller
LÒNG TIN NƠI MỘT NGƯỜI TỘI LỖI (7, 36-50)
Đây là khung cảnh thứ tư hoàn tất bức hoạ. Ngược lại với các vị thủ lãnh dân Israel kiêu hãnh, với sự đạo đức giả hình (thực tế họ đã không tin), là trường hợp người đàn bà tội lỗi. Cứ sự thường, chẳng hy vọng và trông mong gì nàng có lòng tin. Nhưng dù sống một thân phận đã hư hỏng, tàn héo, kéo lê kiếp sống tội tình, xa cách Thiên Chúa mà Thiên Chúa lại nhận ra nơi nàng một lòng tin tốt lành và sống động nhất, trổi vượt hẳn lòng tin nhiều người khác.
Nàng đã hoang phí vẻ diễm lệ, đã tiêu hao cái tinh tuý tình yêu của nàng cho những kẻ bất xứng, trót lầm lỡ, nàng đau xót mua lấy kinh nghiệm bằng cả cuộc đời và thú nhận rằng nàng đã bị tước đoạt rồi bị bỏ rơi, y như một ly nước đầy được để qua một bên sau khi đã cạn chén. Nàng đành lao mình vào, bán rẻ thân xác, mua bán thú vui, và công khai phạm tội...
Nhưng, Lời Đức Kitô vang vang từ một thế giới khác, đang đến với người phụ nữ lầm lỡ ấy.
Từ lúc đó, nàng phát hiện ra có một tình yêu khác, cao thượng, tình yêu đó không thể ban phát bừa bãi được. Lòng tin nơi nàng khơi dậy và qui hướng những đam mê những khả năng yêu thương của nàng vào một hướng khác, rất khác, chẳng còn e dè gì nữa nàng lại gần Đức Giêsu, suốt bữa tiệc, trước mặt các khách dự tiệc. Nàng phủ phục dưới chân Ngài, như thể hạ nhục cái tính tự cao tự đại của nàng và đổ tràn tình yêu tái sinh cho Chúa.
Cạnh nàng, ông biệt phái quá hẹp hòi và bần tiện, ông ta chẳng sai đầy tớ ông đến rửa chân cho Thày, cũng chẳng tiếp đón Thầy bằng cái hôn thân tình hay xức dầu thơm cho Thầy truớc bữa ăn. Nhà tiến sĩ luật ấy vốn tính tự cao tự đại, chẳng cần gì đến Đức Giêsu cả. Vì ông tự cho là ông chẳng thiếu thốn gì. Ông chẳng ăn năn hối lỗi làm gì vì ông tự cho mình là nhà đạo đức; ông chẳng yêu ai hết trừ ông.
Trái lại, người phụ nữ kia thú nhận lỗi mình và đồng thời cũng biết rằng người ta chỉ đáp trả tình yêu của Thiên Chúa bằng một tình yêu không giới hạn. Nàng có lòng tin chân thực, niềm tin xui khiến nàng khinh chê tất cả để chỉ còn tuyên xưng Đức Kitô như Ngài đáng: Ngài là Chúa giàu tình yêu và ân sủng, luôn tha thứ tội tình.
Trên đây là bốn khung cảnh diễn tả hình ảnh của lòng tin:
- Vị quan Rôma tin vào Đức Giêsu là chủ tể quyền năng, có quyền truyền lệnh cho sức khoẻ và bệnh tật.
- Dân Do thái tin rằng nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa viếng thăm dân Ngài, nhưng lòng tin của họ còn non nớt quá, không vượt ra khỏi quỹ đạo con người.
- Các vị thủ lãnh dân Israel lại không tin vì họ tìm kiếm chính họ chớ không ra khỏi quỹ đạo con người.
- Sau cùng là người phụ nữ thống hối, nàng tin tưởng trong khi say đắm yêu thương.
Như vậy, một kết cục hết sức lạ kỳ, người ngoại giáo và người đàn bà tội lỗi lại tỏ lòng tin vững vàng, chân xác; trong khi dân ưu tuyển dừng lại lưng chừng đường; còn các vị thủ lãnh vẫn giữ thái độ bất tín.
GIÁO DỤC ĐỨC TIN TRÊN LÝ THUYẾT (8, 1-3)
Đức Giêsu gặp gỡ dân chúng và cố huấn luyện lòng tin giữa họ. Cùng với mười hai tông đồ, Ngài ra đi loan báo Tin mừng khắp nơi. Các người phụ nữ theo sau và phục vụ Ngài. Bây giờ là lúc Ngài đi vào giữa lòng đại chúng.
Sau đây, ta thấy Chúa nhấn mạnh đến ba phương diện của lòng tin:
- Tầm quan trọng của lòng tin.
- Việc tuyên xưng đức tin.
- Và đời sống trong niềm tin.
18. Yêu nhiều tha nhiều, yêu ít tha ít - William Barclay
Sách Tin Mừng của Luca đặc biệt nhấn mạnh về ân điển và sự tha thứ của Chúa Giêsu. Chỉ một mình Luca ghi lại lòng từ ái đối với quả phụ thành Nain, và cũng chỉ sách này kể lại lòng ưu ái của Ngài dành cho người đàn bà tội lỗi đã xức dầu dưới chân Ngài nơi nhà người biệt phái Simon. Tuy nhiên, đây không chỉ là bức tranh về lòng từ bi thương xót của Chúa, mà cũng là bức tranh về lòng biết ơn vô bờ của kẻ đã nhận món quà vô giá của ơn tha tội.
Có một sự lầm lẫn nào đó trong khi giải thích, nên có người đã cho người phụ nữ này là cô Maria Mácđala hay Maria em của Mátta ở Bêtania. Ba người này khác nhau. Thật ra Chúa có đuổi quỷ cho người thứ nhất, người thứ hai và người phụ nữ trong câu chuyện này đã xức dầu cho Chúa, nhưng có lý do khiến ta tin rằng trong ba người chỉ có một người là tội nhân.
Mọi việc diễn ra tại sân nhà ông Simon, một đạo sĩ Do thái. Các nhà của giới giàu có thường được xây quanh một khu sân rộng như một công viên trống trải. Thường trong sân có vườn cây và giếng nước, vào mùa nóng nực người ta bày ăn tại đó. Ở Paletttin mỗi khi có một rabi nào đến dự tiệc, thì mọi người được tự do đến nghe những lời khôn ngoan của rabi dạy. Thói quen đó giải thích sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Simon. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây: chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một rabi danh tiếng. Đường xá đầy cát bụi và giầy chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân để rửa sạch bụi và làm mát chân khách. Người ta cũng đốt lên một nhúm hương liệu cho thơm, hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách. Phép lịch sự đòi hỏi những điều đó, nhưng trong trường hợp này chủ nhà lại bỏ hết. Khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc. Họ dựa trên những chiếc gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, tay mặt để tự do, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đó cho phép người đàn bà có thể đứng gần chân Chúa Giêsu.
Simon là một đạo sĩ Do thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái. Tại sao một người như vậy lại mời Chúa Giêsu tới nhà mình? Rất có thể Simon này là người thích nổi tiếng, với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời chàng thanh niên kỳ lạ này đến ăn tiệc trong nhà mình. Vì thế ta hiểu tại sao có sự pha trộn vừa có vẻ tôn kính lại vừa bỏ qua phép lịch sự phải giữ. Hẳn Simon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.
Người đàn bà trên đây nổi tiếng là xấu nết, một gái mãi dâm. Dường như nàng đã đứng lẫn vào đám đông để nghe Chúa giảng, đã gặp Chúa trước đó, đã ăn năn tội của nàng và được Chúa tha thứ. Theo tập tục của phụ nữ Do thái, một chai nhỏ dầu thơm nguyên chất, quen gọi là bình ngọc, rất đắt tiền thường được đeo trên cổ. Nàng chỉ ước ao được đổ bình dầu thơm đó lên chân Ngài, vì đó là tất cả những gì nàng có để dâng cho Ngài.
Nhờ lòng biết ơn, nàng được can đảm đi vào nhà Simon trước con mắt xoi mói của nhiều người khi Chúa Giêsu đang là khách trong nhà ông. Nàng đến để xức dầu chân Chúa, nhưng khi nhìn thấy Ngài, nàng quá cảm động nước mắt đổ ra chảy xuống chân Ngài. Nàng vội vàng tháo tóc ra lau khô rồi đổ chai dầu thơm lên. Một phụ nữ Do thái xõa tóc nơi công cộng là đã phạm một lỗi lớn về phẩm hạnh. Người đàn bà này tỏ ra quên hẳn mọi người có mặt chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu thôi. Đối với nàng không có cách nào hơn để biểu lộ lòng biết ơn và sự hy sinh nhiệt thành của mình.
Việc Chúa để cho một người phụ nữ kém phẩm hạnh biểu lộ lòng kính yêu đối với Ngài khiến Simon kết luận rằng Chúa Giêsu có lẽ không phải là tiên tri, vì nếu là tiên tri hẳn Ngài phải biết sự thật về người đàn bà hư hoại này.
Câu trả lời của Chúa tỏ ra rằng Chúa có thể đọc được những ý nghĩ tưởng thầm kín của ông chủ nhà. Câu trả lời chẳng những đáp lại lời chỉ trích thầm lặng của chủ nhà, mà còn cho thấy tình trạng tâm hồn của ông, Simon không biết sự thiếu thốn của mình, vì thế không cảm biết tình yêu, và cũng vì thế không nhận được ơn tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra ví dụ về hai người mắc nợ rồi được tha, giải thích rằng lòng biết ơn nhiều hay ít tùy theo món nợ được tha nhiều hay ít, rồi áp dụng nguyên tắc ấy cho Simon và người đàn bà mà ông có ý khinh dể. Chúa Giêsu kể cặn kẽ Simon đã thiếu tình yêu đối với Ngài như thế nào rồi đem đối chiếu với sự ân cần của người phụ nữ. Khi vào nhà, Simon đã bỏ qua tục lệ đưa nước rửa chân cho Ngài, còn người đàn bà đã rửa chân Ngài bằng nước mắt; Simon đã bỏ qua cái hôn mà đáng lẽ người chủ phải dùng để đón chào vị khách, người đàn bà đã nồng nhiệt hôn chân Ngài; Simon không đem dầu thơm xức cho vị khách quý, còn người đàn bà này đến với mục đích duy nhất để xức dầu thơm lên chân Chúa.
Sứ điệp của Chúa thật rõ ràng qua thí dụ đó: "Yêu nhiều tha nhiều, yêu ít tha ít". Chúa không có ý nói rằng trước đó nàng chưa được tha tội cũng không có ý nói tình yêu là điều kiện để được tha tội. Ngài có ý nói rằng tình yêu của nàng là kết quả của sự tha thứ, và câu nói của Ngài diễn giải ra thế này thì đúng hơn: "Ta nói cho ông hay, tội lỗi đầy dẫy nơi nàng đã được tha, ông có thể suy đoán điều đó căn cứ vào cách biểu lộ lòng yêu thương của nàng". Phần còn lại trong câu thì dành cho Simon: "Kẻ được tha ít thì yêu thương ít". Những lời ấy không minh chứng Simon được tha tội, câu ấy chỉ rằng sở dĩ ông thiếu tình yêu vì ông không cảm biết được sự thiếu thốn của mình, cũng vì thế ông đã ông nhận được ơn tha thứ. Simon tin tưởng mình là người tốt trước mặt loài người và Thiên Chúa.
Rồi Chúa quay lại người phụ nữ nói một lời chúc phúc: "Tội của chị đã được tha rồi". Như vậy Ngài xác nhận sự tha tội đã được ban cho nàng rồi, hơn nữa Ngài cũng biện minh cho nàng trước công chúng để họ biết rằng nàng đã bước vào một cuộc sống mới. Họ ngạc nhiên khi nghe Ngài tuyên bố sự tha tội. Đây là chức vụ của Đấng Mêsia, nhưng Con Người lý tưởng mà Luca ghi chép về tấm lòng nhân hậu ở đây, cũng đồng thời là con Thiên Chúa. Cuối cùng Ngài quay lại người phụ nữ phán cho nàng những lời ân huệ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an".
Đây là bài học rõ ràng về việc đức tin đem lại ơn tha thứ, sự tha thứ đem lại lòng biết ơn và lòng biết ơn được diễn tả qua một hành động yêu thương tận tụy. Một thái độ như vậy có thể ra đi trong bình an nghĩa là hưởng được sự hiện diện liên tục của bình an này.
Con người tự sức mình đâu có đáng được tha thứ, vì tội xúc phạm tới Chúa thì sự nặng nề vô cùng. Do đó phải chạy đến với Bí tích Hòa giải, nới đó Chúa tha thứ cho chúng ta nhờ công đức của Chúa Giêsu Kitô. Điều kiện duy nhất không gì có thể thay thế về phía của chúng ta là tình yêu sám hối. Chúng ta nhận được tha thứ là tùy theo mức độ ta cảm nhận tình yêu mến; khi lòng chúng ta đã tràn đầy tình yêu, thì đâu còn chỗ cho tội lỗi trong đó vì khi đó chúng ta đã dọn một chỗ rõ rệt cho Chúa Giêsu Đấng nói với chúng ta như đã nói với người đàn bà tội lỗi: "Tội con đã được tha". Lòng sám hối của chúng ta là bằng chứng lòng ta yêu Chúa. Nhưng thực ra chính Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4,10). Khi Chúa tha thứ cho ta, Thiên Chúa biểu lộ Người yêu ta. Do đó, ta có yêu Chúa là chỉ đáp lại tình Ngài yêu. Sự tha thứ của Chúa là tưởng thưởng lòng biết ơn và tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
Thánh Augustinô giải thích: "Ai được tha thứ ít thì yêu ít". Bạn nói là bạn không phạm nhiều trọng tội, tại sao bạn lại không phạm? – Vì Chúa đã cầm lấy tay bạn. Không có tội nào mà người ta không thể phạm nếu Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, không cầm lấy tay (Sermon 99,6). Như thế, chúng ta phải yêu Chúa ngày càng nhiều hơn, vì chẳng những Ngài tha thứ tội được, mà còn nhờ ơn Ngài ban, gìn giữ ta khỏi vi phạm.
Chúa Giêsu tuyên bố rằng niềm tin đã dẫn đưa người phụ nữ tội lỗi tới quỳ dưới chân Ngài và tỏ lòng sám hối. Nhờ sám hối nàng đáng được ơn tha thứ. Cũng thế khi chúng ta tới tòa Hòa giải, chúng ta phải có một xác tín rằng đây không phải là cuộc đối thoại giữa con người mà là đối thoại với Thiên Chúa; đây là tòa công lý, dứt khoát. Nhưng trên hết là tòa thương xót mà quan án xét xử là Đấng đầy lòng yêu mến "Không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng mong nó ăn năn và được sống". (Ed 33,1)
Tinh thần tự mãn ngăn cách loài người vớ Thiên Chúa, và điều lạ là hễ ăn càng tốt thì càng cảm biết tội lỗi của mình cách sâu xa. Phaolô nói về tội nhân: "Trong số đó tôi đứng đầu". (2Tm 1,25) Thánh Phanxicô Assisi nói: "Không ở đâu có một tội nhân khốn nạn hơn tôi!".
Thật rất đúng khi nói rằng tội nặng nhất là không nhận biết tội mình, nhưng ai cảm biết mình thiếu thốn sẽ mở cửa vào ơn tha thứ của Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu và vinh hiển lớn nhất cho tình yêu là được thấy người đời tìm cầu đến tình yêu.
PHÚC ÂM CỦA PHỤ NỮ (Lc 8,1-3)
Luca viết Phúc Âm của phụ nữ. Chỉ có một mình ông ghi lại những việc xảy ra cho cuộc đời của bà Êlisabet, Đức Maria, cụ bà Anna liên quan đến thời thơ ấu của Đức Giêsu. Chỉ có ông kể lại câu chuyện bà góa Nain được Chúa cứu người con trai sống lại, chuyện người đàn bà khòm lưng dưới ách ma quỷ đã được Chúa giải cứu, chuyện nữ tội nhân xức dầu chân Chúa, chuyện người đàn bà chúc mừng Mẹ Chúa, quang cảnh gia đình chị em Matta và Maria, và chuyện những người đàn bà thương khóc Ngài trên đường núi Sọ. Và có lẽ, ý nghĩa hơn hết là câu Luca nói về Chúa Giêsu lúc Ngài và các môn đệ đi quanh vùng Galilê để rao giảng Tin Mừng thì một toán phụ nữ đi theo, những người này lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ.
Cửa nhà hội từ nay không còn mở ra cho Ngài như trước nữa. Có thể nói, Ngài đã bắt đầu trong Giáo Hội, là nơi lẽ ra có đông dân chúng sẵn lòng hưởng ứng và tiếp nhận những sứ giả của ngài. Nhưng thay vì được hoan nghênh, Ngài đã bị chống đối, thay vì thính giả lắng nghe, Ngài đã gặp các thày dạy luật và các đạo sĩ Do thái là những kẻ chỉ rình mò và bắt bớ Ngài trong lời nói cũng như việc làm. Vì thế, Ngài ra ngoài, giảng dạy trên đường, nơi sườn đồi hay trên bờ hồ.
1. Đoạn Kinh Thánh này nói đến một nhóm phụ nữ phục vụ Chúa bằng của cải của họ. Việc nâng đỡ một rabi bao giờ cũng được coi là một việc đạo đức, cho nên những tín hữu sốt sắng của Chúa Giêsu giúp đỡ Ngài theo cảnh đó là việc phù hợp với thói thường. Nhưng đối với số phụ nữ này, cũng như đối với các môn đệ, chúng ta nhận thấy đó là một nhóm người pha trộn rất kỳ lạ.
Có Maria Mácđala, là người đã được Chúa trừ khỏi bảy quỷ dữ. Rõ ràng nàng đã có một cuộc đời tối tăm, ghê rợn. Lại có bà Gioanna, vợ ông Khuda, quan nội vụ của Hêrôđê. Một vị vua thì có nhiều lợi lộc và tài sản, quan nội vụ là người quản lý các vấn đề tài chánh của nhà vù. Trong đế quốc La mã, dù trong các tỉnh dưới quyền cai trị của tống trấn Thượng viện cắt đặt, thì hoàng đế cũng đặc cách quan nội vụ riêng để coi sóc tài sản của mình. Vì vậy, không có vị quan nào quan trọng hơn và được tín nhiệm hơn là quan nội vụ. Thật là điều lạ lùng khi thấy Maria Mácđala với một dĩ vãng không mấy sáng sủa và bà Gioanna một mệnh phụ phu nhân của triều đình ở chung một nhóm với nhau. Chúng ta không biết nhiều về các bà này, ngoại trừ một điều quan trọng, ấy là động cơ thúc đẩy họ phụng sự Chúa là lòng biết ơn, họ là những người được Chúa trừ tà và chữa bệnh cho. Đó là quyền năng tuyệt đối của Chúa Giêsu khiến những người khác tính nhau có thể gánh chung ách với nhau. Nếu chúng ta thất bại, thì đó là lỗi của chúng ta, vì trong Chúa Giêsu, điều đó có thể làm được và điều đó đã làm rồi.
2. Câu này của Luca ngắn ngủi nhưng rất có ý nghĩa; nó hé mở cho ta một tia sáng để trả lời một câu hỏi tò mò mà ta không tìm thấy câu giải đáp nào trong các sách Tin Mừng. Trong những ngày đi truyền đạo, Đức Giêsu và các môn đệ đi theo Ngài sống nhờ nguồn tài chánh nào? Hẳn nhiên những kẻ đã nhận nơi Ngài những sự cứu giúp thuộc linh, rất sung sướng được cung ứng cho Ngài những nhu cầu tạm thời và phục vụ cho Ngài khi cần thiết. Đây là những phụ nữ có những sự giúp đỡ rất thực tiễn. Là đàn bà, họ không được phép giảng dạy, nhưng họ cung cấp những thứ họ có.
Có một anh thợ giày kia đã có một thời chàng mơ ước được làm linh mục, nhưng con đường dẫn tới đó không bao giờ mở ra cho anh. Anh là bạn thân của một chủng sinh thần học. Khi thấy bạn mình được tiến chức linh mục, anh xin cho mình một đặc ân là thường xuyên đóng giày cho linh mục bạn, để anh có cảm giác vị linh mục đang mang giày của ông nơi thi hành chức vụ là nơi chính anh đã không bao giờ đạt tới.
Ai có thể ước lượng được những góp phần và hy sinh mà nữ giới trải qua các thời đại đã đóng góp vào việc truyền bá Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Không phải những người xuất đầu lộ diện bao giờ cũng là kẻ làm việc lớn nhất. Không có ân tứ nào mà lại không ích lợi cho việc phục vụ Chúa. Nhiều đầy tớ lớn của Chúa vẫn ở hậu trường không ai thấy, nhưng họ rất cần thiết cho công việc của Ngài.
Người chồng trang trí căn phòng mới của ông và quyết định biến nó thành một nơi trưng bày các phần thưởng, những thành tích mà ông và hai người con trai của ông chiếm được trong các cuộc tranh tài thể thao. Khi ông trang trí đầy ắp hai bức tường trong phòng, ông lưu ý vợ ông rằng: "Bà không có gì để trưng bày sao! Thật là xấu hổ!"
Ngày hôm sau, người vợ cho sao lại giấy khai sinh của hai đứa con của họ, đóng khung đàng hoàng và treo lên bức tường trang trí của người chồng.
"Hưởng ánh sáng của ngọn đèn, bạn đừng quên cám ơn người cầm chiếc đèn đang đứng trong bóng tối". (Tagore)



XƯƠNG THÁNH ANTÔN  HAY LÀM PHÉP LẠ












HÔN XƯƠNG THÁNH ANTÔN



               CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN C

















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét