CHÚA NHẬT 5
THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Is
6,1-2a.3-8; 1Cr 15,1-11; Lc 5,1-11
MỤC LỤC
1. Tự do
2. Khiêm nhường
3. Đào tạo tông đồ - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ - Achille Degeest
5. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất
6. Được gọi để gọi người khác
7. Kêu gọi các môn đệ đầu tiên - McCarthy
8. Đào tạo môn đệ
9. Những môn đồ tiên khởi - R. Gutzwiller
10. Từ nay anh sẽ bắt người
11. Dựa vào lời Thầy
12. "Con sẽ là kẻ đánh lưới người"
13. Cuộc phiêu lưu
14. Mẻ lưới
1. Tự do
Các ông từ bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta phải cảm phục thái độ dứt khoát
và từ bỏ của các môn đệ trước lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, sau khi
Chúa Giêsu nói: Các con hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các con trở nên những kẻ
chài lưới người ta, thì Phêrô, Anrê cũng như Giacôbê và Gioan đã từ bỏ ghe
thuyền, chài lưới và cả những người thân yêu để bước theo Chúa Giêsu. Cũng vậy,
khi Chúa Giêsu đi qua bàn thu thuế tại Capharnaum, Ngài lên tiếng gọi Matthêu:
Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã đứng dậy, từ bỏ bàn giấy, từ bỏ nghề nghiệp mà
bước theo Chúa. Thái độ mau mắn và dứt khoát ấy làm cho chúng ta nhớ tới lời
Chúa đã phán: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo
Ta". Các môn đệ là như thế, chúng ta thì sao?
Chúng ta thường nói rất nhiều mà làm thì chẳng được bao
nhiêu. Trong tâm tư nguyện vọng, chúng ta muốn tôn thờ Chúa như một vị vua duy
nhất của lõi lòng. Chúng ta muốn dâng tất cả cho Ngài, thế nhưng trong cuộc
sống cụ thể, chúng ta rất ngại phải hy sinh, phải từ bỏ, phải dâng hiến cho
Ngài. Tình yêu chúng ta dành cho Ngài giống như một ngọn đèn thiếu dầu. Bình
thường thì nó cháy một cách leo loét, nhưng mỗi khi phải cố gắng, phải hy sinh
thì nó bỗng dưng phụt tắt.
Chính vì thế, mỗi người chúng ta phải kiểm điểm lại đời
sống, phải hồi tâm xét mình và phải chấp nhận con người thực sự của chúng ta là
như thế nào? Chúng ta có quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa hay không, bởi
vì chính sự quảng đại này mới là thước đo sự gắn bó và tình yêu của chúng ta
đối với Chúa.
Là người tín hữu, chúng ta có biết hy sinh những thú vui,
cho dù là chính đáng, để chu toàn những bổn phận đạo đức của chúng ta đối với
Chúa, để tuân giữ giới luật yêu thương của Ngài cũng như để thực thi thánh ý
của Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta hay không?
Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta có biết chấp nhận những
hy sinh gian khổ vì cuộc sống và tương lai của con cái hay không? Cho dù những
khó khăn, những bất đồng, chúng ta có đem vào trong gia đình chúng ta một bầu
khí yêu thương và đạo đức hay không?
Là những người con, chúng ta có biết mau mắn vui vẻ vâng
theo những lời khuyên bảo của cha mẹ. Chúng ta có biết chia sẻ những lo lắng
của cha mẹ bằng cách chu toàn những bổn phận của mình hay không?
Để kết luận, chúng ta nên nhớ điều này, đó là nếu chúng ta
còn ngại hy sinh, nếu chúng ta không dám từ bỏ, thì đó là dấu chỉ chắn chắn
nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa, chưa hề là người môn đệ đích thực
của Ngài.
2. Khiêm nhường
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn ngoan là
người biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng đồng thời cũng phải
khiêm tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết tin
tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người khác.
Và hành trình của đức tin cũng không đi ra ngoài sự khôn
ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt người khôn ngoan
đi tìm Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là thánh Phêrô.
Thực vậy, ông là một dân chài chuyên nghiệp, một người đi
biển nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không quá tự phụ với những sự
từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là khiêm tốn,
tin tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả lưới.
Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào về đức tin của
riêng mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như để kể công với Chúa. Trái
lại, thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng ấy, để suy nghĩ
và nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá, Phêrô đã thực sự
khiêm tốn thú nhận:
- Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Chính nhờ thái độ này, đức tin của ông được củng cố đến độ
ông không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả cuộc sống của
mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để
lắng nghe lời Chúa qua những con người, qua những biến cố mà Ngài gởi đến hay
không? Có lẽ Phêrô vẫn đoán biết Đức Kitô không có nhiều kinh nghiệm về biển
cả, nhưng ông rút kinh nghiệm qua những phép lạ, vì thế ông vẫn khiêm tốn vâng phục
và tin tưởng vào Chúa Giêsu vì Ngài còn là Thầy, là người hướng dẫn của ông.
Liệu chúng ta có biết hồi tâm để rút ra những kinh nghiệm như Phêrô hay không?
Kinh nghiệm bản thân cho ông hay ban đêm là cao điểm để
đánh bắt. Thế mà ông đã từng cực nhọc suốt cả đêm mà chẳng đánh bắt được một
con cá nào, vậy mà lòng trọng kính đối với Chúa Giêsu đã thúc đẩy ông thả lưới
giữa ban ngày ban mặt, là thời điểm chẳng thuận tiện chút nào. Liệu chúng ta có
quá tự hào về kinh nghiệm bản thân, để rồi khép kín cõi lòng mình trước lời mời
gọi của Chúa hay không?
Những kinh nghiệm và hiểu biết, đôi khi có thể trở thành
chướng ngại vật cản trở cho hành trình đức tin, nếu chúng ta không có được sự
khiêm tốn của Phêrô. Hãy cư xử như Phêrô, bằng cách đón nhận ý Chúa qua kinh
nghiệm của Hội Thánh, đồng thời cảm tạ Ngài bằng một thái độ cụ thể và quyết
liệt như Phêrô, đó là từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
3. Đào tạo tông đồ - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô
và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao
cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu
còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa
Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người
đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân.
Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn
với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà
giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là
chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở
lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu
muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài
học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa.
Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm.
Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể
làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động
tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho
thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ
mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự
thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa
rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm
nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để
kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó
là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra
khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô
là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài
lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi
Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã
vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã
thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn
sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian
vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua
những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi
bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là
bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành
thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa
ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi
điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra
khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi
những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn
nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta.
Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm
được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng
như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong
tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được
đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần
thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa.
Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh
không?
2. Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3. Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4. Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình
không?
4. Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ -
Achille Degeest
Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần giải thích theo
nghĩa này nghĩa khác có thể không có trong bản văn. Chúng ta chú ý đến nhiều
điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh
như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành
nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là
ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô
thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như
những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: "Lạy Thày, con là
một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội". Bằng một giọng uy nghi khích lệ,
Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh
phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
Chúng ta suy niệm về hai câu:
1) "Hãy ra khơi". Chúa phán thế vì biết ngoài
khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền
Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái
Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống,
lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được
ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được
gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng
gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan
trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô:
"Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người". Thật vậy, nhân loại không bị
cưỡng bách vào trong "lưới" của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn
bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự
thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho
biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế
giới.
2) "Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa".
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những
khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu
đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được
gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các
ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha
thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong
thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu
nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ
bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.
5. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất
(Suy niệm của Charles E. Miller)
Thiên Chúa thì kiên bền không thay đổi. Chúng ta có thể
tùy thuộc vào Thiên Chúa. Thánh Kinh đã mặc khải những hành động và những lời
của Thiên Chúa trong quá khứ. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong quá khứ là
những gì mà Người sẽ thực hiện trong ngày hôm nay. Những gì Thiên Chúa đã nói
trong quá khứ là những gì Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta hôm nay. Những gì xảy
ra cho Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đã xảy ra cho tất cả chúng ta
trong cùng một cách thế như thế ngày hôm nay.
Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể
thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và
những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất
để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó,
Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả
lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh
cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của
Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được
gì". Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng
quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai. Sau một
lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của
Ngài, nên Phêrô nói thêm: "Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới".
Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng
thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào
từ"Thầy" khi ông nói: "Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả
lưới". Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh
ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách
của Chúa thì tốt nhất.
Trước đó, tiên tri Isaia đã học cùng bài học như chính
Phêrô đã học. Đầu tiên, Isaia không muốn chấp nhận sứ vụ trở thành một tiên tri
cho dân Chúa. Ông cảm thấy mình bất xứng, ông tự mô tả chính mình như một người
không biết ăn nói. Ông sung sướng bỏ đi và theo một cách sống khác, nhưng Thiên
Chúa đã muốn ngài. Một thiên thần Sêraphim đã đụng đến môi của tiên tri Isaia,
đó là một biểu hiện ân sủng của Thiên Chúa. Với ân sủng này Isaia đã đáp trả:
"Này tôi đây xin hãy sai tôi", ngài đã trở thành một trong những vị
tiên tri lớn nhất bởi vì ngài đã theo đường lối của Chúa.
Trong lúc suy nghĩ chúng ta không thấy điều gì quen thuộc,
xảy ra với chúng ta sao? Có lẽ các bạn có nơi trái tim hình ảnh của một người
nào đó mà các bạn muốn kết hôn. Điều đó đã thực hiện được. Một người khác bước
vào đời sống của các bạn và bây giờ các bạn sẽ cảm ơn Thiên Chúa, vì hôn thê
của các bạn thật hợp với các bạn hơn. Có thể các bạn có một công việc mà các
bạn thích, các bạn có vẻ như có một tương lai với một công ty đặc biệt. Nhưng
trong thời suy thoái kinh tế, công ty giảm biên chế, bạn mất công việc của
mình. Tiếp đó, một cơ hội lớn thình lình mở ra cho bạn và bạn trở thành một
người có công việc khác khiến các bạn thấy rằng có một sự chăm sóc kỳ diệu mà
các bạn không bao giờ nghĩ ra trước đó.
Những thí dụ này có thể không thích hợp với các bạn. Mọi
người chúng ta phải có thời gian để suy nghĩ về những gì Thiên Chúa đã hành động
trong cuộc sống của chúng ta theo một cách vượt xa những gì chúng ta đã dự định
và mong đợi. Thánh Phaolô nghĩ rằng ngài đang thi hành bổn phận của một người
Do Thái sốt sắng nhiệt tình. Thiên Chúa có một dự định khác cho ngài, như là
một tông đồ và là tác giả của những bức thư Tân Ước. Ngài đã đặt bút viết những
điều về những giáo lý quan trọng nhất cho chúng ta. Cách của Thiên Chúa thì tốt
hơn của Thánh Phaolô.
Đôi khi chúng ta không bắt được một mẻ cá lớn. Những điều
xem ra là sai, là thất bại đối với chúng ta. Tiếp đó chúng ta phải kêin nhẫn và
dành thời gian để cho Chúa hành động. Từ thị kiến thiên đàng của tiên tri Isaia
chúng ta sẽ ca lên khúc tán tụng của mình: "Thánh Thánh Thánh, Chúa là sức
mạnh và quyền năng, trời và đất đầy vinh quang Chúa". Sự diễn tả vẻ huy
hoàng của Thiên Chúa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa siêu việt hơn chúng
ta. Đường lối của Người thì không phải là đường lối của chúng ta và đường lối
của Ngài luôn luôn là tốt nhất.
6. Được gọi để gọi người khác
- "Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?"
Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ
đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở thành giang
sơn của chị.
Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người khác. Trong
suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi trên kia chị
phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi
phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về
chuông kéo, kẻng sắt... nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người khác.
Ôi chao! Biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại nhà khách,
bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị Céline hằng
đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó... trừ ra chị. Vì
thế chị thường nói đùa: "Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo
ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi".
Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc
của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt,
chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng
thức không quá 10 dòng; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra
vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo... luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với
"sự gián đoạn" này của mình, chỉ mới có thể tạo nên "sự liên
hệ" của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang
cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai
cần gặp chị... Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn,
nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng
thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị
Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ: "Chúa
đến gọi tôi lần hai" (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy
lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn
vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ...
Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa
và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá
trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?
Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ban ơn gọi: ơn gọi
của Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ. 1), ơn gọi của Phaolô trên đường đi
Đamas (Bđ. 2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài Tin Mừng).
Nhưng chắc chắn có chủ ý dạy chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa và làm theo
ý Chúa, ra đi gọi những người khác đến với Chúa: được gọi để gọi người khác.
Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa
đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: "Tôi đây, hãy sai tôi
đi". Thái độ của Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi
vào thế gian: "Này con xin đến để thực thi ý Chúa" (Dt 10,9).
Thánh Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn gọi của mình
và cách mình đáp lại ơn gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên
đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm tốn cho mình là
một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông
coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại ông nhờ ơn Chúa
mà hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi bằng cả cuộc sống.
Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công
khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông:
"Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi lưới người như lưới cá". Điều này sẽ xảy
ra sau đó? Tin Mừng cho thấy không phải chỉ có Phêrô, người được gọi đích danh,
đã theo Chúa, mà cả những người khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa: "Ho đưa
thuyền vào bờ và bỏ mọi sự mà theo Chúa". Đến đây chúng ta mới rõ "mẻ
cá lạ" Chúa làm là có dụng ý hay có mục đích "mở đường" cho ơn
gọi của Phêrô và đồng bạn. Nghề nghiệp đánh cá của các ông thật đã giúp ích cho
các ông hiểu một cách dễ dàng sứ vụ mới là làm "những kẻ chài lưới
người" (Mt 4,19), nhưng mẻ cá lạ mới giúp các ông quyết định lại ơn gọi
một cách mau chóng, vì biết rằng có Chúa giúp khi thi hành sứ vụ của mình.
Anh chị em thân mến,
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã
chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công
trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao
nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn
đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách
khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức
ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không
ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông
cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý
hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho
những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp
mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám
mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.
Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người
đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang
xảy ra tình trạng "lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít".
Chính chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe tiếng Chúa
chỉ bảo ra làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện nay trên quê
hương đất nước chúng ta. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Chúa
chúng ta. Đó chính là ơn gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ và sau nầy. Đó
cũng là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin của mình trong
môi trường xã hội.
Nếu tình yêu đòi biểu lộ, và có khi biểu lộ bằng những
cách "kỳ lạ", thì Thiên Chúa vì quá yêu nhân loại, nêu đã biểu lộ
bằng nhiều cách thế, trong đó có cách thế cho con người được tham dự vào việc
truyền bá Tin Mừng, được đọc và được giảng Lời của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm
thay! Miệng lưỡi con người mà được nói Lời của Đấng siêu việt. Tình yêu Thiên
Chúa vẫn gửi tới mỗi người tín hữu để họ đem Lời Thiên Chúa nói cho những người
xung quanh, những người thân thuộc và cả những người đi theo Chúa, dùng chính
nghề nghiệp khả năng của mình để thành nghề lôi kéo người khác về cho Chúa. Và
Đấng là Tình Yêu đang luôn chờ đợi lời đáp trả của từng người chúng ta.
Và nhất là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức Kitô chịu chết
và tuyên xưng Ngài sống lại vì chúng ta qua cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy hết
lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi nầy. Nhờ nghe
Lời Chúa và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta sống ơn gọi một cách tốt đẹp
để đời sống chúng ta cũng là một lời mời gọi nhiều người khác đến với Chúa.
7. Kêu gọi các môn đệ đầu tiên -
McCarthy
Suy Niệm 1. LẠY CHÚA, THEO LỜI CHÚA...
Thời gian ban đêm là thời gian để đánh cá. Nếu có người
nào khác nói với Phêrô: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá" hẳn
ông sẽ nói: "Bạn có điên không? Phải chăng bạn muốn tôi trở thành một kẻ
điên trước mặt những bạn chài khác? Nếu bọn ngư phủ chúng tôi suốt đêm đã không
bắt được con cá nào, thử hỏi chúng tôi còn có cơ may nào để bắt được cá giữa
ban ngày?".
Nhưng khi Đức Giêsu nói những lời ấy với Phêrô, câu trả
lời tự phát của Phêrô là: "Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà
không bắt được gì cả. Nhưng theo lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".
Đối với Phêrô, lời của Đức Giêsu khác với lời của bất cứ
ai. Lời người mang theo quyền bính mà lời người khác không có được. Vì thế nếu
Đức Giêsu đã yêu cầu, thì dù tình thế có vẻ tuyệt vọng, dù Phêrô có mệt mỏi
hoặc có vẻ điên rồ, ông cũng phải thử làm lại.
Phêrô hoàn toàn tín thác vào Đức Giêsu. Theo lời Người,
ông được chuẩn bị để cố gắng làm điều không thể làm được. Sau này chúng ta còn
thấy được điều này trong Tin Mừng khi ông cố gắng đi trên mặt nước theo lời của
Đức Giêsu.
Có bao nhiêu người mà chúng ta coi lời họ là nghiêm chỉnh?
Chúng ta hoàn toàn tín thác vào lời ai? Chúng ta hoàn toàn tin cậy vào lời ai?
Câu trả lời là "rất ít".
Đánh cá là một nghề xứng đáng. Tuy nhiên, Đức Giêsu thấy
Phêrô có khả năng làm những việc khác. Đức Giêsu cần loại người như Phêrô để
giúp đỡ Người trong công việc của Người. Đức Giêsu đã nhìn thấy những đức tính
nào của Phêrô khiến Người kêu gọi ông chia sẻ công việc với Người? Ông có một
đức tính hàng đầu và quan trọng nhất là đức tin vào Đức Giêsu. Ông cũng có đức
khiêm nhường.
Câu chuyện Tin Mừng không còn là một câu chuyện về việc
đánh cá, nhưng về lòng tín thác. Đức Giêsu đã nói với Phêrô: "Anh sẵn sàng
tín thác vào Thày tới đâu?". Đây là một khúc quanh trong cuộc đời của
Phêrô. Điều gì bắt đầu từ một khởi điểm mới sau một thất bại thì bắt đầu với
một phương hướng mới.
Đánh cá là một nghề quan trọng. Nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi
Phêrô và các bạn chài của ông đến với một công việc còn quan trọng hơn. Người
đã mang lại cho họ không chỉ một công việc mới, nhưng một mục tiêu để họ cống
hiến cả cuộc đời họ cho mục tiêu ấy. Họ biết rằng người kêu gọi họ để phục vụ
những người khác: "Thày làm cho anh em thành những người đi đánh lưới
người". Khi các giáo chủ của các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ
biến đổi người ta thành những nô lệ của họ. Đức Giêsu kêu gọi các Tông đồ không
phải để họ phục vụ Người, nhưng phục vụ người khác.
Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to
lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người (như các tông
đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế
"chuyên nghiệp". Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo
Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức
Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là
sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có
mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban
đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.
Suy Niệm 2. MỘT KHỞI ĐẦU TỐT ĐẸP
Isaia, Phaolô và Phêrô là trung tâm của các Bài đọc hôm
nay. Cả ba người đã làm những điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Tuy nhiên họ đều có
mặc cảm tự ti. Họ có một quan điểm thấp kém về mình. Họ không đặt mình ra
trước, nhưng được Thiên Chúa kêu gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy một cách miễn
cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng với ơn gọi.
Isaia nói: "Tôi là một người có đôi môi ô uế".
Phaolô nói: "Tôi là người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng
mang danh tông đồ". Và Phêrô tuyên bố: "Lạy Chúa, xin hãy tránh xa
con, vì con là kẻ tội lỗi". Đó không phải là một sự khiêm nhường giả tạo của
ông mà là một chân lý rõ ràng.
Mỗi người bắt đầu bằng sự nhận ra sự bất xứng và không
thích hợp của mình. Theo một quan điểm tâm linh, sự khởi đầu như thế là lý
tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem ra làm hại hơn có lợi. Người ấy chỉ cậy
dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà tâm linh xây trên cát chắc chắn sẽ sụp
đổ.
Mặt khác, khi chúng ta gặp một người lo sợ, miễn cưỡng
ngần ngại, chúng ta nhận thấy người ấy đáng tin hơn, và nhân đạo hơn. Yếu tố
miễn cưỡng này là cốt lõi của vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh nhân hoặc tử đạo hăm
hở đi tìm cái chết hoặc cực hình xem ra không chân thật.
Ở đây có một nghịch lý to lớn. Phaolô nói: "Khi tôi
yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông nhận ra sự yếu
đuối của mình và chạy đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa trở nên có hiệu
lực nơi ông.
Khi chúng ta biết những yếu đuối của chúng ta, Thiên Chúa
có thể làm chúng ta mạnh mẽ. Khi chúng ta biết sự trống rỗng của chúng ta,
Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng ta. Khi chúng ta biết sự nghèo nàn của chúng ta.
Lúc đó, chúng ta thích hợp để làm công việc của Người, và Người hoàn thành
trong chúng ta những việc mà chúng ta nghĩ mình không làm được.
Sự khiêm nhường là một khởi điểm. Điều đó không có nghĩa
là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ và hèn nhát. Không có ân sủng, chúng ta không
thể cứu lấy mình, càng không thể cứu người khác.
Tuy nhiên, người ta có thể dùng tội lỗi và yếu đuối của
mình như một lá chắn. Isaia xin Thiên Chúa chọn người khác, người nào có cái
miệng thanh sạch. Phêrô xin Đức Kitô tránh xa ông vì ông là kẻ tội lỗi. Khi
chúng ta làm điều đó, chúng ta nhượng bộ sự yếu đuối của chúng ta. Chúng ta
dùng sự yếu đuối của mình như một mánh khoé thách đố làm điều thiện hảo.
Theo Phêrô, Đức Giêsu là Đấng Thánh phải tránh xa ông là
kẻ tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu khước từ làm như thế. Người đã đến vì những người
tội lỗi. Bằng cách ấy, Người đã thay đổi cách hiểu của con người về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải là Đấng xa lánh tội nhân, nhưng là một Thiên Chúa muốn họ
được cứu, và đem đến cho họ một sự khởi đầu mới mẻ.
Isaia, Phaolô và Phêrô sau cùng đã chấp nhận lời mời gọi
của Thiên Chúa, và cả ba đã làm một công việc sáng chói. Đây là một nghịch lý
–sức mạnh vươn lên từ sự yếu đuối. Khi chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Thiên
Chúa, Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể làm những điều mà
chúng ta không bao giờ nghĩ mình làm được.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự khiêm nhường để hiểu
biết những yếu đuối của chúng ta, và cho chúng ta sức mạnh vượt lên yếu đuối.
Lúc đó, chúng ta sẽ có được niềm vui để khám phá ra rằng chính khi chúng ta yếu
là lúc chúng ta mạnh, bởi vì quyền năng của Chúa trở nên có hiệu lực đối với
chúng ta.
8. Đào tạo môn đệ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên:
biển Galilê, biển Ti-bê-ri-át và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài 20,8km, rộng
12,8km. hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển, vì
thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm,
nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chính thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn
nào dưới mười lăm ngàn dân. Ghen-nê-xa-rét thực ra là tên của một cánh đồng
xinh đẹp nằm ở phía tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu nhất.
Tại đây chúng ta đối diện với một khúc quanh trong chức vụ
Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong nhà hội nữa, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ.
Rồi Ngài sẽ còn trở lại nhà hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa nhà hội đóng
lại trước mặt Ngài, thì Hội Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở ngoài đường
cái, và tòa giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào
người ta muốn nghe Ngài giảng. Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài
đường, bên bờ hồ. Vào dịp này Ngài mượn một chiếc thuyền của một người bạn dùng
làm tòa giảng để giảng cho quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban cho bốn người
sắp được kêu gọi một bài học cụ thể về tính cách của công tác và sự thành công
vĩ đại sẽ đến với chức vụ của họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả để đi theo
Ngài. Ngài đã làm một phép lạ vô cùng kích động, và chúng ta có thể liệt kê các
điều kiện để một phép lạ xảy ra:
1. Có mắt biết nhìn xem:
Chúng ta không cần nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá
lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có
thể che đặc cả mặt biển trong một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của
Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà các ngư phủ không thấy. Chúng ta cần
đôi mắt biết nhìn thấy. Nhiều người đã nhìn nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng
chỉ một mình James Watt đã nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi nước. Nhiều người
đã nhìn thấy táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn thấy và đã tìm ra
luật hấp lực của trái đất. Nhìn lên bầu trời các nhà thiên văn học tìm thấy
nhiều điều hơn là một người thường. Nhìn vào một hàng rào cây cỏ, các nhà thảo
mộc khám phá ra nhiều điều kỳ diệu mà một người nông dân thường không nhận ra
được.
"Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì
họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói
với các môn đệ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa
gặt sai thợ ra gặt lúa về." (Mt 9,36-38).
Sau cuộc tiếp xúc với người phụ nữ xứ Samari ở bờ giếng
Gia-cóp, Chúa nói với các môn đệ viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin Mừng:
"Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này, Thầy
bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt
hái!" Và thánh Gioan ghi tiếp: "Có nhiều người Samari trong thành đó
tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở
lại với họ, Người ở lại hai ngày. Số người tin còn đông hơn nữa." (Ga
4,35.39.40) Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những ai biết nhìn xem.
2. Có tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:
Khi Chúa Giêsu nói thế, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn
lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ
ngã lòng quá sớm. Trong cuốn hồi ký "Cuộc đời những thành tựu của
tôi", nhà tỷ phú Mỹ Henri Ford với biệt danh vua ô tô, đã ghi lại biết
quyết thành công của ông: "Những người đầu hàng thường đông hơn những
người chiến thắng, không phải họ thiếu tiền của, sự hiểu biết, trí thông minh,
lòng ham muốn... cái họ thiếu là lòng kiên nhẫn." Và ông gọi đó là
"nữ hoàng không vương miện của ý chí." Ray Knoe, một thiên tài của
công ty sản xuất thực phẩm "mì ăn liền" Mc Donald, cũng có cùng một
quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu các năng lực của con người, ông
viết: "Không có gì trên thế gian có thể thay thế lòng kiên trì. Tài năng
ư? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ thất bại! Thiên tài ư? Thiếu
gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư? Thế gian đầy dẫy những kẻ vô
dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì và cương quyết là vạn năng.
Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì không có gì có thể địch nổi."
3. Có tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt
vọng:
Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc đánh bắt cá,
tất cả hoàn cảnh đều không thuận tiện, nhưng Phêrô nói: "Trong hoàn cảnh
như vậy, nhưng nếu Thày bảo thì chúng con xin vâng."
Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ
chờ đợi cho đến lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt
đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng
ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Rõ ràng đó là do một quyền phép siêu nhiên khiến Phêrô cảm
thấy mình đang đứng trước sự hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ vẻ sợ hãi như
cảm giác của một người đối diện với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã phán những lời
chẳng những đánh tan sự kinh hãi của Phêrô, nhưng cũng đem lại can đảm cho ông
và đồng bạn trong những năm tới: "Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chinh
phục người ta."
Ngay nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài.
Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu
rỗi các linh hồn.
Để kết thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của chân phước
Eserive, sáng lập Opus Dei: "Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi xía
vô chuyện ấy? Tôi phải trả lời ngay cho bạn: Chính Đức Kitô ra lệnh cho bạn đó.
Ngài bảo bạn phải xin "vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu xin
chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa!" Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm sao
được? Tôi có nhiều việc phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho
tôi! Không, không có ai khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói
như thế. Lời mời của Chúa là dành cho tất cả và mỗi người Kitô hữu. Không có ai
được miễn trừ, dầu là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một
miễn trừ nào, một là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta
kiệt quệ." (Escriva amis de Dieu).
9. Những môn đồ tiên khởi - R.
Gutzwiller
Cho đến bây giờ vẫn chỉ có một mình Đức Giêsu giảng Tin
mừng. Bây giờ Ngài tụ tập các môn đệ quanh Ngài. Chắc hẳn đó là một cộng đoàn
thính giả, nhưng cũng là những cộng tác viên mà Ngài cho tham dự tích cực vào
công việc của Ngài. Điều này xem ra có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Thế nhưng,
ngay bản chất của Thiên Chúa nhập thể đòi hỏi Ngài phải sử dụng con người để
xây dựng Nước Thiên Chúa. Lời mời gọi thật là ý nghĩa bắt đầu nơi Simon Phêrô.
1. Chuẩn bị.
Nơi Simon, thửa đất được chuẩn bị thật kỹ lưỡng, mặc dầu
ông không ý thức được điều đó. Ông có mặt khi Chúa chữa lành người quỷ ám trong
hội đường. Nơi nhà ông, Chúa đã chữa lành bà nhạc của ông và chiều đến, trước
cửa nhà ông, nhiền bệnh nhân đã tìm lại được sức khoẻ một cách lạ lùng. Đây
Chúa Giêsu đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá của ông, nhẹ nhàng đi ra xa bờ
và từ đó, Ngài cất tiếng giảng dạy dân chúng; vị trí đặc biệt này cũng là vị
thế của ông trong lãnh vực thiêng liêng.
Trong việc sửa soạn trực tiếp cho vị Tông đồ có hai phương
diện: đòi hỏi và củng cố.
Yêu cầu thứ nhất là phải luôn dễ dàng suy phục đức tin.
Chúa Giêsu bảo ông ra khơi thả lưới. Phêrô cũng từ chối như bất cứ người nào
khác: ông tuyên bố rõ rằng: mình đã vất vả suốt đêm –thời gian thuận tiện để
đánh cá- cùng các bạn, thế mà chuảng kết quả gì. Bây giờ tại sao lại phải làm
nữa, vào một lúc bất lợi, khi mà con người mệt mỏi và xét theo loài người thì
tất bại là cái chắc!
Nhưng ông cũng thưa: 'Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới'.
Tinh thần đức tin đưa đến chỗ vâng phục, khiến cho ông được thừa nhận và được
ban thưởng một mẻ cá lạ lùng. Mẻ cá mà Simon và em là Anrê bắt được quá nhiều
đến độ ông phải làm hiệu cho bạn là Giacôbê và Gioan ở một chiếc thuyền khác
đến giúp đỡ. Và cả hai thuyền đầy ắp những cá.
Con người lao công, Thiên Chúa thưởng công. Cần con người
phải ra tay hành động, phải cố gắng, phải sử dụng mọi phương tiện cần thiết,
nhưng trong việc phụng vụ nước Chúa, phần kết quả không tuỳ thuộc ở con người.
Kể từ thời ấy, Giáo Hội rất thường sử dụng mọi phương pháp
để hoạt động tông đồ, dốc toàn lực và kiên trì làm việc; dầu hạt giống đã gieo,
nhưng số thu hoạch không tăng gấp bội.
Ngược lại, khi không, ở một miền nào đó trên trái đất, nơi
người ta chẳng hy vọng gì thì nhiều lần Thiên Chúa lại làm phát sinh một mùa
thâu hoạch thật là phong nhiêu, chỗ mà người ta cho rằng kết quả chẳng có bao
nhiêu. Ở đây trong sự mời gọi thi hành nhiệm vụ khởi đầu của Simon, rõ ràng
thành công hay thất bại đều ở trong tay Chúa, vất cả chỉ có ý nghĩa khi nó hợp
với Thánh ý và giới mệnh của Chúa, thi hành cả lúc coi là có viễn tượng thất
bại, nhưng làm với một niềm tin trung kiên bền vững.
Đòi hỏi thứ hai là ý thức tình trạng tội lỗi của mình.
Thánh Phêrô đã hiểu mẻ cá này có ý nghĩa gì rồi. Nó làm cho ông chú ý đến Đức
Kitô dường như ngôi sao lạ đối với các đạo sĩ, bởi vì mẻ cá nhiều quá đỗi,
trong một khoảng thời gian vắn, một nơi bất lợi, tất cả cho ông biết rằng có sự
hiện diện của một lực siêu nhiên.
Do vậy, Thánh Phêrô có kinh nghiệm về Thiên Chúa nhờ gần
gũi với Đức Kitô. Sự gần gũi này làm ông sợ hãi đến cùng cõi thâm sâu trong
người ông, ông ý thức được tình trạng tội lỗi của mình, đó là cái không thể tồn
tại trước nhan Thiên Chúa. Con người càng cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa
hằng sống, thì càng thấy cái tôi tội lỗi cua mình biểu hiện ra thật đau khổ và
không thể nào chịu được. Vì đó Thánh Phêrô, đã sụp xuống và sợ hãi thưa: 'Lạy
Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi'.
Đó hẳn là thái độ xứng hợp. Con người được mời gọi cộng
tác vào nước Thiên Chúa chẳng phải vì có những khả năng đặc biệt như những tư
chất tri thức, điều kiện luân lý và đạo đức, nhưng chỉ đơn giản là vì Thiên
Chúa muốn họ cộng tác, có thế thôi, chứ nơi con người không có chi xứng đáng để
Thiên Chúa phải chọn lựa. Một khi con người biết rằng mình được Thiên Chúa mời
gọi không phải vì 'mình thế này thế nọ', nhưng 'cho dù mình bất xứng, Thiên
Chúa cũng vẫn...', và nếu thành thực thú nhận rằng mình tội lỗi thì sẽ chẳng
quy kết quả và vinh dự cho bản thân mình nhưng cho duy mình Thiên Chúa mà thôi.
Thế cho nên mẻ cá lạ lùng này là một chuẩn bị tuyệt hảo.
Khi con người tội lỗi tín thác vào sức mạnh và sự cao cả của Thiên Chúa, và bắt
tay vào việc với tinh thần dễ dậy và ngoan ngoãn với đức tin, thì lúc đó họ
đang sống trong chân lý. Mọi thái dộ khác xuất phát từ nguyên một triết lý tự
nhiên thôi, đều phải coi là sai lạc. Chúa Giêsu không đòi hỏi mà thôi, phép lạ
của Ngài còn làm cho Simon và các đồng bạn được vững chắc trong tâm hồn.
Là những ngư phủ thiện nghệ, họ sẽ chẳng bao giờ quên được
mẻ cá này. Họ chưa từng thấy hay kinh nghiệm một trường hợp nào tương tự. Nay
bỗng dưng vào một lúc bất tiện, cả một đàn cá từ tứ phía đổ tràn vào lưới; nay
bỗng nhiên mẻ cá nhiều đến độ hai thuyền chở nặng gần chìm; họ coi đây là hiện
tượng siêu phàm không thể hiểu được.
Sau này khi đi giảng Tin mừng các ông sẽ gặp sự chống đối
từ phía Israel, và sẽ phải từ bỏ dân riêng của mình sau bao năm trường vất vả
mà không kết quả để quay về phía các dân ngoại.
Với một thiểu số ít ỏi, họ đã chinh phục được những thành
phố lớn; đến giờ chịu tử đạo, các ông sẽ phải bỏ mạng sống mình và bỏ tất cả để
chấp nhận một số phận bấp bênh hầu phục vụ nước Thiên Chúa. Thế nhưng các ông
không lầm khi theo Chúa Kitô bởi vì từ nay các ông biết rằng kết quả có thể đến
bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ ở nơi nào, lúc nào tuỳ sự tự do cao cả Chúa định
đoạt. Các ông không còn lo lắng đến thành công hay thất bại, chính Chúa Kitô sẽ
quyết định những điều đó.
Sau những đêm trường vất vả mà công dã tràng, các ông nhận
được những buổi mai vinh thắng. Trong nước Thiên Chúa, vất vả cố gắng không
được cân đo theo những quy luật tự nhiên. Ta hãy tin rằng mọi sự đều ở trong
tay Thiên Chúa; phải luôn luôn thi hành công việc với lòng hy vọng và đừng khi
nào thất vọng.
2. Sứ vụ
Simon nài xin: 'Lạy Thày, xin hãy tránh xa con'. Chúa
Giêsu trả lời ông theo một hướng trái ngược hẳn: 'Đừng sợ, các con sẽ là kẻ
chinh phục người ta'. Tạo vật tội lỗi có lý do để sợ hãi. Nhưng ơn sủng của
Chúa Kitô sẽ xua đuổi nỗi lo sợ này. Tội lỗi đẩy ra xa, còn ân sủng kéo lại
gần. Không phải chỉ để vui hưởng yên ủi hay bản thân được cảm nghiệm, nhưng là
để tham dự và cộng tác vào công trình của Chúa. 'Con sẽ là ngư phủ lưới người
ta'.
Chiếc ghe nhỏ của Phêrô từ đây sắp lướt trên đại dương,
tức là lịch sử thế giới, đoàn người đi với Ngài không ngừng tìm cách câu lưới
người ta. Con người sẽ trở nên miếng mồi của Thiên Chúa, nhưng không phải để bị
huỷ diệt, mà là để được giải thoát: để được cứu vớt khỏi cái đầm lầy đáng
thương tức là cuộc sống hoàn toàn có tính cách trần thế, và được đưa sang đại
dương mênh mông tức là tình yêu của Thiên Chúa.
Bởi vì một khi sóng nước đời này muốn làm biển cả thì thực
tế lại chỉ là một cái đầm lầy nước đọng. Chỉ khi nào sa vào lưới của Chúa và
rồi được Ngài cho chìm ngập trong những cuộn sóng ơn sủng, bấy giờ, họ mới có
được cái kinh nghiệm thế nào là sự phong phú của một đời sống trong Chúa.
Để thực hiện chương trình này, Chúa Giêsu sắp chinh phục
những con người mà Ngài sẽ lấy quyền năng của mình để trang bị cho và trao cho
nhiệm vụ ra đi giảng dạy. Do đó không được hoàn toàn quên đến phần đóng góp của
con người để cho rằng một mình Thiên Chúa làm hết mọi sự.
Nhưng thể theo ý của Đức Kitô, Đấng đã sắp đặt như thế chứ
không theo cách khác, những con người này phải chịu vất cả với sự kiên nhẫn,
đam mê kiên trì của một ngư phủ, để đem hiểu biết cũng như tài khéo trong việc
đánh bắt những con người 'cô đơn' sử dụng những phương pháp tinh xảo để thu
phục đám đông, dành mọi nỗ lực để phục vụ sứ mạng đã được trao phó.
Không có gì cao quí cho bằng nghề lưới người: phải bắt đầu
lại luôn luôn, hết mẻ này đến mẻ khác... đến với mọi giai tầng xã hội, mọi ý
thức hệ chính trị, mọi phe nhóm quốc gia, chủng tộc.. Mọi tuổi tác, giới phái,
trình độ văn hoá... Các ngư phủ lưới người phải làm việc theo lệnh của Chúa ở
khắp mọi nơi. Đó là sứ vụ của họ.
Vậy họ trả lời ra sao? 'Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo
Ngưới'. Bản văn không thuật lại một lời phản kháng nào của bốn môn đệ tiên khởi
cả. Không bán tín bán nghi, cũng không từ chối vì thứ khiêm nhường giả tạo,
cũng không vì nhiệt tình bồng bột; nhưng chỉ nhấn mạnh đến hai mặt của sự kiện:
'Các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Người'. Mỗi một mặt đều có tầm quan trọng
riêng của nó.
Bỏ mọi sự. Con người phải cởi bỏ những mối dây làm mình bị
vướng víu và tê liệt. Cần phải có bàn tay và tâm hồn tự do. Không còn thuộc về
thế giới xung quanh và cái vũ trụ quen thuộc. Chúa Kitô muốn cho kẻ được Ngài
mời gọi cộng tác phải hoàn toàn tuỳ Ngài xếp đặt. Ân huệ tuyệt đối giả thiết sự
từ bỏ hoàn toàn. Nhờ từ bỏ, con người chuẩn bị cho mình thật sẵn sàng.
Đi theo Người. từ nay có một nhóm môn đồ ở với Thầy. Các
ông không theo Ngài kiểu như những học trò thụ giáo một bậc Thầy triết lý: bởi
vì đây không nhằm mục đích tri thức, nhưng là một sự dấn thân thực sự. Chúa
Giêsu đã biến những ngư phủ này thành những ngư phủ lưới người, kéo họ ra khỏi
cái thế giới nhỏ hẹp của họ; họ sắp đi theo Ngài, cùng Ngài đi vào thế giới
mênh mông. Họ thuộc về Ngài hoàn toàn, họ đã khám phá một tâm điểm mới cho cuộc
sống, một mục đích mới để hoạt động.
Giờ đây chính Chúa Giêsu sắp xếp mọi sự cho họ; Chúa Kitô
sẽ là số phận của họ trong suốt cuộc sống của họ trên dương thế, và là cuộc
sống mới của họ. Sau mẻ cá lạ lùng này, họ đã cập bờ nhưng với con người hoàn
toàn khác hẳn. Sự ra đi này biến thành một cuộc vượt biển mới, cuộc Vượt qua
bao la và đòi can đảm mà họ chỉ thoáng linh cảm thấy.
Theo gương Chúa Kitô, qua việc từ bỏ và tận hiến mình thực
sự là điều lớn lao nhất trong cuộc sống của con người.
10. Từ nay anh sẽ bắt người
Suy Niệm
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.
Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới
của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần
phải chăm nom.
Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống
trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông
vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn
vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó
hơn những người ông đã từng yêu.
Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền
của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều
lý do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình để thấy tốt hơn
nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi. Nhưng Simon đã
vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc
4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run
rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho
một lời mời gọi mới: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người."
Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình
bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội
lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho
Chúa tự do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền
đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những
điều tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Nghe theo tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết
quả không ngờ: có khi nào trong đời, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh
nghiệm của Simon không?
Theo ý bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là khó bỏ hơn
cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của
Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai
nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém
tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì
Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà
êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
11. Dựa vào lời Thầy
Suy Niệm
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp. Cuộc
đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay. Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học
này lại lọt vào cặp mắt của Đức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông. Chắc
ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng và thấy một số phép lạ Ngài làm. Đôi bên đã
quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường, nên Đức Giêsu rất tự nhiên
xuống thuyền của Simon, và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu. Đây
thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá thì
đánh cá ban ngày cũng uổng công. Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm
vất vả. Lưới đã được giặt và đem phơi...
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác, kinh nghiệm về
sức mạnh của Lời Đức Giêsu. Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa
cho mẹ vợ ông. Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Điều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp. Còn khi
chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn. Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay
Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho ông. Ngài cho
ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa.
Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Đấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông, thì Ngài lại đến gần
ông để trao sứ mạng. Ngài mở đời ông sang một trang mới:
"Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta." Không phải
bắt để làm chết như bắt cá, nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Đức Giêsu:
kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin, kinh nghiệm thấy
Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ, kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm
đáp trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Đức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại. Chỉ cần đứt
một mắt xích là tương quan đổ vỡ. Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng
tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên
kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt
tất cả dưới Chúa và sử dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác. Tôi có
dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có nhiều người đi lễ, nhưng ít người nghe được tiếng mời
gọi cộng tác của Đức Giêsu. Bạn có thấy vai trò quan trọng của giáo dân trong
Hội Thánh không? Họ có thể làm gì và phải làm gì?
Cuộc đời Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả mà không
được gì. Bạn đã làm gì để giữ vững niềm tin trong giai đoạn ấy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của
Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai
nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì
Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà
êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
12. "Con sẽ là kẻ đánh lưới
người"
Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng thuyết trẻ,
vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội mà Luca là người thuật lại đã
bắt đầu như thế. Trong khi mô tả bước đầu này ngài hiểu những chuyến đánh cá
người đầu tiên, những bước đầu của Giáo Hội nơi thế giới ngoại giáo. Và chúng
ta, làm sao chúng ta không nghĩ đến những đám đông các tín hữu?
Nhưng cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi những ngư phủ
nữa. Tin Mừng này là dành cho mỗi một người chúng ta, ngay cả đoạn 10 nổi tiếng
mà vì Tin Mừng đó, đoạn này đã được viết: "Từ nay đây là những người mà
con sẽ bắt lấy". Đây là những từ ngữ thật sự đánh trúng những thanh thiếu
niên đã trở nên những linh mục và những nhà truyền giáo.
Và có thể đánh trúng những ai trong khi đọc lại trang Tin
Mừng của Luca cảm thấy nổi lên sự nản chí: đánh cá ở đâu và như thế nào đây?
Đây chính là mục tiêu của trần thuật này của Luca: niềm
tin vào Chúa Giêsu như là phương thuốc chống lại sự nản chí. Trong khi khai mào
mùa đánh cá tông đồ lớn lao, Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo đừng nên quên
bao giờ: không có Ta, lưới của các con sẽ trống trơn. Chúng ta không luôn luôn
thấy rõ chân lý cơ bản này ở vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã dấn thân vào sứ
mạng tông đồ, chúng ta lao nhọc ngày đêm mà không làm việc một cách đầy đủ với
Chúa Giêsu. Chúng ta bỏ không nghe bài giảng, xao lãng các bí tích, chúng ta
hoạt động, chạy vạy và một ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm cật lực một cách
vô ích.
Làm phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta muốn thoát ra
khỏi một giây phút nghi ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng này. Đây là
trang Chúa Giêsu tỏ cho thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta tin cậy vào
Ngài. Ngài chọn điều có thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông đồ đầu tiên:
nghề nghiệp của họ. Và Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà đưa ra những
lời khuyên cho những người chuyên đánh cá, và là những người vất vả qua một đêm
nỗ lực nhưng vô ích.
Những nhà chuyên môn trong công tác tông đồ sẽ gặp cảnh
này. Cạn kiệt những nỗ lực vô ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho Chúa Giêsu, nghĩa
là cho việc cầu nguyện. Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong công tác tông đồ
hạn hẹp hơn và không chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay hoặc tìm kiếm
những phương pháp khác hơn là chuyên chú cầu nguyện.
Dầu vậy, chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến cho chúng ta
lòng nhiệt thành của Phêrô. Là thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc, Chúa Giêsu
đã chinh phục ông: "Theo lời Thầy, tôi xin thả lưới".
Chúng ta sẽ không đưa về những mẻ lưới và những chiếc
thuyền đầy cá. Chúng ta không còn ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ đến phép lạ
củng cố một niềm tin vừa chớm nở. Nhưng chúng ta biết điều mà con người đã có
thể làm cùng với Chúa Giêsu, qua những mẻ lưới truyền giáo lớn. Chúng ta có
quyển Công Vụ Tông Đồ, những câu chuyện truyền giáo và những hạnh các thánh để
làm sống lại niềm tin của chúng ta. Một mình đức tin, đức tin có thể làm cho
chúng ta thành các tông đồ làm việc cật lực nhìn lên Ngài "theo lời Thầy,
tôi xin thả lưới".
13. Cuộc phiêu lưu
Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của ba nhân vật
quan trọng nhất của Thánh Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô. Cả ba đã gặp Chúa
trong những biến cố lạ lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc đời cho Ngài. Vậy
thì cuộc phiêu lưu ấy như thế nào?
Đối với Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông trong một thị
kiến khác thường. Ông thấy vinh quang Thiên Chúa bằng một cảnh sắc hùng vĩ, với
các thiên thần đứng chầu và không ngớt tung hô. Một cảnh tượng uy nghiêm và
trang trọng.
Đối với Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ông một cách
trực tiếp hơn. Sau khi đã kể lại những người đã được Đức Kitô phục sinh hiện
đến, ông cũng cho biết là Đức Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó ông đang
bắt bớ Giáo hội, nhưng là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra này đã
là một biến cố quan trọng trong đời sống của ông.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bị bắt lấy đang lúc làm việc
và đã thấy được quyền năng của Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố đó đã làm
cho ông và các bạn ông tin theo Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba cách thức
khác nhau để mạc khải, để tỏ lộ mình ra.
Đối với Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh quang. Đối
với Phaolô thì Đức Kitô là chủ của sự sống, còn đối với Phêrô, thì Ngài là Chúa
của tạo vật. Đối với mỗi vị, Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu hút lại vừa
chế ngự. Vừa có vẻ như xa xôi nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng những lời
mời gọi mãnh liệt nhất và trong những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với họ như để
hoàn thành một cách sung mãn niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn họ.
Đồng thời trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có cùng một
phản ứng, vừa bất ngờ lại vừa mạnh mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất xứng và hổ
thẹn.
Isaia đã kêu lên:
- Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi nhơ bẩn.
Phaolô thì tự thú:
- Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ và không
xứng đáng với danh hiệu ấy, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.
Còn Phêrô thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:
- Lạy Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi là kẻ tội
lỗi.
Giữa lý tưởng cao cả mời gọi họ và con người yếu đuối của
họ có một hố sâu cách biệt, làm cho họ cảm thấy mình bất lực và muốn đẩy Thiên
Chúa ra xa. Trước mặt Thiên Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi và xấu hổ. Thế
nhưng chính Ngài sẽ hành động để nâng đỡ sự yếu hèn của con người.
Miệng lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng than hồng.
Phaolô được biến đổi bởi ơn Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,. thì cảm
thấy như được an tâm để dấn thân vào công việc mới. Như thế mỗi người đều được
Thiên Chúa tái tạo và chấp nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng và thất
vọng nhất. Từ đó họ cảm thấy cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào Thiên
Chúa. Nên họ hoàn toàn phó thác, để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài mong
muốn nơi họ. Họ chỉ còn biết theo Ngài và tuân phục Ngài.
Để đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì Isaia đã trả
lời:
- Này tôi đây, xin hãy sai tôi.
Phaolô thì nói:
- Tôi đã chịu khổ nhọc nhiều hơn những người khác.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe thuyền mà đi
theo Chúa Giêsu.
Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng tuyệt đối vào
Thiên Chúa. Tin tưởng vì Thiên Chúa chính là tất cả những gì chúng ta muốn và Ngài
sẽ làm cho chúng ta trở nên như thế, vì nếu không có Ngài chúng ta không là gì
cả.
Cuộc phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải chăng cũng là
cuộc phiêu lưu của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều
cách. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều ngả đường.
Vì thế, cần phải chăm chú lắng nghe và tìm hiểu. Có những
lúc chúng ta cảm thấy bối rối và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng ngã lòng, bởi
vì Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ. Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng từ bỏ và vâng
phục Ngài.
14. Mẻ lưới
Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa Giêsu nói với
Phêrô rằng:
- Hãy ra khơi và thả lưới.
Và chúng ta đã thấy được phản ứng tức thời của Phêrô. Ông
nói:
- Thưa Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt đêm mà chẳng
bắt được một con cá nào. Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả lưới.
Qua lời nói này, chúng ta thấy được thái độ của Phêrô. Ông
không tranh luận và bàn cãi với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm nghề nghiệp của
mình, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì thế mẻ cá lạ lùng
đã xảy ra. Đồng thời, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các ông đã làm lụng vất
vả suốt đêm, tuy nhiên các ông đã làm lụng như thế nào?
Tôi xin thưa:
- Các ông đã làm lụng một mình.
- Và kết quả ra làm sao?
Tôi xin thưa:
- Chỉ là một con số không.
Với chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc một mình, có
nghĩa là chúng ta quá ỉ vào sức riêng, quá cậy dựa vào tài năng của mình, để
rồi thất bại sẽ làm cho chúng ta bực bội và thất vọng. Trái lại, với tâm tình
cầu nguyện và tin tưởng, chúng ta hãy mời Chúa cùng làm với chúng ta và chúng
ta sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn
không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Hay như Thánh vinh đã nói:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.
Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Và chính Chúa cũng đã xác quyết:
- Không có Thày, các con không thể làm gì được.
Tiếp nối đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ cá lạ lùng
ấy, các môn đệ đã đi từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô đã quì xuống
dưới chân Chúa và thưa lên với Ngài:
- Lạy Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Phải chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ cõi lòng
khiêm nhường của ông, khiến chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên đội
trưởng:
- Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.
Chúa Giêsu không những đã không rời xa Phêrô, trái lại
Ngài đã yêu thương và dành cho ông một sứ mạng:
- Từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.
Và Phúc âm đã kết thúc: các ông cho thuyền vào bờ, rồi sau
đó đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi này đã nói lên
tất cả. Các ông đã trở thành những mẫu gương sáng chói cho muôn đời noi theo,
bởi vì qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi sự, bước theo
Chúa trên dấu chân của các ông.
Lời Chúa phán với các ngư phủ bên bờ hồ Tibêriade ngày xưa
vẫn còn vang vọng tới chúng ta cho đến hôm nay:
- Các con hãy ra khơi và thả lưới.
Vâng theo lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị tông đồ đã đi
tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm, thực hiện
những hành động bác ái yêu thương hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Riêng chúng ta thì sao? Là những người dân ở hậu phương,
chúng ta có bổn phận phải yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến bằng lời
kinh cầu nguyện, bằng đời sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải cũng như
bằng chính tiền bạc vật chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái được
những thành quả tốt đẹp, và bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó, cũng sẽ
trở nên những người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ
bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội? Chúng ta có thực sự muốn ra
khơi và thả lưới hay không?
Sưu tầm
LỄ GIAO THỪA: Mt
5,1-10
MỒNG MỘT: Ga 14,
23-27 hoặc Mt 6, 25-34
1. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
2. Thời gian (Mt 6,25-34)
3. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
4. May mắn (Mt 5,1-10)
5. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
6. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
7. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
8. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
9. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
10. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
11. Thiên Chúa hay thần tài?
12. Xin ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
13. Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên
14. Thánh Lễ Giao Thừa
15. Bình an
16. Chúng ta là người hành khất
17. Giây phút linh thiêng
18. Lời cảm tạ tri ân
19. Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật
20. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
21. Lời hứa năm mới
22. Xin cho tất cả đều mới
23. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10)
24. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
25. Cầu bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10
26. Thánh Lễ Giao Thừa
27. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
28. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34)
29. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại
30. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
31. "Những Dấu lặng của Mùa Xuân"!
32. Vạn sự như ý... Chúa
33. Hạnh phúc đích thật
34. Ngày đầu năm – R. Veritas
35. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
36. Năm mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
37. Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34
38. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10
39. Tết cho mọi người – Lm Jos Nguyễn Hữu An
40. Hạnh phúc trường sinh
41. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10)
42. Bình an và hạnh phúc
43. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10)
44. Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt 6, 25-34)
45. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
46. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34)
47. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
48. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
49. Cầu bình an trong năm mới
50. Bình An - Quà Tặng Năm Mới
51. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
52. Một năm mới tốt đẹp
53. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng
1. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
Trong những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc cho nhau
được khoẻ mạnh, được nhiều may mắn, được gặt hái những thành quả tốt đẹp. Thế
rồi khi năm mới bắt đầu, chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần lớn là để
tìm lấy những vinh quang, những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ thất bại,
chúng ta cảm thấy buồn chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi người khác
trổi vượt hơn chúng ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề,
phải xác định phương hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để làm gì?
Và đâu mới là quê hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi này chúng
ta mới có thể đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới có thể
tìm thấy được những giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ, có lần đã đi
nghỉ hè tận Phi Châu để săn những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay từ Phi Châu
trở về Hoa Kỳ, có một nhà truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân Phi Châu suốt
40 năm trời. Khi phi cơ hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến đông đảo dân
chúng cùng một phái đoàn cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng thống trở về
bằng yên, không ai để ý tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một mình. Bấy giờ nhà
truyền giáo than thở với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy Chúa, Chúa biết
không, một vị tổng thống đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người đón rước như
vậy. Còn con đây, con đã hy sinh vì Chúa để phục vụ những người anh em cùng khổ
tại Phi Châu suốt 40 năm thế mà giờ đây, khi trở về, lại không một ai thèm nhớ
đến con. Quả là bất công và tủi hổ cho thân phận của con. Thế nhưng lúc đó,
dường như có tiếng Chúa trả lời trong tâm hồn nhà truyền giáo: Này con, đừng
vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể đôi lúc chúng ta cũng than phiền với Chúa như thế.
Và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng là câu trả lời cho mỗi người
chúng ta: Con chưa trở về quê hương thật của con. Trần gian chỉ là nơi tạm gởi
và vinh quang của nó tựa cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì thế, đừng quá
bận tâm tới tiền bạc vật chất, địa vị danh vọng, cũng đừng ganh tỵ với những
may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố gắng tạo cho mình một kho tàng thiêng liêng,
có giá trị trường cửu, để nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương
Nước Trời.
Với những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu chúc anh chị
em một năm mới bình an và hạnh phúc trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
2. Thời gian (Mt 6,25-34)
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi
trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời
chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã
qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng
sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm
ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó,
người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi
nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba
vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh
cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã
tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm
day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu
để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện
để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây
những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống
vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người.
Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi
thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn
đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của
chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện
dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị
thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này
có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị
thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên
quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem
dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết
nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử
thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi
một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua
vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có
tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống
mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho
nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân
của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con
người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái
gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người
khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa
mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời
Ngài đã phán: "Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không
phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi
dào". Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con
đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của
sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ.
Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã
tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là
bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng
tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết
tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương
mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy:
Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì
nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ
yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và
vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta
gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu
thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường
thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những
người mà chúng ta cầu chúc.
************
3. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
Chúng ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang đứng ở đầu
ranh của năm mới. Năm cũ là một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ là một chặng
đường dài. Đứng ở giáp ranh hai chặng đường dài ấy, chúng ta thường có hai
hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa mà hai cái
nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta trong giây phút linh thiêng này?
Trước hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên nỗi niềm
biết ơn. Đúng thế, hãy biết ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ
thấy trong năm qua chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu,
vì chúng ta là những kẻ thiếu thốn luôn cần đến người khác. Cần để sống, cần để
nên người, cần để thắng lợi. Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp. Từ nụ cười đến
tình thương, từ lời chào đến tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng ta nhận lãnh
đều là những viên gạch xây dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi những gì sung
sướng hay lớn lao mới là ơn. Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe đò ồn ào,
đông đảo, chen lấn, nhưng sau cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta cũng đừng
cho mình là cô đơn vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc đời chúng ta có như một cành mai báo hiệu mùa
xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì cũng đừng
cho mình là phù hoa chẳng chịu ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh nhận rất
nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu ruộng
đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao giờ
cũng mắc nợ những khúc sông khác, nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương. Dù
cuộc đời chúng ta có như một ngôi nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho rằng
tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên gạch,
từng giọt mồ hôi và biết bao những công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta có như
Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng mình vô phước, vì thực sự chúng ta đã
lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của biết bao
công ơn. Mà đã chịu ơn thì phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi người có
thể tự trả lời. Hãy biết ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi nhìn lại
quá khứ. Còn khi nhìn đến tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát triển, bởi vì
sống là tiến bộ, sống là phát triển. Không tiến tức lùi, không cố gắng bơi thì
sẽ bị giòng nước cuốn trôi. Phát triển không phải chỉ về phần xác, to bề ngang,
cao bề đứng, nhưng còn về tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản xuất mà còn
về đạo đức. Cặp mắt phải biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn, không để mình
bị ru ngủ bởi những ảo vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ những nghi kỵ
hận thù, để đoàn kết và mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn phải biết tin
tưởng vào Chúa và rút ra từ lòng cuộc đời những bài học bổ ích cho tâm hồn. Bản
thân phải biết bấu víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời này và ban cho mình
hạnh phúc ở đời sau, cũng như phải biết thu tích những sự thiêng liêng không
bao giờ hư mất.
Dĩ vãng kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương lai kêu gọi
chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp đầu xuân,
khi chúng ta đứng giáp ranh giữa năm cũ và năm mới vậy.
***********
4. May mắn (Mt 5,1-10)
Trong dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho nhau những tấm
thiệp với lời nguyện chúc tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày tết, bước chân ra đường,
chúng ta sẵn sàng nở một nụ cười thật tươi và không ngần ngại cầu chúc cho nhau
một năm mới nhiều may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin thành thật gửi đến
cho anh chị em. Thế nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu xem sự may mắn là gì? Bởi
vì năm người thì mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn theo một quan niệm riêng.
Thực vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
- Một năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ vuốt chòm râu bạc hay lau khô những giọt mồ hôi
trên trán và trả lời:
- Đó là một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, lúa
thóc đầy bồ.
Nếu tôi hỏi một cô gái đi buôn:
- Thế nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc hẳn cô ta sẽ trả lời:
- Đó là một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót lọt chuyến
ấy, không bao giờ bị bắt và nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai, năn nỉ ỉ
ôi mà xin lại được.
Nếu tôi hỏi đôi vợ chồng trẻ:
- Năm mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ trả lời:
- Đó là một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh nồi niêu
xoong chảo, chổi cùn rế rách bay ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay
với nhau. Rồi đầu năm sinh con trai và không chừng cuối năm sinh con gái. Hay
là trúng số cặp hai, đẻ sinh đôi, nuôi luôn một thể.
Cái được gọi là may mắn của nhiều người thời nay là gì,
nếu không phải là những thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền bạc phải
rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn
đề tiền đâu.
Dĩ nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn và mong ước
có được một cuộc sống tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong nghề nghiệp,
chiếm được một địa vị khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số lương hậu hĩnh,
tạo được những thành tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được rằng: đó là một
năm mới nhiều may mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết hiệp với Chúa,
phải biết làm việc cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có được một giá trị
vĩnh cửu. Những việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất cả rồi sẽ qua đi.
Thực vậy, Chúa đã phán:
- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi
chi.
Phúc âm đã kể lại câu chuyện về ông phú nông như sau: Năm
đó, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Ông ta thu tích không biết cơ man
nào lúa thóc. Cho nên ông ta đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé, để xây kho
lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông cảm thấy
được bảo đảm thì lời Chúa vang lên:
- Hỡi kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm hôm nay người
ta đến đòi linh hồn ngươi, thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ, và những của
cải ngươi chắt chiu thu tích sẽ để lại cho ai?
Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói:
- Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.
Với Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình Chúa mà
thôi, thì cũng đã đủ. Giữa những lao công vất vả, giữa những giọt mồ hôi và
nước mắt, giữa những quyến dũ trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng nhìn về
Chúa. Chỉ có một sự cần đó là sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ
chính tòa. Ông ta nhìn thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang quỳ cầu
nguyện thật sốt sắng, nên sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh đường,
rỡ một viên ngói, rồi từ đó ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng tiền
vàng rơi trên nền gạch, tạo thành những tiếng động trong bầu khí thinh lặng,
trang nghiêm và thánh thiện này, rồi lăn đi khắp mọi nơi... Tuy nhiên, không
một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm những đồng tiền vàng ấy. Không một em nhỏ nào
đã chia trí và lo ra.
Chút nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời gọi chúng
ta:
- Hãy nâng tâm hồn lên.
Và chúng ta đáp lại:
- Chúng con đang hướng về Chúa.
Đúng thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm của
chúng ta phải qui hướng về Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh
Phaolô:
- Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức
Kitô sống trong tôi.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản thân và cuộc
đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng ta phải sống
cho Chúa, bởi vì Chúa là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất Chúa thì cũng
sẽ mất mọi sự và chẳng còn lại gì nữa.
Và như thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi người chúng
ta một năm mới nhiều may mắn.
5. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6,
25-34)
Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo
nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có
đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có
nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức
nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con
người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa
giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật
lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu
của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết
mọi cách - kể cả những cách ô nhục và thấp hèn - để chiếm đoạt tài sản chung
của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được các điều
kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số
tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và
con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh,
huyện, xã v.v... thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại
các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!
Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà
Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế
giới như thế? Chắc đối với những người có "của ăn của để" thì không
thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ
lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả
tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày phải vật
lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó
mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có
sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là
Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân,
chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay
Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người chịu thương
chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ
nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng
con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà
trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời
Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự
cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm
được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong
cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống
thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn
tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà
mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta
đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin
tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ
chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói,
phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà
bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta
cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.
6. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp
qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một,
hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho
Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác
cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang
thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng
chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ
ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu,
bè bạn.
Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của
chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi
gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực
sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết
cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu
trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không
chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không
muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc
tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm
nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta
ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của
hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt,
bằng sự nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt
đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.
Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày
đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm,
tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn
sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì
anh em đồng loại.
Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ
tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc
cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất
chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta
không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để
giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không
tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.
Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta
trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà
cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể
đem lại cho chúng ta.
Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là
cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc
chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.
7. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm
vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được
biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một
trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:
- Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.
Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho
chúng ta?
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các
tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì
Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền
vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các
tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm
vui được kết hiệp với Chúa.
Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải
khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?
Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm
vui đích thực. Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong
ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé
yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:
- Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như
những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết
hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.
Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến
niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị
xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.
Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là
hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những
lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:
- Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng
mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng
Chúa.
Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé
biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:
- Thà chết chẳng thà phạm tội.
Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một
địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả
cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng
ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã
bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù
trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng
ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để
kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa
ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.
Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì
hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha
thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám
chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại
không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa,
được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy,
hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.
Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là
Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với
Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai
ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.
8. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
PHẤN ĐẤU TẠO MÙA XUÂN
Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành
nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui
tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai
và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc,
trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám
lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng
Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn
đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi
như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những
cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch
lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần
làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho
con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy
những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi
hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu
như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu,
ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không
chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn
mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết
quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là
những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói
lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự
kiêu tư đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông,
người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú không phải
tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ,
nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng
thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải
loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục
tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối
phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá
những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn.
Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ
vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi
đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục
tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không
hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh
ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những
đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa
để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và
cho nước Trời.
9. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt
6,25-34)
Một năm cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong giây phút
linh thiêng này, chúng ta thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta thường gửi đến
cho nhau những lời cầu chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý thức được tập
tục tốt đẹp này. Họ không hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi những lời cầu
chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho nhau những gì?
Và chúng ta nghĩ sao về những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa: Chúng ta cầu chúc
cho nhau một năm mới hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới hạnh phúc?
Khi em bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè phố, tụi bạn
sẽ bảo em là một người hạnh phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số độc đắc, bà
con lối xóm cũng bảo chúng ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại sao lại như
thế? Vì đối với nhiều người, hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều bạc lắm.
Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh phúc giả hiệu
và thời gian của nó kéo dài không quá một kiếp của con thiêu thân, như lời một
câu danh ngôn đã bảo:
- Hạnh phúc của người giàu cũng dễ bể như một chiếc ly
thủy tinh.
Chẳng hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai ương hoạn
nạn...mà nhiều người đã mất đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu gầy dựng:
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang không đủ
đảm bảo và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Đối với nhiều người khác, một năm mới hạnh phúc sẽ là một
năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn trong công ăn việc làm. Đúng thế, khỏe
mạnh và may mắn cũng là những điều chúng ta thường cầu chúc cho nhau, nhưng vẫn
chưa phải là niềm hạnh phúc đích thực.
Nếu sức khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn những lực sĩ
sẽ là những người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những
người đau yếu, sức khỏe thì èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên cặp môi khô
héo của họ.
Còn về sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu quả đúng như
vậy, kẻ nào càng kiếm được nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế nhưng, trong
cuộc sống, những người kiếm được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ khổ đau, vì
như chúng ta thường bảo:
- Lòng tham thì vô đáy...Đứng núi này trông núi nọ...Được
voi đòi tiên...
Và như thế, khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và sẽ
chẳng bao giờ được thỏa mãn. Rất nhiều người đã mong ước có được một việc làm
dễ dãi, khả dĩ kiếm được nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống một cuộc sống an
nhàn và hạnh phúc, vì họ thầm nghĩ:
- Có tiền mua tiên cũng được.
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Có tiền là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv tủ lạnh và
nhất là sẽ được mọi người kính nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa ra một thí
dụ đẻ chứng minh cho sự thật trên.
Paul Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc.
Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim.
Thế mà mỗi ngày ông đều phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh ông có tới mười
cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm dọa sẽ ám sát và
ông đã phải thốt lên:
- Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc.
Thí dụ trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật không hệ tại
nơi tiền bạc vật chất. Vậy chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu bây giờ?
Hẳn chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ có thân
xác, mà còn có linh hồn. Bởi đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất bên
ngoài, mà còn cần phải có những nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên trong.
Và như thế, niềm hạnh phúc đích thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy được điều
đó. Chẳng hạn thánh Giuse và Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có nhiều tiền
bạc, không ở trong những tòa nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các ngài sống
rất nghèo nàn, đến nỗi không tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các ngài vẫn
hạnh phúc. Tại sao lại như thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với các
ngài.
Thực vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh phúc. Và ai yêu
mến Chúa, người ấy sẽ được hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn được hạnh phúc,
chúng ta cần phải có Chúa ở cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta phải trong sạch,
xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự trị.
Nếu trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy đến với bí
tích của lòng khoan dung với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi vì sự bình
an phải là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng
ta với nhau.
Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở
cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong
năm mới này.
Thực vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và cay đắng,
nhưng nếu tâm hồn chúng ta thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm thấy vui
mừng và hy vọng. Chính trong ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng này, tôi
xin cầu chúc cho anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc.
10. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt
6,25-34
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn,
bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông
tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của
do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo
bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố
thí... Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết
trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp
nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị
hơn... Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi
vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một
sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm
tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi
đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự
tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi
của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể
chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả
ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu
bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho
ông được khuây khỏa.
Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước
mới thốt lên: "Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận
do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho
tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này,
người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương... Chắc chắn, tôi là người
hạnh phúc nhất trên trần gian".
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền
nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác.
Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không
thể nào ăn ngủ được... Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi
nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo... Và một lần nữa, không một đồng
xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong
vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm
được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận
lãnh... Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: "Tôi là người hạnh phúc
nhất trên trần gian này".
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể
gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta... Người
Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta
là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù
lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
11. Thiên Chúa hay thần tài?
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong
Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu dùng ba
ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về
đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng
ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha
trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một
quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, - điều đó chúng ta không thay
đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và
cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua
Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ
là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng
cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết
thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai.
Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó"
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay
thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta?
Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng
đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm
ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những
nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo
sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho
con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng
vọt, mùa màng không thất thoát... Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm
của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô
trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay
thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len
lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng:
"Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian khổ là
điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô
trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới
này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài
người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật.
Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người
đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải
đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo
lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là
chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống,
là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: "Tiên
vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các
thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho." Tiên vàn hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên
Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên
Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là
trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước
nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu
đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với
kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên
số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội
và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động
như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự
hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy,
nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy,
người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên
nhiên quay lại "trả thù" con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở
các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu
tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng
trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng... Sau khi
hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang
kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh
nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông
chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp
dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa "thời mở
cửa", điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại
hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn
thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người,
để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống
công chính như Người đòi hỏi": Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta
vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta
sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi
trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá
trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ
giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất,
vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người
mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
12. Xin ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
Để mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại
gia đình chúng ta một Lộc thánh.
Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta
nguồn ánh sáng và hy vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta
trong năm mới.
Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay
là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của
Người chiều Phục sinh. Lời đó là: "Bình an cho các con" (Ga 20,20).
Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình
an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa
Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình
an.
Ý Chúa là thế này:
Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu
đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: "Như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sai các con" (Ga 20,21).
Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải
sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi
người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và
làm việc. Sai vào lịch sử của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình.
Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: "Các con hãy đi
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo
chúng ta loan báo là "Sám hối, để được ơn tha tội" (Lc 24,53), và đi
theo Người "là đường, là sự thực và là sự sống" (Ga 14,6) hầu được về
với "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta
thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay
ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu
này.
Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp
huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn,
nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của những người thiện
tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy:
Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những
mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung
lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực.
Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là
cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ
ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa
Giêsu phán: "Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc"
(Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy.
Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Đức Cha Cố
Micae và Đức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một
năm mới đầy bình an của Chúa.
*********
13. Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên
(Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
(Is 63,7-9; 1Co 1,3-9; Lc 1, 39-45)
Dẫn nhập đầu lễ:
Anh chị em thân mến,
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh
Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm Giáp Thân 365 ngày
của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi
lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên
Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô
làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến
dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang
tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng
đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
Đã lắm phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy bảo loài
người chúng ta phải biết sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài Thánh Vịnh,
thánh thi trong cựu ước chúng ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn đã được cất
lên: "Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136)
Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài dã nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a đã thay lời
Thiên Chúa nói với muôn thế hệ nhân loại rằng:
Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca tụng Chúa, vì
tất cả những gì Chúa thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của
người đối với nhà Ít-ra-en, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy
lòng thương xót và lắm nghĩa giàu ân".
Nhưng để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn vẹn nhất phải
đợi đến khi Thiên Chúa sai Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con nhân loại và
chính là Con Thiên Chúa, đã đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo của tình
yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một cách trọn
hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc đời vâng
phục:
Nếu dân tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm tin và lòng
tri ân hiếu thảo đối với Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy sinh và tạ
tội; thì trong trật tự của Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời tạ ơn trọn
vẹn nhất dành cho Thiên Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là cuộc đời
và toàn bộ cuộc sống của Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa
Cha:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói: "Chúa đã
không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng
thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy Thiên Chúa, nầy con
đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con." (Dt 10,5)
Thật vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã biến cả vũ
trụ trở nên một "đền thờ vĩ đại" và đã qui tụ toàn nhân loại chung
quanh Ngài để làm nên một cuộc "đại thờ phượng", một cuộc tạ ơn và
phụng thờ Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi thời
gian. Bởi vì đó là cuộc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý:
"Nầy chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ
phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem.....Nhưng giờ đã
đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thức sẽ thờ
phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ
phượng Người như thế." (Ga 4,21-24)
Qua những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn biết được
rằng: thái độ tạ ơn, tâm tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt yếu của
tinh thần "Tám mối Phúc thật", tinh thần "nghèo khó, khiêm hạ,
yêu thương...", tinh thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía Thiên Chúa
với niềm tin yêu phó thác của những con người như Bà Góa bị loạn huyết 18 năm
xứ Canaan, của người phung hủi ngoại bang được chữa lành, của viên sĩ quan có
người tôi tớ đau nặng, của người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của những
người thu thuế bị loại trừ như Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh để chờ
được chúc lành hay của người kẻ trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với hy vọng
sẽ được cứu độ trong Vương quốc phục sinh...
Rồi cũng chúng ta cũng biết được rằng: trên môi miệng của
Đức Kitô luôn vang lên lời tri ân cảm tạ: "Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha
đã dấu..."
Và còn hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1 cuộc đời
vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi Ngài nói lời "Con phó thác hồn con trong tay
Cha". Đó chính là lời tạ ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà hôm nay
trên mọi bàn thờ chúng ta đang tái diễn mỗi ngày.
2. Đức Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat:
Cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô
và với Đức Kitô chính là con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua, hôm nay và mãi
mãi. Và may mắn thay, trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại suốt 2000 năm
nay, đã có một "bài ca tạ ơn", đã có một "cuộc đời tạ ơn"
theo cung cách ấy. Đó chính là bài ca "Magnificat", đó chính là
"cuộc đời của Trinh nữ Maria". Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ được phản
ảnh qua bài Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình sống động,
là mẫu gương sáng ngời để nhân loại bước đi trong "con đường tạ ơn"
Thiên Chúa, trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
- Tạ ơn: trước hết là như Đức Maria dâng lên lời ngợi khen
Thiên Chúa và hân hoan vì hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban: "Linh hồn tôi
ngợi khen Chúa...."
- Tạ ơn: phải chăng như Đức Maria nhận ra "những việc
lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện nơi tôi".
- Tạ ơn phải chăng như Đức Maria luôn biết nhận ra bàn tay
Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân phận yếu hèn, lòng quảng đại Chúa mở ra để ban
cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và đầy lòng
trông cậy vững vàng trước lời hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa:
"Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì
Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến
muôn đời".
Và Mẹ đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào Chiều Thứ
Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu tiên cùng
với Con yêu dấu trên bàn thờ Thánh Giá.
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Qua lời kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria, và nhất là,
qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta cảm nhận được
rằng:
- Thái độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là một hành vi
mang tính "thời sự', "cơ hội" đột xuất (như được khỏi cơn bệnh
hiểm nghèo, thoát qua cơn hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn buôn bán trúng
mánh, trúng số độc đắc...), nhưng "Tạ Ơn" phải là một thái độ, một
nhịp sống, một cử hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố, trên mọi nẽo
đường cuộc sống. Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước, ông thánh Gióp
đã từng nêu gương: "Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn Chúa!". Dĩ
nhiên, có những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình chúng ta hướng
về Thiên Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt...Nhưng không phải, chỉ tạ ơn trong
những hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra thì "bàn tay
ta làm nên tất cả", có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào mà phải tạ ơn cám
ơn...
- Bởi vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống trong thái
độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó nghèo hơn,
trái tim kiêu căng hợm hĩnh sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền lành, và từ
đó con mắt tâm hồn sẽ khám phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên trời vây bọc
xung quanh. Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, cái nảo trạng 'đương nhiên" của
chủ nghĩa duy vật vô thần đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi vào mọi ngỏ ngách
của cuộc sống. Vì đã lý luận như thế: "đương nhiên trái cấm nầy thuộc về
tôi, địa đàng nầy là của tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những luật lệ của
Ngài..." mà A-đam và E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên tội. Cũng
vì lý luận như thế: tôi khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là tới lúc
phải được như thế, chứ ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu... nên chín người
phung cùi được khỏi bệnh đã không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu! Còn chúng ta
hôm nay thì sao. Có thấy được "phép lạ tình yêu của Thiên Chúa" ghi
dấu ấn trên đời thường cuộc sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn, hay chỉ là những
thở dài oán trách Chúa vì đã van xin bao điều mà sao vẫn cứ hoài vô vọng. Có
thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi biến cố cuộc đời
để cảm tạ tri ân, hay chỉ thấy mọi sự là "đương nhiên" để cóc cần
phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa,
chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài
mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt
một năm. Và điều quan trọng hơn hết, phải chăng là chúng ta được cùng với Đức
Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến yêu, của tâm
tình tri ân cảm mến; và cũng chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn Magnificat
của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở lòng đón nhận
và khám phá muôn điều kỳ diệu Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc sống trở thành
"Lời ca khen cảm tạ Magnificat":
Hồn tôi tán tụng Chúa Trời,
Lòng tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn,
Tạ ơn Chúa chuộc khoan nhân,
Thương người tỳ nữ, thương thân phận hèn.
Từ nay thiên hạ ca khen,
Rằng tôi có phúc, có duyên lạ lùng.
Rằng tôi bé mọn khiêm cung,
Được bàn tay Chúa oai hùng điểm trang,
Cho tôi nên trọng nên sang,
Cho Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT, NXV)
14. Thánh Lễ Giao Thừa
(Bài đọc 1: Ds 6, 22-27, Bài đọc 2: 1 Tx 5, 16-26. 28, Tin
mừng: Mt 5, 1-10)
Lời tạ ơn
Vậy là chúng ta đang ở vào những giờ phút cuối cùng của
năm Giáp Thân, chuẩn bị bước vào năm mới Ất Dậu. Và cũng theo lệ thường không
biết đã có từ bao giờ, đây là giây phút để tất cả chúng ta cùng nhìn lại cuộc
sống của chúng ta trong suốt một năm qua. Đồng thời, cũng là lúc chúng ta hướng
một cái nhìn vào năm mới.
Nhìn lại những gì đã lãnh nhận trong năm cũ và hướng về
những điều sẽ được ban trong Năm mới, có lẽ tâm tình thích hợp và đúng đắn nhất
của mỗi người tín hữu chúng ta là tâm tình tạ ơn như lời mời gọi của thánh
Phaolô: "Anh em hãy vui mừng luôn... Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh".
1. Nhìn về năm cũ:
Cha ông chúng ta vẫn thường nói: "Ôn cố, tri
tân". Do đó, để có thể bước vào năm Mới một cách thành công, điều đầu tiên
chúng ta cần làm là "ôn cố", nghĩa là nhìn lại cuộc sống chúng ta
trong suốt một năm qua. Trong suốt 365 ngày vừa qua, chắc hẳn đã xảy ra biết
bao nhiêu chuyện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta: chuyện vui cũng có, mà
chuyện buồn chắc cũng không thiếu. Một năm với nhiều thành công và chắc cũng có
nhiều vấp váp lỗi lầm. Nhưng cho dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, thì
đó cũng là chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Giờ đây, khi nhìn
lại cuộc sống của mình trong năm cũ, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô khuyên bảo
con cái mình: "Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn điều xấu
dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa".
Vâng, điều gì tốt thì giữ lại và phát huy, điều gì xấu thì
loại bỏ và lánh xa, đó chính là thái độ của những người khôn ngoan, thức thời,
đó là thái độ cần có của mỗi người chúng ta trong giờ phút Giao thừa này.
Nhìn lại một năm, có lẽ điều mà mỗi người chúng ta có thể
cảm nhận được, đó là hồng ân Thiên Chúa đang bao phủ cuộc đời của từng người và
cả giáo xứ chúng ta. Vâng, khi nhìn lại một năm qua, có lẽ nhiều người chúng ta
phải rùng mình vì không biết tại sao chúng ta lại đứng vững và vượt qua được
nhiều thử thách gian nan đến thế. Có những biến cố chúng ta không ngờ, những
tai nạn tưởng chừng như không thể tránh khỏi. Vậy mà không biết bằng cách nào,
chúng ta đã vượt qua tất cả. Đối với những người không tin, đó có thể là sự may
mắn, nhưng thật ra, chẳng có cái gì là vô tình. Chính vì thế, trong giờ phút
cuối năm này, Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh nhắc bảo từng người chúng ta:
"Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn.
Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời". Như
thế, mọi sự xảy ra trong đời sống chúng ta chẳng phải là vô tình, nhưng tất cả
đều nằm trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Và đó chẳng phải là hồng
ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đó sao?
Chính vì cảm nghiệm được hồng ân Thiên Chúa trong cuộc đời
mình, tác giả Thánh vịnh đã cất tiếng ca khen Thiên Chúa: "Ơn phù hộ tôi
đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất
trời". Và nếu quả thật "ơn phù hộ của chúng ta đến từ Đức Chúa, Đấng
dựng nên cả đất trời", thì thánh Phaolô có lý khi mời gọi chúng ta: "Anh
em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn
cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu
Kitô".
Tóm lại, khi nhìn về năm cũ, không phải để chúng ta chán
nản bởi vì đã không được như ý của chúng ta, hay tự mãn vì những điều xem ra
thành công, nhưng đây là giây phút để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa
trong cuộc đời mình và hết lòng dâng lời cảm tạ Ngài, vì những gì Ngài đã làm
cho chúng ta trong một năm qua.
2. Nhìn về tương lai:
Mặt khác, Giao thừa không chỉ là dịp để chúng ta suy gẫm
việc đã qua, nhưng còn là thời gian để chúng ta chuẩn bị hướng tới tương lai.
Có lẽ với năm tháng trôi qua, càng ngày chúng ta càng cảm nghiệm rõ hơn về giới
hạn của chính bản thân và của những người chung quanh, nói chung là giới hạn
của con người. Con người giới hạn phần vì "lực bất tòng tâm", phần vì
tính ích kỷ của mỗi người. Trong năm qua, đã biết bao lần chúng ta hứa hay nhận
được lời hứa, nhưng rốt cuộc chẳng thực hiện được là bao. Lắm khi những người
chúng ta tin tưởng nhất lại là những người làm chúng ta thất vọng nhất. Do đó,
tin tưởng nơi Chúa quả thật là điều cần thiết và là một bảo đảm chắc chắn nhất
cho hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Chính Đức Giêsu khi nghe người ta khen
ngợi: "Phúc cho lòng dạ cưu mang ông, và vú ông đã bú!", thì Ngài đã
lập tức tuyên bố: "Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên
Chúa" (Lc 11, 27-28).
Hướng về năm mới, chúng ta cần có một cái nhìn tươi vui và
tin tưởng vào Thiên Chúa. Đây không phải là sự vui mừng hay là một niềm tin mù
quáng, dễ dãi của những tâm hồn yếu đuối, nhưng là niềm vui và niềm tin của
những tâm hồn mạnh mẽ. Đó là niềm vui của những người biết rõ những khó khăn,
thử thách vẫn còn đó, nhưng vì tin có Chúa ở cùng, nên họ vẫn luôn vui vẻ, nhìn
ra mặt tích cực của các sự kiện để bước tới trong tin tưởng. Nhìn lên bầu trời
đầy mây đen u ám, họ không buồn vì mây che mất mặt trời, nhưng vẫn vui vì ánh
sáng của mặt trời vẫn đủ để họ nhìn thấy được đám mây đen. Chính trong niềm tin
đó, Giáo Hội đã muốn chúng ta suy niệm về các mối phúc trong Thánh lễ Giao thừa
hôm nay. Thật vậy, trong năm mới sắp tới, cho dù có nghèo khổ, đói khát, hay bị
bách hại đi chăng nữa, thì gia nghiệp Nước Trời đang dành sẵn đó cho những ai
hết lòng tin tưởng cậy trông.
Đồng thời, không chỉ là thụ động đón nhận những thử thách,
Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta sống hiền lành, biết cảm thương và sẵn sàng chia
sẻ với những nỗi bất hạnh của anh chị em mình để rồi đến lượt mình, chúng ta
cũng được Thiên Chúa xót thương. Ngài còn muốn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa
và được Thiên Chúa nhận làm con, khi mời gọi chúng ta sống trong sạch và kiến
tạo hòa bình cho thế giới hôm nay. Và nhờ luôn ở trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ
được hạnh phúc. Chính trong niềm tin này, thánh Phaolô đã cầu xin cho chúng ta:
"Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con
người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn,
không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm".
Cuối cùng nhờ "Ôn cố tri tân", mà chúng ta nhận
ra rằng: Thành quả mà giáo xứ chúng ta có được ngày hôm nay chính là kết quả
của biết bao thế hệ cha ông, những người còn sống cũng như đã qua đời xây dựng
nên. Do đó, giờ phút Giao Thừa cũng là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta
cầu nguyện cho các ngài. Đồng thời, đây cũng là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta
hôm nay cần phải chung sức góp công của mình, để vun đắp cho cộng đoàn giáo xứ
chúng ta ngày càng trở nên một cộng đoàn sống yêu thương và hiệp nhất trong
tình yêu của Thiên Chúa. Và không chỉ dừng lại ở cộng đoàn Giáo xứ, cách tốt
nhất để chúng ta tỏ lòng biết ơn ông bà, cha mẹ, đó là tiếp bước các ngài, loan
truyền Tin mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc
sống thường ngày.
Để kết thúc bài chia sẻ này, tôi xin mượn lại lời Chúa
trong bài đọc một để cầu chúc cho quý OBACE: "Nguyện Đức Chúa ban phúc
lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và
dủ lòng thương anh chị em!" trong suốt Năm Mới này. Amen.
15. Bình an
(Bài đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8; Tin mừng:
Mt 6, 25-34)
Một trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông nói chung
và của Việt Nam chúng ta nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong những
ngày đầu năm. Trong những ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho nhau
những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm mới này
được thịnh vượng, may mắn, làm ăn phát tài...và nhiều điều may mắn khác nữa,
nhưng có lẽ điều mà tất cả từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và cũng
được cầu chúc nhiều nhất là sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ "bình
an" chính là ước vọng sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu suy xét kỹ,
chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng là để có được
sự bình an. Thế nhưng, thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình an thực sự.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh
chị em dựa vào ánh sáng của Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt được sự bình an
đích thực trong năm mới này.
1. Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta cũng cần nhìn
qua những lý do làm cho chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều, nào là làm ăn
thất bại, bị hiểu lầm, gặp tai ương, bệnh tật..., nhưng xâu xa hơn, có lẽ vì
mọi việc không xảy ra đúng với ý muốn, dự định của chúng ta nên chúng ta bất
an. Hay nói một cách khác, chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc sống của mình và
mình có thể kiểm soát được tất cả mọi việc, nên khi có một điều gì đó không
đúng với chương trình của mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó, tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật sự, từng người
chúng ta cần xác tín với nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan phòng, làm chủ
mọi sự. Chính Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật của sách Sáng
Thế: "Thiên Chúa phán: Phải có những vầng sáng trên vòm trời.... Liền có
như vậy.... Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy thế là tốt
đẹp". Không chỉ là Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha đầy yêu
thương sẵn sàng lo cho chúng ta mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định với chúng
ta điều này như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: "Anh em đừng lo lắng
tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại
vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ
đó". Cha chúng ta thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban cho chúng
ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào bàn tay
quan phòng của Thiên Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật vậy, kinh
nghiệm hàng ngày cho thấy: trong thân phận làm con thì điều quan trọng nhất là
ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự. Và lúc đó,
chúng ta sẽ có bình an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên mỗi người
chúng ta cần thực hiện đó là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên Thiên
Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây là một
sự thật căn bản đầu tiên làm nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con đường bình an:
Hướng tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là luôn gắn bó với
Chúa là nguồn bình an, lúc đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an. Tuy nhiên,
thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người chúng ta: "Anh em hãy vui luôn trong niềm
vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em". Điều đó cho thấy, niềm tin
tưởng và phó thác của chúng ta nơi Chúa không miễn trừ cho chúng ta các khó
khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được sức
mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản để vượt qua những khó
khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh bên ngoài không làm cho chúng ta vui, nhưng
trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui được. Đây chính là kinh nghiệm của Đức
Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, và án tử có thể đến vì mang
thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn cất tiếng ca vang: "Linh hồn tôi
ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ
tôi". Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên
Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác giả
Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác tín như thế khi nói: "Cứ tin tưởng
vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy
lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng". Vịnh
gia còn mời gọi chúng ta: "Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào
Người, Người sẽ ra tay".
Kế đến, sự bình an thật sự chỉ có nơi những tâm hồn thanh
sạch, bởi vì "cây ngay không sợ chết đứng". Những người công chính
luôn cậy trông vào Chúa có thể vẫn còn phải gặp những khó khăn bên ngoài, nhưng
chắc chắn họ không cùng đường, tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn bình an, vì họ
tin vào lời hứa của Đức Giêsu: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và
đức công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho".
Thật vậy, với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người trong chúng ta có cùng
xác tín của tác giả Thánh vịnh: "Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy
người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ". Do đó,
để có bình an thật sự trong tâm hồn, chúng ta cần lánh xa tội lỗi và thực hành
những điều công chính như lời dạy của thánh Phaolô: "Những gì là chân
thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và mang
lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để
ý".
16. Chúng ta là người hành khất
"Chúng ta là người hành khất!" lời tâm sự này
Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt lên năm 1546
vào những ngày cuối cùng cuộc sống trên trần gian của ông. Lời tâm sự này của
ông biểu lộ niềm tin mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Người có tâm
hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông mong chờ đợi đón nhận từ nơi Ngài, những sự
cần thiết cho đời sống. Và đồng thời cũng nói lên tâm tình niềm tin: Thiên Chúa
là Đấng ban phát mọi ân đức tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn Ngài!
"Chúng ta là người hành khất!" tâm tình này cũng có thể là một suy tư
gợi ý vào những giờ phút cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ. Nhưng
tại sao lại đem tâm tình này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi nghe đến "hành khất" ta nghĩ ngay tới nghèo
khổ, đói khát, túng thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa... Không lẽ cuộc sống
chỉ tiêu cực như thế sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm tiêu cực đó.
Ngày nay, nơi nhiều quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh bệnh tật
đang dần dà được đẩy mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm áo dần được
nâng cao, cho xứng với phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ nhiên rất
nhiều người, nhất là ở trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa phát triển,
đã đạt được những thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học hành, nghề
nghiệp, y tế, của cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm... Những điều
đó đối với người có lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có tâm tình gần
giống như của Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên Chúa đã ban
cho chúng con cơ hội sống, cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì con có hay
đạt được, là những ân đức qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã hội và đời
sống từng người không chỉ có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với nhiều bóng
tối tiêu cực nữa: chiến tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ bệnh tật,
chạy loạn tỵ nạn tha hương ... Trước những cảnh tượng đó, không ai muốn, nhưng
chúng xảy ra đó và mọi người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt vọng như thế,
đâu đâu vào thời đại nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu hướng tâm hồn lên
cao, thành tâm khấn vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin Trời phù hộ cho đời
sống, cho thế giới khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng vẽ rõ nét hơn "Chúng
ta là người hành khất!" Người tin vào Thiên Chúa, khi nhận lãnh một tin
lành bằng an, một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến lòng biết ơn cho Đấng đã
ban cho mình ân đức cao qúi đó và cho người nào đó đã liên đới trao tặng giúp
đỡ mình. Cung cách sống đạo đức tình người này muốn nói lên: "Chúng ta là
người hành khất!"
Trước ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào hiện tại, niềm
vui mừng đang khơi dậy trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc tương lai ngày
mai trong năm mới sẽ đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào nhiều hoàn cảnh
giai đoạn cuộc sống, chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng, không biết nên
làm sao nữa... Là người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng
biết sự gì cần thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Đức
Chúa Thánh Thần: lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp ban cho chúng
con ân đức gìn giữ cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm tình:
"Chúng ta là người hành khất!"
17. Giây phút linh thiêng
(Lm Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ rất ý nghĩa:"
Giây phút linh thiêng đã khởi đầu...". Xuân về được bắt đầu bằng giây phút
giao thừa. Người người, nhà nhà, mọi gia đình, mọi người đón chào giây phút
linh thiêng khởi đầu một năm mới trước bàn thờ hương trầm nghi ngút bay. Giây
phút kết nối giữa những ngày đã qua và những ngày mới bắt đầu. Người Kitô hữu
tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì bao hồng ân Chúa ban và cầu sự an bình cho một năm
mới đã ló rạng. Đây là khởi điểm của thời gian khiến con người gợi nhớ về sự
sáng tạo mà Thiên Chúa trao ban cho vũ trụ, cho con người.
GIAO THỪA, ĐẤT TRỜI GIAO CẢM:
Thời gian đêm giao thừa rất linh thiêng, huyền nhiệm.
Người ta nâng cốc chúc nhau sức khỏe, may mắn và bình an trong lúc đón chào
Chúa xuân đến với hy vọng năm mới sẽ có những điều mới, an lành và hạnh phúc
hơn. Năm mới đến có liên quan đến vận mệnh của từng con người. Riêng đối với
người Kitô hữu, giây phút giao thừa, thời điểm bàn giao giữa năm cũ và năm mới
còn mang ý nghĩa cao vời: con người sẽ nhớ tới Đấng là Mùa Xuân vĩnh cửu, Đấng
tạo dựng đất trời, dựng nên con người. Đấng ấy là Thiên Chúa, là tình yêu. Đêm
giao thừa làm cho người Kitô hữu nhớ đến Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng nhân
loại, ở với con người, ở với mỗi người. Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức
Giêsu tới trần gian cũng vào một đêm, đêm mà Con Thiên Chúa và loài người hợp
nghĩa kết giao. Đêm mà các thiên thần loan báo cho các mục đồng, đại diện cho
toàn nhân loại tin vui về việc Con Thiên Chúa đến với họ và ở lại với họ để ban
an bình, và hứa với họ sẽ ở với họ cho tới ngày tận cùng thế giới.
VẪN LÀ GIÂY PHÚT LINH THIÊNG:
Giây phút giao thừa là thời điểm của một năm mới, là lúc
trời đất giao hòa, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chính trong giây phút
huyền diệu của đêm giao thừa, con người chỉ có thể nói lên:" Cúi xin Đấng
tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh
Sion"(Tv 133, 3) hoặc " Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng
nên cả đất trời". Đón xuân về, trong giây phút giao thừa uy linh và huyền
nhiệm, con người vẫn nhớ tới cảnh đoàn tụ, ấm cúng của gia đình, nhưng vẫn còn
những gia đình, những kẻ thiếu may mắn không có điều kiện, cơ hội để đón giao
thừa. Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Người Kitô hữu được mời gọi sống tin, yêu và
sứ mạng của họ là loan báo Mùa Xuân vĩnh cửu cho mọi người.
Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Con người biết chia sẻ, biết
quảng đại, biết cảm thông và loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng là mùa xuân bất tận
cho người khác là họ đã sống giây phút linh thiêng nhất của một năm vì họ có
Chúa ở cùng, và như vậy khi một tâm hồn có Chúa ở cùng là một trời xuân bất tận
(thánh Gioan Vianney).
Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và
cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên
Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng
hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh (Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ
giao thừa)
.
18. Lời cảm tạ tri ân
(Lm. Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày cuối của một năm, thường con người vẫn có thói quen
ngồi lại để tính sổ với Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa làm được gì
và rồi con người dù thế nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì do
tình thương của Ngài mà con người vẫn còn tồn tại.
CUỘC ĐỜI PHẢI LÀ LỜI CẢM TẠ:
Nhìn lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong đời: buồn
có, vui có, khó khăn có, may mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao mình còn hiện
diện? Tại sao mình còn thở, còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn uống, ngủ nghỉ
được? Chắc chắn với lòng tin sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức Thiên Chúa đang
tiếp tục làm phép lạ trong cuộc đời của mình. Như vậy, tâm tình của con người
là tạ ơn. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã viết:" Đàn hát lên!
Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha. Luôn cảm ta
Người, nhân danh Thánh Tử vì Người ban muôn phúc lộc chan hòa"(Eph 5,
19-20). Vâng, Thiên chúa đã ban cho nhân loại, cho mỗi người muôn vàn hồng
phúc. Những ân huệ cao quí, Thiên Chúa tặng ban cho con người quả không kể
xiết. Con người chỉ có thể hiểu được những điều quí hóa ấy khi họ biết hồi
tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện. Hồi tỉnh để thấy mình đã lãnh nhận quá nhiều ân
phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban. Suy nghĩ để con người nhận ra họ
được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ không nỡ cho con người con bọ cạp
hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn. Cầu nguyện để thân mật trao đổi và cám ơn Thiên
Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban cho con người. Chính vì thế, con
người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì cuộc đời của Ngài là bài ca cảm
tạ tri ân Thiên Chúa Cha. Chúa luôn cảm tạ Chúa Cha trong mỗi biến cố cuộc đời:
khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, khi
chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm trong đời của Ngài. Bao giờ, Chúa
cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn là điều tối hệ trọng trong đời
Chúa Giêsu. Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời xin vâng và tạ ơn trong cả
cuộc đời của Mẹ. Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm nay là một lời cảm tạ Thiên
Chúa Cha. Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ hát bài tạ ơn vì chính Mẹ
và con cái của Mẹ đã được Thien Chúa trao ban quá nhiều hồng phúc.
NGÀY CUỐI NĂM LUÔN LÀ LỜI TẠ ƠN:
Nhìn lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng đường đã
qua, con người chỉ biết thốt lên như Mẹ:"...Đấng toàn năng đã làm cho Tôi
biết bao điều kỳ diệu". Đời con người là một huyền nhiệm. Chúa đã tạo dựng
nên con người giống hình ảnh Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao hồng
phúc khiến con người không thể nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa. Con
người chỉ có thể cùng với tác giả thánh vịnh:' Biết lấy chi đền đáp Chúa bây
giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu
cầu thánh danh Đức Chúa"(Tv 115, 12-13)
Ngày cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi lại để suy
nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và nói lời tạ ơn Thiên Chúa. Đây là dịp rất tốt để con
người hồi tỉnh xem điều gì mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa làm tốt và
điều còn thiếu xót để rồi chấn chỉnh điều chưa tốt và nhân lên càng nhiều càng
tốt điều tốt lành mình đã làm được. Điều quan trọng con người cần phải xét tới
xem mình đã có quan hệ thế nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra sao đối với
tha nhân? Chúa luôn mời gọi mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với
anh em. Như thế, ngày cuối năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa và thắp sáng
đức tin cho anh em. Những việc làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa mời gọi con
người thực hiện để làm vinh danh Chúa và nối kết anh em. Ngày cuối năm cũng là
ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi mọi người. Tạ lỗi là nói lên lòng sám hối, ăn năn và
tạ ơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay,
Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây năm cũ sắp
qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ
tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới (Lời nguyện
nhập lễ, lễ tất niên).
19. Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật
(Martin Lê Hoàng Vũ)
Giao thừa, đêm trừ tịch, đêm 30 tháng chạp âm lịch là thời
khắc thiêng liêng nhất trong năm. Bởi vì đêm nay có một sự chuyển giao của thời
gian: Một năm cũ ra đi và năm mới lại đến. Chính vì vậy người Việt Nam dù quanh
năm đi làm ăn xa cũng cố gắng thu xếp trở về với gia đình trước đêm nay để cùng
với người thân đón một năm mới lại đến. Đêm giao thừa còn là thời khắc
"ngừng chiến" để con người tận hưởng bầu khí ấm áp của tình nghĩa gia
đình, giữa anh chị em với nhau và giữa cha mẹ với con cái, họ tạm quên đi cuộc
sống đầy dẫy điều ích kỷ, bon chen, sự vội vã, vất vả. Trong giờ phúc chuyển
giao giữa năm cũ và năm mới ai trong chúng ta cũng hy vọng năm mới tới mọi sự
sẽ tốt đẹp hơn, điều hạnh phúc sẽ đến với mình và gia đình.
Cùng hòa chung với niềm vui đón năm mới của dân tộc, đêm
nay người Kitô hữu Việt Nam hướng lòng về Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự
Thiện hảo, cầu xin Ngài ban mọi điều tốt lành trong năm mới. Trong niềm tin ở
Chúa là chủ thể của thời gian, là Đấng điều khiển mọi vận hành của thời vũ trụ,
là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là khởi đầu và tận cùng của lịch sử, thì đối với
chúng ta giây phúc giao thừa là dịp của tri ân và cảm tạ. Chúng ta cảm tạ Chúa
vì suốt một năm qua đã cho chúng ta được sống, đã gìn giữ chúng ta trước mọi
nguy biến của cuộc đời và đã tặng ban muôn vàn ơn phúc dư đầy. Thiên Chúa luôn
quảng đại ban ơn cho con người. Hạnh phúc cũng là một ân ban của Thiên Chúa.
Đặc biệt thánh lễ đêm giao thừa được cử hành theo truyền
thống dân tộc là dịp đoàn tụ của một gia đình rộng lớn hơn, gia đình con cái
Thiên Chúa, họ cùng tin Thiên Chúa là Cha và cùng nhận mọi người là anh chị em
với nhau, họ ngồi lại bên nhau để ôn lai những việc đã qua trong năm cũ và hướng
đến năm mới.
Bài Tin Mừng được đọc trong đêm hôm nay thánh sử Matthiêu
ghi lại bài giảng Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã công bố trện một ngọn núi.
Lắng nghe đoạn Tin Mừng này và cùng suy nghĩ trước giờ phút thiêng liêng khi
bước sang một năm mới chúng ta sẽ hiểu được thế nào là hạnh phúc.
Tám mối phúc thật được công bố ở trên một ngọn núi. Điều
này gợi cho chúng ta nhớ đến Thập Giới mà Thên Chúa ban cho dân Israel qua
Môsê. Tám mối phúc thật là Bản Hiến Chương của Nước Trời, là lời mời gọi trong
đời sống của mỗi người tín hữu phải biết vươn lên. Cho nên tất cả những ai đi
theo Chúa Giêsu, và muốn vào Nước Trời thì không thể không đi qua con đường của
Tám mối phúc thật.
Giờ đây cùng nhau suy niệm về hạnh phúc dưới ánh sáng của
Lời Chúa chúng ta nhận ra được nhiều điều.
Ngày nay trong cuộc sống có rất nhiều thứ hạnh phúc giả
tạo hay còn được gọi là thứ hạnh phúc ảo đang lôi cuốn chúng ta, Chúng có nhiều
hình dạng, có vẻ đẹp, có sức quyến rũ và hứa hẹn một cuộc sống dễ dãi, luôn
muốn được thỏa mãn, muốn hường thụ cuộc sống với những đam mê thấp hèn theo bản
năng, sẵn sàng quên người để chỉ tìm sự sung sướng cho riêng mình. Họ nhất định
phải "hạ gục nhanh tiêu diệt gọn" người khác, nhất là đối thủ của
mình để có được địa vị, danh vọng, nhưng xem ra khi đạt được tất cả những điều
đó hạnh phúc vẫn là điều xa với. Nhiều người cũng cho rằng một gia đình hạnh
phúc là trong đó những thành viên phải có mức lương cao, quan hệ rộng, có tiếng
tăm, có thế lực,nhà cửa đầy đủ tiện nghi, nhiều tiền,nhưng chưa chăc hạnh phúc lại
ở trong gia đình đó. Hạnh phúc không bao giờ được xây đắp bằng vật chất.
Theo Chúa Giêsu dạy trong Tám mối phúc thì hạnh phúc chính
là dám sống nghèo, sống hiền hòa, sống ngay thẳng, sống yêu thương, xây dựng
hòa bình, và có thể vì Chúa mà chịu khổ đau. Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu
hôm nay mời gọi chúng ta sống theo không phải là một lý thuyết suông hay không
phải là điều không thể thực hiện mà đó là việc cần làm ngay trong năm mới tới
đây, là bản tự kiểm cho chúng ta trong suốt một năm qua. Chính khi sống theo
những điều ấy chúng ta lại tìm được hạnh phúc đích thực.
Cuối cùng vế thứ hai của những lời chúc phúc nói về phần
thưởng mà Thiên Chúa ban cho những người sống theo Tám mối phúc. Hạnh phúc là
được vào trong Nước Trời. Hạnh phúc là được nhìn thấy Thiên Chúa. Hạnh phúc là
được thiên Chúa ủi an. Hạnh phúc là được Thiên Chúa yêu thương.Hạnh phúc là
được làm con Thiên Chúa .... Tất cả những điều đó phải là mối lo lắng của chúng
ta trong đêm giao thừa này.Mỗi người cần tự hỏi liệu: năm mới tới đây chúng ta
có được những điều Chúa hứa ban như trong Tám mối phúc thật hay không?
Tới đây để kết bài, chúng ta cùng để tâm suy nghĩ một lời
chúc của một tác giả người Pháp không rõ tên được đăng trên CG và DT những ngày
gần đây như sau:
"Nhân dịp năm mới đang đến,
Tôi xin chúc bạn.
Không phải là sự thành công trong công ăn việc làm.
Nhưng là tiếp rước đón nhận.
Trong trái tim và trong cuộc sống.
Từng ngày một và từng bước một,
Tình yêu của Chúa đang mang đến ý nghĩa cho sự hiện hữu.
Tôi chúc bạn không phải là không gặp những thất bại,
Nhưng biết đón nhận như một món quà bất xứng.
Sức mạnh giúp bạn đứng vững, dù cho những gian lao nặng
nề,
Tôi chúc bạn không phải những ngày êm ả, nhưng là khả năng
để cho người khác quấy rầy,
Và đón nhận người khác biệt với mình như một sứ giả của
Chúa.
Tôi chúc bạn không phải là có câu trả lời cho mọi vấn nạn.
Nhưng là biết đón nhận những câu hỏi của người khác,
Biết mang trong lòng bạn những khó khăn âu lo, những xung
đột bế tắc của họ.
Để được gần gũi họ như một người chị, một người anh em
biết liên đới.
Như một người biết chia sẻ và reo rắc an bình".
Lạy Chúa Giêsu trong giờ phút giao thừa này chúng con xin
hết lòng cảm tạ tình yêu thương của Chúa đã ban muôn ơn lành và gìn giữ chúng
con trong suốt một năm qua. Xin cho chúng con trong năm mới biết hoàn toàn sống
cho Chúa và vì Chúa mà sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi lộc trần thế,bởi không điều
gì hạnh phúc cho chúng con bằng phần thưởng Nước Trời và được ở với Chúa. Xin
Chúa chúc lành cho năm mới Giáp Thân 2004. Amen
20. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm
Mới
ĐỊNH HƯỚNG
Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy
một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng
tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và
hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu
lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may
mắn và hạnh phúc.
Thế nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những náo nức ấy để
suy nghĩ một chút. Năm cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và năm mới lại trở
về. Chúng ta sống thêm một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong dòng đời của
chúng ta. Vậy đâu là hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm của cuộc đời,
để nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng tâm của cuộc
đời. Trọng tâm ấy chính là Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ Thiên Chúa để
chạy theo những thần tượng giả trá, do những đam mê, những ước vọng riêng tư
của mình tạo nên. Bởi đó, chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng thời gian, như
thuyền không lái, như ngựa không cương. Khi thì chúng ta tìm cái này, lúc thì
chúng ta kiếm cái kia. Vì thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn chồn và lo
lắng. Chúng ta lo sợ tương lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu chúc cho nhau
được may mắn. Có người còn cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui vào nhà.
Tuy nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc chúng ta cầu
chúc cho nhau lại không treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm trong những tấm
thiệp. Ngay cả những lời cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất cũng không phải
là những vị sứ giả mang lại hạnh phúc.
Thực vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi vật chất đem
đến, vì những tiện nghi này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do bản thân chúng
ta gầy dựng nên, vì bản thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ đau và nghèo
túng. Hạnh phúc ấy cũng không do người khác tạo thành vì người khác không có đủ
quyền năng và tình thương để thực hiện những mộng ước của họ và của chúng ta.
Như thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa mới là Đấng
có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể
thực hiện được những lời mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy, thánh
Augustinô đã nói:
- Linh hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm gọn trong lòng
bàn tay của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh của đam mê và
dục vọng, thì bấy lâu cuộc đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao xuyến. Khát
vọng như một thứ rượu nồng, càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi từ khát
vọng này đến khát vọng khác và chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm hạnh phúc đích thực chính là sự bình an trong tâm
hồn. Và sự bình an này chỉ có được khi chúng ta đã ở trong tình thương của
Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là trọng tâm
của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích của mọi vệc chúng ta làm. Trái đất
xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của
chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Có nghĩa là suốt dọc cuộc
đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của Thiên Chúa.
Ngài là Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống trong Ngài,
chúng ta sẽ không còn lo âu và sợ hãi, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn
không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui xẻo. Những
điều chúng ta gọi là hên hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của cùng một thực
tại, đó là tình yêu của Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều là hồng ân của
Ngài.
Hướng đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc của cuộc đời
chúng ta là chính Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình yêu, là sức
sống của chúng ta. Ý thức được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng bắt đầu công
việc bằng thái độ cầu nguyện, kêu xin Chúa.
Một ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn sẽ hạnh
phúc hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng một ly
rượu mạnh hay bằng cách lo láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay đến những
món nợ phải trả, những công việc phải làm hay những vui thú phải kiếm.
Giả như trong đêm giao thừa, khi chuông đồng hồ vừa đổ
mười hai tiếng cuối cùng của năm cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối yên lặng
trong giây lát, rồi sau đó mới mở tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng khắc
thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng ta
cần phải thực hiện và theo đuổi cho năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời
chúng ta.
Chính trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu chúc cho
mỗi người một năm mới ngập tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của Chúa.
21. Lời hứa năm mới
Đứng trước thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui mừng hân hoan
bừng lên từ trong tâm hồn trái tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt ánh mắt. Đàng
sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn dấu niềm trông mong chờ đợi: lời cầu chúc tốt
đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa là Đấng làm
chủ, trao tặng thời gian năm mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu, con Thiên
Chúa, từ trời cao hạ sinh làm người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp cho nhân
loại: Bình an dưới thế cho người Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền qua
Chúa Giêsu cho con người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời hứa, là
thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm tin con người.
Với Bạn Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các Bạn thân yêu,
thời gian Năm Mới là cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ đang vươn lên.
Các Bạn là niềm hy vọng, là tương lai của xã hội, của Hội Thánh, của gia đình,
của nhân loại, của phát triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào Năm Mới với
những mơ ước, đích điểm mong chờ, với lòng khao khát và cả với những lo ngại áy
náy hay cả với nỗi niềm lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế nào đi chăng nữa,
các Bạn không đi một mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy hằng cùng đồng
hành bên cạnh trợ giúp Bạn!
Với những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa cũng là hành
trang cho họ cùng bước vào năm mới: Các Ông, các Bà là những người đã sống trải
qua nhiều chặng đường đời sống từ hăng chục năm, có người gần thế kỷ với nhiều
thăng trầm buồn vui, thành công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau khổ bệnh tật
khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và được an ủi... Nhưng các Ông Bà đã sẵn có kinh
nghiệm một đời sống thản nhiên, hãy cùng con cháu, cùng mọi người và với niềm
tin vào Thiên Chúa bước đi vào thời gian năm mới. Xin các Ông Bà đừng quên
những gì đã xảy ra trong đời mình, cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó là những
ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con người. Thầy
thông cảm và luôn hằng cùng ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần cho con
người: Hỡi những ai gánh nặng mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi bồi bổ
sức lực cho tâm hồn. Với mọi người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt niềm tin
tưởng phó thác vào Thầy. Trong đời sống thời gian năm mới cũng như những năm
tháng đã qua, chúng ta, mọi người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô đơn, nhìn
xung quanh đâu có thấy gì ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao chẳng thấy
Thiên Chúa đồng hành Cha không để con một mình!
"Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ
biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy
có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai
người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những lúc
chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo
âu và piền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con là
nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn
nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy,
sao Cha không ở bên con? húa quay sang bảo tôi: "Con ơi! dấu chân của một
người đó là dấu chân Cha. Vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ,
Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!". Niềm tin
vào lời hứa của Chúa đồng hành trong Năm mới, tất nhiên không làm ta giàu có
thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành trợ giúp
của Chúa trong Năm mới làm tinh thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi hăng hái
vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Điều này cần thiết cho cuộc
sống con người với Chúa và con người với nhau.
22. Xin cho tất cả đều mới
(Lm. Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục
xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông
nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới,
điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất
quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một
năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:" Nguyện
Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng
con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của
Ngài"(Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời
đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu
xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu
chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt.
Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ
phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân
niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do
Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết:" Hãy ký thác đường đời
cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ
tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ" và như
Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết:" Trước hết hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia,
Người sẽ thêm cho". Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn
ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do
Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh:" Anh em hãy vui luôn trong niềm
vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!". Nguyện ước cho mọi sự được
mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó
là những ước nguyện chân thực của con người...
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
"Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được
phỉ chí toại lòng"(Tv 36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu
ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có
lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến
chỗ tin tưởng phó thác:" ...ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái
khổ của ngày ấy". Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an
bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó
thác:" Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó
"(Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng
con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng
hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh
khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi
dào"(Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
23. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thế là 365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất như giao
hòa, kết duyên. Giây phút mà thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói:" Giây phút thiêng
liêng đã khởi đầu". Giờ này, nhân loại, con người đối diện với Thiên Chúa,
Đấng là chủ thời gian, là Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con người. Vào
phút giây huyền diệu này, thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho một thời
gian mới, một năm mới. Con người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua mùa xuân
lời cảm tạ sâu xa và tha thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới được phúc
lộc miên trường.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG
Con người trong đêm thiêng liêng của sự giao hòa đất trời,
luôn cảm nghiệm có một cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô cùng linh thiêng.
Cái giờ phút những ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời gian như đi mãi, đi
hoài và hầu như không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của đêm giao thừa huyền
nhiệm: đêm đẩy lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh thánh báo hiệu những
ngày mới của một năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối diện với Thiên Chúa,
Chúa của mùa xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người, đêm giao thừa, con
người chỉ có thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3 đã viết:" Cúi
xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh
Sion" và như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên: "trong giờ phút
giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho
chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn
vinh Danh Thánh". Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự bàn giao thời gian,
con người chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn vần xoay, xoay
chuyển và con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm tình đầu tiên trong
giây phút linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn. Sám hối để luôn đón
nhận Chúa và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số 6, 22-27 đã
viết:".khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: nguyện
Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến
anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an
cho anh em!". Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của
Danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây phút thiêng
liêng nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm hồn của
mình lên Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa chúc
lành:" Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi
người"(Dân số 6, 22-27).
HÃY TẠ ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh Phaolô đã viết:" Anh em hãy vui mừng luôn mãi
và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh"(1thes. 5, 16).
Con người và nhân loại trong giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa hãy tạ ơn
Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu nguyện liên lỉ. Những ngày tháng
năm cũ, chắc chắn có lúc ta gặp những điều thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp
những sự bất trắc, thử thách khó khăn. Tất cả những điều đó là những thánh đố
của mỗi người. Con người dù có thêm tuổi, dù gánh nặng chồng chất trên vai, dù
có sự thay đổi của tuổi tác, của trí tuệ, của khả năng, của sức khỏe. Nhưng,
tất cả đều là ân huệ của Chúa. Tất cả đều làm vinh quang cho Ngài. Và rồi, con
người chỉ có thể đứng vững khi họ biết bước trên từng nấc thang của tám mối
phúc thật. Và như thế, con người sẽ vĩnh viễn ở trước mặt Chúa cho dù thời gian
có đi qua. Con người không chỉ sống đơn độc một mình, họ còn có một mái ấm gia
đình. Giờ phút linh thiêng của một năm mới đã khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các
gia đình và để các gia đình có thể gần gũi Chúa, phương thế các gia đình phải
thực hiện là lần chuỗi mân côi. Xin cho từng người và mọi người, mọi gia đình
biết tạ ơn Chúa không ngừng và cầu nguyện liên lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới
đất cũng như trên trời. Có như thế, thời gian sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ
là cái mốc cho con người càng lúc càng gần Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu:" Tôi ngước mắt nhìn
lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là
Đấng dựng nên cả đất trời"(Tv 120,1.).
Xin Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút linh thiêng
đêm giao thừa này trở nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn
che chở giữ gìn, hầu suốt cả năm nay chúng con được sống trong tình thương của
Chúa (lời nguyện hiệp lễ, lễ giao thừa).
24. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
Cứ mỗi giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm về giây phút
linh thiêng, giây phút bàn giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao không lạ lùng và
hồi hộp khi năm cũ nhường bước cho những giây phút linh thiêng nhất, giây phút
đẹp nhất cho một năm mới khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần ngại viết những
câu thơ thật truyền cảm, nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào chốn linh thiêng,
tuyệt diệu:" Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thực
huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ ".
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM MỚI: Sự
linh thánh của đêm giao thưa như gợi trong trí của mỗi người về giây phút hết
sức huyền diệu, giây phút hết sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa cái cũ và
cái mới. Lời thánh vịnh:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn
con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion " (Tv 133, 3).
Lời thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa tưới xuống
muôn hồng ân để con người, mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh phúc và sự
an bình.Giây phút giao thừa vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng liêng, giây
phút mà mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như có một cái
gì đó níu kéo con người và làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng tâm hồn lên
Thiên Chúa để xin Thiên Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người, mọi nhà hầu
con người được sống trong hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm giao thừa,
người ta vẫn có tục lệ khấn vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc xuống cho
con người. Đối với với người công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người Kitô hữu
ngước mặt lên Chúa và cầu khẩn nguyện xin:" Trong giờ phút giao thừa này,
chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm
dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh
". Giây phút giao thừa là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường cho
năm mới. Một năm mới đã mở ra và mọi người sống giây phút này trong niềm tin,
trong hy vọng và sống trong sự yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình yêu.
GIÂY PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI: Trong đêm
giao thừa, trong giây phút linh thiêng, con người đứng trước bàn thờ, dâng lên
Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con
người, đã ban cho từng người trong suốt một năm qua. Giây phút giao hòa trời
đất là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ Đấng vô cùng
thánh thiện. Thiên Chúa đang ở với con người, sống với con người và sống vì con
người.Trong giây phút Thiên Chúa gặp con người và con người đối diện với Thiên
Chúa. Con người hiệp với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên của Thiên
Chúa:" Lạy Cha Chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn
Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng
con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi
đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha,
mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân
huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi
chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết"
(Lời Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây phút Thiên
Chúa và con người là giây phút thánh thiêng, giây phút hạnh phúc nhất vì Thiên
Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.
MUÔN ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng ân. Chính
vì thế, con người, mỗi người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì, Thiên
Chúa không cần lời cảm tạ của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là một
hồng ân Chúa ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên Chúa đang
làm cho chúng ta là cho chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta thấy ngày
khởi đầu của một năm mới.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta gặp gỡ mọi
người.
Tình thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88). Lời Thánh
vịnh này luôn thúc bách chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình thương
tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm
nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương
tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới
là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen.
25. Cầu bình an cho năm mới – Mt 5,
1-10
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh lễ giao thừa là những giây phút thật cảm động, linh
thiêng, bởi vì đây là giờ phút năm cũ và năm mới giao thoa, là giây phút năm cũ
sắp sửa bàn giao cho năm mới.Vị chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân
của Ngài và của toàn thể bà con giáo dân trong xứ đạo bởi vì suốt một năm cũ
mọi người đã nhận lãnh biết bao ân huệ từ nơi Thiên Chúa. Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã
viết một câu thơ thật chí lý, thật ý nghĩa:" Đây phút linh thiêng đã khởi
đầu...".
Trong giờ phút thật linh thiêng, Chủ tế và bà con giáo dân
cùng nhau dâng lời tạ ơn.Thánh vịnh đáp ca viết:" Ơn phù hộ tôi đến từ Đức
Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời ". Thánh Phaolô viết cho tín hữu
Thessalonica:" Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn
cảnh". Thánh vịnh 133,3 lại viết:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất,
xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ". Giây phút linh
thiêng nhà thơ họ Hàn viết là giây phút huyền diệu, giây phút linh thánh. Trời
và đất giao hòa. Những giây phút này là giây phút cảm tạ ngợi khen. Tình thương
Chúa đời đời con ca ngợi. Giây phút linh thiêng như Đức Cố Hồng Y Phanxicô
Xavie Nguyễn Văn Thuận là giây phút Ngài muốn thưa với Chúa rằng:" Lạy
Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là " một giao
ước mới và giao ước vĩnh cửu " với Chúa.
Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Giáo
Hội:" Vinh danh Cha, và Con và Thánh Thần '. Giây phút linh thiêng, giây
phút mới của những giây phút đầu tiên sẽ là khoảnh khắc đầu tiên, khoảnh khắc
cuối cùng, khảnh khắc duy nhất.
Vâng, những giây phút khởi đầu của một năm mới mở ra những
giây phút ân lộc. Và chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Giây phút giao
thừa là giây phút mở ra một chân trời mới, mở ra niềm tin, niềm hy vọng và cậy
trông bởi vì tất cả đều là hồng ân, đều là ân lộc của Chúa như lời nguyện nhập
lễ diễn tả:" Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và
cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên
Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng
hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh Chúa ".
Như Đức cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận, chúng ta hãy tín
thác cho Chúa những gì thuộc về quá khứ.
" Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy thuộc ở nơi
ta.
Ta ước muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của ta.
Vì thế, con tín thác nơi lòng nhân từ Chúa,
Con tiến bước trong đời con như một trẻ em.
Và mỗi ngày con dâng cho Chúa trái tim con
Nồng cháy tình yêu để danh Chúa được cao cả hơn"
Giờ linh thiêng là những giây phút hiện tại, Giờ con mèo
lui đi để con rồng hiện diện. Đó là nói theo cách thông thường của người trần.
Còn xét theo mặt linh thiêng. Giây phút giao thừa là giây phút Chúa đang nhìn
ngắm con người và ngược lại con người đang cầu khẩn Chúa. Kinh tiền tụng thánh
lễ giao thừa viết: " Trong Cha, chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt
động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con nghiệm hằng thấy hiệu quả
tình thương của Cha, mà còn được nhận lãnh bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy,
chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã
cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng muôn đời được
hưởng ơn Phục Sinh ".
Trong Đức Giêsu, chắc chắn mùa xuận Nhầm Thìn sẽ mang lại
nhiều hạnh phúc bởi vì Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và
như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13, 8)
Lạy Chúa, trong đêm giao thừa này, Chúa đã cho cộng đoàn
chúng con được tham dự tiệc thánh. Xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn
luôn che chở giữ gìn hầu suốt cả năm nay, chúng con được sống trong tình thương
của Chúa (Lời nguyện hiệp lễ, lễ Giao thừa, cầu bình an cho năm mới).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Thánh lễ Giao thừa nói lên gì?
2. Giây phút linh thiêng là giây phút gì?
3. Tại sao lại nói Trời Đất giao hòa?
4. Đầu năm mới người ta thường chúc cho nhau những gì?
5. Ân lộc là gì?
26. Thánh Lễ Giao Thừa
Trong những ngày này và cách riêng trong những giờ phút
linh thiêng của năm cũ sắp qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới đến, tự
nhiên mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng kết mọi
mặt về một năm đã qua. Tất nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình bày một
bản báo cáo tổng kết về Giáo Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những báo
cáo tổng kết chúng ta thường thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời Chúa
đòi hỏi.
Trước hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe công bố, muốn
khẳng định cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc, tất cả đều tùy
thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên Chúa. Nói cách khác thời gian là HỒNG ÂN Thiên
Chúa trao ban cho con người. Và vì thế cũng là Thời Gian mà con người phải công
bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho mọi người. Hơn thế nữa, Lời Chúa còn xác định
thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên Chúa chính là việc "Chúa tỏ Nhan Thánh
Chúa", là việc "Chúa ghé mặt lại". Nhan Thánh Chúa là Nhan Thánh
của lòng thương xót, khuôn mặt Chúa là khuôn mặt của bình an. Tất nhiên, những
công trình vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, những ngày lễ,
ngày hội... tất cả đều có thể là những dấu chỉ của hồng ân, nhưng không phải là
chính Hồng Ân nếu chúng không vén mở cho chúng ta thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG
THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH AN của Chúa. Với quan điểm ấy, chúng ta thấy
trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan Thánh Lòng Thương Xót Chúa qua rất nhiều cơ
hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ chúng ta. Nhưng khi đón nhận Hồng Ân Nhan
Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã che lấp Nhan Thánh mà phô trương khuôn mặt
trần tục vinh vang của xác thịt. Chúng ta đã xúc phạm Nhan Thánh.
Để thấy rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy nghe Thánh
Phaolô minh giải về các Hồng Ân Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi Hồng Ân đều
đã được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân trong Đức Giêsu
chính là Thánh Thần và Lời Thiên Chúa. Hồng ân Thánh Thần và Lời Thiên Chúa
nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta nên một thân thể trong Đức Kitô. Lẽ
ra khi đón nhận những dấu chỉ của Hồng Ân, thánh Phaolô nói chúng ta phải tránh
xa sự dữ dưới mọi hình thức, và giữ lại những điều gì tốt, nhưng thực tế xem ra
không được như thế: khi sự dữ càng ngày càng xâm chiếm cuộc sống chúng ta.
Hồng ân Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô vào
trong cuộc sống chúng ta để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Người.
Con người mà chính Người đã diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người nghèo,
một người hiền lành, một người than khóc, một người đói khát công chính, một
người biết thương xót, một người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình, một
người chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được qúa
nhiều dấu chỉ của hồng ân, nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành
quyền lực của bản thân, để tự cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và
nhất là làm suy giảm sự hiệp nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm sao tôi có thể làm bản tổng kết của Giáo Xứ này
trong năm qua. Thánh Phaolô cũng từng nói với giáo dân của mình "Anh chị
em chính là triều thiên của tôi, anh chị em chính là chứng thư của tôi trước
Nhan Thánh Chúa". Nhưng triều thiên tôi có, chứng thư tôi cầm trong tay là
gì đây?
Nhìn lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi không bi
quan, tôi vẫn hướng về năm sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng thời vẫn
kiên vững trong niềm hy vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ thực hiện
điều Người muốn cho Giáo Xứ.
Dẫu sao trong tư cách là chủ chăn riêng của Giáo Xứ, tôi
nhận mình có phần trách nhiệm chính yếu về những yếu kém của Giáo Xứ, do những
thiếu sót và tội lỗi của chính mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái đã viết, hằng
ngày tôi phải dâng của lễ đền tội bản thân đã lỗi phạm và cũng đền tội cho dân
chúng nữa. Nhưng có lẽ chính những lễ dâng đền tội này chưa đủ đẹp lòng Chúa,
vậy tôi xin anh chị em tha thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi ngay từ giây
phút này và trong năm mới biết dâng lên những lễ tế xuất phát từ "tấm lòng
tan nát giày vò" để Chúa chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ rực rỡ ánh Tôn
Nhan Thương Xót và Bình An của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ và thực tại
của sự hiệp nhất yêu thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen
27. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh vịnh 66, 2-3 có viết:" Nguyện Chúa Trời dủ
thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn
cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ". Một năm
mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp nơi trên
quê hương Việt Nam thân yêu, giờ này người ta đang hân hoan mừng năm mới Quí
Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là Lộc, là
Thọ.
XUÂN LÀ MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ ngơi, giãn xả và
sống cái tâm tình cảm tạ, biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô cùng diệu vợi, vô
cùng thánh thiêng, vô cùng quyền phép. Nói theo một cách nào đó, Thiên Chúa là
Đấng cực kỳ quyền năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người hướng trọn tâm tình
và cuộc đời của mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi trong tình thương
che chở của Chúa. Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những chua cay, đau khổ
tưởng rằng sẽ vùi dập con người, cuộc đời trong bể dâu, thê lương, nhưng tạ ơn
vì Chúa cho qua đi những ngày đen tối và cả những ngày hạnh phúc tràn đầy. Biết
ơn Chúa để quên đi quá khứ mà lao tới tương lai mà tương lai có thể sẽ vô cùng
vô tận, sẽ kéo dài mãi trong những ngày sắp tới và trong cả đời người. Nên, đời
là một cuộc tri ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa xuân vĩnh cửu là Đức
Giêsu Kitô.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp, có giây phút gọi là
thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ là một thoáng để nhìn lại quãng đường đã đi
trong cuộc hành trình cuộc đời để xem những gì cần nhân lên, cần làm cho tỏa
sáng hay những gì cần phải khắc phục sửa đổi và như thế cuộc đời là một cuộc
quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn năn và làm mới nội tâm để sống tốt hơn,
đẹp hơn.
Gọi là Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống tình thân,
tình máu mủ ruột thịt, sống cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội nguồn, ông
bà, cha mẹ, anh em, họ hàng để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình với tổ
tiên, ông bà, cha mẹ. Và như thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập giới:"
Hãy thảo kính cha mẹ". Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với Đạo của
Chúa và làm tỏa sáng năm thánh hóa gia đình.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm tình chia sẻ,
làm quen, sống tình làng nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người và sống trọn
kiếp người như Chúa đã sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao cả Thiên
Chúa trao ban cho con người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc và lòng
quảng đại hầu con người mãi mãi sống con đường làm người của Con-Thiên-Chúa là
Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân Huệ Chúa ban là con người sống cái Phúc, cái Lộc,
cái Thọ mà Thiên Chúa dành riêng cho con người.
Nhân dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm cái lòng, no
cái bụng, đẹp cái mặt, mát cái dạ và như thế là con người sống mùa xuân vĩnh
cửu, mùa xuân múc từ ngọn nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Mùa Xuân
bất diệt.
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới,
chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở
lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này được bình
an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi
dào(Lời nguyện nhập lễ, lễ Minh Niên).
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký thác đường
đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay(Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
28. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6,
25-34)
(Lm Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Lại một mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những ngày mới khai
mở một năm mới với biết bao ước vọng, với biết bao dự kiến, biết bao mơ ước và
những kế hoạch, dự phóng cho một năm mới. Ngày xuân với bao lời chúc tụng cho
nhau, chúc nhau an bình, thịnh vượng, may mắn. Đối với người Công giáo, ngày
xuân ngoài những lời nguyện chúc bình thường mà bất cứ người nào cũng có thể
chúc tụng nhau được thì người Kitô hữu còn chúc cho nhau được tràn đầy ơn Chúa,
giữ vững đức tin và luôn sống đời sống của Chúa như Thầy đã yêu (Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm con chuột
đi vào quá khứ với những niềm vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều biến cố tốt
đẹp nhưng cũng có những điều chưa được đối với từng người, đối với mọi người.
Nhưng phải công nhận năm Mậu tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh phúc.Năm mới
hy vọng với những ước mơ, với những dự tính xem ra sáng sủa và tốt đẹp hơn. Con
người sẽ đẹp nếu họ biết quay trở về với chính mình để sửa đổi, để vươn tiến.
Cuộc đời chỉ đẹp khi con người biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm cho cuộc
đời sáng tươi, trong sáng. Năm con trâu với sự cần cù của loài vật đã có nhiều
thập kỷ trở thành công cụ lao động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích cho con
người khi con người biết dùng sức lao động của con vật này trở nên bạn với
người nông dân. Đã có một thời " Con trâu đi trước, cái cầy đi sau "
luôn luôn gần gũi với người lao động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa khoa,
văn minh đi lên, con trâu không còn là công cụ duy nhất để cùng với người nông
dân làm ra của cải. Ngày nay đã có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người ta
luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều
của cải cho con người, cho loài người.
HÃY TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh Mathêu 6,
25-34 trình bầy cho mọi người một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi chúng ta
phải chọn lựa: " chọn Chúa hay tiền của ". Đã chọn rồi, chúng ta phải
sống theo điều đã chọn lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải lo phụng sự
Chúa, lo lắng làm những điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã chọn tiền
của, con người sẽ làm tôi ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người sẽ xa
Chúa và mất Chúa. Con người chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa ban
cho con người tùy theo nhu cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng, Chúa
dạy con người đừng lo lắng thái quá về những điều phụ thuộc, không chính yếu
lắm như của ăn, của mặc, nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm nổi
bật ý tưởng này, Chúa dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa huệ
ngoài đồng. Chim trời và hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên
Chúa vẫn luôn chăm sóc chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa
huệ để bắt chước, để học bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và
xác nhận con người cao quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí
khôn, lý trí, có lương tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt
hạnh phúc và sự xấu số vv...Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để
kiếm ăn, không hút nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì
thế, Chúa không khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần
mẫn làm việc và phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra cho con người,
cho mỗi người hãy sống và hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin. Chúa luôn yêu
thương con người và dạy con người phải yêu thương như Ngài đã yêu. Bởi vậy, năm
mới ai cũng có dự phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả còn tùy thuộc nơi sự
quan phòng của Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban cho con người chúng ta.
Chúa bảo"đừng lo " không có nghĩa là Chúa bảo đừng làm việc, đừng lao
động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng Ngài nói hãy cần cù lao
động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi Chúa.Ước mơ luôn là mơ
ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt:" Bạn hãy ký thác đường đời
cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay ".
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt đẹp cho con
người nếu con người biết thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy nhiên, còn
nhiều người chưa chắc đã được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi: những mảnh
đời tang thương, những mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc hơn những
hạng người nghèo khổ.Chúng ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời đau thương
và cố gắng sưởi ấm tâm hồn họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban bình an để
cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban cho chúng con
luôn biết phó thác nơi bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
29. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân
loại
(Lm Ignatio Trần Ngà)
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng
ta nên những người có phẩm chất cao đẹp.
Tết đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng năm mới;
nhà nhà rộn rã sửa soạn mừng xuân.
Bầu trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về nhuộm màu
thắm tươi rực rỡ.
Xuân xua tan băng giá của mùa đông và đem lại ấm áp cho
con người.
Xuân tô điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc, cho cây cối
đâm chồi nẩy lộc, chim chóc ríu rít vui ca.
Xuân đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng người nên
mọi người đều tưng bừng mừng xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ đem lại
nhiều điều tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình trong năm
mới.
Thế nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời hơn mùa xuân
của thời gian. Đó là Mùa Xuân Giê-su.
Chúa Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và đang đến với
nhân loại. Mùa Xuân Giê-su đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng hoa con
người đến đó.
Mùa Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những người đã chết:
cho La-da-rô đã chết bốn ngày rồi được sống lại, cho con trai bà goá thành
Na-im và cô con gái ông Giai-rô được hồi sinh.
Mùa Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh được chữa
lành, người mù tối được sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ què đi được,
người phong được sạch.
Mùa Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong
tội và giúp họ trở về nẻo chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột trở thành
người quảng đại dám đem nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp bốn những
thiệt hại đã gây ra; biến người đàn bà tội lỗi trở thành người loan tin vui,
biến người thu thuế thành tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến sĩ anh
dũng loan Tin Mừng...
Nhưng điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su đã đến
trong cuộc đời chúng ta từ lâu nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân Giê-su
đổi mới đời mình. Vì thế, hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa Xuân
Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta nên tươi đẹp hơn.
Quý trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược lại, người ta
cảm thấy buồn tủi nếu mình không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý hơn vẻ đẹp
thân xác. Vì thế, người ta thường nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người
đẹp nết còn hơn đẹp người" hoặc: "Cái nết đánh chết cái đẹp."
Đúng vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát xuất từ phẩm
chất cao quý của con người đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp thân xác.
Bằng chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu già nua,
nghèo nàn, thấp bé và không có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ tôn trọng
mọi người như tôn kính Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu thương, có một
tâm hồn quảng đại quên mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn sàng phục vụ
những người bần cùng khốn khổ khắp nơi trên thế giới... nên Mẹ được thế giới
kính trọng và xem như là người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là "xấu người đẹp
nết còn hơn đẹp người."
Trang điểm tâm hồn
Muốn trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi những gì làm
cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những lời nói thô
lỗ, những ngôn từ thô bỉ, thiếu văn hoá... vì nó làm mất thanh danh phẩm giá
của người thốt ra những lời đó.
Cố gắng loại trừ những hành động vũ phu, những hành vi côn
đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn minh và đạo đức... vì ai thực hiện những hành vi
đó là tự làm hại chính mình, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình bằng cung
cách lịch sự, bằng những hành vi cao thượng, bác ái, vị tha... Chính những hành
vi cao đẹp nầy làm cho bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước đây ở nhà
tranh nay lên nhà ngói), phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng cấp
(trước đi xe đạp nay lên xe máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã được
nâng cấp thì lẽ nào bản thân chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng
ta nên những người có phẩm chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan
và nhân đức, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến (theo Luca 2,39).
30. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người
sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để
kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con
người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa
nói:" Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người,
còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho ".
Những giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp
Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi
người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người
phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền
Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng,
Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ,
làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh Phaolô
khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng
gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn
tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống
chi là con người...Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng,
đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa:" Cứ tin tưởng vào Chúa và
làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm
niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng".
Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và
giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới,
chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi
người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh
nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không
trung ngày Chúa giáng trần:" Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới
thế cho người thiện tâm ". Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới
hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để
sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta
biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ
biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi
Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ
đau, đói nghèo.
Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên
thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui
hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2, 11-12). Cuộc đời
con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này
tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân
vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời
vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối
cao:" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng
ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn
cứu độ của Ngài " (Tv 66, 2-3).
Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời này:" Hãy ký
thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn,
Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính
ngọ ".
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới
chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở
lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an
mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào
(Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày đầu năm có ý nghĩa gì?
2. Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
31. "Những Dấu lặng của Mùa
Xuân"!
Năm cũ đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay vào những
công việc quen thuộc. Người thì lo tính toán sổ sách, hoàn tất công việc. Kẻ
thì đi sắm sửa quần áo, giày dép, hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp ... Người khác
lại lo chuẩn bị các mặt hàng để buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng vậy, Mùa Xuân
nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu không có Mùa Xuân? Thì...?
Chuyện kể rằng:
"Ngày kia, có vài người đến thưa với Thượng Đế rằng:
Tết năm nào cũng có bấy nhiêu việc. Chán quá! Chỉ có bọn con nít vô tư ham Tết
chứ người lớn như chúng con chẳng ham gì Tết vì còn vất vả, tốn kém hơn ngày
thường. Xin Ngài xem xét cho"! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế quyết định gọi
Mùa Xuân trở về Thiên Quốc.
Thế là ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua, lại đến ba
trăm sáu mươi lăm ngày khác tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi đầu vào sách
vở. Người lớn thì miệt mài chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa chẳng bao giờ
được trang hoàng bởi những nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu hoa kiểng xinh
xắn, dễ thương. Các ông bà cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua tháng nọ mà
bóng dáng con cháu vẫn biền biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau bên ly rượu,
mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ tâm tình ... Và rồi dần dần, hoa cỏ nhợt nhạt vì
thiếu làn gió xuân ấm áp và những đôi tay chăm sóc. Con người cũng dần dần xa
cách nhau vì thiếu sự quan tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến van xin
Thượng Đế: "Xin Ngài đem Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có Mùa Xuân,
có ngày chúng tôi phát điên lên mất".
Khi Mùa Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại chan hòa
trên cảnh vật và con người ..."
Có lẽ Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà Thượng Đế gửi
đến cho vũ trụ và con người. Quà tặng đó là thời gian, là những vẻ đẹp được kết
tinh từ cả một chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa hơn, đó là một
"món ăn" bổ ích cả thể xác lẫn tinh thần cho con người.
Có lẽ tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình mà mỗi người
có những cảm xúc khác nhau trước Mùa Xuân.
Tôi rất thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy. Ngày xuân!
Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp các loại bánh mứt, trái cây ... được trưng bày
đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ Hoa Xuân
dường như ... hoa cả mắt bởi các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và mới lạ - đủ
các dáng kiểu. Các Hội Xuân tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường phố
"dập dìu tài tử giai nhân" rạng rỡ trong những bộ quần áo thật đẹp và
"model". Trong các nhà thờ thì càng vui hơn nữa: mọi người hăng hái
quét dọn, treo lộc xuân và những câu đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất là được
trở về xum họp với gia đình và những người thương mến sau những tháng ngày xa
cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa Xuân!
Đón mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công việc phải
làm: những chương trình vui xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu mươi lăm
ngày sắp tới. Giữa những ồn ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng đọng lại để
lắng nghe "lời thì thầm của Mùa Xuân"!
Sau một năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc và tất bật
chạy đua với thời gian, tôi cần có những giây phút dừng lại để nghỉ ngơi và
"nạp năng lượng"; để đọc lại những bài học may, rủi, thành công và
thất bại đã qua; để vun tưới cho những tương quan và tình cảm tốt đẹp với bao người
thân yêu mà nhiều khi vì vô tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ và bỏ mặc họ.
Đón Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa cho đẹp
và mặc những bộ quần áo mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải trí cho thật
hấp dẫn, mới mẻ và thỏa thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là làm mới lại tất
cả: tâm hồn, cách sống, công việc và đời sống gia đình, cũng như các mối tương
quan xã hội. Khi đã "gạn đục khơi trong" con người mình bằng cách
loại bỏ tư tưởng và những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc những giá trị tích
cực và bổ ích, tôi sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để bước tiếp chặng đường
mới một cách tự tin và vững vàng hơn.
Mùa Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe sắc mới và
gió xuân thổi vào lòng người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới. Người
người phơi phới niềm vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất: Phúc,
Lộc, Thọ ... và gửi biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự trân
trọng, quý mến và chia sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn thân
thiết đã chia sẻ cùng mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại.
Hãy nói lời cảm ơn người cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những người bà
con thân quyến ... đã gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng qua. Hãy
cảm ơn chính mình về những nổ lực và nhiệt tâm ... Và đừng quên cất lời cảm tạ
Thượng Đế về bao ơn lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi mọi biến cố
vui, buồn, may, rủi ...
Có thể ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc được dệt bởi
những cung bậc trầm bổng của thời gian. Giữa những cung bậc tưng bừng và náo
nhiệt của Mùa Xuân, có "những dấu lặng" thật tuyệt vời để ta nghe lại
âm hưởng của đoạn nhạc phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở phía sau.
Khi ấy, Mùa Xuân mới thật sự là "một phần tất yếu của cuộc sống"
chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để
làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của con người.
32. Vạn sự như ý... Chúa
Dịp tết tôi có nhận được lá thư của người thân ở nước
ngoài, cầu chúc cho tôi "vạn sự như ý" được nhắc đi nhắc lại gần ba
lần Tôi hiểu người thân của tôi rất thương mến tôi, quan tâm nhiều tới tôi,
mong ước cho tôi được may mắn điều này điều kia, không muốn tôi phải khổ, không
muốn tôi gặp những khó khăn... Vạn sự đây chắc không phải chỉ có mười ngàn lần
mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất của con
người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi trên đời này có ai lại "mát" đến
cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái, muốn thất bại, mọi việc xẩy ra đều ngoài ý
muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này các giáo phái kia đều muốn giúp con người
cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì không được như ý muốn là khổ, muốn giầu
mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn bình yên mà cứ gặp tai nạn hoài chẳng khổ
là gì?
Xưa nay người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu ngầm là Ý
Chúa thì luôn ngược với ý người ta nên người ta phải khổ. Khi phải khổ thì
người ta chẳng còn tha thiết gì với Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng dửng dưng
càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu càng đỡ phiền toái bấy nhiêu... Bởi vì
đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên vậy, mọi vật đều phải tuân thủ. Khi
nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt, răn đe đủ điều, có khi dùng tạo vật
làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi sốt rét lâu lâu chích cho ta một
phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người quay lại chống đối, giơ nắm đấm,
vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm được lối thoát thì đành phải ngậm
bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình tập chịu vậy, rồi cho đó là một
nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì cho đó là đỉnh cao của đời sống
đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người khác một cách rất sốt sắng là
"Ý Chúa đấy, hãy... chịu vậy". Gặp người chịu vậy thì họ lại chịu
vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ thái độ ra bên ngoài nhưng bên
trong cũng giận điên lên!!!
Có điều con người muốn nhận diện rõ ràng đâu là ý Chúa,
đâu là ý người ta, đâu là ý Bề trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng cúi đầu
chịu vậy, chứ còn ý người ta thì..... không thể chịu được, ăn thua đủ, sòng
phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt, ông muốn không bà muốn có, muốn có điện lại bị
cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại chẳng cần... như thế có phải ý Chúa không?
33. Hạnh phúc đích thật
Tai nạn giao thông ở ngoại ô thành phố Paris năm nào đã
cướp đi mạng sống của công nương Diana. Cái chết của bà làm hàng triệu người
xúc động. Người ta thương bà vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà phải mất đi
cuộc sống này khi tuổi đời còn qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui hạnh
phúc. Hạnh phúc là niềm khát khao của mọi người. Con người sinh ra là để được
sống hạnh phúc. Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh
phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
***
Bạn thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc của
con người. Những gì Ngài làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc, thánh
hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này và cả
cuộc đời mai sau nữa. Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc của
con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì mỗi người có
một quan niệm khác nhau về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến
đổi theo thời gian. Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để
rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là "hạnh phúc đích
thật": Hạnh phúc đích thật không nằm nơi của cải; kiến thức hay quyền uy.
Hạnh phúc đích thật không do chiếm đoạt những gì mình muốn, nhưng do trao hiến
những điều quý nhất của mình. Hạnh phúc đích thật là mãn nguyện với những gì
mình được ban tặng; là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng. Hạnh phúc đích
thật là sự an bình ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, và giữa tôi
với chính tôi...
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn.
Hạnh phúc bao giờ cũng được pha trộn với mồ hôi và nước mắt. Nhưng có hạnh phúc
thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh
phúc thực sự.
Chúng ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại, và nhất
là cần nhiều ơn ban từ trời cao giúp ta thấu hiểu được các mối phúc. Cũng như
trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, những điều người đời coi là bất hạnh, Đức
Giêsu bảo đó là hạnh phúc đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, bị
khai trừ, bị sỉ vả..v..v.. những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng
nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét bỏ vì
nói lên dự thật, bị sỉ vả vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc. Hạnh
phúc đó xảy ra ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy mình
giàu lên trong cảnh nghèo khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và
nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô hữu đã sống
các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương;
cái thâm sâu cao cả của Lời Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng.
Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin... Đức Giêsu có
thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của
đời thường. Ước gì mỗi người trong chúng ta biết noi gương bắt chước Đức Giêsu,
biết viết lên những mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui và ơn ban Chúa
dành cho ta trong cuộc sống hàng ngày.
***
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa
cười, nhưng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa
vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước
hai môn đệ trên đường Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của
Chúa luôn ẩn hiện trong Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui trào dâng của
người được lành bệnh; của người chết sống lại và của người đàn bà tội lỗi được
ơn tha thứ ...
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm
nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con biết tươi
cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với con. Xin cho con biết mến yêu cuộc
sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản, nhưng
xin đừng để nụ cười tắt trên môi của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình thương
ấy cho anh chị em của con. Amen.
34. Ngày đầu năm – R. Veritas
Tâm tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn
làm bậc tôn sự đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
- Người quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện
với ta. - Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại.
- Công việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu
thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào
công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
- Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây.
- Con người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước
mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm.
Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết
tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v... Có người quyết tâm hăng
hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm và có quyết
tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại
vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm
tâm hồn chúng ta.
- Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan
và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây
phút này.
- Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân
tình diệu vợi của Chúa.
- Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy
để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để
chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm
tình phó thác và tri ân.
***
- Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
- Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta
để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
- Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình
Yêu của Ngài.
- Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi
người.
- Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
- Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm
người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn
những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn
tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những
người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống
như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ
đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn
chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét
chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng
gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một
năm mới.
Xin đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta.
35. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy
Tuyền
Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh
thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn
rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới.
Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ.
Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về
hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao
thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một
thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm
linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một
thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và
thịnh vượng.
Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi
ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng
ấy. Quây quần bên bàn thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để
tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã
khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ
lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.
Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình
thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu.
Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời.
... Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa
tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.
Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính
là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo
đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của
trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo
Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm
hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.
Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ
thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên,
gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới
làm cho "con tạo xoay vần" theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp
con người đạt được ước nguyện của mình.
Thế nê, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy
để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu
phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc
đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm
mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:
- Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
- Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
- Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
- Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
- Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
- Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
- Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
- Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
- Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa –
Tình Người. Amen
36. Năm mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy
Tuyền
Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu
chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc:
Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với
bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão
cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống
gậy, một tay cầm quả đào
. Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng
hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông
là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường,
con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái
ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không
có người nối dõi.
Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán.
Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua
ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai,
trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt
chết hết cả.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng,
không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù
hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ
là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?
Xem ra lời cầu chúc "Phúc – Lộc – Thọ" đã được
hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa.
Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là
điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không
cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống
mới là quan yếu.
Có ai đó đã nói rằng: " Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ
cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao". Có được niềm vui thanh
cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra
để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc
đời.
Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi
người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính
yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có
hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.
Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc
đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy
nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến
độ "bách niên giai lão". Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước,
tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót
thương....
Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn
lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại,
hy sinh...; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp
đời đời.
Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu
hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất
của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các
cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn
tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy
sinh...?
Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm
mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn
Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho
chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với
hết cả tấm lòng. Amen
37. Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi – Tết Quý Tỵ 2013)
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã viết lên để
ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban phước lộc cho
muôn người, muôn nhà trong năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã qua đi nhường
chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên Chúa chúc lành
cho năm mới này, để muôn người, muôn nhà được sống trong sự an bình của Chúa...
Tiết Đông nay đã qua rồi,
Mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui hát lại trở về,
Tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv 66,2-3).
Sự an bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc, thôn xóm
trong những ngày xuân nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương con người, quan tâm
đến con người cả tinh thần đến vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm
nay nói đến sự quan phòng của Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi sự đều được
Chúa an bài, ngay cả sợi tóc trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên Chúa định
liệu. Con người quý trọng hơn hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô hữu hãy
ký thác đường đời cho Chúa, tín thác nơi Chúa:" Cứ tin tưởng vào Chúa và
làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy Chúa làm
niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng ".
Suốt một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được Thiên Chúa
ban cho những ân huệ đặc biệt tùy theo lòng thương xót của Ngài...Năm mới tới,
chúng ta luôn tin như thánh Phaolô viết:" Anh em đừng lo lắng gì cả.Nhưng
trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày
trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa,
bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp
với Đức Kitô Giêsu ".
Năm mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa sẽ luôn ở
cùng chúng ta. Nên, Lời Chúa:" Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế
" (Mt 28, 20) an ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến bước vì chúng
ta cảm nghiệm sâu xa Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời sống
chúng ta.
Ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin
chúc tụng danh Ngài, lời Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con luôn bám chặt
vào Chúa và tôn vinh, ca ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên nhắc nhở chúng
ta:"...Riêng con người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều
khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền Cha làm chủ
mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca
tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ". Chúng ta vững bước, tin
tưởng ký thác nơi Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển cuộc đời của mỗi
người.
Lạy Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng con trách
nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu
xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn.Xin cho chúng con không ngừng cảm
tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ, lễ Minh
Niên).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết có ý ngjĩa gì?
2. Tại sao chúng ta lại ký thác đường đời cho Chúa?
3. Bình an của Chúa có khác với hòa bình của con người?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
38. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có một sự gì
đó hết sức linh thiêng vì năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây phút trời
với đất gặp nhau, trời và đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết:" Cúi
xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh
Sion ". Lời khẩn cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi gia đình
khấn van Chúa tưới đổ muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà nhà được
an bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Với truyền của người Việt Nam, đêm giao thừa là đêm thánh
thiêng, đêm con người gặp gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời và đất.
Thường người lớn trong gia đình đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để khấn vái
tổ tiên, khấn xin người trên ban cho gia đình được nhiều hồng phúc, ban cho gia
đình được dồi dào sức khỏe, may mắn và bình an. Đối với các Kitô hữu, giây phút
giao thừa là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời cảm tạ tri ân
Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã ban cho con người, cho mỗi người, cho gia đình
trong suốt một năm qua. Do đó, giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng
nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa. Giây phút
linh thánh trời và đất gặp nhau, Thiên Chúa đang ở với con người và con người
đang đối diện với Thiên Chúa. Giây phút huyền diệu này con người không biết
diễn tả sao cho hết tình Chúa thương yêu con người. Trong giây phút ấy, con
người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa:" Lạy Cha
chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi
lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha
chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng
những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo
chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa
Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng
con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết " (Lời Kinh Tiền Tụng Chúa
Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói không ngoa vì giây phút này là giây
phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất con người gặp gỡ Đấng vô cùng chí
thánh, giống như giây phút trên núi Sinai, Môsê không dám nhìn vào bụi gai đang
cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải cúi mặt xuống, không dám nhìn vào
Chúa.
Vâng, mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục, một cách thể
hiện để đón năm mới, nhưng dù với cách nào, với tập tục nào, truyền thống nào,
người môn đệ Chúa luôn coi giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng, giây
phút năm cũ sẽ nhường chỗ cho một năm mới tới. Người môn đệ Chúa luôn ước mong
năm mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua đi tất cả những gì
được coi như xui xẻo, coi như không được may mắn của năm cũ và đón chào những
gì tốt hơn, quí hơn của năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của đêm giao
thừa, xin cho mọi người môn đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa
vì những ơn huệ đã nhận lãnh và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban cho nhân
loại, cho con người, cho mỗi gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
39. Tết cho mọi người – Lm Jos Nguyễn
Hữu An
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh lúa nước vốn
có những ngày Tết truyền thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý vị và vui
tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như lễ tết ra
giêng để vào hè thì có Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ. Đặc biệt
để tiễn mùa đông người Việt đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có nhiều tết khác
như Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung Thu (dành cho
thiếu nhi), Tết Trùng Dương, Tết Ông Táo... Tất cả đều có sự tính toán dựa theo
sự chuyển đổi của thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch phương Đông.
Chữ "Tết" ngày nay đã được một số quốc gia sử
dụng như là một "Lễ" hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà
nghiên cứu đều cho rằng chữ "Tết" bắt nguồn từ "Lễ Tiết"
bên Trung Quốc. Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người ta còn ghép theo từ
Nhứt nữa nghe thật thú vị, như 'Tết Nhứt' là do đọc chệch đi từ hai âm Hán Việt
"Tiết Nhựt", có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên Đán, theo chữ Nôm:
Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm mai đầu năm. Nguyên
Đán còn gọi là "Chính Đán" tức là "Chính Nguyệt Chi Đán" (buổi
sớm mai tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam chiêu, là ba cái sớm mai (sớm
mai đầu năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ nơi đâu vẫn
xem trọng ngày Tết Nguyên Đán. Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho cuộc sống;
một năm xa gia đình bôn ba mọi nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn tụ, mọi
chuyện buồn phiền lo toan đời thường tạm gác sang một bên để mọi người cùng
hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ tiên ông bà
cha mẹ, nhưng không quên nghĩ đến người nghèo, thương đến những người đã khuất
núi.
Tết cho người trần
"Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết", câu nói ấy
đủ cho thấy người Việt chú trọng đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn dù khó thì
ngày Tết cũng phải có cặp bánh chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp mứt. Nhà
có điều kiện thì mua sắm đủ thứ, nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại bánh mứt
thật hảo hạng, cây giò thật to, gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và nhiều loại
bánh khác. Cùng với những thứ ăn, là những chậu hoa, cây cảnh, chậu quất sai
qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc, nụ, hoa...
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ" là cái Tết
truyền thống của người Việt Nam. Ý nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn tinh
thần. "Câu đối đỏ" ngày nay được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh những
đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền giấy điều, giấy lụa là những câu đối in
trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn sắm về những hoành phi câu đối bằng gỗ,
khảm trai hay những đôi câu đối thêu... Quan niệm của người Việt, ngày Tết tiễn
cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều nhà có
điều kiện, những tháng cuối năm thay đổi những cái cũ trong nhà như thay đổi
tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái máy giặt hay thay xe... nhà không có điều
kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc kê
dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn
sạch sẽ...
Ngày Tết, còn là dịp để người người vui chơi. Bên cạnh
việc "Ăn Tết", người ta nghĩ đến việc "Chơi Tết". Chơi Tết
có thể kéo dài từ những ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi ngắm chợ
hoa, đi chợ Tết và ngày nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể mua hoặc có
thể chẳng mua gì, song việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết, đặc biệt đối
với giới nữ. Vì vậy, chợ là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã ồn ào, náo
nhiệt thì những ngày áp Tết chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói đến
"Chơi Tết" thì không thể không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc Tết
nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ, anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến chúc
Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui như trẩy hội. Việc "Chơi Tết"
không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một, Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết tháng
giêng, tháng hai và cả tháng ba với những lễ hội, đình đám. Vì thế mà người ta
có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai đình đám, tháng ba hội hè. Có
lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết cũng vì lẽ đó.
Tết cho người âm
Người Việt rất trọng chữ "Lễ nghĩa - trước sau".
Ngày Tết nhà ai cũng phải có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương tổ tiên. Quan niệm
"Trần sao, âm vậy" nên dễ thấy những ngày trước Tết, trong các chợ,
quầy bán hàng mã cũng rất đông người. Người ta mua tiền, vàng, mua quần áo, có
nhà chu đáo còn mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda hay cả xe hơi, điện
thoại di động, toà nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở cõi âm.
Ở nhiều làng quê, người ta còn nghĩ về người âm, lo Tết
cho những người âm không có nhà cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát đơm từng
thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã được cuộn tròn như cái phễu đem để bụi tre,
dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng trong đêm ba mươi, ngày mùng một chủ nhà nào
cẩn thận còn bảo con cháu ra mở cửa, mở cả cửa trước, cửa sau, ngoài ý niệm
trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý mở cửa mời ông bà, tổ tiên về cùng vui đón
Tết.
Tết cho người âm còn thể hiện ở việc người trần đi tảo mộ.
Thường người ta đi tảo mộ vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba Tết với mâm cơm
nhỏ để ông bà, cụ kị chứng cho con, cho cháu, hoặc với những người trẻ xấu số
thì mâm cơm tảo mộ còn để cho hương hồn họ không cảm thấy cô quạnh.
Tết cho hai phần thế giới... giao thoa
Ngày Tết, đất trời giao hòa, người người gần gũi nhau hơn.
Trong cái không khí ấm áp lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về
nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia
đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất.
Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau có lẽ cũng
xuất phát từ những ước nguyện ấy.
Những ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa đền nhiều
hơn. Tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi người song
hầu hết đến chùa ai cũng có được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong bảng lảng của
khói hương, người người cầu ước và hy vọng những ông quan với bộ mặt hiền từ
ngồi kia cùng những linh hồn quanh đó nghe được và giúp họ thực hiện những điều
ước tốt đẹp trong năm mới. Trong dân gian, người ta cũng truyền miệng nhau
rằng, ngày Tết, các quan trông coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ phải cắt cử
nhau ở chùa để ghi lại những điều mong ước của người trần. Sau đó báo cáo lên
thiên đình, rồi căn cứ vào những việc làm thiện, ác của từng người, của từng
gia đình mà thiên triều cho người đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau trong năm
đó. Những vong hồn cũng quanh quẩn cửa chùa thường là những vong hồn phiêu dạt
không cửa nhà, họ tìm đến đây để xin được ăn. Và cửa chùa chính là nơi giúp
người âm và người dương gần nhau hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi trẻ, phụ
nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo dân tộc).
Tết nơi xứ đạo
Những ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn công việc bán
mua, sắm sửa cho ngày Tết. Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo toan đón Tết.
Chuẩn bị quà Tết cho người nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo nhiều hơn. Quà
Tết cho người nghèo là lương thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn thể, mọi giới
trong xứ đi lạc quyên giúp người nghèo được "Ăn Tết" cùng với mọi
nhà, bởi lẽ "giàu thì ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa ba lần".
Quà cho các cụ già trên 70 tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời chúc thọ của
con cháu trong thánh lễ Mồng Hai Tết.
Năm nào giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới trẻ, thiếu
nhi, bóng đá bóng chuyền. Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì thế khuôn
viên Nhà thờ tấp nập mọi đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba ngày Tết.
Vui Tết lành mạnh, ở làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say sưa.
Đất Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn cho Thánh
Lễ sáng Mồng Hai Tết. Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh sáng đèn
nến, nhập nhoà hương khói.
Chuyện Tết cho người trần, Tết cho người âm, Tết cho người
nghèo chính là cuộc sống mà người người đang hối hả khi cái Tết bắt đầu gõ cửa.
40. Hạnh phúc trường sinh
(Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Người đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của con người là
Phúc – Lộc - Thọ. Phúc là công danh chức tước – Lộc là con cháu đông đảo – Và
thọ là tuổi già.
Có công danh, sinh con cái là những dịp để người ta khao
vọng, mừng rỡ, và khi hưởng tuổi già người ta lại càng cần phải mừng rỡ hơn để
tạ ơn trời đất tiên tổ đã phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là nỗi khao khát của
con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại
nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao
khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm
thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu
chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng, sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao khát nhất
của đời người. Người đời không chỉ mong sống lâu mà còn mong được sống hạnh
phúc và bình an. Hôm nay ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc nhau hạnh
phúc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng ta mong
ước cho nhau luôn mạnh khoẻ sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là những ước
mơ rất chính đáng của con người. Là người ai cũng mong được sống trường sinh và
hạnh phúc.
Chính Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta một con
đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc và trường sinh. Đó chính là con đường của tám
mối phúc. Đây là con đường đòi hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải hy sinh
những cái nhỏ để được cái lớn hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm
lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng
loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một đòi hỏi
kiên quyết của người môn đệ Đức Kytô. Họ phải là những người nghèo trước mặt
Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất
khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông
nơi Chúa, biết sống cho Chúa và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia
nghiệp, và luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều
răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Cho dù mình có bị thiệt thòi một chút,
đau khổ một chút nhưng họ lại có ích cho gia đình, cho xã hội và đồng loại.
Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui trong những gì chúng ta cho đi. Cho thì có
phúc hơn nhận lãnh. Một con người không bao giờ biết cho đi, không bao giờ biết
hy sinh vì người khác, hay không bao giờ sống thanh sạch lòng thanh – gìn giữ
công lý và xây dựng hoà bình, họ chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín đời mình
trong ngục tù cô đơn. Họ là những con người vô dụng, vô tâm, sống xa rời tình
Chúa – tình người nên họ chỉ là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ trụi, trơ
trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là linh vật
đứng thứ 5 trong 12 con giáp, rồng được coi là là sản phẩm của truyền thuyết và
các huyền thoại, biểu tượng của sự may mắn, thịnh vượng cũng như quyền lực mạnh
mẽ. Rồng còn là biểu tượng của lòng bái ái bao dung. Theo truyền thuyết, khi
Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại sao một con
vật mạnh mẽ như Rồng lại không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó còn phải
dừng lại giữa đường, làm mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may mắn đến với
chúng ta trong năm, đồng thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh phúc đời
mình như con Rồng bằng việc thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng. Sống vươn
lên khỏi những đam mê xác thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những bon chen
vật chất tầm thường, những danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui trong đời
sống hiến dâng phục vụ cho đời.
Nguyện xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm mạnh mẽ như
rồng và nhiều điều may mắn đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc lành cho chúng
ta một năm vạn sự như ý. Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên trong nhân đức và
mạnh mẽ trong đức tin đức cậy và đức mến. Amen
41. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc tụng nhau
và cầu chúc cho nhau những điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất, những điều
hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày 01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta đọc lại tám
mối phúc thật của Chúa Giêsu để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc thật,
thế là là những người được Chúa chúc phúc.
Sống nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình được may
mắn, được tốt đẹp, đặc biệt được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu để sinh
tồn, con người phấn đấu để vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy nhiên,
Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ Chúa.
Chúa cũng đảm bảo cho những con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn trong
sạch, bị bách hại sẽ được" đất nước làm cơ nghiệp " được " Thiên
Chúa xót thương" được " nhìn thấy Thiên Chúa " được " gọi
là con Thiên Chúa ". Và để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện thực
cho đời sống, cho con người, Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua đau
khổ, vác thập giá và trải qua cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa
phải qua thập giá mới tới được vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ
không thể nhận được lời chúc phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không
trải qua cuộc hành trình thập giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không
có cái chết, không có sự phục sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh
phúc, muốn được tài lộc phải hy sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì,
không ai nằm chờ sung rụng rồi sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu,
cực nhọc. Không ai muốn sống lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập
luyện, kiêng khem vv...
Ngày đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì
Người đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người và còn hứa ban " Nước
Trời " cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng
ta một năm qua được lãnh nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu thương và
thành tín với chúng ta dù rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là người Cha
đầy tình thương xót, luôn tha thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài và chẳng
trách cứ chúng ta.
Đầu năm mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau một năm mới
đầy yêu thương, đầy ý nghĩa vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân không bao
giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi lòng để đón
nhận những lời chúc phúc của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải sống yêu
thương như Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì yêu thương
chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn hiện thực
trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa trong tin yêu và
hy vọng và như thế lời chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và sống lâu vẫn là
những điều quí hóa bởi vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa là mùa xuân vĩnh
cửu.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới vui tươi và
hạnh phúc. Amen.
42. Bình an và hạnh phúc
(Giuse Nguyễn Hữu Duyên - Lm Quản Xứ Bảo Lộc)
Anh Chị em rất thân yêu,
Ngày đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu chúc bình an và
hạnh phúc. Xuyên qua những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể nắm bắt được những
ý nghĩ căn bản của nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng, công danh
và thành đạt, tình yêu và đại gia đình, đó là những gì làm nên an bình và hạnh
phúc cho con người.
Lời Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời cầu chúc bình
an và hạnh phúc. Nhưng Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ và dường như
trái nghịch với ước mơ thường tình của con người:
Trước hết nền tảng của hạnh phúc và bình an chính là sự
bảo trợ của Danh Thiên Chúa và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi còn ở Ai Cập
cũng thường nghĩ chính công ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa, chính những tài
sản tích lũy là sự bảo trợ của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40 năm trong sa
mạc, khi phải vứt bỏ tất cả, thậm chí ngay đến những gì gồng gánh đem theo cũng
phải tiêu tán trong cát bụi, không ít lần họ đã nổi loạn chống lại Môsê...
nhưng Thiên Chúa không khoan nhượng... Ngài đã chôn vùi và lột trần tất cả trở
thành những con người sống từng bữa bởi lòng thương xót của duy mình Thiên
Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập phải phơi xương trên biển cát mênh mang, và
còn lại chỉ là một lớp người mới sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân Chúa
mới chiếm được Đất hứa và trở nên Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt lõi khi
công bố Hiến Chương Nước Trời cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo:
Phải xây dựng Hạnh Phúc của mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành động
yêu thương của Chúa Dù sao Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa mạc, họ
vẫn còn khí trời, vẫn còn cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng soi...và vẫn
còn tình huyết tộc bao bọc chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải chôn vùi sự
sống của mình trên 300 năm trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt tứ xứ nơi
đất lạ...chịu muôn vàn bách hại và truy sát... Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa
không khoan nhượng trong đòi buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ sống nhờ sự
bảo trợ của Người. Sau này, khi hòa bình bên ngoài được thiết lập, không thiếu
thành phần con cái Hội Thánh quên đi cái nôi sự sống của mình chính là Khó
Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã được tái
sinh chung quanh những trung tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội Thánh sa
lầy trong nhung lụa và quyền bính thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân hóa của
những giáo phái Tin Lành, Chúa đã một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một Bà Chúa
Nghèo của Phanxicô thành Assisie... Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử đầy tính
hiện sinh của cái nghèo chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo khó ấy.
Thánh Phaolô đã không làm giảm thiểu tính quyết liệt ấy
khi xác định cách chắc chắn rằng, không phải là sự khó nghèo luân lý đạo đức
nào đó là nền tảng của Hạnh Phúc và bình an, nhưng chính là con người nghèo của
Đức Giêsu Kitô, và vì vậy trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của Người Kitô chính
là được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai thuộc về Đức Kitô
thì luôn sẵn sàng đi từ hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách riêng là trở thành
Tấm Bánh bị bẻ ra cho những con người nghèo.
Anh Chị Em rất thân yêu,
Đứng trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời, và
sự đòi hỏi phải trở nên Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào trong lúc này
không nhận ra tính nghịch thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp của ngày tết.
Tuy nhiên, bên dưới lớp vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô quạnh và nhức
nhối. Còn nơi bàn thờ này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại là con tim rộn
ràng sức sống yêu thương.
Ngày đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng yêu mến của
tôi, kính chúc Thầy Phó Tế, Quý Tu Sỹ nam nữ,,Qúy Chủng Sinh, Quý Cố Ông, Cố
Bà, và toàn thể Anh chị em thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh Thần trong
Đức Giêsu thánh hóa và gìn giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta tất cả trở
nên nhân chứng của Hạnh Phúc đích thật cho mọi người, mọi gia đình và toàn thể
xã hội.
Kính Chúc
43. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa
luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:" Đây phút
linh thiêng đã khởi đầu..."Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới.
Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút
linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình
Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. " Đức Giêsu Kitô vẫn là
một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời " như thánh
Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan
trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta
mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều
cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta
trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài,
nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện
nhập lễ chúng ta đọc thấy:" Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là
căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng
tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc,
và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh". Thiên Chúa là
Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài
để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì " Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa
là Đấng dựng nên cả đất trời ".Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây
phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những
thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi
người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại
với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên
Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con
người, cho loài người, cho mỗi người:" Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh,
Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho
chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng
lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới
sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ".
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm
Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ
trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành
tâm thiện chí " Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người
Chúa thương ". Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh
phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được
thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có
niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu
thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết
nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới
cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý,
mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm
tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng
không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho
con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho
chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
44. Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt
6, 25-34)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là
hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế
có thể so ví với con người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán
đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã
tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa
huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì
thế, Chúa nói:"...Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì?...".
CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng
nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn
cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền
vv...Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như
vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại
Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói:" Đừng lo ". Con người
là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua
Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chịm
se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà
Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin
(Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên
Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí
hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế
nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng:" Sự
giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!...Vì muôn
vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn
vinh Thiên Chúa đến muôn đời.Amen. "(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có
câu:" Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra
tay". Chúa bảo" đừng lo", không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười
biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này.
Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười
biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói:" Không làm việc thì đừng
ăn...". Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để
suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian
và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng
chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa
để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống...Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm
sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv...Con người Chúa
luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá
đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng " Hãy lấy Chúa làm niềm vui...Người
sẽ cho được phỉ chí toại lòng"(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo
đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết:" Anh em đừng lo lắng gì cả...".
Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công
hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv...
ngắm lại chính bản thân của mình: " Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê".
Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự
sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết
của mọi người...
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay
uy quyền của Chúa. Amen.
45. Nước Thiên Chúa và sự công chính
của Người
(Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Năm mới đang đến, mở ra một giai đoạn mới của cuộc sống.
Và ở thời khắc linh thiêng này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng ta qua Tin
Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút suy niệm về lời được công bố ấy, tưởng cũng là
điều rất cần thiết cho chúng ta lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm hồn mình lắng
đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt 6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện với những
vấn đề của cuộc sống
Những của cải trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi
phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người
bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện
với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc... Các thực tại
vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ
sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống,
người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các
thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian
được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là
chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất của bài tin mừng
hôm nay (cc.25-32) trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc
chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo
đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn
tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta
những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng
lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá
huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi.
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm
như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng ấu
yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản:
Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ
một gang không? (c.27). Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản,
ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn
định.
Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh
cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự
phóng tương lai... Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện
nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với
lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người
bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng
cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời.
Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói.
Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng
không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian
này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý
do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại
trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy
nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự "không lo lắng" của chúng ta, như vậy, theo
lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả
năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự "không lo
lắng" đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng
và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng
Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt 6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên
Chúa và sự công chính của Người
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho
chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con
tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt
động của chúng ta: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá
trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng
tất cả con người của mình về những thực tại đó.
Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn
cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng
luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống
của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta
và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một
ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính
Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của
Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của
chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện
sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự
công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như
những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý
nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về
cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong
cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ
những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính
Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta hướng tới, chứ
không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai
thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: "Ngày nào có cái khổ của ngày
ấy" (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ
là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho
cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình
an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là
nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà
Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Ngày Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc sống bình an
và hạnh phúc, bởi biết rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại
thế tạm. Nhưng lời Chúa nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của
chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn
phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo
toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi
phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là
Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là
lòng tin và niềm xác tín rằng: "Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần
tất cả những thứ đó" (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa
và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành
với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn
chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất
khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực. "Trước hết hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người" (Mt 5,33).
46. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34)
(Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa
những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa
thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy
lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó,
chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn
với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau
lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy
thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ
vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không
thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm,
người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn
giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống
cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng,
giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để
hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa
tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch... đạch,
đùng. Đạch, ĐÙNG... ĐÙNG... Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan
niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ:
pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên
Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ
thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió,
bão táp... như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong
giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban
cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào
dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng
những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi
thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc
phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những
ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một
người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối
Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám
mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những
gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây
giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình
an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và
không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay
tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc
là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng
Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát
con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc,
hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa.
Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt
25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ
nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như
vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa
kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho
nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu
hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các
quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến
khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy
Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo
khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần
thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như
sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con
người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn
(1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng
như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên
Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé
mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến
Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên
chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình
an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn
thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến
Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác
Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn
(Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và
kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới
sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người
được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được
chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi
mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông
bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong
năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót
trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và
lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa,
cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho
chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác
thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ
Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm
cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm
dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết
dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
47. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa xuân đang đến với quê hương, gia đình và mỗi tâm hồn.
Mùa xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và hy vọng.
Mùa xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương trời, gió
xuân, hoa thắm.
Mùa xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho con người.
Vâng, tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn trào hương
xuân trong ngày đầu năm mới với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta chúc nhau
năm mới an khang hạnh phúc, an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an lành thánh
đức... Những lời cầu chúc thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện ước sâu xa
của cõi lòng con người. Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của cuộc sống,
chúng ta mong ước được an bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại, từ mối tương
giao thân tình giữa người với người đến sự hòa hợp thích ứng với thiên nhiên và
các tạo vật.
Thế nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất để chúng ta
có được sự bình an đích thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời được tìm thấy
trong bài Tin Mừng mà Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới hôm nay.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy tin
tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm vào những nhu
cầu của cuộc sống thực tại, vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng ta tất cả.
Điều quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu tiên tìm
kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.c.33). Đó là thái độ mà
chúng ta cần kiên quyết thực hiện ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước Thiên
Chúa và sự công chính của Người chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để chúng
ta có được sự bình an như lòng mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế
Giới năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô cũng xác nhận: "Một xã hội được hòa
giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa bình hơn... Hòa bình là kết quả của một
tiến trình thanh tẩy..." (số 15).
Quả thật, sự bình an đích thực mà chúng ta đang khát khao
chính là việc thiết lập được mối tương giao thuận thảo giữa chúng ta với Thiên
Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên tâm hồn
chúng ta còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa
(thánh Augustin). Thánh nhân đã nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi thẳm sâu
tâm hồn của mỗi người chúng ta. Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có
được sự bình an đích thực. Chính sự an bình tràn ngập tình yêu thương này,
khiến chúng ta luôn luôn muốn sống thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm sâu
với Ngài trong tình yêu, chu toàn thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm giới
thiệu Chúa cho người khác, mong cho Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi nơi.
Đây cũng chính là phần ưu tiên mà chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn của
Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta sẽ
được tận hưởng một sự bình an vô hạn. Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc niềm
an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ và
bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng nguyện cầu ơn
bình an được tỏa lan đến khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn bình an được
chan hòa trên khắp miền quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện quê hương được
thái bình thịnh vượng, nhà nhà an hòa, người người an lòng, để cùng chung tay
xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được sự bình an như
lòng mong ước, chúng ta phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính nguồn cội sự
bình an. Xin Ngài thương ban tặng cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc đích
thực trong năm mới này.
Tuy nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi bản thân của
mỗi người, mà cần phải được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi. Chúng ta cần trao
tặng cho tha nhân sự bình an của Chúa qua thái độ biết quảng đại tha thứ để
sống yêu thương hơn, biết trân trọng người khác với những khả năng và khác biệt
nơi họ, biết ân cần quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt tâm phục vụ với tất
cả lòng từ tâm và nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi khổ đau hay giới hạn
của người khác... Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng
ta, đang mong chờ một vòng tay yêu thương rộng mở của chúng ta để đón nhận, để
sẻ chia cho những tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân thương của Ngài. Những hiện
thân ấy đang ở chung quanh chúng ta, bên lề đường, trong những túp lều ẩm thấp,
trong những cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong những mái nhà xiêu vẹo vắng
bóng tiếng cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo... Chúng ta cần đáp trả thế nào
trước tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó chính là tiếng kêu gào của
một vị Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê hương này, ngay trong mùa
xuân này.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một
mùa xuân an bình hạnh phúc. Quê hương con giờ đây không còn chiến tranh, không
còn bạo lực, chúng con được thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa xuân an bình
trên quê hương dấu yêu. Thế nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên ngoài thì bình
an thư thái, nhưng bên trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người, của xã hội,
thì cũng còn đầy dẫy những kiểu "chiến tranh không đổ máu". Từ những
lối sống ích kỷ, thụ hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi những thái độ gian
dối lừa lọc, cư xử bất công, hành xử đầy tính cách bạo lực... đã tạo nên những
hố sâu ngăn cách giữa người với người. Để rồi còn tìm đâu ra sự bình an trong
những cảnh tượng như thế? Một điều làm cho Chúa đau lòng hơn cả là từ nội tâm
con người đã tự nguyện giết chết sự bình an của một lương tâm trong sáng, khi
sẵn sàng ngăn cản sự ra đời của một thai nhi bé bỏng vô tội. Thật xót xa cho
Chúa khi từng ngày và mỗi phút giây trên quê hương con, hàng chục thai nhi bị
giết chết mà không kịp tận hưởng một chút hương vị mùa xuân cuộc đời.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh tân đổi mới
tâm hồn chúng con, đặc biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm mới này, mọi
người đều biết duy trì được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà Chúa đã ban
tặng.
Xin cho mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và sự an bình
cho mọi tâm hồn, nhất là những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho mùa xuân này là lời động viên, nhắc nhở hay cảnh
báo cho tất cả mọi người, để cùng với ơn thánh, chúng con luôn biết nỗ lực sống
yêu thương và an bình trong tình Chúa và tình người chân thành. Amen.
48. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang
đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm
trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên
rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn
rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu
trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc,
nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất
đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian
như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của
Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý...
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách
Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành
cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức
Chúa:
"Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng
thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh
em."
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an
ninh, thịnh vượng...
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân
Israel (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ
họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức
Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về
tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có
thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong
manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng
ta "Đừng lo."
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin,
giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu
cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không
bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
49. Cầu bình an trong năm mới
SUY NIỆM
Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc "tại sao
Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình
an?" Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những điều thật
hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại
phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình
an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết
những vấn nạn này không?
Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ
giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành
khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. "Thầy bảo cho anh em
biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà
mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc
sao?".
Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo
cho mình "của ăn, áo mặc", mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên
đi cái chính yếu mình đang có đó là "mạng sống và thân thể". Chúa
nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta
mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng
không rút ngắn, không sớm cũng không muộn... mạng sống của chúng ta tùy thuộc
vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban
cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý
giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không
can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng
sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều
khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà
mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng
chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống
ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp
bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không
được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra
khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và
luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp
tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng
đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và
ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để
cho Lời Chúa hướng dẫn vì "Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất
cả những thứ đó". Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là
cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng
Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà
mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt
trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước
mát, những người thân yêu và tình bằng hữu... Và điều làm mất bình an là chúng
ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà
chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh
mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm
nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm
mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an
trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu,
tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo
toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa.
Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện
diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với
cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ
ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho
chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng
giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết đặt trọn
niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng
của Chúa luôn.
Amen
50. Bình An - Quà Tặng Năm Mới
(J.B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức
Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho
nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con
người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy
Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng
đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận
hưởng một thế giới an bình.
1. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên
lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài.
Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác
với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ
tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn
đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước
mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng
đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức
Giêsu Kitô.
"Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh
hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được
gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều
đó" (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức
Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn
bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô,
chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
"Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn
anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn
bình an đó" (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối
diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý
giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em
bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em
đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi" (Ga 14, 27).
2. Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà
Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi
đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình
an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài,
chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa
và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện
khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích
điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình
sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời
gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất
chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền
lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình
thương...
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết
mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người...
3. Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN- Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến
nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa
một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng
ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi
chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng
một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích
thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời
giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức
Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với
Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu
thương.
"Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái:
đó là mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl 3, 14).
51. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
(ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau
khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông
vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp
phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng
rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn
hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến,
người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm
qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý.
Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối
nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải
biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn
biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt
nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món
quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho.
Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn
phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì
Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao
quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày,
từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho
một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được
Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh
thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc
như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để
đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái.
Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui
lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những
gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong
lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia
đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng
thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ.
Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có
niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc
Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn
đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới
với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những
gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội,
lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai
cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương
lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt
tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro,
nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày
Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta
tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm.
Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới
bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn
nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước
vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người
không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là
giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy,
tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ
truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã
chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của
người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách
nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến
những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình
biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía
cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua
mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một
hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu
mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa.
Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ
trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với
quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày
Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân
tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa,
xin đổi mới tâm hồn con. Amen
52. Một năm mới tốt đẹp
I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18.
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng
Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn
định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban
cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn
sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui
của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa,
vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta
thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng
thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền
hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là
chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.
Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với
niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống
công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi
công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có
được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa:
tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái
được "thêm cho" mà thôi.
II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất
tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không
phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một
cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết
Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối
để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm
tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là "Năm
Mới" mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm
mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm
nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.
Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không
giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ
đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm
hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông
nói: "Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại "thời thanh
xuân" của con người nguyên thủy".
Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm
hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng
ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào
Nước Trời (x. Mt 19,13-15).
III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi
người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì? Người ta thường chúc
nhau một : Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển
nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC,
LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ,
THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà
thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế
Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc cho sống lâu.
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật
lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao người ta thường
nói:"đa thọ, đa nhục" hoặc thành ngữ có câu:"Trẻ khôn qua, già
lú lại". Đã "lú lại" sẽ bị con trẻ chê bai! Đã "lú
lại" tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà
cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói:
mình được hạnh phúc trong tuổi già.
Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu
ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa... một mình.
Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy
ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi
phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc cho giầu có.
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát
tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau:"Nhất
bản vạn lợi" hay "Một vốn bốn lời":
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu
là đã thỏa mãn? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy,
nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước?. Người ta vẫn
khát khao sự giầu có mà không được.
Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần
MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc
nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai
thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không?
Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua
đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một
cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố:"Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi
để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ
không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy".
Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là
ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.
Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không
thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi
bất hạnh.
3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca
tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng
như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.
Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh
phúc không? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một
người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên
đời, đã phải thú nhận rằng: "Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi,
anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta
tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong
một giờ, dẫu trong một ngày".
Còn một chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa,
tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói,
được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot
mà cũng không thấy được hạnh phúc.
- ?
- Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan
trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
- Thế thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là
khói hay sao?
- Phải! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của
một ký giả báo Văn Đàn. Phải! Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có,
được vinh sang... thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh
phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương
một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Câu chúc của thi sĩ "Sao được cho ra cái giống
người" xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn
của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày
xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó.
Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố
mà phải đi tìm? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng
nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng "linh ư
vạn vật" kia!
Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng
nghĩa, phải "linh ư vạn vật " mới được.
Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được
ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta "làm người" và
"làm con Chúa". Chúng ta không tự nhiên là người hay là con Chúa
được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có "làm" và có
"làm" được hay không. Hạt giống không tự nhiên có thể nở thành cây và
sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải
có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái
"nhân" được gieo cấy trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian
được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên
Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh
trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để
chúng ta có thể thưa với Chúa là "Abba, Cha ơi" (Mc 14,36), và chúng
ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người
hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim
trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta
hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo
lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.
Có một điều khác biệt nơi người tin và người không tin là
người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian
(trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng
lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.
Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới
tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy:"Tiên vàn hãy lo tìm kiếm
Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ
khác, Người sẽ thêm cho"(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám
mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).
53. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng
(Lm Giuse Nguyễn Văn Thành)
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người
người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp
nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa
ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở,
cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống
dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới,
vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón
Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận
động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được thể
hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng
ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần
lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp
văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì
ngày Tết vẫn được coi là "no ba ngày Tết, đói ba tháng hè". Cho dù
thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh
soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước
hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ.... Ngày xưa, nhiều
người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên
trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi
nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với
tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành
vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho
trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho
muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng
của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
"Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi".
(Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là
thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người con cái
Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết
nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn
xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là
dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng
được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
Sưu tầm
MỒNG BA: Mt
25,14-30 hoặc Ga 5,16-20
1. Chúa thánh hoá công ăn việc làm
2. Mưu sự tại nhân - Thành sự tại Thiên
3. Mùng ba ra mắt
4. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa
5. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)
6. Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt 25,14-30)
7. "Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì"
8. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)
9. Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30)
10. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)
11. Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt 25,14-30)
12. Suy niệm Lời Chúa
13. Suy niệm Lời Chúa
14. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)
15. Thánh hóa công việc làm
16. Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30)
1. Chúa thánh hoá công ăn việc làm
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Những ngày tết là những ngày vui chơi, nghỉ ngơi, giãn xả
về mặt thể xác, nhưng Giáo Hội là người Mẹ luôn khôn ngoan hướng con người nhìn
xa thấy rộng hơn, thể xác thảnh thơi đôi chút sau những ngày tháng làm việc vất
vả, Giáo Hội hôm nay muốn nhắc nhớ mọi người phải hướng về Đấng tối cao, hướng
về Thiên Chúa vì Ngài là Đấng có quyền ban phát mọi sự. Mưu sự tại nhân, thành
sự tại Thiên, câu tục ngữ của Pháp quả mang một ý nghĩa thâm sâu, cao vời. Hội
Thánh Việt Nam dành ngày mồng ba tết để cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc
làm.
LAO ĐỘNG LÀ LẼ SỐNG CỦA CON NGƯỜI:
Được Thiên Chúa tạo dựng, con người sống trong cảnh địa
đàng hạnh phúc, huy hoàng và êm đềm không vất vả. Tuy nhiên, khi ông bà nguyên
tổ phạm tội, con người mất hạnh phúc địa đàng trần gian, Thiên Chúa đuổi ông bà
tổ tiên ra khỏi vườn Éđen và bắt đầu một cuộc sống trần thế với bao truân chuyên,
thử thách, vất vả vì tội lỗi ông bà tổ tiên gây ra. Tuy nhiên Chúa không bỏ rơi
nhân loại, con người mà đã sai Con của Người là Đức Giêsu Kitô đến để mang lại
cho cuộc đời trần thế một ý nghĩa mới, biến công ăn việc làm trở nên có ý nghĩa
cứu rỗi vì nó không còn là lời nguyền rủa mà là hạnh phúc khi con người biết
làm ra của cải để mang lại giầu sang, phú quí và hạnh phúc cho cuộc sống, miễn
là con người biết làm theo ý Thiên Chúa. Vì thế, trong ngày mồng ba tết, thánh
Matthêu đã thuật lại dụ ngôn của Chúa Giêsu về các nén bạc Chúa trao cho mỗi
người tùy theo khả năng, mức độ và trí tuệ mà họ được nhận lãnh, miễn là họ
biết sinh lợi theo ý của ông chủ, và không lười biếng, ngồi chờ sung
rụng...Chúa muốn mỗi con người dù trí thức, lao động bình thường: chân tay, trí
óc đều phải sinh lợi theo mức độ khả năng Chúa trao cho.
XIN CHÚA THÁNH HÓA VIỆC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĂN VIỆC LÀM CỦA
MỖI NGƯỜI:
Để được Chúa thánh hóa công ăn việc làm, con người phải
biết tùy theo khả năng siêng năng, lanh lẹ làm cho của cải sinh hoa kết quả
tốt. Con người phải hiểu rằng Chúa đến trong thế giới, nhận một gia đình để
được sinh ra và để sống là vì Chúa đem lại cho lao động, cho cuộc sống một giá
trị, một ý nghĩa hoàn toàn mới. Chúa nâng đời sống lao động và thánh hoá đời
sống lao động, Chúa làm gương về đời sống phục vụ, mỗi giọt mồ hôi, mỗi sự mệt
mỏi trong lao động của Chúa Giêsu đều mặc một giá trị cứu rỗi.Con người luôn
phải ý thức lời Kinh Thánh viết, hướng dẫn và chỉ bảo:" Bao lâu trái đất
này còn, còn gieo còn gặt, còn vun còn trồng; bốn mùa xuân hạ thu đông, ngày
đêm thời tiết không ngừng luân phiên" hoặc: " bốn mùa Chúa đổ hồng
ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi" (Tv 64, 2).
Mồng ba tết xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta
mỗi người tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta người năm nén, người hai nén,
người một nén. Tất cả đều do hồng ân Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết làm lợi
cho Chúa, cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Làm biếng, chơi bời lêu lổng
không chịu lao động để sinh lợi theo khả năng Chúa ban là lỗi với Chúa và đáng
Chúa khiển trách:" Hỡi tôi tớ lười biếng...".
Lạy Chúa, chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm
chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc
làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp
phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa (Lời
nguyện nhập lễ, lễ thánh hoá công ăn việc làm).
2. Mưu sự tại nhân - Thành sự tại Thiên
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời. Tin ông Trời.
Cầu khẩn ông Trời. ông Trời trở thành một thần linh luôn đồng hành với con
người qua mọi thăng trầm. Tuy không rõ Ông Trời thế nào nhưng không ai lại
không kính Trời. Ai cũng sợ Trời và cố gắng làm vui lòng Trời. Vì ông trời làm
chủ vận mệnh muôn loài. Ông Trời quyền phép vô cùng. Thế nên,
Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên.
Trời cho ai nấy hưởng
Sống nhờ ơn Trời – Chết về chầu Trời.
Khi làm ăn mùa màng không được như ý thì người ta cầu
trời:
"Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp"
Làn mưa từ Trời sẽ mang lại niềm vui cho công việc, cho
cuộc sống con người:
"Nhờ Trời mưa thuận gió hoà
Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau
Người Việt cũng luôn tin vào Trời rất công bình, hoạ phúc
công minh; Ông Trời như một ông chủ luôn thưởng phạt công minh:
"Trời nào có phụ ai đâu
Hay
làm thì giầu, có chí thì nên"
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm
ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài điều khiển mọi
loài. Ngài là Đấng cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Ngài là Đấng
ban lại cho chúng ta sự thành công trong công việc mà thánh vương Đa-vít đã
từng nói: "Nếu Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng
công".
Lịch sử nhân loại đã từng chứng minh có biết bao công trình
mà không có bàn tay Thiên Chúa, hay cố tình loại trừ Thiên Chúa sẽ khó hoàn
thành, đôi khi còn bị huỷ diệt.
Đó chính là sự kiện xây tháp Babel. Con người đã từng
không chấp nhận thua Thiên Chúa. Họ muốn chống lại Thiên Chúa nên hợp lực với
nhau để xây tháp tới Trời. Thế nhưng, lực bất tòng tâm. Công trình của họ đã bị
dang dở. Họ chia rẽ nhau ngay khi công việc còn dở dang.
Gần đây nhất là sự kiện con tàu Titalic. Con tàu của sự
kiêu hãnh của con người có thể chống lại phong ba bão tố. Người ta tưởng rằng
với sự văn minh của nhân loại, người ta không cần ơn Trời vẫn có thể đi biển
bình yên. Thế nhưng, con tàu đó đã bị chìm xuống đại dương cùng với sự ngạo
nghễ của con người khi đâm vào một tảng đá ngầm mà không ai học được "chữ
ngờ".
Thế nên, việc cầu Trời, khấn trời dù ở khung trời văn minh
hay chốn hồng hoang vẫn là cần thiết. Con người luôn bất lực trước sức mạnh của
thiên nhiên. Con người như cảm thấy mình quả nhở bé so với vạn vật được tạo
thành. Sự khiêm tốn đòi hỏi con người phải cần đến Đấng Tạo Thành, cầu xin Đấng
Tạo, Khấn vái Đấng Tạo Thành. Sự khiêm tốn để nhìn nhận những gì mình có không
phải do tài năng của mình, không phải do mưu trí của mình mà có mà là do ân ban
của Thiên Chúa.
Tất cả là hồng ân. Thiên Chúa luôn tưới gội hồng ân của
Ngài xuống trên con người. Thiên Chúa luôn làm biết bao việc kỳ diệu cho con
người. Con người chỉ là loài thụ tạo được thừa hưởng muôn ơn lộc Chúa ban mà
thôi.
Hôm nay, ngày xin ơn thánh hoá công ăn việc làm. Chúng ta
dâng lên Chúa những ưu tư hoài bão của chúng ta lên Thiên Chúa. Chúng ta cầu
xin Chúa ban cho một năm "mưa thuận gió hòa", mùa màng trĩu hạt. Xin
Chúa là Đấng quyền năng chúc lành cho công việc của chúng ta từ khởi sự cho đến
hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen
3. Mùng ba ra mắt
(Lm Giuse Đinh lập Liễm)
I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT
Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày Tết. Ba ngày
này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một công việc.
Công việc ba ngày Tết là:
Mùng một tết cha,
Mùng hai tết mẹ,
Mùng ba tết thầy.
Tại sao lại chia ra như vậy? Vì muốn cho ba ngày tết có
đầy đủ ý nghĩa:
Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh thiêng nhất nên
ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng tuổi và chúc tụng
họ hàng.
Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên ngoại, cố
thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày Tết nhất.
Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng dục, còn
việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do đó, ngày
mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy nghề). Họ
mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện văn chương
hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ ích.
Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung cho kịp trong
ba ngày Tết, nếu để "ra ngoài ngày" (tức từ mùng bốn trở đi) sẽ giảm
mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho nên người ta
cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo, vừa cũng để
tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống "Mùng một tết cha, mùng hai tết
mẹ, mùng ba tết thầy", nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba ngày Tết đều
nhất thiết phải hẹn trước.
(Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr 135-136)
II. MÙNG BA RA MẮT
Do "Mùng Ba tết Thầy" nên ngày này cũng là ngày
ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.
Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ nghề ra khởi
động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà nông thì
mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm động
thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ thầy
cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để "gọi là". Nói chung, mọi công
việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và Tiên sư
hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn thờ các
ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không tắt, hoa
trái lúc nào cũng đầy ắp.
Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết. Nhà giầu ăn
tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ khai trương
sớm (Sđd, tr 137-138).
III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN
Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành cùng dân tộc
cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu
"Mùng Ba ra mắt", các người thợ trình diện với Tổ sư ngành nghề của
mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn dành ngày mùng
ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên Chúa công việc làm
ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi công việc của
chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.
Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức Chúa Trời đã
dựng nên loài người "giống hình ảnh Ngài" (St 1,26). Các nhà chú giải
Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do,
giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn vật:"Ta hãy
dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn
thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu" (St 1,26).
Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất
đều mang ý nghĩa trọng đại:"cộng tác vào việc sáng tạo" của Thiên
Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương liên mật
thiết.
E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố:
"Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả
hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa
sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ
ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo
của Ngài có từ đời đời"(Die wertprobleme, tr 43; theo J. Haessle, Le
Travail, Paris, 1933, tr 350).
Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng Ngài muốn cho
con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói
Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ
trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng là một cuộc
sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào
với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết:
"Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên Chúa... sản
xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của mình ra hành
dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên giống Thiên
Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống "làm việc" tức là hành động
và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối... Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tuyệt
đối... người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm cho những sự vật
trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức lực, tư tưởng, nhân
vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung thực của nguyên nhân
tuyệt đối".
(J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 63-64)
Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc là góp phần
sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:
"Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia
đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách
hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của
Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định
của Thiên Chúa trong lịch sử" (Gaudium et Spes, bản dịch của GHHV Piô X,
Đà lạt).
Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình sáng tạo
của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì "nhân linh ư
vạn vật". Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không sợ sai
lầm:"LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG".
KẾT LUẬN
Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho
chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc biệt trong
thánh lễ này.
Trước hết, như bài Tin mừng thánh lễ hôm nay, ta hãy cảm
tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống, sức khỏe,
trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của người đi
trước, những nhu cầu phát triển của thời đại...
Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng đỡ tinh thần và nghị lực để
chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.
Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm ăn của bản
thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã hội. Ai
cũng có quyền được làm việc và quyền được chuẩn bị chu đáo để có việc làm phù
hợp với nguyện vọng và khả năng.
Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của mình được
Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực tiễn lao
động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã trao cho
loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.
4. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày Mồng Ba Tết, chúng ta dành để dâng lên Chúa những dự
định và tương lai của chúng ta. Chúng ta xác tín rằng mọi sự đều nhờ ơn Chúa,
vì "nếu Chúa không xây nhà thì thợ nề vất vả cũng bằng uổng công".
Thực vậy, nhìn lại năm 2010 với biết bao thiên tai giáng
xuống địa cầu, cho chúng ta thấy con người thật nhỏ bé trước bao sóng gió của
thiên nhiên. Con người cần phải có ơn Chúa để gìn giữ, chúc lành cho chúng ta
một năm bình an.
Vâng, có thể nói năm 2010 đã vụt qua, nhưng đã để lại nỗi
hãi hùng cho con người với những trận thiên tai kinh thiên động địa nhất.
Xin được lướt qua những thiệt hại về nhân mạng cũng như
vật chất:
1) Trận động đất 7 độ Richter ở Haiti xảy ra ngày 24-01,
đã giết chết 230,000 người, hơn 300,000 người bị thương và hơn một triệu người
màn trời chiếu đất. Đến nay, một năm sau, vẫn chưa hồi phục dù thế giới đã đổ
hàng tỷ đô-la vào xứ sở nghèo đói bệnh tật này.
2) Ngày 27-2, lại một trận động đất mạnh tới 8.8 độ
Richter, đã xảy ra ở vùng duyên hải Chí Lợi (Chile), rung chuyển 6 tiểu bang
lớn và một phần của Á Căn Đình. Động đất kéo theo sóng thần, quét qua các thị
trấn ven biển, khiến 500 người thiệt mạng, hơn 200.000 người mất nhà cửa, gây
thiệt hại 30 tỷ đô.
3) Ngày 21-3, núi lửa ở Băng đảo (Iceland) bỗng nhiên thức
giấc sau 200 năm, phun bụi và khói ngập trời khiến hàng ngàn người phải di tản.
Thiên tai này đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động hàng không, làm cho 100.000
chuyến bay của các nước Âu Châu bị hủy bỏ và 8 triệu hành khách bị mắc kẹt ở
các sân bay trong suốt 6 ngày, thiệt hại gần 2 tỷ đô-la.
4) Tháng Bảy, sau những trận mưa dai dẳng đã gây ra lụt
lội tại Pakistan. Trận mưa lụt này được coi là thiên tai lớn nhất trong 100 năm
tại Pakistan. Một phần năm (1/5) diện tích quốc gia này đã chìm trong biển
nước, hơn 2.000 người bị cướp đi sinh mạng. Con số này còn tăng cao vì dịch
bệnh, gây thiệt hại lên tới 10 tỷ đô-la, khiến ít nhất 9 triệu người, trong đó
phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.
5) Cũng vào tháng Bảy, nóng chưa từng có đã kéo theo nạn
cháy rừng nhiều nơi ở Nga. Bầu trời thủ đô Moscow bị bao phủ khói đen, nhiều
chuyến bay đã bị hủy bỏ. Hỏa hoạn và cháy rừng làm cho 50 người thiệt mạng và
3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng là do mức nhiệt độ
lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua.
Đó là những trận thiên tai lớn đã xẩy ra trong năm 2010,
khiến thế giới phải lo ngại sẽ tạo thêm khủng hoảng tài chánh, vì hai năm qua
kinh tế thế giới đã gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết nổi. Các nhà tiên tri
cho rằng, năm 2010 chỉ là năm bắt đầu của những thiên tai, bệnh tật mà nhân
loại sẽ phải gánh chịu vào những năm kế tiếp.
Người Việt thì nói rằng: mỗi năm, làm ăn càng ngày càng
khó khăn hơn. Người đông của ít, khiến con người phải bon chen vật lộn với cuộc
sống nhiều hơn. Thêm vào đó lại thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt khiến
ngành chăn nuôi, trồng cấy càng mong manh. Như dịch bệnh cùm gia gia cầm, dịch
tai xanh... tràn lan suốt năm qua.
Hôm nay, Ngày Đầu Năm, chúng ta hướng về Cha trên trời, là
Đấng làm chủ mọi loài, là Đấng quan phòng kỳ diệu, xin Chúa chúc lành cho chúng
ta một năm bình an hạnh phúc, một năm an khang thịnh vượng.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định tương tai của chúng
ta được thành toàn.
Chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo toan vất vả của
đời người.
Chúng ta hãy bước đi trong sự tín thác vào tình thương
quan phòng của Chúa.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân chúc lành cho những ước
nguyện đầu xuân của chúng ta. Amen
5. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,
14-30)
(Giuse Trần Công Thượng)
Kính thưa cộng đoàn,
Từ thuở khai thiên lập địa Thiên Chúa sáng tạo con người
và ủy thác cho con người nhiệm vụ cai trị trái đất. "Ngài đặt con người
vào vườn Eđen để cày cấy và canh giữ đất đai". (St 15,2) Như vậy, Thiên
Chúa gắn liền lao động với con người, coi lao động như một sứ vụ, một tương
lai. Con người tiếp tục công cuộc tạo dựng lưu truyền đời sống và biến đổi
thiên nhiên.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, giúp con
người tạo ra của cải vật chất và tinh thần, góp phần phát triển khoa học, văn
hóa và đạo đức. Vì vậy, lao động mang một ý nghĩa lớn đối với đời sống con
người.
Chính Đức Giêsu là một người lao động. Ngài làm nghề thợ
mộc tại làng Nazaret, một nghề tầm thường trong xã hội bấy giờ, để dễ dàng gần
gũi với người lao động nghèo. Tin Mừng của Ngài là "Tin Mừng của lao
động", vì người rao giảng Tin Mừng ấy chính là một người lao động. ngài
thuộc về thế giới lao động, ưa chuộng lao động, tôn trọng sự lao động của con
người. Trong lời giảng của Ngài ta thấy toát lên chân lý căn bản về vấn đề lao
động, một chân lý đã được diễn tả trong tất cả truyền thống, ngay từ sách sáng
thế. (X. Tông huấn Lao động của con người, của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II,
ngày 14.9.1981). Các bài giảng của Ngài cũng thật gần gũi với người lao động.
Gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu đã ảnh hưởng tới các
môn đệ theo Ngài, đặc biệt là thánh Phaolô. Thánh nhân không ngừng nêu gương và
khuyên nhủ các tín hữu về giá trị của lao động. Khi ngỏ lới các kỳ mục ở
Êphêsô, thánh Phaolô nói: "Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho
tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ
cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả
như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là
nhận." (Cv 20, 34-35). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, thánh nhân khẳng
định: "Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó
nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em"(2Tx 3,8)
hay ngài chỉ thị "ai không chịu làm thì cũng đừng ăn" (2Tx 3,10).
Tất cả chúng ta là những người lao động. Hằng ngày chúng
ta vẫn bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng, vất vả trong các nhà
máy, miệt mài với những trang sách, tất bật ngược xuôi ngoài chợ. Đó là vinh dự
cũng là một trách nhiệm Thiên Chúa trao cho chúng ta để cộng tác với Ngài trong
việc xây dựng thế giới này.
Hôm nay, mồng 3 Tết - những giây phút đầu tiên của năm
mới, Mẹ Giáo Hội dành cho con cái một ngày đặc biệt cầu xin Thiên Chúa thánh
hóa công ăn việc làm. Đây là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về sứ vụ lao
động của mỗi người, dâng lên Thiên Chúa thành quả lao động trong một năm qua
đồng thời có những quyết tâm cho năm mới.
Năm mới, chúng ta đưa ra bao nhiêu dự tính cho công việc
phải làm. Nhưng những dự tính đó có thành công hay không, chúng ta không hoàn
toàn quyết định. Quả thế, cổ nhân nói: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại
thiên". Tuy nhiên, với niềm tin vào ơn Chúa giúp, chúng ta phải cố gắng
hết mình để chu toàn công việc.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ
ngôn các nén bạc. Ông chủ đi xa, trao cho các đầy tớ những nén bạc: người năm
nén, người 2 nén, người một nén. Người thứ nhất và người thứ hai đã cố gắng và
hăng say làm việc để sinh lời cho ông chủ. Đó là những người có tinh thần trách
nhiệm: trách nhiệm với ông chủ và trách nhiệm với bản thân. Người thứ ba thì
ngược lại: vì lười biếng, nghi ngờ ông chủ nên anh đã chôn giấu số bạc đã được
giao, phụ lòng tin tưởng của ông chủ. Và kết quả, khi ông chủ về, người thứ
nhất và người thứ hai được vào hưởng niềm vui của chủ vì đã trung tín, còn
người thứ ba vì biếng nhác nên bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải
khóc lóc nghiến răng.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều gì
trong ngày cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm hôm nay.
Thiên Chúa là chủ tể mọi loài mọi vật, con chúng ta là
những tôi tớ của Ngài. Ngài trao cho mỗi người chúng ta những nén bạc là: đức
tin, sức khỏe, tài năng, cơ hội, nghị lực, tiền của, ân nhân, nền giáo
dục...Mỗi người được trao những nén bạc khác nhau, kẻ nhiều người ít, nhưng
Thiên Chúa muốn chúng ta phải cố gắng hết mình để sinh lời tùy theo cuộc sống
và hoàn cảnh của mỗi người. Chúng ta sử dụng tài năng, sức khỏe, tiền của, cơ
hội Chúa ban để làm việc và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản thân,
gia đình và xã hội hầu làm vinh danh Chúa và mang lại lợi ích cho tha nhân.
Ngày đầu năm mới này, chúng ta ngẫm xem Chúa trao cho mình
bao nhiêu nén bạc. Dưới cái nhìn đức tin, có lẽ cuộc đời chúng ta chìm ngập
trong hồng ân của Chúa quan phòng và khôn ngoan. Ngài ban cho chúng ta đủ điều
kiện để làm tốt công việc phù hợp với khả năng của mình. Năm mới này, chúng ta
phải quyết tâm bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn, cố
gắng làm việc tốt để sinh lời từ "nén bạc" Chúa trao. Muốn vậy, chúng
ta phải sử dụng những ơn riêng như lời khuyên của thánh Phêrô: "Ơn riêng
Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy,
anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên
Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh
Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức
Giê-su Ki-tô" (1Pr 4,10-11). Đồng thời chúng ta cũng quyết tâm xóa bỏ tư
tưởng biếng nhác, nghi ngờ của người đầy tớ thứ ba để luôn làm việc theo tinh
thần Tin Mừng. "Bất cứ làm việc gì, chúng ta làm tận tâm như thể làm cho
Chúa, chứ không phải cho người đời, vì biết rằng chúng ta sẽ nhận được phần
thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người ". (x.Cl 3,23-24)
Lạy Chúa Giêsu, khi ở trần gian, Chúa là một người lao
động để nêu gương nên thánh cho chúng con trong công việc lao động thường ngày.
Trong năm mới này, xin cho chúng con biết học nơi Chúa, luôn cố gắng và siêng
năng làm việc để những nén bạc Chúa trao không trở nên vô hiệu.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao người khổ công trên đồng ruộng,
tất bật trong các nhà máy, xuôi ngược trên thương trường mà không đủ ăn, bao
người lo lắng vì thiếu việc làm - trong giây phút đầu năm mới này, xin chúc
lành cho hoa màu ruộng đất, cho các phương tiện làm ăn, cho các công việc chúng
con đang làm và sẽ làm, hầu mong cuộc sống chúng con luôn hòa nhịp với lời
thánh vịnh:
"Bốn mùa Chúa đổ hồng ân
Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi".
(Tv 65,12).
6. Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt
25,14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày mồng ba tết mỗi năm, Hội Thánh luôn dành riêng một
ngày đầu năm để cầu nguyện xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của mọi
người giữa lúc con người đang mải mê ăn tết, có khi quên cả mặt thiêng liêng,
đạo đức. Sở dĩ Hội Thánh dùng ngày mồng ba tết để cầu xin Thiên Chúa đổ muôn ơn
phúc xuống trên mùa màng bởi vì Hội thánh ý thức:" Làm bởi bay, ban bởi Ta
" (L'homme propose, Dieu dispose). Hội Thánh cũng nhắc nhở tấm gương lao
động của Thiên Chúa khi Ngài miệt mài sáng tạo vũ trụ, thế giới và con người.
Giáo Hội cũng cho ta thấy gương lao động của Chúa Giêsu ở Nagiarét để chúng ta
noi gương, bắt chước. Do đó, ngày mồng ba tết Giáo Hội dành riêng để xin ơn
thánh hóa công ăn việc làm là để dạy con người:" Không làm thì đừng có
ăn" như thánh Phaolô tông đồ đã viết.
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI ĐỂ CON NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀM RA
CỦA CẢI: Tất cả ba bài đọc trong thánh lễ ngày mồng ba tết đều xoay chung quanh
việc lao động. Bài sách sáng thế cho thấy Thiên Chúa đặt con người trong vườn
Eden và dạy con người trồng trọt nghĩa là lao động để làm ra của cải. Thiên
Chúa muốn con người xây dựng thế giới, tô đẹp thế giới và làm cho thế giới càng
ngày càng trở nên phong phú, tươi xinh theo ý của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng nói
về việc ông chủ trao cho đầy tớ các nén bạc để các đầy tớ làm lợi ra những nén
bạc khác, làm ra nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên lao động chắc chắn đòi hỏi sự cố
gắng của con người và nhiều khi làm cho con người mệt nhọc, nhưng lao động quả
thực mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống:
LAO ĐỘNG LÀ BÀI CẢM TẠ TRI ÂN: Nói đến lao động là nói đế
sự làm việc mà làm việc dù trí óc hay tay chân đều làm cho con người mệt mỏi,
đòi hỏi con người phải phấn đấu hy sinh, có khi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới
có miếng cơm mà ăn, có cần cù lao động với óc sáng kiến, với khả năng, với kỹ
thuật mới mong có của ăn của để. Mặc dù như thế, nhưng lao động vẫn là sự vinh
quang bởi vì phải lao động mới tốt đẹp được, mới đem lại cho con người sức
sống. Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngay, ca dao tục
ngữ Việt Nam quả thực đã nói đến lý tưởng của lao động và đề cao giá trị của
lao động. Đối với người công giáo lao động là bài ca tình yêu bất tận bởi vì
con người làm nhưng chính Thiên Chúa định đoạt thành quả của việc làm. Do đó,
lao động nói theo ngôn ngữ nhà đạo là bài ca tình yêu, là lời cảm tạ tri ân
không ngừng bởi Thiên Chúa không ngừng lao động và Chúa Giêsu cũng đã lao động
không ngừng.
LAO ĐỘNG NÂNG CAO PHẨM GIÁ CON NGƯỜI: Con người sẽ chẳng
ra chi nếu không chịu làm việc. " Đừng ngồi chờ sung rụng ", vâng,
Thiên Chúa đã lao động không ngừng, Chúa Giêsu cũng đã noi gương Chúa cha làm
việc không mệt mỏi. Do đó, con người cũng phải làm việc vì việc làm do trí óc,
do bàn tay con người sẽ nâng cao giá trị của con người và làm cho việc làm có
giá trị. " Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ
thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn
việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và
góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa"
(Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Lao động Chúa sẽ chúc lành
nếu con người luôn hướng lao động theo ý Chúa:" Bốn mùa Chúa đổ hồng ân.
Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi " (Tv 64, 12) hoặc " Bao lâu trái
đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, ngày
đêm thời tiết không ngừng luân phiên ".
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA GIẢI THOÁT, CỨU RỖI: Kinh tiền tụng
ngày mồng ba tết viết:" Chính Cha đã dựng nên con người giống hình ảnh Cha
và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Cha còn sai Con Một giáng trần để chia
sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả
vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết
chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội
loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế
". Con người làm ra vật chất không chỉ để nuôi sống mình nhưng còn để chia
sẻ cho những kẻ khó nghèo và như thế của bố thí với ý ngay lành sẽ có ý nghĩa
cứu rỗi.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Con người được Chúa tạo dựng để góp
tay với Chúa làm cho vũ trụ, thế giới đẹp hơn, ấm hơn. Bởi vì, khi làm ra của
cải, con người tạo được no ấm và hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình. Nhưng
còn hơn thế, con người biết nghĩ đến kẻ khác nhờ đó họ sẽ làm cho của cải có
giá trị đẹp và có tính cứu rỗi. Chính vì thế, giầu quý thực nhưng nếu không
biết chia sẻ cho những người nghèo thì lời của Chúa:" Con lạc đà chui qua
lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào được nước Thiên Chúa " quả thực sẽ là
lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với những con người ích kỷ, bo bo giữ của mà không
biết sẻ chia cho những người bé nhỏ, khó nghèo.
Lạy Chúa, nhân dịp đầu xuân, cộng đoàn chúng con dâng lên
Chúa lễ phẩm này, cùng với mọi công việc chúng con sẽ làm trong năm mới.Cúi xin
Chúa vui lòng chấp nhận, và cho chúng con được cộng tác với Con Một Chúa, để
thực hiện công trình cứu độ của Người.Amen.
7. "Ơn Trời Mưa Nắng Phải
Thì"
(Lm Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau:
Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang
theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống
trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống
lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật.
Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà
quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa
sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn
không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa
phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm
lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian
trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc
Hoàng mới đày vị thần này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần
gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi
địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát
kiếp trở về thiên đường.
Câu chuyện này phải chăng muốn dạy chúng ta: "Có làm
thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta". Vì ở trần gian, cỏ thì
nhiều, lúa thì ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con
người vất vả hơn con vật. Vì người làm lụng vất vả mới có mà ăn, còn vật thì không
cần làm mà trời vẫn cho ăn.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo hội mời gọi chúng ta trao
phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta xin Chúa ban cho một năm
"thuận buồm xuôi gió". Chúng ta xin Chúa chúc lành cho công việc
chúng ta được mọi sự như ý, ân phước dư đầy. Chúng ta tự ý thức sự nhỏ bé, giới
hạn của con người trước biết bao công việc mưu sinh hằng ngày. Chúng ta cần ơn
ban của trời cao. Chúng ta xác tín như người xưa đã xác tín vào trời: "Mưu
sự tại nhân – Thành sự tại Thiên". Đó là thái độ khiêm tốn cần có của con
người trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng trong tay
Thiên Chúa. Tổ tiên chúng ta xưa cũng từng làm như thế. Không phải vì lạc hậu.
Không phải vì thiếu ý thức khoa học mới tin vào Trời, nhưng vì cảm nghiệm sự
nhỏ bé của con người trước sự lớn lao của Trời:
"Đèn Trời đèn sáng bốn phương
Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi".
Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái
của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
"Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giầu, có chí thì nên".
Biết được lòng trời rộng rãi bao la. Tổ tiên xưa còn biết
lợi dụng mưa nắng phải thì của Trời mà trồng cấy:
Trời nắng tốt dưa
Trời mưa tốt lúa.
Nhất là biết cầu khẩn cùng Trời cho một năm:
"Nhờ trời mưa gió thuận hoà
Nào cầy nào cấy trẻ gia đua nhau"
Thực vậy, cuộc sống mưu sinh thật khó khăn. Nếu không có
ơn trời thì công việc chúng ta cũng tựa như "dã tràng xe cát biển
đông". Nhìn lại một năm qua, chúng ta thấy thật rõ điều đó. Việc làm ăn
mỗi ngày một khó. Không chì là do suy thoái kinh tế toàn cầu, mà quan yếu còn
do thiên tai lũ lụt hoành hành. Ở Việt Nam ngay từ đầu năm Mậu Tý đã xảy ra rét
đậm, rét hại khiến hàng ngàn trâu bò bị chết, hàng ngàn hecta hoa màu không thể
đơm bông kết trái. Rồi thiên tai lũ lụt trong năm đã phá huỷ biết bao ruộng
lúa, vườn rau. Nhiều người nói rằng: năm nay làm ăn không chỉ trắng tay mà con
nợ nần chồng chất. Cuộc sống vốn dĩ đã khổ lại khổ thêm do không gặp thời vận
của Trời ban.
Đó là lý do mà hôm nay chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên
Chúa công việc và dự định của chúng ta trong năm nay. Chúng ta trao gởi công
việc chúng ta cho Thiên Chúa. Xin Chúa chúc phúc và thánh hoa công việc chúng
ta được mọi sự như ý. Chúng ta xác tín rằng: "Nếu Chúa không xây nhà, thợ
nề vất vả cũng bằng uổng công". Xin Chúa thương đón nhận những ước nguyện
đầu năm chân thành của chúng ta. Amen
8. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,
14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Bao lâu trái đất này còn,
Còn gieo còn gặt còn vun còn trồng;
Bốn mùa xuân hạ thu đông,
Ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên (St 8, 22).
Hằng năm Giáo Hội không ngừng dùng ngày mồng ba tết để cầu
xin cho công ăn việc làm, xin Chúa thánh hóa công việc của mỗi người,đặc biệt
xin " Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ". Có người nghĩ rằng công
việc là do bàn tay lao động của mình. Trí óc là do khả năng tích lũy của mình.
Đất đai tự nó tốt, tự nó có mầu có mỡ. Không, Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn
nhìn thấy những gì do mình, điều gì do Chúa. Chính vì vậy, giữa bôn ba của cuộc
đời, giữa những ngày vui chơi ăn tết, con người vì vẻ bề ngoài, vì lao mình vào
các thú vui, vì say xưa chè chén, họ sao nhãng việc thiêng liêng, quên đi
" Làm bởi bay, ban bởi Ta ". Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày mồng ba
tết để xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và xin Chúa thánh hóa
công ăn việc làm. Thánh Phaolô đã viết một câu mạnh mẽ nhưng hoàn toàn hợp
lý:" Không làm việc thì đừng ăn ", na ná như câu:" Đừng nằm chờ
sung rụng "...
THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN ĐỂ NÊU GƯƠNG LAO
ĐỘNG CHO CON NGƯỜI: Khi tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Thiên Chúa đặt con
người trong vườn địa đàng và cho con người hưởng dùng mọi vật Ngài tạo dựng
nên. Tuy nhiên, khi Ông bà Ađam và Evà phạm tội, Ông bà phải lao động cực nhọc,
vất vả mới có của ăn để nuôi thân và nuôi con cái. Lao động bắt đầu từ khi con
người sa ngã, ngang nhiên chống lại Chúa. Lao động vất vả nhưng luôn có giá trị
bởi vì không có Chúa, con người dù có làm mấy đi nữa cũng không mang lại hiệu
quả bao nhiêu...
Khi Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô được sai đến trần
gian qua cung lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu lớn lên ở Nagiarét, Ngài đem lại cho lao động một ý nghĩa cao vời.
Chúa lao động để nêu gương cho nhân loại bởi vì lao động mang lại ý nghĩa thiết
thực cho cuộc sống con người. Một ngày Chúa trao ban cho mỗi người 24 tiếng
đồng hồ để con người như nhau nhưng tùy khả năng, tài trí làm lợi cho Chúa, cho
Giáo Hội, cho bản thân, cho tha nhân. Chúa Giêsu đã cùng thánh cả Giuse và mẹ
Maria lao động để mang lại cho lao động ý nghĩa cứu rỗi.
CON NGƯỜI LUÔN PHẢI LAO ĐỘNG: Dù làm việc bằng chân tay,
hay làm việc bằng trí óc, mọi người đều phải làm việc. Chúa Giêsu đã nói:"
Cha Ta làm việc, Ta cũng làm việc không ngừng ". Chắc chắn, ở Nagiarét,
Chúa Giêsu có lúc cũng đã phải đổ mồ hôi, mệt nhọc, vất vả vì lao động. Tuy
nhiên, gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã lao động với tất cả tình
yêu, với tất cả niềm tin và đem lại cho lao động một ý nghĩa tôn giáo tuyệt
vời. Khi Chúa làm việc lao động, Ngài muốn chúng ta hãy luôn kết hợp với Ngài,
như Ngài luôn kết hợp với chúng ta. Ai luôn kết hợp với Ngài, Chúa luôn kết hợp
với người ấy, thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào (Ga 15, 45b). Con người noi
gương Chúa luôn phải lao động không ngừng vì theo thánh Phaolô dạy:" Không
làm việc thì đừng có ăn ".Câu nói xem ra mạnh mẽ đấy, nhưng quả thực không
lao đ8ộng làm sao có lương thực để nuôi thân, có của cải để độ trì. Do đó, bất
cứ ai đã sinh ra ở trần gian muốn tồn tại phải làm việc hoặc bằng trí óc hoặc
bằng chân tay.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA CỨU RỖI: Khi nhìn vào gia đình thánh
Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, ai cũng hiểu rất rõ dù Chúa Giêsu là Thiên Chúa,
Ngài đã làm người, nên Ngài làm việc không ngừng. Thánh Giuse lao động để nuôi
gia đình. Mẹ Maria làm việc nội trợ để tạo nên hạnh phúc gia đình. Cả gia dình
thánh đã làm việc để nâng lao động lên tầm cao mới, nghĩa là làm cho lao động
có một ý nghĩa cứu độ.Chính Thiên Chúa đã nêu gương lao động cho con người. Do
đó, con người làm việc không chỉ để nuôi sống bản thân mình mà còn góp tay vào
công trình cứu độ nhân loại...Thực tế, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người
giống hình ảnh Ngài và giao cho con người trông coi vũ trụ, tô đẹp vũ trụ.Lao
động và tín thác nơi Chúa vì chính Chúa là mục tử chăn dắt chúng ta, nên chúng
ta không còn thiếu thốn gì (Tv 22, 1).
ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI, CỦA MỖI NGƯỜI: Chúa
đã thánh hóa công ăn việc làm do tự lòng tin của chúng ta. Đọc Kinh Tiền Tụng
chúng ta nhận ra rằng:" Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình
ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con một giáng
trần, để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện công trình cứu độ muôn
dân ". Chúa đã lao động để làm gương cho nhân loại, cho con người. Chúa
giúp con người làm việc làm ra cơm áo và hơn nữa để xây dựng Nước Trời ngay tại
trần thế.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm
chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công
ăn việc làm của chúng con trong năm Nhâm Thìn này nêu cao tình tương thân tương
ái, và góp phần vào sự việc chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa.
Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ ngày Mồng Ba Tết).
9. Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Người Pháp có câu nói thật chí lý:" Làm bởi bay, ban
bởi Ta " (L'homme propose, Dieu dispose). Giáo Hội Việt Nam luôn hướng
dẫn, dạy con cái mình:" Phải cầu nguyện, phải kêu xin không ngừng ".
Do đó, làm việc là do bàn tay, do trí óc sáng tạo, lao động của con người nhưng
nếu người môn đệ Chúa không được Chúa ban ơn, sức khỏe không có, trí khôn không
sáng, chắc chắn công ăn việc làm của mình không tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam dành
ngày mồng ba tết âm lịch để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Có nhiều người lầm tưởng, công ăn việc làm cần gì phải
được thánh hóa. Làm ăn được là do sự năng nổ, giỏi giang của mình mà. Nói thế
cũng đúng một phần mà hoàn toàn không phải thế. Vì, con người luôn có phần hồn
phần xác. Xác có khỏe mới lao động được, còn thân xác yếu đuối, đau lên đau
xuống hoài, chắc chắn công việc cũng không đi tới đâu. Con người có giỏi, có kỹ
thuật cao, nhưng mưa không thuận, gió không hòa thì mùa màng cũng không đem lại
nhiều kết quả.Thánh lễ hôm nay xoay quanh việc lao động, sản xuất.Thiên Chúa
tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và đặt con người trong vườn Eden,
rồi dạy con người trồng trọt nghĩa là dạy con người lao động. Thiên Chúa muốn
con người góp tay và trí tuệ để làm cho vũ trụ mà Chúa dựng xây càng ngày càng
đẹp, càng ngày càng phong phú, mọi người đều có của ăn, của để. Bài Tin Mừng đề
cập đến việc ông chủ trao cho mỗi người một số vốn và bắt con người phải lao
động để làm lời số vốn ông chủ đã trao. Lao động phải mệt nhọc, lao động đòi
hỏi phải cố gắng, phấn đấu hy sinh, nhưng lao động luôn mang ý nghĩa đẹp, ý
nghĩa cao sâu, tuyệt vời do Chúa chúc lành:" Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho
con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm
nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này
nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành
chương trình sáng tạo của Chúa " (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn
việc làm). Hoặc "Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn
trồng. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân
phiên" và Thánh vịnh 64, 12 cũng viết:" Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài
gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ".
Như thế, đối với người môn đệ Chúa lao động trí óc hay
chân tay đều do quyền Chúa. Ngài có chúc lành, có ban ơn thì công việc mới tốt
lành được. Chúa Giêsu cũng đã làm việc và làm việc không ngừng. Ngài đã làm
việc để nêu gương cho nhân loại và để mang lại cho lao động ý nghĩa cao cả. Lao
động đối với Ngài là lời tạ ơn, là cầu nguyện, là cứu độ, là nâng cao phẩm giá
con người. Thánh Phaolô đã viết một câu thật chí lý:" Không làm thì đừng
có ăn ".
Chúng ta hãy dùng lời tiền tụng thánh lễ ngày mồng ba tết
để cùng nhau cầu nguyện:" Lạy Chúa, chính Chúa đã dựng nên con người giống
hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con Một
giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu
độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương
cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp
phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước
Trời ngay tại trần thế ". Amen.
10. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt
25,14-30)
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thật hạnh phúc biết bao hằng năm Giáo Hội dành ngày mồng
ba tết để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm. Quả thực, con người
làm lụng, Thiên Chúa trao ban. Câu nói của người Pháp rất chí lý (L'homme
propose, Dieu dispose). Con người có đầu óc, có kế hoạch, có tài năng, bầy mưu
hiến kế, nhưng nếu Chúa không ban ơn, không tiếp sức, không cho sức khỏe, con
người cũng không thể hoàn thành công việc theo ý muốn. Hiểu rõ ràng, mọi việc
là do Chúa. Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn quan tâm tới con cái của mình dành
trọn ngày mồng ba để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Vâng, ngay trang Sách Sáng Thế 2,4-9.15, tác giả đã viết:
"Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để con người canh
tác và coi sóc đất đai ". Rõ ràng Thiên Chúa không muốn để con người ở
nhưng không, năm chờ sung rụng, nhưng Ngài truyền lệnh hay nói một cách khác
bắt con người phải làm việc. Bởi vì, ở nhàn rỗi, nhưng không sẽ gây ra tội lỗi.
Nhàn cư vi bất thiện là thế. Sách Tông đồ Công vụ lại viết:" Bằng mọi cách
tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm
lụng vất vả và như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc
hơn là nhận ". Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại, cho chúng ta
về đời sống lao động. Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra. Cha của Ngài làm
nghề thợ mộc. Thánh Giuse âm thầm làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình Nadarét
không quản nhọc nhằn. Mẹ Maria chăm lo việc nội trợ để phục vụ trong yêu thương
Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả
với Cha mẹ của Ngài. Tại Nadarét, nhân loại tìm lại được giá trị siêu việt của
lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong gia đình
Nadarét không hề kém giá trị cứu rỗi hôn việc rao giảng, loan báo Nước Thiên
Chúa hay trong cuộc thống khổ tử nạn của Ngài, vì trong tất cả mọi sự Ngài đều
tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, Cha của Ngài.
Chúa Giêsu đã dạy nhân loại, dạy chúng ta bài học để
đời:"...phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không
có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi".Dụ ngôn ông chủ đi phương xa,
trao cho các đầy tớ các nén bạc, minh chứng rằng:" Cần cù lao động, chịu
khó với công việc, vâng nghe lời chủ, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp". Lời
kinh tiền tụng lễ ngày mồng ba tết dạy chúng ta nhiều điều:" ...Cha còn
sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương
trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Chúa Cha hoạt động không
ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm
ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và
mở rộng Nước Trời ngay tại thế ". Chúa Giêsu đã làm việc để cho Nước Chúa
được rạng sáng vinh quang, để cho thế giới được an bình, thịnh vượng. Nên,
chúng ta hãy bắt chước Chúa, làm việc và làm việc không ngừng, nhưng phải mặc
cho công việc một ý nghĩa cao quý. Đã đành, mọi người làm việc là để cho gia
đình, cho bản thân của mình được tồn tại.Tuy nhiên, lao động cũng có nghĩa là
góp tay với mọi người thăng tiến cuộc sống và làm cho công việc, lao động có ý
nghĩa cứu rỗi...
Ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn viêc
làm của chúng ta: công việc lao động tay chân và việc làm trí óc vv...Xin Chúa
chúc lành cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này để chúng ta hiểu
rõ:" làm do chúng ta và ban do Chúa ".
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm
chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc
làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp
phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen.(Lời
nguyện nhập lễ, lễ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Lao động để làm gì?
2. Làm việc tay chân và làm việc trí óc có mệt ngang nhau
không?
3. Chúa Giêsu có lao động?
4. Đối với Chúa Giêsu lao động có ý nghĩa gì?
11. Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt
25,14-30)
Ngày mồng ba tết, Giáo Hội nhắc nhở con người về sự hiện
diện của Chúa trong mọi việc, trong mọi trạng huống của cuộc đời:" Không
có Ta các con không thể làm gì được". Chúa ban cho ta sức mạnh, tài năng,
trí tuệ, khả năng để lao động sản xuất. Khoa học kỹ thuật cao, văn minh tiến
bộ, nhưng sức riêng con người nào đâu có thể thành công được gì! Chúa ban cho
ta vốn liếng để ta sinh lợi, nhưng:" Mưu sự tại nhân, thành sự tại
Thiên" (L' homme propose, Dieu dispose). Ngày tết, người ta có tục lệ lì
xì cho trẻ con để lấy hên, mỗi em tùy cách với số tiền mừng tuổi có thể làm nên
việc cho bản thân mình.Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể áp dụng vào câu chuyện
lì xì ngày tết.
VÍ DỤ NÉN BẠC: Mỗi người chúng ta sinh ra trong trần gian
này đều được Chúa ban cho những ơn huệ đặc biệt. Có người Chúa ban cho ơn thông
minh, có người được ơn ngôn sứ, được ơn phân giải những điều hay lẽ phải.Có
người được Chúa ban cho tài năng làm nên danh phận. Mỗi người dù Chúa trao
nhiều hay Chúa trao ít, Chúa vẫn đòi hỏi con người phải sinh lợi ra trên số vốn
Chúa trao ban. Tin Mừng hôm nay ra định mức là phải làm lợi ra gấp đôi. Chúa
lấy dụ ngôn này để ám chỉ tới Ngài. Ngài đã trao cho người 5 nén, 2nén và 01
nén. Tất cả phải làm ra, sinh lời ra vì làm biếng và xét nét trước lòng nhân
hậu của chủ, của Thiên Chúa như người được trao một nén sẽ bị lấy lại nén bạc
Chúa đã tặng ban mà còn bị luận phạt vì tính ích kỷ và làm biếng nữa. Đúng là
đoạn Tin Mừng cho ta thấy tính cách nghiêm minh của Thiên Chúa, sự công bằng và
lòng ngay thẳng của Ngài trước thái độ của mỗi người. Đoạn Tin Mừng này cho
thấy tính hài hước, cười ra nước mắt và hạnh phúc đến tột độ của mỗi người được
Thiên Chúa trao ban tài năng và kho tàng tài sản của mình. Chúa cũng giúp con
người ý thức hơn về việc quản lý những gì Chúa trao ban cho mỗi người: trí
khôn, khả năng, vật chất, của cải và cả vũ trụ, tài nguyên Chúa ban nhưng không
cho nhân loại, cho mỗi người. Tất cả, những thứ đó đều do Chúa ban, con người
phải biết phát huy những thứ đó cho tốt đẹp, để phục vụ chứ không phải để sở
hữu riêng cho mình.Ý thức mọi sự là của Chúa ban và con người, loài người chỉ
là quản lý những thứ đó, nên con người phải làm sao cho những của Thiên Chúa
ban được phát triển tốt đẹp theo ý của Chúa.
MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN: Vật chất, lương thực
theo cái nhìn Kitô là của Chúa. Con người có dự tính, có kế hoạch nhưng mưa
thuận gió hòa là do Trời, do Thiên Chúa.Chính vì thế, trung thành với ông chủ,
với Thiên Chúa sẽ sinh lợi theo ý của Ngài. Đời là vốn và sự sống chính là biết
phát triển những gì Chúa đã trao ban nhưng không cho mỗi người. Thánh hoá công
ăn việc làm là điều cần thiết để mỗi người nhận ra sự hiện hữu của Chúa trong
vũ trụ, trong đời sống, trong mỗi người. Lao động trí óc hay chân tay đều là
những khả năng Thiên Chúa ban cho. Con người dù có giỏi đến đâu mà không cậy
trông sức thiêng hộ phù chắc chắn khó thành đạt trên bước đường kinh doanh hay
trồng cấy.
Mồng ba tết, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho việc
thánh hóa công ăn việc làm là điều cần thiết nhất để nói lên sự phù trợ của
Thiên Chúa và " Không Thầy, các con không làm được gì ".
Xin Chúa chúc lành cho những công việc con người đang theo
đuổi. Xin Chúa ban bình an cho những tâm hồn thành tâm thiện chí. Cuộc sống do
Chúa ban. Sự sống của con người thuộc về Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành cho
những gì Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người. Nếu con người luôn ước mong làm lợi
cho cuộc đời, họ phải hiểu rằng người Kitô hữu luôn hướng về bàn tiệc nước
trời, bàn tiệc của mùa xuân vĩnh cửu, bất diệt.
Lạy Chúa, xin chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con
để cuộc đời của mỗi người chúng con luôn nhận ra sự có mặt của Chhúa.Amen.
12. Suy niệm Lời Chúa
(Lm. Nguyễn Thể Hiện)
Lãnh vực công ăn việc làm là một trong những lãnh vực quan
trọng trong đó chúng ta thể hiện mối tương quan đích thực của chúng ta với
Thiên Chúa. Chính khi thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế
hàng ngày, chúng ta tự diễn tả mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa; và
ngang qua việc thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng
ngày mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa đưa vào hưởng niềm hoan lạc của chính Ngài.
1. Một dụ ngôn được nói cho chúng ta và nói về chúng ta
Với dụ ngôn những yến bạc, Đức Giêsu công bố rằng chúng ta
hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa như những đầy tớ phải chịu trách nhiệm trước
mặt Người; rằng mọi sự chúng ta có đều là của cải Thiên Chúa ký thác cho chúng
ta; rằng chúng ta không được tuỳ tiện sử dụng những thứ chúng ta có theo ý
riêng mình, song là phải theo đường hướng mà Thiên Chúa muốn; rằng Thiên Chúa
sẽ đòi chúng ta phải tính toán sổ sách với Người về những điều thiện hảo đã
được trao phó cho chúng ta; và rằng sự thành công hay thất bại của cuộc đời
chúng ta tuỳ thuộc vào cách hành xử của chúng ta trong những gì Thiên Chúa trao
phó cho chúng ta.
Qua cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành
và trung tín, Đức Giêsu cho thấy đâu là cách hành xử đúng đắn của chúng ta
trong cuộc sống hiện tại. Còn qua cách hành xử và số phận của tên đầy tớ xấu xa
và biếng nhác, Ngài cho thấy một kẻ xấu xa sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt như thế
nào.
2. Điều quan trọng là mối tương quan giữa ông chủ và các
đầy tớ của ông
Những người đầy tớ không được tự tại nơi mình, nhưng là ở
trong một mối tương quan tuỳ thuộc và phục vụ đối với ông chủ. Chính bản thân
họ thuộc về ông chủ, những điều thiện hảo được ký thác cho họ là của ông chủ và
những gì họ có thể làm ra cũng xuất phát từ tài sản của ông chủ chứ không phải
hoàn toàn xuất phát từ bản thân họ. Như thế là trong những phương diện khác
nhau, họ đều được nối kết chặt chẽ với ông chủ. Mà nếu vậy, cách hành xử của họ
sẽ vừa tuỳ thuộc vừa biểu lộ cái quan niệm mà họ có về ông chủ của mình.
Hình ảnh những người đầy tớ trong dụ ngôn này cũng là hình
ảnh của chúng ta trong tương quan với Thiên Chúa. Hình ảnh này cho thấy rằng
chúng ta, và cùng với chúng ta là tất cả những gì chúng ta có, đều là thụ tạo
của Thiên Chúa; rằng chúng ta không thể tự tại nơi chính mình; rằng mọi khả
năng của ta đều đến từ bàn tay Thiên Chúa.
Nhưng không phải là mọi người đều được đón nhận cùng những
ân huệ y như nhau; ông chủ giao phó của cải của mình cho các đầy tớ nhiều hay
ít là tùy khả năng của họ. Ông biết rõ từng đầy tớ của mình. Tình yêu tôn trọng
tự do và điểm độc đáo riêng của mỗi người. Thật phi lý nếu chúng ta đòi Thiên Chúa
phải ký thác tài sản của Ngài cho mọi người theo lối bình quân chủ nghĩa cứng
nhắc và phi nhân.
3. Cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành
Hai người đầy tớ tốt lành lập tức bắt tay vào việc. Họ sử
dụng những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình phù hợp với ý muốn của ông
chủ. Họ đặt mình dưới những mục tiêu của ông chủ và lưu tâm đến những bận tâm
của ông chủ. Hoạt động của họ hữu hiệu. Họ đến trình diện với ông chủ trong tư
thế đàng hoàng của người đã thực hiện tốt những gì được trao phó cho mình.
Và họ đã nhận được niềm vui trào tràn. Ông chủ đã tuyên bố
họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Người đầy tớ tốt lành là người hoàn
toàn đón nhận vị trí của mình trong tương quan với ông chủ và đặt mình trong tư
thế phục vụ ông chủ. Anh ta không chạy theo những ý tưởng riêng của chính mình
hoặc những tâm trạng riêng của mình, anh ta không giữ khoảng cách xa với ông
chủ, nhưng hành động theo những mục tiêu và những mối quan tâm của ông chủ.
Người đầy tớ trung tín là người phục vụ ân cần và luôn ý thức rằng những điều
anh ta có trong tay là những điều được ký thác cho anh.
Sau khi hai người đầy tớ đã chứng tỏ những phẩm chất tốt
lành và trung tín, ông chủ có thể tin tưởng mà trao phó cho họ những nhiệm vụ
lớn lao hơn. Ông cho họ vào hưởng hạnh phúc dư tràn: "Hãy vào mà hưởng
niềm vui của chủ anh" (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng Mt nói về sự
"vào Nước Trời" (thí dụ 5,20; 7,21; 18,3), về sự "vào cõi
sống" (18,8.9; 19,16), còn ở đây thì là "vào niềm vui". Nước
Trời có nghĩa là cõi sống và niềm hoan lạc vô biên dành cho những ai thuộc về
Nước ấy. Ông chủ không giữ khoảng cách với những người đầy tớ tốt lành, nhưng
ông đón nhận họ vào cõi sống của ông, vào sự hoan lạc đầy tràn của ông. Chúng
ta không thể đạt tới cùng đích đó và không thể đi vào trong sự hoàn thành phúc
lạc cuộc đời chúng ta chỉ dựa trên sức lực của riêng chúng ta, cũng không phải
là ngang qua một cuộc hành trình do chúng ta chọn lựa và quyết định, nhưng chỉ
là trong sự phục vụ Đức Chúa. Hai người đầy tớ tốt lành, cho dù khác nhau về kết
quả công việc, đã đều được hưởng cũng một niềm hạnh phúc như nhau. Điều đó cho
thấy niềm hạnh phúc mà họ được hưởng không được ban phát tuỳ theo điều họ đã
làm được, mà là tuỳ theo lòng tốt của ông chủ và lòng trung thành của họ.
4. Cách hành xử và số phận của anh đầy tớ xấu xa
Ngay từ đầu, anh đầy tớ này đã có một mối tương quan sai
lạc đối với ông chủ của anh ta. Anh ta coi ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ
không gieo, và anh sợ ông chủ (25,24.25). Anh ta biết mình tuỳ thuộc ông chủ,
nhưng anh ta không đặt mình dưới quyền bính của ông trong tin tưởng và chuyên
cần. Anh ta sống sự tuỳ thuộc của mình vào ông chủ như một sự gì nặng nề, và
anh ta bực tức với ông chủ như là với một người chuyên đi áp bức người khác,
bắt người khác làm việc cho mình và bóc lột người khác. Trong mắt anh ta, ông
chủ là người hà khắc xấu xa. Và anh ta từ chối dịch vụ mà ông chủ muốn anh ta
thực hiện. Anh ta không thi hành ý muốn của ông chủ. Tuy anh ta không phung phí
của cải đã được trao cho anh ta, anh ta cũng không dùng của cải ấy để tư lợi
hay tiêu xài, nhưng anh ta lại đã để cho những của cải mà ông chủ đã ký thác
cho anh ta thành ra vô dụng, rồi đem trả lại cho ông chủ đúng như anh ta đã
nhận từ ông.
Kết cục, ông chủ gọi anh ta là tên đầy tớ xấu xa, biếng
nhác và vô dụng, một người đã hoàn toàn đánh mất chính mình và đánh mất quyền
lợi của mình khi không thực hiện bổn phận mình. Như anh ta đã từng cố ý giữ
khoảng cách thật xa với ông chủ, thì bây giờ, ông chủ sẽ giữ khoảng cách thật
xa với anh ta. Anh ta đã không đặt mình trong sự hiệp thông sâu xa và hữu hiệu
với ông chủ, nên ông chủ phải để anh ta bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi
không có niềm vui, không có hạnh phúc, không có sự sống, mà chỉ có khóc lóc
nghiến răng vì phải chịu sự huỷ diệt kinh hoàng. Chỗ tối tăm bên ngoài, nơi
khóc lóc nghiến răng... chính là sự huỷ diệt dành cho những kẻ bị truất quyền
hưởng Nước Trời (x. Mt 8,12). Bị loại khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa, bị loại
khỏi ánh sáng, bị loại khỏi sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa, thì không
chỉ có nghĩa là không được tràn đầy hạnh phúc, không được sống viên mãn, mà còn
là phải ở trong tình trạng khốn khổ, đau đớn, tuyệt vọng và tăm tối.
Chúng ta chỉ có thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu
chúng ta đặt mình phục vụ Thiên Chúa, bằng cách sử dụng đúng đắn, theo ý Thiên
Chúa, tất cả những gì Thiên Chúa ban tặng và trao phó cho chúng ta: sự sống,
thời gian, khả năng, cơ hội, của cải... Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta
những thực tại tốt lành đó, và chúng ta sẽ phải trả lời về việc sử dụng chúng.
Chúng ta thực hiện cuộc sống mình không phải là trong sự
sợ hãi đối với Thiên Chúa, nhưng là trong tin tưởng, phó thác và yêu mến Người.
Chính vì vậy mà chúng ta cầu xin Người thánh hoá công ăn việc làm của chúng ta.
Lời cầu nguyện như thế sẽ được nhận lời, nếu trong lời cầu nguyện đó, chúng ta
tuyên xưng mình chỉ là đầy tớ của Người, luôn chỉ muốn sử dụng, phù hợp với ý
muốn của Người, tất cả những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình, luôn đặt
mình dưới những mục tiêu của Người và luôn lưu tâm đến những bận tâm của Người.
Lời cầu nguyện đó sẽ được mang vẻ đẹp của chính lời nguyện
xin của Đức Thánh Trinh Nữ, Mẹ chúng ta: "Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy
thành sự cho tôi theo lời Ngài!" (Lc 1,38).
13. Suy niệm Lời Chúa
(Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
(Bài giảng chép lại từ băng ghi âm)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Hôm nay là ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng trong tam
nhật hành hương minh niên của chúng ta kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Trong lịch
phụng vụ của Hội Thánh Việt Nam, ngày Mồng 3 Tết là ngày cầu xin Thiên Chúa
thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Do đó, hôm nay, khi quây quần bên Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp để cầu nguyện, có lẽ tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang nặng
những ưu tư, những bận tâm về công ăn viêc làm và về đời sống của chúng ta
trong năm mới này. Chính trong mối ưu tư về công ăn việc làm và về đời sống đó,
chúng ta hiệp lời với Đức Mẹ nài xin Thiên Chúa thánh hóa tất cả công việc mà
chúng ta sẽ làm trong năm mới này.
Bài Tin Mừng vừa được công bố trích trong Tin Mừng theo
Thánh Gioan, kể về dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện tại tiệc cưới Cana. Đối
với người Do Thái ngày xưa, rượu trong tiệc cưới là biểu tượng của tình yêu
giữa cô dâu với chú rể, giữa chú rể với cô dâu, tức là biểu tượng cho thực tại
quan trọng nhất làm cho mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi thực tại trong lễ cưới
trở nên có ý nghĩa. Tình yêu giữa người vợ và người chồng là yếu tố căn bản làm
nên gia đình, làm nên sự thành công của gia đình. Thế mà trong đám cưới này lại
xảy ra tình trạng thiếu rượu, tức là thiếu yếu tố quan trọng đem đến sự thành
công. Ông quản tiệc là người chịu trách nhiệm về việc tổ chức đám cưới và xử lý
những vấn đề nảy sinh ở đám cưới thì lại chẳng biết gì về tình trạng bi đát ấy.
Nhưng có một người, là thân mẫu Đức Giêsu, đã nhận ra tình trạng bi đát đó.
Thân mẫu Đức Giêsu đã trình bày vấn đề với Đức Giêsu, Con của Người. Mẹ đã
không đến với ông quản tiệc để nói cho ông quản tiệc biết mà xử lý vấn đề của
tiệc cưới. Mẹ đến với Đức Giêsu, trình bày với Đức Giêsu và chờ đợi sự can
thiệp của Đức Giêsu. Và quả thật, Đức Giêsu đã can thiệp để giải quyết tình
trạng hết sức cấp bách và bi đát ấy. Người đem lại cho đám cưới Cana sự thành
công như lòng Thiên Chúa mong ước.
Kính thưa anh chị em,
Ngày hôm nay, khi chúng ta đến với Đức Mẹ và trình bày với
Đức Mẹ về tình trạng của cuộc sống và những ưu tư của chúng ta về công ăn việc
làm, là chúng ta đến trong lòng tin rằng Mẹ sẽ can thiệp bên cạnh Chúa Giêsu để
Chúa Giêsu chúc lành, thánh hóa và làm cho công ăn việc làm của chúng ta trong
năm nay được thành công. Chính trong cái xác tín đức tin ấy mà chúng ta quây
quần bên Mẹ. Vậy đâu là những tâm sự mà chúng ta muốn thưa với Đức Mẹ bây giờ,
thưa anh chị em?
(1) Trước hết, chúng ta đến đây, trong buổi chiều Mồng 3
Tết này, là để cùng với Đức Mẹ tuyên xưng rằng sự thành công của đời sống chúng
ta và của công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này, hoàn toàn tùy thuộc
vào Thiên Chúa là Đấng quyết định. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho công ăn
việc làm và đời sống của chúng ta trong năm mới này thành công. Nói như lời tác
giả Thánh Vịnh: "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng
công; thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh
đêm". Vậy chính trong lòng tin đó mà chúng ta đặt dưới chân Đức Mẹ những
ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm trong năm mới này, xin Đức Mẹ can thiệp
với Thiên Chúa để Thiên Chúa chúc lành cho công ăn việc làm và cho đời sống
chúng ta. Vì thế, vượt xa hơn một lời cầu xin, sự quy tụ của chúng ta chiều hôm
nay ở đây là một lời tuyên xưng đức tin vào quyền năng và quyền quyết định của
Thiên Chúa trên vận mạng và sự thành công của chúng ta.
(2) Nhưng không chỉ như thế, thưa anh chị em. Ngày lễ hôm
nay được gọi là ngày xin ơn thánh hóa công ăn việc làm. Chúng ta không chỉ xin
sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng còn đi xa hơn nữa, chúng ta xin
Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, nghĩa là làm cho những hoạt
động của chúng ta trong năm mới này trở nên phương thế đem lại ơn cứu độ cho
chúng ta. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại của thế giới mai hậu. Ơn cứu độ
không phải chỉ là thực tại siêu nhiên mà thôi. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho
chúng ta là ơn cứu độ con người toàn diện. Trong cái toàn diện và cụ thể trong
đời sống chúng ta, Thiên Chúa cứu chúng ta. Và mọi thực tại thuộc về đời sống
con người đều có thể trở nên phương thế để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta.
Thiên Chúa cứu chúng ta là cứu trong cái thực tại thế tạm, thực tế và cụ thể
của đời sống chúng ta.
Khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của
chúng ta, khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa những hoạt động của chúng ta
trong năm mới này, chúng ta tuyên xưng một xác tín, rằng ơn cứu độ Thiên Chúa
ban cho chúng ta là một thực tại toàn diện. Khi qui tụ đông đảo ở đây để xin
Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên bố với thế giới và
với mọi người rằng tôn giáo không chỉ gói gọn trong những thực tại siêu nhiên
thuộc thế giới bên kia, vì mọi thực tại thế tạm đều "dính dấp" đến tôn
giáo và đời sống tôn giáo của chúng ta cũng "dính dấp" đến mọi thực
tại của cuộc sống này. Vậy ai nói rằng Hội Thánh Công Giáo không được quyền lên
tiếng về những vấn đề xã hội, hoặc rằng Hội Thánh Công Giáo chỉ nên gói gọn
hoạt động của mình trong các lễ hội bên trong nhà thờ, thì người ấy đang phản
bội Tin Mừng đấy, thưa anh chị em. Bởi vì Thiên Chúa đến cứu chúng ta và Người
muốn thánh hóa mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống thế tạm và cụ thể đều trở thành
phương thế cứu độ.
Thành ra, với việc anh chị em qui tụ ở đây bên cạnh Đức Mẹ
và xin Đức Mẹ chuyển cầu để Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta
đang tuyên xưng một sự dấn thân làm cho những thực tại thế tạm, những thực tại
của công ăn việc làm chẳng hạn, trở thành phương thế cứu độ con người. Đó là ý
nghĩa và tâm tình thứ hai mà chúng ta thưa lên với Đức Mẹ và cùng với Đức Mẹ
tuyên xưng đức tin trước nhan Thiên Chúa trong buổi chiều ngày Mồng 3 Tết này.
(3) Nhưng, kính thưa anh chị em, tất cả chúng ta ở đây đều
không ai sống một mình. Ngay cả trong lãnh vực công ăn viêc làm, chúng ta cũng
ý thức rất rõ ràng tác động của cộng đồng và của xã hội trên đời sống riêng của
mỗi người chúng ta.
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được rằng những
quyết định của nhà cầm quyền sẽ ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp lên công ăn việc
làm của chúng ta. Tôi lấy thí dụ: mô hình tăng trưởng nào được lựa chọn để làm
mô hình tăng trưởng cho đất nước chúng ta? Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công
ăn việc làm của chúng ta. Chính sách thuế khóa sẽ trực tiếp ảnh hưởng trên công
ăn việc làm của mỗi người chúng ta. Một quy hoạch nào đó của một vùng nào đó sẽ
ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ trên cuộc sống và trên công ăn việc làm của cộng
đồng cư dân trong vùng đó. Không thể phủ nhận được tác động của các chính sách
của những nhà cầm quyền trên công ăn việc làm của chúng ta.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận được tác động của những
hiện tượng xấu như tệ nạn xã hội, tình trạng an ninh, tệ quan liêu, nạn tham
nhũng, sự lãng phí, sự suy thoái trong đời sống đạo đức, cách riêng là sự suy
thoái đạo đức của những người có quyền trong các lĩnh vực khác nhau, công cũng
như tư. Chúng ta không thể phủ nhận được tác động trực tiếp và tiêu cực của
những chuyện đó trên công ăn việc làm của chúng ta. Sự thành công trong công ăn
việc làm của chúng ta trong năm mới này sẽ chịu ảnh hưởng và tác động của những
điều đó.
Ý thức như thế, chúng ta đến với Đức Mẹ chiều hôm nay để
trình bày với Đức Mẹ cuộc sống cụ thể của chúng ta. Xã hội của chúng ta vẫn còn
đầy dẫy những bất công. Chính ông Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong báo cáo tổng
kết 5 năm cầm quyền vừa qua của Đảng Cộng sản tại đại hội lần thứ 11 cũng đã
phải thừa nhận rằng: "Nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội,
tình trạng tội phạm, sự suy thoái về đạo đức và lối sống ... vẫn chưa được ngăn
chặn", có nghĩa là vẫn còn tồn tại đầy dẫy trong xã hội. Đi xa hơn ông
Nông Đức Mạnh, ông Nguyễn Văn An - nguyên Chủ tịch Quốc Hội từ năm 2001 đến
2006, cách đây vài tháng, khi trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet, đã không
chỉ đề cập đến những sự suy thoái hay những hiện tượng này khác. Ông đề cập đến
một lỗi hệ thống và ông bàn đến chuyện sửa sai lỗi hệ thống ấy. Có một số đảng
viên cộng sản không đồng ý với cách lý giải của ông Nguyễn Văn An, tức là không
đồng ý rằng có một lỗi hệ thống trong đường lối xây dựng xã hội chúng ta. Nhưng
tôi chắc rằng không ai trong các đảng viên cộng sản hiện nay và cũng chẳng ai
trong chúng ta ở đây mà không đồng ý với ông Nông Đức Mạnh rằng trong xã hội
chúng ta còn đầy dẫy tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, tình trạng tội
phạm, tình trạng tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái đạo đức của nhiều người,
cách riêng là rất nhiều người cầm quyền trong các lĩnh vực khách nhau. Vì đó là
thực tế đập vào mắt chúng ta hàng ngày.
Và tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến công ăn
việc làm của chúng ta.
Thế mà, như lời Kinh Thánh nói: "Khi nền móng cương
thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?".
Vậy, hôm nay, khi chúng ta quây quần bên cạnh Đức Mẹ để
cùng với Đức Mẹ đặt những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm và về đời sống
chúng ta lên trước nhan Thiên Chúa, là chúng ta xin Đức Mẹ nhìn đến tình trạng
đó của chúng ta. Chúng ta xin Đức Mẹ can thiệp trước nhan Thiên Chúa để Thiên
Chúa giúp chúng ta ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, ngăn chặn tệ nạn hối lộ, ngăn
chặn sự xuống cấp về đạo đức của những người có quyền. Chúng ta xin Đức Mẹ ngăn
chặn và hơn nữa, triệt tiêu những tệ nạn trong việc phân chia lợi tức xã hội,
những tệ nạn trong lĩnh vực giáo dục, trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực
giao thông..., tức là những tệ nạn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống ảnh
hưởng đến công ăn việc làm và ảnh hưởng đến hoạt động của chúng ta trong năm
nay. Chúng ta xin Đức Mẹ và chúng ta biết rằng Đức Mẹ đủ quyền năng để giúp
chúng ta ngăn chặn và triệt tiêu những tác hại của các tệ nạn đó.
Đàng khác, chúng ta biết rằng sự thành công đích thực của
toàn xã hội và vì vậy là của tất cả chúng ta, chính yếu thuộc về điều này: đó
là tự do và phẩm giá của con người phải được tôn trọng. Khi nào tự do và phẩm
gián của con người được tôn trọng, khi ấy xã hội mới phồn vinh đích thực, mới
ổn định đích thực. Còn khi nào tự do, phẩm giá và nhân quyền không được tôn
trọng, thì lao động và công ăn việc làm, thay vì là phương thế làm cho chúng ta
triển nở và làm cho chúng ta trở nên người hơn, thì lại trở thành gánh nặng,
lại trở thành ách nô lệ, lại trở thành yếu tố làm cho con người tha hóa, vong
thân. Thành ra, chúng ta đến đây với Đức Mẹ để xin Đức Mẹ phù trợ, để xin Đức
Mẹ chúc lành, xin Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của
chúng ta trong năm này, là chúng ta xin cho sự tự do, xin cho phẩm giá của con
người, xin cho các quyền căn bản của con người... ngày càng được tôn trọng, và
xin cho xã hội của chúng ta trở nên một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
(4) Tất nhiên, bên cạnh những tệ nạn, chúng ta cũng biết
rằng trong xã hội chúng ta vẫn còn đấy những yếu tố hết sức tích cực, đặc biệt
là những yếu tố tích cực từ những phận đời nhỏ bé. Anh chị em hãy nhớ lại: năm
vừa rồi, khi bão lụt tràn về miền Trung, rất nhiều người đã cùng nhau góp phần
của mình giúp anh chị em miền Trung qua cơn đại nạn lũ lụt. Rất nhiều người
trong cộng đồng chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình đề đem lại sự ổn định cho
đời sống của anh chị em ở miền Trung. Một ví dụ khác: nhiều người trong chúng
ta đã góp phần nhỏ bé của mình để anh chị em dân tộc thiểu số ở bên cạnh dòng
sông Pôkô trên Tây Nguyên không còn phải đi học hay vận chuyển những gùi sắn,
gùi lúa của mình qua sông bằng cách đu dây cáp. Một chiếc cầu dây đã được bắc
qua sông Pôkô từ những tấm lòng của bạn đọc khắp nơi của báo Tuổi Trẻ. Đấy là
một bằng chứng về lòng nhân ái và về sự trợ giúp của những người nghèo với
nhau. Một ví dụ khác: anh Trương Xuân Thức, người lái tàu trên một chuyến tàu
hỏa gặp nạn, đã làm hết cách, thậm chí là hy sinh cánh tay trái của mình, để
bảo đảm an toàn cho chuyến tàu ấy. Và khi thấy anh gặp nỗi đau vì hy sinh như
thế, nhiều người ở khắp nơi đã an ủi, đã nâng đỡ, đã góp phần cùng với anh xoa
dịu nổi đau của sự tật nguyền mà anh phải mang do sự hy sinh cứu những người
khác. Đấy là bằng chứng rằng những người nghèo trong xã hội chúng ta, những
phận đời bé nhỏ trong xã hội chúng ta, vẫn đóng góp phần mình để làm cho xã hội
được nhân bản hơn, văn minh hơn. Rồi chúng ta biết có nhiều luật sư đã dám dấn
thân để bảo vệ người nghèo trong các vụ án, cho dù họ phải trả giá bằng sinh
mạng kinh tế, sinh mạng chính trị và ngay cả sinh mạng thể lý. Có những nhà báo
bất chấp nguy hiểm để phanh phui những tệ nạn, tố giác tiêu cực... để xã hội
nên trong sáng hơn... Và còn nhiều lắm. thưa anh chị em, những tấm lòng nhân ái
làm cho cuộc sống của chúng ta an bình hơn, làm cho cuộc sống của chúng ta nhân
bản hơn và nhờ vậy sự thành công của mỗi người được đảm bảo hơn.
Vậy hôm nay, khi qui tụ về đây để xin Đức Mẹ cầu bầu với
Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta xin Đức Mẹ chúc lành và nâng đỡ những
tâm hồn ấy, những con người ấy, tức là chính chúng ta và là biết bao người
nghèo khác. Đức Mẹ, tại tiệc cưới Cana, đã khích lệ, đã dạy dỗ, đã chỉ dẫn cho
các gia nhân để họ cộng tác với Chúa Giêsu mà đem rượu mới cho đám cưới. Xin
Mẹ, ngay hôm nay, trong năm này, cũng an ủi, khuyến khích, nâng đỡ chúng ta và
tất cả những người thành tâm thiện chí khác, để chúng ta góp phần mình làm cho
làm cho tự do, nhân quyền và phẩm giá con người được tôn trọng trong xã hội
chúng ta. Và trên cái nền ấy, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng cuộc
sống của mình.
Tóm lại, kính thưa anh chị em, chiều hôm nay,
- thứ nhất, khi đến bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Mẹ dâng
lên Thiên Chúa những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, về hoạt động, về
đời sống của chúng ta trong năm mới, chúng ta thưa lên với Đức Mẹ xác tín rằng
đời sống và sự thành công của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa: "Nếu như
Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công".
- thứ hai, khi cùng với Đức Mẹ ra trước nhan thánh Thiên
Chúa để dâng lên lời cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng
ta, chúng ta xác tín rằng những hoạt động nhỏ bé và trần thế của chúng ta có
thể trở thành phương thế cứu độ chúng ta.
- thứ ba, cùng với Đức Mẹ, chúng ta dâng lên Thiên Chúa
lời nguyện xin tha thiết, để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiệu
những tệ nạn đang tác oai tác quái trên đời sống chúng ta: "Khi nền móng
cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?".
- thứ tư, chúng ta nguyện góp phần mình làm cho xã hội ý
thức hơn về tự do, về nhân phẩm và nhân quyền. Chúng ta nguyện góp phần vào
việc làm cho xã hội ổn định hơn, làm cho xã hội phát triển một cách đích thực
hơn như chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta xin Đức Mẹ khích lệ, nâng đỡ để
giúp chúng ta dám dấn thân xây dựng xã hội tốt lành, trong đó mọi người có cơ
hội phát triển đích thực như thánh ý Chúa muốn.
Kính thưa anh chị em,
Ngày xưa, Đức Mẹ đã nhìn thấy tình trạng tiệc cưới Cana
thiếu yếu tố căn bản làm cho bữa tiệc ấy có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ cũng đang
nhìn thấy những thiếu thốn căn bản để cuộc sống của chúng ta có thể phát triển.
Ngày xưa Đức Mẹ đã thưa với Chúa Giêsu để Người can thiệp
tại tiệc cưới Cana và ban rượu ngon làm cho bữa tiệc cưới ấy được thành công và
có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ vẫn luôn cầu nguyện với Chúa để Người ban những
yếu tố căn bản, giúp cho xã hội chúng ta được vận hành và phát triển một cách
đích thực như lòng Chúa muốn.
Xin Đức Mẹ gìn giữ chúng con và ban ơn cho chúng con. Xin
Đức Mẹ chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này. Amen.
14. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt
25,14-30)
VIỆC LÀM VÀ LÀM VIỆC TRONG NĂM MỚI SẼ NHƯ THẾ NÀO?
Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban
Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền
kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó
là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm
ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng
đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội
sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm
của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần
của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng
mạnh... tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi
người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia
đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người
được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy
ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào...
Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề
quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện
khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện
khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì
muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều
kiện làm việc thật tốt. ... Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương
quan chủ và thợ:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao
phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình
cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp.
Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người
kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai
có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép
họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở
đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là
sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông
không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu
chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén
sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông
chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong
việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ
tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.
Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán,
ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một
nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn
hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham
lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ
khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của
chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến
việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề
vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm
lời theo lãi suất ngân hàng... Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không
suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.
Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu
chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt
lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác
nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng
và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu
mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời
những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm
nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất
nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những
cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười
biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác
họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.
Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con
người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ
trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của
Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn
toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng
thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn
làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh
phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm
sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra
nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ
lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài
sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình,
làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và
phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.
Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng thiên Chúa của chúng ta
như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ,
đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để
tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa
của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm
việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư
tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta
đang sinh lời cho Thiên Chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo
dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên
tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra
ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại
đến tài sản của Ngài.
Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế
để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa,
và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh Phaolô còn nhắc
cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của
cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thân, làm tăng phẩm giá con người và
còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là
nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần
phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn
việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc
làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc
theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết
tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn
trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên
Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người
quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình
trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.
Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn
và làm việc thật hiệu quả. Amen
15. Thánh hóa công việc làm
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng 3 Tết, Giáo Hội Việt Nam mời gọi mọi
người cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn. Lời Chúa trong Tin Mừng Thánh
Luca, tường thuật việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn "những người đầy tớ và
những yến bạc" để dạy dỗ các đồ đệ của mình nhiều điều, liên quan đến công
việc làm ăn:
Thứ nhất, Chúa đưa ra dụ ngôn để nhắc nhở các đồ đệ, không
phải là "số các yến bạc được trao bao nhiêu", mà là "những người
đầy tớ đã sử dụng chúng như thế nào". Người lãnh năm nén đã đi làm lợi năm
nén khác, người lãnh hai nén làm lợi hai nén khác, riêng người lãnh một nén lại
đem chôn. Tất nhiên ông chủ khen hai người đầu và nổi giận vì cách thế biếng
nhác của người cuối cùng kia. Ta thấy người thứ nhất và thứ hai khác nhau về số
các yến bạc, nhưng giống nhau ở chỗ đã mạnh dạn đem các nén bạc được trao ra sử
dụng mặc dù chưa biết thắng bại ra sao. Riêng người cuối cùng không bắt tay vào
việc, không tin vào sự nâng đỡ của ông chủ, và rồi đã đem chôn đi cái mình được
trao, cái mình đã lãnh nhận. Quan sát ba người đầy tớ ta thấy: người ta không
bằng nhau ở "số lượng" nhưng bằng nhau ở "nỗ lực". Nếu so
"số lượng nén bạc" được trao của người thứ nhất và người thứ hai chắc
chắn ta thấy khác nhau, nhưng "nỗ lực công việc" và phần thưởng danh
dự dành cho hai người chắc chắn giống nhau.
Hẳn điều nhắc nhở này cho các đồ đệ, cũng là điều nhắc nhở
mỗi người chúng ta, số yến bạc là các khả năng Chúa trao cho mỗi người rất khác
nhau. Có lẽ Chúa chẳng đòi hỏi gì nhiều, Chúa chỉ đòi hỏi mỗi người hải nỗ lực
cố gắng làm việc trong tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa.
Thứ hai, dụ ngôn ấy, Chúa cũng nhắc nhở các đồ đệ là: phần
thưởng dành cho người hoàn tất công việc được giao cách tốt đẹp, là người đó
được giao thêm công việc mới và được hưởng niềm vui hạnh phúc với chủ, chứ
không phải là người đó sẽ nghỉ ngơi. Hình phạt dành cho người biếng nhác là
ngay cả cái công việc anh ta có, bây giờ cũng bị lấy đi và trao cho người đã
có.
Quà tặng cũng như phần thưởng, Chúa chỉ dành cho những
người đã nỗ lực cộng tác với Chúa. Và như thế, Chúa sẽ trao thêm cho họ nhiều
khả năng khác đang khi họ thi hành điều Chúa muốn.
Sau cùng, qua dụ ngôn Chúa nhắc nhở các đồ đệ là: những
khả năng được đem ra sử dụng sẽ phát triển và còn mãi, khả năng cất kỹ sẽ mai
một và sẽ mất đi. Ví như bạn có khả năng hội họa, khả năng đàn nhạc,... nếu bạn
đem ra sử dụng chắc chắn nó sẽ được thăng hoa, nhưng nếu chôn vùi bạn sẽ đánh
mất nó.
Quý vị và các bạn thân mến,
Ngày hôm nay mùng 3 Tết, ngày lễ cầu xin Chúa thánh hóa
công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Chúa đã luôn
nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cám tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho mỗi người các nén
bạc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng xin ơn Chúa và cộng tác với Chúa để làm phát
triển các yến bạc mà Chúa đã trao vào tay chúng ta. "Ai trung tín trong
việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn".
Lạy Chúa,
Đôi lúc trong cuộc sống, chúng con chưa nỗ lực cộng tác
với ơn Chúa, nhưng chúng con lại hay kêu trách Chúa, khi so sánh mình với người
khác. Đôi lúc chúng con biếng nhác, nhưng lại ưa đòi phép lạ. Đôi lúc chúng con
không xứng đáng Chúa trao những nén bạc lớn, vì thái độ thiếu nhiệt thành của
chúng con.
Chúng con xin lỗi Chúa, và xin Chúa đỡ nâng chúng con.
Xin ban cho chúng con có công ăn việc làm ổn định, đời
sống an bình tươi vui.
Amen.
16. Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30)
(Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng)
Phụng Vụ Lời Chúa và các lời nguyện trong thánh lễ hôm nay
nhắc nhớ chúng ta về bản chất và ý nghĩa công ăn việc làm của con người. Thiên
Chúa đặt mỗi người vào một khu vườn phù hợp với họ như ruộng đồng, nhà máy,
phòng thí nghiệm, giảng đường, sân khấu, ... để thực hiện nhiệm vụ cao cả là
hoàn thành công trình sáng tạo của Người (BĐ1). Tuy vậy, con người không lao
tác một mình và cho bản thân mình, nhưng cần dùng thành quả lao động để chia sẻ
và đỡ nâng những ai túng cực (BĐ2). Muốn vậy, chắc chắn con người phải siêng
năng làm việc, phải dùng hết sức lực và trí khôn Chúa ban để sinh lợi theo ý
Người muốn (BĐ3).
Nói cách khác, lao động của con người được Thiên Chúa chúc
phúc và mặc cho một cùng đích siêu việt: làm việc không chỉ để có phương tiện
độ nhật, không chỉ để sống hạnh phúc trên trần gian này, mà còn để đạt được kho
tàng vĩnh viễn và hạnh phúc viên mãn, nơi mối mọt không đục khoét và kẻ trộm
không lấy đi được. Thành ra, những giọt mồ hôi con người đổ ra khi vất vả làm
lụng, khi khổ sở kiếm sống, ... là những giọt mồ hôi có Chúa, những giọt mồ hôi
đã được Cha Nhân Lành thấu biết và đếm cả rồi. Và khi đó, chúng ta lao động,
làm ăn, bán buôn, nghiên cứu, ... khác với những người không nhìn biết Thiên
Chúa!
Thực vậy, thiên hạ cầu trời khấn phật, coi tướng số, cúng
kiếng, xin xăm, ... cho công việc được thành đạt. Có người lọc lừa, dối trá,
thủ đoạn để cầu lợi; nhưng cũng có người quảng đại chia tài sản mình cho người
nghèo; có người dành cả đời cống hiến cho xã hội, cho cộng đồng, ...
Người Công giáo chúng ta thì xin lễ, xin khấn,... để Chúa
thánh hóa và chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng ta...Chúng ta chia sẻ, đỡ
nâng biết bao người anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, ... bằng chính lòng bác ái
và đồng tiền thu được trong lao công vất vả. Nhưng thật lòng mà nói, cũng đã có
những cạnh tranh không lành mạnh, những mánh khóe, những giành giựt, những đấu
khẩu, khấu thủ với nhau trên thương trường, nơi đồng ruộng hay trên nương rẫy,
.... Và như thế, vô tình hay cố ý, chúng ta đã tự mâu thuẫn với chính mình, tự
trở nên hợm hĩnh trước Chúa: chúng ta mời Chúa ra chỗ khác, cho con tự xoay sở,
tự làm việc theo cách của con, dù trước đó chúng ta đã hết lòng cầu nguyện, xin
khấn, xin lễ ... để phó thác vụ việc cho Chúa.
Nói một chút về những tiêu cực trong tiết xuân tươi mới,
để chúng ta kịp lắng lòng lại, kịp giật mình tự hỏi: những giọt mồ hôi tôi đổ
ra đêm ngày để kiếm miếng cơm manh áo; để đem lại tương lai tươi sáng cho con
cái; để tìm phồn vinh cho gia đình, cho đất nước; ... có sự đồng hành của Chúa
không? Có giống với giọt mồ hôi của anh thợ mộc làng Nadarét xưa không?
Ước gì trong những rộn rã của hoa quả, của lễ vật người
người dâng Chúa Xuân hôm nay, chúng ta nhận ra và khao khát một điều: Xin cho
những giọt mồ hôi con đổ ra là giọt mồ hôi có Chúa, hòa vào những giọt mồ hôi
của Chúa, mang đậm ước muốn và phúc lành của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi lao tác cật lực với
sức khỏe, với trí khôn, nhưng luôn tín thác vào Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tính toán công mua sức
bán, nhưng luôn tôn trọng sự thật và luật công bằng của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tìm kiếm tiền bạc như
những đầy tớ tốt, chứ không phải là những ông chủ khắc nghiệt.
Và, giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi được tích cóp từng
ngày, qua năm qua tháng, ... để cuối cùng, góp thành một bể yêu thương cho ta
vui đùa ngụp lặn, gột rửa ta nên sạch trong, và mở ra dòng chảy vào Biển Yêu
Thương của Đấng đã chấp nhận bước xuống Biển Đời lem lấm phận người để thánh
hóa, để thay dòng đổi lượng cho nó đượm hương Thiên Đàng và in bóng Người Cha
yêu thương đang mở rộng vòng tay đón đợi ta.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét