CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN
C
Lời Chúa: Is
6,1-2a.3-8; 1Cr 15,1-11; Lc 5,1-11
MỤC LỤC
1. Tự do
2. Khiêm nhường
3. Đào tạo tông đồ - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ - Achille
Degeest
5. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất
6. Được gọi để gọi người khác
7. Kêu gọi các môn đệ đầu tiên - McCarthy
8. Đào tạo môn đệ
9. Những môn đồ tiên khởi - R. Gutzwiller
10. Từ nay anh sẽ bắt người
11. Dựa vào lời Thầy
12. "Con sẽ là kẻ đánh lưới người"
13. Cuộc phiêu lưu
14. Mẻ lưới
1. Tự do
Các ông từ bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta phải cảm phục thái độ
dứt khoát và từ bỏ của các môn đệ trước lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy,
sau khi Chúa Giêsu nói: Các con hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các con trở nên
những kẻ chài lưới người ta, thì Phêrô, Anrê cũng như Giacôbê và Gioan đã từ bỏ
ghe thuyền, chài lưới và cả những người thân yêu để bước theo Chúa Giêsu. Cũng
vậy, khi Chúa Giêsu đi qua bàn thu thuế tại Capharnaum, Ngài lên tiếng gọi
Matthêu: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã đứng dậy, từ bỏ bàn giấy, từ bỏ nghề
nghiệp mà bước theo Chúa. Thái độ mau mắn và dứt khoát ấy làm cho chúng ta nhớ
tới lời Chúa đã phán: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày
mà theo Ta". Các môn đệ là như thế, chúng ta thì sao?
Chúng ta thường nói rất nhiều mà làm thì chẳng
được bao nhiêu. Trong tâm tư nguyện vọng, chúng ta muốn tôn thờ Chúa như một vị
vua duy nhất của lõi lòng. Chúng ta muốn dâng tất cả cho Ngài, thế nhưng trong
cuộc sống cụ thể, chúng ta rất ngại phải hy sinh, phải từ bỏ, phải dâng hiến
cho Ngài. Tình yêu chúng ta dành cho Ngài giống như một ngọn đèn thiếu dầu.
Bình thường thì nó cháy một cách leo loét, nhưng mỗi khi phải cố gắng, phải hy
sinh thì nó bỗng dưng phụt tắt.
Chính vì thế, mỗi người chúng ta phải kiểm
điểm lại đời sống, phải hồi tâm xét mình và phải chấp nhận con người thực sự
của chúng ta là như thế nào? Chúng ta có quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa
hay không, bởi vì chính sự quảng đại này mới là thước đo sự gắn bó và tình yêu
của chúng ta đối với Chúa.
Là người tín hữu, chúng ta có biết hy sinh
những thú vui, cho dù là chính đáng, để chu toàn những bổn phận đạo đức của
chúng ta đối với Chúa, để tuân giữ giới luật yêu thương của Ngài cũng như để
thực thi thánh ý của Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta hay không?
Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta có biết chấp
nhận những hy sinh gian khổ vì cuộc sống và tương lai của con cái hay không?
Cho dù những khó khăn, những bất đồng, chúng ta có đem vào trong gia đình chúng
ta một bầu khí yêu thương và đạo đức hay không?
Là những người con, chúng ta có biết mau mắn
vui vẻ vâng theo những lời khuyên bảo của cha mẹ. Chúng ta có biết chia sẻ
những lo lắng của cha mẹ bằng cách chu toàn những bổn phận của mình hay không?
Để kết luận, chúng ta nên nhớ điều này, đó là
nếu chúng ta còn ngại hy sinh, nếu chúng ta không dám từ bỏ, thì đó là dấu chỉ
chắn chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa, chưa hề là người môn đệ
đích thực của Ngài.
2. Khiêm nhường
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn
ngoan là người biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng đồng thời
cũng phải khiêm tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết
tin tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người khác.
Và hành trình của đức tin cũng không đi ra
ngoài sự khôn ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt
người khôn ngoan đi tìm Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là thánh
Phêrô.
Thực vậy, ông là một dân chài chuyên nghiệp,
một người đi biển nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không quá tự phụ với
những sự từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là
khiêm tốn, tin tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả
lưới.
Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào về
đức tin của riêng mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như để kể công với
Chúa. Trái lại, thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng ấy,
để suy nghĩ và nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá, Phêrô
đã thực sự khiêm tốn thú nhận:
- Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội
lỗi.
Chính nhờ thái độ này, đức tin của ông được
củng cố đến độ ông không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả
cuộc sống của mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có đủ
khiêm tốn để lắng nghe lời Chúa qua những con người, qua những biến cố mà Ngài
gởi đến hay không? Có lẽ Phêrô vẫn đoán biết Đức Kitô không có nhiều kinh
nghiệm về biển cả, nhưng ông rút kinh nghiệm qua những phép lạ, vì thế ông vẫn
khiêm tốn vâng phục và tin tưởng vào Chúa Giêsu vì Ngài còn là Thầy, là người
hướng dẫn của ông. Liệu chúng ta có biết hồi tâm để rút ra những kinh nghiệm
như Phêrô hay không?
Kinh nghiệm bản thân cho ông hay ban đêm là
cao điểm để đánh bắt. Thế mà ông đã từng cực nhọc suốt cả đêm mà chẳng đánh bắt
được một con cá nào, vậy mà lòng trọng kính đối với Chúa Giêsu đã thúc đẩy ông
thả lưới giữa ban ngày ban mặt, là thời điểm chẳng thuận tiện chút nào. Liệu
chúng ta có quá tự hào về kinh nghiệm bản thân, để rồi khép kín cõi lòng mình
trước lời mời gọi của Chúa hay không?
Những kinh nghiệm và hiểu biết, đôi khi có thể
trở thành chướng ngại vật cản trở cho hành trình đức tin, nếu chúng ta không có
được sự khiêm tốn của Phêrô. Hãy cư xử như Phêrô, bằng cách đón nhận ý Chúa qua
kinh nghiệm của Hội Thánh, đồng thời cảm tạ Ngài bằng một thái độ cụ thể và
quyết liệt như Phêrô, đó là từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
3. Đào tạo tông đồ - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ
lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một
phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ
này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của
phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là
Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của
bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức
trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay
não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước
sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu
muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân.
Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm
nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của
Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có
kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì
không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa
thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa
tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm
nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự
cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ
xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với
Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao
giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ
của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa
Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên
sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi.
Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề
thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp
làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của
người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt
ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải
có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những
khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba
bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã
khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an
toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường
truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp
cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài
người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù
có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn
ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của
mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông.
Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên
hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng
kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta
chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh
thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt
đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ
của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc
chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối
của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi
hoàn cảnh không?
2. Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của
mình không?
3. Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4. Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào
tạo mình không?
4. Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ -
Achille Degeest
Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần
giải thích theo nghĩa này nghĩa khác có thể không có trong bản văn. Chúng ta
chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa
biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh
nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc
uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời
Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng
tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa:
"Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội". Bằng một
giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ
trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
Chúng ta suy niệm về hai câu:
1) "Hãy ra khơi". Chúa phán thế vì
biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng
con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho
ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân
loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu,
lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà
chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải
bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư?
Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo
Phêrô: "Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người". Thật vậy, nhân loại không
bị cưỡng bách vào trong "lưới" của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại
cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự
thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho
biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế
giới.
2) "Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa".
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một
trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã
áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn
không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng
khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông
là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ
lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô
VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần
có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.
5. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất
(Suy niệm của Charles E. Miller)
Thiên Chúa thì kiên bền không thay đổi. Chúng
ta có thể tùy thuộc vào Thiên Chúa. Thánh Kinh đã mặc khải những hành động và
những lời của Thiên Chúa trong quá khứ. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong
quá khứ là những gì mà Người sẽ thực hiện trong ngày hôm nay. Những gì Thiên
Chúa đã nói trong quá khứ là những gì Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta hôm nay.
Những gì xảy ra cho Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đã xảy ra cho tất
cả chúng ta trong cùng một cách thế như thế ngày hôm nay.
Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải
là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp.
Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm
tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì.
Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh
cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại
nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong
giọng của Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh
bắt được gì". Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa
Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với
ai. Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong
đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm: "Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con
sẽ thả lưới". Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với
những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông
vào từ"Thầy" khi ông nói: "Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả
lưới". Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh
ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách
của Chúa thì tốt nhất.
Trước đó, tiên tri Isaia đã học cùng bài học
như chính Phêrô đã học. Đầu tiên, Isaia không muốn chấp nhận sứ vụ trở thành
một tiên tri cho dân Chúa. Ông cảm thấy mình bất xứng, ông tự mô tả chính mình
như một người không biết ăn nói. Ông sung sướng bỏ đi và theo một cách sống
khác, nhưng Thiên Chúa đã muốn ngài. Một thiên thần Sêraphim đã đụng đến môi
của tiên tri Isaia, đó là một biểu hiện ân sủng của Thiên Chúa. Với ân sủng này
Isaia đã đáp trả: "Này tôi đây xin hãy sai tôi", ngài đã trở thành
một trong những vị tiên tri lớn nhất bởi vì ngài đã theo đường lối của Chúa.
Trong lúc suy nghĩ chúng ta không thấy điều gì
quen thuộc, xảy ra với chúng ta sao? Có lẽ các bạn có nơi trái tim hình ảnh của
một người nào đó mà các bạn muốn kết hôn. Điều đó đã thực hiện được. Một người
khác bước vào đời sống của các bạn và bây giờ các bạn sẽ cảm ơn Thiên Chúa, vì
hôn thê của các bạn thật hợp với các bạn hơn. Có thể các bạn có một công việc
mà các bạn thích, các bạn có vẻ như có một tương lai với một công ty đặc biệt.
Nhưng trong thời suy thoái kinh tế, công ty giảm biên chế, bạn mất công việc
của mình. Tiếp đó, một cơ hội lớn thình lình mở ra cho bạn và bạn trở thành một
người có công việc khác khiến các bạn thấy rằng có một sự chăm sóc kỳ diệu mà
các bạn không bao giờ nghĩ ra trước đó.
Những thí dụ này có thể không thích hợp với
các bạn. Mọi người chúng ta phải có thời gian để suy nghĩ về những gì Thiên
Chúa đã hành động trong cuộc sống của chúng ta theo một cách vượt xa những gì
chúng ta đã dự định và mong đợi. Thánh Phaolô nghĩ rằng ngài đang thi hành bổn
phận của một người Do Thái sốt sắng nhiệt tình. Thiên Chúa có một dự định khác
cho ngài, như là một tông đồ và là tác giả của những bức thư Tân Ước. Ngài đã
đặt bút viết những điều về những giáo lý quan trọng nhất cho chúng ta. Cách của
Thiên Chúa thì tốt hơn của Thánh Phaolô.
Đôi khi chúng ta không bắt được một mẻ cá lớn.
Những điều xem ra là sai, là thất bại đối với chúng ta. Tiếp đó chúng ta phải
kêin nhẫn và dành thời gian để cho Chúa hành động. Từ thị kiến thiên đàng của
tiên tri Isaia chúng ta sẽ ca lên khúc tán tụng của mình: "Thánh Thánh
Thánh, Chúa là sức mạnh và quyền năng, trời và đất đầy vinh quang Chúa". Sự
diễn tả vẻ huy hoàng của Thiên Chúa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa siêu
việt hơn chúng ta. Đường lối của Người thì không phải là đường lối của chúng ta
và đường lối của Ngài luôn luôn là tốt nhất.
6. Được gọi để gọi người khác
- "Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?"
Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây
40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở
thành giang sơn của chị.
Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người
khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi
trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương
thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó
lại trở về chuông kéo, kẻng sắt... nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người
khác.
Ôi chao! Biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại
nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị
Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó... trừ
ra chị. Vì thế chị thường nói đùa: "Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất
và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi".
Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng,
công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi
lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ
thưởng thức không quá 10 dòng; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần
cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo... luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ
với "sự gián đoạn" này của mình, chỉ mới có thể tạo nên "sự liên
hệ" của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang
cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai
cần gặp chị... Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn,
nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng
thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người
khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ:
"Chúa đến gọi tôi lần hai" (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run
ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc
ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ...
Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng
gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người
khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?
Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ban ơn
gọi: ơn gọi của Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ. 1), ơn gọi của Phaolô
trên đường đi Đamas (Bđ. 2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài
Tin Mừng). Nhưng chắc chắn có chủ ý dạy chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa
và làm theo ý Chúa, ra đi gọi những người khác đến với Chúa: được gọi để gọi
người khác.
Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của
ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: "Tôi đây, hãy sai
tôi đi". Thái độ của Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài
đi vào thế gian: "Này con xin đến để thực thi ý Chúa" (Dt 10,9).
Thánh Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn
gọi của mình và cách mình đáp lại ơn gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra
với ông trên đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm
tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt
bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại
ông nhờ ơn Chúa mà hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi bằng cả cuộc
sống.
Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ
ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói
với ông: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi lưới người như lưới cá". Điều này
sẽ xảy ra sau đó? Tin Mừng cho thấy không phải chỉ có Phêrô, người được gọi
đích danh, đã theo Chúa, mà cả những người khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa:
"Ho đưa thuyền vào bờ và bỏ mọi sự mà theo Chúa". Đến đây chúng ta
mới rõ "mẻ cá lạ" Chúa làm là có dụng ý hay có mục đích "mở
đường" cho ơn gọi của Phêrô và đồng bạn. Nghề nghiệp đánh cá của các ông
thật đã giúp ích cho các ông hiểu một cách dễ dàng sứ vụ mới là làm "những
kẻ chài lưới người" (Mt 4,19), nhưng mẻ cá lạ mới giúp các ông quyết định
lại ơn gọi một cách mau chóng, vì biết rằng có Chúa giúp khi thi hành sứ vụ của
mình.
Anh chị em thân mến,
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián
tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài
trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã
gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải
mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một
cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự
sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp
nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn,
hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác
và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc
biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa
trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho
các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với
các ngài.
Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm
những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong
những nơi đang xảy ra tình trạng "lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì
ít".
Chính chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe
tiếng Chúa chỉ bảo ra làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện
nay trên quê hương đất nước chúng ta. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đó chính là ơn gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ
và sau nầy. Đó cũng là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin
của mình trong môi trường xã hội.
Nếu tình yêu đòi biểu lộ, và có khi biểu lộ
bằng những cách "kỳ lạ", thì Thiên Chúa vì quá yêu nhân loại, nêu đã
biểu lộ bằng nhiều cách thế, trong đó có cách thế cho con người được tham dự
vào việc truyền bá Tin Mừng, được đọc và được giảng Lời của Thiên Chúa. Lạ lùng
lắm thay! Miệng lưỡi con người mà được nói Lời của Đấng siêu việt. Tình yêu
Thiên Chúa vẫn gửi tới mỗi người tín hữu để họ đem Lời Thiên Chúa nói cho những
người xung quanh, những người thân thuộc và cả những người đi theo Chúa, dùng chính
nghề nghiệp khả năng của mình để thành nghề lôi kéo người khác về cho Chúa. Và
Đấng là Tình Yêu đang luôn chờ đợi lời đáp trả của từng người chúng ta.
Và nhất là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức Kitô
chịu chết và tuyên xưng Ngài sống lại vì chúng ta qua cử hành Thánh Thể, chúng
ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi
nầy. Nhờ nghe Lời Chúa và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta sống ơn gọi một
cách tốt đẹp để đời sống chúng ta cũng là một lời mời gọi nhiều người khác đến
với Chúa.
7. Kêu gọi các môn đệ đầu tiên -
McCarthy
Suy Niệm 1. LẠY CHÚA, THEO LỜI CHÚA...
Thời gian ban đêm là thời gian để đánh cá. Nếu
có người nào khác nói với Phêrô: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt
cá" hẳn ông sẽ nói: "Bạn có điên không? Phải chăng bạn muốn tôi trở
thành một kẻ điên trước mặt những bạn chài khác? Nếu bọn ngư phủ chúng tôi suốt
đêm đã không bắt được con cá nào, thử hỏi chúng tôi còn có cơ may nào để bắt
được cá giữa ban ngày?".
Nhưng khi Đức Giêsu nói những lời ấy với
Phêrô, câu trả lời tự phát của Phêrô là: "Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả
suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng theo lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".
Đối với Phêrô, lời của Đức Giêsu khác với lời
của bất cứ ai. Lời người mang theo quyền bính mà lời người khác không có được.
Vì thế nếu Đức Giêsu đã yêu cầu, thì dù tình thế có vẻ tuyệt vọng, dù Phêrô có
mệt mỏi hoặc có vẻ điên rồ, ông cũng phải thử làm lại.
Phêrô hoàn toàn tín thác vào Đức Giêsu. Theo
lời Người, ông được chuẩn bị để cố gắng làm điều không thể làm được. Sau này
chúng ta còn thấy được điều này trong Tin Mừng khi ông cố gắng đi trên mặt nước
theo lời của Đức Giêsu.
Có bao nhiêu người mà chúng ta coi lời họ là
nghiêm chỉnh? Chúng ta hoàn toàn tín thác vào lời ai? Chúng ta hoàn toàn tin
cậy vào lời ai? Câu trả lời là "rất ít".
Đánh cá là một nghề xứng đáng. Tuy nhiên, Đức
Giêsu thấy Phêrô có khả năng làm những việc khác. Đức Giêsu cần loại người như
Phêrô để giúp đỡ Người trong công việc của Người. Đức Giêsu đã nhìn thấy những
đức tính nào của Phêrô khiến Người kêu gọi ông chia sẻ công việc với Người? Ông
có một đức tính hàng đầu và quan trọng nhất là đức tin vào Đức Giêsu. Ông cũng
có đức khiêm nhường.
Câu chuyện Tin Mừng không còn là một câu
chuyện về việc đánh cá, nhưng về lòng tín thác. Đức Giêsu đã nói với Phêrô:
"Anh sẵn sàng tín thác vào Thày tới đâu?". Đây là một khúc quanh
trong cuộc đời của Phêrô. Điều gì bắt đầu từ một khởi điểm mới sau một thất bại
thì bắt đầu với một phương hướng mới.
Đánh cá là một nghề quan trọng. Nhưng Đức
Giêsu đã kêu gọi Phêrô và các bạn chài của ông đến với một công việc còn quan
trọng hơn. Người đã mang lại cho họ không chỉ một công việc mới, nhưng một mục
tiêu để họ cống hiến cả cuộc đời họ cho mục tiêu ấy. Họ biết rằng người kêu gọi
họ để phục vụ những người khác: "Thày làm cho anh em thành những người đi
đánh lưới người". Khi các giáo chủ của các giáo phái kêu gọi người ta đi
theo họ, họ biến đổi người ta thành những nô lệ của họ. Đức Giêsu kêu gọi các
Tông đồ không phải để họ phục vụ Người, nhưng phục vụ người khác.
Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay
nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người
(như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một
phương thế "chuyên nghiệp". Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được
kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi
đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có
nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ
nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn
nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người
môn đệ.
Suy Niệm 2. MỘT KHỞI ĐẦU TỐT ĐẸP
Isaia, Phaolô và Phêrô là trung tâm của các
Bài đọc hôm nay. Cả ba người đã làm những điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Tuy nhiên
họ đều có mặc cảm tự ti. Họ có một quan điểm thấp kém về mình. Họ không đặt
mình ra trước, nhưng được Thiên Chúa kêu gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy một cách
miễn cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng với ơn gọi.
Isaia nói: "Tôi là một người có đôi môi ô
uế". Phaolô nói: "Tôi là người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không
xứng đáng mang danh tông đồ". Và Phêrô tuyên bố: "Lạy Chúa, xin hãy
tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Đó không phải là một sự khiêm nhường
giả tạo của ông mà là một chân lý rõ ràng.
Mỗi người bắt đầu bằng sự nhận ra sự bất xứng
và không thích hợp của mình. Theo một quan điểm tâm linh, sự khởi đầu như thế
là lý tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem ra làm hại hơn có lợi. Người ấy
chỉ cậy dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà tâm linh xây trên cát chắc chắn
sẽ sụp đổ.
Mặt khác, khi chúng ta gặp một người lo sợ,
miễn cưỡng ngần ngại, chúng ta nhận thấy người ấy đáng tin hơn, và nhân đạo
hơn. Yếu tố miễn cưỡng này là cốt lõi của vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh nhân
hoặc tử đạo hăm hở đi tìm cái chết hoặc cực hình xem ra không chân thật.
Ở đây có một nghịch lý to lớn. Phaolô nói:
"Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông
nhận ra sự yếu đuối của mình và chạy đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa
trở nên có hiệu lực nơi ông.
Khi chúng ta biết những yếu đuối của chúng ta,
Thiên Chúa có thể làm chúng ta mạnh mẽ. Khi chúng ta biết sự trống rỗng của
chúng ta, Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng ta. Khi chúng ta biết sự nghèo nàn của
chúng ta. Lúc đó, chúng ta thích hợp để làm công việc của Người, và Người hoàn
thành trong chúng ta những việc mà chúng ta nghĩ mình không làm được.
Sự khiêm nhường là một khởi điểm. Điều đó
không có nghĩa là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ và hèn nhát. Không có ân sủng,
chúng ta không thể cứu lấy mình, càng không thể cứu người khác.
Tuy nhiên, người ta có thể dùng tội lỗi và yếu
đuối của mình như một lá chắn. Isaia xin Thiên Chúa chọn người khác, người nào
có cái miệng thanh sạch. Phêrô xin Đức Kitô tránh xa ông vì ông là kẻ tội lỗi.
Khi chúng ta làm điều đó, chúng ta nhượng bộ sự yếu đuối của chúng ta. Chúng ta
dùng sự yếu đuối của mình như một mánh khoé thách đố làm điều thiện hảo.
Theo Phêrô, Đức Giêsu là Đấng Thánh phải tránh
xa ông là kẻ tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu khước từ làm như thế. Người đã đến vì
những người tội lỗi. Bằng cách ấy, Người đã thay đổi cách hiểu của con người về
Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Đấng xa lánh tội nhân, nhưng là một Thiên
Chúa muốn họ được cứu, và đem đến cho họ một sự khởi đầu mới mẻ.
Isaia, Phaolô và Phêrô sau cùng đã chấp nhận
lời mời gọi của Thiên Chúa, và cả ba đã làm một công việc sáng chói. Đây là một
nghịch lý –sức mạnh vươn lên từ sự yếu đuối. Khi chúng ta đáp lại lời kêu gọi
của Thiên Chúa, Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể làm những
điều mà chúng ta không bao giờ nghĩ mình làm được.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự khiêm
nhường để hiểu biết những yếu đuối của chúng ta, và cho chúng ta sức mạnh vượt
lên yếu đuối. Lúc đó, chúng ta sẽ có được niềm vui để khám phá ra rằng chính
khi chúng ta yếu là lúc chúng ta mạnh, bởi vì quyền năng của Chúa trở nên có
hiệu lực đối với chúng ta.
8. Đào tạo môn đệ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi
bằng ba tên: biển Galilê, biển Ti-bê-ri-át và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài
20,8km, rộng 12,8km. hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới
mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân
không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chính thị trấn chung quanh bờ hồ,
không thị trấn nào dưới mười lăm ngàn dân. Ghen-nê-xa-rét thực ra là tên của
một cánh đồng xinh đẹp nằm ở phía tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu nhất.
Tại đây chúng ta đối diện với một khúc quanh
trong chức vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong nhà hội nữa, bây giờ Ngài
ở tại bờ hồ. Rồi Ngài sẽ còn trở lại nhà hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa
nhà hội đóng lại trước mặt Ngài, thì Hội Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở
ngoài đường cái, và tòa giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất
cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giêsu
giảng ngoài đường, bên bờ hồ. Vào dịp này Ngài mượn một chiếc thuyền của một
người bạn dùng làm tòa giảng để giảng cho quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban
cho bốn người sắp được kêu gọi một bài học cụ thể về tính cách của công tác và
sự thành công vĩ đại sẽ đến với chức vụ của họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả
để đi theo Ngài. Ngài đã làm một phép lạ vô cùng kích động, và chúng ta có thể
liệt kê các điều kiện để một phép lạ xảy ra:
1. Có mắt biết nhìn xem:
Chúng ta không cần nghĩ rằng Chúa Giêsu đã
dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông
đảo đến nỗi có thể che đặc cả mặt biển trong một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt
thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà các ngư phủ không thấy.
Chúng ta cần đôi mắt biết nhìn thấy. Nhiều người đã nhìn nước sôi làm bật cái
nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi
nước. Nhiều người đã nhìn thấy táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn
thấy và đã tìm ra luật hấp lực của trái đất. Nhìn lên bầu trời các nhà thiên
văn học tìm thấy nhiều điều hơn là một người thường. Nhìn vào một hàng rào cây cỏ,
các nhà thảo mộc khám phá ra nhiều điều kỳ diệu mà một người nông dân thường
không nhận ra được.
"Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh
lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy
giờ Người nói với các môn đệ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em
hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về." (Mt 9,36-38).
Sau cuộc tiếp xúc với người phụ nữ xứ Samari ở
bờ giếng Gia-cóp, Chúa nói với các môn đệ viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin
Mừng: "Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này,
Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt
hái!" Và thánh Gioan ghi tiếp: "Có nhiều người Samari trong thành đó
tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở
lại với họ, Người ở lại hai ngày. Số người tin còn đông hơn nữa." (Ga
4,35.39.40) Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những ai biết nhìn xem.
2. Có tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:
Khi Chúa Giêsu nói thế, dù rất mệt nhọc, Phêrô
cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc
đời vì họ ngã lòng quá sớm. Trong cuốn hồi ký "Cuộc đời những thành tựu
của tôi", nhà tỷ phú Mỹ Henri Ford với biệt danh vua ô tô, đã ghi lại biết
quyết thành công của ông: "Những người đầu hàng thường đông hơn những
người chiến thắng, không phải họ thiếu tiền của, sự hiểu biết, trí thông minh,
lòng ham muốn... cái họ thiếu là lòng kiên nhẫn." Và ông gọi đó là
"nữ hoàng không vương miện của ý chí." Ray Knoe, một thiên tài của
công ty sản xuất thực phẩm "mì ăn liền" Mc Donald, cũng có cùng một
quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu các năng lực của con người, ông
viết: "Không có gì trên thế gian có thể thay thế lòng kiên trì. Tài năng
ư? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ thất bại! Thiên tài ư? Thiếu
gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư? Thế gian đầy dẫy những kẻ vô
dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì và cương quyết là vạn năng.
Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì không có gì có thể địch nổi."
3. Có tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu
như tuyệt vọng:
Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc
đánh bắt cá, tất cả hoàn cảnh đều không thuận tiện, nhưng Phêrô nói:
"Trong hoàn cảnh như vậy, nhưng nếu Thày bảo thì chúng con xin vâng."
Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận
lợi, nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ
chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi
Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Rõ ràng đó là do một quyền phép siêu nhiên
khiến Phêrô cảm thấy mình đang đứng trước sự hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ
vẻ sợ hãi như cảm giác của một người đối diện với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã
phán những lời chẳng những đánh tan sự kinh hãi của Phêrô, nhưng cũng đem lại
can đảm cho ông và đồng bạn trong những năm tới: "Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ
là kẻ chinh phục người ta."
Ngay nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm
môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại
kết quả là cứu rỗi các linh hồn.
Để kết thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của chân
phước Eserive, sáng lập Opus Dei: "Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi
xía vô chuyện ấy? Tôi phải trả lời ngay cho bạn: Chính Đức Kitô ra lệnh cho bạn
đó. Ngài bảo bạn phải xin "vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu
xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa!" Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm
sao được? Tôi có nhiều việc phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho
tôi! Không, không có ai khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói
như thế. Lời mời của Chúa là dành cho tất cả và mỗi người Kitô hữu. Không có ai
được miễn trừ, dầu là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một
miễn trừ nào, một là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta
kiệt quệ." (Escriva amis de Dieu).
9. Những môn đồ tiên khởi - R.
Gutzwiller
Cho đến bây giờ vẫn chỉ có một mình Đức Giêsu
giảng Tin mừng. Bây giờ Ngài tụ tập các môn đệ quanh Ngài. Chắc hẳn đó là một
cộng đoàn thính giả, nhưng cũng là những cộng tác viên mà Ngài cho tham dự tích
cực vào công việc của Ngài. Điều này xem ra có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Thế
nhưng, ngay bản chất của Thiên Chúa nhập thể đòi hỏi Ngài phải sử dụng con
người để xây dựng Nước Thiên Chúa. Lời mời gọi thật là ý nghĩa bắt đầu nơi
Simon Phêrô.
1. Chuẩn bị.
Nơi Simon, thửa đất được chuẩn bị thật kỹ
lưỡng, mặc dầu ông không ý thức được điều đó. Ông có mặt khi Chúa chữa lành
người quỷ ám trong hội đường. Nơi nhà ông, Chúa đã chữa lành bà nhạc của ông và
chiều đến, trước cửa nhà ông, nhiền bệnh nhân đã tìm lại được sức khoẻ một cách
lạ lùng. Đây Chúa Giêsu đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá của ông, nhẹ nhàng
đi ra xa bờ và từ đó, Ngài cất tiếng giảng dạy dân chúng; vị trí đặc biệt này
cũng là vị thế của ông trong lãnh vực thiêng liêng.
Trong việc sửa soạn trực tiếp cho vị Tông đồ
có hai phương diện: đòi hỏi và củng cố.
Yêu cầu thứ nhất là phải luôn dễ dàng suy phục
đức tin. Chúa Giêsu bảo ông ra khơi thả lưới. Phêrô cũng từ chối như bất cứ
người nào khác: ông tuyên bố rõ rằng: mình đã vất vả suốt đêm –thời gian thuận
tiện để đánh cá- cùng các bạn, thế mà chuảng kết quả gì. Bây giờ tại sao lại
phải làm nữa, vào một lúc bất lợi, khi mà con người mệt mỏi và xét theo loài
người thì tất bại là cái chắc!
Nhưng ông cũng thưa: 'Vâng lời Thầy, con sẽ
thả lưới'. Tinh thần đức tin đưa đến chỗ vâng phục, khiến cho ông được thừa
nhận và được ban thưởng một mẻ cá lạ lùng. Mẻ cá mà Simon và em là Anrê bắt
được quá nhiều đến độ ông phải làm hiệu cho bạn là Giacôbê và Gioan ở một chiếc
thuyền khác đến giúp đỡ. Và cả hai thuyền đầy ắp những cá.
Con người lao công, Thiên Chúa thưởng công.
Cần con người phải ra tay hành động, phải cố gắng, phải sử dụng mọi phương tiện
cần thiết, nhưng trong việc phụng vụ nước Chúa, phần kết quả không tuỳ thuộc ở
con người.
Kể từ thời ấy, Giáo Hội rất thường sử dụng mọi
phương pháp để hoạt động tông đồ, dốc toàn lực và kiên trì làm việc; dầu hạt
giống đã gieo, nhưng số thu hoạch không tăng gấp bội.
Ngược lại, khi không, ở một miền nào đó trên
trái đất, nơi người ta chẳng hy vọng gì thì nhiều lần Thiên Chúa lại làm phát
sinh một mùa thâu hoạch thật là phong nhiêu, chỗ mà người ta cho rằng kết quả
chẳng có bao nhiêu. Ở đây trong sự mời gọi thi hành nhiệm vụ khởi đầu của
Simon, rõ ràng thành công hay thất bại đều ở trong tay Chúa, vất cả chỉ có ý
nghĩa khi nó hợp với Thánh ý và giới mệnh của Chúa, thi hành cả lúc coi là có
viễn tượng thất bại, nhưng làm với một niềm tin trung kiên bền vững.
Đòi hỏi thứ hai là ý thức tình trạng tội lỗi
của mình. Thánh Phêrô đã hiểu mẻ cá này có ý nghĩa gì rồi. Nó làm cho ông chú ý
đến Đức Kitô dường như ngôi sao lạ đối với các đạo sĩ, bởi vì mẻ cá nhiều quá
đỗi, trong một khoảng thời gian vắn, một nơi bất lợi, tất cả cho ông biết rằng
có sự hiện diện của một lực siêu nhiên.
Do vậy, Thánh Phêrô có kinh nghiệm về Thiên
Chúa nhờ gần gũi với Đức Kitô. Sự gần gũi này làm ông sợ hãi đến cùng cõi thâm
sâu trong người ông, ông ý thức được tình trạng tội lỗi của mình, đó là cái
không thể tồn tại trước nhan Thiên Chúa. Con người càng cảm thấy sự hiện diện
của Thiên Chúa hằng sống, thì càng thấy cái tôi tội lỗi cua mình biểu hiện ra
thật đau khổ và không thể nào chịu được. Vì đó Thánh Phêrô, đã sụp xuống và sợ
hãi thưa: 'Lạy Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi'.
Đó hẳn là thái độ xứng hợp. Con người được mời
gọi cộng tác vào nước Thiên Chúa chẳng phải vì có những khả năng đặc biệt như
những tư chất tri thức, điều kiện luân lý và đạo đức, nhưng chỉ đơn giản là vì
Thiên Chúa muốn họ cộng tác, có thế thôi, chứ nơi con người không có chi xứng
đáng để Thiên Chúa phải chọn lựa. Một khi con người biết rằng mình được Thiên
Chúa mời gọi không phải vì 'mình thế này thế nọ', nhưng 'cho dù mình bất xứng,
Thiên Chúa cũng vẫn...', và nếu thành thực thú nhận rằng mình tội lỗi thì sẽ
chẳng quy kết quả và vinh dự cho bản thân mình nhưng cho duy mình Thiên Chúa mà
thôi.
Thế cho nên mẻ cá lạ lùng này là một chuẩn bị
tuyệt hảo. Khi con người tội lỗi tín thác vào sức mạnh và sự cao cả của Thiên
Chúa, và bắt tay vào việc với tinh thần dễ dậy và ngoan ngoãn với đức tin, thì lúc
đó họ đang sống trong chân lý. Mọi thái dộ khác xuất phát từ nguyên một triết
lý tự nhiên thôi, đều phải coi là sai lạc. Chúa Giêsu không đòi hỏi mà thôi,
phép lạ của Ngài còn làm cho Simon và các đồng bạn được vững chắc trong tâm
hồn.
Là những ngư phủ thiện nghệ, họ sẽ chẳng bao
giờ quên được mẻ cá này. Họ chưa từng thấy hay kinh nghiệm một trường hợp nào
tương tự. Nay bỗng dưng vào một lúc bất tiện, cả một đàn cá từ tứ phía đổ tràn
vào lưới; nay bỗng nhiên mẻ cá nhiều đến độ hai thuyền chở nặng gần chìm; họ
coi đây là hiện tượng siêu phàm không thể hiểu được.
Sau này khi đi giảng Tin mừng các ông sẽ gặp
sự chống đối từ phía Israel, và sẽ phải từ bỏ dân riêng của mình sau bao năm
trường vất vả mà không kết quả để quay về phía các dân ngoại.
Với một thiểu số ít ỏi, họ đã chinh phục được
những thành phố lớn; đến giờ chịu tử đạo, các ông sẽ phải bỏ mạng sống mình và
bỏ tất cả để chấp nhận một số phận bấp bênh hầu phục vụ nước Thiên Chúa. Thế
nhưng các ông không lầm khi theo Chúa Kitô bởi vì từ nay các ông biết rằng kết
quả có thể đến bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ ở nơi nào, lúc nào tuỳ sự tự do cao
cả Chúa định đoạt. Các ông không còn lo lắng đến thành công hay thất bại, chính
Chúa Kitô sẽ quyết định những điều đó.
Sau những đêm trường vất vả mà công dã tràng, các
ông nhận được những buổi mai vinh thắng. Trong nước Thiên Chúa, vất vả cố gắng
không được cân đo theo những quy luật tự nhiên. Ta hãy tin rằng mọi sự đều ở
trong tay Thiên Chúa; phải luôn luôn thi hành công việc với lòng hy vọng và
đừng khi nào thất vọng.
2. Sứ vụ
Simon nài xin: 'Lạy Thày, xin hãy tránh xa
con'. Chúa Giêsu trả lời ông theo một hướng trái ngược hẳn: 'Đừng sợ, các con
sẽ là kẻ chinh phục người ta'. Tạo vật tội lỗi có lý do để sợ hãi. Nhưng ơn
sủng của Chúa Kitô sẽ xua đuổi nỗi lo sợ này. Tội lỗi đẩy ra xa, còn ân sủng
kéo lại gần. Không phải chỉ để vui hưởng yên ủi hay bản thân được cảm nghiệm,
nhưng là để tham dự và cộng tác vào công trình của Chúa. 'Con sẽ là ngư phủ
lưới người ta'.
Chiếc ghe nhỏ của Phêrô từ đây sắp lướt trên
đại dương, tức là lịch sử thế giới, đoàn người đi với Ngài không ngừng tìm cách
câu lưới người ta. Con người sẽ trở nên miếng mồi của Thiên Chúa, nhưng không
phải để bị huỷ diệt, mà là để được giải thoát: để được cứu vớt khỏi cái đầm lầy
đáng thương tức là cuộc sống hoàn toàn có tính cách trần thế, và được đưa sang
đại dương mênh mông tức là tình yêu của Thiên Chúa.
Bởi vì một khi sóng nước đời này muốn làm biển
cả thì thực tế lại chỉ là một cái đầm lầy nước đọng. Chỉ khi nào sa vào lưới
của Chúa và rồi được Ngài cho chìm ngập trong những cuộn sóng ơn sủng, bấy giờ,
họ mới có được cái kinh nghiệm thế nào là sự phong phú của một đời sống trong
Chúa.
Để thực hiện chương trình này, Chúa Giêsu sắp
chinh phục những con người mà Ngài sẽ lấy quyền năng của mình để trang bị cho
và trao cho nhiệm vụ ra đi giảng dạy. Do đó không được hoàn toàn quên đến phần
đóng góp của con người để cho rằng một mình Thiên Chúa làm hết mọi sự.
Nhưng thể theo ý của Đức Kitô, Đấng đã sắp đặt
như thế chứ không theo cách khác, những con người này phải chịu vất cả với sự
kiên nhẫn, đam mê kiên trì của một ngư phủ, để đem hiểu biết cũng như tài khéo
trong việc đánh bắt những con người 'cô đơn' sử dụng những phương pháp tinh xảo
để thu phục đám đông, dành mọi nỗ lực để phục vụ sứ mạng đã được trao phó.
Không có gì cao quí cho bằng nghề lưới người:
phải bắt đầu lại luôn luôn, hết mẻ này đến mẻ khác... đến với mọi giai tầng xã
hội, mọi ý thức hệ chính trị, mọi phe nhóm quốc gia, chủng tộc.. Mọi tuổi tác,
giới phái, trình độ văn hoá... Các ngư phủ lưới người phải làm việc theo lệnh
của Chúa ở khắp mọi nơi. Đó là sứ vụ của họ.
Vậy họ trả lời ra sao? 'Các ông đã từ bỏ mọi
sự mà đi theo Ngưới'. Bản văn không thuật lại một lời phản kháng nào của bốn
môn đệ tiên khởi cả. Không bán tín bán nghi, cũng không từ chối vì thứ khiêm
nhường giả tạo, cũng không vì nhiệt tình bồng bột; nhưng chỉ nhấn mạnh đến hai
mặt của sự kiện: 'Các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Người'. Mỗi một mặt đều có
tầm quan trọng riêng của nó.
Bỏ mọi sự. Con người phải cởi bỏ những mối dây
làm mình bị vướng víu và tê liệt. Cần phải có bàn tay và tâm hồn tự do. Không
còn thuộc về thế giới xung quanh và cái vũ trụ quen thuộc. Chúa Kitô muốn cho
kẻ được Ngài mời gọi cộng tác phải hoàn toàn tuỳ Ngài xếp đặt. Ân huệ tuyệt đối
giả thiết sự từ bỏ hoàn toàn. Nhờ từ bỏ, con người chuẩn bị cho mình thật sẵn
sàng.
Đi theo Người. từ nay có một nhóm môn đồ ở với
Thầy. Các ông không theo Ngài kiểu như những học trò thụ giáo một bậc Thầy
triết lý: bởi vì đây không nhằm mục đích tri thức, nhưng là một sự dấn thân
thực sự. Chúa Giêsu đã biến những ngư phủ này thành những ngư phủ lưới người,
kéo họ ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của họ; họ sắp đi theo Ngài, cùng Ngài đi
vào thế giới mênh mông. Họ thuộc về Ngài hoàn toàn, họ đã khám phá một tâm điểm
mới cho cuộc sống, một mục đích mới để hoạt động.
Giờ đây chính Chúa Giêsu sắp xếp mọi sự cho
họ; Chúa Kitô sẽ là số phận của họ trong suốt cuộc sống của họ trên dương thế,
và là cuộc sống mới của họ. Sau mẻ cá lạ lùng này, họ đã cập bờ nhưng với con
người hoàn toàn khác hẳn. Sự ra đi này biến thành một cuộc vượt biển mới, cuộc
Vượt qua bao la và đòi can đảm mà họ chỉ thoáng linh cảm thấy.
Theo gương Chúa Kitô, qua việc từ bỏ và tận
hiến mình thực sự là điều lớn lao nhất trong cuộc sống của con người.
10. Từ nay anh sẽ bắt người
Suy Niệm
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển
hướng.
Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia
đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới,
là gia đình cần phải chăm nom.
Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt
ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất
ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình
rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác,
yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.
Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài
chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá,
Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình để
thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi.
Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ
được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá
làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất
ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt
người."
Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối.
Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt
người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào
Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại
hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc,
khỏi những điều tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài
không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Nghe theo tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái
được một kết quả không ngờ: có khi nào trong đời, bạn có một kinh nghiệm tương
tự như kinh nghiệm của Simon không?
Theo ý bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là
khó bỏ hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa
chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng
đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong
manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa,
sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình
kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi
bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của
Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa.
Amen.
11. Dựa vào lời Thầy
Suy Niệm
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề
nghiệp. Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay. Vậy mà ông ngư phủ bộc
trực và ít học này lại lọt vào cặp mắt của Đức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ
của ông. Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng và thấy một số phép lạ Ngài
làm. Đôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường, nên Đức Giêsu
rất tự nhiên xuống thuyền của Simon, và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời
Thiên Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc
sâu. Đây thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm
không có cá thì đánh cá ban ngày cũng uổng công. Vả lại ông và các bạn đã mệt
nhoài sau một đêm vất vả. Lưới đã được giặt và đem phơi...
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác, kinh
nghiệm về sức mạnh của Lời Đức Giêsu. Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ,
lời chữa cho mẹ vợ ông. Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm
tin của ông.
Điều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp.
Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn. Tràn trề dư dật là dấu hiệu của
bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho
ông. Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa
mình với Chúa. Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Đấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông, thì Ngài
lại đến gần ông để trao sứ mạng. Ngài mở đời ông sang một trang mới:
"Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta."
Không phải bắt để làm chết như bắt cá, nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với
Đức Giêsu: kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin, kinh
nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ, kinh nghiệm được gọi và
kinh nghiệm đáp trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Đức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại.
Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ. Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước
của lòng tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường,
vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần
nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất
cả là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng
tác. Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có nhiều người đi lễ, nhưng ít người nghe được
tiếng mời gọi cộng tác của Đức Giêsu. Bạn có thấy vai trò quan trọng của giáo
dân trong Hội Thánh không? Họ có thể làm gì và phải làm gì?
Cuộc đời Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả
mà không được gì. Bạn đã làm gì để giữ vững niềm tin trong giai đoạn ấy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa
chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng
đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong
manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa,
sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình
kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi
bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của
Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa.
Amen.
12. "Con sẽ là kẻ đánh lưới
người"
Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng
thuyết trẻ, vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội mà Luca là người
thuật lại đã bắt đầu như thế. Trong khi mô tả bước đầu này ngài hiểu những
chuyến đánh cá người đầu tiên, những bước đầu của Giáo Hội nơi thế giới ngoại
giáo. Và chúng ta, làm sao chúng ta không nghĩ đến những đám đông các tín hữu?
Nhưng cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi
những ngư phủ nữa. Tin Mừng này là dành cho mỗi một người chúng ta, ngay cả
đoạn 10 nổi tiếng mà vì Tin Mừng đó, đoạn này đã được viết: "Từ nay đây là
những người mà con sẽ bắt lấy". Đây là những từ ngữ thật sự đánh trúng
những thanh thiếu niên đã trở nên những linh mục và những nhà truyền giáo.
Và có thể đánh trúng những ai trong khi đọc
lại trang Tin Mừng của Luca cảm thấy nổi lên sự nản chí: đánh cá ở đâu và như
thế nào đây?
Đây chính là mục tiêu của trần thuật này của
Luca: niềm tin vào Chúa Giêsu như là phương thuốc chống lại sự nản chí. Trong
khi khai mào mùa đánh cá tông đồ lớn lao, Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo đừng
nên quên bao giờ: không có Ta, lưới của các con sẽ trống trơn. Chúng ta không
luôn luôn thấy rõ chân lý cơ bản này ở vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã dấn
thân vào sứ mạng tông đồ, chúng ta lao nhọc ngày đêm mà không làm việc một cách
đầy đủ với Chúa Giêsu. Chúng ta bỏ không nghe bài giảng, xao lãng các bí tích,
chúng ta hoạt động, chạy vạy và một ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm cật lực
một cách vô ích.
Làm phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta
muốn thoát ra khỏi một giây phút nghi ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng
này. Đây là trang Chúa Giêsu tỏ cho thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta
tin cậy vào Ngài. Ngài chọn điều có thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông
đồ đầu tiên: nghề nghiệp của họ. Và Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà
đưa ra những lời khuyên cho những người chuyên đánh cá, và là những người vất
vả qua một đêm nỗ lực nhưng vô ích.
Những nhà chuyên môn trong công tác tông đồ sẽ
gặp cảnh này. Cạn kiệt những nỗ lực vô ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho Chúa
Giêsu, nghĩa là cho việc cầu nguyện. Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong công
tác tông đồ hạn hẹp hơn và không chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay hoặc
tìm kiếm những phương pháp khác hơn là chuyên chú cầu nguyện.
Dầu vậy, chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến
cho chúng ta lòng nhiệt thành của Phêrô. Là thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc,
Chúa Giêsu đã chinh phục ông: "Theo lời Thầy, tôi xin thả lưới".
Chúng ta sẽ không đưa về những mẻ lưới và
những chiếc thuyền đầy cá. Chúng ta không còn ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ
đến phép lạ củng cố một niềm tin vừa chớm nở. Nhưng chúng ta biết điều mà con
người đã có thể làm cùng với Chúa Giêsu, qua những mẻ lưới truyền giáo lớn.
Chúng ta có quyển Công Vụ Tông Đồ, những câu chuyện truyền giáo và những hạnh
các thánh để làm sống lại niềm tin của chúng ta. Một mình đức tin, đức tin có
thể làm cho chúng ta thành các tông đồ làm việc cật lực nhìn lên Ngài
"theo lời Thầy, tôi xin thả lưới".
13. Cuộc phiêu lưu
Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của
ba nhân vật quan trọng nhất của Thánh Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô. Cả ba
đã gặp Chúa trong những biến cố lạ lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc đời
cho Ngài. Vậy thì cuộc phiêu lưu ấy như thế nào?
Đối với Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông trong
một thị kiến khác thường. Ông thấy vinh quang Thiên Chúa bằng một cảnh sắc hùng
vĩ, với các thiên thần đứng chầu và không ngớt tung hô. Một cảnh tượng uy
nghiêm và trang trọng.
Đối với Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho
ông một cách trực tiếp hơn. Sau khi đã kể lại những người đã được Đức Kitô phục
sinh hiện đến, ông cũng cho biết là Đức Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó
ông đang bắt bớ Giáo hội, nhưng là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra
này đã là một biến cố quan trọng trong đời sống của ông.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bị bắt lấy đang
lúc làm việc và đã thấy được quyền năng của Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố
đó đã làm cho ông và các bạn ông tin theo Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba
cách thức khác nhau để mạc khải, để tỏ lộ mình ra.
Đối với Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh
quang. Đối với Phaolô thì Đức Kitô là chủ của sự sống, còn đối với Phêrô, thì
Ngài là Chúa của tạo vật. Đối với mỗi vị, Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu
hút lại vừa chế ngự. Vừa có vẻ như xa xôi nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng
những lời mời gọi mãnh liệt nhất và trong những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với
họ như để hoàn thành một cách sung mãn niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn
họ.
Đồng thời trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có
cùng một phản ứng, vừa bất ngờ lại vừa mạnh mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất
xứng và hổ thẹn.
Isaia đã kêu lên:
- Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi
nhơ bẩn.
Phaolô thì tự thú:
- Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ
và không xứng đáng với danh hiệu ấy, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.
Còn Phêrô thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:
- Lạy Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi
là kẻ tội lỗi.
Giữa lý tưởng cao cả mời gọi họ và con người
yếu đuối của họ có một hố sâu cách biệt, làm cho họ cảm thấy mình bất lực và
muốn đẩy Thiên Chúa ra xa. Trước mặt Thiên Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi
và xấu hổ. Thế nhưng chính Ngài sẽ hành động để nâng đỡ sự yếu hèn của con
người.
Miệng lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng
than hồng. Phaolô được biến đổi bởi ơn Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,.
thì cảm thấy như được an tâm để dấn thân vào công việc mới. Như thế mỗi người
đều được Thiên Chúa tái tạo và chấp nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng
và thất vọng nhất. Từ đó họ cảm thấy cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào
Thiên Chúa. Nên họ hoàn toàn phó thác, để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài
mong muốn nơi họ. Họ chỉ còn biết theo Ngài và tuân phục Ngài.
Để đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì
Isaia đã trả lời:
- Này tôi đây, xin hãy sai tôi.
Phaolô thì nói:
- Tôi đã chịu khổ nhọc nhiều hơn những người
khác.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe
thuyền mà đi theo Chúa Giêsu.
Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng
tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin tưởng vì Thiên Chúa chính là tất cả những gì
chúng ta muốn và Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên như thế, vì nếu không có Ngài
chúng ta không là gì cả.
Cuộc phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải
chăng cũng là cuộc phiêu lưu của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng
ta bằng nhiều cách. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều ngả đường.
Vì thế, cần phải chăm chú lắng nghe và tìm
hiểu. Có những lúc chúng ta cảm thấy bối rối và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng
ngã lòng, bởi vì Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ. Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng
từ bỏ và vâng phục Ngài.
14. Mẻ lưới
Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa
Giêsu nói với Phêrô rằng:
- Hãy ra khơi và thả lưới.
Và chúng ta đã thấy được phản ứng tức thời của
Phêrô. Ông nói:
- Thưa Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt
đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả
lưới.
Qua lời nói này, chúng ta thấy được thái độ
của Phêrô. Ông không tranh luận và bàn cãi với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm
nghề nghiệp của mình, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì
thế mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Đồng thời, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các
ông đã làm lụng vất vả suốt đêm, tuy nhiên các ông đã làm lụng như thế nào?
Tôi xin thưa:
- Các ông đã làm lụng một mình.
- Và kết quả ra làm sao?
Tôi xin thưa:
- Chỉ là một con số không.
Với chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc
một mình, có nghĩa là chúng ta quá ỉ vào sức riêng, quá cậy dựa vào tài năng
của mình, để rồi thất bại sẽ làm cho chúng ta bực bội và thất vọng. Trái lại,
với tâm tình cầu nguyện và tin tưởng, chúng ta hãy mời Chúa cùng làm với chúng
ta và chúng ta sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn
đã bảo:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường
thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Hay như Thánh vinh đã nói:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.
Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Và chính Chúa cũng đã xác quyết:
- Không có Thày, các con không thể làm gì
được.
Tiếp nối đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ
cá lạ lùng ấy, các môn đệ đã đi từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô
đã quì xuống dưới chân Chúa và thưa lên với Ngài:
- Lạy Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một
kẻ tội lỗi.
Phải chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ
cõi lòng khiêm nhường của ông, khiến chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên
đội trưởng:
- Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà
con.
Chúa Giêsu không những đã không rời xa Phêrô,
trái lại Ngài đã yêu thương và dành cho ông một sứ mạng:
- Từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.
Và Phúc âm đã kết thúc: các ông cho thuyền vào
bờ, rồi sau đó đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi này
đã nói lên tất cả. Các ông đã trở thành những mẫu gương sáng chói cho muôn đời
noi theo, bởi vì qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi sự,
bước theo Chúa trên dấu chân của các ông.
Lời Chúa phán với các ngư phủ bên bờ hồ
Tibêriade ngày xưa vẫn còn vang vọng tới chúng ta cho đến hôm nay:
- Các con hãy ra khơi và thả lưới.
Vâng theo lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị
tông đồ đã đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm,
thực hiện những hành động bác ái yêu thương hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Riêng chúng ta thì sao? Là những người dân ở
hậu phương, chúng ta có bổn phận phải yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến
bằng lời kinh cầu nguyện, bằng đời sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải
cũng như bằng chính tiền bạc vật chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái
được những thành quả tốt đẹp, và bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó,
cũng sẽ trở nên những người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để
góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội? Chúng ta có thực
sự muốn ra khơi và thả lưới hay không?
Sưu tầm
LỄ GIAO THỪA: Mt 5,1-10
MỒNG MỘT: Ga 14, 23-27
hoặc Mt 6, 25-34
1. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
2. Thời gian (Mt 6,25-34)
3. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
4. May mắn (Mt 5,1-10)
5. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
6. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
7. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
8. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
9. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
10. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
11. Thiên Chúa hay thần tài?
12. Xin ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
13. Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên
14. Thánh Lễ Giao Thừa
15. Bình an
16. Chúng ta là người hành khất
17. Giây phút linh thiêng
18. Lời cảm tạ tri ân
19. Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật
20. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
21. Lời hứa năm mới
22. Xin cho tất cả đều mới
23. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10)
24. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
25. Cầu bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10
26. Thánh Lễ Giao Thừa
27. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
28. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34)
29. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại
30. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
31. "Những Dấu lặng của Mùa Xuân"!
32. Vạn sự như ý... Chúa
33. Hạnh phúc đích thật
34. Ngày đầu năm – R. Veritas
35. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
36. Năm mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
37. Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34
38. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10
39. Tết cho mọi người – Lm Jos Nguyễn Hữu An
40. Hạnh phúc trường sinh
41. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10)
42. Bình an và hạnh phúc
43. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10)
44. Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt 6,
25-34)
45. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
46. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34)
47. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
48. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
49. Cầu bình an trong năm mới
50. Bình An - Quà Tặng Năm Mới
51. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
52. Một năm mới tốt đẹp
53. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng
1. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
Trong những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc
cho nhau được khoẻ mạnh, được nhiều may mắn, được gặt hái những thành quả tốt
đẹp. Thế rồi khi năm mới bắt đầu, chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần
lớn là để tìm lấy những vinh quang, những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ
thất bại, chúng ta cảm thấy buồn chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi
người khác trổi vượt hơn chúng ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại
vấn đề, phải xác định phương hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để
làm gì? Và đâu mới là quê hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi
này chúng ta mới có thể đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới
có thể tìm thấy được những giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ,
có lần đã đi nghỉ hè tận Phi Châu để săn những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay
từ Phi Châu trở về Hoa Kỳ, có một nhà truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân
Phi Châu suốt 40 năm trời. Khi phi cơ hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến
đông đảo dân chúng cùng một phái đoàn cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng
thống trở về bằng yên, không ai để ý tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một
mình. Bấy giờ nhà truyền giáo than thở với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy
Chúa, Chúa biết không, một vị tổng thống đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người
đón rước như vậy. Còn con đây, con đã hy sinh vì Chúa để phục vụ những người
anh em cùng khổ tại Phi Châu suốt 40 năm thế mà giờ đây, khi trở về, lại không
một ai thèm nhớ đến con. Quả là bất công và tủi hổ cho thân phận của con. Thế
nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời trong tâm hồn nhà truyền giáo:
Này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể đôi lúc chúng ta cũng than phiền với
Chúa như thế. Và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng là câu trả lời
cho mỗi người chúng ta: Con chưa trở về quê hương thật của con. Trần gian chỉ
là nơi tạm gởi và vinh quang của nó tựa cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì
thế, đừng quá bận tâm tới tiền bạc vật chất, địa vị danh vọng, cũng đừng ganh
tỵ với những may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố gắng tạo cho mình một kho tàng
thiêng liêng, có giá trị trường cửu, để nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận
vào quê hương Nước Trời.
Với những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu
chúc anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc trong tình yêu thương của
Thiên Chúa.
2. Thời gian (Mt 6,25-34)
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ
đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của
cuộc đời chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi
đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần
ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng.
Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ
trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời
ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như
chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.
Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều
tàn.
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay,
con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu
vẫn là niềm day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào
tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ
công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã
phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất
mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con
người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng
thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực
tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm
tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu
chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở
một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị
thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn
giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn
truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã
hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì
sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây
là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần
là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua
mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh
thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng
được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường
cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh
bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của
con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một
cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi
và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ
mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được
sống như lời Ngài đã phán: "Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin
Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và
được sống dồi dào". Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho
chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của
niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa
đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo
mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng
ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì
đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối
với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên
Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải
yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như
Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai
mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối.
Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều
trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ
Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại
không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu
chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng
như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
************
3. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
Chúng ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang
đứng ở đầu ranh của năm mới. Năm cũ là một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ
là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh hai chặng đường dài ấy, chúng ta
thường có hai hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa
mà hai cái nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta trong giây phút linh thiêng này?
Trước hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên
nỗi niềm biết ơn. Đúng thế, hãy biết ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ,
chúng ta sẽ thấy trong năm qua chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng
bao nhiêu, vì chúng ta là những kẻ thiếu thốn luôn cần đến người khác. Cần để
sống, cần để nên người, cần để thắng lợi. Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp.
Từ nụ cười đến tình thương, từ lời chào đến tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng
ta nhận lãnh đều là những viên gạch xây dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi
những gì sung sướng hay lớn lao mới là ơn. Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe
đò ồn ào, đông đảo, chen lấn, nhưng sau cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta
cũng đừng cho mình là cô đơn vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc đời chúng ta có như một cành mai báo
hiệu mùa xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì
cũng đừng cho mình là phù hoa chẳng chịu ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh
nhận rất nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu
ruộng đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao
giờ cũng mắc nợ những khúc sông khác, nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương.
Dù cuộc đời chúng ta có như một ngôi nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho
rằng tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên
gạch, từng giọt mồ hôi và biết bao những công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta
có như Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng mình vô phước, vì thực sự chúng ta
đã lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của
biết bao công ơn. Mà đã chịu ơn thì phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi
người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi
nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đến tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát
triển, bởi vì sống là tiến bộ, sống là phát triển. Không tiến tức lùi, không cố
gắng bơi thì sẽ bị giòng nước cuốn trôi. Phát triển không phải chỉ về phần xác,
to bề ngang, cao bề đứng, nhưng còn về tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản
xuất mà còn về đạo đức. Cặp mắt phải biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn,
không để mình bị ru ngủ bởi những ảo vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ
những nghi kỵ hận thù, để đoàn kết và mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn
phải biết tin tưởng vào Chúa và rút ra từ lòng cuộc đời những bài học bổ ích
cho tâm hồn. Bản thân phải biết bấu víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời này và
ban cho mình hạnh phúc ở đời sau, cũng như phải biết thu tích những sự thiêng
liêng không bao giờ hư mất.
Dĩ vãng kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương
lai kêu gọi chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp
đầu xuân, khi chúng ta đứng giáp ranh giữa năm cũ và năm mới vậy.
***********
4. May mắn (Mt 5,1-10)
Trong dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho
nhau những tấm thiệp với lời nguyện chúc tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày
tết, bước chân ra đường, chúng ta sẵn sàng nở một nụ cười thật tươi và không
ngần ngại cầu chúc cho nhau một năm mới nhiều may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc
tôi xin thành thật gửi đến cho anh chị em. Thế nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu
xem sự may mắn là gì? Bởi vì năm người thì mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn
theo một quan niệm riêng.
Thực vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
- Một năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ vuốt chòm râu bạc hay lau khô những
giọt mồ hôi trên trán và trả lời:
- Đó là một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng
tốt tươi, lúa thóc đầy bồ.
Nếu tôi hỏi một cô gái đi buôn:
- Thế nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc hẳn cô ta sẽ trả lời:
- Đó là một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót
lọt chuyến ấy, không bao giờ bị bắt và nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai,
năn nỉ ỉ ôi mà xin lại được.
Nếu tôi hỏi đôi vợ chồng trẻ:
- Năm mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ trả lời:
- Đó là một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh
nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách bay ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ
cẳng tay với nhau. Rồi đầu năm sinh con trai và không chừng cuối năm sinh con
gái. Hay là trúng số cặp hai, đẻ sinh đôi, nuôi luôn một thể.
Cái được gọi là may mắn của nhiều người thời
nay là gì, nếu không phải là những thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền
bạc phải rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ
cũng là vấn đề tiền đâu.
Dĩ nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn
và mong ước có được một cuộc sống tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong
nghề nghiệp, chiếm được một địa vị khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số
lương hậu hĩnh, tạo được những thành tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được
rằng: đó là một năm mới nhiều may mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết
hiệp với Chúa, phải biết làm việc cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có
được một giá trị vĩnh cửu. Những việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất
cả rồi sẽ qua đi.
Thực vậy, Chúa đã phán:
- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì
có ích lợi chi.
Phúc âm đã kể lại câu chuyện về ông phú nông
như sau: Năm đó, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Ông ta thu tích không
biết cơ man nào lúa thóc. Cho nên ông ta đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé,
để xây kho lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông
cảm thấy được bảo đảm thì lời Chúa vang lên:
- Hỡi kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm
hôm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi, thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ,
và những của cải ngươi chắt chiu thu tích sẽ để lại cho ai?
Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói:
- Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại
muôn đời.
Với Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình
Chúa mà thôi, thì cũng đã đủ. Giữa những lao công vất vả, giữa những giọt mồ
hôi và nước mắt, giữa những quyến dũ trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng
nhìn về Chúa. Chỉ có một sự cần đó là sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ
tại nhà thờ chính tòa. Ông ta nhìn thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang
quỳ cầu nguyện thật sốt sắng, nên sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh
đường, rỡ một viên ngói, rồi từ đó ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng
tiền vàng rơi trên nền gạch, tạo thành những tiếng động trong bầu khí thinh
lặng, trang nghiêm và thánh thiện này, rồi lăn đi khắp mọi nơi... Tuy nhiên,
không một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm những đồng tiền vàng ấy. Không một em
nhỏ nào đã chia trí và lo ra.
Chút nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời
gọi chúng ta:
- Hãy nâng tâm hồn lên.
Và chúng ta đáp lại:
- Chúng con đang hướng về Chúa.
Đúng thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm
của chúng ta phải qui hướng về Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh
Phaolô:
- Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là
chính Đức Kitô sống trong tôi.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản
thân và cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng
ta phải sống cho Chúa, bởi vì Chúa là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất
Chúa thì cũng sẽ mất mọi sự và chẳng còn lại gì nữa.
Và như thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi
người chúng ta một năm mới nhiều may mắn.
5. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6,
25-34)
Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những
người nghèo nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù
quanh năm có đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ
nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là
vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã
đưa con người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người
vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang
phải vật lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh
lệch về sở hữu của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không
đáy, tìm hết mọi cách - kể cả những cách ô nhục và thấp hèn - để chiếm đoạt tài
sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được
các điều kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến
những số tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả
nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty,
tỉnh, huyện, xã v.v... thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp
vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28
năm rồi!
Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan
Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội
và thế giới như thế? Chắc đối với những người có "của ăn của để" thì
không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày
mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con
hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày
phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô
cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời
ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời
ấy là Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả
lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên
Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người
chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác.
Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho
vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao.
Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào
Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó
mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm
nghiệm được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề
vật chất trong cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy
ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện
lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một
phần của cải mà mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn
nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó
dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là
chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ
ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải
vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương
biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của
chúng ta.
6. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc
năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng
vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao
phó cho Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta
phó thác cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì
chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta
muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới
chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi
người thân yêu, bè bạn.
Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện
chúc của chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải
biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà
phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì
cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh
phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa.
Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài
cũng không muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm
hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây
giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài
muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó,
hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ
hôi nước mắt, bằng sự nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ
làm vơi bớt đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ
nhàng êm ái.
Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc
trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là
tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết
tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau
khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.
Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh
phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không
thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay
sống bất chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương.
Chúng ta không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian
khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột,
hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.
Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng
chúng ta trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả
tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa
mới có thể đem lại cho chúng ta.
Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người
Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó
chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.
7. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui.
Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm
vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch
và một trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:
- Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng
buồn vậy.
Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm
vui cho chúng ta?
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng
đối với các tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc,
bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn
phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho
các tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là
niềm vui được kết hiệp với Chúa.
Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng
ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?
Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho
chúng ta niềm vui đích thực. Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út
của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo
lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:
- Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình
thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp
gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.
Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa
sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là
chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.
Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới
chân mẹ là hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng
nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn
ngào nói:
- Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm,
nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội
trọng mất lòng Chúa.
Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn
mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:
- Thà chết chẳng thà phạm tội.
Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu
đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài
đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và
ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm
thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối
Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh
vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và
những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau
quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.
Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa
Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để
được tha thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu:
Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày
hiện tại không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về
nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ
tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất
được.
Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa
đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó
mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm
vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương
của Chúa.
8. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
PHẤN ĐẤU TẠO MÙA XUÂN
Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần
làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ
đẹp đẽ vui tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày
Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ.
Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm
chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười
đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá
trình phấn đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây
đào trơ trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá
để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là
càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi
ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem
niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh
phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ
hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua
những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh
phục vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những
cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những
cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa
xuân?
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng
sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì
xưa cũ là những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước
như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất
hoà, thói tự kiêu tư đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính.
Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú
không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi
vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi,
lá càng thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh
phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu
chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo
Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ.
Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu
lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi.
Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt
đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực
vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ
mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng.
Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng
chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được
nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình,
cho đất nước và cho nước Trời.
9. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt
6,25-34)
Một năm cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong
giây phút linh thiêng này, chúng ta thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta
thường gửi đến cho nhau những lời cầu chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý
thức được tập tục tốt đẹp này. Họ không hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi
những lời cầu chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho
nhau những gì? Và chúng ta nghĩ sao về những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa:
Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới
hạnh phúc?
Khi em bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè
phố, tụi bạn sẽ bảo em là một người hạnh phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số
độc đắc, bà con lối xóm cũng bảo chúng ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại
sao lại như thế? Vì đối với nhiều người, hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều
bạc lắm.
Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh
phúc giả hiệu và thời gian của nó kéo dài không quá một kiếp của con thiêu
thân, như lời một câu danh ngôn đã bảo:
- Hạnh phúc của người giàu cũng dễ bể như một
chiếc ly thủy tinh.
Chẳng hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai
ương hoạn nạn...mà nhiều người đã mất đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu
gầy dựng: Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang
không đủ đảm bảo và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Đối với nhiều người khác, một năm mới hạnh
phúc sẽ là một năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn trong công ăn việc làm.
Đúng thế, khỏe mạnh và may mắn cũng là những điều chúng ta thường cầu chúc cho
nhau, nhưng vẫn chưa phải là niềm hạnh phúc đích thực.
Nếu sức khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn
những lực sĩ sẽ là những người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi
vì có những người đau yếu, sức khỏe thì èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên
cặp môi khô héo của họ.
Còn về sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu
quả đúng như vậy, kẻ nào càng kiếm được nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế
nhưng, trong cuộc sống, những người kiếm được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ
khổ đau, vì như chúng ta thường bảo:
- Lòng tham thì vô đáy...Đứng núi này trông
núi nọ...Được voi đòi tiên...
Và như thế, khát vọng này nảy sinh ra khát
vọng khác và sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn. Rất nhiều người đã mong ước có
được một việc làm dễ dãi, khả dĩ kiếm được nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống
một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc, vì họ thầm nghĩ:
- Có tiền mua tiên cũng được.
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Có tiền là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv
tủ lạnh và nhất là sẽ được mọi người kính nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa
ra một thí dụ đẻ chứng minh cho sự thật trên.
Paul Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất
tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng
tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh
ông có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm
dọa sẽ ám sát và ông đã phải thốt lên:
- Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh
phúc.
Thí dụ trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật
không hệ tại nơi tiền bạc vật chất. Vậy chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu
bây giờ?
Hẳn chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ
có thân xác, mà còn có linh hồn. Bởi đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất
bên ngoài, mà còn cần phải có những nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên
trong. Và như thế, niềm hạnh phúc đích thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy
được điều đó. Chẳng hạn thánh Giuse và Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có
nhiều tiền bạc, không ở trong những tòa nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các
ngài sống rất nghèo nàn, đến nỗi không tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các
ngài vẫn hạnh phúc. Tại sao lại như thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với
các ngài.
Thực vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh
phúc. Và ai yêu mến Chúa, người ấy sẽ được hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn
được hạnh phúc, chúng ta cần phải có Chúa ở cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta
phải trong sạch, xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự trị.
Nếu trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy
đến với bí tích của lòng khoan dung với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi
vì sự bình an phải là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và
giữa chúng ta với nhau.
Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và
có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau
trong năm mới này.
Thực vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và
cay đắng, nhưng nếu tâm hồn chúng ta thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm
thấy vui mừng và hy vọng. Chính trong ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng
này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc.
10. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt
6,25-34
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy
thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của
thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận
được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự
cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một
việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những
đồng tiền bố thí... Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn
xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một
chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn
có giá trị hơn... Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất
trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ
không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau
những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai
vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh
đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa
nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các
em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca
hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn
nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông
đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con
chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của
một nước mới thốt lên: "Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều
lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải
là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim
này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương... Chắc chắn, tôi là
người hạnh phúc nhất trên trần gian".
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người
táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang
canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông
vua không thể nào ăn ngủ được... Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn
và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo... Và một lần nữa, không
một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen
biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông
cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc
hơn là nhận lãnh... Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: "Tôi là
người hạnh phúc nhất trên trần gian này".
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên
đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng
ta... Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực
của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống
rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
11. Thiên Chúa hay thần tài?
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe
đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu
dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái
quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha
chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được
Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một
quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, - điều đó chúng ta không thay
đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và
cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua
Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ
là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng
cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết
thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai.
Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó"
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng
ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng
cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi
sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại,
đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ
nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ
gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới
mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả
đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát... Những nỗi lo như thế phát xuất từ
trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng
hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim
phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải
đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói
rằng: "Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian
khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười
biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người
hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa
mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và
làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu
đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu,
chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có
bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa
không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng
đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là:
"Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi
hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho." Tiên
vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là
nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước
Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó
là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước
nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu
đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng
phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất
làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề
của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ
và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá
dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho
mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì
mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và
ngày nay thiên nhiên quay lại "trả thù" con người, đe dọa cuộc sống
trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta
coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục
vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp
trầm trọng... Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những
nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng
phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa
không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường
tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ
nghĩa "thời mở cửa", điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó
không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người
tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông
chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và
đời sống công chính như Người đòi hỏi": Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là
chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng
chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát
gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên
trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người
Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ
nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và
chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
12. Xin ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
Để mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa
ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh.
Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ
mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành
trình cuộc sống ta trong năm mới.
Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta
đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ
yêu dấu của Người chiều Phục sinh. Lời đó là: "Bình an cho các con"
(Ga 20,20).
Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất
cần. Bình an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở
thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền
với ơn bình an.
Ý Chúa là thế này:
Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ,
Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: "Như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" (Ga 20,21).
Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi
sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói
ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào
nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu
mang mình.
Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: "Các
con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15). Tin Mừng
Chúa bảo chúng ta loan báo là "Sám hối, để được ơn tha tội" (Lc
24,53), và đi theo Người "là đường, là sự thực và là sự sống" (Ga
14,6) hầu được về với "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách
chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy,
thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm
Ất Dậu này.
Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với
những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được
nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của
những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy:
Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn
định. Những mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có
thể bị lung lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng
là sự thực. Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý
Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng
nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi
của mình. Chúa Giêsu phán: "Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn
làm việc" (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý
Chúa như vậy.
Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với
Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh
chị em một năm mới đầy bình an của Chúa.
*********
13. Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên
(Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
(Is 63,7-9; 1Co 1,3-9; Lc 1, 39-45)
Dẫn nhập đầu lễ:
Anh chị em thân mến,
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử
hành Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm Giáp Thân
365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những
giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta
xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế
của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức
Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà
chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng
ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
Đã lắm phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã
dạy bảo loài người chúng ta phải biết sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài
Thánh Vịnh, thánh thi trong cựu ước chúng ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn
đã được cất lên: "Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv
136)
Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài dã nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv
147)
Ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a
đã thay lời Thiên Chúa nói với muôn thế hệ nhân loại rằng:
Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca
tụng Chúa, vì tất cả những gì Chúa thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu
lớn lao của người đối với nhà Ít-ra-en, vì những gì Người đã thực hiện, bởi
lòng Người đầy lòng thương xót và lắm nghĩa giàu ân".
Nhưng để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn
vẹn nhất phải đợi đến khi Thiên Chúa sai Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con
nhân loại và chính là Con Thiên Chúa, đã đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo
của tình yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một
cách trọn hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc
đời vâng phục:
Nếu dân tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm
tin và lòng tri ân hiếu thảo đối với Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy
sinh và tạ tội; thì trong trật tự của Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời
tạ ơn trọn vẹn nhất dành cho Thiên Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là
cuộc đời và toàn bộ cuộc sống của Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý
Chúa Cha:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói:
"Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.
Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy
Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về
con." (Dt 10,5)
Thật vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã
biến cả vũ trụ trở nên một "đền thờ vĩ đại" và đã qui tụ toàn nhân
loại chung quanh Ngài để làm nên một cuộc "đại thờ phượng", một cuộc
tạ ơn và phụng thờ Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi
thời gian. Bởi vì đó là cuộc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý:
"Nầy chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các
người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại
Giê-ru-sa-lem.....Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người
thờ phượng đích thức sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa
Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế." (Ga 4,21-24)
Qua những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn
biết được rằng: thái độ tạ ơn, tâm tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt
yếu của tinh thần "Tám mối Phúc thật", tinh thần "nghèo khó,
khiêm hạ, yêu thương...", tinh thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía
Thiên Chúa với niềm tin yêu phó thác của những con người như Bà Góa bị loạn
huyết 18 năm xứ Canaan, của người phung hủi ngoại bang được chữa lành, của viên
sĩ quan có người tôi tớ đau nặng, của người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của
những người thu thuế bị loại trừ như Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh
để chờ được chúc lành hay của người kẻ trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với
hy vọng sẽ được cứu độ trong Vương quốc phục sinh...
Rồi cũng chúng ta cũng biết được rằng: trên
môi miệng của Đức Kitô luôn vang lên lời tri ân cảm tạ: "Lạy Cha, con tạ
ơn Cha, vì Cha đã dấu..."
Và còn hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1
cuộc đời vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi Ngài nói lời "Con phó thác hồn con
trong tay Cha". Đó chính là lời tạ ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà
hôm nay trên mọi bàn thờ chúng ta đang tái diễn mỗi ngày.
2. Đức Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat:
Cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô,
nhờ Đức Kitô và với Đức Kitô chính là con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua,
hôm nay và mãi mãi. Và may mắn thay, trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại
suốt 2000 năm nay, đã có một "bài ca tạ ơn", đã có một "cuộc đời
tạ ơn" theo cung cách ấy. Đó chính là bài ca "Magnificat", đó
chính là "cuộc đời của Trinh nữ Maria". Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ
được phản ảnh qua bài Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình
sống động, là mẫu gương sáng ngời để nhân loại bước đi trong "con đường tạ
ơn" Thiên Chúa, trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
- Tạ ơn: trước hết là như Đức Maria dâng lên
lời ngợi khen Thiên Chúa và hân hoan vì hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa...."
- Tạ ơn: phải chăng như Đức Maria nhận ra
"những việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện nơi tôi".
- Tạ ơn phải chăng như Đức Maria luôn biết
nhận ra bàn tay Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân phận yếu hèn, lòng quảng đại
Chúa mở ra để ban cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và
đầy lòng trông cậy vững vàng trước lời hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên
Chúa: "Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ Người, như đã hứa cùng cha ông chúng
ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu
đến muôn đời".
Và Mẹ đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào
Chiều Thứ Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu
tiên cùng với Con yêu dấu trên bàn thờ Thánh Giá.
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời
thường:
Qua lời kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria,
và nhất là, qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta
cảm nhận được rằng:
- Thái độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là
một hành vi mang tính "thời sự', "cơ hội" đột xuất (như được
khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, thoát qua cơn hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn
buôn bán trúng mánh, trúng số độc đắc...), nhưng "Tạ Ơn" phải là một
thái độ, một nhịp sống, một cử hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố,
trên mọi nẽo đường cuộc sống. Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước,
ông thánh Gióp đã từng nêu gương: "Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn
Chúa!". Dĩ nhiên, có những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình
chúng ta hướng về Thiên Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt...Nhưng không phải,
chỉ tạ ơn trong những hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra
thì "bàn tay ta làm nên tất cả", có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào
mà phải tạ ơn cám ơn...
- Bởi vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống
trong thái độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó
nghèo hơn, trái tim kiêu căng hợm hĩnh sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền
lành, và từ đó con mắt tâm hồn sẽ khám phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên
trời vây bọc xung quanh. Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, cái nảo trạng 'đương
nhiên" của chủ nghĩa duy vật vô thần đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi
vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống. Vì đã lý luận như thế: "đương nhiên trái
cấm nầy thuộc về tôi, địa đàng nầy là của tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những
luật lệ của Ngài..." mà A-đam và E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên
tội. Cũng vì lý luận như thế: tôi khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là
tới lúc phải được như thế, chứ ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu... nên chín
người phung cùi được khỏi bệnh đã không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu! Còn
chúng ta hôm nay thì sao. Có thấy được "phép lạ tình yêu của Thiên
Chúa" ghi dấu ấn trên đời thường cuộc sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn,
hay chỉ là những thở dài oán trách Chúa vì đã van xin bao điều mà sao vẫn cứ
hoài vô vọng. Có thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi
biến cố cuộc đời để cảm tạ tri ân, hay chỉ thấy mọi sự là "đương
nhiên" để cóc cần phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp
sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng
của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban
trong suốt một năm. Và điều quan trọng hơn hết, phải chăng là chúng ta được
cùng với Đức Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến
yêu, của tâm tình tri ân cảm mến; và cũng chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn
Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở
lòng đón nhận và khám phá muôn điều kỳ diệu Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc
sống trở thành "Lời ca khen cảm tạ Magnificat":
Hồn tôi tán tụng Chúa Trời,
Lòng tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn,
Tạ ơn Chúa chuộc khoan nhân,
Thương người tỳ nữ, thương thân phận hèn.
Từ nay thiên hạ ca khen,
Rằng tôi có phúc, có duyên lạ lùng.
Rằng tôi bé mọn khiêm cung,
Được bàn tay Chúa oai hùng điểm trang,
Cho tôi nên trọng nên sang,
Cho Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT,
NXV)
14. Thánh Lễ Giao Thừa
(Bài đọc 1: Ds 6, 22-27, Bài đọc 2: 1 Tx 5,
16-26. 28, Tin mừng: Mt 5, 1-10)
Lời tạ ơn
Vậy là chúng ta đang ở vào những giờ phút cuối
cùng của năm Giáp Thân, chuẩn bị bước vào năm mới Ất Dậu. Và cũng theo lệ
thường không biết đã có từ bao giờ, đây là giây phút để tất cả chúng ta cùng
nhìn lại cuộc sống của chúng ta trong suốt một năm qua. Đồng thời, cũng là lúc
chúng ta hướng một cái nhìn vào năm mới.
Nhìn lại những gì đã lãnh nhận trong năm cũ và
hướng về những điều sẽ được ban trong Năm mới, có lẽ tâm tình thích hợp và đúng
đắn nhất của mỗi người tín hữu chúng ta là tâm tình tạ ơn như lời mời gọi của
thánh Phaolô: "Anh em hãy vui mừng luôn... Hãy tạ ơn trong mọi hoàn
cảnh".
1. Nhìn về năm cũ:
Cha ông chúng ta vẫn thường nói: "Ôn cố,
tri tân". Do đó, để có thể bước vào năm Mới một cách thành công, điều đầu
tiên chúng ta cần làm là "ôn cố", nghĩa là nhìn lại cuộc sống chúng
ta trong suốt một năm qua. Trong suốt 365 ngày vừa qua, chắc hẳn đã xảy ra biết
bao nhiêu chuyện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta: chuyện vui cũng có, mà
chuyện buồn chắc cũng không thiếu. Một năm với nhiều thành công và chắc cũng có
nhiều vấp váp lỗi lầm. Nhưng cho dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, thì
đó cũng là chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Giờ đây, khi nhìn
lại cuộc sống của mình trong năm cũ, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô khuyên bảo
con cái mình: "Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn điều xấu
dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa".
Vâng, điều gì tốt thì giữ lại và phát huy,
điều gì xấu thì loại bỏ và lánh xa, đó chính là thái độ của những người khôn
ngoan, thức thời, đó là thái độ cần có của mỗi người chúng ta trong giờ phút
Giao thừa này.
Nhìn lại một năm, có lẽ điều mà mỗi người
chúng ta có thể cảm nhận được, đó là hồng ân Thiên Chúa đang bao phủ cuộc đời
của từng người và cả giáo xứ chúng ta. Vâng, khi nhìn lại một năm qua, có lẽ
nhiều người chúng ta phải rùng mình vì không biết tại sao chúng ta lại đứng
vững và vượt qua được nhiều thử thách gian nan đến thế. Có những biến cố chúng
ta không ngờ, những tai nạn tưởng chừng như không thể tránh khỏi. Vậy mà không
biết bằng cách nào, chúng ta đã vượt qua tất cả. Đối với những người không tin,
đó có thể là sự may mắn, nhưng thật ra, chẳng có cái gì là vô tình. Chính vì
thế, trong giờ phút cuối năm này, Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh nhắc bảo từng
người chúng ta: "Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh
mệnh an toàn. Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn
đời". Như thế, mọi sự xảy ra trong đời sống chúng ta chẳng phải là vô
tình, nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Và đó
chẳng phải là hồng ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đó sao?
Chính vì cảm nghiệm được hồng ân Thiên Chúa
trong cuộc đời mình, tác giả Thánh vịnh đã cất tiếng ca khen Thiên Chúa:
"Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng
nên cả đất trời". Và nếu quả thật "ơn phù hộ của chúng ta đến từ Đức
Chúa, Đấng dựng nên cả đất trời", thì thánh Phaolô có lý khi mời gọi chúng
ta: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn
trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong
Đức Giêsu Kitô".
Tóm lại, khi nhìn về năm cũ, không phải để
chúng ta chán nản bởi vì đã không được như ý của chúng ta, hay tự mãn vì những
điều xem ra thành công, nhưng đây là giây phút để chúng ta nhận ra tình yêu của
Thiên Chúa trong cuộc đời mình và hết lòng dâng lời cảm tạ Ngài, vì những gì
Ngài đã làm cho chúng ta trong một năm qua.
2. Nhìn về tương lai:
Mặt khác, Giao thừa không chỉ là dịp để chúng
ta suy gẫm việc đã qua, nhưng còn là thời gian để chúng ta chuẩn bị hướng tới
tương lai. Có lẽ với năm tháng trôi qua, càng ngày chúng ta càng cảm nghiệm rõ
hơn về giới hạn của chính bản thân và của những người chung quanh, nói chung là
giới hạn của con người. Con người giới hạn phần vì "lực bất tòng
tâm", phần vì tính ích kỷ của mỗi người. Trong năm qua, đã biết bao lần
chúng ta hứa hay nhận được lời hứa, nhưng rốt cuộc chẳng thực hiện được là bao.
Lắm khi những người chúng ta tin tưởng nhất lại là những người làm chúng ta
thất vọng nhất. Do đó, tin tưởng nơi Chúa quả thật là điều cần thiết và là một
bảo đảm chắc chắn nhất cho hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Chính Đức Giêsu
khi nghe người ta khen ngợi: "Phúc cho lòng dạ cưu mang ông, và vú ông đã
bú!", thì Ngài đã lập tức tuyên bố: "Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và
tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11, 27-28).
Hướng về năm mới, chúng ta cần có một cái nhìn
tươi vui và tin tưởng vào Thiên Chúa. Đây không phải là sự vui mừng hay là một
niềm tin mù quáng, dễ dãi của những tâm hồn yếu đuối, nhưng là niềm vui và niềm
tin của những tâm hồn mạnh mẽ. Đó là niềm vui của những người biết rõ những khó
khăn, thử thách vẫn còn đó, nhưng vì tin có Chúa ở cùng, nên họ vẫn luôn vui
vẻ, nhìn ra mặt tích cực của các sự kiện để bước tới trong tin tưởng. Nhìn lên
bầu trời đầy mây đen u ám, họ không buồn vì mây che mất mặt trời, nhưng vẫn vui
vì ánh sáng của mặt trời vẫn đủ để họ nhìn thấy được đám mây đen. Chính trong
niềm tin đó, Giáo Hội đã muốn chúng ta suy niệm về các mối phúc trong Thánh lễ
Giao thừa hôm nay. Thật vậy, trong năm mới sắp tới, cho dù có nghèo khổ, đói
khát, hay bị bách hại đi chăng nữa, thì gia nghiệp Nước Trời đang dành sẵn đó
cho những ai hết lòng tin tưởng cậy trông.
Đồng thời, không chỉ là thụ động đón nhận
những thử thách, Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta sống hiền lành, biết cảm thương
và sẵn sàng chia sẻ với những nỗi bất hạnh của anh chị em mình để rồi đến lượt
mình, chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Ngài còn muốn chúng ta đến gặp
gỡ Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận làm con, khi mời gọi chúng ta sống trong
sạch và kiến tạo hòa bình cho thế giới hôm nay. Và nhờ luôn ở trong Thiên Chúa,
chúng ta sẽ được hạnh phúc. Chính trong niềm tin này, thánh Phaolô đã cầu xin cho
chúng ta: "Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn
diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn
toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang
lâm".
Cuối cùng nhờ "Ôn cố tri tân", mà
chúng ta nhận ra rằng: Thành quả mà giáo xứ chúng ta có được ngày hôm nay chính
là kết quả của biết bao thế hệ cha ông, những người còn sống cũng như đã qua
đời xây dựng nên. Do đó, giờ phút Giao Thừa cũng là cơ hội thuận tiện để mỗi người
chúng ta cầu nguyện cho các ngài. Đồng thời, đây cũng là dịp nhắc nhở mỗi người
chúng ta hôm nay cần phải chung sức góp công của mình, để vun đắp cho cộng đoàn
giáo xứ chúng ta ngày càng trở nên một cộng đoàn sống yêu thương và hiệp nhất
trong tình yêu của Thiên Chúa. Và không chỉ dừng lại ở cộng đoàn Giáo xứ, cách
tốt nhất để chúng ta tỏ lòng biết ơn ông bà, cha mẹ, đó là tiếp bước các ngài,
loan truyền Tin mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người chúng ta gặp gỡ trong
cuộc sống thường ngày.
Để kết thúc bài chia sẻ này, tôi xin mượn lại
lời Chúa trong bài đọc một để cầu chúc cho quý OBACE: "Nguyện Đức Chúa ban
phúc lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị
em và dủ lòng thương anh chị em!" trong suốt Năm Mới này. Amen.
15. Bình an
(Bài đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8;
Tin mừng: Mt 6, 25-34)
Một trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông
nói chung và của Việt Nam chúng ta nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong
những ngày đầu năm. Trong những ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho
nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm
mới này được thịnh vượng, may mắn, làm ăn phát tài...và nhiều điều may mắn khác
nữa, nhưng có lẽ điều mà tất cả từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và
cũng được cầu chúc nhiều nhất là sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ
"bình an" chính là ước vọng sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu
suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng
là để có được sự bình an. Thế nhưng, thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình
an thực sự.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng
quý ông bà anh chị em dựa vào ánh sáng của Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt
được sự bình an đích thực trong năm mới này.
1. Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta
cũng cần nhìn qua những lý do làm cho chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều,
nào là làm ăn thất bại, bị hiểu lầm, gặp tai ương, bệnh tật..., nhưng xâu xa
hơn, có lẽ vì mọi việc không xảy ra đúng với ý muốn, dự định của chúng ta nên
chúng ta bất an. Hay nói một cách khác, chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc
sống của mình và mình có thể kiểm soát được tất cả mọi việc, nên khi có một
điều gì đó không đúng với chương trình của mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó, tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật
sự, từng người chúng ta cần xác tín với nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan
phòng, làm chủ mọi sự. Chính Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật
của sách Sáng Thế: "Thiên Chúa phán: Phải có những vầng sáng trên vòm
trời.... Liền có như vậy.... Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy
thế là tốt đẹp". Không chỉ là Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha
đầy yêu thương sẵn sàng lo cho chúng ta mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định
với chúng ta điều này như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: "Anh em
đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó,
dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả
những thứ đó". Cha chúng ta thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban
cho chúng ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào
bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật
vậy, kinh nghiệm hàng ngày cho thấy: trong thân phận làm con thì điều quan
trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi
sự. Và lúc đó, chúng ta sẽ có bình an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên
mỗi người chúng ta cần thực hiện đó là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên
Thiên Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây
là một sự thật căn bản đầu tiên làm nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con đường bình an:
Hướng tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là
luôn gắn bó với Chúa là nguồn bình an, lúc đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an.
Tuy nhiên, thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người chúng ta: "Anh em hãy vui luôn
trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em". Điều đó cho thấy,
niềm tin tưởng và phó thác của chúng ta nơi Chúa không miễn trừ cho chúng ta
các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được
sức mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản để vượt qua những
khó khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh bên ngoài không làm cho chúng ta vui,
nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui được. Đây chính là kinh nghiệm của
Đức Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, và án tử có thể đến vì
mang thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn cất tiếng ca vang: "Linh hồn
tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu
Độ tôi". Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của
Thiên Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác
giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác tín như thế khi nói: "Cứ tin
tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.
Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng".
Vịnh gia còn mời gọi chúng ta: "Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng
vào Người, Người sẽ ra tay".
Kế đến, sự bình an thật sự chỉ có nơi những
tâm hồn thanh sạch, bởi vì "cây ngay không sợ chết đứng". Những người
công chính luôn cậy trông vào Chúa có thể vẫn còn phải gặp những khó khăn bên
ngoài, nhưng chắc chắn họ không cùng đường, tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn
bình an, vì họ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa và đức công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm
cho". Thật vậy, với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người trong chúng ta
có cùng xác tín của tác giả Thánh vịnh: "Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả,
chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên
hạ". Do đó, để có bình an thật sự trong tâm hồn, chúng ta cần lánh xa tội
lỗi và thực hành những điều công chính như lời dạy của thánh Phaolô:
"Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những
gì là đáng mến và mang lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen
thì xin anh em hãy để ý".
16. Chúng ta là người hành khất
"Chúng ta là người hành khất!" lời
tâm sự này Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt
lên năm 1546 vào những ngày cuối cùng cuộc sống trên trần gian của ông. Lời tâm
sự này của ông biểu lộ niềm tin mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người.
Người có tâm hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông mong chờ đợi đón nhận từ nơi
Ngài, những sự cần thiết cho đời sống. Và đồng thời cũng nói lên tâm tình niềm
tin: Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ân đức tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn
Ngài! "Chúng ta là người hành khất!" tâm tình này cũng có thể là một
suy tư gợi ý vào những giờ phút cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ.
Nhưng tại sao lại đem tâm tình này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi nghe đến "hành khất" ta nghĩ
ngay tới nghèo khổ, đói khát, túng thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa... Không
lẽ cuộc sống chỉ tiêu cực như thế sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm
tiêu cực đó. Ngày nay, nơi nhiều quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ
sinh bệnh tật đang dần dà được đẩy mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm
áo dần được nâng cao, cho xứng với phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ
nhiên rất nhiều người, nhất là ở trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa
phát triển, đã đạt được những thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học
hành, nghề nghiệp, y tế, của cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm...
Những điều đó đối với người có lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có
tâm tình gần giống như của Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên
Chúa đã ban cho chúng con cơ hội sống, cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì
con có hay đạt được, là những ân đức qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã
hội và đời sống từng người không chỉ có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với
nhiều bóng tối tiêu cực nữa: chiến tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ
bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn tha hương ... Trước những cảnh tượng đó, không ai
muốn, nhưng chúng xảy ra đó và mọi người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt
vọng như thế, đâu đâu vào thời đại nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu
hướng tâm hồn lên cao, thành tâm khấn vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin
Trời phù hộ cho đời sống, cho thế giới khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng
vẽ rõ nét hơn "Chúng ta là người hành khất!" Người tin vào Thiên
Chúa, khi nhận lãnh một tin lành bằng an, một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến
lòng biết ơn cho Đấng đã ban cho mình ân đức cao qúi đó và cho người nào đó đã
liên đới trao tặng giúp đỡ mình. Cung cách sống đạo đức tình người này muốn nói
lên: "Chúng ta là người hành khất!"
Trước ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào
hiện tại, niềm vui mừng đang khơi dậy trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc
tương lai ngày mai trong năm mới sẽ đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào
nhiều hoàn cảnh giai đoạn cuộc sống, chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng,
không biết nên làm sao nữa... Là người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi
Thiên Chúa, Đấng biết sự gì cần thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu
nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần: lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp
ban cho chúng con ân đức gìn giữ cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm
tình: "Chúng ta là người hành khất!"
17. Giây phút linh thiêng
(Lm Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ rất ý
nghĩa:" Giây phút linh thiêng đã khởi đầu...". Xuân về được bắt đầu
bằng giây phút giao thừa. Người người, nhà nhà, mọi gia đình, mọi người đón
chào giây phút linh thiêng khởi đầu một năm mới trước bàn thờ hương trầm nghi
ngút bay. Giây phút kết nối giữa những ngày đã qua và những ngày mới bắt đầu.
Người Kitô hữu tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì bao hồng ân Chúa ban và cầu sự an
bình cho một năm mới đã ló rạng. Đây là khởi điểm của thời gian khiến con người
gợi nhớ về sự sáng tạo mà Thiên Chúa trao ban cho vũ trụ, cho con người.
GIAO THỪA, ĐẤT TRỜI GIAO CẢM:
Thời gian đêm giao thừa rất linh thiêng, huyền
nhiệm. Người ta nâng cốc chúc nhau sức khỏe, may mắn và bình an trong lúc đón
chào Chúa xuân đến với hy vọng năm mới sẽ có những điều mới, an lành và hạnh
phúc hơn. Năm mới đến có liên quan đến vận mệnh của từng con người. Riêng đối
với người Kitô hữu, giây phút giao thừa, thời điểm bàn giao giữa năm cũ và năm
mới còn mang ý nghĩa cao vời: con người sẽ nhớ tới Đấng là Mùa Xuân vĩnh cửu,
Đấng tạo dựng đất trời, dựng nên con người. Đấng ấy là Thiên Chúa, là tình yêu.
Đêm giao thừa làm cho người Kitô hữu nhớ đến Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng
nhân loại, ở với con người, ở với mỗi người. Thiên Chúa đã sai Con của Người là
Đức Giêsu tới trần gian cũng vào một đêm, đêm mà Con Thiên Chúa và loài người
hợp nghĩa kết giao. Đêm mà các thiên thần loan báo cho các mục đồng, đại diện
cho toàn nhân loại tin vui về việc Con Thiên Chúa đến với họ và ở lại với họ để
ban an bình, và hứa với họ sẽ ở với họ cho tới ngày tận cùng thế giới.
VẪN LÀ GIÂY PHÚT LINH THIÊNG:
Giây phút giao thừa là thời điểm của một năm
mới, là lúc trời đất giao hòa, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chính trong
giây phút huyền diệu của đêm giao thừa, con người chỉ có thể nói lên:" Cúi
xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh
Sion"(Tv 133, 3) hoặc " Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng
nên cả đất trời". Đón xuân về, trong giây phút giao thừa uy linh và huyền
nhiệm, con người vẫn nhớ tới cảnh đoàn tụ, ấm cúng của gia đình, nhưng vẫn còn
những gia đình, những kẻ thiếu may mắn không có điều kiện, cơ hội để đón giao
thừa. Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Người Kitô hữu được mời gọi sống tin, yêu và
sứ mạng của họ là loan báo Mùa Xuân vĩnh cửu cho mọi người.
Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Con người biết chia
sẻ, biết quảng đại, biết cảm thông và loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng là mùa xuân
bất tận cho người khác là họ đã sống giây phút linh thiêng nhất của một năm vì
họ có Chúa ở cùng, và như vậy khi một tâm hồn có Chúa ở cùng là một trời xuân
bất tận (thánh Gioan Vianney).
Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là
căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng
tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc,
và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh (Lời nguyện nhập lễ,
thánh lễ giao thừa)
.
18. Lời cảm tạ tri ân
(Lm. Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày cuối của một năm, thường con người vẫn có
thói quen ngồi lại để tính sổ với Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa
làm được gì và rồi con người dù thế nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên
Chúa vì do tình thương của Ngài mà con người vẫn còn tồn tại.
CUỘC ĐỜI PHẢI LÀ LỜI CẢM TẠ:
Nhìn lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong
đời: buồn có, vui có, khó khăn có, may mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao
mình còn hiện diện? Tại sao mình còn thở, còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn
uống, ngủ nghỉ được? Chắc chắn với lòng tin sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức
Thiên Chúa đang tiếp tục làm phép lạ trong cuộc đời của mình. Như vậy, tâm tình
của con người là tạ ơn. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã
viết:" Đàn hát lên! Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên
Chúa là Cha. Luôn cảm ta Người, nhân danh Thánh Tử vì Người ban muôn phúc lộc
chan hòa"(Eph 5, 19-20). Vâng, Thiên chúa đã ban cho nhân loại, cho mỗi
người muôn vàn hồng phúc. Những ân huệ cao quí, Thiên Chúa tặng ban cho con
người quả không kể xiết. Con người chỉ có thể hiểu được những điều quí hóa ấy
khi họ biết hồi tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện. Hồi tỉnh để thấy mình đã lãnh
nhận quá nhiều ân phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban. Suy nghĩ để con
người nhận ra họ được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ không nỡ cho con
người con bọ cạp hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn. Cầu nguyện để thân mật trao
đổi và cám ơn Thiên Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban cho con người.
Chính vì thế, con người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì cuộc đời của
Ngài là bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa Cha. Chúa luôn cảm tạ Chúa Cha trong
mỗi biến cố cuộc đời: khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều, khi lập bí
tích Thánh Thể, khi chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm trong đời của
Ngài. Bao giờ, Chúa cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn là điều tối hệ
trọng trong đời Chúa Giêsu. Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời xin vâng và tạ
ơn trong cả cuộc đời của Mẹ. Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm nay là một lời
cảm tạ Thiên Chúa Cha. Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ hát bài tạ ơn
vì chính Mẹ và con cái của Mẹ đã được Thien Chúa trao ban quá nhiều hồng phúc.
NGÀY CUỐI NĂM LUÔN LÀ LỜI TẠ ƠN:
Nhìn lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng
đường đã qua, con người chỉ biết thốt lên như Mẹ:"...Đấng toàn năng đã làm
cho Tôi biết bao điều kỳ diệu". Đời con người là một huyền nhiệm. Chúa đã
tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao
hồng phúc khiến con người không thể nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa. Con
người chỉ có thể cùng với tác giả thánh vịnh:' Biết lấy chi đền đáp Chúa bây
giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu
cầu thánh danh Đức Chúa"(Tv 115, 12-13)
Ngày cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi
lại để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và nói lời tạ ơn Thiên Chúa. Đây là dịp rất
tốt để con người hồi tỉnh xem điều gì mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa
làm tốt và điều còn thiếu xót để rồi chấn chỉnh điều chưa tốt và nhân lên càng
nhiều càng tốt điều tốt lành mình đã làm được. Điều quan trọng con người cần
phải xét tới xem mình đã có quan hệ thế nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra
sao đối với tha nhân? Chúa luôn mời gọi mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và
làm hòa với anh em. Như thế, ngày cuối năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa
và thắp sáng đức tin cho anh em. Những việc làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa
mời gọi con người thực hiện để làm vinh danh Chúa và nối kết anh em. Ngày cuối
năm cũng là ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi mọi người. Tạ lỗi là nói lên lòng sám
hối, ăn năn và tạ ơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt
cả năm nay, Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây
năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin
Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới
(Lời nguyện nhập lễ, lễ tất niên).
19. Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật
(Martin Lê Hoàng Vũ)
Giao thừa, đêm trừ tịch, đêm 30 tháng chạp âm
lịch là thời khắc thiêng liêng nhất trong năm. Bởi vì đêm nay có một sự chuyển
giao của thời gian: Một năm cũ ra đi và năm mới lại đến. Chính vì vậy người
Việt Nam dù quanh năm đi làm ăn xa cũng cố gắng thu xếp trở về với gia đình
trước đêm nay để cùng với người thân đón một năm mới lại đến. Đêm giao thừa còn
là thời khắc "ngừng chiến" để con người tận hưởng bầu khí ấm áp của
tình nghĩa gia đình, giữa anh chị em với nhau và giữa cha mẹ với con cái, họ
tạm quên đi cuộc sống đầy dẫy điều ích kỷ, bon chen, sự vội vã, vất vả. Trong
giờ phúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới ai trong chúng ta cũng hy vọng năm
mới tới mọi sự sẽ tốt đẹp hơn, điều hạnh phúc sẽ đến với mình và gia đình.
Cùng hòa chung với niềm vui đón năm mới của
dân tộc, đêm nay người Kitô hữu Việt Nam hướng lòng về Thiên Chúa là nguồn mạch
của mọi sự Thiện hảo, cầu xin Ngài ban mọi điều tốt lành trong năm mới. Trong
niềm tin ở Chúa là chủ thể của thời gian, là Đấng điều khiển mọi vận hành của
thời vũ trụ, là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là khởi đầu và tận cùng của lịch sử,
thì đối với chúng ta giây phúc giao thừa là dịp của tri ân và cảm tạ. Chúng ta
cảm tạ Chúa vì suốt một năm qua đã cho chúng ta được sống, đã gìn giữ chúng ta
trước mọi nguy biến của cuộc đời và đã tặng ban muôn vàn ơn phúc dư đầy. Thiên
Chúa luôn quảng đại ban ơn cho con người. Hạnh phúc cũng là một ân ban của
Thiên Chúa.
Đặc biệt thánh lễ đêm giao thừa được cử hành
theo truyền thống dân tộc là dịp đoàn tụ của một gia đình rộng lớn hơn, gia
đình con cái Thiên Chúa, họ cùng tin Thiên Chúa là Cha và cùng nhận mọi người
là anh chị em với nhau, họ ngồi lại bên nhau để ôn lai những việc đã qua trong
năm cũ và hướng đến năm mới.
Bài Tin Mừng được đọc trong đêm hôm nay thánh
sử Matthiêu ghi lại bài giảng Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã công bố trện
một ngọn núi. Lắng nghe đoạn Tin Mừng này và cùng suy nghĩ trước giờ phút
thiêng liêng khi bước sang một năm mới chúng ta sẽ hiểu được thế nào là hạnh
phúc.
Tám mối phúc thật được công bố ở trên một ngọn
núi. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến Thập Giới mà Thên Chúa ban cho dân
Israel qua Môsê. Tám mối phúc thật là Bản Hiến Chương của Nước Trời, là lời mời
gọi trong đời sống của mỗi người tín hữu phải biết vươn lên. Cho nên tất cả
những ai đi theo Chúa Giêsu, và muốn vào Nước Trời thì không thể không đi qua
con đường của Tám mối phúc thật.
Giờ đây cùng nhau suy niệm về hạnh phúc dưới
ánh sáng của Lời Chúa chúng ta nhận ra được nhiều điều.
Ngày nay trong cuộc sống có rất nhiều thứ hạnh
phúc giả tạo hay còn được gọi là thứ hạnh phúc ảo đang lôi cuốn chúng ta, Chúng
có nhiều hình dạng, có vẻ đẹp, có sức quyến rũ và hứa hẹn một cuộc sống dễ dãi,
luôn muốn được thỏa mãn, muốn hường thụ cuộc sống với những đam mê thấp hèn
theo bản năng, sẵn sàng quên người để chỉ tìm sự sung sướng cho riêng mình. Họ
nhất định phải "hạ gục nhanh tiêu diệt gọn" người khác, nhất là đối
thủ của mình để có được địa vị, danh vọng, nhưng xem ra khi đạt được tất cả
những điều đó hạnh phúc vẫn là điều xa với. Nhiều người cũng cho rằng một gia
đình hạnh phúc là trong đó những thành viên phải có mức lương cao, quan hệ
rộng, có tiếng tăm, có thế lực,nhà cửa đầy đủ tiện nghi, nhiều tiền,nhưng chưa
chăc hạnh phúc lại ở trong gia đình đó. Hạnh phúc không bao giờ được xây đắp
bằng vật chất.
Theo Chúa Giêsu dạy trong Tám mối phúc thì
hạnh phúc chính là dám sống nghèo, sống hiền hòa, sống ngay thẳng, sống yêu
thương, xây dựng hòa bình, và có thể vì Chúa mà chịu khổ đau. Tám mối phúc thật
mà Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta sống theo không phải là một lý thuyết
suông hay không phải là điều không thể thực hiện mà đó là việc cần làm ngay
trong năm mới tới đây, là bản tự kiểm cho chúng ta trong suốt một năm qua.
Chính khi sống theo những điều ấy chúng ta lại tìm được hạnh phúc đích thực.
Cuối cùng vế thứ hai của những lời chúc phúc
nói về phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho những người sống theo Tám mối phúc.
Hạnh phúc là được vào trong Nước Trời. Hạnh phúc là được nhìn thấy Thiên Chúa.
Hạnh phúc là được thiên Chúa ủi an. Hạnh phúc là được Thiên Chúa yêu
thương.Hạnh phúc là được làm con Thiên Chúa .... Tất cả những điều đó phải là
mối lo lắng của chúng ta trong đêm giao thừa này.Mỗi người cần tự hỏi liệu: năm
mới tới đây chúng ta có được những điều Chúa hứa ban như trong Tám mối phúc
thật hay không?
Tới đây để kết bài, chúng ta cùng để tâm suy
nghĩ một lời chúc của một tác giả người Pháp không rõ tên được đăng trên CG và
DT những ngày gần đây như sau:
"Nhân dịp năm mới đang đến,
Tôi xin chúc bạn.
Không phải là sự thành công trong công ăn việc
làm.
Nhưng là tiếp rước đón nhận.
Trong trái tim và trong cuộc sống.
Từng ngày một và từng bước một,
Tình yêu của Chúa đang mang đến ý nghĩa cho sự
hiện hữu.
Tôi chúc bạn không phải là không gặp những
thất bại,
Nhưng biết đón nhận như một món quà bất xứng.
Sức mạnh giúp bạn đứng vững, dù cho những gian
lao nặng nề,
Tôi chúc bạn không phải những ngày êm ả, nhưng
là khả năng để cho người khác quấy rầy,
Và đón nhận người khác biệt với mình như một
sứ giả của Chúa.
Tôi chúc bạn không phải là có câu trả lời cho
mọi vấn nạn.
Nhưng là biết đón nhận những câu hỏi của người
khác,
Biết mang trong lòng bạn những khó khăn âu lo,
những xung đột bế tắc của họ.
Để được gần gũi họ như một người chị, một người
anh em biết liên đới.
Như một người biết chia sẻ và reo rắc an
bình".
Lạy Chúa Giêsu trong giờ phút giao thừa này
chúng con xin hết lòng cảm tạ tình yêu thương của Chúa đã ban muôn ơn lành và
gìn giữ chúng con trong suốt một năm qua. Xin cho chúng con trong năm mới biết
hoàn toàn sống cho Chúa và vì Chúa mà sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi lộc trần
thế,bởi không điều gì hạnh phúc cho chúng con bằng phần thưởng Nước Trời và
được ở với Chúa. Xin Chúa chúc lành cho năm mới Giáp Thân 2004. Amen
20. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
ĐỊNH HƯỚNG
Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại
chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và
những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong
năm qua và hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác
những âu lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới
nhiều may mắn và hạnh phúc.
Thế nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những
náo nức ấy để suy nghĩ một chút. Năm cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và
năm mới lại trở về. Chúng ta sống thêm một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong
dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm
của cuộc đời, để nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng
tâm của cuộc đời. Trọng tâm ấy chính là Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ
Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng giả trá, do những đam mê, những ước
vọng riêng tư của mình tạo nên. Bởi đó, chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng
thời gian, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Khi thì chúng ta tìm cái
này, lúc thì chúng ta kiếm cái kia. Vì thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn
chồn và lo lắng. Chúng ta lo sợ tương lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu
chúc cho nhau được may mắn. Có người còn cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui
vào nhà.
Tuy nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc
chúng ta cầu chúc cho nhau lại không treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm
trong những tấm thiệp. Ngay cả những lời cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất
cũng không phải là những vị sứ giả mang lại hạnh phúc.
Thực vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi
vật chất đem đến, vì những tiện nghi này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do
bản thân chúng ta gầy dựng nên, vì bản thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ
đau và nghèo túng. Hạnh phúc ấy cũng không do người khác tạo thành vì người
khác không có đủ quyền năng và tình thương để thực hiện những mộng ước của họ
và của chúng ta.
Như thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa
mới là Đấng có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là
Đấng có thể thực hiện được những lời mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy,
thánh Augustinô đã nói:
- Linh hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm
gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh
của đam mê và dục vọng, thì bấy lâu cuộc đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao
xuyến. Khát vọng như một thứ rượu nồng, càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi
từ khát vọng này đến khát vọng khác và chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm hạnh phúc đích thực chính là sự bình an
trong tâm hồn. Và sự bình an này chỉ có được khi chúng ta đã ở trong tình
thương của Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là
trọng tâm của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích của mọi vệc chúng ta làm.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc
làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Có nghĩa là suốt dọc
cuộc đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của Thiên Chúa.
Ngài là Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống
trong Ngài, chúng ta sẽ không còn lo âu và sợ hãi, như một câu danh ngôn đã
bảo:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường
thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui
xẻo. Những điều chúng ta gọi là hên hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của
cùng một thực tại, đó là tình yêu của Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều
là hồng ân của Ngài.
Hướng đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc
của cuộc đời chúng ta là chính Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình
yêu, là sức sống của chúng ta. Ý thức được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng
bắt đầu công việc bằng thái độ cầu nguyện, kêu xin Chúa.
Một ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn
sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng
một ly rượu mạnh hay bằng cách lo láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay
đến những món nợ phải trả, những công việc phải làm hay những vui thú phải
kiếm.
Giả như trong đêm giao thừa, khi chuông đồng
hồ vừa đổ mười hai tiếng cuối cùng của năm cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối
yên lặng trong giây lát, rồi sau đó mới mở tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng
khắc thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng
ta cần phải thực hiện và theo đuổi cho năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời
chúng ta.
Chính trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu
chúc cho mỗi người một năm mới ngập tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của
Chúa.
21. Lời hứa năm mới
Đứng trước thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui
mừng hân hoan bừng lên từ trong tâm hồn trái tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt
ánh mắt. Đàng sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn dấu niềm trông mong chờ đợi: lời
cầu chúc tốt đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa
là Đấng làm chủ, trao tặng thời gian năm mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu,
con Thiên Chúa, từ trời cao hạ sinh làm người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp
cho nhân loại: Bình an dưới thế cho người Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền
qua Chúa Giêsu cho con người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời
hứa, là thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm tin con người.
Với Bạn Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các
Bạn thân yêu, thời gian Năm Mới là cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ
đang vươn lên. Các Bạn là niềm hy vọng, là tương lai của xã hội, của Hội Thánh,
của gia đình, của nhân loại, của phát triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào
Năm Mới với những mơ ước, đích điểm mong chờ, với lòng khao khát và cả với
những lo ngại áy náy hay cả với nỗi niềm lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế
nào đi chăng nữa, các Bạn không đi một mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy
hằng cùng đồng hành bên cạnh trợ giúp Bạn!
Với những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa
cũng là hành trang cho họ cùng bước vào năm mới: Các Ông, các Bà là những người
đã sống trải qua nhiều chặng đường đời sống từ hăng chục năm, có người gần thế
kỷ với nhiều thăng trầm buồn vui, thành công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau
khổ bệnh tật khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và được an ủi... Nhưng các Ông Bà đã
sẵn có kinh nghiệm một đời sống thản nhiên, hãy cùng con cháu, cùng mọi người
và với niềm tin vào Thiên Chúa bước đi vào thời gian năm mới. Xin các Ông Bà
đừng quên những gì đã xảy ra trong đời mình, cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó
là những ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con
người. Thầy thông cảm và luôn hằng cùng ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần
cho con người: Hỡi những ai gánh nặng mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi
bồi bổ sức lực cho tâm hồn. Với mọi người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt
niềm tin tưởng phó thác vào Thầy. Trong đời sống thời gian năm mới cũng như
những năm tháng đã qua, chúng ta, mọi người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô
đơn, nhìn xung quanh đâu có thấy gì ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao
chẳng thấy Thiên Chúa đồng hành Cha không để con một mình!
"Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa
đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi
cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của
hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những
lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại,
lo âu và piền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con
là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó
khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như
vậy, sao Cha không ở bên con? húa quay sang bảo tôi: "Con ơi! dấu chân của
một người đó là dấu chân Cha. Vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau
khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!".
Niềm tin vào lời hứa của Chúa đồng hành trong Năm mới, tất nhiên không làm ta
giàu có thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành
trợ giúp của Chúa trong Năm mới làm tinh thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi
hăng hái vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Điều này cần thiết
cho cuộc sống con người với Chúa và con người với nhau.
22. Xin cho tất cả đều mới
(Lm. Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt
Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế
đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những
điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền
thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu
của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã
viết:" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng
ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn
cứu độ của Ngài"(Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao
thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm
bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những
chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều
lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã
muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng.
Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó
thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết:"
Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn,
Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính
ngọ" và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã
viết:" Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người,
còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho". Ngày mồng một và suốt cả năm
mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho
Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh:" Anh em
hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!".
Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người
được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người...
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
"Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người
sẽ cho được phỉ chí toại lòng"(Tv 36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người
Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn
phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải
đi đến chỗ tin tưởng phó thác:" ...ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào
có cái khổ của ngày ấy". Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức
khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông
và phó thác:" Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những
thứ đó "(Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu
năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin
Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được
bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc
dồi dào"(Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
23. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thế là 365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất
như giao hòa, kết duyên. Giây phút mà thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói:" Giây phút
thiêng liêng đã khởi đầu". Giờ này, nhân loại, con người đối diện với
Thiên Chúa, Đấng là chủ thời gian, là Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con
người. Vào phút giây huyền diệu này, thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho
một thời gian mới, một năm mới. Con người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua
mùa xuân lời cảm tạ sâu xa và tha thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới
được phúc lộc miên trường.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG
Con người trong đêm thiêng liêng của sự giao
hòa đất trời, luôn cảm nghiệm có một cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô
cùng linh thiêng. Cái giờ phút những ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời
gian như đi mãi, đi hoài và hầu như không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của
đêm giao thừa huyền nhiệm: đêm đẩy lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh
thánh báo hiệu những ngày mới của một năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối
diện với Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người,
đêm giao thừa, con người chỉ có thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3
đã viết:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn
phúc cả từ núi thánh Sion" và như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên:
"trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin
Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm
việc lành để tôn vinh Danh Thánh". Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự
bàn giao thời gian, con người chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông
luôn vần xoay, xoay chuyển và con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm
tình đầu tiên trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn.
Sám hối để luôn đón nhận Chúa và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số
6, 22-27 đã viết:".khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế
này: nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét
mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và
ban bình an cho anh em!". Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền
bảo trợ của Danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây
phút thiêng liêng nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm
hồn của mình lên Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa
chúc lành:" Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi
người"(Dân số 6, 22-27).
HÃY TẠ ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh Phaolô đã viết:" Anh em hãy vui
mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn
cảnh"(1thes. 5, 16). Con người và nhân loại trong giây phút thiêng liêng
của đêm giao thừa hãy tạ ơn Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu
nguyện liên lỉ. Những ngày tháng năm cũ, chắc chắn có lúc ta gặp những điều
thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp những sự bất trắc, thử thách khó khăn. Tất
cả những điều đó là những thánh đố của mỗi người. Con người dù có thêm tuổi, dù
gánh nặng chồng chất trên vai, dù có sự thay đổi của tuổi tác, của trí tuệ, của
khả năng, của sức khỏe. Nhưng, tất cả đều là ân huệ của Chúa. Tất cả đều làm
vinh quang cho Ngài. Và rồi, con người chỉ có thể đứng vững khi họ biết bước
trên từng nấc thang của tám mối phúc thật. Và như thế, con người sẽ vĩnh viễn ở
trước mặt Chúa cho dù thời gian có đi qua. Con người không chỉ sống đơn độc một
mình, họ còn có một mái ấm gia đình. Giờ phút linh thiêng của một năm mới đã
khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các gia đình và để các gia đình có thể gần gũi
Chúa, phương thế các gia đình phải thực hiện là lần chuỗi mân côi. Xin cho từng
người và mọi người, mọi gia đình biết tạ ơn Chúa không ngừng và cầu nguyện liên
lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Có như thế, thời gian
sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ là cái mốc cho con người càng lúc càng gần
Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu:" Tôi
ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ
Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời"(Tv 120,1.).
Xin Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút
linh thiêng đêm giao thừa này trở nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con
mà luôn luôn che chở giữ gìn, hầu suốt cả năm nay chúng con được sống trong
tình thương của Chúa (lời nguyện hiệp lễ, lễ giao thừa).
24. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
Cứ mỗi giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm
về giây phút linh thiêng, giây phút bàn giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao
không lạ lùng và hồi hộp khi năm cũ nhường bước cho những giây phút linh thiêng
nhất, giây phút đẹp nhất cho một năm mới khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần
ngại viết những câu thơ thật truyền cảm, nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào
chốn linh thiêng, tuyệt diệu:" Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ
trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa
một ý thơ ".
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM
MỚI: Sự linh thánh của đêm giao thưa như gợi trong trí của mỗi người về giây
phút hết sức huyền diệu, giây phút hết sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa
cái cũ và cái mới. Lời thánh vịnh:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống
cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion " (Tv 133, 3).
Lời thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa
tưới xuống muôn hồng ân để con người, mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh
phúc và sự an bình.Giây phút giao thừa vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng
liêng, giây phút mà mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như
có một cái gì đó níu kéo con người và làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng
tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Thiên Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người,
mọi nhà hầu con người được sống trong hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm
giao thừa, người ta vẫn có tục lệ khấn vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc
xuống cho con người. Đối với với người công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người
Kitô hữu ngước mặt lên Chúa và cầu khẩn nguyện xin:" Trong giờ phút giao
thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con
một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh
Thánh ". Giây phút giao thừa là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường
cho năm mới. Một năm mới đã mở ra và mọi người sống giây phút này trong niềm
tin, trong hy vọng và sống trong sự yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình
yêu.
GIÂY PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON
NGƯỜI: Trong đêm giao thừa, trong giây phút linh thiêng, con người đứng trước
bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa
đã ban cho con người, đã ban cho từng người trong suốt một năm qua. Giây phút
giao hòa trời đất là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ
Đấng vô cùng thánh thiện. Thiên Chúa đang ở với con người, sống với con người
và sống vì con người.Trong giây phút Thiên Chúa gặp con người và con người đối
diện với Thiên Chúa. Con người hiệp với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên
của Thiên Chúa:" Lạy Cha Chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng
con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ
cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay
trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương
của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận
lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại
từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết"
(Lời Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây
phút Thiên Chúa và con người là giây phút thánh thiêng, giây phút hạnh phúc
nhất vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.
MUÔN ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng
ân. Chính vì thế, con người, mỗi người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì,
Thiên Chúa không cần lời cảm tạ của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là
một hồng ân Chúa ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho
chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên
Chúa đang làm cho chúng ta là cho chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta
thấy ngày khởi đầu của một năm mới.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta
gặp gỡ mọi người.
Tình thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88).
Lời Thánh vịnh này luôn thúc bách chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình
thương tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh
thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra
tình thương tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu
của ngày mới là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành.
Amen.
25. Cầu bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh lễ giao thừa là những giây phút thật cảm
động, linh thiêng, bởi vì đây là giờ phút năm cũ và năm mới giao thoa, là giây
phút năm cũ sắp sửa bàn giao cho năm mới.Vị chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời cảm
tạ tri ân của Ngài và của toàn thể bà con giáo dân trong xứ đạo bởi vì suốt một
năm cũ mọi người đã nhận lãnh biết bao ân huệ từ nơi Thiên Chúa. Thi sĩ Hàn Mạc
Tử đã viết một câu thơ thật chí lý, thật ý nghĩa:" Đây phút linh thiêng đã
khởi đầu...".
Trong giờ phút thật linh thiêng, Chủ tế và bà
con giáo dân cùng nhau dâng lời tạ ơn.Thánh vịnh đáp ca viết:" Ơn phù hộ
tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời ". Thánh Phaolô viết cho
tín hữu Thessalonica:" Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong
mọi hoàn cảnh". Thánh vịnh 133,3 lại viết:" Cúi xin Đấng tạo thành
trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ". Giây
phút linh thiêng nhà thơ họ Hàn viết là giây phút huyền diệu, giây phút linh
thánh. Trời và đất giao hòa. Những giây phút này là giây phút cảm tạ ngợi khen.
Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi. Giây phút linh thiêng như Đức Cố Hồng Y
Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận là giây phút Ngài muốn thưa với Chúa
rằng:" Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là
" một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu " với Chúa.
Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn
thể Giáo Hội:" Vinh danh Cha, và Con và Thánh Thần '. Giây phút linh
thiêng, giây phút mới của những giây phút đầu tiên sẽ là khoảnh khắc đầu tiên,
khoảnh khắc cuối cùng, khảnh khắc duy nhất.
Vâng, những giây phút khởi đầu của một năm mới
mở ra những giây phút ân lộc. Và chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Giây
phút giao thừa là giây phút mở ra một chân trời mới, mở ra niềm tin, niềm hy
vọng và cậy trông bởi vì tất cả đều là hồng ân, đều là ân lộc của Chúa như lời
nguyện nhập lễ diễn tả:" Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn
nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm
hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và
đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh Chúa ".
Như Đức cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận, chúng
ta hãy tín thác cho Chúa những gì thuộc về quá khứ.
" Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy
thuộc ở nơi ta.
Ta ước muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của
ta.
Vì thế, con tín thác nơi lòng nhân từ Chúa,
Con tiến bước trong đời con như một trẻ em.
Và mỗi ngày con dâng cho Chúa trái tim con
Nồng cháy tình yêu để danh Chúa được cao cả
hơn"
Giờ linh thiêng là những giây phút hiện tại,
Giờ con mèo lui đi để con rồng hiện diện. Đó là nói theo cách thông thường của
người trần. Còn xét theo mặt linh thiêng. Giây phút giao thừa là giây phút Chúa
đang nhìn ngắm con người và ngược lại con người đang cầu khẩn Chúa. Kinh tiền
tụng thánh lễ giao thừa viết: " Trong Cha, chúng con được hiện hữu, được
sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con nghiệm hằng
thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn được nhận lãnh bảo chứng sự sống muôn
đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ
Người, Cha đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng muôn
đời được hưởng ơn Phục Sinh ".
Trong Đức Giêsu, chắc chắn mùa xuận Nhầm Thìn
sẽ mang lại nhiều hạnh phúc bởi vì Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như
hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13, 8)
Lạy Chúa, trong đêm giao thừa này, Chúa đã cho
cộng đoàn chúng con được tham dự tiệc thánh. Xin nhìn đến lòng tin của chúng
con mà luôn luôn che chở giữ gìn hầu suốt cả năm nay, chúng con được sống trong
tình thương của Chúa (Lời nguyện hiệp lễ, lễ Giao thừa, cầu bình an cho năm
mới).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Thánh lễ Giao thừa nói lên gì?
2. Giây phút linh thiêng là giây phút gì?
3. Tại sao lại nói Trời Đất giao hòa?
4. Đầu năm mới người ta thường chúc cho nhau
những gì?
5. Ân lộc là gì?
26. Thánh Lễ Giao Thừa
Trong những ngày này và cách riêng trong những
giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới
đến, tự nhiên mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng
kết mọi mặt về một năm đã qua. Tất nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình
bày một bản báo cáo tổng kết về Giáo Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những
báo cáo tổng kết chúng ta thường thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời
Chúa đòi hỏi.
Trước hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe
công bố, muốn khẳng định cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc,
tất cả đều tùy thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên Chúa. Nói cách khác thời gian là
HỒNG ÂN Thiên Chúa trao ban cho con người. Và vì thế cũng là Thời Gian mà con
người phải công bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho mọi người. Hơn thế nữa, Lời
Chúa còn xác định thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên Chúa chính là việc
"Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa", là việc "Chúa ghé mặt lại". Nhan
Thánh Chúa là Nhan Thánh của lòng thương xót, khuôn mặt Chúa là khuôn mặt của
bình an. Tất nhiên, những công trình vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, công ăn
việc làm, những ngày lễ, ngày hội... tất cả đều có thể là những dấu chỉ của
hồng ân, nhưng không phải là chính Hồng Ân nếu chúng không vén mở cho chúng ta
thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH AN của Chúa. Với quan
điểm ấy, chúng ta thấy trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan Thánh Lòng Thương Xót
Chúa qua rất nhiều cơ hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ chúng ta. Nhưng khi
đón nhận Hồng Ân Nhan Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã che lấp Nhan Thánh mà
phô trương khuôn mặt trần tục vinh vang của xác thịt. Chúng ta đã xúc phạm Nhan
Thánh.
Để thấy rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy
nghe Thánh Phaolô minh giải về các Hồng Ân Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi
Hồng Ân đều đã được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân
trong Đức Giêsu chính là Thánh Thần và Lời Thiên Chúa. Hồng ân Thánh Thần và
Lời Thiên Chúa nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta nên một thân thể
trong Đức Kitô. Lẽ ra khi đón nhận những dấu chỉ của Hồng Ân, thánh Phaolô nói
chúng ta phải tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và giữ lại những điều gì tốt,
nhưng thực tế xem ra không được như thế: khi sự dữ càng ngày càng xâm chiếm
cuộc sống chúng ta.
Hồng ân Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu
Kitô vào trong cuộc sống chúng ta để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với
Người. Con người mà chính Người đã diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người
nghèo, một người hiền lành, một người than khóc, một người đói khát công chính,
một người biết thương xót, một người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình,
một người chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được
qúa nhiều dấu chỉ của hồng ân, nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành
quyền lực của bản thân, để tự cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và
nhất là làm suy giảm sự hiệp nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm sao tôi có thể làm bản tổng kết của
Giáo Xứ này trong năm qua. Thánh Phaolô cũng từng nói với giáo dân của mình
"Anh chị em chính là triều thiên của tôi, anh chị em chính là chứng thư
của tôi trước Nhan Thánh Chúa". Nhưng triều thiên tôi có, chứng thư tôi
cầm trong tay là gì đây?
Nhìn lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi
không bi quan, tôi vẫn hướng về năm sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng
thời vẫn kiên vững trong niềm hy vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ
thực hiện điều Người muốn cho Giáo Xứ.
Dẫu sao trong tư cách là chủ chăn riêng của
Giáo Xứ, tôi nhận mình có phần trách nhiệm chính yếu về những yếu kém của Giáo
Xứ, do những thiếu sót và tội lỗi của chính mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái
đã viết, hằng ngày tôi phải dâng của lễ đền tội bản thân đã lỗi phạm và cũng
đền tội cho dân chúng nữa. Nhưng có lẽ chính những lễ dâng đền tội này chưa đủ
đẹp lòng Chúa, vậy tôi xin anh chị em tha thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi
ngay từ giây phút này và trong năm mới biết dâng lên những lễ tế xuất phát từ
"tấm lòng tan nát giày vò" để Chúa chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ
rực rỡ ánh Tôn Nhan Thương Xót và Bình An của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ
và thực tại của sự hiệp nhất yêu thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen
27. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh vịnh 66, 2-3 có viết:" Nguyện Chúa
Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho
cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ".
Một năm mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp
nơi trên quê hương Việt Nam thân yêu, giờ này người ta đang hân hoan mừng năm
mới Quí Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là
Lộc, là Thọ.
XUÂN LÀ MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ
ngơi, giãn xả và sống cái tâm tình cảm tạ, biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô
cùng diệu vợi, vô cùng thánh thiêng, vô cùng quyền phép. Nói theo một cách nào
đó, Thiên Chúa là Đấng cực kỳ quyền năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người
hướng trọn tâm tình và cuộc đời của mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi
trong tình thương che chở của Chúa. Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những
chua cay, đau khổ tưởng rằng sẽ vùi dập con người, cuộc đời trong bể dâu, thê
lương, nhưng tạ ơn vì Chúa cho qua đi những ngày đen tối và cả những ngày hạnh
phúc tràn đầy. Biết ơn Chúa để quên đi quá khứ mà lao tới tương lai mà tương
lai có thể sẽ vô cùng vô tận, sẽ kéo dài mãi trong những ngày sắp tới và trong
cả đời người. Nên, đời là một cuộc tri ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa
xuân vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp, có giây
phút gọi là thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ là một thoáng để nhìn lại quãng
đường đã đi trong cuộc hành trình cuộc đời để xem những gì cần nhân lên, cần
làm cho tỏa sáng hay những gì cần phải khắc phục sửa đổi và như thế cuộc đời là
một cuộc quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn năn và làm mới nội tâm để sống
tốt hơn, đẹp hơn.
Gọi là Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống
tình thân, tình máu mủ ruột thịt, sống cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội
nguồn, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình
với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và như thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập
giới:" Hãy thảo kính cha mẹ". Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với
Đạo của Chúa và làm tỏa sáng năm thánh hóa gia đình.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm
tình chia sẻ, làm quen, sống tình làng nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người
và sống trọn kiếp người như Chúa đã sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao
cả Thiên Chúa trao ban cho con người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc
và lòng quảng đại hầu con người mãi mãi sống con đường làm người của
Con-Thiên-Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân Huệ Chúa ban là con người sống cái
Phúc, cái Lộc, cái Thọ mà Thiên Chúa dành riêng cho con người.
Nhân dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm
cái lòng, no cái bụng, đẹp cái mặt, mát cái dạ và như thế là con người sống mùa
xuân vĩnh cửu, mùa xuân múc từ ngọn nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là
Mùa Xuân bất diệt.
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu
năm mới, chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin
Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này
được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc
lộc dồi dào(Lời nguyện nhập lễ, lễ Minh Niên).
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký
thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay(Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
28. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6,
25-34)
(Lm Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Lại một mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những
ngày mới khai mở một năm mới với biết bao ước vọng, với biết bao dự kiến, biết
bao mơ ước và những kế hoạch, dự phóng cho một năm mới. Ngày xuân với bao lời
chúc tụng cho nhau, chúc nhau an bình, thịnh vượng, may mắn. Đối với người Công
giáo, ngày xuân ngoài những lời nguyện chúc bình thường mà bất cứ người nào
cũng có thể chúc tụng nhau được thì người Kitô hữu còn chúc cho nhau được tràn
đầy ơn Chúa, giữ vững đức tin và luôn sống đời sống của Chúa như Thầy đã yêu
(Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm
con chuột đi vào quá khứ với những niềm vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều
biến cố tốt đẹp nhưng cũng có những điều chưa được đối với từng người, đối với
mọi người. Nhưng phải công nhận năm Mậu tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh
phúc.Năm mới hy vọng với những ước mơ, với những dự tính xem ra sáng sủa và tốt
đẹp hơn. Con người sẽ đẹp nếu họ biết quay trở về với chính mình để sửa đổi, để
vươn tiến. Cuộc đời chỉ đẹp khi con người biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm
cho cuộc đời sáng tươi, trong sáng. Năm con trâu với sự cần cù của loài vật đã
có nhiều thập kỷ trở thành công cụ lao động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích
cho con người khi con người biết dùng sức lao động của con vật này trở nên bạn
với người nông dân. Đã có một thời " Con trâu đi trước, cái cầy đi sau
" luôn luôn gần gũi với người lao động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa
khoa, văn minh đi lên, con trâu không còn là công cụ duy nhất để cùng với người
nông dân làm ra của cải. Ngày nay đã có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người
ta luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều
của cải cho con người, cho loài người.
HÃY TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh
Mathêu 6, 25-34 trình bầy cho mọi người một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi
chúng ta phải chọn lựa: " chọn Chúa hay tiền của ". Đã chọn rồi,
chúng ta phải sống theo điều đã chọn lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải
lo phụng sự Chúa, lo lắng làm những điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã
chọn tiền của, con người sẽ làm tôi ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người
sẽ xa Chúa và mất Chúa. Con người chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa
ban cho con người tùy theo nhu cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng,
Chúa dạy con người đừng lo lắng thái quá về những điều phụ thuộc, không chính
yếu lắm như của ăn, của mặc, nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm
nổi bật ý tưởng này, Chúa dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa
huệ ngoài đồng. Chim trời và hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên
Chúa vẫn luôn chăm sóc chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa
huệ để bắt chước, để học bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và
xác nhận con người cao quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí
khôn, lý trí, có lương tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt
hạnh phúc và sự xấu số vv...Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để
kiếm ăn, không hút nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì
thế, Chúa không khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần
mẫn làm việc và phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra
cho con người, cho mỗi người hãy sống và hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin.
Chúa luôn yêu thương con người và dạy con người phải yêu thương như Ngài đã
yêu. Bởi vậy, năm mới ai cũng có dự phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả
còn tùy thuộc nơi sự quan phòng của Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban
cho con người chúng ta. Chúa bảo"đừng lo " không có nghĩa là Chúa bảo
đừng làm việc, đừng lao động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng
Ngài nói hãy cần cù lao động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi
Chúa.Ước mơ luôn là mơ ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt:" Bạn
hãy ký thác đường đời cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay ".
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt
đẹp cho con người nếu con người biết thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy
nhiên, còn nhiều người chưa chắc đã được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi:
những mảnh đời tang thương, những mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc
hơn những hạng người nghèo khổ.Chúng ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời
đau thương và cố gắng sưởi ấm tâm hồn họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban
bình an để cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ
của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban
cho chúng con luôn biết phó thác nơi bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
29. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân
loại
(Lm Ignatio Trần Ngà)
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu
biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp.
Tết đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng
năm mới; nhà nhà rộn rã sửa soạn mừng xuân.
Bầu trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về
nhuộm màu thắm tươi rực rỡ.
Xuân xua tan băng giá của mùa đông và đem lại
ấm áp cho con người.
Xuân tô điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc,
cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim chóc ríu rít vui ca.
Xuân đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng
người nên mọi người đều tưng bừng mừng xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ
đem lại nhiều điều tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình
trong năm mới.
Thế nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời
hơn mùa xuân của thời gian. Đó là Mùa Xuân Giê-su.
Chúa Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và
đang đến với nhân loại. Mùa Xuân Giê-su đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng
hoa con người đến đó.
Mùa Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những
người đã chết: cho La-da-rô đã chết bốn ngày rồi được sống lại, cho con trai bà
goá thành Na-im và cô con gái ông Giai-rô được hồi sinh.
Mùa Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh
được chữa lành, người mù tối được sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ
què đi được, người phong được sạch.
Mùa Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo
hắt trong tội và giúp họ trở về nẻo chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột
trở thành người quảng đại dám đem nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp
bốn những thiệt hại đã gây ra; biến người đàn bà tội lỗi trở thành người loan
tin vui, biến người thu thuế thành tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến
sĩ anh dũng loan Tin Mừng...
Nhưng điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su
đã đến trong cuộc đời chúng ta từ lâu nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân
Giê-su đổi mới đời mình. Vì thế, hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa
Xuân Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta nên tươi đẹp hơn.
Quý trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược
lại, người ta cảm thấy buồn tủi nếu mình không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý
hơn vẻ đẹp thân xác. Vì thế, người ta thường nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người" hoặc: "Cái nết đánh chết
cái đẹp."
Đúng vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát
xuất từ phẩm chất cao quý của con người đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp
thân xác.
Bằng chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu
già nua, nghèo nàn, thấp bé và không có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ
tôn trọng mọi người như tôn kính Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu
thương, có một tâm hồn quảng đại quên mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn
sàng phục vụ những người bần cùng khốn khổ khắp nơi trên thế giới... nên Mẹ
được thế giới kính trọng và xem như là người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là
"xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người."
Trang điểm tâm hồn
Muốn trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi
những gì làm cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những
lời nói thô lỗ, những ngôn từ thô bỉ, thiếu văn hoá... vì nó làm mất thanh danh
phẩm giá của người thốt ra những lời đó.
Cố gắng loại trừ những hành động vũ phu, những
hành vi côn đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn minh và đạo đức... vì ai thực hiện
những hành vi đó là tự làm hại chính mình, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình
bằng cung cách lịch sự, bằng những hành vi cao thượng, bác ái, vị tha... Chính
những hành vi cao đẹp nầy làm cho bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước
đây ở nhà tranh nay lên nhà ngói), phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng
cấp (trước đi xe đạp nay lên xe máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã
được nâng cấp thì lẽ nào bản thân chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu
biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng
thêm khôn ngoan và nhân đức, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến (theo Luca
2,39).
30. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào
Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để
sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường
tình của con người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì
Chúa nói:" Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho ".
Những giây phút đầu năm mới là những giây phút
thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao
cho mỗi người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con
người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món
tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa.
Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ
trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh
Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng
lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm
trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an
bài huống chi là con người...Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết
sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa:" Cứ tin tưởng
vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy
lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng".
Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng
nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta.
Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin.
Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để
con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát
vang trên không trung ngày Chúa giáng trần:" Vinh danh Thiên Chúa trên
trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm ". Chúng ta phải có sự an bình
trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật
chất cần thật để sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho
mỗi người chúng ta biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính,
những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta
phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia
sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.
Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo
ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền
đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2,
11-12). Cuộc đời con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần
xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng
Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và
mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng
tạo hóa tối cao:" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn
Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn
nước biết ơn cứu độ của Ngài " (Tv 66, 2-3).
Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời
này:" Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra
tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ
cho huy hoàng như chính ngọ ".
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu
năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin
Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được
bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc
dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày đầu năm có ý nghĩa gì?
2. Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
31. "Những Dấu lặng của Mùa
Xuân"!
Năm cũ đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay
vào những công việc quen thuộc. Người thì lo tính toán sổ sách, hoàn tất công
việc. Kẻ thì đi sắm sửa quần áo, giày dép, hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp ...
Người khác lại lo chuẩn bị các mặt hàng để buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng
vậy, Mùa Xuân nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu không có Mùa Xuân? Thì...?
Chuyện kể rằng:
"Ngày kia, có vài người đến thưa với
Thượng Đế rằng: Tết năm nào cũng có bấy nhiêu việc. Chán quá! Chỉ có bọn con
nít vô tư ham Tết chứ người lớn như chúng con chẳng ham gì Tết vì còn vất vả,
tốn kém hơn ngày thường. Xin Ngài xem xét cho"! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế
quyết định gọi Mùa Xuân trở về Thiên Quốc.
Thế là ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua,
lại đến ba trăm sáu mươi lăm ngày khác tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi
đầu vào sách vở. Người lớn thì miệt mài chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa
chẳng bao giờ được trang hoàng bởi những nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu
hoa kiểng xinh xắn, dễ thương. Các ông bà cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua
tháng nọ mà bóng dáng con cháu vẫn biền biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau
bên ly rượu, mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ tâm tình ... Và rồi dần dần, hoa cỏ
nhợt nhạt vì thiếu làn gió xuân ấm áp và những đôi tay chăm sóc. Con người cũng
dần dần xa cách nhau vì thiếu sự quan tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến
van xin Thượng Đế: "Xin Ngài đem Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có
Mùa Xuân, có ngày chúng tôi phát điên lên mất".
Khi Mùa Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại
chan hòa trên cảnh vật và con người ..."
Có lẽ Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà
Thượng Đế gửi đến cho vũ trụ và con người. Quà tặng đó là thời gian, là những
vẻ đẹp được kết tinh từ cả một chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa
hơn, đó là một "món ăn" bổ ích cả thể xác lẫn tinh thần cho con
người.
Có lẽ tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình
mà mỗi người có những cảm xúc khác nhau trước Mùa Xuân.
Tôi rất thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy.
Ngày xuân! Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp các loại bánh mứt, trái cây ... được
trưng bày đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ
Hoa Xuân dường như ... hoa cả mắt bởi các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và
mới lạ - đủ các dáng kiểu. Các Hội Xuân tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường
phố "dập dìu tài tử giai nhân" rạng rỡ trong những bộ quần áo thật
đẹp và "model". Trong các nhà thờ thì càng vui hơn nữa: mọi người
hăng hái quét dọn, treo lộc xuân và những câu đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất
là được trở về xum họp với gia đình và những người thương mến sau những tháng
ngày xa cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa Xuân!
Đón mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công
việc phải làm: những chương trình vui xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu
mươi lăm ngày sắp tới. Giữa những ồn ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng
đọng lại để lắng nghe "lời thì thầm của Mùa Xuân"!
Sau một năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc
và tất bật chạy đua với thời gian, tôi cần có những giây phút dừng lại để nghỉ
ngơi và "nạp năng lượng"; để đọc lại những bài học may, rủi, thành
công và thất bại đã qua; để vun tưới cho những tương quan và tình cảm tốt đẹp
với bao người thân yêu mà nhiều khi vì vô tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ
và bỏ mặc họ.
Đón Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà
cửa cho đẹp và mặc những bộ quần áo mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải
trí cho thật hấp dẫn, mới mẻ và thỏa thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là
làm mới lại tất cả: tâm hồn, cách sống, công việc và đời sống gia đình, cũng
như các mối tương quan xã hội. Khi đã "gạn đục khơi trong" con người
mình bằng cách loại bỏ tư tưởng và những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc
những giá trị tích cực và bổ ích, tôi sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để
bước tiếp chặng đường mới một cách tự tin và vững vàng hơn.
Mùa Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe
sắc mới và gió xuân thổi vào lòng người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới.
Người người phơi phới niềm vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất:
Phúc, Lộc, Thọ ... và gửi biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự
trân trọng, quý mến và chia sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn
thân thiết đã chia sẻ cùng mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất
bại. Hãy nói lời cảm ơn người cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những
người bà con thân quyến ... đã gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng
qua. Hãy cảm ơn chính mình về những nổ lực và nhiệt tâm ... Và đừng quên cất
lời cảm tạ Thượng Đế về bao ơn lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi
mọi biến cố vui, buồn, may, rủi ...
Có thể ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc
được dệt bởi những cung bậc trầm bổng của thời gian. Giữa những cung bậc tưng
bừng và náo nhiệt của Mùa Xuân, có "những dấu lặng" thật tuyệt vời để
ta nghe lại âm hưởng của đoạn nhạc phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở
phía sau. Khi ấy, Mùa Xuân mới thật sự là "một phần tất yếu của cuộc sống"
chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để
làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của con người.
32. Vạn sự như ý... Chúa
Dịp tết tôi có nhận được lá thư của người thân
ở nước ngoài, cầu chúc cho tôi "vạn sự như ý" được nhắc đi nhắc lại
gần ba lần Tôi hiểu người thân của tôi rất thương mến tôi, quan tâm nhiều tới
tôi, mong ước cho tôi được may mắn điều này điều kia, không muốn tôi phải khổ,
không muốn tôi gặp những khó khăn... Vạn sự đây chắc không phải chỉ có mười
ngàn lần mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất
của con người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi trên đời này có ai lại
"mát" đến cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái, muốn thất bại, mọi việc
xẩy ra đều ngoài ý muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này các giáo phái kia đều
muốn giúp con người cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì không được như ý muốn
là khổ, muốn giầu mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn bình yên mà cứ gặp tai
nạn hoài chẳng khổ là gì?
Xưa nay người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu
ngầm là Ý Chúa thì luôn ngược với ý người ta nên người ta phải khổ. Khi phải
khổ thì người ta chẳng còn tha thiết gì với Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng
dửng dưng càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu càng đỡ phiền toái bấy nhiêu...
Bởi vì đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên vậy, mọi vật đều phải tuân thủ.
Khi nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt, răn đe đủ điều, có khi dùng tạo
vật làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi sốt rét lâu lâu chích cho ta
một phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người quay lại chống đối, giơ nắm
đấm, vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm được lối thoát thì đành phải
ngậm bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình tập chịu vậy, rồi cho đó là
một nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì cho đó là đỉnh cao của đời
sống đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người khác một cách rất sốt sắng là
"Ý Chúa đấy, hãy... chịu vậy". Gặp người chịu vậy thì họ lại chịu
vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ thái độ ra bên ngoài nhưng bên
trong cũng giận điên lên!!!
Có điều con người muốn nhận diện rõ ràng đâu
là ý Chúa, đâu là ý người ta, đâu là ý Bề trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng
cúi đầu chịu vậy, chứ còn ý người ta thì..... không thể chịu được, ăn thua đủ,
sòng phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt, ông muốn không bà muốn có, muốn có điện
lại bị cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại chẳng cần... như thế có phải ý Chúa
không?
33. Hạnh phúc đích thật
Tai nạn giao thông ở ngoại ô thành phố Paris
năm nào đã cướp đi mạng sống của công nương Diana. Cái chết của bà làm hàng
triệu người xúc động. Người ta thương bà vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà
phải mất đi cuộc sống này khi tuổi đời còn qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn
niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm khát khao của mọi người. Con người sinh
ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh
phúc. Vậy hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
***
Bạn thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh
phúc của con người. Những gì Ngài làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc,
thánh hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này
và cả cuộc đời mai sau nữa. Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc
của con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì
mỗi người có một quan niệm khác nhau về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm
này cũng biến đổi theo thời gian. Thường ta hay chạy theo những cái bóng của
hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là
"hạnh phúc đích thật": Hạnh phúc đích thật không nằm nơi của cải; kiến
thức hay quyền uy. Hạnh phúc đích thật không do chiếm đoạt những gì mình muốn,
nhưng do trao hiến những điều quý nhất của mình. Hạnh phúc đích thật là mãn
nguyện với những gì mình được ban tặng; là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu
lắng. Hạnh phúc đích thật là sự an bình ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với
anh em, và giữa tôi với chính tôi...
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh
phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được pha trộn với mồ hôi và nước mắt.
Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực
sự, mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Chúng ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ
lại, và nhất là cần nhiều ơn ban từ trời cao giúp ta thấu hiểu được các mối
phúc. Cũng như trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, những điều người đời coi
là bất hạnh, Đức Giêsu bảo đó là hạnh phúc đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị
oán ghét, bị khai trừ, bị sỉ vả..v..v.. những điều đó tự chúng chẳng có giá trị
gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét
bỏ vì nói lên dự thật, bị sỉ vả vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc.
Hạnh phúc đó xảy ra ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy
mình giàu lên trong cảnh nghèo khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ,
và nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô
hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý
dễ thương; cái thâm sâu cao cả của Lời Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa
Nhật hôm nay.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong
Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin...
Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi
ngõ ngách của đời thường. Ước gì mỗi người trong chúng ta biết noi gương bắt
chước Đức Giêsu, biết viết lên những mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui
và ơn ban Chúa dành cho ta trong cuộc sống hàng ngày.
***
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi
nào nói Chúa cười, nhưng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt
bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu
nụ cười trước hai môn đệ trên đường Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa luôn ẩn hiện trong Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui
trào dâng của người được lành bệnh; của người chết sống lại và của người đàn bà
tội lỗi được ơn tha thứ ...
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho
con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con
biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với con. Xin cho con biết mến
yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh
phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình
thương ấy cho anh chị em của con. Amen.
34. Ngày đầu năm – R. Veritas
Tâm tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ
14 được tôn làm bậc tôn sự đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
- Người quan trọng nhất trong lúc này là người
đối diện với ta. - Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện
tại.
- Công việc quan trọng nhất là công việc bác
ái yêu thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút
hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
- Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này
đây.
- Con người quan trọng nhất là con nguời đang
đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có
một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu.
Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v... Có người
quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết
tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa
đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn
để gậm nhấm tâm hồn chúng ta.
- Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm
tình lạc quan và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc
trong giây phút này.
- Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc
sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
- Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo.
Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của
thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin:
Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
***
- Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
- Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống
của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
- Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm
tin vào Tình Yêu của Ngài.
- Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa
cho tất cả mọi người.
- Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn
người:
- Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được
sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên
người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những
người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu.
Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta
được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn
chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng
trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những
người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn
luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng
lên Chúa một năm mới.
Xin đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân
của chúng ta.
35. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy
Tuyền
Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan
trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại.
Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng
sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua
hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn
đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng
gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện
tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào
chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc
sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình,
hạnh phúc và thịnh vượng.
Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum
họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây
phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn
thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành
ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về
tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình
an.
Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên
trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh
khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo
hiếu, vâng lời. ... Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với
một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều
điều tốt đẹp.
Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể
thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người
Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự
giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên
Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ
nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.
Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên
Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con
người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình.
Chỉ có Ngài mới làm cho "con tạo xoay vần" theo chu kỳ của nó. Chỉ có
Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.
Thế nê, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi
người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay
Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể
xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước
thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:
- Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt
ngào
- Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung
kiên
- Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
- Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
- Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
- Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
- Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
- Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
- Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp
Tình Chúa – Tình Người. Amen
36. Năm mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy
Tuyền
Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những
lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là
lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ
nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu
đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay
chống gậy, một tay cầm quả đào
. Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét
mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời
nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ
đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời
nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi
trăm tuổi không có người nối dõi.
Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng
thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông
mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng
sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn
cháu chắt chết hết cả.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba
hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách
sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn
cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?
Xem ra lời cầu chúc "Phúc – Lộc –
Thọ" đã được hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình
tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có
niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có
nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm
vui trong cuộc sống mới là quan yếu.
Có ai đó đã nói rằng: " Ghế cao chẳng
bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao". Có được
niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người.
Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm
kiếm suốt cả cuộc đời.
Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn
nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới
là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai
mà không có hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng
ta.
Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài
cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là
con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là
sống lâu đến độ "bách niên giai lão". Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng
ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa
xót thương....
Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự
tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền
lành, nhẫn nại, hy sinh...; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có
Chúa làm gia nghiệp đời đời.
Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi
mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu
cầu vật chất của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền
trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc
sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn
nại, hy sinh...?
Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho
nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có
Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần
gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống
phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen
37. Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi – Tết Quý Tỵ 2013)
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã
viết lên để ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban
phước lộc cho muôn người, muôn nhà trong năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã
qua đi nhường chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên
Chúa chúc lành cho năm mới này, để muôn người, muôn nhà được sống trong sự an
bình của Chúa...
Tiết Đông nay đã qua rồi,
Mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui hát lại trở về,
Tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv
66,2-3).
Sự an bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc,
thôn xóm trong những ngày xuân nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương con người,
quan tâm đến con người cả tinh thần đến vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh
Matthêu hôm nay nói đến sự quan phòng của Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi
sự đều được Chúa an bài, ngay cả sợi tóc trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên
Chúa định liệu. Con người quý trọng hơn hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô
hữu hãy ký thác đường đời cho Chúa, tín thác nơi Chúa:" Cứ tin tưởng vào
Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy
Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng ".
Suốt một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được
Thiên Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt tùy theo lòng thương xót của
Ngài...Năm mới tới, chúng ta luôn tin như thánh Phaolô viết:" Anh em đừng
lo lắng gì cả.Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và
tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình
an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh
em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu ".
Năm mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa
sẽ luôn ở cùng chúng ta. Nên, Lời Chúa:" Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế " (Mt 28, 20) an ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến
bước vì chúng ta cảm nghiệm sâu xa Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của
đời sống chúng ta.
Ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi
ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài, lời Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con
luôn bám chặt vào Chúa và tôn vinh, ca ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên
nhắc nhở chúng ta:"...Riêng con người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha
và cho điều khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền
Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ
hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ". Chúng ta
vững bước, tin tưởng ký thác nơi Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển
cuộc đời của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng
con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ
vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn.Xin cho chúng con không
ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ,
lễ Minh Niên).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết có ý ngjĩa gì?
2. Tại sao chúng ta lại ký thác đường đời cho
Chúa?
3. Bình an của Chúa có khác với hòa bình của
con người?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
38. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có
một sự gì đó hết sức linh thiêng vì năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây
phút trời với đất gặp nhau, trời và đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết:"
Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi
thánh Sion ". Lời khẩn cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi
gia đình khấn van Chúa tưới đổ muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà
nhà được an bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Với truyền của người Việt Nam, đêm giao thừa
là đêm thánh thiêng, đêm con người gặp gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời
và đất. Thường người lớn trong gia đình đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để
khấn vái tổ tiên, khấn xin người trên ban cho gia đình được nhiều hồng phúc,
ban cho gia đình được dồi dào sức khỏe, may mắn và bình an. Đối với các Kitô
hữu, giây phút giao thừa là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời
cảm tạ tri ân Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã ban cho con người, cho mỗi người,
cho gia đình trong suốt một năm qua. Do đó, giây phút giao thừa là giây phút
linh thiêng nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa.
Giây phút linh thánh trời và đất gặp nhau, Thiên Chúa đang ở với con người và
con người đang đối diện với Thiên Chúa. Giây phút huyền diệu này con người
không biết diễn tả sao cho hết tình Chúa thương yêu con người. Trong giây phút
ấy, con người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa:"
Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi
mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong
Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này,
chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn
nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở
đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do
đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết " (Lời Kinh Tiền
Tụng Chúa Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói không ngoa vì giây phút này
là giây phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất con người gặp gỡ Đấng vô cùng
chí thánh, giống như giây phút trên núi Sinai, Môsê không dám nhìn vào bụi gai
đang cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải cúi mặt xuống, không dám nhìn vào
Chúa.
Vâng, mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục,
một cách thể hiện để đón năm mới, nhưng dù với cách nào, với tập tục nào,
truyền thống nào, người môn đệ Chúa luôn coi giây phút giao thừa là giây phút
linh thiêng, giây phút năm cũ sẽ nhường chỗ cho một năm mới tới. Người môn đệ
Chúa luôn ước mong năm mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua
đi tất cả những gì được coi như xui xẻo, coi như không được may mắn của năm cũ
và đón chào những gì tốt hơn, quí hơn của năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho
họ.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của
đêm giao thừa, xin cho mọi người môn đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân
Thiên Chúa vì những ơn huệ đã nhận lãnh và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban
cho nhân loại, cho con người, cho mỗi gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
39. Tết cho mọi người – Lm Jos Nguyễn
Hữu An
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh
lúa nước vốn có những ngày Tết truyền thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý
vị và vui tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như
lễ tết ra giêng để vào hè thì có Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ.
Đặc biệt để tiễn mùa đông người Việt đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có
nhiều tết khác như Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung
Thu (dành cho thiếu nhi), Tết Trùng Dương, Tết Ông Táo... Tất cả đều có sự tính
toán dựa theo sự chuyển đổi của thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch
phương Đông.
Chữ "Tết" ngày nay đã được một số
quốc gia sử dụng như là một "Lễ" hết sức độc đáo của dân tộc Việt
Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ "Tết" bắt nguồn từ
"Lễ Tiết" bên Trung Quốc. Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người
ta còn ghép theo từ Nhứt nữa nghe thật thú vị, như 'Tết Nhứt' là do đọc chệch
đi từ hai âm Hán Việt "Tiết Nhựt", có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên
Đán, theo chữ Nôm: Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm
mai đầu năm. Nguyên Đán còn gọi là "Chính Đán" tức là "Chính
Nguyệt Chi Đán" (buổi sớm mai tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam
chiêu, là ba cái sớm mai (sớm mai đầu năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ
nơi đâu vẫn xem trọng ngày Tết Nguyên Đán. Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho
cuộc sống; một năm xa gia đình bôn ba mọi nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn
tụ, mọi chuyện buồn phiền lo toan đời thường tạm gác sang một bên để mọi người
cùng hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ
tiên ông bà cha mẹ, nhưng không quên nghĩ đến người nghèo, thương đến những
người đã khuất núi.
Tết cho người trần
"Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết",
câu nói ấy đủ cho thấy người Việt chú trọng đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn
dù khó thì ngày Tết cũng phải có cặp bánh chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp
mứt. Nhà có điều kiện thì mua sắm đủ thứ, nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại
bánh mứt thật hảo hạng, cây giò thật to, gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và
nhiều loại bánh khác. Cùng với những thứ ăn, là những chậu hoa, cây cảnh, chậu
quất sai qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc, nụ, hoa...
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ" là
cái Tết truyền thống của người Việt Nam. Ý nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn
tinh thần. "Câu đối đỏ" ngày nay được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh
những đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền giấy điều, giấy lụa là những câu
đối in trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn sắm về những hoành phi câu đối
bằng gỗ, khảm trai hay những đôi câu đối thêu... Quan niệm của người Việt, ngày
Tết tiễn cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều
nhà có điều kiện, những tháng cuối năm thay đổi những cái cũ trong nhà như thay
đổi tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái máy giặt hay thay xe... nhà không có
điều kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc
kê dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn
sạch sẽ...
Ngày Tết, còn là dịp để người người vui chơi.
Bên cạnh việc "Ăn Tết", người ta nghĩ đến việc "Chơi Tết".
Chơi Tết có thể kéo dài từ những ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi
ngắm chợ hoa, đi chợ Tết và ngày nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể
mua hoặc có thể chẳng mua gì, song việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết,
đặc biệt đối với giới nữ. Vì vậy, chợ là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã
ồn ào, náo nhiệt thì những ngày áp Tết chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói
đến "Chơi Tết" thì không thể không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc
Tết nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ, anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến
chúc Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui như trẩy hội. Việc "Chơi
Tết" không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một, Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết
tháng giêng, tháng hai và cả tháng ba với những lễ hội, đình đám. Vì thế mà
người ta có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai đình đám, tháng ba hội
hè. Có lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết cũng vì lẽ đó.
Tết cho người âm
Người Việt rất trọng chữ "Lễ nghĩa -
trước sau". Ngày Tết nhà ai cũng phải có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương
tổ tiên. Quan niệm "Trần sao, âm vậy" nên dễ thấy những ngày trước
Tết, trong các chợ, quầy bán hàng mã cũng rất đông người. Người ta mua tiền,
vàng, mua quần áo, có nhà chu đáo còn mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda
hay cả xe hơi, điện thoại di động, toà nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở
cõi âm.
Ở nhiều làng quê, người ta còn nghĩ về người
âm, lo Tết cho những người âm không có nhà cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát
đơm từng thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã được cuộn tròn như cái phễu đem để
bụi tre, dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng trong đêm ba mươi, ngày mùng một
chủ nhà nào cẩn thận còn bảo con cháu ra mở cửa, mở cả cửa trước, cửa sau,
ngoài ý niệm trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý mở cửa mời ông bà, tổ tiên về
cùng vui đón Tết.
Tết cho người âm còn thể hiện ở việc người
trần đi tảo mộ. Thường người ta đi tảo mộ vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba
Tết với mâm cơm nhỏ để ông bà, cụ kị chứng cho con, cho cháu, hoặc với những
người trẻ xấu số thì mâm cơm tảo mộ còn để cho hương hồn họ không cảm thấy cô
quạnh.
Tết cho hai phần thế giới... giao thoa
Ngày Tết, đất trời giao hòa, người người gần
gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại
thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên
mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân
đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau
có lẽ cũng xuất phát từ những ước nguyện ấy.
Những ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa
đền nhiều hơn. Tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi
người song hầu hết đến chùa ai cũng có được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong
bảng lảng của khói hương, người người cầu ước và hy vọng những ông quan với bộ
mặt hiền từ ngồi kia cùng những linh hồn quanh đó nghe được và giúp họ thực
hiện những điều ước tốt đẹp trong năm mới. Trong dân gian, người ta cũng truyền
miệng nhau rằng, ngày Tết, các quan trông coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ
phải cắt cử nhau ở chùa để ghi lại những điều mong ước của người trần. Sau đó
báo cáo lên thiên đình, rồi căn cứ vào những việc làm thiện, ác của từng người,
của từng gia đình mà thiên triều cho người đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau
trong năm đó. Những vong hồn cũng quanh quẩn cửa chùa thường là những vong hồn
phiêu dạt không cửa nhà, họ tìm đến đây để xin được ăn. Và cửa chùa chính là
nơi giúp người âm và người dương gần nhau hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi
trẻ, phụ nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo dân tộc).
Tết nơi xứ đạo
Những ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn
công việc bán mua, sắm sửa cho ngày Tết. Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo
toan đón Tết. Chuẩn bị quà Tết cho người nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo
nhiều hơn. Quà Tết cho người nghèo là lương thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn
thể, mọi giới trong xứ đi lạc quyên giúp người nghèo được "Ăn Tết"
cùng với mọi nhà, bởi lẽ "giàu thì ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa
ba lần". Quà cho các cụ già trên 70 tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời
chúc thọ của con cháu trong thánh lễ Mồng Hai Tết.
Năm nào giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới
trẻ, thiếu nhi, bóng đá bóng chuyền. Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì
thế khuôn viên Nhà thờ tấp nập mọi đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba
ngày Tết. Vui Tết lành mạnh, ở làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say
sưa.
Đất Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn
cho Thánh Lễ sáng Mồng Hai Tết. Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh
sáng đèn nến, nhập nhoà hương khói.
Chuyện Tết cho người trần, Tết cho người âm,
Tết cho người nghèo chính là cuộc sống mà người người đang hối hả khi cái Tết
bắt đầu gõ cửa.
40. Hạnh phúc trường sinh
(Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Người đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của
con người là Phúc – Lộc - Thọ. Phúc là công danh chức tước – Lộc là con cháu
đông đảo – Và thọ là tuổi già.
Có công danh, sinh con cái là những dịp để
người ta khao vọng, mừng rỡ, và khi hưởng tuổi già người ta lại càng cần phải
mừng rỡ hơn để tạ ơn trời đất tiên tổ đã phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là
nỗi khao khát của con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ
trường thọ, thời đại nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam
cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào
chốn bồng lai tiên cảnh. Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong
những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới
người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng, sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao
khát nhất của đời người. Người đời không chỉ mong sống lâu mà còn mong được
sống hạnh phúc và bình an. Hôm nay ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc
nhau hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng
ta mong ước cho nhau luôn mạnh khoẻ sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là
những ước mơ rất chính đáng của con người. Là người ai cũng mong được sống
trường sinh và hạnh phúc.
Chính Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta
một con đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc và trường sinh. Đó chính là con đường
của tám mối phúc. Đây là con đường đòi hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải
hy sinh những cái nhỏ để được cái lớn hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương
xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một
đòi hỏi kiên quyết của người môn đệ Đức Kytô. Họ phải là những người nghèo
trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời
sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó
thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Chúa và cho anh em đồng loại của mình,
lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại,
thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Cho dù mình có bị thiệt
thòi một chút, đau khổ một chút nhưng họ lại có ích cho gia đình, cho xã hội và
đồng loại. Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui trong những gì chúng ta cho đi. Cho
thì có phúc hơn nhận lãnh. Một con người không bao giờ biết cho đi, không bao
giờ biết hy sinh vì người khác, hay không bao giờ sống thanh sạch lòng thanh –
gìn giữ công lý và xây dựng hoà bình, họ chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín
đời mình trong ngục tù cô đơn. Họ là những con người vô dụng, vô tâm, sống xa
rời tình Chúa – tình người nên họ chỉ là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ
trụi, trơ trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là
linh vật đứng thứ 5 trong 12 con giáp, rồng được coi là là sản phẩm của truyền
thuyết và các huyền thoại, biểu tượng của sự may mắn, thịnh vượng cũng như
quyền lực mạnh mẽ. Rồng còn là biểu tượng của lòng bái ái bao dung. Theo truyền
thuyết, khi Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại
sao một con vật mạnh mẽ như Rồng lại không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó
còn phải dừng lại giữa đường, làm mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may
mắn đến với chúng ta trong năm, đồng thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh
phúc đời mình như con Rồng bằng việc thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng.
Sống vươn lên khỏi những đam mê xác thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những
bon chen vật chất tầm thường, những danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui
trong đời sống hiến dâng phục vụ cho đời.
Nguyện xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm
mạnh mẽ như rồng và nhiều điều may mắn đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc
lành cho chúng ta một năm vạn sự như ý. Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên
trong nhân đức và mạnh mẽ trong đức tin đức cậy và đức mến. Amen
41. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc
tụng nhau và cầu chúc cho nhau những điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất,
những điều hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày 01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta
đọc lại tám mối phúc thật của Chúa Giêsu để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh
phúc thật, thế là là những người được Chúa chúc phúc.
Sống nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình
được may mắn, được tốt đẹp, đặc biệt được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu
để sinh tồn, con người phấn đấu để vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy
nhiên, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ
Chúa. Chúa cũng đảm bảo cho những con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn
trong sạch, bị bách hại sẽ được" đất nước làm cơ nghiệp " được "
Thiên Chúa xót thương" được " nhìn thấy Thiên Chúa " được "
gọi là con Thiên Chúa ". Và để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện
thực cho đời sống, cho con người, Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua
đau khổ, vác thập giá và trải qua cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa
phải qua thập giá mới tới được vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ
không thể nhận được lời chúc phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không
trải qua cuộc hành trình thập giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không
có cái chết, không có sự phục sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh
phúc, muốn được tài lộc phải hy sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì,
không ai nằm chờ sung rụng rồi sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu,
cực nhọc. Không ai muốn sống lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập
luyện, kiêng khem vv...
Ngày đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân
Thiên Chúa vì Người đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người và còn hứa
ban " Nước Trời " cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã
ban cho chúng ta một năm qua được lãnh nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu
thương và thành tín với chúng ta dù rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là
người Cha đầy tình thương xót, luôn tha thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài
và chẳng trách cứ chúng ta.
Đầu năm mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau
một năm mới đầy yêu thương, đầy ý nghĩa vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân
không bao giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi
lòng để đón nhận những lời chúc phúc của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải
sống yêu thương như Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì
yêu thương chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn
hiện thực trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa
trong tin yêu và hy vọng và như thế lời chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và
sống lâu vẫn là những điều quí hóa bởi vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa
là mùa xuân vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới
vui tươi và hạnh phúc. Amen.
42. Bình an và hạnh phúc
(Giuse Nguyễn Hữu Duyên - Lm Quản Xứ Bảo Lộc)
Anh Chị em rất thân yêu,
Ngày đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu
chúc bình an và hạnh phúc. Xuyên qua những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể
nắm bắt được những ý nghĩ căn bản của nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng,
công danh và thành đạt, tình yêu và đại gia đình, đó là những gì làm nên an
bình và hạnh phúc cho con người.
Lời Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời
cầu chúc bình an và hạnh phúc. Nhưng Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ
và dường như trái nghịch với ước mơ thường tình của con người:
Trước hết nền tảng của hạnh phúc và bình an
chính là sự bảo trợ của Danh Thiên Chúa và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi
còn ở Ai Cập cũng thường nghĩ chính công ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa,
chính những tài sản tích lũy là sự bảo trợ của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40
năm trong sa mạc, khi phải vứt bỏ tất cả, thậm chí ngay đến những gì gồng gánh
đem theo cũng phải tiêu tán trong cát bụi, không ít lần họ đã nổi loạn chống
lại Môsê... nhưng Thiên Chúa không khoan nhượng... Ngài đã chôn vùi và lột trần
tất cả trở thành những con người sống từng bữa bởi lòng thương xót của duy mình
Thiên Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập phải phơi xương trên biển cát mênh mang,
và còn lại chỉ là một lớp người mới sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân
Chúa mới chiếm được Đất hứa và trở nên Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt
lõi khi công bố Hiến Chương Nước Trời cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó
nghèo: Phải xây dựng Hạnh Phúc của mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành
động yêu thương của Chúa Dù sao Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa
mạc, họ vẫn còn khí trời, vẫn còn cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng
soi...và vẫn còn tình huyết tộc bao bọc chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải
chôn vùi sự sống của mình trên 300 năm trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt
tứ xứ nơi đất lạ...chịu muôn vàn bách hại và truy sát... Thiên Chúa vẫn là
Thiên Chúa không khoan nhượng trong đòi buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ
sống nhờ sự bảo trợ của Người. Sau này, khi hòa bình bên ngoài được thiết lập,
không thiếu thành phần con cái Hội Thánh quên đi cái nôi sự sống của mình chính
là Khó Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã
được tái sinh chung quanh những trung tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội
Thánh sa lầy trong nhung lụa và quyền bính thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân
hóa của những giáo phái Tin Lành, Chúa đã một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một
Bà Chúa Nghèo của Phanxicô thành Assisie... Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử
đầy tính hiện sinh của cái nghèo chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo
khó ấy.
Thánh Phaolô đã không làm giảm thiểu tính
quyết liệt ấy khi xác định cách chắc chắn rằng, không phải là sự khó nghèo luân
lý đạo đức nào đó là nền tảng của Hạnh Phúc và bình an, nhưng chính là con
người nghèo của Đức Giêsu Kitô, và vì vậy trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của
Người Kitô chính là được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai
thuộc về Đức Kitô thì luôn sẵn sàng đi từ hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách
riêng là trở thành Tấm Bánh bị bẻ ra cho những con người nghèo.
Anh Chị Em rất thân yêu,
Đứng trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc
Nước Trời, và sự đòi hỏi phải trở nên Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào
trong lúc này không nhận ra tính nghịch thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp
của ngày tết. Tuy nhiên, bên dưới lớp vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô
quạnh và nhức nhối. Còn nơi bàn thờ này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại
là con tim rộn ràng sức sống yêu thương.
Ngày đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng
yêu mến của tôi, kính chúc Thầy Phó Tế, Quý Tu Sỹ nam nữ,,Qúy Chủng Sinh, Quý
Cố Ông, Cố Bà, và toàn thể Anh chị em thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh
Thần trong Đức Giêsu thánh hóa và gìn giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta
tất cả trở nên nhân chứng của Hạnh Phúc đích thật cho mọi người, mọi gia đình
và toàn thể xã hội.
Kính Chúc
43. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của
đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã
viết:" Đây phút linh thiêng đã khởi đầu..."Giây phút giao thoa giữa
năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho
những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên
chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. "
Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn
đời " như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó,
những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian
trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân
cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên
Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta
cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như
lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy:" Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô
chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng
con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào
phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh".
Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn
hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì " Ơn phù hộ tôi
đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời ".Chính vì thế, giây phút
giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với
Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những
cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse.
Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ
mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa
trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người:" Lạy Thiên Chúa chí
nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của
Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới,
chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua
được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm
tạ".
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm
năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp
nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con
người thành tâm thiện chí " Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới
thế cho người Chúa thương ". Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn
được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh
phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người
luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và
không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa
và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi
người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng
suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh
cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng
con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con
nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại,
cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi
mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
44. Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt
6, 25-34)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con
người là hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên
trần thế có thể so ví với con người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy
biết phán đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình.
Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng,
quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con
người. Chính vì thế, Chúa nói:"...Cha trên trời thừa biết anh em cần những
gì?...".
CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM:
Nghĩ cũng nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì
mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo,
bạc, tiền vv...Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao
lại như vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên,
đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói:" Đừng lo ".
Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài
đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa
đó. Con chịm se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng
vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những
kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ
của Thiên Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn
hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách
thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý
rằng:" Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường
nào!...Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về
Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.Amen. "(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13
có câu:" Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra
tay". Chúa bảo" đừng lo", không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười
biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này.
Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười
biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói:" Không làm việc thì đừng
ăn...". Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để
suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian
và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng
chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa
để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống...Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm
sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv...Con người Chúa
luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá
đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng " Hãy lấy Chúa làm niềm vui...Người
sẽ cho được phỉ chí toại lòng"(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo
đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết:" Anh em đừng lo lắng gì cả...".
Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm
những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ,
hoa lá vv... ngắm lại chính bản thân của mình: " Con người là hình ảnh của
Thiên Chúa Giavê". Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự
sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự
phó thác luôn là cần thiết của mọi người...
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác
vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.
45. Nước Thiên Chúa và sự công chính của
Người
(Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Năm mới đang đến, mở ra một giai đoạn mới của
cuộc sống. Và ở thời khắc linh thiêng này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng
ta qua Tin Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút suy niệm về lời được công bố ấy,
tưởng cũng là điều rất cần thiết cho chúng ta lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm
hồn mình lắng đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt 6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện
với những vấn đề của cuộc sống
Những của cải trần gian có thể chiếm trọn trái
tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người.
Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải
đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc... Các
thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta
không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì
khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự
tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với
của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan
này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất
của bài tin mừng hôm nay (cc.25-32) trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức
Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn
sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn
lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho
chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ
quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không
gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh
cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại
chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả
và hằng ấu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư
đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm
được dù chỉ một gang không? (c.27). Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực
tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên
Chúa đã ấn định.
Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng
làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng
những dự phóng tương lai... Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được
thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng,
mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho
con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể
xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của
cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải
chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái
quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống
trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta
càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về
những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước
Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự "không lo lắng" của chúng ta, như
vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay
trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự
"không lo lắng" đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên
Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu
thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt 6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống:
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức
Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng
ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi
hỏi những hoạt động của chúng ta: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người.
Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn
toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó.
Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ
mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân
nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông
vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng
của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về
Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính
đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với
thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất
cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động
để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho
chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của
cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối
bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta,
ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của
chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu
với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta
hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật
ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: "Ngày nào có cái
khổ của ngày ấy" (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất
khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì
những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả
phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của
Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những
mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Ngày Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc
sống bình an và hạnh phúc, bởi biết rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của
các thực tại thế tạm. Nhưng lời Chúa nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối
tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm,
Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để
cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống,
hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào
Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của
cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: "Cha anh em trên trời thừa
biết anh em cần tất cả những thứ đó" (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc
vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người
bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì
chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc
sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực.
"Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người"
(Mt 5,33).
46. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34)
(Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam
hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm
thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn
tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày
nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi
bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời
giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại
cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm,
thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ,
cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau
hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây
phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây
phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút
linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta
cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay
làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch,
đạch... đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG... ĐÙNG... Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt
pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có
người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế,
là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là
Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa
nắng, sóng gió, bão táp... như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ
tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng
đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa.
Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc
thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội
cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa.
Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc
cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn!
Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về
Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy
trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại
với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời
Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy
được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối
Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng
hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được
Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể
hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa
đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha
ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo
thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho
uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc
thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ
trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm
vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối
thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch
1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong
vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức
Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia
nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là
sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén
vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc
cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn
diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ
vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho
dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện
xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện
xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn
kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như
ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi
mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì
cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna
cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa,
mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó
phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến
Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình
cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra
tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến
cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được
thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc
lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn
cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm,
những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như
việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành
thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta
không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối
tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết,
của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban
trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc
rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng
con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
47. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa xuân đang đến với quê hương, gia đình và
mỗi tâm hồn.
Mùa xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và
hy vọng.
Mùa xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương
trời, gió xuân, hoa thắm.
Mùa xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho
con người.
Vâng, tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn
trào hương xuân trong ngày đầu năm mới với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta
chúc nhau năm mới an khang hạnh phúc, an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an
lành thánh đức... Những lời cầu chúc thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện
ước sâu xa của cõi lòng con người. Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của
cuộc sống, chúng ta mong ước được an bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại,
từ mối tương giao thân tình giữa người với người đến sự hòa hợp thích ứng với
thiên nhiên và các tạo vật.
Thế nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất
để chúng ta có được sự bình an đích thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời
được tìm thấy trong bài Tin Mừng mà Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới
hôm nay.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi
chúng ta hãy tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm
vào những nhu cầu của cuộc sống thực tại, vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng
ta tất cả. Điều quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu
tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.c.33). Đó là thái
độ mà chúng ta cần kiên quyết thực hiện ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước
Thiên Chúa và sự công chính của Người chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để
chúng ta có được sự bình an như lòng mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình
Thế Giới năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô cũng xác nhận: "Một xã hội được
hòa giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa bình hơn... Hòa bình là kết quả của
một tiến trình thanh tẩy..." (số 15).
Quả thật, sự bình an đích thực mà chúng ta
đang khát khao chính là việc thiết lập được mối tương giao thuận thảo giữa
chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên
tâm hồn chúng ta còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ
trong Chúa (thánh Augustin). Thánh nhân đã nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi
thẳm sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta. Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng
ta mới có được sự bình an đích thực. Chính sự an bình tràn ngập tình yêu thương
này, khiến chúng ta luôn luôn muốn sống thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm
sâu với Ngài trong tình yêu, chu toàn thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm
giới thiệu Chúa cho người khác, mong cho Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi
nơi. Đây cũng chính là phần ưu tiên mà chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn
của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta
sẽ được tận hưởng một sự bình an vô hạn. Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc
niềm an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ
và bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng
nguyện cầu ơn bình an được tỏa lan đến khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn
bình an được chan hòa trên khắp miền quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện
quê hương được thái bình thịnh vượng, nhà nhà an hòa, người người an lòng, để
cùng chung tay xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được
sự bình an như lòng mong ước, chúng ta phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính
nguồn cội sự bình an. Xin Ngài thương ban tặng cho chúng ta niềm an bình và
hạnh phúc đích thực trong năm mới này.
Tuy nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi
bản thân của mỗi người, mà cần phải được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi.
Chúng ta cần trao tặng cho tha nhân sự bình an của Chúa qua thái độ biết quảng
đại tha thứ để sống yêu thương hơn, biết trân trọng người khác với những khả
năng và khác biệt nơi họ, biết ân cần quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt
tâm phục vụ với tất cả lòng từ tâm và nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi
khổ đau hay giới hạn của người khác... Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa
đang ngỏ lời với chúng ta, đang mong chờ một vòng tay yêu thương rộng mở của
chúng ta để đón nhận, để sẻ chia cho những tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân
thương của Ngài. Những hiện thân ấy đang ở chung quanh chúng ta, bên lề đường,
trong những túp lều ẩm thấp, trong những cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong
những mái nhà xiêu vẹo vắng bóng tiếng cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo...
Chúng ta cần đáp trả thế nào trước tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó
chính là tiếng kêu gào của một vị Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê
hương này, ngay trong mùa xuân này.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho
chúng con một mùa xuân an bình hạnh phúc. Quê hương con giờ đây không còn chiến
tranh, không còn bạo lực, chúng con được thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa
xuân an bình trên quê hương dấu yêu. Thế nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên
ngoài thì bình an thư thái, nhưng bên trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người,
của xã hội, thì cũng còn đầy dẫy những kiểu "chiến tranh không đổ
máu". Từ những lối sống ích kỷ, thụ hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi
những thái độ gian dối lừa lọc, cư xử bất công, hành xử đầy tính cách bạo
lực... đã tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa người với người. Để rồi còn tìm
đâu ra sự bình an trong những cảnh tượng như thế? Một điều làm cho Chúa đau
lòng hơn cả là từ nội tâm con người đã tự nguyện giết chết sự bình an của một
lương tâm trong sáng, khi sẵn sàng ngăn cản sự ra đời của một thai nhi bé bỏng
vô tội. Thật xót xa cho Chúa khi từng ngày và mỗi phút giây trên quê hương con,
hàng chục thai nhi bị giết chết mà không kịp tận hưởng một chút hương vị mùa
xuân cuộc đời.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh
tân đổi mới tâm hồn chúng con, đặc biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm
mới này, mọi người đều biết duy trì được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà
Chúa đã ban tặng.
Xin cho mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và
sự an bình cho mọi tâm hồn, nhất là những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho mùa xuân này là lời động viên, nhắc
nhở hay cảnh báo cho tất cả mọi người, để cùng với ơn thánh, chúng con luôn
biết nỗ lực sống yêu thương và an bình trong tình Chúa và tình người chân
thành. Amen.
48. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm
mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn
của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất
hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian,
thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt
trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt
trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy
trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường
xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không
trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong
dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào
vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi
sự như ý...
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp
trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết
cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ
từ là Đức Chúa:
"Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh
em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em
và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban
bình an cho anh em."
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe,
sống lâu, an ninh, thịnh vượng...
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành
cho dân Israel (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ
để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta
nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi
nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước
mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình
quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người
không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần
nhắc chúng ta "Đừng lo."
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ
tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm
đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng
lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân
thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên
cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc
đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
49. Cầu bình an trong năm mới
SUY NIỆM
Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc
"tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày
cầu bình an?" Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những
điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi:
Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì
đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc
giải quyết những vấn nạn này không?
Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa
hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều
tốt lành khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. "Thầy bảo
cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân
thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng
hơn áo mặc sao?".
Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng
ta thường lo cho mình "của ăn, áo mặc", mà cái lo này thường làm cho
chúng ta quên đi cái chính yếu mình đang có đó là "mạng sống và thân
thể". Chúa nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao
cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không
kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm cũng không muộn... mạng sống của chúng
ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì
Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy,
một món quà quý giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn.
Chúng ta không can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ
có thể giúp mạng sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao
tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm
tổn hại cái chính mà mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu
lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng
cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết
sức bấp bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh
xã hội không được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng
bố diễn ra khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất
bình an và luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ
và sắp xếp tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm
ảnh hưởng đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng ta là những người đã dám tin vào vào
quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử
khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì "Cha anh em trên trời thừa biết anh
em cần tất cả những thứ đó". Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa,
nhưng là cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì
tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy điều đem lại bình an là vui với những
hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận
gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những
dòng nước mát, những người thân yêu và tình bằng hữu... Và điều làm mất bình an
là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái
phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà
đánh mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho
chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình
an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu
xin bình an trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều
chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề
bộn và lo toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của
Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự
hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn
mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử
thách từ ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con
gây ra cho chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra
được hướng giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết
đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương
quan phòng của Chúa luôn.
Amen
50. Bình An - Quà Tặng Năm Mới
(J.B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho
chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và
cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời
sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ
cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con
người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời
được tận hưởng một thế giới an bình.
1. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ
tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn
loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng
tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước
từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu
dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân
loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại
tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một
Người là Đức Giêsu Kitô.
"Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch
bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác
anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ
thực hiện điều đó" (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành
toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới
của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của
Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
"Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều
khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi
đến hưởng ơn bình an đó" (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù
phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là
cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang
lại.
"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban
cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.
Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi" (Ga 14, 27).
2. Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi
tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình
an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự
bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ
của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu
Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn
toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình
An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới
hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp
ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá
nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con
người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta
nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt
trên tình thương...
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu
xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người...
3. Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN- Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta
trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà
hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những
tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có
ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện
chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an
bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau
nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp
nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho
chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống
luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã
hội công bình, yêu thương.
"Trên hết mọi đức tính, anh em phải có
lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl 3, 14).
51. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
(ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào
đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ
búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha
thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi
người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là
những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết
Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình
trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một
điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn
những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày
hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời
sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết
đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân
nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận
lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa
là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành
nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món
quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng
ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ
cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức
được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi
những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời
cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà
cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình
thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để
làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất
cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt
trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho
gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời
thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng
cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho
đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy
mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự
khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên
nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà
mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời,
của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc
đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận
một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng
giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều
rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong
những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới.
Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến
cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống,
đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết
mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa
cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên
chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ
rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành
Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần
ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá
Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc
sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những
có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải
biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm
tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía
cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua
mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một
hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu
mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa.
Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ
trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với
quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những
phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân
tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân
Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao
giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
52. Một năm mới tốt đẹp
I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18.
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi
Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian,
chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian
nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ
để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn
trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ
niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta.
Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui
của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều
hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những
điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.
Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào
năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng
lo, đó là sống công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa
là thực thi công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi
người. Có được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo
mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là
những cái được "thêm cho" mà thôi.
II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới
vì quả đất tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn
đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát,
xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách
cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi
bóng tối để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên
năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là
"Năm Mới" mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm
nay là năm mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là
mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.
Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn
khác không giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng
ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo
xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề
này khi ông nói: "Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại
"thời thanh xuân" của con người nguyên thủy".
Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị
vật dục làm hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả
của chúng ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới
được vào Nước Trời (x. Mt 19,13-15).
III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi
và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì? Người ta
thường chúc nhau một : Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu
chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ
là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ:
PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được
tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi
sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc cho sống lâu.
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ
sống thật lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao
người ta thường nói:"đa thọ, đa nhục" hoặc thành ngữ có câu:"Trẻ
khôn qua, già lú lại". Đã "lú lại" sẽ bị con trẻ chê bai! Đã
"lú lại" tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông
già bà cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già
nào nói: mình được hạnh phúc trong tuổi già.
Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới
thấm thía câu ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa... một mình.
Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự
nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ
đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc cho giầu có.
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ
làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc
nhau:"Nhất bản vạn lợi" hay "Một vốn bốn lời":
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu
có đến đâu là đã thỏa mãn? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng
tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước?.
Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà không được.
Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần
thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông
chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và
có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không?
Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu
có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị,
trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố:"Tôi đã mong dùng tất cả gia tài
của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công.
Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy".
Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một
phóng viên là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.
Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận:
tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà
con với nỗi bất hạnh.
3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi
người ca tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng
trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.
Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người
ta được hạnh phúc không? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole
France là một người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ
khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận rằng: "Nếu anh có thể đọc được trong
tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng
tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng
cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một ngày".
Còn một chứng từ khác của một người còn sang
hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn
tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc
Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
- ?
- Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài
tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn
bạc.
- Thế thì tất cả những công danh của cô xưa
rầy là mây, là khói hay sao?
- Phải! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi
bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải! Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu,
giầu có, được vinh sang... thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm
nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần
Tế Xương một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Câu chúc của thi sĩ "Sao được cho ra cái
giống người" xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái
nhìn của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène
ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì
đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành
phố mà phải đi tìm? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người
đúng nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng "linh
ư vạn vật" kia!
Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con
người đúng nghĩa, phải "linh ư vạn vật " mới được.
Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta,
thời gian được ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta "làm
người" và "làm con Chúa". Chúng ta không tự nhiên là người hay
là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có
"làm" và có "làm" được hay không. Hạt giống không tự nhiên
có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng
trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng
vậy, chúng ta là những cái "nhân" được gieo cấy trong ruộng đồng là
thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng
tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa
cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là
Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa là "Abba, Cha ơi" (Mc 14,36),
và chúng ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với
con người hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật,
Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng
săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng
quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào
Chúa quan phòng.
Có một điều khác biệt nơi người tin và người
không tin là người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị
trần gian (trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng
lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và
hạnh phúc.
Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em
một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy:"Tiên vàn hãy
lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả
những thứ khác, Người sẽ thêm cho"(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây
là sống Tám mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt
5,3-12).
53. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng
(Lm Giuse Nguyễn Văn Thành)
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng
ta. Người người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi
nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo
của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua
nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức
sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng
năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu
Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự
vận động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được
thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với
chúng ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả
về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở
thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn
eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là "no ba ngày Tết, đói ba tháng
hè". Cho dù thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba
ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt,
chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ....
Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng
liêng, nên trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng
sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và
đón Tết với tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc.
Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải
được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống
dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong
sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
"Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi".
(Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu
mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người
con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống
vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào
những tệ nạn xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn
được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê
hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn
để họ cũng được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
Sưu tầm
MỒNG BA: Mt 25,14-30
hoặc Ga 5,16-20
1. Chúa thánh hoá công ăn việc làm
2. Mưu sự tại nhân - Thành sự tại Thiên
3. Mùng ba ra mắt
4. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa
5. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)
6. Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt 25,14-30)
7. "Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì"
8. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)
9. Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30)
10. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)
11. Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt 25,14-30)
12. Suy niệm Lời Chúa
13. Suy niệm Lời Chúa
14. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)
15. Thánh hóa công việc làm
16. Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30)
1. Chúa thánh hoá công ăn việc làm
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Những ngày tết là những ngày vui chơi, nghỉ
ngơi, giãn xả về mặt thể xác, nhưng Giáo Hội là người Mẹ luôn khôn ngoan hướng
con người nhìn xa thấy rộng hơn, thể xác thảnh thơi đôi chút sau những ngày
tháng làm việc vất vả, Giáo Hội hôm nay muốn nhắc nhớ mọi người phải hướng về
Đấng tối cao, hướng về Thiên Chúa vì Ngài là Đấng có quyền ban phát mọi sự. Mưu
sự tại nhân, thành sự tại Thiên, câu tục ngữ của Pháp quả mang một ý nghĩa thâm
sâu, cao vời. Hội Thánh Việt Nam dành ngày mồng ba tết để cầu xin Chúa thánh
hoá công ăn việc làm.
LAO ĐỘNG LÀ LẼ SỐNG CỦA CON NGƯỜI:
Được Thiên Chúa tạo dựng, con người sống trong
cảnh địa đàng hạnh phúc, huy hoàng và êm đềm không vất vả. Tuy nhiên, khi ông
bà nguyên tổ phạm tội, con người mất hạnh phúc địa đàng trần gian, Thiên Chúa
đuổi ông bà tổ tiên ra khỏi vườn Éđen và bắt đầu một cuộc sống trần thế với bao
truân chuyên, thử thách, vất vả vì tội lỗi ông bà tổ tiên gây ra. Tuy nhiên
Chúa không bỏ rơi nhân loại, con người mà đã sai Con của Người là Đức Giêsu
Kitô đến để mang lại cho cuộc đời trần thế một ý nghĩa mới, biến công ăn việc
làm trở nên có ý nghĩa cứu rỗi vì nó không còn là lời nguyền rủa mà là hạnh
phúc khi con người biết làm ra của cải để mang lại giầu sang, phú quí và hạnh
phúc cho cuộc sống, miễn là con người biết làm theo ý Thiên Chúa. Vì thế, trong
ngày mồng ba tết, thánh Matthêu đã thuật lại dụ ngôn của Chúa Giêsu về các nén
bạc Chúa trao cho mỗi người tùy theo khả năng, mức độ và trí tuệ mà họ được
nhận lãnh, miễn là họ biết sinh lợi theo ý của ông chủ, và không lười biếng,
ngồi chờ sung rụng...Chúa muốn mỗi con người dù trí thức, lao động bình thường:
chân tay, trí óc đều phải sinh lợi theo mức độ khả năng Chúa trao cho.
XIN CHÚA THÁNH HÓA VIỆC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĂN
VIỆC LÀM CỦA MỖI NGƯỜI:
Để được Chúa thánh hóa công ăn việc làm, con
người phải biết tùy theo khả năng siêng năng, lanh lẹ làm cho của cải sinh hoa
kết quả tốt. Con người phải hiểu rằng Chúa đến trong thế giới, nhận một gia
đình để được sinh ra và để sống là vì Chúa đem lại cho lao động, cho cuộc sống
một giá trị, một ý nghĩa hoàn toàn mới. Chúa nâng đời sống lao động và thánh
hoá đời sống lao động, Chúa làm gương về đời sống phục vụ, mỗi giọt mồ hôi, mỗi
sự mệt mỏi trong lao động của Chúa Giêsu đều mặc một giá trị cứu rỗi.Con người
luôn phải ý thức lời Kinh Thánh viết, hướng dẫn và chỉ bảo:" Bao lâu trái
đất này còn, còn gieo còn gặt, còn vun còn trồng; bốn mùa xuân hạ thu đông,
ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên" hoặc: " bốn mùa Chúa đổ
hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi" (Tv 64, 2).
Mồng ba tết xin Chúa thánh hóa công ăn việc
làm, chúng ta mỗi người tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta người năm nén,
người hai nén, người một nén. Tất cả đều do hồng ân Chúa. Xin Chúa giúp chúng
ta biết làm lợi cho Chúa, cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Làm biếng,
chơi bời lêu lổng không chịu lao động để sinh lợi theo khả năng Chúa ban là lỗi
với Chúa và đáng Chúa khiển trách:" Hỡi tôi tớ lười biếng...".
Lạy Chúa, chúa đã muốn cho con người phải lao
động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để
công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương
ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của
Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hoá công ăn việc làm).
2. Mưu sự tại nhân - Thành sự tại Thiên
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời. Tin
ông Trời. Cầu khẩn ông Trời. ông Trời trở thành một thần linh luôn đồng hành
với con người qua mọi thăng trầm. Tuy không rõ Ông Trời thế nào nhưng không ai
lại không kính Trời. Ai cũng sợ Trời và cố gắng làm vui lòng Trời. Vì ông trời
làm chủ vận mệnh muôn loài. Ông Trời quyền phép vô cùng. Thế nên,
Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên.
Trời cho ai nấy hưởng
Sống nhờ ơn Trời – Chết về chầu Trời.
Khi làm ăn mùa màng không được như ý thì người
ta cầu trời:
"Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp"
Làn mưa từ Trời sẽ mang lại niềm vui cho công
việc, cho cuộc sống con người:
"Nhờ Trời mưa thuận gió hoà
Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau
Người Việt cũng luôn tin vào Trời rất công
bình, hoạ phúc công minh; Ông Trời như một ông chủ luôn thưởng phạt công minh:
"Trời nào có phụ ai đâu
Hay
làm thì giầu, có chí thì nên"
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó
công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài
điều khiển mọi loài. Ngài là Đấng cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ.
Ngài là Đấng ban lại cho chúng ta sự thành công trong công việc mà thánh vương
Đa-vít đã từng nói: "Nếu Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng
công".
Lịch sử nhân loại đã từng chứng minh có biết
bao công trình mà không có bàn tay Thiên Chúa, hay cố tình loại trừ Thiên Chúa
sẽ khó hoàn thành, đôi khi còn bị huỷ diệt.
Đó chính là sự kiện xây tháp Babel. Con người
đã từng không chấp nhận thua Thiên Chúa. Họ muốn chống lại Thiên Chúa nên hợp
lực với nhau để xây tháp tới Trời. Thế nhưng, lực bất tòng tâm. Công trình của
họ đã bị dang dở. Họ chia rẽ nhau ngay khi công việc còn dở dang.
Gần đây nhất là sự kiện con tàu Titalic. Con
tàu của sự kiêu hãnh của con người có thể chống lại phong ba bão tố. Người ta
tưởng rằng với sự văn minh của nhân loại, người ta không cần ơn Trời vẫn có thể
đi biển bình yên. Thế nhưng, con tàu đó đã bị chìm xuống đại dương cùng với sự
ngạo nghễ của con người khi đâm vào một tảng đá ngầm mà không ai học được
"chữ ngờ".
Thế nên, việc cầu Trời, khấn trời dù ở khung
trời văn minh hay chốn hồng hoang vẫn là cần thiết. Con người luôn bất lực
trước sức mạnh của thiên nhiên. Con người như cảm thấy mình quả nhở bé so với
vạn vật được tạo thành. Sự khiêm tốn đòi hỏi con người phải cần đến Đấng Tạo
Thành, cầu xin Đấng Tạo, Khấn vái Đấng Tạo Thành. Sự khiêm tốn để nhìn nhận
những gì mình có không phải do tài năng của mình, không phải do mưu trí của
mình mà có mà là do ân ban của Thiên Chúa.
Tất cả là hồng ân. Thiên Chúa luôn tưới gội
hồng ân của Ngài xuống trên con người. Thiên Chúa luôn làm biết bao việc kỳ
diệu cho con người. Con người chỉ là loài thụ tạo được thừa hưởng muôn ơn lộc
Chúa ban mà thôi.
Hôm nay, ngày xin ơn thánh hoá công ăn việc
làm. Chúng ta dâng lên Chúa những ưu tư hoài bão của chúng ta lên Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho một năm "mưa thuận gió hòa", mùa màng
trĩu hạt. Xin Chúa là Đấng quyền năng chúc lành cho công việc của chúng ta từ
khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen
3. Mùng ba ra mắt
(Lm Giuse Đinh lập Liễm)
I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT
Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày
Tết. Ba ngày này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một
công việc. Công việc ba ngày Tết là:
Mùng một tết cha,
Mùng hai tết mẹ,
Mùng ba tết thầy.
Tại sao lại chia ra như vậy? Vì muốn cho ba
ngày tết có đầy đủ ý nghĩa:
Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh
thiêng nhất nên ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng
tuổi và chúc tụng họ hàng.
Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên
ngoại, cố thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày
Tết nhất.
Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng
dục, còn việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do
đó, ngày mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy
nghề). Họ mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện
văn chương hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ
ích.
Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung
cho kịp trong ba ngày Tết, nếu để "ra ngoài ngày" (tức từ mùng bốn
trở đi) sẽ giảm mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho
nên người ta cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo,
vừa cũng để tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống "Mùng một tết cha,
mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy", nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba
ngày Tết đều nhất thiết phải hẹn trước.
(Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr
135-136)
II. MÙNG BA RA MẮT
Do "Mùng Ba tết Thầy" nên ngày này
cũng là ngày ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.
Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ
nghề ra khởi động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà
nông thì mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm
động thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ
thầy cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để "gọi là". Nói chung, mọi
công việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và
Tiên sư hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn
thờ các ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không
tắt, hoa trái lúc nào cũng đầy ắp.
Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết.
Nhà giầu ăn tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ
khai trương sớm (Sđd, tr 137-138).
III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN
Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành
cùng dân tộc cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá
dân tộc. Nếu "Mùng Ba ra mắt", các người thợ trình diện với Tổ sư
ngành nghề của mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn
dành ngày mùng ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên
Chúa công việc làm ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi
công việc của chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.
Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức
Chúa Trời đã dựng nên loài người "giống hình ảnh Ngài" (St 1,26). Các
nhà chú giải Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh
và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn
vật:"Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển,
chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu"
(St 1,26).
Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần
hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại:"cộng tác vào việc sáng tạo"
của Thiên Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương
liên mật thiết.
E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố:
"Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối
của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào
Thiên Chúa sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài
người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương
trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời"(Die wertprobleme, tr 43; theo J.
Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 350).
Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng
Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta
có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ
nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng
là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể
góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết:
"Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên
Chúa... sản xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của
mình ra hành dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên
giống Thiên Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống "làm việc" tức
là hành động và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối... Thiên Chúa là nguyên nhân
đệ nhất tuyệt đối... người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm
cho những sự vật trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức
lực, tư tưởng, nhân vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung
thực của nguyên nhân tuyệt đối".
(J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr
63-64)
Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc
là góp phần sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:
"Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và
cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội
một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công
trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn
thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử" (Gaudium et Spes, bản dịch của
GHHV Piô X, Đà lạt).
Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình
sáng tạo của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì
"nhân linh ư vạn vật". Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không
sợ sai lầm:"LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG".
KẾT LUẬN
Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy
xin Chúa cho chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc
biệt trong thánh lễ này.
Trước hết, như bài Tin mừng thánh lễ hôm nay,
ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống,
sức khỏe, trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của
người đi trước, những nhu cầu phát triển của thời đại...
Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng đỡ tinh thần và
nghị lực để chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.
Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm
ăn của bản thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã
hội. Ai cũng có quyền được làm việc và quyền được chuẩn bị chu đáo để có việc
làm phù hợp với nguyện vọng và khả năng.
Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của
mình được Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực
tiễn lao động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã
trao cho loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.
4. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày Mồng Ba Tết, chúng ta dành để dâng lên
Chúa những dự định và tương lai của chúng ta. Chúng ta xác tín rằng mọi sự đều
nhờ ơn Chúa, vì "nếu Chúa không xây nhà thì thợ nề vất vả cũng bằng uổng
công".
Thực vậy, nhìn lại năm 2010 với biết bao thiên
tai giáng xuống địa cầu, cho chúng ta thấy con người thật nhỏ bé trước bao sóng
gió của thiên nhiên. Con người cần phải có ơn Chúa để gìn giữ, chúc lành cho
chúng ta một năm bình an.
Vâng, có thể nói năm 2010 đã vụt qua, nhưng đã
để lại nỗi hãi hùng cho con người với những trận thiên tai kinh thiên động địa
nhất.
Xin được lướt qua những thiệt hại về nhân mạng
cũng như vật chất:
1) Trận động đất 7 độ Richter ở Haiti xảy ra
ngày 24-01, đã giết chết 230,000 người, hơn 300,000 người bị thương và hơn một
triệu người màn trời chiếu đất. Đến nay, một năm sau, vẫn chưa hồi phục dù thế
giới đã đổ hàng tỷ đô-la vào xứ sở nghèo đói bệnh tật này.
2) Ngày 27-2, lại một trận động đất mạnh tới
8.8 độ Richter, đã xảy ra ở vùng duyên hải Chí Lợi (Chile), rung chuyển 6 tiểu
bang lớn và một phần của Á Căn Đình. Động đất kéo theo sóng thần, quét qua các
thị trấn ven biển, khiến 500 người thiệt mạng, hơn 200.000 người mất nhà cửa,
gây thiệt hại 30 tỷ đô.
3) Ngày 21-3, núi lửa ở Băng đảo (Iceland)
bỗng nhiên thức giấc sau 200 năm, phun bụi và khói ngập trời khiến hàng ngàn
người phải di tản. Thiên tai này đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động hàng không,
làm cho 100.000 chuyến bay của các nước Âu Châu bị hủy bỏ và 8 triệu hành khách
bị mắc kẹt ở các sân bay trong suốt 6 ngày, thiệt hại gần 2 tỷ đô-la.
4) Tháng Bảy, sau những trận mưa dai dẳng đã
gây ra lụt lội tại Pakistan. Trận mưa lụt này được coi là thiên tai lớn nhất
trong 100 năm tại Pakistan. Một phần năm (1/5) diện tích quốc gia này đã chìm
trong biển nước, hơn 2.000 người bị cướp đi sinh mạng. Con số này còn tăng cao
vì dịch bệnh, gây thiệt hại lên tới 10 tỷ đô-la, khiến ít nhất 9 triệu người,
trong đó phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.
5) Cũng vào tháng Bảy, nóng chưa từng có đã
kéo theo nạn cháy rừng nhiều nơi ở Nga. Bầu trời thủ đô Moscow bị bao phủ khói
đen, nhiều chuyến bay đã bị hủy bỏ. Hỏa hoạn và cháy rừng làm cho 50 người thiệt
mạng và 3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng là do mức
nhiệt độ lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua.
Đó là những trận thiên tai lớn đã xẩy ra trong
năm 2010, khiến thế giới phải lo ngại sẽ tạo thêm khủng hoảng tài chánh, vì hai
năm qua kinh tế thế giới đã gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết nổi. Các nhà
tiên tri cho rằng, năm 2010 chỉ là năm bắt đầu của những thiên tai, bệnh tật mà
nhân loại sẽ phải gánh chịu vào những năm kế tiếp.
Người Việt thì nói rằng: mỗi năm, làm ăn càng
ngày càng khó khăn hơn. Người đông của ít, khiến con người phải bon chen vật
lộn với cuộc sống nhiều hơn. Thêm vào đó lại thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc
nghiệt khiến ngành chăn nuôi, trồng cấy càng mong manh. Như dịch bệnh cùm gia
gia cầm, dịch tai xanh... tràn lan suốt năm qua.
Hôm nay, Ngày Đầu Năm, chúng ta hướng về Cha
trên trời, là Đấng làm chủ mọi loài, là Đấng quan phòng kỳ diệu, xin Chúa chúc
lành cho chúng ta một năm bình an hạnh phúc, một năm an khang thịnh vượng.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định tương tai
của chúng ta được thành toàn.
Chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo toan
vất vả của đời người.
Chúng ta hãy bước đi trong sự tín thác vào
tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân chúc lành cho
những ước nguyện đầu xuân của chúng ta. Amen
5. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,
14-30)
(Giuse Trần Công Thượng)
Kính thưa cộng đoàn,
Từ thuở khai thiên lập địa Thiên Chúa sáng tạo
con người và ủy thác cho con người nhiệm vụ cai trị trái đất. "Ngài đặt
con người vào vườn Eđen để cày cấy và canh giữ đất đai". (St 15,2) Như
vậy, Thiên Chúa gắn liền lao động với con người, coi lao động như một sứ vụ,
một tương lai. Con người tiếp tục công cuộc tạo dựng lưu truyền đời sống và
biến đổi thiên nhiên.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người,
giúp con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần, góp phần phát triển khoa
học, văn hóa và đạo đức. Vì vậy, lao động mang một ý nghĩa lớn đối với đời sống
con người.
Chính Đức Giêsu là một người lao động. Ngài
làm nghề thợ mộc tại làng Nazaret, một nghề tầm thường trong xã hội bấy giờ, để
dễ dàng gần gũi với người lao động nghèo. Tin Mừng của Ngài là "Tin Mừng
của lao động", vì người rao giảng Tin Mừng ấy chính là một người lao động.
ngài thuộc về thế giới lao động, ưa chuộng lao động, tôn trọng sự lao động của
con người. Trong lời giảng của Ngài ta thấy toát lên chân lý căn bản về vấn đề
lao động, một chân lý đã được diễn tả trong tất cả truyền thống, ngay từ sách
sáng thế. (X. Tông huấn Lao động của con người, của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô
II, ngày 14.9.1981). Các bài giảng của Ngài cũng thật gần gũi với người lao
động.
Gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu đã ảnh
hưởng tới các môn đệ theo Ngài, đặc biệt là thánh Phaolô. Thánh nhân không
ngừng nêu gương và khuyên nhủ các tín hữu về giá trị của lao động. Khi ngỏ lới
các kỳ mục ở Êphêsô, thánh Phaolô nói: "Chính anh em biết rõ: những gì cần
thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi
luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm
lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc
hơn là nhận." (Cv 20, 34-35). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, thánh
nhân khẳng định: "Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm
lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh
em"(2Tx 3,8) hay ngài chỉ thị "ai không chịu làm thì cũng đừng
ăn" (2Tx 3,10).
Tất cả chúng ta là những người lao động. Hằng
ngày chúng ta vẫn bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng, vất vả
trong các nhà máy, miệt mài với những trang sách, tất bật ngược xuôi ngoài chợ.
Đó là vinh dự cũng là một trách nhiệm Thiên Chúa trao cho chúng ta để cộng tác
với Ngài trong việc xây dựng thế giới này.
Hôm nay, mồng 3 Tết - những giây phút đầu tiên
của năm mới, Mẹ Giáo Hội dành cho con cái một ngày đặc biệt cầu xin Thiên Chúa
thánh hóa công ăn việc làm. Đây là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về sứ vụ
lao động của mỗi người, dâng lên Thiên Chúa thành quả lao động trong một năm
qua đồng thời có những quyết tâm cho năm mới.
Năm mới, chúng ta đưa ra bao nhiêu dự tính cho
công việc phải làm. Nhưng những dự tính đó có thành công hay không, chúng ta
không hoàn toàn quyết định. Quả thế, cổ nhân nói: "Mưu sự tại nhân, thành
sự tại thiên". Tuy nhiên, với niềm tin vào ơn Chúa giúp, chúng ta phải cố
gắng hết mình để chu toàn công việc.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các
môn đệ nghe dụ ngôn các nén bạc. Ông chủ đi xa, trao cho các đầy tớ những nén
bạc: người năm nén, người 2 nén, người một nén. Người thứ nhất và người thứ hai
đã cố gắng và hăng say làm việc để sinh lời cho ông chủ. Đó là những người có
tinh thần trách nhiệm: trách nhiệm với ông chủ và trách nhiệm với bản thân.
Người thứ ba thì ngược lại: vì lười biếng, nghi ngờ ông chủ nên anh đã chôn
giấu số bạc đã được giao, phụ lòng tin tưởng của ông chủ. Và kết quả, khi ông
chủ về, người thứ nhất và người thứ hai được vào hưởng niềm vui của chủ vì đã
trung tín, còn người thứ ba vì biếng nhác nên bị quăng ra chỗ tối tăm bên
ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta
điều gì trong ngày cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm hôm nay.
Thiên Chúa là chủ tể mọi loài mọi vật, con
chúng ta là những tôi tớ của Ngài. Ngài trao cho mỗi người chúng ta những nén
bạc là: đức tin, sức khỏe, tài năng, cơ hội, nghị lực, tiền của, ân nhân, nền
giáo dục...Mỗi người được trao những nén bạc khác nhau, kẻ nhiều người ít,
nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta phải cố gắng hết mình để sinh lời tùy theo cuộc
sống và hoàn cảnh của mỗi người. Chúng ta sử dụng tài năng, sức khỏe, tiền của,
cơ hội Chúa ban để làm việc và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản
thân, gia đình và xã hội hầu làm vinh danh Chúa và mang lại lợi ích cho tha
nhân.
Ngày đầu năm mới này, chúng ta ngẫm xem Chúa
trao cho mình bao nhiêu nén bạc. Dưới cái nhìn đức tin, có lẽ cuộc đời chúng ta
chìm ngập trong hồng ân của Chúa quan phòng và khôn ngoan. Ngài ban cho chúng
ta đủ điều kiện để làm tốt công việc phù hợp với khả năng của mình. Năm mới
này, chúng ta phải quyết tâm bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong
dụ ngôn, cố gắng làm việc tốt để sinh lời từ "nén bạc" Chúa trao.
Muốn vậy, chúng ta phải sử dụng những ơn riêng như lời khuyên của thánh Phêrô:
"Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ
kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn
trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục
vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh
Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô" (1Pr 4,10-11). Đồng thời chúng ta cũng
quyết tâm xóa bỏ tư tưởng biếng nhác, nghi ngờ của người đầy tớ thứ ba để luôn
làm việc theo tinh thần Tin Mừng. "Bất cứ làm việc gì, chúng ta làm tận
tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời, vì biết rằng chúng ta
sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người ".
(x.Cl 3,23-24)
Lạy Chúa Giêsu, khi ở trần gian, Chúa là một
người lao động để nêu gương nên thánh cho chúng con trong công việc lao động
thường ngày. Trong năm mới này, xin cho chúng con biết học nơi Chúa, luôn cố
gắng và siêng năng làm việc để những nén bạc Chúa trao không trở nên vô hiệu.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao người khổ công trên
đồng ruộng, tất bật trong các nhà máy, xuôi ngược trên thương trường mà không
đủ ăn, bao người lo lắng vì thiếu việc làm - trong giây phút đầu năm mới này,
xin chúc lành cho hoa màu ruộng đất, cho các phương tiện làm ăn, cho các công
việc chúng con đang làm và sẽ làm, hầu mong cuộc sống chúng con luôn hòa nhịp
với lời thánh vịnh:
"Bốn mùa Chúa đổ hồng ân
Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi".
(Tv 65,12).
6. Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt
25,14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày mồng ba tết mỗi năm, Hội Thánh luôn dành
riêng một ngày đầu năm để cầu nguyện xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm
của mọi người giữa lúc con người đang mải mê ăn tết, có khi quên cả mặt thiêng
liêng, đạo đức. Sở dĩ Hội Thánh dùng ngày mồng ba tết để cầu xin Thiên Chúa đổ
muôn ơn phúc xuống trên mùa màng bởi vì Hội thánh ý thức:" Làm bởi bay,
ban bởi Ta " (L'homme propose, Dieu dispose). Hội Thánh cũng nhắc nhở tấm
gương lao động của Thiên Chúa khi Ngài miệt mài sáng tạo vũ trụ, thế giới và
con người. Giáo Hội cũng cho ta thấy gương lao động của Chúa Giêsu ở Nagiarét
để chúng ta noi gương, bắt chước. Do đó, ngày mồng ba tết Giáo Hội dành riêng
để xin ơn thánh hóa công ăn việc làm là để dạy con người:" Không làm thì
đừng có ăn" như thánh Phaolô tông đồ đã viết.
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI ĐỂ CON NGƯỜI LAO
ĐỘNG LÀM RA CỦA CẢI: Tất cả ba bài đọc trong thánh lễ ngày mồng ba tết đều xoay
chung quanh việc lao động. Bài sách sáng thế cho thấy Thiên Chúa đặt con người
trong vườn Eden và dạy con người trồng trọt nghĩa là lao động để làm ra của
cải. Thiên Chúa muốn con người xây dựng thế giới, tô đẹp thế giới và làm cho
thế giới càng ngày càng trở nên phong phú, tươi xinh theo ý của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng nói về việc ông chủ trao cho đầy tớ các nén bạc để các đầy tớ làm
lợi ra những nén bạc khác, làm ra nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên lao động chắc chắn
đòi hỏi sự cố gắng của con người và nhiều khi làm cho con người mệt nhọc, nhưng
lao động quả thực mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống:
LAO ĐỘNG LÀ BÀI CẢM TẠ TRI ÂN: Nói đến lao
động là nói đế sự làm việc mà làm việc dù trí óc hay tay chân đều làm cho con
người mệt mỏi, đòi hỏi con người phải phấn đấu hy sinh, có khi phải đổ mồ hôi
sôi nước mắt mới có miếng cơm mà ăn, có cần cù lao động với óc sáng kiến, với
khả năng, với kỹ thuật mới mong có của ăn của để. Mặc dù như thế, nhưng lao
động vẫn là sự vinh quang bởi vì phải lao động mới tốt đẹp được, mới đem lại
cho con người sức sống. Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối
ngay, ca dao tục ngữ Việt Nam quả thực đã nói đến lý tưởng của lao động và đề
cao giá trị của lao động. Đối với người công giáo lao động là bài ca tình yêu
bất tận bởi vì con người làm nhưng chính Thiên Chúa định đoạt thành quả của
việc làm. Do đó, lao động nói theo ngôn ngữ nhà đạo là bài ca tình yêu, là lời
cảm tạ tri ân không ngừng bởi Thiên Chúa không ngừng lao động và Chúa Giêsu
cũng đã lao động không ngừng.
LAO ĐỘNG NÂNG CAO PHẨM GIÁ CON NGƯỜI: Con
người sẽ chẳng ra chi nếu không chịu làm việc. " Đừng ngồi chờ sung rụng
", vâng, Thiên Chúa đã lao động không ngừng, Chúa Giêsu cũng đã noi gương
Chúa cha làm việc không mệt mỏi. Do đó, con người cũng phải làm việc vì việc
làm do trí óc, do bàn tay con người sẽ nâng cao giá trị của con người và làm
cho việc làm có giá trị. " Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao
động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo,
để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân
tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo
của Chúa" (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Lao động
Chúa sẽ chúc lành nếu con người luôn hướng lao động theo ý Chúa:" Bốn mùa
Chúa đổ hồng ân. Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi " (Tv 64, 12) hoặc
" Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa
Xuân Hạ Thu Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên ".
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA GIẢI THOÁT, CỨU RỖI:
Kinh tiền tụng ngày mồng ba tết viết:" Chính Cha đã dựng nên con người
giống hình ảnh Cha và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Cha còn sai Con Một
giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu
độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương
cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp
phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước
Trời ngay tại trần thế ". Con người làm ra vật chất không chỉ để nuôi sống
mình nhưng còn để chia sẻ cho những kẻ khó nghèo và như thế của bố thí với ý
ngay lành sẽ có ý nghĩa cứu rỗi.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Con người được Chúa tạo
dựng để góp tay với Chúa làm cho vũ trụ, thế giới đẹp hơn, ấm hơn. Bởi vì, khi
làm ra của cải, con người tạo được no ấm và hạnh phúc cho mình, cho gia đình
mình. Nhưng còn hơn thế, con người biết nghĩ đến kẻ khác nhờ đó họ sẽ làm cho
của cải có giá trị đẹp và có tính cứu rỗi. Chính vì thế, giầu quý thực nhưng
nếu không biết chia sẻ cho những người nghèo thì lời của Chúa:" Con lạc đà
chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào được nước Thiên Chúa " quả
thực sẽ là lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với những con người ích kỷ, bo bo giữ của mà
không biết sẻ chia cho những người bé nhỏ, khó nghèo.
Lạy Chúa, nhân dịp đầu xuân, cộng đoàn chúng
con dâng lên Chúa lễ phẩm này, cùng với mọi công việc chúng con sẽ làm trong
năm mới.Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và cho chúng con được cộng tác với Con
Một Chúa, để thực hiện công trình cứu độ của Người.Amen.
7. "Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì"
(Lm Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như
sau:
Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống
trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để gieo xuống trần gian.
Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc
bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi
thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi
mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt
giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các
thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được.
Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn
áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần
gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên
Ngọc Hoàng mới đày vị thần này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người
trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng
phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa
thoát kiếp trở về thiên đường.
Câu chuyện này phải chăng muốn dạy chúng ta:
"Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta". Vì ở trần
gian, cỏ thì nhiều, lúa thì ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì
nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người làm lụng vất vả mới có mà
ăn, còn vật thì không cần làm mà trời vẫn cho ăn.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo hội mời gọi
chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta xin Chúa ban cho
một năm "thuận buồm xuôi gió". Chúng ta xin Chúa chúc lành cho công
việc chúng ta được mọi sự như ý, ân phước dư đầy. Chúng ta tự ý thức sự nhỏ bé,
giới hạn của con người trước biết bao công việc mưu sinh hằng ngày. Chúng ta
cần ơn ban của trời cao. Chúng ta xác tín như người xưa đã xác tín vào trời:
"Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên". Đó là thái độ khiêm tốn cần
có của con người trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó
dâng trong tay Thiên Chúa. Tổ tiên chúng ta xưa cũng từng làm như thế. Không
phải vì lạc hậu. Không phải vì thiếu ý thức khoa học mới tin vào Trời, nhưng vì
cảm nghiệm sự nhỏ bé của con người trước sự lớn lao của Trời:
"Đèn Trời đèn sáng bốn phương
Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi".
Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về
lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên
con người:
"Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giầu, có chí thì nên".
Biết được lòng trời rộng rãi bao la. Tổ tiên
xưa còn biết lợi dụng mưa nắng phải thì của Trời mà trồng cấy:
Trời nắng tốt dưa
Trời mưa tốt lúa.
Nhất là biết cầu khẩn cùng Trời cho một năm:
"Nhờ trời mưa gió thuận hoà
Nào cầy nào cấy trẻ gia đua nhau"
Thực vậy, cuộc sống mưu sinh thật khó khăn.
Nếu không có ơn trời thì công việc chúng ta cũng tựa như "dã tràng xe cát
biển đông". Nhìn lại một năm qua, chúng ta thấy thật rõ điều đó. Việc làm
ăn mỗi ngày một khó. Không chì là do suy thoái kinh tế toàn cầu, mà quan yếu
còn do thiên tai lũ lụt hoành hành. Ở Việt Nam ngay từ đầu năm Mậu Tý đã xảy ra
rét đậm, rét hại khiến hàng ngàn trâu bò bị chết, hàng ngàn hecta hoa màu không
thể đơm bông kết trái. Rồi thiên tai lũ lụt trong năm đã phá huỷ biết bao ruộng
lúa, vườn rau. Nhiều người nói rằng: năm nay làm ăn không chỉ trắng tay mà con
nợ nần chồng chất. Cuộc sống vốn dĩ đã khổ lại khổ thêm do không gặp thời vận
của Trời ban.
Đó là lý do mà hôm nay chúng ta cùng nhau dâng
lên Thiên Chúa công việc và dự định của chúng ta trong năm nay. Chúng ta trao
gởi công việc chúng ta cho Thiên Chúa. Xin Chúa chúc phúc và thánh hoa công
việc chúng ta được mọi sự như ý. Chúng ta xác tín rằng: "Nếu Chúa không
xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công". Xin Chúa thương đón nhận
những ước nguyện đầu năm chân thành của chúng ta. Amen
8. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,
14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Bao lâu trái đất này còn,
Còn gieo còn gặt còn vun còn trồng;
Bốn mùa xuân hạ thu đông,
Ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên (St
8, 22).
Hằng năm Giáo Hội không ngừng dùng ngày mồng
ba tết để cầu xin cho công ăn việc làm, xin Chúa thánh hóa công việc của mỗi
người,đặc biệt xin " Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ". Có người
nghĩ rằng công việc là do bàn tay lao động của mình. Trí óc là do khả năng tích
lũy của mình. Đất đai tự nó tốt, tự nó có mầu có mỡ. Không, Giáo Hội là người
Mẹ hiền luôn nhìn thấy những gì do mình, điều gì do Chúa. Chính vì vậy, giữa
bôn ba của cuộc đời, giữa những ngày vui chơi ăn tết, con người vì vẻ bề ngoài,
vì lao mình vào các thú vui, vì say xưa chè chén, họ sao nhãng việc thiêng
liêng, quên đi " Làm bởi bay, ban bởi Ta ". Chính vì thế, Giáo Hội
dành ngày mồng ba tết để xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và
xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Thánh Phaolô đã viết một câu mạnh mẽ nhưng
hoàn toàn hợp lý:" Không làm việc thì đừng ăn ", na ná như câu:"
Đừng nằm chờ sung rụng "...
THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN ĐỂ
NÊU GƯƠNG LAO ĐỘNG CHO CON NGƯỜI: Khi tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người,
Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đàng và cho con người hưởng dùng mọi
vật Ngài tạo dựng nên. Tuy nhiên, khi Ông bà Ađam và Evà phạm tội, Ông bà phải
lao động cực nhọc, vất vả mới có của ăn để nuôi thân và nuôi con cái. Lao động
bắt đầu từ khi con người sa ngã, ngang nhiên chống lại Chúa. Lao động vất vả
nhưng luôn có giá trị bởi vì không có Chúa, con người dù có làm mấy đi nữa cũng
không mang lại hiệu quả bao nhiêu...
Khi Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô được sai
đến trần gian qua cung lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa
Thánh Thần. Chúa Giêsu lớn lên ở Nagiarét, Ngài đem lại cho lao động một ý
nghĩa cao vời. Chúa lao động để nêu gương cho nhân loại bởi vì lao động mang
lại ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống con người. Một ngày Chúa trao ban cho mỗi
người 24 tiếng đồng hồ để con người như nhau nhưng tùy khả năng, tài trí làm
lợi cho Chúa, cho Giáo Hội, cho bản thân, cho tha nhân. Chúa Giêsu đã cùng
thánh cả Giuse và mẹ Maria lao động để mang lại cho lao động ý nghĩa cứu rỗi.
CON NGƯỜI LUÔN PHẢI LAO ĐỘNG: Dù làm việc bằng
chân tay, hay làm việc bằng trí óc, mọi người đều phải làm việc. Chúa Giêsu đã
nói:" Cha Ta làm việc, Ta cũng làm việc không ngừng ". Chắc chắn, ở
Nagiarét, Chúa Giêsu có lúc cũng đã phải đổ mồ hôi, mệt nhọc, vất vả vì lao
động. Tuy nhiên, gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã lao động với
tất cả tình yêu, với tất cả niềm tin và đem lại cho lao động một ý nghĩa tôn
giáo tuyệt vời. Khi Chúa làm việc lao động, Ngài muốn chúng ta hãy luôn kết hợp
với Ngài, như Ngài luôn kết hợp với chúng ta. Ai luôn kết hợp với Ngài, Chúa
luôn kết hợp với người ấy, thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào (Ga 15, 45b).
Con người noi gương Chúa luôn phải lao động không ngừng vì theo thánh Phaolô
dạy:" Không làm việc thì đừng có ăn ".Câu nói xem ra mạnh mẽ đấy,
nhưng quả thực không lao đ8ộng làm sao có lương thực để nuôi thân, có của cải
để độ trì. Do đó, bất cứ ai đã sinh ra ở trần gian muốn tồn tại phải làm việc
hoặc bằng trí óc hoặc bằng chân tay.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA CỨU RỖI: Khi nhìn vào
gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, ai cũng hiểu rất rõ dù Chúa Giêsu
là Thiên Chúa, Ngài đã làm người, nên Ngài làm việc không ngừng. Thánh Giuse
lao động để nuôi gia đình. Mẹ Maria làm việc nội trợ để tạo nên hạnh phúc gia
đình. Cả gia dình thánh đã làm việc để nâng lao động lên tầm cao mới, nghĩa là
làm cho lao động có một ý nghĩa cứu độ.Chính Thiên Chúa đã nêu gương lao động
cho con người. Do đó, con người làm việc không chỉ để nuôi sống bản thân mình
mà còn góp tay vào công trình cứu độ nhân loại...Thực tế, Thiên Chúa đã tạo
dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và giao cho con người trông coi vũ trụ,
tô đẹp vũ trụ.Lao động và tín thác nơi Chúa vì chính Chúa là mục tử chăn dắt
chúng ta, nên chúng ta không còn thiếu thốn gì (Tv 22, 1).
ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI, CỦA MỖI
NGƯỜI: Chúa đã thánh hóa công ăn việc làm do tự lòng tin của chúng ta. Đọc Kinh
Tiền Tụng chúng ta nhận ra rằng:" Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người
giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con
một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện công trình
cứu độ muôn dân ". Chúa đã lao động để làm gương cho nhân loại, cho con
người. Chúa giúp con người làm việc làm ra cơm áo và hơn nữa để xây dựng Nước
Trời ngay tại trần thế.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao
động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô
giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm Nhâm Thìn này nêu cao tình
tương thân tương ái, và góp phần vào sự việc chung là hoàn thành chương trình
sáng tạo của Chúa. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ ngày Mồng Ba Tết).
9. Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Người Pháp có câu nói thật chí lý:" Làm
bởi bay, ban bởi Ta " (L'homme propose, Dieu dispose). Giáo Hội Việt Nam
luôn hướng dẫn, dạy con cái mình:" Phải cầu nguyện, phải kêu xin không
ngừng ". Do đó, làm việc là do bàn tay, do trí óc sáng tạo, lao động của
con người nhưng nếu người môn đệ Chúa không được Chúa ban ơn, sức khỏe không
có, trí khôn không sáng, chắc chắn công ăn việc làm của mình không tốt đẹp.
Giáo Hội Việt Nam dành ngày mồng ba tết âm lịch để cầu xin Chúa thánh hóa công
ăn việc làm.
Có nhiều người lầm tưởng, công ăn việc làm cần
gì phải được thánh hóa. Làm ăn được là do sự năng nổ, giỏi giang của mình mà.
Nói thế cũng đúng một phần mà hoàn toàn không phải thế. Vì, con người luôn có
phần hồn phần xác. Xác có khỏe mới lao động được, còn thân xác yếu đuối, đau
lên đau xuống hoài, chắc chắn công việc cũng không đi tới đâu. Con người có
giỏi, có kỹ thuật cao, nhưng mưa không thuận, gió không hòa thì mùa màng cũng
không đem lại nhiều kết quả.Thánh lễ hôm nay xoay quanh việc lao động, sản
xuất.Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và đặt con người
trong vườn Eden, rồi dạy con người trồng trọt nghĩa là dạy con người lao động.
Thiên Chúa muốn con người góp tay và trí tuệ để làm cho vũ trụ mà Chúa dựng xây
càng ngày càng đẹp, càng ngày càng phong phú, mọi người đều có của ăn, của để.
Bài Tin Mừng đề cập đến việc ông chủ trao cho mỗi người một số vốn và bắt con
người phải lao động để làm lời số vốn ông chủ đã trao. Lao động phải mệt nhọc,
lao động đòi hỏi phải cố gắng, phấn đấu hy sinh, nhưng lao động luôn mang ý
nghĩa đẹp, ý nghĩa cao sâu, tuyệt vời do Chúa chúc lành:" Lạy Chúa, Chúa
đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con
được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong
năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung
là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa " (Lời nguyện nhập lễ, lễ
thánh hóa công ăn việc làm). Hoặc "Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn
gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm thời tiết không
ngừng luân phiên" và Thánh vịnh 64, 12 cũng viết:" Bốn mùa Chúa đổ
hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ".
Như thế, đối với người môn đệ Chúa lao động
trí óc hay chân tay đều do quyền Chúa. Ngài có chúc lành, có ban ơn thì công
việc mới tốt lành được. Chúa Giêsu cũng đã làm việc và làm việc không ngừng.
Ngài đã làm việc để nêu gương cho nhân loại và để mang lại cho lao động ý nghĩa
cao cả. Lao động đối với Ngài là lời tạ ơn, là cầu nguyện, là cứu độ, là nâng
cao phẩm giá con người. Thánh Phaolô đã viết một câu thật chí lý:" Không
làm thì đừng có ăn ".
Chúng ta hãy dùng lời tiền tụng thánh lễ ngày
mồng ba tết để cùng nhau cầu nguyện:" Lạy Chúa, chính Chúa đã dựng nên con
người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con
Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình
cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu
gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và
góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng
Nước Trời ngay tại trần thế ". Amen.
10. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt
25,14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thật hạnh phúc biết bao hằng năm Giáo Hội dành
ngày mồng ba tết để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm. Quả thực,
con người làm lụng, Thiên Chúa trao ban. Câu nói của người Pháp rất chí lý
(L'homme propose, Dieu dispose). Con người có đầu óc, có kế hoạch, có tài năng,
bầy mưu hiến kế, nhưng nếu Chúa không ban ơn, không tiếp sức, không cho sức
khỏe, con người cũng không thể hoàn thành công việc theo ý muốn. Hiểu rõ ràng,
mọi việc là do Chúa. Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn quan tâm tới con cái của
mình dành trọn ngày mồng ba để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Vâng, ngay trang Sách Sáng Thế 2,4-9.15, tác
giả đã viết: "Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để
con người canh tác và coi sóc đất đai ". Rõ ràng Thiên Chúa không muốn để
con người ở nhưng không, năm chờ sung rụng, nhưng Ngài truyền lệnh hay nói một
cách khác bắt con người phải làm việc. Bởi vì, ở nhàn rỗi, nhưng không sẽ gây
ra tội lỗi. Nhàn cư vi bất thiện là thế. Sách Tông đồ Công vụ lại viết:"
Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu
bằng cách làm lụng vất vả và như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy:
cho thì có phúc hơn là nhận ". Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân
loại, cho chúng ta về đời sống lao động. Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra.
Cha của Ngài làm nghề thợ mộc. Thánh Giuse âm thầm làm việc để nuôi thân, nuôi
gia đình Nadarét không quản nhọc nhằn. Mẹ Maria chăm lo việc nội trợ để phục vụ
trong yêu thương Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và
san sẻ vất vả với Cha mẹ của Ngài. Tại Nadarét, nhân loại tìm lại được giá trị
siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong
gia đình Nadarét không hề kém giá trị cứu rỗi hôn việc rao giảng, loan báo Nước
Thiên Chúa hay trong cuộc thống khổ tử nạn của Ngài, vì trong tất cả mọi sự
Ngài đều tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, Cha của Ngài.
Chúa Giêsu đã dạy nhân loại, dạy chúng ta bài
học để đời:"...phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai
không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi".Dụ ngôn ông chủ đi
phương xa, trao cho các đầy tớ các nén bạc, minh chứng rằng:" Cần cù lao
động, chịu khó với công việc, vâng nghe lời chủ, sẽ đem lại hiệu quả tốt
đẹp". Lời kinh tiền tụng lễ ngày mồng ba tết dạy chúng ta nhiều
điều:" ...Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao
động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước
Chúa Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm
việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà
còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế ". Chúa Giêsu
đã làm việc để cho Nước Chúa được rạng sáng vinh quang, để cho thế giới được an
bình, thịnh vượng. Nên, chúng ta hãy bắt chước Chúa, làm việc và làm việc không
ngừng, nhưng phải mặc cho công việc một ý nghĩa cao quý. Đã đành, mọi người làm
việc là để cho gia đình, cho bản thân của mình được tồn tại.Tuy nhiên, lao động
cũng có nghĩa là góp tay với mọi người thăng tiến cuộc sống và làm cho công
việc, lao động có ý nghĩa cứu rỗi...
Ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa
công ăn viêc làm của chúng ta: công việc lao động tay chân và việc làm trí óc
vv...Xin Chúa chúc lành cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này để
chúng ta hiểu rõ:" làm do chúng ta và ban do Chúa ".
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao
động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để
công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương
ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của
Chúa. Amen.(Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Lao động để làm gì?
2. Làm việc tay chân và làm việc trí óc có mệt
ngang nhau không?
3. Chúa Giêsu có lao động?
4. Đối với Chúa Giêsu lao động có ý nghĩa gì?
11. Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt
25,14-30)
Ngày mồng ba tết, Giáo Hội nhắc nhở con người
về sự hiện diện của Chúa trong mọi việc, trong mọi trạng huống của cuộc
đời:" Không có Ta các con không thể làm gì được". Chúa ban cho ta sức
mạnh, tài năng, trí tuệ, khả năng để lao động sản xuất. Khoa học kỹ thuật cao,
văn minh tiến bộ, nhưng sức riêng con người nào đâu có thể thành công được gì!
Chúa ban cho ta vốn liếng để ta sinh lợi, nhưng:" Mưu sự tại nhân, thành
sự tại Thiên" (L' homme propose, Dieu dispose). Ngày tết, người ta có tục
lệ lì xì cho trẻ con để lấy hên, mỗi em tùy cách với số tiền mừng tuổi có thể
làm nên việc cho bản thân mình.Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể áp dụng vào câu
chuyện lì xì ngày tết.
VÍ DỤ NÉN BẠC: Mỗi người chúng ta sinh ra
trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ơn huệ đặc biệt. Có người Chúa
ban cho ơn thông minh, có người được ơn ngôn sứ, được ơn phân giải những điều
hay lẽ phải.Có người được Chúa ban cho tài năng làm nên danh phận. Mỗi người dù
Chúa trao nhiều hay Chúa trao ít, Chúa vẫn đòi hỏi con người phải sinh lợi ra
trên số vốn Chúa trao ban. Tin Mừng hôm nay ra định mức là phải làm lợi ra gấp
đôi. Chúa lấy dụ ngôn này để ám chỉ tới Ngài. Ngài đã trao cho người 5 nén,
2nén và 01 nén. Tất cả phải làm ra, sinh lời ra vì làm biếng và xét nét trước
lòng nhân hậu của chủ, của Thiên Chúa như người được trao một nén sẽ bị lấy lại
nén bạc Chúa đã tặng ban mà còn bị luận phạt vì tính ích kỷ và làm biếng nữa.
Đúng là đoạn Tin Mừng cho ta thấy tính cách nghiêm minh của Thiên Chúa, sự công
bằng và lòng ngay thẳng của Ngài trước thái độ của mỗi người. Đoạn Tin Mừng này
cho thấy tính hài hước, cười ra nước mắt và hạnh phúc đến tột độ của mỗi người
được Thiên Chúa trao ban tài năng và kho tàng tài sản của mình. Chúa cũng giúp
con người ý thức hơn về việc quản lý những gì Chúa trao ban cho mỗi người: trí
khôn, khả năng, vật chất, của cải và cả vũ trụ, tài nguyên Chúa ban nhưng không
cho nhân loại, cho mỗi người. Tất cả, những thứ đó đều do Chúa ban, con người
phải biết phát huy những thứ đó cho tốt đẹp, để phục vụ chứ không phải để sở
hữu riêng cho mình.Ý thức mọi sự là của Chúa ban và con người, loài người chỉ
là quản lý những thứ đó, nên con người phải làm sao cho những của Thiên Chúa
ban được phát triển tốt đẹp theo ý của Chúa.
MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN: Vật chất,
lương thực theo cái nhìn Kitô là của Chúa. Con người có dự tính, có kế hoạch
nhưng mưa thuận gió hòa là do Trời, do Thiên Chúa.Chính vì thế, trung thành với
ông chủ, với Thiên Chúa sẽ sinh lợi theo ý của Ngài. Đời là vốn và sự sống
chính là biết phát triển những gì Chúa đã trao ban nhưng không cho mỗi người.
Thánh hoá công ăn việc làm là điều cần thiết để mỗi người nhận ra sự hiện hữu
của Chúa trong vũ trụ, trong đời sống, trong mỗi người. Lao động trí óc hay
chân tay đều là những khả năng Thiên Chúa ban cho. Con người dù có giỏi đến đâu
mà không cậy trông sức thiêng hộ phù chắc chắn khó thành đạt trên bước đường
kinh doanh hay trồng cấy.
Mồng ba tết, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện
cho việc thánh hóa công ăn việc làm là điều cần thiết nhất để nói lên sự phù
trợ của Thiên Chúa và " Không Thầy, các con không làm được gì ".
Xin Chúa chúc lành cho những công việc con
người đang theo đuổi. Xin Chúa ban bình an cho những tâm hồn thành tâm thiện
chí. Cuộc sống do Chúa ban. Sự sống của con người thuộc về Thiên Chúa. Xin Chúa
chúc lành cho những gì Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người. Nếu con người luôn
ước mong làm lợi cho cuộc đời, họ phải hiểu rằng người Kitô hữu luôn hướng về
bàn tiệc nước trời, bàn tiệc của mùa xuân vĩnh cửu, bất diệt.
Lạy Chúa, xin chúc lành cho công ăn việc làm
của chúng con để cuộc đời của mỗi người chúng con luôn nhận ra sự có mặt của
Chhúa.Amen.
12. Suy niệm Lời Chúa
(Lm. Nguyễn Thể Hiện)
Lãnh vực công ăn việc làm là một trong những
lãnh vực quan trọng trong đó chúng ta thể hiện mối tương quan đích thực của
chúng ta với Thiên Chúa. Chính khi thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời
sống thực tế hàng ngày, chúng ta tự diễn tả mình là ai trong tương quan với
Thiên Chúa; và ngang qua việc thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống
thực tế hàng ngày mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa đưa vào hưởng niềm hoan lạc
của chính Ngài.
1. Một dụ ngôn được nói cho chúng ta và nói về
chúng ta
Với dụ ngôn những yến bạc, Đức Giêsu công bố
rằng chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa như những đầy tớ phải chịu
trách nhiệm trước mặt Người; rằng mọi sự chúng ta có đều là của cải Thiên Chúa
ký thác cho chúng ta; rằng chúng ta không được tuỳ tiện sử dụng những thứ chúng
ta có theo ý riêng mình, song là phải theo đường hướng mà Thiên Chúa muốn; rằng
Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải tính toán sổ sách với Người về những điều thiện
hảo đã được trao phó cho chúng ta; và rằng sự thành công hay thất bại của cuộc
đời chúng ta tuỳ thuộc vào cách hành xử của chúng ta trong những gì Thiên Chúa
trao phó cho chúng ta.
Qua cách hành xử và số phận của hai người đầy
tớ tốt lành và trung tín, Đức Giêsu cho thấy đâu là cách hành xử đúng đắn của
chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Còn qua cách hành xử và số phận của tên đầy
tớ xấu xa và biếng nhác, Ngài cho thấy một kẻ xấu xa sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt
như thế nào.
2. Điều quan trọng là mối tương quan giữa ông
chủ và các đầy tớ của ông
Những người đầy tớ không được tự tại nơi mình,
nhưng là ở trong một mối tương quan tuỳ thuộc và phục vụ đối với ông chủ. Chính
bản thân họ thuộc về ông chủ, những điều thiện hảo được ký thác cho họ là của
ông chủ và những gì họ có thể làm ra cũng xuất phát từ tài sản của ông chủ chứ
không phải hoàn toàn xuất phát từ bản thân họ. Như thế là trong những phương
diện khác nhau, họ đều được nối kết chặt chẽ với ông chủ. Mà nếu vậy, cách hành
xử của họ sẽ vừa tuỳ thuộc vừa biểu lộ cái quan niệm mà họ có về ông chủ của
mình.
Hình ảnh những người đầy tớ trong dụ ngôn này
cũng là hình ảnh của chúng ta trong tương quan với Thiên Chúa. Hình ảnh này cho
thấy rằng chúng ta, và cùng với chúng ta là tất cả những gì chúng ta có, đều là
thụ tạo của Thiên Chúa; rằng chúng ta không thể tự tại nơi chính mình; rằng mọi
khả năng của ta đều đến từ bàn tay Thiên Chúa.
Nhưng không phải là mọi người đều được đón
nhận cùng những ân huệ y như nhau; ông chủ giao phó của cải của mình cho các
đầy tớ nhiều hay ít là tùy khả năng của họ. Ông biết rõ từng đầy tớ của mình.
Tình yêu tôn trọng tự do và điểm độc đáo riêng của mỗi người. Thật phi lý nếu
chúng ta đòi Thiên Chúa phải ký thác tài sản của Ngài cho mọi người theo lối
bình quân chủ nghĩa cứng nhắc và phi nhân.
3. Cách hành xử và số phận của hai người đầy
tớ tốt lành
Hai người đầy tớ tốt lành lập tức bắt tay vào
việc. Họ sử dụng những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình phù hợp với ý
muốn của ông chủ. Họ đặt mình dưới những mục tiêu của ông chủ và lưu tâm đến
những bận tâm của ông chủ. Hoạt động của họ hữu hiệu. Họ đến trình diện với ông
chủ trong tư thế đàng hoàng của người đã thực hiện tốt những gì được trao phó
cho mình.
Và họ đã nhận được niềm vui trào tràn. Ông chủ
đã tuyên bố họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Người đầy tớ tốt lành là
người hoàn toàn đón nhận vị trí của mình trong tương quan với ông chủ và đặt
mình trong tư thế phục vụ ông chủ. Anh ta không chạy theo những ý tưởng riêng
của chính mình hoặc những tâm trạng riêng của mình, anh ta không giữ khoảng
cách xa với ông chủ, nhưng hành động theo những mục tiêu và những mối quan tâm
của ông chủ. Người đầy tớ trung tín là người phục vụ ân cần và luôn ý thức rằng
những điều anh ta có trong tay là những điều được ký thác cho anh.
Sau khi hai người đầy tớ đã chứng tỏ những
phẩm chất tốt lành và trung tín, ông chủ có thể tin tưởng mà trao phó cho họ
những nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông cho họ vào hưởng hạnh phúc dư tràn: "Hãy
vào mà hưởng niềm vui của chủ anh" (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng Mt nói
về sự "vào Nước Trời" (thí dụ 5,20; 7,21; 18,3), về sự "vào cõi
sống" (18,8.9; 19,16), còn ở đây thì là "vào niềm vui". Nước
Trời có nghĩa là cõi sống và niềm hoan lạc vô biên dành cho những ai thuộc về
Nước ấy. Ông chủ không giữ khoảng cách với những người đầy tớ tốt lành, nhưng
ông đón nhận họ vào cõi sống của ông, vào sự hoan lạc đầy tràn của ông. Chúng
ta không thể đạt tới cùng đích đó và không thể đi vào trong sự hoàn thành phúc
lạc cuộc đời chúng ta chỉ dựa trên sức lực của riêng chúng ta, cũng không phải
là ngang qua một cuộc hành trình do chúng ta chọn lựa và quyết định, nhưng chỉ
là trong sự phục vụ Đức Chúa. Hai người đầy tớ tốt lành, cho dù khác nhau về kết
quả công việc, đã đều được hưởng cũng một niềm hạnh phúc như nhau. Điều đó cho
thấy niềm hạnh phúc mà họ được hưởng không được ban phát tuỳ theo điều họ đã
làm được, mà là tuỳ theo lòng tốt của ông chủ và lòng trung thành của họ.
4. Cách hành xử và số phận của anh đầy tớ xấu
xa
Ngay từ đầu, anh đầy tớ này đã có một mối
tương quan sai lạc đối với ông chủ của anh ta. Anh ta coi ông chủ là người hà
khắc, gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông chủ (25,24.25). Anh ta biết mình tuỳ
thuộc ông chủ, nhưng anh ta không đặt mình dưới quyền bính của ông trong tin
tưởng và chuyên cần. Anh ta sống sự tuỳ thuộc của mình vào ông chủ như một sự
gì nặng nề, và anh ta bực tức với ông chủ như là với một người chuyên đi áp bức
người khác, bắt người khác làm việc cho mình và bóc lột người khác. Trong mắt
anh ta, ông chủ là người hà khắc xấu xa. Và anh ta từ chối dịch vụ mà ông chủ
muốn anh ta thực hiện. Anh ta không thi hành ý muốn của ông chủ. Tuy anh ta
không phung phí của cải đã được trao cho anh ta, anh ta cũng không dùng của cải
ấy để tư lợi hay tiêu xài, nhưng anh ta lại đã để cho những của cải mà ông chủ
đã ký thác cho anh ta thành ra vô dụng, rồi đem trả lại cho ông chủ đúng như
anh ta đã nhận từ ông.
Kết cục, ông chủ gọi anh ta là tên đầy tớ xấu
xa, biếng nhác và vô dụng, một người đã hoàn toàn đánh mất chính mình và đánh
mất quyền lợi của mình khi không thực hiện bổn phận mình. Như anh ta đã từng cố
ý giữ khoảng cách thật xa với ông chủ, thì bây giờ, ông chủ sẽ giữ khoảng cách
thật xa với anh ta. Anh ta đã không đặt mình trong sự hiệp thông sâu xa và hữu
hiệu với ông chủ, nên ông chủ phải để anh ta bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài,
nơi không có niềm vui, không có hạnh phúc, không có sự sống, mà chỉ có khóc lóc
nghiến răng vì phải chịu sự huỷ diệt kinh hoàng. Chỗ tối tăm bên ngoài, nơi
khóc lóc nghiến răng... chính là sự huỷ diệt dành cho những kẻ bị truất quyền
hưởng Nước Trời (x. Mt 8,12). Bị loại khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa, bị loại
khỏi ánh sáng, bị loại khỏi sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa, thì không
chỉ có nghĩa là không được tràn đầy hạnh phúc, không được sống viên mãn, mà còn
là phải ở trong tình trạng khốn khổ, đau đớn, tuyệt vọng và tăm tối.
Chúng ta chỉ có thể đạt tới cùng đích tối hậu
của mình nếu chúng ta đặt mình phục vụ Thiên Chúa, bằng cách sử dụng đúng đắn,
theo ý Thiên Chúa, tất cả những gì Thiên Chúa ban tặng và trao phó cho chúng
ta: sự sống, thời gian, khả năng, cơ hội, của cải... Thiên Chúa đã trao phó cho
chúng ta những thực tại tốt lành đó, và chúng ta sẽ phải trả lời về việc sử
dụng chúng.
Chúng ta thực hiện cuộc sống mình không phải
là trong sự sợ hãi đối với Thiên Chúa, nhưng là trong tin tưởng, phó thác và
yêu mến Người. Chính vì vậy mà chúng ta cầu xin Người thánh hoá công ăn việc
làm của chúng ta. Lời cầu nguyện như thế sẽ được nhận lời, nếu trong lời cầu
nguyện đó, chúng ta tuyên xưng mình chỉ là đầy tớ của Người, luôn chỉ muốn sử
dụng, phù hợp với ý muốn của Người, tất cả những điều thiện hảo đã được ký thác
cho mình, luôn đặt mình dưới những mục tiêu của Người và luôn lưu tâm đến những
bận tâm của Người.
Lời cầu nguyện đó sẽ được mang vẻ đẹp của
chính lời nguyện xin của Đức Thánh Trinh Nữ, Mẹ chúng ta: "Này tôi là tôi
tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!" (Lc 1,38).
13. Suy niệm Lời Chúa
(Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
(Bài giảng chép lại từ băng ghi âm)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Hôm nay là ngày thứ ba và cũng là ngày cuối
cùng trong tam nhật hành hương minh niên của chúng ta kính Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp. Trong lịch phụng vụ của Hội Thánh Việt Nam, ngày Mồng 3 Tết là ngày cầu
xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Do đó, hôm nay, khi
quây quần bên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để cầu nguyện, có lẽ tâm hồn của mỗi chúng
ta đều mang nặng những ưu tư, những bận tâm về công ăn viêc làm và về đời sống
của chúng ta trong năm mới này. Chính trong mối ưu tư về công ăn việc làm và về
đời sống đó, chúng ta hiệp lời với Đức Mẹ nài xin Thiên Chúa thánh hóa tất cả
công việc mà chúng ta sẽ làm trong năm mới này.
Bài Tin Mừng vừa được công bố trích trong Tin
Mừng theo Thánh Gioan, kể về dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện tại tiệc cưới
Cana. Đối với người Do Thái ngày xưa, rượu trong tiệc cưới là biểu tượng của
tình yêu giữa cô dâu với chú rể, giữa chú rể với cô dâu, tức là biểu tượng cho
thực tại quan trọng nhất làm cho mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi thực tại trong
lễ cưới trở nên có ý nghĩa. Tình yêu giữa người vợ và người chồng là yếu tố căn
bản làm nên gia đình, làm nên sự thành công của gia đình. Thế mà trong đám cưới
này lại xảy ra tình trạng thiếu rượu, tức là thiếu yếu tố quan trọng đem đến sự
thành công. Ông quản tiệc là người chịu trách nhiệm về việc tổ chức đám cưới và
xử lý những vấn đề nảy sinh ở đám cưới thì lại chẳng biết gì về tình trạng bi
đát ấy. Nhưng có một người, là thân mẫu Đức Giêsu, đã nhận ra tình trạng bi đát
đó. Thân mẫu Đức Giêsu đã trình bày vấn đề với Đức Giêsu, Con của Người. Mẹ đã
không đến với ông quản tiệc để nói cho ông quản tiệc biết mà xử lý vấn đề của
tiệc cưới. Mẹ đến với Đức Giêsu, trình bày với Đức Giêsu và chờ đợi sự can
thiệp của Đức Giêsu. Và quả thật, Đức Giêsu đã can thiệp để giải quyết tình
trạng hết sức cấp bách và bi đát ấy. Người đem lại cho đám cưới Cana sự thành
công như lòng Thiên Chúa mong ước.
Kính thưa anh chị em,
Ngày hôm nay, khi chúng ta đến với Đức Mẹ và
trình bày với Đức Mẹ về tình trạng của cuộc sống và những ưu tư của chúng ta về
công ăn việc làm, là chúng ta đến trong lòng tin rằng Mẹ sẽ can thiệp bên cạnh
Chúa Giêsu để Chúa Giêsu chúc lành, thánh hóa và làm cho công ăn việc làm của
chúng ta trong năm nay được thành công. Chính trong cái xác tín đức tin ấy mà
chúng ta quây quần bên Mẹ. Vậy đâu là những tâm sự mà chúng ta muốn thưa với
Đức Mẹ bây giờ, thưa anh chị em?
(1) Trước hết, chúng ta đến đây, trong buổi
chiều Mồng 3 Tết này, là để cùng với Đức Mẹ tuyên xưng rằng sự thành công của
đời sống chúng ta và của công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này, hoàn
toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa là Đấng quyết định. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho
công ăn việc làm và đời sống của chúng ta trong năm mới này thành công. Nói như
lời tác giả Thánh Vịnh: "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là
uổng công; thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh
đêm". Vậy chính trong lòng tin đó mà chúng ta đặt dưới chân Đức Mẹ những
ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm trong năm mới này, xin Đức Mẹ can thiệp
với Thiên Chúa để Thiên Chúa chúc lành cho công ăn việc làm và cho đời sống
chúng ta. Vì thế, vượt xa hơn một lời cầu xin, sự quy tụ của chúng ta chiều hôm
nay ở đây là một lời tuyên xưng đức tin vào quyền năng và quyền quyết định của
Thiên Chúa trên vận mạng và sự thành công của chúng ta.
(2) Nhưng không chỉ như thế, thưa anh chị em.
Ngày lễ hôm nay được gọi là ngày xin ơn thánh hóa công ăn việc làm. Chúng ta
không chỉ xin sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng còn đi xa hơn nữa,
chúng ta xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, nghĩa là làm
cho những hoạt động của chúng ta trong năm mới này trở nên phương thế đem lại
ơn cứu độ cho chúng ta. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại của thế giới mai
hậu. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại siêu nhiên mà thôi. Ơn cứu độ mà
Thiên Chúa ban cho chúng ta là ơn cứu độ con người toàn diện. Trong cái toàn
diện và cụ thể trong đời sống chúng ta, Thiên Chúa cứu chúng ta. Và mọi thực
tại thuộc về đời sống con người đều có thể trở nên phương thế để đem ơn cứu độ
đến cho chúng ta. Thiên Chúa cứu chúng ta là cứu trong cái thực tại thế tạm,
thực tế và cụ thể của đời sống chúng ta.
Khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn
việc làm của chúng ta, khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa những hoạt động của
chúng ta trong năm mới này, chúng ta tuyên xưng một xác tín, rằng ơn cứu độ
Thiên Chúa ban cho chúng ta là một thực tại toàn diện. Khi qui tụ đông đảo ở
đây để xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên bố với
thế giới và với mọi người rằng tôn giáo không chỉ gói gọn trong những thực tại
siêu nhiên thuộc thế giới bên kia, vì mọi thực tại thế tạm đều "dính dấp"
đến tôn giáo và đời sống tôn giáo của chúng ta cũng "dính dấp" đến
mọi thực tại của cuộc sống này. Vậy ai nói rằng Hội Thánh Công Giáo không được
quyền lên tiếng về những vấn đề xã hội, hoặc rằng Hội Thánh Công Giáo chỉ nên
gói gọn hoạt động của mình trong các lễ hội bên trong nhà thờ, thì người ấy
đang phản bội Tin Mừng đấy, thưa anh chị em. Bởi vì Thiên Chúa đến cứu chúng ta
và Người muốn thánh hóa mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống cụ thể của
chúng ta. Mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống thế tạm và cụ thể đều trở
thành phương thế cứu độ.
Thành ra, với việc anh chị em qui tụ ở đây bên
cạnh Đức Mẹ và xin Đức Mẹ chuyển cầu để Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm,
chúng ta đang tuyên xưng một sự dấn thân làm cho những thực tại thế tạm, những
thực tại của công ăn việc làm chẳng hạn, trở thành phương thế cứu độ con người.
Đó là ý nghĩa và tâm tình thứ hai mà chúng ta thưa lên với Đức Mẹ và cùng với
Đức Mẹ tuyên xưng đức tin trước nhan Thiên Chúa trong buổi chiều ngày Mồng 3
Tết này.
(3) Nhưng, kính thưa anh chị em, tất cả chúng
ta ở đây đều không ai sống một mình. Ngay cả trong lãnh vực công ăn viêc làm,
chúng ta cũng ý thức rất rõ ràng tác động của cộng đồng và của xã hội trên đời
sống riêng của mỗi người chúng ta.
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được
rằng những quyết định của nhà cầm quyền sẽ ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp lên
công ăn việc làm của chúng ta. Tôi lấy thí dụ: mô hình tăng trưởng nào được lựa
chọn để làm mô hình tăng trưởng cho đất nước chúng ta? Điều đó sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta. Chính sách thuế khóa sẽ trực tiếp
ảnh hưởng trên công ăn việc làm của mỗi người chúng ta. Một quy hoạch nào đó
của một vùng nào đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ trên cuộc sống và trên
công ăn việc làm của cộng đồng cư dân trong vùng đó. Không thể phủ nhận được
tác động của các chính sách của những nhà cầm quyền trên công ăn việc làm của
chúng ta.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận được tác động
của những hiện tượng xấu như tệ nạn xã hội, tình trạng an ninh, tệ quan liêu,
nạn tham nhũng, sự lãng phí, sự suy thoái trong đời sống đạo đức, cách riêng là
sự suy thoái đạo đức của những người có quyền trong các lĩnh vực khác nhau,
công cũng như tư. Chúng ta không thể phủ nhận được tác động trực tiếp và tiêu
cực của những chuyện đó trên công ăn việc làm của chúng ta. Sự thành công trong
công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này sẽ chịu ảnh hưởng và tác động
của những điều đó.
Ý thức như thế, chúng ta đến với Đức Mẹ chiều
hôm nay để trình bày với Đức Mẹ cuộc sống cụ thể của chúng ta. Xã hội của chúng
ta vẫn còn đầy dẫy những bất công. Chính ông Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong
báo cáo tổng kết 5 năm cầm quyền vừa qua của Đảng Cộng sản tại đại hội lần thứ
11 cũng đã phải thừa nhận rằng: "Nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ
nạn xã hội, tình trạng tội phạm, sự suy thoái về đạo đức và lối sống ... vẫn
chưa được ngăn chặn", có nghĩa là vẫn còn tồn tại đầy dẫy trong xã hội. Đi
xa hơn ông Nông Đức Mạnh, ông Nguyễn Văn An - nguyên Chủ tịch Quốc Hội từ năm
2001 đến 2006, cách đây vài tháng, khi trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet, đã
không chỉ đề cập đến những sự suy thoái hay những hiện tượng này khác. Ông đề
cập đến một lỗi hệ thống và ông bàn đến chuyện sửa sai lỗi hệ thống ấy. Có một
số đảng viên cộng sản không đồng ý với cách lý giải của ông Nguyễn Văn An, tức
là không đồng ý rằng có một lỗi hệ thống trong đường lối xây dựng xã hội chúng
ta. Nhưng tôi chắc rằng không ai trong các đảng viên cộng sản hiện nay và cũng
chẳng ai trong chúng ta ở đây mà không đồng ý với ông Nông Đức Mạnh rằng trong
xã hội chúng ta còn đầy dẫy tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, tình
trạng tội phạm, tình trạng tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái đạo đức của
nhiều người, cách riêng là rất nhiều người cầm quyền trong các lĩnh vực khách
nhau. Vì đó là thực tế đập vào mắt chúng ta hàng ngày.
Và tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến
công ăn việc làm của chúng ta.
Thế mà, như lời Kinh Thánh nói: "Khi nền
móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?".
Vậy, hôm nay, khi chúng ta quây quần bên cạnh
Đức Mẹ để cùng với Đức Mẹ đặt những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm và
về đời sống chúng ta lên trước nhan Thiên Chúa, là chúng ta xin Đức Mẹ nhìn đến
tình trạng đó của chúng ta. Chúng ta xin Đức Mẹ can thiệp trước nhan Thiên Chúa
để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, ngăn chặn tệ nạn hối
lộ, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức của những người có quyền. Chúng ta xin
Đức Mẹ ngăn chặn và hơn nữa, triệt tiêu những tệ nạn trong việc phân chia lợi
tức xã hội, những tệ nạn trong lĩnh vực giáo dục, trong lĩnh vực kinh tế, trong
lĩnh vực giao thông..., tức là những tệ nạn trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống ảnh hưởng đến công ăn việc làm và ảnh hưởng đến hoạt động của chúng ta
trong năm nay. Chúng ta xin Đức Mẹ và chúng ta biết rằng Đức Mẹ đủ quyền năng
để giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiêu những tác hại của các tệ nạn đó.
Đàng khác, chúng ta biết rằng sự thành công
đích thực của toàn xã hội và vì vậy là của tất cả chúng ta, chính yếu thuộc về
điều này: đó là tự do và phẩm giá của con người phải được tôn trọng. Khi nào tự
do và phẩm gián của con người được tôn trọng, khi ấy xã hội mới phồn vinh đích
thực, mới ổn định đích thực. Còn khi nào tự do, phẩm giá và nhân quyền không
được tôn trọng, thì lao động và công ăn việc làm, thay vì là phương thế làm cho
chúng ta triển nở và làm cho chúng ta trở nên người hơn, thì lại trở thành gánh
nặng, lại trở thành ách nô lệ, lại trở thành yếu tố làm cho con người tha hóa,
vong thân. Thành ra, chúng ta đến đây với Đức Mẹ để xin Đức Mẹ phù trợ, để xin
Đức Mẹ chúc lành, xin Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của
chúng ta trong năm này, là chúng ta xin cho sự tự do, xin cho phẩm giá của con
người, xin cho các quyền căn bản của con người... ngày càng được tôn trọng, và
xin cho xã hội của chúng ta trở nên một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
(4) Tất nhiên, bên cạnh những tệ nạn, chúng ta
cũng biết rằng trong xã hội chúng ta vẫn còn đấy những yếu tố hết sức tích cực,
đặc biệt là những yếu tố tích cực từ những phận đời nhỏ bé. Anh chị em hãy nhớ
lại: năm vừa rồi, khi bão lụt tràn về miền Trung, rất nhiều người đã cùng nhau
góp phần của mình giúp anh chị em miền Trung qua cơn đại nạn lũ lụt. Rất nhiều
người trong cộng đồng chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình đề đem lại sự ổn
định cho đời sống của anh chị em ở miền Trung. Một ví dụ khác: nhiều người
trong chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình để anh chị em dân tộc thiểu số ở bên
cạnh dòng sông Pôkô trên Tây Nguyên không còn phải đi học hay vận chuyển những
gùi sắn, gùi lúa của mình qua sông bằng cách đu dây cáp. Một chiếc cầu dây đã
được bắc qua sông Pôkô từ những tấm lòng của bạn đọc khắp nơi của báo Tuổi Trẻ.
Đấy là một bằng chứng về lòng nhân ái và về sự trợ giúp của những người nghèo
với nhau. Một ví dụ khác: anh Trương Xuân Thức, người lái tàu trên một chuyến
tàu hỏa gặp nạn, đã làm hết cách, thậm chí là hy sinh cánh tay trái của mình,
để bảo đảm an toàn cho chuyến tàu ấy. Và khi thấy anh gặp nỗi đau vì hy sinh
như thế, nhiều người ở khắp nơi đã an ủi, đã nâng đỡ, đã góp phần cùng với anh
xoa dịu nổi đau của sự tật nguyền mà anh phải mang do sự hy sinh cứu những
người khác. Đấy là bằng chứng rằng những người nghèo trong xã hội chúng ta,
những phận đời bé nhỏ trong xã hội chúng ta, vẫn đóng góp phần mình để làm cho
xã hội được nhân bản hơn, văn minh hơn. Rồi chúng ta biết có nhiều luật sư đã
dám dấn thân để bảo vệ người nghèo trong các vụ án, cho dù họ phải trả giá bằng
sinh mạng kinh tế, sinh mạng chính trị và ngay cả sinh mạng thể lý. Có những
nhà báo bất chấp nguy hiểm để phanh phui những tệ nạn, tố giác tiêu cực... để
xã hội nên trong sáng hơn... Và còn nhiều lắm. thưa anh chị em, những tấm lòng
nhân ái làm cho cuộc sống của chúng ta an bình hơn, làm cho cuộc sống của chúng
ta nhân bản hơn và nhờ vậy sự thành công của mỗi người được đảm bảo hơn.
Vậy hôm nay, khi qui tụ về đây để xin Đức Mẹ
cầu bầu với Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta xin Đức Mẹ chúc lành và
nâng đỡ những tâm hồn ấy, những con người ấy, tức là chính chúng ta và là biết
bao người nghèo khác. Đức Mẹ, tại tiệc cưới Cana, đã khích lệ, đã dạy dỗ, đã
chỉ dẫn cho các gia nhân để họ cộng tác với Chúa Giêsu mà đem rượu mới cho đám
cưới. Xin Mẹ, ngay hôm nay, trong năm này, cũng an ủi, khuyến khích, nâng đỡ
chúng ta và tất cả những người thành tâm thiện chí khác, để chúng ta góp phần
mình làm cho làm cho tự do, nhân quyền và phẩm giá con người được tôn trọng
trong xã hội chúng ta. Và trên cái nền ấy, chúng ta sẽ thành công trong việc
xây dựng cuộc sống của mình.
Tóm lại, kính thưa anh chị em, chiều hôm nay,
- thứ nhất, khi đến bên cạnh Đức Mẹ để cùng
với Mẹ dâng lên Thiên Chúa những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, về
hoạt động, về đời sống của chúng ta trong năm mới, chúng ta thưa lên với Đức Mẹ
xác tín rằng đời sống và sự thành công của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa:
"Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công".
- thứ hai, khi cùng với Đức Mẹ ra trước nhan
thánh Thiên Chúa để dâng lên lời cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm
của chúng ta, chúng ta xác tín rằng những hoạt động nhỏ bé và trần thế của
chúng ta có thể trở thành phương thế cứu độ chúng ta.
- thứ ba, cùng với Đức Mẹ, chúng ta dâng lên
Thiên Chúa lời nguyện xin tha thiết, để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn và
triệt tiệu những tệ nạn đang tác oai tác quái trên đời sống chúng ta: "Khi
nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?".
- thứ tư, chúng ta nguyện góp phần mình làm
cho xã hội ý thức hơn về tự do, về nhân phẩm và nhân quyền. Chúng ta nguyện góp
phần vào việc làm cho xã hội ổn định hơn, làm cho xã hội phát triển một cách
đích thực hơn như chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta xin Đức Mẹ khích lệ,
nâng đỡ để giúp chúng ta dám dấn thân xây dựng xã hội tốt lành, trong đó mọi
người có cơ hội phát triển đích thực như thánh ý Chúa muốn.
Kính thưa anh chị em,
Ngày xưa, Đức Mẹ đã nhìn thấy tình trạng tiệc
cưới Cana thiếu yếu tố căn bản làm cho bữa tiệc ấy có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ
cũng đang nhìn thấy những thiếu thốn căn bản để cuộc sống của chúng ta có thể
phát triển.
Ngày xưa Đức Mẹ đã thưa với Chúa Giêsu để
Người can thiệp tại tiệc cưới Cana và ban rượu ngon làm cho bữa tiệc cưới ấy
được thành công và có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ vẫn luôn cầu nguyện với Chúa để
Người ban những yếu tố căn bản, giúp cho xã hội chúng ta được vận hành và phát triển
một cách đích thực như lòng Chúa muốn.
Xin Đức Mẹ gìn giữ chúng con và ban ơn cho
chúng con. Xin Đức Mẹ chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con trong năm
mới này. Amen.
14. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt
25,14-30)
VIỆC LÀM VÀ LÀM VIỆC TRONG NĂM MỚI SẼ NHƯ THẾ
NÀO?
Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông
Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng
nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh
quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì
công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ
còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề
tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và
công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục,
tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các
mặt hàng tăng mạnh... tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm
của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có
những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được
thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào...
Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở
thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại
là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại
là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan
giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và
những điều kiện làm việc thật tốt. ... Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về
mối tương quan chủ và thợ:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ
đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài
sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập
nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm
nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có
nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông
không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ
đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì
đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn
ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố
gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ,
người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người
này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã
trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với
chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen
thưởng.
Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ
tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của
người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã
có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình
keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn
mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn
giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không
quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ,
ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh
ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng... Ông chủ đã sa thải anh vì anh
biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.
Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ
trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là
ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài
năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các
khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết
ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm
sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho
chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của
cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi
gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội
nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn
có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và
cho gia đình của mình.
Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao
cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi
người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong
đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao
tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó
ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất,
Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là
tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu
trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của
chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không
khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã
làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và
trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì
ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại
ra ngoài.
Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng thiên Chúa
của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng
nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc
đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu
thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng
phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc
để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó
là chúng ta đang sinh lời cho Thiên Chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong
việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho
vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh,
làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và
gây tổn hại đến tài sản của Ngài.
Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn
là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng
ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh
Phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn
tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thân, làm tăng phẩm giá
con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có
phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta
cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh
hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh
hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống
và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người
chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải
biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức
rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta
chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm
việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.
Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm
như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen
15. Thánh hóa công việc làm
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng 3 Tết, Giáo Hội Việt Nam mời
gọi mọi người cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn. Lời Chúa trong Tin Mừng
Thánh Luca, tường thuật việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn "những người đầy tớ
và những yến bạc" để dạy dỗ các đồ đệ của mình nhiều điều, liên quan đến
công việc làm ăn:
Thứ nhất, Chúa đưa ra dụ ngôn để nhắc nhở các
đồ đệ, không phải là "số các yến bạc được trao bao nhiêu", mà là
"những người đầy tớ đã sử dụng chúng như thế nào". Người lãnh năm nén
đã đi làm lợi năm nén khác, người lãnh hai nén làm lợi hai nén khác, riêng
người lãnh một nén lại đem chôn. Tất nhiên ông chủ khen hai người đầu và nổi
giận vì cách thế biếng nhác của người cuối cùng kia. Ta thấy người thứ nhất và
thứ hai khác nhau về số các yến bạc, nhưng giống nhau ở chỗ đã mạnh dạn đem các
nén bạc được trao ra sử dụng mặc dù chưa biết thắng bại ra sao. Riêng người
cuối cùng không bắt tay vào việc, không tin vào sự nâng đỡ của ông chủ, và rồi
đã đem chôn đi cái mình được trao, cái mình đã lãnh nhận. Quan sát ba người đầy
tớ ta thấy: người ta không bằng nhau ở "số lượng" nhưng bằng nhau ở
"nỗ lực". Nếu so "số lượng nén bạc" được trao của người thứ
nhất và người thứ hai chắc chắn ta thấy khác nhau, nhưng "nỗ lực công việc"
và phần thưởng danh dự dành cho hai người chắc chắn giống nhau.
Hẳn điều nhắc nhở này cho các đồ đệ, cũng là
điều nhắc nhở mỗi người chúng ta, số yến bạc là các khả năng Chúa trao cho mỗi
người rất khác nhau. Có lẽ Chúa chẳng đòi hỏi gì nhiều, Chúa chỉ đòi hỏi mỗi
người hải nỗ lực cố gắng làm việc trong tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa.
Thứ hai, dụ ngôn ấy, Chúa cũng nhắc nhở các đồ
đệ là: phần thưởng dành cho người hoàn tất công việc được giao cách tốt đẹp, là
người đó được giao thêm công việc mới và được hưởng niềm vui hạnh phúc với chủ,
chứ không phải là người đó sẽ nghỉ ngơi. Hình phạt dành cho người biếng nhác là
ngay cả cái công việc anh ta có, bây giờ cũng bị lấy đi và trao cho người đã
có.
Quà tặng cũng như phần thưởng, Chúa chỉ dành
cho những người đã nỗ lực cộng tác với Chúa. Và như thế, Chúa sẽ trao thêm cho
họ nhiều khả năng khác đang khi họ thi hành điều Chúa muốn.
Sau cùng, qua dụ ngôn Chúa nhắc nhở các đồ đệ
là: những khả năng được đem ra sử dụng sẽ phát triển và còn mãi, khả năng cất
kỹ sẽ mai một và sẽ mất đi. Ví như bạn có khả năng hội họa, khả năng đàn
nhạc,... nếu bạn đem ra sử dụng chắc chắn nó sẽ được thăng hoa, nhưng nếu chôn
vùi bạn sẽ đánh mất nó.
Quý vị và các bạn thân mến,
Ngày hôm nay mùng 3 Tết, ngày lễ cầu xin Chúa
thánh hóa công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của
Chúa đã luôn nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cám tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho mỗi
người các nén bạc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng xin ơn Chúa và cộng tác với
Chúa để làm phát triển các yến bạc mà Chúa đã trao vào tay chúng ta. "Ai
trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn".
Lạy Chúa,
Đôi lúc trong cuộc sống, chúng con chưa nỗ lực
cộng tác với ơn Chúa, nhưng chúng con lại hay kêu trách Chúa, khi so sánh mình
với người khác. Đôi lúc chúng con biếng nhác, nhưng lại ưa đòi phép lạ. Đôi lúc
chúng con không xứng đáng Chúa trao những nén bạc lớn, vì thái độ thiếu nhiệt
thành của chúng con.
Chúng con xin lỗi Chúa, và xin Chúa đỡ nâng
chúng con.
Xin ban cho chúng con có công ăn việc làm ổn
định, đời sống an bình tươi vui.
Amen.
16. Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30)
(Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng)
Phụng Vụ Lời Chúa và các lời nguyện trong
thánh lễ hôm nay nhắc nhớ chúng ta về bản chất và ý nghĩa công ăn việc làm của
con người. Thiên Chúa đặt mỗi người vào một khu vườn phù hợp với họ như ruộng
đồng, nhà máy, phòng thí nghiệm, giảng đường, sân khấu, ... để thực hiện nhiệm
vụ cao cả là hoàn thành công trình sáng tạo của Người (BĐ1). Tuy vậy, con người
không lao tác một mình và cho bản thân mình, nhưng cần dùng thành quả lao động
để chia sẻ và đỡ nâng những ai túng cực (BĐ2). Muốn vậy, chắc chắn con người
phải siêng năng làm việc, phải dùng hết sức lực và trí khôn Chúa ban để sinh
lợi theo ý Người muốn (BĐ3).
Nói cách khác, lao động của con người được
Thiên Chúa chúc phúc và mặc cho một cùng đích siêu việt: làm việc không chỉ để
có phương tiện độ nhật, không chỉ để sống hạnh phúc trên trần gian này, mà còn
để đạt được kho tàng vĩnh viễn và hạnh phúc viên mãn, nơi mối mọt không đục
khoét và kẻ trộm không lấy đi được. Thành ra, những giọt mồ hôi con người đổ ra
khi vất vả làm lụng, khi khổ sở kiếm sống, ... là những giọt mồ hôi có Chúa,
những giọt mồ hôi đã được Cha Nhân Lành thấu biết và đếm cả rồi. Và khi đó,
chúng ta lao động, làm ăn, bán buôn, nghiên cứu, ... khác với những người không
nhìn biết Thiên Chúa!
Thực vậy, thiên hạ cầu trời khấn phật, coi
tướng số, cúng kiếng, xin xăm, ... cho công việc được thành đạt. Có người lọc
lừa, dối trá, thủ đoạn để cầu lợi; nhưng cũng có người quảng đại chia tài sản
mình cho người nghèo; có người dành cả đời cống hiến cho xã hội, cho cộng đồng,
...
Người Công giáo chúng ta thì xin lễ, xin
khấn,... để Chúa thánh hóa và chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng
ta...Chúng ta chia sẻ, đỡ nâng biết bao người anh chị em nghèo khổ, bệnh tật,
... bằng chính lòng bác ái và đồng tiền thu được trong lao công vất vả. Nhưng
thật lòng mà nói, cũng đã có những cạnh tranh không lành mạnh, những mánh khóe,
những giành giựt, những đấu khẩu, khấu thủ với nhau trên thương trường, nơi
đồng ruộng hay trên nương rẫy, .... Và như thế, vô tình hay cố ý, chúng ta đã
tự mâu thuẫn với chính mình, tự trở nên hợm hĩnh trước Chúa: chúng ta mời Chúa
ra chỗ khác, cho con tự xoay sở, tự làm việc theo cách của con, dù trước đó
chúng ta đã hết lòng cầu nguyện, xin khấn, xin lễ ... để phó thác vụ việc cho
Chúa.
Nói một chút về những tiêu cực trong tiết xuân
tươi mới, để chúng ta kịp lắng lòng lại, kịp giật mình tự hỏi: những giọt mồ
hôi tôi đổ ra đêm ngày để kiếm miếng cơm manh áo; để đem lại tương lai tươi
sáng cho con cái; để tìm phồn vinh cho gia đình, cho đất nước; ... có sự đồng
hành của Chúa không? Có giống với giọt mồ hôi của anh thợ mộc làng Nadarét xưa
không?
Ước gì trong những rộn rã của hoa quả, của lễ
vật người người dâng Chúa Xuân hôm nay, chúng ta nhận ra và khao khát một điều:
Xin cho những giọt mồ hôi con đổ ra là giọt mồ hôi có Chúa, hòa vào những giọt
mồ hôi của Chúa, mang đậm ước muốn và phúc lành của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi lao tác
cật lực với sức khỏe, với trí khôn, nhưng luôn tín thác vào Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tính toán
công mua sức bán, nhưng luôn tôn trọng sự thật và luật công bằng của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tìm kiếm
tiền bạc như những đầy tớ tốt, chứ không phải là những ông chủ khắc nghiệt.
Và, giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi được
tích cóp từng ngày, qua năm qua tháng, ... để cuối cùng, góp thành một bể yêu
thương cho ta vui đùa ngụp lặn, gột rửa ta nên sạch trong, và mở ra dòng chảy
vào Biển Yêu Thương của Đấng đã chấp nhận bước xuống Biển Đời lem lấm phận
người để thánh hóa, để thay dòng đổi lượng cho nó đượm hương Thiên Đàng và in
bóng Người Cha yêu thương đang mở rộng vòng tay đón đợi ta.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét