CHÚA NHẬT V
THƯỜNG NIÊN C
Is 6,1-2a.3-8 ;
1 Cr 15,1-11 ; Lc 5,1-11
ĐÁP LẠI ƠN GỌI
LÀM TÔNG ĐỒ
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Lc 5,1-11
(1) Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên
Người để nghe Lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ
Ghen-nê-xa-rét. (2) Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn
những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lướt. (3)
Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-mon, và Người
xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ
trên thuyền Người giảng dạy đám đông. (4) Giảng xong, Người bảo ông
Si-mon: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá". (5) Ông
Si-mon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt
được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới". (6) Họ
đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả
lưới. (7) Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp.
Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá đến
gần chìm. (8) Thấy vậy, ông Si-mon Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su
và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!"
(9) Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-mon và tất cả những
người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. (10) Cả hai người con ông
Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-mon cũng kinh ngạc
như vậy. Bấy giờ, Đức Giê-su bảo ông Si-mon: "Đừng sợ. Từ nay anh
sẽ là người cứu sống người ta". (11) Thế là họ đưa thuyền vào
bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
2. Ý CHÍNH: MAU MẮN ĐÁP LẠI ƠN
CHÚA KÊU GỌI LÀM TÔNG ĐỒ
Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã ngồi
trên thuyền của Si-mon mà rao gảng Tin mừng cho dân chúng, và sau đó
đã cho Si-mon đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước phép lạ này,
Si-mon đã tuyên xưng đức tin: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và "Từ
bỏ mọi sự mà đi theo Người".
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Bờ hồ Ghen-nê-xa-rét: Đây là chiếc hồ
lớn hình quả trám nằm tại miền Ga-li-lê, được thánh sử Lu-ca gọi là
hồ Ghen-nê-xa-rét (x Lc 5,1), Mát-thêu gọi là biển hồ Ga-li-lê (x. Mt
4,13) Mác-cô gọi trống là Biển Hồ (x. Mc 4,1), còn Gio-an gọi là Biển
hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,1).
- C 3-4: + Người bảo ông Si-mon: "Chèo ra chỗ
nước sâu mà thả lưới bắt cá": Ra chỗ nước sâu hay "ra
khơi", là chỗ "nước trên vực thẳm". Đức Giê-su ra lệnh
cho thuyền Hội thánh tiến vào nơi vực thẳm của thế gian với nhiều
nguy hiểm đang chờ đón (x. Lc 10,3).
- C 5-7: + Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không
bắt được gì cả: Câu nói của Phê-rô cho thấy sự yếu đuối bất lực
của các ông. Nhưng chính sự bất lực này lại làm nổi bật quyền năng
mạnh mẽ vô song của Thiên Chúa (x Ga 15,5).
- C 8-9: + Si-mon Phê-rô: Ở đây Lu-ca dùng biệt danh
Phê-rô (nghĩa là Đá) mà sau đó Đức Giê-su sẽ chính thức đặt cho khi
chọn ông vào danh sách 12 Tông đồ (x. Lc 6,14; Mt 16,18). + Sấp mình
dưới chân Đức Giê-su: Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Si-mon cảm
thấy mình tội lỗi bất xứng và đã run sợ sấp mặt xuống đất vì
không dám diện kiến Thánh Nhan của Chúa như Mô-sê xưa (x. Xh 2,6);
I-sai-a (x. Is 6,4). + "Lạy Chúa": "Ku-ri-os" trong
tiếng Hy-lạp có nghĩa là "Chúa", một danh hiệu dành riêng
để gọi Đức Giê-su sau khi phục sinh (x. Lc 24,34-35 ; Pl 2,6-11).
- C 10-11: + "Đừng sợ": Đây chính là một
lời an ủi thường được các thiên sứ nói với những kẻ đang sững sờ
khi gặp điều linh thánh (x. Lc 1,13.30; 2,10); là lời Đức Giê-su nói
với các Tông đồ đang sợ hãi giữa biển khơi (x. Mt 14,27), và khi hiện
ra chiều ngày phục sinh (x. Mt 28,10). + Bỏ hết mọi sự mà theo Người:
Các Tông đồ đã đáp trả ơn Chúa kêu gọi bằng việc quảng đại từ bỏ
mọi sự mà đi theo Người và sẵn sàng cộng tác với Người chu toàn sứ
mệnh truyền giáo (x. Lc 5,11).
4. CÂU HỎI: 1) Hồ Ga-li-lê còn được các sách
Tin mừng gọi bằng những tên gì khác nữa? 2) Ra khơi có liên quan thế
nào đến công việc truyền giáo của Hội thánh? 3) "Đức Giê-su"
được gọi là "Chúa" từ khi nào? 4) Câu "Đừng sợ" có
ý nghĩa thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất
vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, tôi sẽ
thả lưới" (Lc 5,5).
2. CÂU CHUYỆN:
- ƠN GỌI CỦA NGÔN SỨ I-SAI-A: Khi chứng kiến vinh
quang của Đức Chúa nơi Đền thờ, Ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên:
"Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn!" (Is 6,5).
Nhưng sau khi được một thiên thần lấy than hồng từ bàn thờ đến thanh
tẩy môi miệng, ông đã tình nguyện xin lãnh nhiệm vụ: "Lạy Chúa,
này con đây, xin hãy sai con" (Is 6,8).
- ƠN GỌI CỦA SI-MON PHÊ-RÔ: Bài Tin mừng hôm nay cho
biết Si-mon đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì. Ông đã khiêm
tốn nói lên sự bất lực của mình: "Thưa Thầy, chúng con đã vất
vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, con sẽ
thả lưới" (Lc 5,5). Quả thật nhờ vâng Lời Chúa mà Phê-rô đã đánh
bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước kết quả lớn lao này, Si-mon đã
tin Đức Giê-su chính là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, ông sấp mình
dưới chân Người và thưa rằng: "Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con ra,
vì con là kẻ tội lỗi!". Kẻ tự nhận mình là tội lỗi bất xứng
ấy sau này đã trở thành "đá tảng" của đức tin, mà trên đức
tin đó, Hội thánh đã được xây dựng và sẽ tồn tại bền vững đến muôn
đời (x. Mt 16,16-18). Từ đây, Phê-rô trở thành thủ lãnh của Nhóm 12,
được Chúa Giê-su trao chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc tháo
cởi (x. Mt 16,19) và được trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người
là Hội thánh (x. Ga 21,15-17).
- ƠN GỌI CỦA CHA THÁNH VI-AN-NÂY: Khi bị giáo sư
thần học quở trách là dốt như con lừa! Thầy Vi-an-nây đã thừa nhận
sự yếu đuối của mình, và chỉ trông cậy vào tình thương của Thiên
Chúa. Cuối cùng Vi-an-nây bất tài vô lực kia đã trở thành một Thánh
lớn trong Hội thánh, được đặt làm bổn mạng của các Cha sở và nên
gương mẫu cho các vị mục tử noi theo. Chính nhờ ơn Chúa giúp, mà cha
Vi-an-nây đã làm được việc hoán cải các tâm hồn, đưa nhiều tội nhân
trở về với Người.
3. SUY NIỆM:
Sau khi đã trải qua thử thách bị người đồng hương không
tin và còn tìm cách hãm hại, Đức Giê-su đã tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng
Nước Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay đan kết việc rao giảng của Đức Giê-su với
phép lạ mẻ cá lạ lùng của Si-mon, nhằm kêu gọi ông và các môn đệ đẩu tiên từ bỏ
mọi sự mà theo Người và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng khắp thế
gian.
1) Đức Giê-su xuống thuyền của Si-mon giảng đạo và kêu gọi
ông: Sau một đêm vất vả chài lưới cách luống công vô ích, Si-môn và các bạn neo
thuyền gần bờ giặt lưới. Đức Giê-su đã chọn xuống thuyền của Si-mon và yêu cầu
ông chèo thuyền ra xa bờ một chút, rồi Ngừơi sử dụng thuyền như một giảng đài
lộ thiên để công bố Tin Mừng cho đám đông dân chúng đứng trên bờ hồ.
2) Hãy ra khơi thả lưới bắt cá: Giảng xong, Đức Giê-su bảo
ông Si-môn "Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá".
Trước lời mời gọi ấy, tuy cảm nhận về sự bất lực của mình vì đã vất vả làm việc
suốt đềm cách luống công vô ích, nhưng sau khi nghe Đức Giê-su giảng đạo, ông
Si-mon đã tin vào Chúa. Lòng tin yêu Chúa khiến ông mạnh dạn thưa: "Thưa
Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng
dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới". Kết quả thật bất ngờ: Si-mon đã bắt
được một mẻ cá lớn. Sự thành công này không phải do tài sức của ông mà hòan
tòan do quyền năng của lời Đức Giê-su đem lại, khiến Si-mon đã tin Người là
Đấng Thiên Sai, nên đã đầu phục Chúa. Ông khiêm tốn thưa với Người rằng:
"Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".
3) "Từ nay, anh sẽ là người cứu sống người ta":
Qua câu này, Đức Giê-su đã chọn Si-mon vào hàng ngũ tông đồ của Người. Thực ra
Si-môn được Đức Giê-su chọn làm tông đồ không phải vì tài giỏi xuất sắc: Về văn
hóa chắc Si-mon không học cao. Về tài năng thì ngoài nghề lưới cá cũng không có
gì giỏi giang. Về tính khí thì lại nóng nảy, bộc trực... Nhưng ông được chọn
làm đầu Hội Thánh là nhờ đức tin (x Mt 16,15-19) và lòng mến dành cho Thầy (x
Ga 21,15-17). Từ giây phút nay tên của Si-mon được gắn liền với tên Phê-rô là
Đá Tảng đức tin (x Mt 16,18) do Đức Giê-su đặt cho. Chính ơn Chúa đã biến đổi
Si-mon từ một người bắt cá trở thành kẻ đánh bắt các linh hồn.
4) Quảng đại và cậy nhờ ơn Chúa giúp: Trong Tin Mừng hôm
nay, chính nhờ vâng Lời Chúa và làm theo Chúa mà ông Si-mon đã thả lưới và bắt
được mẻ cá lạ lùng. Trong việc tông đồ, các tín hữu chúng ta cũng chỉ đạt được
kết quả nếu biết năng học sống Lời Chúa và cậy trông vào ơn trợ giúp của Người
như lời Người dạy: "Vì không có Thầy anh em không làm được gì" (Ga
15,5)..
5) Bỏ hết mọi sự mà đi theo Người: Đức Giê-su không
từ chối thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối
tội lỗi thế nào... Người luôn mời gọi chúng ta đồng hành trong sứ vụ loan báo
Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Thiên Chúa. Chúng ta hãy mau mắn đáp
lại ơn Chúa kêu gọi bằng việc năng học sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh
Thần, để từ bỏ các thói hư, biến đổi ngày một nên hòan thiện hơn, quyết tâm chu
tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa mọi lúc mọi nơi, hầu giúp mọi
người được ơn cứu độ.
4. THẢO LUẬN: 1) Phê-rô trong Tin mừng hôm nay đã
thưa với Chúa Giê-su: "Dựa vào Lời Thầy con sẽ thả lưới" và
sau đó ông đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Vậy để làm được những việc
vượt quá sức tự nhiên, chúng ta phải cậy dựa vào ai? 2) Trong những
ngày này tôi sẽ làm gì để đưa được nhiều người về làm con Thiên
Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trước đây con cứ thắc mắc không
biết tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học
và đã có vợ con, đi theo làm môn đệ của Chúa, trở thành người đứng
đầu Nhóm 12 Tông đồ. Xem ra Chúa đã xây dựng Hội thánh trên tảng đá
Phê-rô không mấy vững chắc, vì ông đã từng hèn nhát chối Chúa ba lần
và có nhiều khuyết điểm khiến Chúa đã phải nặng lời quở trách!
Nhưng qua bài Tin mừng hôm nay, con nhận ra rằng: Chúa thường xử dụng
những gì thế gian coi thường, những con người yếu đuối, dốt nát...
như các người thuyền chài, người thu thuế... làm Tông đồ cho Chúa.
Chúa chọn Vi-an-nây là người bị đánh giá dốt như lừa làm linh mục...
để qua những con người yếu đuối này, Chúa có thể biểu lộ quyền năng
cao cả của Chúa.
- LẠY CHÚA. Xin dạy con biết sống quảng đại: Biết phụng sự
Chúa cho xứng đáng. Biết cho đi mà không cần tính toán. Biết chiến đấu mà không
sợ thương tích. Biết làm việc mà không tìm an nghỉ. Biết xả thân mà không tìm
một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đang thi hành thánh ý Chúa-
AMEN" (Thánh I-nha-xi-ô Loy-ô-la).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG
CON.
LM ĐAN VINH
Hai con rắn trong Thánh Kinh
THỨ TƯ, 06 THÁNG 02 2013 22:00 BBT WTGP HN ~ SỐ LƯỢT XEM: 36
Nhâm Thìn qua, Quý Tỵ đang đến.
Rồng Nhâm Thìn sắp bàn giao cho Rắn Quý Tỵ.
Nếu như tuổi rồng là cái gì đó bay bổng thanh cao thì con
rồng lại không có thật. Còn con rắn nghe có vẻ nhỏ bé, thấp kém bò dưới đất
nhưng lại có thật 100%.
Tỵ là năm thứ sáu trong chu kỳ tính âm lịch theo mười hai
địa chi. Khi đặt tên cho 12 con giáp, người xưa đã xác định những đặc điểm sinh
học của các loài vật, chú ý đến các thời điểm liên quan đến từng con vật cụ thể
để ám chỉ ngày giờ cùng những chuyện liên quan khác. Với ý nghĩa như vậy, Tỵ
thuộc về tháng 4 âm lịch. Căn cứ vào thực tế, người xưa cho rằng vào thời điểm
này rắn bắt đầu lột xác, nó trở nên yếu ớt. Tháng 4 cũng là lúc vạn vật âm khí
đã tàn, dương khí vươn mình. Do đó xét về dịch lý, Tỵ thuộc âm hỏa, đó cũng là
ý nghĩa tượng hình của rắn trong dịch học phương Đông. Rắn là con vật tượng trưng
cho dương khí, không chỉ mang trong mình ngọn lửa mạnh mẽ mà còn sinh ra khí
dương. Trong ngày, Tỵ là lúc 10giờ sáng, Tỵ là hướng nam – đông nam, Tỵ là mùa
hè trong năm. Người sinh năm Tỵ có ý hướng thượng, dám đảm nhận những công việc
quá sức mình và thường hoàn thành mỹ mãn. Dường như người tuổi Tỵ thường có vẻ
trầm tĩnh, có khi gây cảm giác lạnh lùng cho người mới tiếp xúc, cái lạnh lùng
bề ngoài mang bản chất có lửa bên trong, nó sẽ được bộc lộ một cách phong phú
dồi dào. Các nhà phong thủy dự đoán Quý Tỵ là năm của lạc quan, cải cách và
thịnh vượng.
Trong truyền thuyết Hy lạp,Thần Chữa Bệnh có tên là
Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Hai ngành y học và dược học đều liên
quan tới sự sống con người. Cả hai đều nhận con rắn là biểu hiệu. Con rắn cuốn
trên chiếc gậy là biểu hiệu của ngành y. Con rắn cuốn trên chiếc ly có chân,
đầu hướng vào miệng ly, là biểu hiệu của ngành dược. Cả hai ngành nhận con rắn
làm biểu hiệu vì người xưa, cả đông lẫn tây phương đều coi con rắn là tượng
trưng cho sức mạnh. Người ta còn lầm tưởng con rắn là loài bất tử, do hiện
tượng lột xác của nó. Cả đông lẫn tây đều truyền nhau câu truyện cổ tích, về sự
bất tử của con rắn.
"Thuở trời đất vừa được dựng nên, Tạo Hoá muốn cho
loài người đuợc bất tử, bằng cách lột xác, còn loài rắn thì tới già phải chết.
Tạo Hoá liền sai sứ giả là vị Thiên lôi xuống trần nói ý định đó cho loài
người. Tạo Hóa truyền Thiên lôi, khi gặp con người thì nói mệnh lệnh
này:"Người già,người lột. Rắn già chạy tuột vô săng".
Thiên lôi xuống trần, vừa đi vừa lẩm nhẩm mệnh lệnh của
Trời, nhưng vì Thiên lôi lơ đãng, đọc đi đọc lại thế nào, mà khi xuống trần vừa
gặp con người thiên lôi lại đọc : "Rắn già rắn lột. Người già chạy tuột vô
săng".
Vì thế mà con rắn được lột xác, còn con người sinh ra, lớn
lên, già, chết, rồi phải đi vào săng, đem chôn". (x.Đỗ đình Tiệm, Lương
thực hằng ngày, tr 722).
Theo các điển tích ngày xưa, rắn có thể tu luyện thành
tinh và lột da sống đời. Những "mãng xà tinh" này đều có viên ngọc
trong đầu gọi là ngọc rắn, nếu người nào có viên ngọc này sẽ có thể nghe được
tiếng nói của loài vật. Ngày xưa, có một anh học trò nghèo tên Công Dã Tràng vì
cứu được một gia đình rắn nên được rắn chúa trả ơn bằng cách nhả cho môt viên
ngọc. Một hôm, Dã Tràng ngậm viên ngọc rắn trong miệng đi vào rừng, chợt nghe
bầy kiến xôn xao bảo nhau phải dời tổ lên cành cây cao vì trong vòng ba ngày sẽ
có mưa lụt lớn. Nghe được tin này, Dã Tràng bèn tức tốc báo cho quan huyện sở
tại để ra thông tri cho dân chúng chuẩn bị tránh nạn hồng thủy. Quả nhiên ba
ngày sau trời đổ mưa tầm tã là vỡ đê gây lụt lớn. Nhưng dân cư trong vùng không
bị thiệt hại vì đã đề phòng trước. Quan huyện tâu với triều đình vì Dã Tràng có
ngọc rắn nghe được tiếng loài vật nên đã biết truớc có nạn lụt. Nhà vua rất
thích, cho với Dã Tràng vào cung, ban cho một chức quan nhỏ để có thể cùng Dã
Tràng du ngoạn đó đây, cùng nghe tiếng loài vật. Môt hôm, vua ngự thuyền rồng
cùng Dã Tràng ra biển nghe tiếng cá. Chợt nhà vua nghe thấy một cặp cá vừa
thong dong bơi lội, vừa thân mật trò chuyện với nhau. Thích quá, vua há miệng
ra cười khiến viên ngọc rắn rơi xuống biển. Dã Tràng tiếc ngọc, nhảy xuống biển
mò nên bị chết đuối. Tuy đã chết nhưng Dã Tràng vẫn muốn tìm viên ngọc nên biến
thành con dã tràng là một loài cua nhỏ, hàng ngày bò lên bãi biển lấy cát mong
lấp biển nhưng vẫn không bao giờ tìm lại được viên ngọc. Vì vậy, người đời thường
ví những ai làm những việc không thể thực hiện được là "uổng công dã
tràng". Trong dân gian cũng có câu:
"Dã Tràng xe cát biển Ðông;
Nhọc mình mà chẳng nên công cán gì".
Trong Thánh Kinh hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những
trang đầu (x. St 3) và được nhắc đến trên 40 lần.
Kinh Thánh trình bày về rắn cả hai ý nghĩa tốt xấu. Rắn
được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ cám dỗ nguyên tổ phạm tội
(x. St 3, 1-15). Đôi khi rắn được dùng như là biểu tượng của sự khôn ngoan :
" Hãy khôn ngoan như con rắn!" (Mt 10,16), hay rắn đồng cứu người.(x.
Ds 21, 4-9).
Trong Cựu Ước có hai câu chuyện về rắn. Con rắn cám dỗ đưa
tới sự chết tại địa đàng (St 3, 1-7) và con rắn đồng trong sa mạc cứu người
nhìn lên nó (Ds 21, 6-9).
1. Rắn cám dỗ
Rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú (3,1a). Rắn là loài có
hình thù và cách di chuyển đặc biệt; nó khôn khéo và nguy hiểm làm người ta sợ
và ghê tởm. Nhiều tôn giáo (cụ thể tại Canaan) coi rắn như thần và nó có vai
trò trong việc ma thuật và biểu tượng sự sinh sản phong phú. Ở đây, rắn biểu
tượng cho sự độc ác và khôn khéo, tìm cách phá hoại hạnh phúc con người bằng
cách phá đổ mối thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ví
rắn là quỷ dữ (Satan): "Chính vì quỷ dữ ganh tỵ, mà cái chết xâm nhập thế
gian" (St 2,24); Khải Huyền gọi là Satan, ma quỷ (Kh 12,9); (1Ga 3,8).
Khi cám dỗ Evà, Rắn quỷ quyệt đưa ra một câu hỏi bâng quơ:
"Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?" (3,1b).
Quả là một câu hỏi khôn khéo và nguy hiểm vì có hai nghĩa:
- Không được ăn tất cả, chỉ một số nào đó thôi.
- Không được ăn cây nào cả.
Rõ ràng, lời này có ý xuyên tạc hoàn toàn ý Thiên Chúa, và
như thế có tác dụng lôi kéo người nữ vào câu chuyện.
Người nữ phản kháng : Quả cây trong vườn chúng tôi được
ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán : các ngươi không được
ăn, không được rờ đến kẻo phải chết (3,2). Việc đầu tiên là người nữ thấy cần
phải đính chính để bênh vực Chúa, và nói quá đi (không được đụng tới) như thể
xác định một lệnh truyền nghiêm nhặt để giữ mình.
Con rắn ngọt ngào dụ dỗ : Chẳng chết chóc gì đâu ! quả
nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các
ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu. (3,4-5). Hết sức khôn khéo,
rắn không xúi giục ăn trái cấm, nhưng tạo nên trong lòng con người sự nghi ngờ
Lời Chúa. Nó quả quyết mình biết Chúa hơn người nữ và thuyết phục bà bớt tin
tưởng để phán đoán rằng, biết đâu Thiên Chúa cấm vì sợ con người sẽ bằng mình.
Các ngươi sẽ như Êlohim (giống Êlohim) là những kẻ biết thiện ác. Biết không
nguyên bằng trí thức nhưng còn là kinh nghiệm; biết là làm chủ được sức mạnh
thần bí. Rắn gợi cho con người nghĩ là họ có thể mở rộng cuộc sống vượt qua
những giới hạn mà Chúa đã đặt, để họ có quyền định đoạt tốt xấu cho mình nghĩa
là định mệnh cuộc đời mình, và như thế là đồng nghĩa với sự từ chối lệ thuộc
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tức là kiêu ngạo muốn tách mình ra khỏi Thiên Chúa.
Người đàn bà đã nhìn : quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn
thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy, để được tinh khôn (3,6). Rắn
không nói gì thêm. Cần đi vào yên lặng để những lời cám dỗ trên được lắng sâu
vào trí óc và cõi lòng. Nó tác động từ giác quan, đi vào trí khôn tạo lòng
muốn. Người nữ ngắm nghía trái cây thấy ngon (giác quan - cảm giác), mát mắt
(thẩm mỹ) và đáng thèm khát để được Khôn Ngoan, thông minh như Chúa, nên giống
Chúa.
Và bà đã hái lấy quả mà ăn, và bà cũng trao cho chồng ở
bên bà đưa cho chồng. (3,6). Người bị dụ dỗ trở hành kẻ dụ dỗ. Nàng chia cho
chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Tại sao trong tình trạng sáng suốt và quân bình ban đầu,
con người có thể bị sa ngã? Xét cho cùng, dầu sao họ cũng chỉ là thụ tạo bất
toàn, với thân phận mỏng manh. Điều quan trọng đó là họ luôn có tự do để phán
đoán và quyết định.
Và ông đã ăn (3,6). Lời Thánh Kinh thật vắn gọn diễn tả sự
yếu đuối, nhu nhược của Ađam và ông đã sa ngã.
Mắt hai người mở ra (3,7). Đúng như lời rắn nói, bây giờ
họ thấy một cái gì mới, nhưng cách khác hẳn họ tưởng: thay vì trở nên thần linh
biết thiện ác, họ biết mình trần truồng. Tất nhiên, trước khi phạm tội, họ trần
truồng nhưng coi đó là tự nhiên và không xấu hổ. Bây giờ sự vô tội đã mất, xấu
hổ là dấu chỉ của ý thức tội lỗi họ có; tội đã gây nên trong thẳm sâu con người
sự đổ vỡ: thế quân bình và hòa hợp giữa tinh thần và thể xác đã mất, con người
không còn làm chủ được mình nữa, và vì thế cảm thấy xấu hổ trước mặt nhau.
Sau khi sa ngã, hai người lẫn trốn Thiên Chúa. Họ đi trốn
chứng tỏ lương tâm hối hận vì đã không vâng lời. Tội phá vỡ sự hài hòa với
chính mình. Để chạy tội, con người như đổ lỗi cho Chúa: người đàn bà mà Chúa đã
đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn ( 3,12).
Người đàn ông đỗ lỗi cho Chúa : chung quy chỉ vì Chúa cho tôi người đàn bà ở
với tôi. Người nữ đổ tội cho rắn : Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn (3,13). Cả
hai câu nói trên tỏ lộ mối rạn nứt giữa người với nhau. Sự liên đới trong tội
bị phủ nhận, người ta đổ trách nhiệm cho nhau. Sự đồng phạm không liên kết con
người trước mặt Chúa, nhưng làm họ ra lẻ loi. Tội bắt đầu gây chia rẽ và phá vỡ
mối tương quan hài hòa giữa người với nhau.
Tại sao Kinh Thánh chọn loài "rắn" làm hiện thân
cho Satan? Còn "trái cấm" có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống
không?
a. Con rắn
Trước tiên, hình ảnh "rắn" rất quen thuộc trong
Cựu Ước. Cái tên "Satan" (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ
xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốt Satan đến cám dỗ con
người ăn trái cây "biết lành biết dữ". Rắn cũng xuất hiện lần nữa khi
Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hòa thành rắn để Pharao cho dân Chúa đi tự
do. Trong sa mạc, Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn
vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu "bị rắn cắn" theo nghĩa rộng như là
một sự chùn chân, chán nản, không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc.
Trong 40 năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc
muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn
đồng riêng cho dân Do Thái để họ lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về
đất hứa. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ
đồng sa mạc Araba.
Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác
về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ
Sumeria, kể lại vua Utnaphistim và vợ ông ta đã tìm được một loài cây trường
sinh, nhưng trước khi có dịp ăn quả trường sinh thì có một con rắn đã đánh cắp
cây quý khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Điển tích
về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử ảnh hưởng ít nhiều vào sự tích Satan
hóa thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời.
Phải đợi đến thời Kitô giáo, "trái cấm" được thay thế bằng "Mình
và Máu" của Chiên Thiên Chúa. Cũng như thế, Evà, người nữ đem trái cấm đến
cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người "chưa hề biết
đến một người nam". Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk
nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của "thần thánh" để loài người được
sống. Khái niệm thần thánh trở thành của lễ hiến tế để đem lại sự sống cho nhân
loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước
và Tân Ước. Tư tưởng "máu đào tử đạo là hạt giống đức tin" có lẽ cũng
mang ảnh hưởng phần nào của khái niệm trên đây.
Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như là vật linh
thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn
ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần. Dân tộc xứ Syria
xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, các
tạc hình "đầu rắn" vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng
và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật. Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn
sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Việt tin là rắn có
trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả một tổ rắn hổ
mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc).
Dân Cam Bốt tin rằng vương quốc Khmer do vua rắn sáng lập.
Con đường dẫn đến ngôi đền chính tại Ankhor Wat của Cam Bốt được khảm bằng
nhiều "naga" bảy đầu và cũng có nhiều hình rắn được tạc trên tường.
Người Hy Lạp có rất nhiều thần thánh và huyền thoại liên quan tới rắn. Loại nữ
trang cổ Hy Lạp thông dụng nhất mang hình rắn khoanh tròn. Thần Zeus được coi
như vị thần tối cao, xuất hiện mỗi mùa xuân dưới dạng môt con rắn khoanh tròn
cùng với nữ thần cai quản trái đất Rhea cũng mang hình rắn. Người Hy Lạp coi
rắn là biểu tượng của đất và nước.
b. Trái cấm
Vì sự tinh ranh của rắn, Satan đội lốt rắn để đem
"trái cấm" đến dụ dỗ con người. Nhưng "trái cấm" có ý nghĩa
gì không? Cũng như các ngụ ngôn Đức Giêsu dùng để giảng dạy trong Tân Ước, ngôn
ngữ huyền thoại của sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu
hình học. Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong
bối cảnh và ngữ cảnh của câu chuyện.
Vì thế, ở đây chúng ta hãy giải thích "trái cấm"
qua lăng kính hiện sinh. Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người,
chúng ta có thể diễn đạt ý nghĩa của "trái cấm" qua ba giai đoạn sau
đây.
Trước tiên, "vườn địa đàng" đại diện cho tuổi
còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ
thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn
đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây.
Giai đoạn "Ađam và Evà bị cám dỗ" nói lên những
khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì. Đây là cái tuổi thích mạo hiểm
và tự do, hay chống đối lại bề trên nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai
đoạn này, tính tình thì rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về
tính dục và tình cảm.
Cuối cùng, giai đoạn "sống ngoài vườn địa đàng"
nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lực và trách nhiệm để tự lập. Đàn ông tự
kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả
hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ.
Vườn địa đàng có thiên thần "cầm gươm đứng gác cửa" ngăn chận không
cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải
đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa. Nói cách khác,
"trái cấm" đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi
lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người
mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là
lý do tại sao "trái cấm" được gọi là trái của "cây biết lành
biết dữ". (x. Nội san chia sẻ, số 52).
Có lẽ vì hình ảnh tinh ranh quỷ quyệt của rắn trong Vườn
Ðịa Ðàng nên hầu hết các sắc dân trên thế giới đều dùng rắn để ví von với những
hình tượng mang ý nghĩa xấu.
Trong tiếng Pháp, "serpent" là con rắn, nhưng
người Pháp cũng dùng chữ "serpent" để chỉ loại người hiểm độc. Thí dụ
như "langue de serpent" là ăn nói độc địa; "serpent caché sous
fleurs" tức "rắn ẩn dưới hoa" là sự nguy hiểm nằm dưới bề ngoài
đẹp đẽ không ngờ; "réchauffer un serpent dans son sein" tức "ủ
rắn trong ngực" là nuôi họa vào thân hay nuôi ong tay áo. Người Anh cũng
có những câu nói không đẹp về rắn. Thí dụ như ""snake in the
grass" đồng nghĩa với "serpent sous fleurs"; "speak with
forked tongue" là miệng lưỡi ăn nói độc địa như lưỡi rắn; "lower than
a snake's belly" để chỉ loại người đê tiện, hèn hạ, xảo trá, hèn hạ như
không cón gì thấp hơn. Tục ngữ Việt Nam cũng có câu "cõng rắn cắn gà
nhà" để chỉ phường Việt gian bán nước, can tâm làm đầy tớ cho ngoại bang,
cúi đầu khom lưng cõng giặc về làm hại đồng bào.
2. Rắn đồng sa mạc
Dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và đi vào đời tự
do. Suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp rất nhiều thử thách. Bấy
giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống
như hồi ở bên Ai cập. Họ đã quá chán ngán manna rồi. Và thế, Chúa đã trừng phạt
họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Tuy nhiên, khi họ biết ăn
năn hối cải, Thiên Chúa đã ra lệnh cho Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên
một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng sẽ được cứu
sống. (x. Ds 21, 4-9). Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha
thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa,
nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.Thiên Chúa luôn cứu
sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối Người.
Chúa Giêsu kể chuyện con rắn đồng và so sánh: " Xưa
Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên
như vậy, hầu cho mọi kẻ tin kính Ngài khỏi hư đi nhưng đuợc sống muôn đời"
(Ga 3, 14-15). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để
được chữa lành thì ngày nay, tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Ðức Giêsu trên
thập giá đều được ơn Cứu độ. Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng
cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con
Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu cứu độ của
Thiên Chúa, nhân loại được đưa đến đời sống vĩnh cữu: "Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời"(Ga 3, 16).
3. Chúa Giêsu – suối nguồn bình an.
Trong sách Sáng Thế, con rắn là hình ảnh của sự quỷ quyệt
và cám dỗ.
Đến sách Dân Số, con rắn trở nên biểu tượng cứu sống.
Hình ảnh con rắn đồng treo lên giữa sa mạc đã trở nên hình
ảnh tiên báo Chúa Giêsu sẽ bị treo lên Thánh Giá. Nhờ đó, nhân loại được ơn cứu
độ. Ngày xưa, nhờ nhìn lên con rắn đồng mà nhiều người đã ăn năn sám hối và
được cứu thoát.Ngày nay,nhờ nhìn ngắm và tin vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh mà
nhân loại "không phải hư mất, nhưng được sống đời đời".
Hai hình ảnh, con rắn bị treo lên và hình ảnh Đấng Cứu Thế
chịu đóng đinh cho thấy rõ tính liên hệ không gián đoạn giữa Cựu Ước và Tân Ước
trong Nhiệm Cục Cứu Độ của Thiên Chúa. Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước và Tân Ước
làm cho Cựu Ước được ứng nghiệm, được thành toàn. Cả hai đều nhắm đến một mục
đích duy nhất của Thiên Chúa, đó là muốn cho loài người được cứu độ. Chân lý
này mang lại cho chúng ta niềm tin, hy vọng, niềm vui và ơn bình an của Chúa
Kitô.
Hoa quả của bình an là: yêu thương, tha thứ, bao dung,
quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục.Hoa quả của bình an chính là tình yêu
của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em
mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình,
an hoà thư thái trong tâm hồn.Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm
thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật. Tâm hồn tràn ngập
bình an là tâm hồn đạo đức. Đó là người hạnh phúc. Tâm hồn bình an khi hòa giải
với Chúa, tin yêu Chúa. Tâm hồn bình an khi hòa giải với chính mình. Tâm hồn
bình an khi hòa giải với mọi người sống chung quanh. Tâm hồn bình an khi không
chất chứa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét bất hòa. Tâm hồn bình an
khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Tâm hồn bình an khi là con
người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô để lại
cho chúng ta.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách
nhiệm. Năm mới, mỗi người phải là "khí cụ bình an của Chúa", góp phần
tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
Tết đang gần kề. Cầu chúc quý độc giả, một năm mới Quý Tỵ
vui trong sức khoẻ, trẻ trong tâm hồn, khôn trong lý tưởng, trưởng thành
trong... tất cả mọi lĩnh vực... khang an thịnh vượng và phát đạt thăng tiến.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét