CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Dcr. 12, 10-11; 13,1; Gl. 3,
26-29; Lc. 9, 18-24
MỤC LỤC
1. Tin hay không tin?
2. Nhận diện Đức Kitô - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
3. Đức Kitô là ai?
4. Thầy là ai?
5. Dấu chứng tình yêu – Thiên Phúc
6. "Lúc này đây, theo con, Ta là
ai?"
7. Chỉ có Mầu nhiệm Vượt Qua mới quan
trọng
8. Các con bảo Thầy là ai? – Veritas
9. Đáng lý không thể có được... –
Achille Degeest
10. Mầu nhiệm Vượt Qua là những vấn đề
gì?
11. Lệnh truy nã
12. Đấng Mêsia đau khổ – Flor McCarthy
13. Những đòi hỏi của cuộc khổ nạn - R.
Gutzwiller
14. Hai câu hỏi – Mark Link
15. Từ bỏ mình
16. Con Thiên Chúa
17. Đấng Kitô
18. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
19. Chú giải của Noel Quesson
20. Chú giải của Fiches Dominicales
1. Tin hay không tin?
Phêrô đã tuyên xưng Đức Kitô là Con
Thiên Chúa, còn chúng ta, chúng ta có tin Ngài hay không? Hẳn chúng ta còn nhớ
lời tiên báo của ông già Simêon: Con trẻ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp
phạm. Và sự thật đã được minh chứng qua dòng thời gian.
Đúng thế, Đức Kitô đã chia nhân loại
thành hai giới tuyến rõ rệt. Tin hay không tin, kiến thiết hay phá hoại như lời
Ngài đã nói: Ai không cùng Ta kiến thiết đó là kẻ phá hoại. Đức Kitô không chấp
nhận những thái độ lừng khừng và do dự, những thái độ đi nước đôi và bắt cá hai
tay. Vì ngươi không nóng cũng không lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.
Tuy nhiên dầu tin hay không tin, tất cả
mọi người đều biết rằng: Ngài không phải là một triết gia như những triết gia
khác, lý thuyết của Ngài không phải là một lý thuyết suông, chẳng dính dáng gì
đến đời sống con người và tín thư Ngài đã mang lại không thể để con người lãnh
đạm được. Trái lại, nó gói ghém một vấn đề hệ trọng nhất của nhân loại, một vấn
đề liên quan tới định mệnh của mỗi người chúng ta.
Những người đã đến với Đức Kitô, đã
sống với Ngài và vì Ngài là những người cương quyết dành cho Ngài tất cả lòng
trung thành không gì lay chuyển nổi. họ đã trung thành cho đến chết, chết dưới
nanh vuốt ác thú, chết dưới lưỡi gươm bạo chúa, hay ngã quỵ dưới làn đạn xé
thịt. Còn những kẻ không nhận Ngài thì ghét Ngài và nhất quyết không đội trời
chung với những ai tự xưng là môn đệ của Ngài.
Và như thế, những sự bách hại không làm
cho người tín hữu ngạc nhiên, vì họ nhớ tới lời tiên báo của Thầy mình: Họ đã
ghét Thầy thì họ cũng sẽ ghét các con. Họ ghét chúng ta vì chúng ta thuộc về
Thầy. Đức Kitô của Đức Kitô luôn bị phản đối, bị bách hại, không phải chỉ bằng
gươm giáo súng đạn, mà còn bằng những sự phỉ báng và bài xích. Chính Đức Kitô
ngày xưa cũng đã bị vu oan, tố cáo là tên phản quốc, phá luật, phạm đến Thiên
Chúa và bạn với bọn tội lỗi và thu thuế. Vấn đề Đức Kitô mãi mãi là một vấn đề
thời sự nóng bỏng, làm cho chúng ta phải băn khoăn suy nghĩ một cách nghiêm
chỉnh. Tin hay không tin.
Từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dường
như nghe thấy một thứ tiếng gọi, tuy âm thầm nhưng mãnh liệt, đòi chúng ta phải
trả lời dứt khoát, như là bước vào một cuộc mạo hiểm sống chết, bởi vì chính
Chúa cũng đã nói: Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Và như
thế vấn đề Đức Kitô là một vấn đề luôn quan trực tiếp đến mỗi tâm hồn, và chỉ
được giải quyết bằng một cuộc trao đổi của mỗi người trong tin yêu và phó thác.
2. Nhận diện Đức Kitô - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn
làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả
những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.
"Mesiah" trong tiếng Do thái
và "Kitô" trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng
được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự
như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy
nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa
nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống
trị khắp địa cầu.
Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn
các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận.
Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa
Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng
Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em
tuyên xưng: "Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Chúa Giêsu hài lòng
về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu
Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến
một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải
thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.
Trước hết, Chúa Giêsu "nghiêm
giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai". Không được nói cho họ
biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh
Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra
nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.
Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết
con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: "Con Người
phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết
chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy". Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ
nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ
là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang
trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường
dẫn đến hạnh phúc đích thực.
Rồi Chúa nói với các môn đệ: "Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả
vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy". Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không
thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn
đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để
đến sự sống.
Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là
gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta
cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô
đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được
sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh
phúc đích thực.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ
Người là Đấng Kitô?
2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con
đường nào?
3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường
nào?
4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ
thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực
hay bé nhỏ?
5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường
Chúa đã chỉ cho tôi không?
3. Đức Kitô là ai?
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta
thấy Phêrô, đã thay mặt cho nhóm mười hai, tuyên xưng:
- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống.
Tuy nhiên, biết Chúa Giêsu là Đức Kitô
mà thôi chưa đủ, điều quan trọng đó là còn phải hiểu danh xưng ấy theo ý nghĩa
nào?
Thực vậy, mặc dầu Phêrô đã tuyên xưng
đức tin, nhưng liền sau đó, ông lại tỏ ra chẳng hiểu biết gì về sứ mạng của
Ngài, bởi vì vào thời bấy giờ, người Do Thái có những quan niệm rất khác biệt
nhau về Đức Kitô. Điều nay cũng dễ hiểu, bởi vì danh từ khó mà phản ảnh đúng về
con người.
Chẳng hạn chúng ta có thể gọi một người
là tổng thống hay chủ tịch, nhưng trong thực tế, đó có thể chỉ là một tên độc
tài tàn bạo, chứ không phải là một nhà lãnh đạo như trong các thể chế dân chủ.
Chính các tông đồ cũng đã hiểu lầm về sứ mạng của Đức Kitô. Các ông coi Ngài
chỉ là một Đấng cứu tinh trong phạm vi trần tục, sẽ giải thoát dân tộc các ông
thoát khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và rồi các ông sẽ được chia chác
phần vinh quang, được ngồi bên phải và bên trái, nghĩa là được giữ những chức
vụ to lớn trong vương quốc của Ngài.
Ngày nay cũng vậy, không phải tất cả
mọi người tuyên xưng Đức Kitô đều hiểu theo cùng một nghĩa và nhất là hiểu đúng
cái nghĩa mà Ngài muốn chúng ta phải hiểu. Thực vậy, có quá nhiều những nét
huyền thoại đã được tô lên khuôn mặt đơn sơ và khiêm nhường của Đức Kitô, khiến
cho nhiều người chẳng còn có thể nhận diện được Ngài nữa. Đức Kitô hôm nay có
lẽ đã được tô vẽ bằng những nét vinh quang, siêu việt và cao cả. Ngài đã trở
thành một vị thần minh ngự trên chín tầng trời, khác biệt với Đức Kitô của lịch
sử.
Rồi chúng ta hiểu thế nào về danh từ
«Con Thiên Chúa hằng sống?» Có phải theo nghĩa là thiên tử, là con trời kiểu
Trung Hoa chăng? Hay theo kiểu thần thoại? Chúa Giêsu quả thật là Đức Kitô, là
Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa làm người. Nói cách khác, Thiên Chúa đã
muốn tự mạc khải trong chính con người Đức Kitô. Ngoài con người ấy ra, không
ai thấy được Thiên Chúa...
Dân Do Thái ngày xưa đã không tin Ngài
là Đức Kitô, bởi vì họ không thể tin rằng Thiên Chúa lại hiện thân như một con
người bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường: Con của một bác thợ mộc,
sống một cuộc đời không có gì đặc biệt ở giữa họ.
Ngày nay trong thực tế, có lẽ nhiều
người tín hữu cũng không thể nào tin yêu Đức Kitô, nếu họ gặp Ngài dưới hình
dạng một con người tầm thường như vậy. Cứ nhìn các ảnh tượng người ta đã vẽ, đã
tạc thì thấy rõ là ai ai cũng chỉ muốn tin nhận một Đức Kitô phi thường và siêu
việt. Đức Kitô đối với nhiều người chỉ còn là Chúa, chứ không còn là người nữa.
Chúng ta tin vào một Đức Kitô toàn
năng, một Đức Kitô chiến thắng, bởi vì chỉ có Đấng ấy mới có thể đáp ứng những
đòi hỏi, những ước mơ không cùng của con người, bù trừ được những thiếu sót mà
con người, tự sức riêng, không thể nào giải quyết nổi.
Thế nhưng, sự thật lại không phải là
như vậy. Đức Kitô đến không phải để được đề cao, để được tôn vinh, nhưng đến để
cùng đi, cùng sống với loài người, trong thân phận của một con người, của một
tôi tớ, của một nô lệ. Với trí khôn, chúng ta không thể nào hiểu biết, nhưng
với tình yêu, chúng ta sẽ dễ dàng tin nhận.
Phải, chỉ có những người biết yêu
thương như Đức Kitô đã yêu thương, mới có thể nhận biết ngài là Đức Kitô của
Thiên Chúa, bời vì Thiên Chúa là Tình yêu và con tim có những ly lẽ riêng của
nó.
4. Thầy là ai?
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Đám đông bảo Thầy là ai?
Nói chung đám đông coi Ngài là một ngôn
sứ đã khuất, nhưng nay sống lại: một Gioan Tẩy Giả, một Êlia hay một ngôn sứ
nào khác. Hiểu như thế đã là kính trọng lắm rồi, nhưng tiếc thay lại không
đúng, vì Đức Giêsu chẳng phải là người của kiếp trước hiện về...
Hôm nay tôi cũng cần biết người quanh
tôi nghĩ gì về Ngài: một nhà cách mạng xã hội? Một nhà cải cách tôn giáo? một
người đã dám sống và đã chịu chết, để khai sinh một xã hội bình đẳng và huynh
đệ đại đồng?
Có cái nhìn còn khiếm khuyết, nhưng đã
là một con đường rộng mở về chân lý.
Các con bảo Thầy là ai? Phêrô trả lời
đúng: Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa.
Bản thân tôi cũng phải trả lời câu hỏi
trên, sau khi đã theo Chúa một thời gian dài.
Đức Giêsu là một mầu nhiệm không ngừng
mở ra và lớn mãi. Ngài không thay đổi, nhưng sau mỗi biến cố, tôi lại khám phá
ra những nét mới nơi con người Ngài.
Ngài vẫn là một, hôm qua cũng như hôm
nay, nhưng Ngài thường đến với tôi dưới nhiều dáng dấp.
Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời
cho câu hỏi: "Con bảo Thầy là ai?"
Càng lúc câu trả lời càng được thanh
luyện.
Tôi sẽ sống dựa trên câu trả lời của
mình.
Đức Kitô bảo mình là ai?
Ngài thường định nghĩa mình bằng những
hình ảnh cụ thể. Tôi là Cửa (Ga 10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46).
Tôi là Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Bánh (6,51).
Định nghĩa nào cũng gắn chặt Ngài với
con người.
Cửa để chiên ra vào. Mục Tử để chiên
được sống. Ánh Sáng để ta dễ bước đi, Đường để đưa ta đến với Cha. Thân Nho để
các cành sinh trái, Bánh để nuôi nhân loại.
Đức Kitô sống cho con người và sống với
con người. Ngài nhận mình là Chúa, là Thầy, là Bạn, là Anh Trưởng của mọi người
chúng ta.
Ngài nhận mình là Đức Kitô dân Do thái
mong đợi.
Nhưng Ngài không giấu ta thân phận của
Ngài: phải vượt qua khổ đau và cái chết mới được vào cõi sống.
Đức Kitô bảo tôi là ai?
Kitô hữu là người vác thập giá theo sau
Đấng vác thập giá. Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi.
Thân phận Kitô hữu gắn liền với thân
phận Thầy mình: "Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài"
(2Tm2,11).
Mầu nhiệm Vượt Qua nằm ở trung tâm đời
sống Kitô hữu. Vượt qua lớn nhất là vượt qua chính mình mỗi ngày.
Từ bỏ chính mình là để có thể sống cho
tha nhân.
Mất mạng sống mình là để tín trung với
Chúa.
Ước gì tôi là tôi hơn, khi tôi ra khỏi
tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Gạt Đức Kitô ra khỏi đời tôi, mọi
sự sẽ sụp đổ, giống như một thân xác bị người ta lấy đi bộ xương, quả tim và
cái đầu." Bạn nghĩ gì về câu nói trên của Cha Phêrô Arrupe?
Ở Ấn Độ, nhiều người thích coi Đức
Giêsu như một nhà Đạo Sư (Guru). Theo ý bạn, ở Việt Nam, khuôn mặt nào của Đức
Giêsu dễ được chấp nhận hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,
Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu
của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất
trong tương quan giữa Thầy và Cha.
Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các
môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn
em đông đúc.
Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn
của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con
lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.
Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ
chúng con như người tôi tớ, rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay
cho chúng con trên thập giá.
Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng
của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
5. Dấu chứng tình yêu – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau
đây: Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ
linh tinh, Betty bước tới hỏi: - Có đồ gì đáng giá không? Ann trả lời: - Không,
toàn là đồ năm vố thôi.
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho
Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thập giá
cũ han gỉ và nói: - Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá
này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và
đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quý.
Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty
tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé òa lên
khóc. Betty liền hỏi: - Con sao vậy? Bobby nói: - Con không cầm lòng được khi
thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba
thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú
vì khám phá ra vật quý, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Đức
Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
Tin Mừng hôm nay kể, Đức Giêsu bất thần
hỏi các môn đệ: "Đám đông nói Thầy là ai?" Các ông thưa: "Họ bảo
Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là
một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại". Nhưng Chúa lại muốn biết suy
nghĩ của chính họ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Và chỉ một
mình Phêrô mau mắn, đầy xác tín thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên
Chúa" (Lc 9,18-20)
Phêrô trả lời quá chính xác, các môn đệ
khác thở phào nhẹ nhõm vì các ông còn mơ hồ không biết Thầy là ai. Và Đức Giêsu
mừng thầm vì công phu dạy dỗ mấy năm trời cũng không đến nỗi đổ sông đổ biển.
Nhưng Đức Giêsu phải xác định ngay rằng
Đấng Kitô đây không phải là vị vua chiến thắng muôn nước, bá chủ muôn dân, khôi
phục nước Israel, giải phóng nô lệ Rôma, như họ vẫn nghĩ. "Đấng Kitô của
Thiên Chúa" sẽ là vị vua chiến thắng tử thần, chinh phục các tâm hồn, khôi
phục quyền làm con Chúa, và giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, quỷ
ma.
Tuy nhiên, con đường đi đến chiến thắng
lại là con đường đau khổ, con đường thập giá: "Con Người phải chịu đau khổ
nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày
thứ ba sống lại" (Lc 9,22). Tất cả những ai muốn làm môn đệ Người, không
thể đi con đường nào khác: "Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23)
Thập giá tuy là một khí cụ độc ác và ô
nhục mà con người đã nghĩ ra để hành hạ kẻ khác, nhưng Đức Giêsu lại biến nó
thành dấu chứng của tình yêu: Tình yêu vâng phục thánh ý Cha và tình yêu dâng
hiến cho nhân loại. Khi nhìn lên thập giá, chúng ta không ngừng nghe vang vọng
lời yêu thương ấy. Chính tình yêu đã biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, và khổ
đau thành nỗi hân hoan.
Chúa đã chết thay cho chúng ta, mặc dầu
chúng ta không xứng đáng ơn cao cả ấy, tại sao chúng ta lại không dám chết cho
chính mình, từ bỏ tội lỗi để bước theo chân Người?
Chúa đã sẵn lòng chịu mọi đau khổ cực
hình thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta ngàn lần bất xứng, tại sao chúng ta
lại từ chối hy sinh cho anh em, đang cần sự nâng đỡ ủi an?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán: "Ai
muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ
cứu được mạng sống ấy", xin ban cho chúng con ơn can đảm, để chúng con
luôn sẵn lòng bỏ mình cho tình yêu.
Xin cho chúng con tìm được niềm vui khi
đón nhận mọi gian lao thử thách Chúa gởi đến trên đường đời. Amen.
6. "Lúc này đây, theo con, Ta là
ai?"
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng Chúa Nhật' –
André Sève)
"Còn các con nghĩ Thầy là
ai?"
Đây là câu hỏi kiểm tra quan hệ giữa
chúng ta với Chúa Giêsu. Một đàng, mầu nhiệm nhân tính của Ngài lớn lao và làm
hoang mang đến thế, đàng khác chúng ta tiến triển đến nỗi điều mà chúng ta trở
nên trong tương quan với Ngài không ngừng phải được xác định lại. Những ngày
này tôi đang nghiên cứu về một tác phẩm mới xuất bản về Kitô học và những tư
tưởng mới làm giao động những tư tưởng cũ của tôi. Đột nhiên xuất hiện trước
tôi khuôn mặt mà Chúa Giêsu phải có khi Ngài đã từng hỏi các môn đệ của Ngài:
"Giờ đây, đối với con, Ta là ai?"
Luca xác định rằng Chúa Giêsu đi ra
"cầu nguyện ở một nơi vắng". Luôn luôn Ngài tự chuẩn bị như thế khi
đến một giai đoạn mấu chốt trong cuộc đời của Ngài.
Trước khi bước vào những ngày khổ nạn,
Ngài muốn kiểm chứng tình hình quan hệ giữa Ngài với các môn đệ. Nếu Ngài chỉ
là một Luật sĩ, chính giáo huấn của Ngài là quan trọng nhất. Nhưng bởi vì tất
cả những gì Ngài là, người ta chỉ có thể lắng nghe và theo Ngài nếu người ta
tiến về chính con người của Ngài, về mầu nhiệm của Ngài. Câu "Theo các
con, Thầy là ai?" Không phải là câu hỏi tò mò và tình cảm của một ông
Thầy, đây là một sự kiểm chứng chủ yếu: nếu các con không cảm thấy Ta là ai,
các con sẽ không đi vào được trong quan hệ tuyệt đối duy nhất nối kết các con
với Ta.
Tuy nhiên thường gặp sai lầm này: chúng
ta đọc Tin Mừng và cố gắng sống Tin Mừng mà không kiểm chứng đủ các ý tưởng của
chúng ta về Chúa Giêsu. Phải có thể bắt đầu mỗi khi nghe hoặc đọc Tin Mừng –và
hơn nữa là mỗi giai đoạn quan trọng của cuộc sống tín hữu- bằng cách tự đặt
mình dưới câu hỏi: "Theo con, vào lúc này đây, Ta là ai?".
Thế là chúng ta sẽ tiến bộ theo hai
cách: trong việc nhận biết Chúa Giêsu và trong xác tín rằng chúng ta chỉ sống
điều gì đó thực sự với Ngài (lắng nghe, yêu mến và đi theo Ngài) khi miệt mài
tự đặt mình trước mầu nhiệm dưới đất và trên trời.
Mỗi lần chúng ta nắm vững một tước
hiệu, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời, Thiên Chúa và Con Người, Đấng
Giải Phóng và có thể là Ômêga của Teilhard de Chardin, chúng ta bị cám dỗ tin
rằng chúng ta nắm vững mầu nhiệm. Nhưng không, quan hệ với Chúa Giêsu là một
cuộc tìm kiếm vĩnh viễn có hai căn tính: "Giờ đây, ta là ai? Và giờ đây,
đối với ta, Chúa Giêsu là ai?"
Đàng khác đây là chân lý của mọi quan
hệ: quan hệ này là một sự điều chỉnh không ngừng từ hai phía bởi vì hai phía
đều thay đổi. Đây là sự thường tình mà chúng ta rất thường hay quên trong việc
thực hành các quan hệ thông thường với nhau, và hơn thế nữa với Chúa Kitô.
- Nhưng Chúa Kitô không thay đổi phải
không?
- Có chứ, dưới hai khía cạnh. Trước
tiên, Ngài luôn luôn được biết rõ hơn. Các nhà chú giải, các nhà thần học, các
nhà thần bí và Dân Chúa được Thánh Linh tác động, không ngừng tìm hiểu mầu
nhiệm của Ngài.
Đó là mầu nhiệm của một Đấng hằng sống!
Kết quả của sự Nhập Thể và Sống Lại, điều mà Chúa Kitô sống với con người từ
thời đại này tới thời đại khác, làm cho Ngài thành một Chúa Kitô đang thay đổi,
một Chúa Kitô "hoàn toàn" hơn, trong khi chờ đợi ngày Ngài sẽ có được
toàn bộ tầm vóc của Ngài. Thật sự chúng ta chỉ có thể lui tới với Ngài bằng
cách để cho mình được tác động do câu hỏi luôn luôn thời sự này của Ngài:
"Lúc này đây, theo con và theo thế giới trong đó con đang sống và đang ảnh
hưởng tới con, Ta là ai?".
7. Chỉ có Mầu nhiệm Vượt Qua mới quan
trọng
(Trích dẫn từ 'Giảng Lễ Chúa Nhật' –
Charles E. Miller)
Ngày thứ sáu Tuần Thánh, người ta lũ
lượt kéo nhau đến nhà thờ; đây là một việc làm chính đáng. Họ biết cái chết của
Chúa Giêsu trên thập giá quan trọng đối với đạo chúng ta đến mức nào. Rồi đến
Chúa Nhật Phục Sinh, con số này tăng lên rất nhiều, chật cả nhà thờ; và đây là
một việc làm chính đáng. Người ta nhận ra việc cử hành Chúa sống lại mang một ý
nghĩa đặc biệt. Nhưng rồi những ai đi lễ thường xuyên ghi nhận số giáo dân dự
lễ giảm dần sau ngày lễ Phục Sinh.
Những người đi lễ đều đặn thường dễ có
xu hướng tự hỏi, "Thế trong những ngày còn lại trong năm số giáo dân kia ở
đâu?". Chúng ta phải trả quyền phán xét lại cho Thiên Chúa, đồng thời nên
suy nghĩ theo bản năng nhận thức của mình rằng mọi Chúa Nhật đều quan trọng đối
với chúng ta là những người Công Giáo, và Thánh lễ phải là một phần không thể
tách rời của ngày Chúa Nhật để chúng ta có thể cử hành nghi thức cứu độ của
mình. Thật vậy, Giáo Hội dạy rằng Chúa Nhật là ngày thánh thiêng nhất trong mọi
ngày theo một truyền thống từ thời các Thánh Tông Đồ. Người Công Giáo không đi
lễ Chúa Nhật cũng giống như các thành viên trong một ban nhạc mà không có đàn.
Trong cả hai nố, không ai có thể đạt được mục đích của mình. Và mục đích của
chúng ta trong ngày Chúa Nhật là cử hành các biến cố dẫn đến ơn cứu độ của
chúng ta.
Các biến cố này –cái chết và sự sống
lại của Chúa Giêsu– nối nhau diễn ra trong ba ngày, song ngày nay chúng kết hợp
lại thành một thực tại duy nhất mà Giáo Hội gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua. Đây là
toàn bộ mục đích của việc Con Thiên Chúa giáng trần. Từ thuở đời đời, Chúa Cha
đã xác định là tội lỗi và cái chết sẽ không ngăn trở được việc thực thi kế
hoạch của Ngài, và Chúa Con quả cứu chúng ta thoát khỏi tội lỗi và cái chết nhờ
Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người.
Cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu
là một phần ăn sâu vào suy nghĩ của Chúa Cha đến nỗi trong thời Cựu Ước, rất
lâu trước khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, đã có những dấu cho thấy những gì
sẽ xẩy đến. Là người phát ngôn của Thiên Chúa, Zacaria đã nói tiên tri về một
nhân vật bí ẩn mà cư dân Giêrusalem sẽ khóc than như các bậc cha mẹ than khóc
cái chết của đứa con một. Ông viết: "Chúng sẽ ngước nhìn lên... Đấng chúng
đã đâm thâu". Chúng ta biết Đấng ấy là Ai: là Con Một của Thiên Chúa, đã
chịu chết trên cây thập tự, và cạnh sườn Người đã bị lưỡi đòng đâm thâu.
Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu trong
Phúc Âm như đang trên một chuyến hành trình lên Giêrusalem. Người luôn hướng
mặt về Thành Thánh, bởi lẽ ngay tại nơi đây, lời tiên báo mà chính Người đã ba
lần thốt ra phải được ứng nghiệm: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều... bị
giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy".
Chúng ta công nhận ý nghĩa cái chết của
Chúa Giêsu qua lời tung hô Thánh Thể: "Chịu chết, Người tiêu diệt cái chết
của chúng con, và sống lại, Người phục hồi sự sống cho chúng con". Lúc một
tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giêsu, "tức thì máu cùng nước chảy
ra" (Ga 19,34). Truyền thống cổ xưa của Giáo Hội nhận ra nước ấy biểu
trưng cho Bí Tích Rửa Tội và máu ấy biểu trưng cho Bí Tích Thánh Thể. Hôm nay,
Thánh Phaolô nhắc nhở rằng lúc chịu phép Rửa, chúng ta "đều mặc lấy Đức
Kitô"; thật vậy, ta lãnh nhận một chiếc áo trắng, nói lên mình đã được mặc
lấy Đức Kitô, đã bắt đầu một cuộc sống mới –một cuộc sống mà Mầu Nhiệm Vượt Qua
đã giành lại cho chúng ta và giờ đây được Mình Thánh Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng.
Qua những lời tung hô khác lúc lên rước
lễ, chúng ta thưa, "Khi ăn tấm bánh này và uống chén máu này, lạy Chúa
Giêsu, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến trong
vinh quang". Mỗi Chúa Nhật, chúng ta cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua, một thực
tại đã luôn chiếm vị thế hàng đầu trong tâm trí của Thiên Chúa từ trước muôn
đời. Chúng ta đến dự lễ mọi ngày Chúa Nhật là để cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua.
8. Các con bảo Thầy là ai? – Veritas
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Lời tiên báo về cái chết của Ngài được
Chúa Giêsu đưa ra lần đầu tiên ngay sau khi nghe lời xưng nhận phi thường của
ông Phêrô. Đây là một trong những giây phút hệ trọng nhất trong cuộc đời của
Chúa Giêsu. Ngài hỏi câu đó khi Ngài đã nhất định đi lên Giêrusalem. Ngài biết
rõ những gì đang chờ đợi Ngài ở đó, và câu trả lời cho câu hỏi của Ngài là rất
mực quan trọng. Điều Ngài đã biết đó chính là Ngài đang tiến đến cây thập giá
để chết. Còn điều Ngài muốn biết trước khi Ngài ra đi là đã có ai thực sự khám
phá Ngài là Đấng nào chưa? Câu trả lời đúng sẽ thay đổi tất cả. Nếu không có
câu trả lời, mà chỉ có hiểu lầm, thì điều này có nghĩa là công việc của Ngài đã
uổng công. Nếu có một nhận thức nào đó, dầu rất sơ sài, thì điều đó có nghĩa là
Ngài đã thắp lên một ngọn đuốc trong tâm hồn loài người mà thời gian sẽ không
bao giờ tắt được.
Ngài bắt đầu đưa ra một câu hỏi:
"Dư luận quần chúng nói Thầy là ai?" Câu trả lời của họ cũng không
khác gì câu trả lời của người đời ngày nay: người này bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ
khác cho là Êlia, kẻ khác nữa cho là một tiên tri đời xưa sống lại: "Có nghĩa
là một nhà cải cách, một nhà đại truyền giáo, một sứ giả của Thiên Chúa".
Những lời phỏng đoán đó không làm cho Chúa Giêsu hài lòng, rồi quay về phía các
môn đệ: "Còn về phần các ngươi thì nói Ta là ai?" Lòng Chúa Giêsu hân
hoan biết bao khi khám phá bất ngờ của Phêrô tràn ra môi miệng ông: "Thầy
là Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa". Khi nghe điều đó Ngài biết mình đã không
thất bại.
Đây là một xác định vĩ đại về Đấng Kitô
mà cả thế giới ngày nay vẫn được nghe, nhưng lúc ấy Chúa Giêsu căn dặn các môn
đệ: "Đừng nói điều ấy với ai". Không những các môn đệ phải khám phá
ra sự kiện đó, mà các ông còn phải khám phá ra ý nghĩa của sự kiện đó nữa. Các
ông đã lớn lên trong một nền tư tưởng dạy rằng, phải trông đợi từ Thiên Chúa
một vị vua chiến thắng sẽ dẫn dắt họ đến địa vị bá chủ thế giới. Cặp mắt của
Phêrô hẳn đã sáng lên một niềm xúc động khi ông thốt lên lời đó. Nhưng Chúa
Giêsu còn phải dạy cho các ông biết rằng Chúa Cứu Thế đã đến để chết trên cây
thập giá. Ngài phải làm đảo lộn tư tưởng của các ông về Thiên Chúa và ý muốn của
Ngài, và từ giờ phút này, Ngài sẽ để tâm làm việc đó. Các ông đã khám phá ra
Ngài là ai, bây giờ các ông còn phải khám phá thêm ý nghĩa của sự khám phá đó.
Chính các môn đệ phải biết ý nghĩa về sự chết và sống lại của Chúa trước đã.
Ngày nay không một người nào có thể làm chứng về Đấng Kitô mà lại không biết ý
nghĩa của sự chết chuộc tội và quyền năng của sự sống lại của Ngài. Rồi Chúa
Giêsu cho các ông biết sự chết mà Ngài sắp phải chịu là rất cần, và quả quyết
với họ rằng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Có hai điều cần phải biết trong đoạn
lời Chúa này:
. Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách hỏi
người ta đang nói gì về Ngài, rồi đột nhiên hướng câu hỏi thẳng vào nhóm môn
đệ: "Các ngươi nói Ta là ai?".
Không bao giờ được cho là đủ nếu chỉ
biết những điều người ta nói về Chúa Giêsu. Một người có thể trúng tuyển các kỳ
thi về những lời nói và tư tưởng cổ kim của thiên hạ về Chúa Giêsu, người ấy có
thể đọc hết các sách Kitô học, được viết bằng mọi thứ tiếng trên thế giới,
nhưng người ấy vẫn chưa phải là Kitô hữu. Chúa Giêsu phải là một khám phá riêng
của cá nhân chúng ta. Kitô giáo không phải là một câu chuyện lưu truyền. Đối
với mỗi người, Chúa Giêsu không đến với câu hỏi rằng: "Ngươi có thể nói
cho ta những điều kẻ khác đã nói và biết về Ta chăng?". Nhưng Ngài hỏi:
"Ngươi nói Ta là ai?" Phaolô đã không nói: "Tôi biết điều tôi đã
tin", nhưng ông nói: "Tôi biết Đấng tôi tin". Kitô giáo không có
nghĩa là đọc một bản tín điều nhưng là biết một Đấng nào.
Trong đoạn này chúng ta nghe tiếng
"phải" từ miệng Chúa Giêsu, Ngài phán: "Ta phải đi lên thành
Giêrusalem Chịu chết".
Thật rất ý nghĩa khi chúng ta để ý đến
những tiếng "phải" Chúa nói trong Phúc âm Luca. Ngài nói: "Há
chẳng biết con phải lo việc của Cha con sao?" "Ta cũng phải loan báo
Tin Mừng cho các thành khác"; "nhưng ngày nay, ngày mai và ngày kia
Ta phải đi". Ngài thường nói đi nói lại với các môn đệ rằng, Ngài phải đi
đón cây thập giá của mình. Chúa Giêsu là người hiểu rõ mình có một định mệnh
phải thi hành. Ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn của Ngài. Ngài không có mục đích
nào khác với thế gian này ngoài việc làm trọn điều Thiên Chúa đã sai Ngài, là
Kitô hữu, cũng như Chúa của mình, là Người hằng vâng lời.
Định mệnh của Ngài cũng là định mệnh
của những kẻ là môn đệ của Ngài. Tại đây Chúa đặt ra các điều kiện cho những ai
muốn là môn đệ của Ngài.
Người đó phải từ chối mình. Điều đó có
nghĩa gì?
Một học giả đã giải thích như sau:
Phêrô đã một lần từ chối Chúa khi ông nói về Chúa Giêsu rằng: "Tôi không
biết người đó". Chúng ta từ bỏ mình là nói rằng: "Tôi không biết
tôi" tức là không biết chính sự hiện hữu của mình, coi mình như không có
vậy. Chúng ta thường tự đặt mình lên cao dường như mình là quan trọng nhất trên
thế gian này. Nếu muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải tự xóa mình đi, quên
chính bản thân của mình.
. Người đó phải vác thập giá của mình:
Cây thập giá không phải chỉ là biểu
hiện sự đau đớn vì sỉ nhục, và còn là dụng cụ của sự chết. Chúa Giêsu biết rõ
thế nào là đóng đinh vào thập giá. Khi Ngài còn là một cậu bé mười một tuổi,
thì Giuđa, người xứ Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Lamã. Ông đã đánh
phá kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth 6,4 cây số. Lamã trả
thù tức khắc, Sepphoris bị san thành bình địa, dân chúng bị bắt làm nô lệ, hai
ngàn loạn quân bị đóng đinh vào thập giá dựng dọc theo hai bên đường cái để làm
lời cảnh cáo ghê sợ cho kẻ nào muốn nổi loạn. Vác thập gía mình có nghĩa là
chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành
với Chúa, là chúng ta sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm
cho chúng ta vì chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.
. Người đó phải phân phát sự sống mình
chứ không tích trữ nó:
Toàn bộ các tiêu chuẩn trần gian phải
đổi thay. Các câu hỏi không phải là "Tôi có thể thâu tích bao
nhiêu?", nhưng là "Tôi có thể phân phát bao nhiêu". Không phải
việc gì là điều an toàn để làm, nhưng là việc nào là điều phải lẽ để làm, không
phải cái gì là tối thiểu được phép làm, nhưng là "cái gì là điều tối đa có
thể làm". Kitô hữu phải nhận thức rằng đời sống của mình là cho đi, không
phải giữ lấy cho mình, nhưng là đem phân phát đời mình cho kẻ khác, không phải
là tiết kiệm năng lực, nhưng là tiêu hao năng lực cho Chúa và tha nhân.
Thật ra sự chọn lựa này, nói cho cùng
chỉ vì: "Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay vì Đức Kitô, tôi cho
là thiệt thòi. Hơn nữa tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi
tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất
hết, vì tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hiệp với
Người".
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta
biết ơn trở thành những chứng nhân hữu hiệu của Ngài giữa anh chị em xung
quanh, chứng nhân trung thành với đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận và giờ đây
chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
9. Đáng lý không thể có được... – Achille
Degeest.
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật')
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là
Người – Chúa, Đấng thật sự làm người, muốn hoàn toàn đi vào kinh nghiệm nhân
loại chúng ta –ngoại trừ tội lỗi- một kinh nghiệm gồm cả tử vong. Ý nghĩ về sự
chết đặt ra cho nhân tính Chúa khi Người nhận thức rằng sự thù nghịch của giới
lãnh đạo và sự chống đối của dân chúng đưa Người đến chỗ chết. Đức Giêsu –
Người chấp nhận rằng công cuộc cứu độ gồm cả giai đoạn chết. Tuy nhiên trong
tâm hồn Đức Giêsu ý nghĩ về sự chết luôn luôn đi kèm theo ý nghĩ về sự sống
lại. Chúa không nghĩ rằng sự chết huỷ diệt bản thể Người. Chúa đi đến cái chết,
không phải vì tất nhiên phải chết, nhưng vì yêu thương và để đạt tới sự sống.
Chúa tự do hiến mạng. Nhờ Chúa, chúng ta dễ dàng chấp nhận sự chết. Đối với
chúng ta, sự chết tất nhiên phải đến, nhưng nhờ Đức Giêsu Kitô chúng ta có thể
biến đổi việc tất nhiên ấy thành một hành vi yêu thương tự nguyện. Ở ngưỡng cửa
sự chết của Người, Chúa đã nói: Lạy Cha, xin theo ý Cha! Chính chúng ta cũng có
thể nói lên câu ấy. Quyền tự do tối thượng của Chúa len lỏi vào trong định mệnh
cuối cùng của chúng ta, và giống Chúa, với Chúa, chúng ta có thể biến đổi sự
vâng theo thánh ý Thiên Chúa thành một hành vi yêu thương. Phải chăng đó là
phần nào ý nghĩa lời Chúa khuyến khích chúng ta hãy theo chân Người? Chúng ta
suy niệm về một bí nhiệm, và một lời gọi.
1) Bí nhiệm là thế này. Sự thương khó
và cái chết của Đức Giêsu là một điều đáng lý không bao giờ có được. Đức Giêsu,
con người hoàn toàn, tuyệt đối vô tội, không bị chi phối bởi bất cứ quy luật
tất nhiên nào, thế mà Chúa chịu đau khổ và chịu chết. Sau khi sống lại, Chúa sẽ
nói: Các ngươi không hiểu rằng Đức Kitô phải chịu khổ nạn ư? Khi loan báo cuộc
Thương Khó, Chúa nói: Con Người phải chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại. Có lẽ
ở đây chúng ta đứng trước một vực thẳm, khoa tâm lý học nhân loại chưa thám
hiểm tới. Chỉ có sự hy sinh mới thuyết phục được người ta, và cũng còn tuỳ
trường hợp. Giêrusalem đã giết các ngôn sứ rồi sau mới tôn kính các ngài. Con người
giết Thiên Chúa rồi sau mới nhìn nhận Người là nguồn sống... Chúng ta nghĩ rằng
không thể nào như thế được. Đức Giêsu nói rằng vụ bội bạc ghê gớm ấy phải xảy
ra. Một bí nhiệm không ai hiểu được.
2) Chúa mời gọi: Ai muốn đi theo Ta...
Một phần nhân loại cố gắng theo Đức Giêsu. Xuyên qua rất nhiều vụ yếu đuối,
thất bại. Giáo Hội dẫu sao gần một phần lớn nhân loại tiến bước theo chân Đức
Giêsu. Về mặt cơ bản, Giáo Hội có một ước vọng giống ước vọng của Chúa, là cứu
vớt con người. Còn gì cao quý hơn, đáng trọng hơn? Thế mà, đối với Giáo Hội
cũng xảy ra một sự đáng lẽ không thể có được: Giáo Hội không được hiểu biết, bị
bách hại, "bị đóng đinh vào thập giá". Giả sử chúng ta hỏi Chúa, có
lẽ Người trả lời: Chúng con không hiểu rằng tất nhiên phải như vậy ư? Đây cũng
là một bí nhiệm. Nhưng (chữ nhưng ở đây quan trọng vô cùng) Đức Kitô đã sống
lại, và Giáo Hội luôn luôn sống lại. Bí nhiệm là nguồn sống, thật vậy.
10. Mầu nhiệm Vượt Qua là những vấn đề
gì?
(Trích dẫn từ 'Giảng Lễ Chúa Nhật' –
Charles E. Miller)
Ngày thứ Sáu Tuần thánh người ta thường
tuốn đến nhà thờ thật đông. Họ biết rằng những ngày đó là những ngày quan trọng
trong đạo của chúng ta, ngày đó kỷ niệm sự chết của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, một đám đông lớn chật ních tất cả các nhà thờ
cũng như thế. Dân chúng biết rằng sự cử hành Phục Sinh của Chúa có một ý nghĩa
đặc biệt. Nhưng những người đi nhà thờ thường xuyên nhận thấy rằng sau lễ Phục
Sinh người ta đi lễ dần dần giảm sút.
Những người đi nhà thờ thường xuyên sẽ
bị cám dỗ tự hỏi: "Thời gian còn lại của năm họ đi đâu?". Hãy để
quyền xét đoán cho Thiên Chúa bây giờ chúng ta sẽ suy nghĩ về sự nhận biết ngày
Chúa Nhật thì quan trọng đối với chúng ta là những người Công giáo, khi Thánh
Lễ là một phần đặc biệt của ngày Chúa Nhật mà chúng ta mừng sự cứu độ của chúng
ta. Quả thật Giáo Hội đã dạy rằng ngày Chúa Nhật là ngày đầu tiên trong một
tuần, điều này có trong truyền thống đã truyền lại từ các tông đồ. Đối với
những người Công giáo, ngày Chúa Nhật không có Thánh Lễ thì giống như những
thành viên của một hội kèn không có nhạc cụ thì không thể làm viên mãn mục đích
của họ được. Mục đích của chúng ta vào ngày Chúa Nhật là cử hành biến cố cứu độ
của chúng ta.
Biến cố này là sự chết và sự Phục Sinh
của Chúa Giêsu đã được trải dài trong một thời ký ba ngày, nhưng bây giờ chúng
là một thực tại mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Vượt Qua là
toàn thể mục đích của việc Con Thiên Chúa vào trong thế gian. Từ đời đời Cha đã
xác quyết rằng tội lỗi và sự chết sẽ không cản trở dự định của Ngài, là Người
Con duy nhất của Ngài cứu độ chúng ta thoát khỏi tội lỗi và sự chết qua mầu
nhiệm Vượt Qua của Người.
Sự chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu
là một phần suy nghĩ của Cha trên trời đã có trong Cựu Ước, rất lâu trước khi
Chúa Giêsu sinh ra đã có những dấu hiệu những gì sẽ xảy đến. Giacaria như là
một người phát ngôn của Thiên Chúa đã tiên báo về một Con Người mầu nhiệm mà tự
con người đó dân chúng sẽ than khóc như cha mẹ than khóc trên cái chết của
người con độc nhất của mình. Ông nói rằng: "Dân chúng sẽ nhìn lên Người,
Đấng mà họ đã đâm thâu qua". Chúng ta biết rằng Đấng ấy là con người nào.
Đó là Đức Giêsu người Con độc nhất của Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thánh giá
và đã bị ngọn giáo đâm xuyên qua cạnh sườn.
Thánh Luca đã giới thiệu Chúa Giêsu
trong Phúc Âm như là một hành trình đi lên Giêrusalem. Gương mặt của Ngài luôn
luôn hướng về thành thánh kể từ khi những lời tiên tri của chính Chúa Giêsu đã
thốt lên ít nhất ba lần sẽ được ứng nghiệm: "Con Người sẽ phải chịu nhiều
đau khổ. Sẽ chết và sẽ sống lại vào ngày thứ ba".
Chúng ta nhận biết ý nghĩa về cái chết
của Chúa Giêsu trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta: "Bởi sự chết
Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự
sống cho chúng ta", khi cạnh nương long của Chúa Giêsu bị xuyên qua máu và
nước đã chảy ra. Theo truyền thống xưa của Giáo Hội, nước là biểu hiệu của phép
rửa và máu là biểu tượng của bí tích Thánh Thể. Thánh Phaolô ngày hôm nay đã
nhắc nhở cho chúng ta rằng, chúng ta đã chịu phép rửa để chúng ta được mặc lấy
Chúa Kitô. Tại phép rửa chúng ta đã lãnh nhận một áo trắng, biểu tượng đó là
chúng ta đã mặc lấy Chúa Kitô, chúng ta mặc lấy một đời sống mới, một đời sống
mà đã chinh phục chúng ta bằng mầu nhiệm Vượt Qua và bây giờ được nuôi dưỡng
bởi Thánh Thể.
Qua lời tuyên xưng, chúng ta nói về sự
tiếp nhận Thánh Thể của chúng ta: "Khi chúng ta ăn bánh và uống chén này
chúng ta tuyên xưng cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu cho đến khi Chúa lại
đến trong vinh quang". Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt
Qua, đó là một thực tại tuyệt cao trong tâm trí đời đời của Thiên Chúa. Chúng
ta cũng đến với Thánh Lễ vào mỗi ngày Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Vượt Qua.
11. Lệnh truy nã.
(Trích dẫn từ 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Trên một bức tường cao ốc tại thành phố
Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ, có dám một thông báo khổ lớn 5mx3m với
những dòng chữ sau:
Công lực có bổn phận truy mã thủ phạm
trọng tôi Giêsu Nagiaret,bí danh Messia, tức là Kitô. Theo chứng minh nhân dân,
phậm nhân mang quốc tịch Do Thái, sinh tại Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, hậu duệ
Đavit. Mẹ y là Maria, không đề tên cha, chỉ bố nuôi là Giuse-Nagiaret, miền
Galilê. Nghề nghiệp thợ mộc, lao động đủ sống, chưa lập gia đình.
Tội trạng: sau vụ phép rửa sám hối của
ông Gioan Tẩy Giả, tên Giêsu bỏ xưởng mộc, ngưng sản xuất, đi lang thang, kể
như vô gia cư, vô nghề nghiệp. Y tự ý kết nạp một số thanh niên đủ giai cấp
trong xã hội: dân chài lưới, bọn thu thuế, nông dân mộc mạc, kéo nhau đi rao
truyền một thứ Nước Trời nào đó sắp tới, làm náo động dân thị hiểu nhiều nơi,
làm cho nhân dân bỏ công việc làm ăn. Đó là tội gây rối trận tự trị an...
Thưa anh chị em,
Đây là câu chuyện giả sử của một nhóm
khá đông thanh niên nam nữ Hoa Kỳ muốn lôi kéo sự chú ý của dân chúng đến một con
người lịch sử lạ kỳ của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, đã xuất hiện trên địa cầu
cách đây 20 thế kỷ. Nhưng cho đến nay, người ta vẫn ái mộ hoặc đả kích kịch
liệt con người ấy và xem như ông vẫn ám ảnh nhiều người dài dài...
Vào lúc sinh thời tại Palestine, Ngài
cũng đã gây một dư luận quần chúng khác nhau chung quanh Ngài. Theo Tin Mừng
Thánh Luca kể lại, trong dân chúng, người thì nói: "Ông ấy là Gioan Tẩy
Giả"; kẻ khác lại nói: "Ông ấy là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào
khác...". Chúa Giêsu cũng đã nghe biết những dư luận hàm hồ nầy. Và có lần
Ngài hỏi các môn đệ, những người đã từng sống bên Ngài từ vài năm nay. Ngài đặt
câu hỏi: "Dư luận nghĩ Thầy như thế, còn anh em, anh em nghĩ Thầy là
ai?:" Các môn đệ im lặng. Câu hỏi nầy mới khó trả lời, vì đây không còn
nói đến những gì các ông nghe biết nữa, nhưng là nói đến điều các ông tin. Các
ông tin Thầy của mình là ai? Và niềm tin nầy sẽ thiết lập mối liên hệ của các
môn đệ với Chúa Giêsu. Ai cảm thấy mình chắc chắn để trả lời đây? Các ông không
nói: "Chúng con cũng nghĩ như dân chúng: Thầy là Gioan Tẩy Giả, là Êlia,
là một tiên tri...". Sự im lặng của các ông có thể muốn nói rằng:
"húng con nghĩ rằng Thầy còn hơn một tiên tri nữa...". Nhưng ai dám
nói điều đó?
Chính là Phêrô: "Thầy là Đấng Kitô
của Thiên Chúa". Phêrô trả lời như một người Do Thái có thể trả lời. Dân
Israel đang mong chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Nhưng điều đáng chú ý và thật là
quá sức để nói: "Chúng con tin Thầy là Đấng Thiên Sai Cứu Thế". Thế
mà Phêrô dám nói lên điều đó và không ai trong nhóm các ông nói ngược lại.
Phêrô nói thay lời anh em. Chúa Giêsu nói với Phêrô: đức tin của ông thật đúng
lúc. Chắc hẳn trong đời Phêrô có những lần ông bị trách là nghi ngờ, là tự cao
tự đại, là kém lòng tin. Đó là những giây phút ông không tin tưởng đủ. Nhưng ở
đây, ngay bây giờ thì đức tin của ông thật chính xác và mạnh mẽ.
Còn chúng ta, thưa anh chị em, khi nói
về đức tin của mình, chúng ta có chắc chắn được rằng đức tin đó còn trong chúng
ta không? Chúa Giêsu có chấp nhận đức tin của chúng ta như đã chấp nhận đức tin
của Phêrô không? Nói cách khác, nếu Chúa Kitô đến giữa chúng ta, chúng ta có
nhận được Ngài như Ngài muốn không? Nơi nào trên thế giới nầy có cái may mắn
nhất để tiếp nhận Ngài? – Ở Rôma, trung tâm của Giáo Hội hay ở các đền thờ hành
hương? – Không, ngay trong lòng chúng ta và nơi những người khác, Chúa chờ
chúng ta ở đó. Tôi muốn nói, nếu Đức Kitô trở lại giữa chúng ta, Ngài không làm
gì khác như trước đây 2000 năm Ngài đã làm: Ngài sẽ ở giữa chúng ta, với những
người nghèo khổ nhất trong chúng ta. Ngài sẽ ở giữa những gia đình như gia đình
Nagiaret của Ngài ngày xưa, và ai muốn gặp Ngài thì trước hết phải tìm Ngài nơi
Ngài đang ở, có nghĩa là nơi những người nghèo khó.
"Anh em bảo Thầy là ai?"
Nếu Chúa Kitô trở lại, con người ngày
nay phải trả lời cho Ngài thế nào? – Tôi đã được nghe nhiều người nói thế nầy:
- Ngài là Chúa, con kính mến Chúa trên
hết mọi sự. Chúa bảo gì con cũng làm hết, nhưng với những thù địch thì con
không thể nào yêu thương được, con chịu thôi!
- Hoặc là: Ngài là lý tưởng của con,
của tất cả mọi người. Nhưng lý tưởng của Ngài sáng chói quá, khó quá, ai mà
sống được như Ngài!
- Hoặc nữa: Ngài là người đã đặt ra
những luật lệ hay nhất, chính đáng nhất, nhưng làm sao chúng con giữ được, nhất
là sống thời buổi kinh tế thị trường nầy?...
Thưa anh chị em,
Những lời tuyên xưng đó chỉ là một cách
thức chối từ Chúa Kitô và đời sống của Ngài. Đó không phải là câu trả lời của
những người đang thực sự sống đức tin của mình. Sống đức tin là gì? Chính là
họa lại đời sống của Chúa Kitô nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta. Trả lời
câu hỏi của Chúa Giêsu: "Thầy là ai" là để cố gắng sống theo những gì
mình đã xác tín và tuyên xưng về Chúa Kitô, chứ không phải trả lời xong để rồi
cố thủ với con người, với ích kỷ, lười biếng của mình. Và một khi đã xác tín và
tuyên xưng: "Ngài là Đức Kitô", thì phải trung thành dấn thân theo
Ngài cho đến cái chết treo trên thập gí. Chết trên thập giá như Chúa Giêsu thì
rất hiếm, nhưng mọi Kitô hữu đều phải vác thập giá mỗi ngày trong đời sống và
phải sẵn sàng bước lên thập giá đó. Điều đó có ý nghĩa cụ thể là người ta không
thể là môn đệ của Đấng bị đóng đinh thập giá, nếu không chấp nhận như Thầy của
chúng ta, trở thành tôi tớ của anh em trong cuộc sống hằng ngày, như Thầy đã
làm.
12. Đấng Mêsia đau khổ – Flor McCarthy
(Trích dẫn từ 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ
Trọng')
Suy Niệm 1. TRỞ NÊN CHÍNH MÌNH.
Có những người thèm khát được tán
thưởng. Họ có lẽ đã lớn lên với cảm giác mình bị bỏ quên, bị chỉ trích và chê
bai. Người nào có sự nghi ngờ thật sự và sâu xa về chính mình luôn luôn chờ đợi
sự xác nhận của người khác.
Người nào càng thiếu căn tính của bản
thân và sự thành công, càng cảm thấy có nhu cầu đồng hoá mình với một nhóm xã
hội đang thành đạt. Có người đeo mặt nạ để chiếm được sự tán thưởng. Nhưng
người nào luôn phô trương, thì những dự tính hiếm khi đạt kết quả.
Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ:
"Dân chúng nói Thầy là ai?" Người không hỏi điều đó vì lợi ích của
Người mà vì lợi ích của họ. Người biết rõ Người là ai. Người có một sự tự chủ
phi thường đến nỗi Người có thể đối diện với cả sự nịnh hót và thù ghét với sự
thanh thản hoàn toàn.
Tin Mừng nói về sự từ bỏ chính mình, và
cũng nói về "chết cho chính mình". Đời sống tâm linh bao gồm từ bỏ
chính mình và chết cho chính mình, nhưng xét toàn bộ đúng hơn, đó là vấn đề trở
nên chính mình, tức bản ngã chân thật và viên mãn. Đó là điều quan trọng nhất
trong đời sống. Nếu trái lại, chúng ta không thể sống và hạnh phúc tràn đầy.
Vậy, dù đường đời chúng ta là gì thì vấn đề thật sự quan trọng là chúng ta phải
trở nên chính mình, không để cho nỗi sợ hãi điều người khác nghĩ về chúng ta
làm chúng ta tê liệt.
Trong đời sống công cộng, cái tôi thật
đặc biệt khó thấy rõ. Phongxiô Philatô biết rằng Đức Giêsu vô tội nhưng sợ làm
mất địa vị với vinh dự và các đặc quyền mà đối với ông là tất cả mọi ý nghĩa.
Khi chúng ta phạm tội vì sợ mất địa vị thì cái "bản ngã" của chúng ta
chìm sâu vào bóng tối. Nhưng bản ngã thật hiện rõ khi chúng ta làm theo lương
tâm, và có đủ dũng cảm để liều mình bước ra khỏi con đường xấu.
Bản ngã chân thật hiện rõ trong sự
khiêm nhường, qua mọi thất bại và cả những lầm lỗi. Đó là một sự phát triển
chậm và đẹp qua mọi giai đoạn của đời sống. Vì chúng ta lữ hành hướng về điều
đó, chúng ta được kêu gọi phải sống nhẫn nại và cho phép mọi việc xảy đến với
chúng ta –bệnh tật, khủng hoảng mất mát- để hoạt động một cách hiền hoà ở giữa
chúng ta. Khi chúng ta thật sự ước muốn sống chân lý, mọi việc sẽ cùng nhau
hoạt động cho điều tốt và cho sự phát triển của chúng ta hướng về sự trưởng
thành tâm linh.
Sự trưởng thành ấy có thể không thấy
được. Nó xảy ra bên trong chúng ta. Đặc biệt nó xảy ra trong những người khiêm
hạ và không quan trọng về mặt xã hội. Nó không cần mang đến phần thưởng danh dự
và tiền bạc. Nhưng nó sẽ dẫn đến một sự hiệp thông sâu xa với những người khác.
Trong quá khứ, tính tâm linh liên quan
đến việc mặc lấy một cái ngã khác –thường là một cái ngã sùng tín và thánh
thiện. Tính tâm linh thật ra không phải là vấn đề mặc lấy một cái gì từ bên
ngoài chúng ta, nhưng là rút ra điều mà chúng ta đã được ban cho. Đó là làm
hiện rõ cái bản ngã tâm linh của mình. Bản ngã tâm linh là bản ngã thật, làm
bằng chất liệu con người nhưng mang hình ảnh của Thiên Chúa.
Qua mọi giai đoạn phát triển, mục đích
thật sự trong đời sống là trở thành chính mình, là làm cho mọi rào cản sụp đổ
để cái "tôi" thâm sâu nhất có thể xuất hiện rõ ràng. Nó không muốn
trở thành điều mà những người khác muốn chúng ta trở thành hoặc hô hào chúng ta
quan tâm bằng mọi giá. Nó không muốn nỗ lực trở thành một người khác, những
trưởng thành từ hạt giống sự sống ở bên trong chúng ta. Chúng ta là những người
khách hành hương xa lạ trong cuộc hành trình để trở thành người mà chúng ta
thật sự vẫn là. Thật bi đát khi luôn luôn có rất ít người "chiếm hữu được
linh hồn họ" trước khi họ chết.
Suy Niệm 2. NHẬN THỨC CỦA DÂN CHÚNG
Dân chúng nói tôi là ai? Hoặc Tôi như
thế nào đối với những người khác? Đó là những câu hỏi mà nhiều người hỏi, nhưng
đặc biệt là những người được dân chúng nhìn vào.
Khi Đức Giêsu hỏi: "Dân chúng nói
Thầy là ai?". Người không hỏi điều đó vì lợi ích cho Người mà vị lợi ích
của các Tông đồ. Đức Giêsu biết rõ Người là ai. Người có sự tự chủ phi thường
đến nỗi Người có thể đối mặt với cả sự nịnh hót lẫn sự thù ghét với sự thanh
thản hoàn toàn.
Một số người thèm khát được tán thưởng.
Hẳn họ đã lớn lên với cảm thức mình bị bỏ quên, chê bai và chỉ trích. Người nào
có sự hoài nghi sâu xa, thật sự về mình luôn luôn tìm kiếm sự xác nhận của
những người khác.
Chúng ta cần tìm kiếm thực tại của
riêng mình để có thể đứng vững trên đôi chân của mình. Do đó chúng ta không cần
người khác chống đỡ cho chúng ta. Có những người có một ngọn lửa chiếu sáng rực
rỡ liên tục từ nơi thâm sâu của tâm hồn họ. Ngọn lửa ấy không biết đến họ, vì
nó không lệ thuộc vào điều mà những người khác nghĩ về họ. Đó là điều họ nghĩ
về chính họ với sự chắc chắn và thanh thản.
Tuy nhiên, một đôi khi nhìn lại chính
mình như những người khác nhìn chúng ta có thể có lợi cho chúng ta. Alfred
Nobel là một nhà công nghiệp người Thuỵ Điển giàu có và danh tiếng. Ông đã phát
minh ra chất nổ. Nhưng gần cuối đời ông hoàn toàn không hạnh phúc. Ông chưa bao
giờ kết hôn và cả đời ông, ông bị sức khoẻ kém là phiền nhiễu. Kết quả là ông
có một nhân sinh quan rất bi quan.
Thế rồi, một sáng nọ, ông đọc thấy
trong một tờ báo một cáo phó của ông. Đó là một nhầm lẫn của một nhà báo. Ông
rất bối rối bởi những điều ông đọc. Điều làm ông tổn thương nhất là hình ảnh
sai lạc mà dân chúng có về ông. Thế giới biết đến ông như "một ông vua
chất nổ". Đó là từ người ta dùng để nhắc đến ông. Trong bản cáo phó, người
ta không hề nói đến mong ước của ông muốn đoàn kết các dân tộc và làm cho chất
lượng của đời sống con người tốt hơn.
Tổn thương to lớn đối với ông là khám
phá ra rằng mọi điều chủ yếu, mọi việc làm nên cái cốt lõi của đời ông đã bị
che giấu đối với người khác; còn mọi điều sai lạc lại được phổ biến công khai.
Ông cảm thấy hoàn toàn bị hiểu lầm. Ông không phải như thế. Ông quyết định phải
lập tức hành động để cho thế giới biết lý tưởng thật và mục đích của đời ông.
Ông để lại phần lớn gia tài khổng lồ dùng
vào việc làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Ông lập ra năm giải thưởng để phát cho
các ông hay bà nào có sự đóng góp nổi bật vào các lĩnh vực vật lý, hoá học, y
học, văn chương và hoà bình. Ông muốn được nhớ đến không phải như một người đã
phát minh ra thuốc nổ có thể làm thế giới nổ tung, nhưng như một người có tâm
hồn tốt lành và nhân hậu.
Điều đã xảy ra cho ông Nobel chứng tỏ
người ta mắc sai lầm như thế nào trong sự phán xét người khác. Điều đó cũng đã
xảy ra với chính Đức Giêsu. Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng có những ý
tưởng khập khiễng về Người. Có kẻ nghĩ Người là Gioan Tẩy Giả (lúc đó đã chết).
Những người khác thì nói là một ngôn sứ thời xưa sống lại.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia như Phêrô đã
đoán chính xác. Nhưng Người không là Đấng Mêsia vinh quang như dân chúng đã
mong đợi. Người phải là một Đấng Mêsia đau khổ. Người không thống trị, Người
phục vụ. Đức Giêsu không quan tâm chiếu rọi hình ảnh mà dân chúng muốn. Người
biết Người có một số phận mà Thiên Chúa đã định mà Người phải hoàn thành, không
sai sót.
Chúng ta sẽ mắc sai lầm nếu bận tâm
chính của chúng ta chiếu rọi một hình ảnh tốt đẹp và và sống theo những kỳ vọng
của người khác. Điều duy nhất mà chúng ta được mời gọi trở thành là phải trở
nên cái bản ngã chân thật của mình. Chúng ta không thể sống viên mãn và hạnh
phúc nếu không hoàn thành điều đó. Nhưng chúng ta không nên bằng lòng cho đến
lúc đạt đến mức độ tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được trong việc trở nên
chính mình. Vậy, dù đường đời của chúng ta như thế nào, điều thật sự quan trọng
là chúng ta phải trở nên chính mình trước mặt Thiên Chúa và người khác. Đây là
cuộc hành trình về lại nhà mình.
13. Những đòi hỏi của cuộc khổ nạn - R.
Gutzwiller
LOAN BÁO LẦN NHẤT
1. Đối với chính Đức Kitô
Việc giáo dục lòng tin mang lại kết quả
nào? Bây giờ ta thử xét xem.
'Theo như dân chúng nói thì Ta là ai?'.
Câu trả lời không thoả đáng tý nào. Một số thì coi Ngài như là Gioan Tẩy giả,
số khác coi Ngài là Êlia, số khác nữa coi Ngài như một tiên tri thời xưa nào đó
sống lại. Như vậy việc huấn luyện dân chúng về mặt tinh thần chẳng đi đến đâu;
ngoại trừ các tông đồ.
'Còn các con, các con nói Ta là ai?
Phêrô đáp: 'Đức Kitô của Thiên Chúa'. Họ đã nhận ra Ngài là Đấng cứu thế. Việc
Đức Giêsu mặc khải đã thực hiện được bước dứt khoát. Trong Do thái giáo thời
đó, và dĩ nhiên là cả các tông đồ nữa, họ không quan niệm về Đấng Messia một
cách đầy đủ và đúng đắn. Họ trông chờ Đấng Messia đem đến sự giải phóng chính
trị và quốc gia bành trướng, dĩ nhiên là được sống thoải mái ngay dưới thế và
thoát moị nỗi âu lo.
Đức Kitô thực sự là một Đấng Cứu Thế,
nhưng theo một nghĩa khác hẳn. Ngài là Tôi tớ Giavê như tiên tri Isaia loan
báo, là Con Người đau khổ, là Con Chiên bị đem đi giết, là Người cơ cực phải
gánh lấy gánh nặng thay cho dân và chuốc lấy mọi khổ đau. Đặc tính ấy của Đấng
cứu thế chỉ mơí được tỏ rõ khi Ngài tuyên bố cho các tông đồ lời lạ lùng này:
'Con Người, phải chịu nhiều đau khổ', như vậy, chẳng còn là vinh quang phàm
tục, là vĩ đại thế trần, hay đời sống thoải mái tại thế. Con đường Ngài đi là
con đường khổ cực, khiêm tốn và âm thầm. Đây không phải là cái đau khổ của một
người với tư cách cá nhân mà là sự đau khổ của Đấng Messia nơi dân Ngài.
Vì 'Ngài bị hàng niên trưởng và các
Thượng tế cùng ký lục từ bỏ'. Ba nhóm người có thế lực chính thức: các Thượng Tế,
ký lục và đại diện chính trị của mười hai chi tộc. Như vậy, tất cả những ai
trong hội đồng cố vấn tối cao, quyền hành pháp và lập pháp của dân đều ghét bỏ
Ngài. Chức vụ Cứu Thế của Ngài coi như chẳng còn gì đáng nói nữa: Ngài chẳng
phải là người họ tuyển chọn mà bị họ sa thải. Ngài chuốc lấy sự nhục nhã của
những người tội lỗi, của những người lìa xa Thiên Chúa với mục đích huỷ bỏ sự
nhục nhã ấy và làm cho những kẻ hư hỏng thành những người được chọn.
Được Thiên Chúa sai đến, bị con người
ghét bỏ, nhưng Ngài cũng sẽ chu toàn sứ mệnh và thực hiện được lời mời gọi con
người để họ có thể theo Ngài và đến với Thiên Chúa.
'Ngài sẽ bị giết'. Đấy là hình khổ cuối
hết và trên hết. Đây là cuộc hiến tế toàn vẹn, Thiên Chúa không có can thiệp gì
hết, lúc ấy, chẳng có ai ý thức được cuộc hiến tế ấy để rồi ăn năn sám hối mà
trở lại. Đó là một sự bỏ rơi, và bỏ rơi trong tuyệt vọng, sự nhục nhã biến
thành sự bỏ rơi hoàn toàn.
Satan tự hào về cái chết ấy, và chỉ sau
đó nó mới nhận ra một sự thất bại hoàn toàn, vì cái chết, một hiến tế cho Thiên
Chúa hằng sống, lại phát khởi một cuộc sống mới.
'Ngày thứ ba Ngài sống lại'. Đây là lần
đầu tiên ta thấy rõ đặc tính và bản chất vai trò Cứu Thế của Đấng Cứu Thế. Đây
cũng là lúc ta có một cái nhìn hướng về tương lai, về một đời sống hoàn toàn
khác biệt, đến những thực tại bên kia thế giới. Việc Chúa sống lại là khởi điểm
sự sống lại của nhân loại mới. Cái chết của Ngài là sự trở về lòng đất mẹ để
tái sinh thành 'trưởng tử trong loài thọ sinh'. Rồi ai cũng chết theo Ngài sẽ
cùng được tái sinh với Ngài.
Cái chết của Ngài khai mở cánh cửa sự
sống. Ngài bước qua cánh cửa đó để tiêu diệt cái vận mạng tàn khốc đã khiến mọi
vật chất phải chết, vì từ đây, nơi Ngài và nhờ Ngài, có một sinh lực làm cho
mọi vật sống lại và chiến thắng sự chết.
Sứ mệnh của Ngài lớn lao quá đến nôĩ
các tông đồ không thể tiên cảm được. Việc tiên báo cuộc thương khó, cái chết và
sự phục sinh của Chúa mới nghe như sét đánh, như một sự thật không lãnh hội
được, hoàn toàn không như họ tưởng và làm tiêu tan mối hy vọng sẵn có của họ.
Thực ra việc loan báo ấy làm nổ tung
khuôn khổ ý tưởng hẹp hòi của họ, và mở ra cho họ một chân trời khác rộng lớn
hơn. Bởi thế, việc tiên báo thương khó, ngoài việc gây kinh ngạc còn hàm chứa
một yếu tố hoan lạc.
2. Đối với các tín hữu.
'Nếu ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ
chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình môĩ ngày và hãy theo Ta'. Đó là một
đòi hỏi hết sức rõ rệt. Nếu Đức Kitô ôm ấp con đường đau khổ mà cuối đường là
cây Thập giá, thì ai muốn theo Ngài tất nhiên phải đi vào con đường đó. Như một
kẻ bị kết án vác thập giá đến nơi hành quyết, thì người Kitô hữu cũng tự coi
mình đã bị thế gian lên án và đời mình là một cuộc hành trình đến pháp trường,
và phải mang lấy gánh nặng của án lệnh do con người phán quyết.
Họ cô đơn, không được thông cảm, bị lên
án bởi các vị cầm quyền chính thức. Họ mang thân phận phải chết; đời sống của
họ là một cuộc hiến tế, một hiến tế được chấp nhận. Đây là những cái đi ngược
với cảm quan và ước vọng hoàn toàn tự nhiên của họ. Thế nên, họ luôn phải tự
nhắc cho mình tiếng 'không' của việc từ bỏ.
Tuy nhiên, như Chúa Kitô, Ngài chỉ phục
sinh sau khi đã bước qua chặng đường khổ nạn, chết đi, thì cuộc sống của người
Kitô hữu, vốn dĩ đã cực nhọc cả bề trong lẫn bề ngoài, vẫn mang vẻ thua thiệt,
mà thực tế lại là một mối lời, kể như đã chết mà thực ra đang sống.
'Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ
mất, còn ai mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sống'. Diễn trình suy nghĩ tự
nhiên và ích kỷ muốn đạt được những lợi ích phàm tục, trần thế... và song song
với cái diễn trình ấy là cái tôi, cái tôi tốt nhất, phải bị tiêu diệt. Nào
người ta được ích gì khi được lời lãi cả thế gian mà lại mất linh hồn mình?
Nhưng thực tế, chỉ con đường ấy mới dẫn đến sự sống.
Thông phần sự vinh quang của Chúa Kitô,
đó là đích điểm con người phải nhắm tới trước hết. Sự vinh quang này xét dưới
ba phương diện: Sự vinh quang khi Chúa biến hình và sự vinh quang của Cha trên
trời, và sau cùng là sự vinh quang của các thiên thần bao quanh hai vinh quang
trên.
14. Hai câu hỏi – Mark Link
(Trích dẫn từ 'Giảng Lễ Chúa Nhật')
. "Đức Giêsu là ai trong sự liên
hệ với chúng ta?
. Chúng ta là ai trong sự liên hệ với
Đức Giêsu?"
Một cậu bé 15 tuổi và người cha đang
lái xe ngang qua một phi trường nhỏ trong một tỉnh lẻ ở Ohio. Bỗng dưng có một
chiếc máy bay bị trục trặc, bay xà mặt đất rồi xoay tròn và đâm đầu xuống phi
đạo. Câu bé la lên, "Bố ơi, dừng xe lại!" Một vài phút sau cậu bé lôi
người phi công ra khỏi máy bay. Đó là thanh niên 20 tuổi đang học lái máy bay,
đang thực tập cất lên và đáp xuống. Thanh niên này đã chết trong tay cậu bé.
Khi về đến nhà, cậu đến ôm bà mẹ và
khóc, "Mẹ ơi, anh ấy là bạn con! Hắn mới 20 tuổi!" Tối hôm đó, cậu
quá bàng hoàng đến độ không muốn ăn. Cậu vào phòng, đóng cửa lại và nằm thừ
trên giường. Cậu đang làm việc bán thời gian tại một tiệm thuốc. Mỗi đồng kiếm
được cậu dành dụm để học lái máy bay. Cậu nhất định có được bằng lái khi 16
tuổi. Cha mẹ cậu tự hỏi không biết tai nạn thảm khốc ấy ảnh hưởng thế nào đến
con trai của họ. Liệu nó có bỏ học lái không, hay vẫn tiếp tục? Họ để cho cậu
tự quyết định.
Hai ngày sau, bà mẹ đem vào phòng cậu
một ít bánh mới nướng. Trên mặt tủ quần áo bà thấy có cuốn nhật ký còn mở. Đó
là cuốn nhật ký mà cậu đã gìn giữ từ khi còn nhỏ. Ngang qua đầu trang giấy có
hàng chữ lớn, "Đặc Tính của Đức Giêsu." Bên dưới là một chuỗi các đức
tính:
"Đức Giêsu thì không phạm tội;
Người khiêm tốn; Người thương kẻ nghèo; Người không ích kỷ; Người gần với Thiên
Chúa..."Bà mẹ thấy rằng trong những giây phút khó quyết định, cậu đã quay
về với Đức Giêsu để xin sự hướng dẫn.
Sau đó bà quay sang cậu con trai và
nói, "Con quyết định gì về việc học lái máy bay?" Cậu nhìn vào mắt mẹ
và nói, "Mẹ ơi, con hy vọng là bố mẹ sẽ hiểu cho con, nhưng với sự trợ
giúp của Thiên Chúa, con phải tiếp tục học bay."
Cậu trai đó bây giờ là ông Neil
Armstrong. Và vào ngày 20-7-1969, ông là người đầu tiên đặt chân trên mặt
trăng.
Rất ít người khi xem biến cố lịch sử đó
trên truyền hình đã không biết rằng một trong những lý do giúp ông Neil
Armstrong đặt chân lên mặt trăng là Đức Giêsu. Họ không biết rằng chính nhờ Đức
Giêsu mà ông đã có được sức mạnh cũng như sự hướng dẫn để thi hành một quyết
định quan trọng thời niên thiếu mà giờ đây giúp ông thành công đi trên mặt
trăng.
Tôi thích câu truyện này vì nó trả lời
cho câu hỏi của Đức Giêsu trong bài phúc âm hôm nay-"Các con nói Thầy là
ai?"--trong một kiểu cách trả lời mà chúng ta ít thường được nghe. Cậu
Neil Armstrong đã không trả lời câu hỏi ấy bằng cách nói với Đức Giêsu rằng,
"Ngài là Con Thiên Chúa," hoặc "Ngài là Đấng Mêsia," hoặc
"Ngài là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa." Cậu đã trả lời câu hỏi
ấy một cách đơn giản hơn. Cậu nói: "Ngài là một người không phạm tội. Ngài
là một người luôn nghĩ đến người khác. Ngài là người thường quan tâm. Ngài là
một người gần với Thiên Chúa." Nói cách khác, với câu hỏi "Con nói
Thầy là ai?" cậu Neil Armstrong không trả lời theo thần học. Cậu đã trả
lời theo cảm nghĩ riêng tư. Cậu nhìn đến tâm hồn mình và diễn tả điều cậu cảm
nghiệm được về Đức Giêsu trong cuộc đời mình.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống
như vậy. Chúng ta phải trả lời câu hỏi của Đức Giêsu-"Con nói Thầy là
ai?"-bởi nhìn vào tâm hồn chúng ta và diễn tả cảm nghiệm sống động hằng
ngày của chúng ta đối với Đức Giêsu. Và cảm nghiệm đó thật khác biệt với mỗi
người chúng ta. Vì đối với một số người, Đức Giêsu là một người mà chúng ta có
thể quay về để xin được dẫn dắt khi chúng ta hoang mang. Với những người khác,
Đức Giêsu là người mà chúng ta có thể quay về để xin sức mạnh trong những lúc
bị thử thách. Còn với những người khác nữa, Đức Giêsu là người hiểu chúng ta,
ngay cả khi chúng ta không hiểu chính mình.
Và điều này đưa chúng ta đến phần thứ
hai của bài phúc âm hôm nay. Nếu phần đầu của bài phúc âm là câu hỏi
"Chúng ta cảm thấy Đức Giêsu như thế nào?" thì phần thứ hai đề ra câu
hỏi "Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?"
"Nếu ai muốn đến với tôi, họ
phải... vác thập giá hàng ngày và theo tôi."
Những lời này của Đức Giêsu thách đố
chúng ta phải tự hỏi mình, "Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?
Ngài có cảm thấy chúng ta là các môn đệ
của Ngài hay không?"Nói cách khác, chúng ta có vác thập giá hàng ngày của
mình và theo Chúa không? Hay nói cách khác nữa-cách thực tế hơn-chúng ta có bắt
chước Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày không?
Chúng ta có sống vì người khác như Đức
Giêsu đã sống vì chúng ta hay không? - Chúng ta có phải là những người mà người
khác có thể quay về để tìm được sức mạnh khi họ bị thử thách hay không? - Chúng
ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để được hướng dẫn khi họ
hoang mang hay không? - Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể
quay về để được giúp đỡ khi cần thiết hay không? - Chúng ta có phải là loại
người như vậy đối với các phần tử trong chính gia đình của chúng ta hay không?
Nói tóm lại, bài phúc âm hôm nay đưa
cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng.
Câu thứ nhất là: Chúng ta cảm thấy Đức
Giêsu như thế nào? Chúng ta có cảm được Người như Neil Armstrong cảm nghiệm:
Người đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta không? Hay
Đức Giêsu chỉ là ai đó mà chúng ta chỉ nghĩ đến khoảng một giờ đồng hồ trong
ngày Chúa Nhật và các ngày khác thì quên hết?
Câu hỏi thứ hai lại càng quan trọng
hơn: Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?
Người có thấy chúng ta là các môn đệ
của Người không? Hay Người chỉ thấy chúng ta hâm mộ Người mà thôi?- Chúng ta có
phải là người bắt chước Đức Giêsu không? Hay chúng ta chỉ là người khâm phục
Chúa mà thôi? Chúng ta có vác thập giá và theo Chúa hàng ngày không? Hay chúng
ta chỉ ngồi bên vệ đường và hoan hô Người khi Người vác thập giá một mình?
Đây là hai câu hỏi quan trọng mà phúc
âm đề ra cho mỗi người chúng ta hôm nay: Đức Giêsu là ai trong cuộc đời chúng
ta? Chúng ta là ai trong cuộc đời Chúa Giêsu?
Không ai có thể trả lời câu hỏi này
thay cho chúng ta. Chúng ta phải tự mình trả lời.
Hãy kết thúc với lời nguyện mà đã được
sáng tác bởi một Kitô Hữu vô danh cách đây gần 1.500 năm.
"Lạy Chúa!
Xin hãy là lửa sáng trước mặt con.
Xin hãy là ngôi sao dẫn đường cho con.
Xin hãy là con đường bằng phẳng dẫn đắt
con.
Xin hãy là mục tử nhân hậu theo con.
Xin hãy là tất cả những điều ấy hôm
nay-tối nay-và mãi mãi."
15. Từ bỏ mình
Hôm nay, tôi muốn trình bày về một điều
kiện để bước theo Chúa, đó là phải từ bỏ mình.
Thực vậy, con đường bước theo Chúa lên
đỉnh đồi Canvê là một con đường sỏi đá và chông gai, đòi buộc chúng ta phải
chấp nhận thập giá, phải đón lấy hy sinh, phải từ bỏ mình từng phút và từng
giây. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể từ bỏ mình, bởi vì thân mình chúng ta
là chính chúng ta. Một khi thân mình chúng ta không còn nữa, thì chúng ta cũng
sẽ không thể nào hiện diện trong cuộc sống. Tôi xin trả lời:
- Từ bỏ mình ở đây không có nghĩa là
hủy diệt thân xác, đày đọa bản thân, nhưng có nghĩa là phải làm chủ lấy giác
quan, phải kiềm chế được những khát vọng, bắt chúng đi vào con đường ngay chính
mà Chúa đã chỉ ra.
Thứ nhất, đó là hãy làm chủ con mắt.
Tôi không nhớ có một vị thánh tử đạo
nào đó, khi bị dân tới hoàng đế, nhưng oái oăm thay, hoàng đế lại say mê cặp
mắt tuyệt vời của thánh nữ. Chúng ta có biết thánh nữ đã làm gì hay không?
Thánh nữ đã móc cặp mắt tuyệt vời ấy và dâng cho hoàng đế. Dĩ nhiên, chúng ta
không thể nào làm như vậy. Nhưng chúng ta vẫn phải sống tinh thần của lời Chúa:
- Nếu mắt con nên dịp tội, thì hãy móc
nó đi vì thà chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn lành lạnh cả hai mà bị
ném vào lửa đời đời.
Có nghĩa là chúng ta phải biết kìm hãm
con mắt. Người tây phương vốn thường bảo:
- Con mắt là cửa sổ của linh hồn.
Một khung cửa sổ được mở ra để đón nhận
những tia nắng ấm và những làn gió mát. Nhưng khi giông bão nổi lên và mưa rơi
đổ xuống, chúng ta phải lập tức đóng nó lại, kẻo nó làm cho căn phòng trở nên
ướt át và nhơ bẩn. Cũng vậy, con mắt được mở ra để ghi nhận những hình ảnh,
những kiến thức làm đẹp cho tâm hồn và làm giàu cho cuộc sống. Thế nhưng, chúng
ta phải lập tức đóng nó lại trước những vẩn đục xấu xa. Bởi vì, một vết mực
dính trên tấm áo trắng, thì dù có giặt cũng không thể nào gột bỏ được. Một hình
ảnh xấu đã lọt vào trong đầu óc, nó sẽ ngự trị và không thể nào tẩy xóa đi cho
hết.
Thứ hai, đó là hãy làm chủ miệng lưỡi.
Kinh nghiệm cho hay: trên đời này, tốt
hay xấu, ngon hay dở ... tất cả đều bởi cái lưỡi mà ra. Thực vậy, thánh vịnh đã
diễn tả:
- Số người chết bởi cái lưỡi thì nhiều
hơn số người chết bởi gươm giáo.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
- Lưỡi không xương, nhiều đường lắt
léo.
Cái lưỡi có thể thay trắng đổi đen, vo
tròn bóp méo, làm sứt mẻ tình yêu thương, khiến người khác bị thân bại danh
liệt. Vậy chúng ta có ý thức trách nhiệm về lời nói của chúng ta hay không? Bởi
vì đa ngôn thì đa quá, nói nhiều thì thường hay nói bậy. Khi bị mạt sát, chúng
ta có biết đón nhận một cách bình tĩnh và cao thương hay không? Chúng ta có
biết tránh đi những lời nói phóng đại tô màu không tôn trọng sự thật, những lời
nói gièm pha hạ nhục uy tín người khác hay không? Đồng thời, chúng ta có biết
dùng những lời nói ôn tồn thành thật, để tạo lấy một bàu khí hòa thuận, bắc
được một nhịp cầu cảm thông hay không? Bởi vì:
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa long nhau.
Thứ ba, đó là hãy làm chủ những đòi hỏi
của thân xác.
Thực vậy, con người không giống như con
vật. Con vật đói thì ăn, khát thì uống. Thế nhưng, vì có trí khôn để suy nghĩ
và ý muốn để chọn lựa, nên con người phải biết làm chủ những đòi hỏi của mình.
Có bao giờ chúng ta tự ý từ chối một món ăn mà mình ưa thích? Có bao giờ chúng
ta đã dùng những đồng tiền của mình để làm phúc bố thí cho người nghèo hay góp
phần vào những công việc chung? Trong bữa cơm, đừng kêu ca vì món ăn không hợp
khẩu, hãy có thái độ bác ái và lịch sự nơi bàn ăn vì ăn trông nồi ngồi trông
hướng, và nhất là hãy biết chia sẻ cơm áo cho những người túng cực, vì lá lành
đùm lá rách, miếng khi đói, gói khi no.
Sau cùng thứ tư, đó là hãy làm chủ tình
cảm.
Khi gặp phải những chuyện buồn phiền,
chúng ta hãy cố nén bực tức, để không gắt gỏng hay giận hờn đối với người khác,
vì giận quá thì mất khôn, nóng quá thì hỏng việc. Kinh nghiệm cho hay: không
thương mà cố gắng để thương, thì rồi sẽ thương lúc nào cũng không biết. Không
vui mà cứ cố gắng mỉm cười, thì rồi sẽ vui lúc nào cũng chẳng hay.
Đối với những người chúng ta có ác cảm,
hãy tha thứ và đi bước trước đến với họ bằng những cử chỉ cảm thông, chắc chắn
chúng ta sẽ xích lại gần nhau hơn.
Phải uốn bản thân mình vào một khuôn
mẫu, thì mới thắng được bản tính tự nhiên luôn hướng chiều về tội lỗi. Và như
vậy, phải biết từ bỏ mình, thì mới có thể dễ dàng bước theo Chúa.
16. Con Thiên Chúa
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?" Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay
đã không ngừng vang dội suốt hơn 20 thế kỷ qua. Câu hỏi ấy vang đến chúng ta và
nó cũng chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay: Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai? Câu
hỏi này đã được người ta trả lời bằng nhiều cách khác nhau, mỗi người một vẻ,
một ý kiến, một quan điểm tùy theo quan niệm và hoàn cảnh cuộc sống của họ.
Chẳng hạn có người nói: Chúa Giêsu là một mẫu người tuyệt vời đã đến cứu chúng
ta, nhắc cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Người khác nói: Chúa
Giêsu là một người quyến rũ nhất, dễ thương nhất và được yêu nhiều nhất. Có
người lại nói: Chúa Giêsu là một người rất sống động, là một người bạn rất thân
trong cuộc sống. Và có người nói: Chúa Giêsu là người đã hiến thân cho con
người. Ngài đã hợp nhất mọi người trên mặt đất, Ngài đã bảo họ hãy nhìn nhận
nhau như anh chị em... Câu trả lời nào cũng đúng, nhưng cho dù Chúa Giêsu là ai
chăng nữa nếu Ngài không phải là Đấng Kitô của Thiên Chúa thì chúng ta không
cần lưu tâm đến Ngài, quá lắm chúng ta cũng chỉ coi Ngài là một người phi
thường, một vĩ nhân của nhân loại mà thôi. Nhưng không phải thế, quả thực Chúa
Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Đây là một quả quyết của lòng tin. Chúng ta
hãy tìm hiểu: Những người đương thời với Chúa Giêsu đã coi Ngài là ai? Chúa
Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là gì? Chúng ta có phải là con Thiên
Chúa không? Như vậy chúng ta phải sống niềm tin đó thế nào?
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, đứng trước
con người Chúa Giêsu, các người đương thời với Ngài đã phải kinh ngạc, ngỡ
ngàng. Tại sao vậy? Vì họ không xếp được Ngài vào hạng người nào theo ý họ. Có
thể họ coi Ngài là một nhà làm phép lạ thôi chăng? Nhưng những nhà làm phép lạ
có được Thiên Chúa ban cho quyền năng thì là để thi hành một sứ mệnh rõ rệt,
vậy sứ mệnh của Chúa Giêsu là gì? Hay phải chăng Ngài là một ngôn sứ mới, nối
dòng những người thời xưa Thiên Chúa đã sai đến? Nhưng vào thời đó người ta
không chờ đợi bất cứ một ngôn sứ nào cho bằng chờ đợi một ngôn sứ lớn, là người
sẽ loan báo thời đại của Đấng Mêsia đã đến. Vào lúc người thời đó nóng lòng
trông đợi như thế thì làm sao xếp được một chỗ đứng cho con người Chúa Giêsu,
tuy Ngài quyến rũ thực, tuy Ngài làm nhiều việc khiến người ta không thể hiểu
được, nhưng khó tưởng tượng Ngài có thể đóng vai trò của một Đấng Mêsia. Bởi vì
Đấng Mêsia mà người Do thái trông đợi phải là người nắm trong tay mọi thế lực,
nhất là về mặt chính trị và quân sự. Vì thế, đối với họ, Chúa Giêsu chẳng có gì
giống như một ngôn sứ lớn, lại càng không thể tưởng tượng được Ngài đến với tư
cách là Đấng Mêsia. Hơn nữa, Chúa Giêsu lại là con bác thợ mộc Giuse, con bà
Maria, thì làm sao có thể là Đấng Thiên Sai được? Nhưng điều đó cũng chưa quan
trọng, sinh quán của Ngài mới là chuyện quan trọng hơn. Chúa Giêsu là người xứ
Galilê. Đối với người Do thái thời đó, làm sao một người Thiên Chúa sai đến lại
có thể xuất thân từ cái xứ ô uế đó được? Chúng ta biết, Galilê có nửa số dân là
ngoại giáo, không phải là thánh địa thật, dân xứ đó thường sống chung đụng với
người ngoại giáo, nên nguồn gốc của Chúa Giêsu thật đáng nghi ngờ. Như thế làm
sao ông Giêsu có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia được?
Vì thế, trong một lần nói chuyện thân
mật giữa thầy trò, Chúa Giêsu hỏi các ông về dư luận quần chúng đối với Ngài:
"Anh em nghe thiên hạ bảo Thầy là ai?"Bởi vì các ông có dịp trà trộn
với quần chúng đã nghe biết nhiều dư luận, cho nên các ông lần lượt trình bày
với Chúa: có kẻ bảo Thầy là Gioan tẩy giả, kẻ khác nói là Êlia, kẻ khác nữa lại
nói chung chung là một ngôn sứ nào đó. Nhưng Chúa hỏi như vậy là để dọn đường
cho câu hỏi quan trọng, trực tiếp liên hệ đến các môn đệ và đến mức độ đức tin
của các ông đối với Chúa. Chúa hỏi: "Thế còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?". Phêrô liền thưa thay cho các bạn: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên
Chúa". Chúa Giêsu cho lời tuyên xưng đó là đúng nhất, tuyệt vời nhất và
đầy đủ nhất. Thực vậy, Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Theo quan niệm
của người Do thái, Đấng Cứu Thế cũng có tên là Kitô, là Đấng được Thiên Chúa
sai đến để giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ, mang lại độc lập tự do cho xứ
sở, khuất phục dân ngoại và đem họ về với Giavê Chúa họ. NHưng Chúa Giêsu là
Đấng Kitô không phải theo nghĩa đó. Ngài được Thiên Chúa sai đến thực sự như
Ngài tuyên bố: "Cha Ta, Đấng đã sai Ta đến", "Ta từ trời xuống
để làm theo ý của Đấng đã sai Ta". Nhưng Ngài đến để giải phóng nhân loại
khỏi ách nô lệ tội lỗi, Ngài đến để khuất phục các dân ngoại nhận biết Thiên
Chúa và thiết lập một nước mới gồm những kẻ tin Ngài và lãnh nhận phép rửa tội.
Nước Ngài là nước tình yêu, nước hòa bình và thánh thiện. Nước ấy không chỉ hạn
chế nơi người Do thái, nhưng là nước phổ quát khắp trần gian. Nghĩa là không
giới hạn trong một lãnh thổ nào, không xây dựng trên sức mạnh quân sự nhưng từ
trong lòng những người thiện chí. Chính vì thế, Tin Mừng Matthêu còn cho biết,
sau câu tuyên xưng của Phêrô, Chúa nói ngay: "Không phải huyết nhục đã cho
anh biết điều này, nhưng là Cha Thầy ở trên trời đã cho anh biết".
Như nói ở trên: tất cả những ai tin
Chúa Giêsu và lãnh nhận phép rửa tội sẽ được gia nhập vào nước của ngài là Giáo
Hội. Họ sẽ là con Thiên Chúa và là anh em với Ngài. Như vậy, tất cả chúng ta
đều là con Thiên Chúa. Đây không phải là một tước hiệu suông, nhưng là một thực
tại linh động, biến đổi sâu xa đến cốt tủy linh hồn chúng ta. Quả thực, trong
việc giáng thế làm nhân trần như chúng ta, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo
bản tính, đã cho phép chúng ta trở thành em Ngài, và đồng thời trở thành con
Thiên Chúa.
Tóm lại, chắc chắn mọi người chúng ta
đều tin vững mạnh Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa.
Vì niềm tin đó tất cả chúng ta đều là Kitô hữu và cũng là con của Thiên Chúa.
Vì thế chúng ta phải sống xứng đáng với tước hiệu cao quí đó, nghĩa là chúng ta
phải biết sống theo lời Chúa dạy. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều biết sống
theo lời Chúa để rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau ở cõi sống hạnh phúc bất diệt.
17. Đấng Kitô
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe thuật
lại sự kiện Chúa Giêsu gặp gỡ riêng với các môn đệ, sau một thời gian hoạt động
công khai, để hỏi các ông về ý kiến của dân chúng nói Người là ai, và sau đó
Chúa Giêsu muốn chính các ông là những người đã được sống gần gũi thân tình với
Người, nói lên nhận định của các ông về Người: "Còn các con, các con bảo
Thầy là ai?" Và rồi xuyên suốt dòng lịch sử câu hỏi này cũng luôn đánh
động nhiều người và đặc biệt là chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay.
Vấn đề căn tính đích thực của Chúa
Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời rao giảng và các hoạt động của
Người.
Gioan Tẩy giả từ trong ngục đã sai các
môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu: "Ngài có thật là Đấng phải đến không
hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác?"
Những khách dự tiệc ở nhà ông Simon,
Biệt phái đã xầm xì: "Ông này là ai mà lại tha tội được?"
Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy
Người dẹp yên sóng gió: "Người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió phải
tuân lệnh?"
Chính vua Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan
Tẩy giả, cũng thắc mắc: "Người này là ai mà trẫm nghe nói nhiều về ông như
thế".
Những người chứng kiến cảnh con trai bà
góa thành Naim được sống lại đã đồng thanh tung hô: "Một ngôn sứ vĩ đại đã
xuất hiện giữa chúng ta".
Một ít người cho là: "Đó là ông
Gioan Tẩy giã từ cõi chết sống lại". Người khác lại nói: "Ông Êlia đã
xuất hiện" hay "đó là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống
lại".
Cuộc thăm dò dư luận này cho thấy mặc
dù chưa có lời giải đáp chính xác về căn tính đích thực của Chúa Giêsu, nhưng
các đám đông đều đánh giá Đức Giêsu là một con người tôn giáo rất vĩ đại, một
ngôn sứ, một "người phát ngôn" của Thiên Chúa.
Sau khi đã biết các ý kiến của dân
chúng, Đức Giêsu mới quay sang các môn đệ và hỏi: "Còn các con, các con
bảo Thầy là ai?"
Ở đây ta thấy Đức Giêsu là một nhà sư
phạm tài tình. Người đã tăng cấp cho các câu hỏi. Trước hết, Người đặt câu hỏi
không đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời: "Người ta bảo Con Người là
ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan tẩy giả, ..." Lặp lại
các ý kiến của người khác thì qúa dễ, chắc hẳn chẳng cần phải suy nghĩ gì, vì
những quan niệm đó không liên quan gì đến các ông. Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi:
"Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Đây là một câu hỏi không dễ gì
trả lời ngay được. Câu hỏi này mang chiều kích cá nhân. Nó đi sâu vào nội tâm
của người đó. Nó đòi hỏi nơi người đó phải chọn cho mình một quan điểm, và hơn
thế nữa là dấn thân theo quan điểm đó.
Chính vì thế mà khi Đức Giêsu nêu lên
câu hỏi về ý kiến của dân chúng thì các môn đệ giành nhau trả lời. Nhưng câu
hỏi động đến bản thân các ông, đòi hỏi các ông một lập trường thì các ông lại e
dè. Và như bài Tin Mừng thuật lại thì chỉ một mình Phêrô lên tiếng trả lời Đức
Giêsu: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Đấng Kitô của Thiên Chúa
nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và sai đến trần gian để thực hiện chương
trình cứu độ.
Câu trả lời của Phêrô vượt xa các câu
trả lời của đám đông. Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà chính Ngài đã loan
báo ngay trong diễn từ đầu tiên ở Hội đường Nazareth: "Thần khí Chúa ngự
trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo hèn..."
Sự xức dầu của Thần khí, sự xâm nhập
của Thần khí trên Đức Giêsu chúng ta không thể thấy được. Vì thế căn tính sâu
xa của Ngài không phải là một điều gì có thể dùng lý trí mà suy diễn được.
Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của sự mạc khải. Thực vậy, khi Chúa
Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ cũng là dịp Chúa Giêsu muốn tỏ cho các ông
biết Ngài là ai!
Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các
môn đệ năm xưa vẫn luôn tồn tại theo thời gian. Người Kitô hữu hôm nay cũng
được mời gọi để trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: "Còn chúng ta, chúng ta
nói Đức Kitô là ai?"
Chúng ta có thể trả lời theo hai cách:
Cách thứ nhất là trả lời như Phêrô:
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Hay chúng ta có thể lặp lại lời
của kinh tin kính: "Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô con một Thiên
Chúa..." Trả lời như vậy rất đúng. Nhưng sợ rằng đó là một câu trả lời lý
thuyết, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách vở như thế nào thì thưa
lại như vậy, chứ chưa chắc đã là xác tín của bản thân.
Cách thứ hai là trả lời theo kinh
nghiệm của bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc, cảm nghiệm như thế nào thì nói
lên cách trung thực như vậy. Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người
đều có câu trả lời riêng của mình. (cho vài ví dụ cụ thể)
Mặc dù mỗi người đều có câu trả lời của
riêng mình, nhưng xét cho cùng Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất.
Thiếu Người là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ lạc hướng, mất hết ý
nghĩa.
Thực vậy, cuộc sống cũng như tâm hồn
chúng ta có nhiều tầng lớp nông sâu khác nhau. Bên cạnh những ưu tư, toan tính
về cuộc sống vật chất thường ngày là những mơ ước thầm kín, những khát vọng sâu
xa liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta nhận ra mình vẫn
mơ ước, ít là một cách mơ hồ, những gì là chân thật, toàn thiện, vĩnh cửu. Vấn
đề đặt ra là ai có thể thỏa mãn cho chúng ta những ước mơ thầm kín và thâm sâu
đó?
Chắc hẳn chỉ có Đấng đã tự giới thiệu
mình chính "là Đường, là Sự thật, và là Sự Sống", mới có thể đáp ứng
được.
Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các
môn đệ và cũng như cho chúng ta không phải để chúng ta áp đặt cho Ngài một căn
tính nhưng qua sự kiện đó, Ngài muốn tỏ cho chúng ta biết Ngài chính là Con
Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến.
Ước chi lời xác tín xưa kia của Phêrô
trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: "Lạy Thầy, bỏ
Thầy con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
18. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN VÀ LOAN BÁO
LẦN THỨ NHẤT VỀ CUỘC THỤ NẠN (9,18-22)
Như toàn bộ chương này, Luca tiếp tục
xen kẽ những cảnh công cộng với những đàm đạo riêng tư. Những cuộc đàm đạo này
–như câu chuyện ở đây- sẽ làm sáng tỏ nhân cách Chúa Giêsu và ý nghĩa sâu xa
các hành vi của Ngài trước đám đông. Như vậy, việc hoá bánh ra nhiều được tiếp
liền bằng việc tuyên xưng đức tin của Phêrô. Luca tách rời khá xa nguồn tài
liệu của ông khi bỏ bảy mươi lăm câu của Mc (6,45-8,26). Tuy không có thể hiểu
một cách chắc chắn tại sao Luca bỏ phần này của Maccô, người ta có thể – và đó
là điều chính yếu- thấy được hiệu quả của bố cục mới này. Một phần, Chúa Giêsu
không tự mình khai mạc bàn tiệc cho lương dân, tuy rằng Ngài đã loan báo
(13,28-30); điều ấy dành cho Giáo Hội sau này. Phần khác, việc Phêrô nhận ra
tính Mêsia của Chúa Giêsu được gắn liền mật thiết với cảnh trước, trong đó ông
thấy Thầy của ông trao ban bánh và tự tỏ mình như vị ngôn sứ của thời đại cuối
cùng. Những dư luận bình dân mà các môn đệ kể với Ngài không khác những gì
Hêrôđê mới nghe được trước đó, và tước hiệu mà Phêrô sắp tuyên xưng một cách rõ
ràng là một giải đáp cho câu hỏi căn bản mà cả Chúa Giêsu (c.18) và tiểu vương
xứ Galilê đã nêu ra (9,9).
Tuy nhiên, như thường thấy ở Luca, vào
những lúc quan trọng của sứ mệnh, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là để chuẩn bị
cho mặc khải mà Ngài sắp ban cho các môn đệ (c.22), hơn là để chuẩn bị cho câu
hỏi ở câu 18. Nếu các môn đệ báo cáo dư luận chung phát sinh từ hấp lực của
nhân vật tiên tri có phép thần thông, thì chính Phêrô lại là phát ngôn nhân cho
toàn nhóm và ông làm điều đó bằng cách "chuyển hệ": ông đi xa hơn khi
đề cập tới một sự đợi chờ khác của dân (x.3,15): chờ đợi một phó vương của
Thiên Chúa, thuộc chi tộc Đavit, có sứ mệnh cứu Israel. Ngay từ đầu sứ vụ của
Chúa Giêsu, chỉ có quỷ dữ, được phú bẩm một tri thức siêu nhiên, nên đã biết
được tính Mêsia của vị sứ ngôn miền Galilê (4,14). Phêrô là người đầu tiên
tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa và, vì lệnh phải giữ im lặng
sau đó, chỉ trong diễn từ vào lễ Ngũ tuần mà người phát ngôn của nhóm Mười Hai
mới lại công bố tước hiệu này (Cv 2,31.36.38).
Không từ chối tước hiệu này, một tước
hiệu chính xác, Chúa Giêsu cấm các ông nói ra (c.21) và thêm một bổ túc cần
thiết (c.22). người bác bỏ những cách hiểu rộng về một Đấng Mêsia thuộc hoàng
tộc Đavit, đặc biệt tính cách cục bộ và đế quốc chủ nghĩa theo tinh thần quốc
gia quá khích. Một bản văn của người Pharisêu được viết khoảng tám mươi năm
trước đó; Thánh Vịnh Salomon 17, mô tả Đấng Mêsia xua đuổi người di dân và ngoại
kiều ra khỏi đất thánh để tẩy trừ mọi ô uế, và cai trị mọi quốc gia trên địa
cầu khởi từ Giêrusalem... Mọi nét trên đều không có trong lời rao giảng Tin
Mừng về Vương Quốc! Như vậy, Chúa Giêsu mang đến một sự điều chỉnh rất lớn khi
loan báo cuộc thụ nạn và Phục Sinh của Ngài, đồng thời tự xưng mình là Con
Người, và đây là lần thứ năm Ngài tự xưng như thế. Sứ mệnh Mêsia của Ngài phải
được thực hiện bằng đau khổ, bằng sự loại trừ bởi các nhà cầm quyền Do Thái (ba
nhóm người lập thành Thượng hội đồng), bằng việc bị giết... Nhưng Thiên Chúa đã
minh oan cho Ngài bằng cách cho Ngài sống lại ngày thứ ba. Bốn động từ nói về
lộ trình vượt qua của Chúa Giêsu được bắt đầu bằng từ "phải", điều
Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ, đó là chương trình cứu độ của Thiên Chúa mà
đảm nhận hoàn toàn.
Ngược với những gì xảy ra ở Mc 8,32-33,
ở đây không có phản ứng nào của các môn đệ; Phêrô không hề khuyên can Chúa
Giêsu –đó là cung cách của Luca, ông không muốn nêu lên những yếu đuối của nhóm
Mười Hai. Việc im lặng này cho phép ta rút ra tức khắc những hậu quả của một
Kitô hữu như thế đối với đời sống thực tế của những ai muốn làm môn đệ.
THEO CHÚA GIÊSU (9,23-24)
Sau việc loan báo cuộc thụ nạn cho
riêng các môn đệ mà thôi, là lời kêu gọi gửi đến tất cả mọi người. Đám đông đã
đi theo Chúa Giêsu trong tư thế của người môn đệ (8,10) và đã hưởng nhờ việc bẻ
bánh nay xuất hiện lại trong hoạt cảnh; đó là tất cả những ai, qua các thế kỷ,
một ngày nào đó sẽ đón nhận Tin Mừng. Họ phải biết con đường bước theo Chúa
Kitô thiết yếu gồm những gì! Các câu 23-27 không chỉ nói cho riêng nhóm nhỏ
Mười Hai hay các môn đệ xác tín nhất. Phần khác những câu đó cũng là lời giải
đáp mới cho câu hỏi của Hêrôđê bởi vì chúng trình bày cách minh bạch đòi hỏi
của Chúa Giêsu. Chính Ngài vừa loan báo cái chết của chính mình vì bị người ta
giết, đặt điều kiện cho những ai muốn làm môn đệ mình phải đi theo cũng chính
con đường đó và khi hoàn cảnh đòi hỏi phải dám chết để làm chứng nữa.
Nhưng, còn hơn cả điều ngoại thường, đó
là chính sự trung tín hằng ngày của một Kitô hữu, một sự trung tín được tìm
kiếm trước hết và mọi sự nơi ba mệnh lệnh (c. 23). Nói không triệt để với chính
mình không có nghĩa là ghét mình, bởi vì ngược lại phải yêu người lân cận như
chính mình tôi (10,27); đó là tôi không được tập trung về mình. Cũng phải hiện
tại hoá việc vác thập giá. Đó là thập giá của riêng tôi mà tôi phải mang lấy,
thập giá mà cuộc đời áp đặt cho tôi; chẳng cần phải mơ tới một thập giá khác.
Không có chút gì là tự hành hạ mình ở đây, nhưng xác tín rằng tôi không thể yêu
có thể và người khác nếu không tự hy sinh một cách nào đó và không trải qua đau
khổ. Bắt chước Chúa Kitô, tôi sẽ là môn đệ đích thực của Ngài.
Kẻ nào tìm an toàn trong cuộc sống hằng
ngày (x. người giàu khờ dại ở 12,16-21) sẽ không thừa hưởng được cuộc sống trong
thế giới mới đang đến (c.24); ai phó thác cho Chúa (x.12,22-32) và trao ban
mạng sống cho kẻ khác vì Chúa Kitô sẽ lãnh nhận được chính sự sống của Thiên
Chúa. Rõ ràng lời này, giữa lời dặn bảo ở câu 23 và lời cảnh cáo ở câu 20,
khuyến khích các môn đệ trung thành cho đến chết vì tử đạo, nếu cần.
19. Chú giải của Noel Quesson
Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình.
Theo Luca, Đức Giêsu bắt đầu bằng việc
cầu nguyện mỗi khi có một biến cố quan trọng sắp xảy ra, hay một khúc quanh
quyết định xuất hiện trên bình diện con người, trong diễn tiến của cuộc đời.
Người: Lúc Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan (Lc 3,21)... Lúc các đám đông
nhiệt thân tuôn đến với. Người (Lc 5,16)... trước lúc chọn mười hai tông đồ (Lc
6,12)... trước lúc yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (Lc 9,18)... trước lúc biến
hình (Lc 9,28)... trước lúc dạy kinh Lạy Cha cho các bạn hữu Người (Lc 11,1)...
vào lúc chọn theo thánh ý Chúa Cha trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Lc 22,41)... ngay
trước lúc chết trên thập giá (Lc 23,34 và 23,46)... Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu
đanh cầu nguyện: Khuôn mặt Người, đôi môi Người, tấm lòng Người. Những lúc cầu
nguyện của Đức Giêsu chắc chắn là có thật. Hẳn chúng ta sẽ giảm thiểu những lần
cầu nguyền ấy nếu chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu chỉ cầu nguyện để nêu gương cho
chúng ta. Thật vậy, những lúc cầu nguyện mà Luca kể ra đều trúng vào những thời
điểm rất căng thẳng đối với con người. Người thật sự cầu xin sự giúp đỡ của Cha
Người để có sức mạnh hoàn thành sư mạng khó khăn của Người cho đến cùng...
Người không hề đóng kịch.
Ví dụ như ở đây, rõ ràng chứng ta ở vào
một thời điểm then chốt. Đức Giêsu vừa mới thực hiện một dấu chỉ cao cả của
Đấng Mêsia là hóa bánh ra nhiều trong sa mạc (Lc 9,10-17). Các đám đông nham hố
muốn đưa Người lên làm vua, nhưng Đức Giêsu từ chối vai trò thế tục này (Gioan
6,15) và điều đó sẽ làm cho các đám đông bỏ Người. Vì thế Đức Giêsu muốn thăm
dò tâm khảm các tông đồ: Chí ít là họ, họ có tiếp tục theo Người không? Đó là
điều không chắc chắn.
Bấy giờ, Đức Giêsu cầu nguyện cho họ,
như sau này người sẽ cầu nguyện cho Phêrô "để Phêrô khỏi mất lòng
tin" (Lc 22,32) Tôi có cầu nguyện cho "đức tin" của mình không?
Tôi có cầu nguyện khi có những quyết định quan trọng không? Tôi cầu nguyện khi
các biến cố bắt đầu xảy đến? Tôi có cầu nguyện cho những người mà tôi có trách
nhiệm?
Không cần đi xa hơn trong việc suy
niệm, tôi dùng chính giây phút này để cầu nguyện.
Các môn đệ cũng ở đó với Người, và
Người hỏi các ông rằng: "Đám đông nói Thầy là ai?" Các ông thưa:
"Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ
khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại..."
Sau khi đã cầu nguyện, Đức Giêsu hỏi.
Quả thật câu hỏi liên quan đến đức tin cá nhân của các bạn hữu Người. Nhưng
Người không đặt ngay câu hỏi chủ yếu cho họ. Với một ý thức sắc bén về khoa sư
phạm, Người tăng cấp các câu hỏi của Người, và trước tiên đặt một câu hỏi không
đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời. Nhưng câu trả lời đầu tiên không thể đầy
đủ..Lặp lại các ý kiến của những người khác thì quá dễ. Phải dấn thân một cách
cá nhân. Phải chọn cho mình một quan điểm. Sau cùng thì "cuộc thăm dò dư
luận" cho thấy một sự nhất trí lớn. 100% các đánh đông đều đánh giá rằng
Đức Giêsu là một con người tôn giáo rất vĩ đại, một "ngôn sứ", một
người "phát ngôn" của Thiên Chúa, như Luca thường chỉ cho chúng ta
thấy (Lc 4,18-19-26-27; 7,11-16-17; 24,19). Đức Giêsu là một Êlia mới, được
Thiên Chúa toàn thiêu... một Môsê mới, nhà giải phóng.
Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?"
Bản thân mỗi Kitô hữu phải trả lời câu
hỏi này. Nhưng coi chừng, chúng ta không thể gian lận. Đọc kinh Tin Kính mà
thôi vẫn thưa đủ! Người ta có thể nói bằng chính miệng mình rằng Đức Giêsu Kitô
là "ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật,
v.v..." và vẫn khẳng định rõ ràng điều ngược lại bằng các hành động có
thật của chúng ta. Vấn đề không chỉ làm sự tuyên xưng đức tin bằng lời: Chính
đời sống mỗi ngày của chúng ta là câu trả lời chân thật. Chớ gì cung cách, hành
động của tôi nói rằng: "Tôi tin Đức Giêsu".
Ông Phêrô thưa:...
Bên trên các cuộc tranh luận không dứt
về quyền bính của Giáo Hoàng và các khuôn mặt quá con người mà quyền bính ấy đã
khoác vào trong dòng lịch sử... trên những gắn bó nặng tình cảm hoặc những đố
ky sâu xa mà Giáo Hoàng gây ra... Chúng ta không thể không nhận thấy vai trò
trổi vượt của Phêrô trong Tin Mừng. Các Giáo Hoàng hiện nay rất ưu tư với việc
khôi phục hình ảnh tâm linh chân chính ấy. Trong những giờ phút phân vân, khi
đám đông do dự, khi những ý tưởng rõ ràng mờ nhạt và đức tin có nguy cơ suy sụp
thì một tiếng nói, ở trái tim và ở trung tâm của Giáo Hội nổi lên, tiếng nói
của Phêrô, có trách nhiệm "củng cố anh em của ngài trong đức tin" (Lc
22,32)... và Đức Giêsu đã cầu nguyện cho Phêrô.
Vừa rồi, khi chỉ muốn biết dư luận của
quần chúng về các hoạt động rao giảng, người ta đoán rằng mọi môn đệ đều nhanh
nhẩu nói ra những điều họ nghe nói. Nhưng khi phải tỏ rõ thái độ rõ ràng hơn
thì chính Phêrô là người "mở lời" nhân danh cả nhóm. Tôi cầu nguyện
cho Đức Giáo Hoàng hiện nay. Tôi sẽ dành thời gian để đọc lại và đào sâu các sứ
điệp của ngài.
Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô
của Thiên Chúa".
Câu trả lời của Phêrô do đó đi xa hơn
các câu trả lời của đám đông. Chúng ta hãy so sánh ba văn bản mà chúng ta có
được về "lời tuyên xưng đức tin" nổi tiếng của Phêrô. Có nhiều cách
tuyên xưng đttc tin, tùy theo các cộng đoàn.
Matthêu 16,16 Máccô 8,29
"Thầy là Đấng Kitô"
"Thầy là Đấng Kitô!"
"Con Thiên Chúa hằng sống."
Luca 8,20
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên
Chúa!"
Chính xác, Phêrô đã nói những lời nào?
Người ta không biết được. Tin Mừng không bao giờ là một bài tường thuật thuần
túy vật chất. Đối với các độc giả Hy Lạp, Luca thấy cần phải xác định rõ một từ
quá Do Thái là từ Mêsia (bản dịch tiếng Hy Lạp là "Christos") và thêm
vào: "Đấng Kitô của Thiên Chúa". Vả lại từ Christos có nghĩa là Đấng
được xức dầu... Đấng được 'Thiên Chúa xức dầu, được Thiên Chúa thâm nhập, thấm
nhuần!
Vậy Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà
chính Người đã loan báo ngay trong diễn từ đầu tiên ở hội đồng Nadarét:
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan
báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn" '(Lc 4,18 và Is 61,I).
Sau mười tám tháng sống với Đức Giêsu,
Phêrô nhắc lại điều mà Đức Giêsu nói về mình. Căn tính sâu xa của Đức Giêsu
không phải là một thực tại có thể suy diễn từ những quan sát thuần lý: Chúng ta
chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của "sự mạc khải". Sự xức dầu của
Thần Khí, sự thấm nhuần Thần Khí trên Đức Giêsu không thể thấy được.
Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông
không được nói điều ấy với ai. Người bảo rằng: "Con Người phải chịu đau
khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày
thứ ba sẽ chỗi dậy".
Vâng chỉ có Phục sinh, dưới hai khía
cạnh Thập Giá và vinh quang mới cho phép người ta hiểu được Đức Giêsu là ai.
Còn giờ đây, các tông đồ được mời gọi không được nói ra căn tính của Đức Kitô.
Nhưng đối với nhóm Mười Hai, sự loan
báo này về cuộc khổ nạn đã xuất hiện như một gáo nước lạnh giội vào người.
Trong cùng một cảnh tượng, hai Thánh sử Matthêu và Máccô ghi lại rằng Phêrô đã
bị quở trách vì không hiểu được cuộc khổ nạn.
Nếu Đức Giêsu đã cầu nguyện thì có lẽ
cũng trong miễn cảnh lời loan báo này về các chết của Người. Khi đã nhận thức
về vai trò của Đấng Mêsia đau khổ mà Người phải thực thi, Người đã nhìn thấy
cai chết của Người hiện ra ở chân trời của tuổi thanh xuân Người, trên những
tháng còn lại phải sống ở cuộc đời này... Nếu ngày hôm đó Người đã nói đến cuộc
khổ nạn, ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô chính vì Người vừa nghĩ về
điều đó nhiều hơn trong lúc cầu nguyện.
Tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu đã chuẩn
bị lâu dài cái chết của Người... khi nhìn thấy cái chết ấy đến với người không
phải dưới hình thức của một căn bệnh bất trị, không thuốc chữa hoặc sự mòn mỏi
của tuổi già như thường xảy ra đối với nhiều người trong chúng ta thấy mình sắp
chết... mà dưới hình thức của sự thù ghét lớn lên dần nơi các kỳ mục, thượng tế
cùng kinh sư. Đức Giêsu đã chuẩn bị chết như thế nào? Bằng cách cầu nguyện Chúa
Cha. Trong chiều hướng này, chữ "phải" mà Người dùng trong câu nói
lúc bấy giờ có một ý nghĩa trọn vền. Không phải là một điều tất yếu, một sự cam
chịu, một định mệnh...mà là một sự bằng lòng tự nguyện, tuân theo thánh ý của
Chúa Cha đã được ghi chép trong Kinh Thánh.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người:
"Ai muốn theo tôi, phải từ' bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo".
Bản dịch "Đức Giêsu nói với đám
đông" không chính xác lắm: Bản Hy Lạp thật ra đã viết: ' "Đức Giêsu
nói với mọi người...". Luật của thập giá là một luật phổ quát.. Không ai
thoát khỏi thập giá. Khi đã loan báo sự đau khổ của Người, Đức Giêsu loan báo
cho chúng ta sự đau khổ của chúng ta, hôm nay.
Những lời này của Đức Giêsu khó mà chấp
nhận. Để cho những lời ấy trội tuột đi như thể không liên quan gì đến chúng ta
thì rất dễ dàng. Quả là đã có một sự thuyết giáo nào đó trong quá khứ về sự đau
khổ đã quá cường điệu một thần bí thuyết về "hiến tế" mà người ta tìm
thấy trong đời sống của một số thánh nhân: "Hãy đau khổ hết mức có thể,
trong thung lũng nước mắt này... để xứng đáng với Thiên Đàng!" Nietzsche.
đã bác bỏ quyết liệt sự thích thú hành khổ ấy. Tuy nhiên, không để mình rơi vào
những sự thái quá ấy, chúng ta phải khám phá lại giá trị sâu xa của những lời
Đức Giêsu mà Người ta không thể loại bỏ khỏi Phúc âm (những lời ấy được thuật
lại đến sáu lần!). Những người nào chỉ nói với chúng ta về sự phát triển, chỉ
kêu gọi chúng ta hưởng lạc thú là những kẻ nói dối, những con buôn các điều ảo
tưởng, và là những kẻ tuyên truyền xấu xa cho tính ích kỷ tầm thường nhất:
Không! Không có Người nào xứng danh con người, đã xây dựng một đời sống thành
công mà không phải chịu một mức độ "hy sinh" to lớn. Ai không biết
quên mình, sẽ không bao giờ biết yêu thương? Ai không biết hy sinh sẽ không
biết yêu thương.
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình,
thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Đây là một nghịch lý! Mỗi ngày, vâng,
mỗi ngày, người ta có thể tự tìm kiếm chính mình hoặc quên mình, giữ mạng sống
mình hoặc hiến dâng nó, không yêu thương hoặc yêu thương. Phải luôn luôn lựa
chọn.
20. Chú giải của Fiches Dominicales
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
VÀ LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một mạc khải ăn sâu vào tâm tình cầu
nguyện hiếu thảo của Đức Giêsu
Không có đoạn chuyển tiếp, từ cảnh hóa
bánh ra nhiều để nuôi đám đông (Tin Mừng Chúa nhật vừa qua), qua đó Đức Giêsu
tỏ mình như một vị ngôn sứ của thời kỳ sau hết sang cảnh Phêrô tuyên xưng đức
tin và Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người lần thứ nhất.
Đức Giêsu đang cầu nguyện.
- Ghi chú câu này nói lên chủ ý của Luca
muốn báo trước rằng: biến cố sắp được thuật lại là biến cố quan trọng. Thật
vậy, ta đang ở vào bước ngoặt cuộc đời công khai của Đức Giêsu và hành trình
đức tin của các môn đệ; thời kỳ bản lề giữa sứ vụ rao giảng ở Galilê đang kết
thúc, và hành trình lên Giêrusalem (bài Tin Mừng Chúa nhật tới 9,51) sau biến
cố Hiển Dung trên núi cao. Còn lại một mình với nhóm môn đệ, Đức Giêsu cầu
nguyện chuẩn bị bước vào giai đoạn mới này.
- Ghi chú này cũng muốn nêu bật một
điều là người ta chỉ có thể thực sự nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa trong mối tương quan của Người với Ngôi Cha, mối tương quan mà
các môn đệ dường như "được móc" vào, theo cách diễn tả của Ph.
Bossuyt và J. Rademakers ("Giêsu Lời ân sủng theo thánh Luca", tr.
263).
2. Một mạc khải về đường đi của Con
Người...
Vấn đề căn tính của Đức Giêsu luôn vang
lên theo nhịp điệu của lời giảng và các hoạt động của người. Gioan Tẩy Giả từ
trong ngục đã hỏi người, qua trung gian các môn đệ được sai đi: "Ngài có
thật là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác?" (7,
19). "Ông này là ai mà lại tha được tội?" (7,49) những khách dự tiệc
ở nhà ông Simon biệt phái đã kêu lên như vậy. Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ
thấy Người dẹp yên sóng gió: "Người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió,
là sóng gió phải tuân lệnh?" (8,25). Rồi chính vua Hêrôđê, người đã chém
đầu Gioan Tẩy Giả cũng phải suy nghĩ: "Người này là ai mà ta nghe nói
nhiều về ông như thế. Và ông tìm cách gặp Người".
Câu hỏi này đôi khi đã được giải đáp.
"Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, là Thiên Chúa đã viếng
thăm dân người!". Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa Naim được
sống lại đã đồng thanh tung hô như thế. Một ít người khác nói: "Đó là
Gioan Tẩy Giả từ cõi chết sống lại" có người khác lại bảo: "Đó là ông
cha đã xuất hiện", cũng các người khác nói: "Đó là một trong có ngôn
sứ thời xưa đã sống lại".
- Giờ đây Đức Giêsu tự ý đặt câu hỏi về
chính thân thế của mình với các môn đệ. Câu hỏi này có 2 thì:
+ Trước hết Người lên tiếng hỏi
"Dân chúng bảo Thầy là ai? Và như ta đã thấy các môn đệ kể ra nhttng ý
kiến khác nhau, đồn thổi về thân thế của Người, như "Gioan tẩy Giả",
"ngôn sứ Êlia" (vị ngôn sứ đến trước loan báo Đấng Mêsia), "một
trong các ngôn sứ thời xưa nay sống lại".
+ Đức Giêsu hỏi tiếp ngay "Còn anh
em, anh em bảo Thầy là ai?". Như thế các môn đệ bị bắt buộc phải đưa ra ý
kiến của mình.
Phêrô đáp: "Thầy là Đấng Kitô của
Thiên Chúa". Còn hơn Gioan Tẩy Giả, hơn cả Êlia hay một ngôn sứ nào thời
xưa. Đức Giêsu là vị Thiên Sai của Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu,
"Đấng Mêsia" (Mêsia tiếng ram dịch sang tiếng Hy Lạp là Kitô = Đấng
được xức dầu).
"Đức Giêsu liền nghiêm giọng
truyền các ông "không được nói điều ấy với ai". Không phải vì Người
từ chối danh hiệu mà Phêrô vừa tặng cho Người. nhưng bởi vì sử dụng danh hiệu
đó là quá sớm, vì danh hiệu Mêsia lúc ấy còn rất hàm hồ trong ý nghĩ của những
người đồng hương và ngay cả các môn đệ Người. H. Cousin nhắc lại rằng:
"Một với bản Pharisêu được soạn thảo 24 năm về trước, thánh vịnh vua Salomon
17 - miêu tả Đấng Mêsia xua đuổi người di cư và ngoại kiều ra khỏi đất Thánh để
thanh tẩy mọi ô uế, và Người cai trị mọi dân nước trên hoàn cầu bắt đầu từ
Giêrusalem" ("L'Evangile de Luc". Centurion, trg 133- 134).
Sẽ đến lúc khi thấy Thầy mình phải đi
qua con đường thập giá, và trong ánh sáng phục sinh, thì các môn đệ mới thực sự
hiểu được rằng Thầy mình được gọi là "Đấng Mêsia của Thiên Chúa" theo
ý nghĩa nào. Không phải là Đấng Mêsia theo mơ ước phàm trần là áp đặt công cuộc
khôi phục thời đại mới bằng dũng lực, nhưng là Đấng Mêsia khiêm tốn, hòa bình,
mở đường cứu rỗi cho hết mọi người bằng đường lối phục vụ, cho đến độ hy sinh
thân mình. Như thế Đức Giêsu tiếp nối việc tuyên xưa đức tin của Phêrô, bằng
việc loan báo lần đầu tiên cuộc khổ nạn, sống lại của Người: "Con Người
cần phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị
giết chết cà ngày thứ ba sẽ chỗi dậy Khi nói "Con Người cần phải..."
là Chúa dùng một kiểu nói bày tỏ sự tuân phục tự nguyện trước kế hoạch nhiệm
mầu của Chúa Cha đã được nói trước trong Sách Thánh. - Kỳ mục, thượng tế, kinh
sư là ba thành phần của Thượng Hội đồng.
3.... đó cũng là con đường của mọi môn
đệ Chúa.
Cho đến đây là lời Chúa nói với các môn
đệ. Còn bây giờ, Người ngỏ lời với "mọi người", H. Cousin chú giải,
"Tất cả những ai sau này sẽ đón nhận lời Phúc âm. Họ cần phải biết rõ,
việc đi theo Đức Kitô đòi hỏi những gì" (Sđd, tr. l34). "Mọi
người" nếu muốn bước theo Người cũng sẽ phải liên kết với thân phận của
Thầy mình. Người nói với họ: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình, các thập
giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn
ai liều mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy".
Những lời cứng rắn mạnh mẽ này đã không
ngừng và còn không ngừng vang dội trong tâm hồn hàng ngàn hàng vạn người đã
được Tin Mừng chinh phục. H. Cousin nhận xét: "chính Người vừa loan báo
mình sẽ bị giết, lại là Người đặt điều kiện cho những ai muốn theo, phải di
trên cùng một con đường Người đã đi, và phải là môn đệ của Người dù phải lấy cái
chết để làm chứng nếu hoàn cảnh đòi buộc.
Tuy nhiên, điều trước tiên ta nên tìm
kiêm trong ba mệnh lệnh trên là trung tín mỗi ngày trong đời sống người Kitô
hữu
Hơn là những điều đặc biệt, phi thường
(câu 23). Dứt khoát nói "không" với chính mình không có nghĩa là phải
ghét mình, bởi lẽ ta phải yêu tha nhân như chinh mình (10, 27); nhưng chính là
không quy hướng mọi sự về mình. Dứt khoát nói "không" đó cũng chính
là hiện tại hóa việc vác thập giá. Chính thập giá của riêng tôi mà tôi phải vác
lấy thập giá của cuộc sống đè nặng vai tôi; tôi đừng mơ tưởng một thập giá
khác. Đó không phải là chứng bệnh tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, nhưng chính
là vì biết chắc rằng tôi không thể mến Chúa và yêu tha nhân, nếu không hy sinh
cách này hoặc cách nọ, và nếu không đi qua đau khổ. Khi bắt chước Đức Kitô như
vậy, tôi mới thật là môn đệ của Người" (Sđd, trg 135).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đáp lại câu hỏi của Chúa bằng hành
động, một câu hỏi luôn đặt cho ta.
Câu hỏi nổi lên từ giây phút Chúa cầu
nguyện trong thinh lặng: Hôm đó "Chúa cầu nguyện một mình".
Đức Giêsu thường tìm nơi thanh vắng.
Người mau mắn đến đó, người siêng năng đến đó để tìm gặp một Ai đó. Và chắc
chắn cũng để bồi bổ sức lực để lại ra khơi. Câu hỏi Người đặt ra cho các môn đệ
Người, sẽ tồn tại qua các thế kỷ. Nó sẽ đánh động hàng ngàn hàng vạn lương tri.
Bao lâu trái đất còn tồn tại, câu hỏi đó vẫn luôn luôn rộng mở "Đám đông
nói Thầy là ai?".
Đức Giêsu sẽ là nhân vật được yêu mến
nhất trong lịch sử nhân loại. Người ta tuyên xưng tên Người khắp năm châu. Mọi
cá nhân và tập thể đều ghi nhớ khuôn mặt của Người. Cả đến điện ảnh, ca nhạc,
hoạt hình cũng nhắc lại hình ảnh bác thợ mộc thành Nadarét, vị ngôn sứ lữ hành,
Đấng bị đóng đinh, Đấng phục sinh... Tuy nhiên, Người là ai đối với đám đông?
Người là nhân vật mà người ta hân hoan mừng chúc rnà không hề mảy may quan tâm
đến lời nói, và hành động của Người, là nhân vật mà người ta trông đợi mọi sự ở
đời sau, mà không muốn phấn đấu để đổi mới thế giới hiện tại chăng? Là nhân vật
mà người ta gọi tên nhưng không hề tìm hiểu con đường Người đã khai mở chăng?
Các bạn hữu Người sẽ trả lởi khi Người
hỏi: "Còn các anh, các anh bảo thầy là ai?". Phêrô trả lời không ngần
ngại: "Thầy là Đấng Mêsia của Thiên Chúa". Nghĩa là: là Đấng người ta
trông đợi, là Đấng khôi phục Israel, là Đấng đại diện Thiên Chúa quyền năng.
Câu trả lời này chưa làm Đức Giêsu thỏa mãn.
Người sẽ đưa ra câu trả lời của mình,
dường như người ta hỏi ngược lại người. Nhưng Người sẽ không dùng một công thức
một danh hiệu hoặc một chức vụ làm câu giải đáp. Người sẽ nói lên những nguy
hiểm mà Người đã trải qua. Nói lên cái chết mang lại cả ý nghĩa cho cuộc đời
Người và cả sự phục sinh của Người nữa.
Người đi về phía đám đông và la to: Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Để cứu
được mạng sống, Người đòi người ta phải liều mạng sống mình, phải hiến dâng
mạng sống mình.
Ngày nay trong thế giới này dư dật là
đói khổ, tiến bộ và thất vọng, khôn ngoan sáng suốt và vô tâm dửng dưng tất cả
cùng chen vai sát cánh bên nhau, thì theo Đức Giêsu "thế nào đây? Làm sao
để được giải thoát, rồi trở thành người giải phóng đây. Làm sao đáp lại bằng
hành động cho câu hỏi Chúa luôn đặt cho ta đây?
2. "Các anh bảo Thầy là ai?"
Câu Chúa hỏi ta mỗi ngày
Chính vào lúc vừa tâm sự thân mật với
Cha Người xong, Đức Giêsu khởi đầu một giai đoạn mới trong việc đào tạo các môn
đệ là đám đông dân chúng. Lòng tin, những ước mơ và niềm hy vọng được an thân
của họ sắp bị lung lay tất cả. Đúng là "cớ vấp phạm cho người Do Thái,
điên dại đối với dân ngoại".
Sẽ cần phải từ từ dựng lên một cây thập
giá trên hy vọng về một Đấng Mêssia toàn năng, được các tư tế hân hoan đón tiếp
được các nhà thông thái thừa nhận, công khai ủng hộ và nâng đỡ được dân chúng
tung hô đón rước và làm quân xâm lược Rôma sợ hãi, kính nể. Giờ đây. Đức Giêsu
biết Ngài đi đâu. Trong thinh lặng cầu nguyện. Người đánh giá lại tình thế và
lấy thánh ý Chúa Cha để sàng lọc tất cả. Người biết rằng mình sẽ không được
những kẻ đang mong đợi, là những kẻ mà Ngươi được sai đến hiểu biết và đón
nhận. Còn phải chuẩn bị cho các tông đồ, các môn đệ và những người có cảm tình
biết để sẵn sàng chấp nhận thử thách đáng sợ này.
Tin Mừng của Đức Kitô không phù hợp với
tham vọng và những giá trị trần tục, cũng không theo các lợi lộc, truyền thống
là cách suy diễn của giới giàu có, thông thái là quyền thế, nên sẽ bị người ta
nhân danh cả Thiên Chúa là chân lý mà tuyên bố là rối đạo. là nguy hại.
Các tông đồ và môn đệ đã tin chắc như
đinh đóng cột rằng Đức Giêsu phải khải hoàn vào "thành đô" của Người
cùng với vương miện hoàng tử trên đầu. Nhưng trong thành đô ấy sẽ chỉ có đồi
Canvê và mão gai.
Thầy là Đấng Mêsia của Thiên Chúa? Một
lời tuyên tín tuyệt vời. Nhưng liệu nó có thể có giá trị gì nếu ta không bước
theo Đấng giải phóng, không luôn sẵn sàng từ bỏ cái nhìn hẹp hòi, cách suy diễn
phiến diện, và những xác tín quá trần lục của ta?
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Đó
là câu Chúa hỏi ta mỗi ngày. Đó là lời mời gọi khẩn thiết để ta thường xuyên rà
soát lại những ý tưởng ta có về Đức Giêsu và so sánh cách xử sự của ta với cách
xử sự của Người.
Sưu tầm
Suy niệm Tin mừng Chúa nhật XII thường
niên C
Luca 9, 18-24
1) Phêrô tuyên tín
Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ:
"Người ta bảo Thầy là ai?", Ngài hỏi không vì lợi ích của riêng Ngài,
mà vì lợi ích của họ, bởi Ngài biết chắc Ngài là ai. Còn họ và đám đông vẫn hàm
hồ. Với đám đông, Ngài là Gioan Tẩy Giả, Êlia, hay một ngôn sứ thời xưa đã sống
lại. Các Tông đồ khá hơn. Phêrô đại diện anh em thưa: "Thầy là Đức Kitô
của Thiên Chúa".
Kitô là gì? Theo nguyên tự, Kitô hay
Messia là Đấng được xức dầu, để lo việc của Thiên Chúa. Trong dân Chúa chỉ có
hoàng đế, tư tế và ngôn sứ được xức dầu, để có ơn Chúa phục vụ dân. Nhưng dần
dần, với truyền thống của các ngôn sứ, danh từ Đức Kitô, "Đấng được xức
dầu" được dành để ám chỉ Đấng Thiên Sai cứu thế, sẽ đến khi thời gian đã
sung mãn. Vậy, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Phêrô nói
lên niềm tin Ngài là Đấng Thiên sai Cứu thế.
Trong đoạn văn tương tự của Matthêu,
Đức Giêsu đã khen Phêrô là người có phúc, vì không phải xác thịt đã nói cho ông
biết được như vậy, nhưng chính là Cha trên trời đã soi sáng dạy dỗ ông. Trong
Tin mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu không khen, cũng không trực tiếp chấp nhận lời
Phêrô tuyên xưng. Bởi lời tuyên xưng đó chỉ đúng về ngôn từ nhưng sai về nội
dung. Thật vậy, cho dù có cả một hệ thống tiên tri báo trước về cuộc khổ nạn
của Đấng Thiên sai Cứu thế, Isaia đã dành cả chương 53 để nói về Đấng Thiên Sai
là người Tôi trung của Đức Giavê chịu đau khổ, Tiên tri Dacaria trong bài đọc I
hôm nay loan báo một Đấng Cứu Thế bị đâm thâu (Dcr 12,10-11). Thế nhưng, người
Dothái cũng như các Tông đồ không hề để ý, họ chỉ nghĩ đến Đấng Cứu Thế anh
hùng, như vị hoàng tử với những chiến công hiển hách.
2) Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó
lần thứ nhất.
Hugues Cousin nhắc lại :
"Một văn bản Pharisêu được soạn thảo hai mươi bốn năm về trước (Thánh vịnh
Vua Salômon 17) miêu tả Đấng Messia xua đuổi người di cư và ngoại kiều ra khỏi
Đất thánh, để thanh tẩy mọi ô uế, và Người cai trị mọi dân nước trên hoàn cầu
bắt đầu từ Giêsusalem". Vì thế, chẳng lạ gì khi thấy các Tông đồ tranh cãi
nhau ai là người lớn nhất và Giacôbê, Gioan xin được ngồi bên tả, bên hữu Thầy,
khi Thầy hiển trị trong nước của Thầy. Đức Giêsu không muốn môn đệ cứ hàm hồ
hiểu lầm mãi, Người muốn họ hiểu đúng nội dung ngôn từ Messia, Ngài sẽ thực
hiện, cho dù khi cho biết điều đó sẽ là cớ vấp phạm cho họ. Ngài vẫn nói:
"Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị các đầu mục và hàng tư tế phế thải,
bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại".
Đối với các Tông đồ, lời loan báo này
như một gáo nước lạnh giội vào người các ông. Ở đây Luca bỏ qua, nhưng hai
thánh sử Mátthêu và Maccô ghi nhận: Phêrô đã can gián Đức Giêsu, kéo Người
riêng ra một chỗ và nói với Ngài: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp phải
chuyện ấy", và bị Đức Giêsu quở mắng là Satan. Có lẽ Luca bỏ qua vì hai lý
do: Trước hết, sau khi cám dỗ Đức Giêsu ở hoang địa, Satan đã rút lui chờ đến
cuộc thương khó mới xuất hiện ở vườn Giệtsimani. Tiếp đến, trong sách công vụ
sứ đồ chương 1 đến 15, Luca đã giới thiệu Phêrô là bậc vị vọng nhất trong các
Tông Đồ, không lẽ nào Phêrô là Satan, Luca thấy không thích hợp nên đã bỏ qua.
Tuy nhiên, cũng như Mátthêu và Maccô,
sau khi Phêrô tuyên tín, Luca cho thấy: "Đức Giêsu đã nghiêm giọng truyền
các ông không được nói điều ấy với ai". Maccô gọi đó là "bí mật của
Đấng Messia". Quả thật, nếu tỏ cho dân chúng biết sớm, e rằng chương trình
của Thiên Chúa về sự đau khổ của Đấng Messia sẽ không thực hiện được, bởi khi
nhân năm cái bánh và hai con cá lên nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người lên làm
vua. Giờ đây, biết Người là Đấng Messia, họ sao có thể đóng đinh Người?
Thế nhưng, có một điều Đức Giêsu tỏ cho
họ biết ngay, đó là: "Ai muốn theo Tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình hàng ngày mà theo". Vác thập giá mình là công việc hàng ngày, người
tín hữu phải làm để đi theo Đức Kitô. Người môn đệ muốn nên giống Ngài, muốn
hiệp nhất với Ngài, phải từ bỏ chính mình, nếu cần phải sẵn sàng chết trên thập
giá như Ngài. Người ta chỉ có thể theo Đức Kitô và xứng đáng là tín hữu của
Ngài, khi biết đón nhận sự đau khổ và bách hại vì đạo. Nói cách khác, chính
trong mức độ biết liều mạng sống, để tuyên xưng Đức Giêsu Kitô trước mặt quân
thù, mọi người Kitô hữu sẽ cứu mạng sống mình trong ngày Con Người đến phán xét.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng Mesia chịu
nhiều đau khổ, xin cho chúng con vác thập giá mình hàng ngày, để sau này được
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời chúng con cầu xin.
Linh mục Giuse Nguyễn An Khang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét