CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Xh 3,1-8a.13-15; 1
Cr
10,1-6.10-12; Lc 13,1-9
MỤC LỤC
1. Sám hối
2. Dấu chỉ thời đại
3. Hại đất
4. Cái nhìn nội tâm - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
5. Ăn năn sám hối – R. Veritas
6. Thiên Chúa luôn hiện diện bên con
người
7. Thay đổi bộ mặt thế giới – Radio
Veritas Asia
8. Sự kiên nhẫn chờ đợi – Radio Veritas
Asia
9. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc
10. Suy niệm của Radio Veritas Asia
11. Sám hối để tự cứu mình – Lm Ignatio
Trần Ngà
12. Hãy sinh hoa kết trái – Lm Jos. Tạ
Duy Tuyền
13. Kiên nhẫn của tình yêu - Achille
Degeest
14. Mùa chay, mùa đổi mới
15. Trừ phi các ngươi hối cải – McCarthy
16. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn
17. Thống hối - R. Gutzwiller
18. Lời mời gọi sám hối- Lm. Phạm Thanh
Liêm
19. Đổi mới cách nhìn
20. Ăn năn sám hối
21. Suy niệm của JKN
22. Chú giải của Fiches Dominicales
23. Chú giải của Noel Quesson
1. Sám hối.
Đứng trước cái chết thê thảm, đầy máu và
nước mắt của những người bị Philatô giết, cũng như những người bị tháp Siloe đè
bẹp, có những kẻ đã nghĩ xấu khi cho rằng sở dĩ những người này phải chết vì họ
là những kẻ tội lỗi. Ý nghĩa độc ác đó, giống như một con dao đâm vào các nạn nhân
đã chết. Và như thế, những người đã chết lại bị chết thêm một lần nữa.
Trước sự bất công và bất nhân ấy, Chúa
Giêsu đã xác định không phải là như thế, đồng thời khuyên nhủ mỗi người hãy ăn
năn hối cải, kẻo rồi sẽ bị Chúa huỷ diệt như vậy. Với những suy nghĩ trên, Ngài
vừa minh oan cho các nạn nhân, vừa công bố cách Ngài sẽ xét xử sau này, đó là
ai xét đoán ác nghiệt cho kẻ khác, thì cũng sẽ bị xét đoán ác nghiệt như vậy.
Kẻ cho rằng các nạn nhân bị chết thê thảm là vì họ có tội, thì chính họ, nếu
không sửa mình, cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy, vì họ đâu có vô tội hơn ai.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận thực
hành, đó là đừng mất giờ lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ
thêm cho họ và cho những người thuộc về họ, đồng thời cũng gây thêm tội và thêm
hậu quả xấu cho chính bản thân mình. Điều Chúa muốn chúng ta quan tâm, đó là
hãy lo chuyện mình bằng cách ăn năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.
Đổi mới bản thân, cải thiện đời sống đó
là điều chúng ta thường xuyên mong muốn. Chúng ta đã cố gắng, thế nhưng càng cố
gắng chúng ta lại càng khám phá ra rằng: Tự sức riêng, chúng ta không thể ăn
năn sám hối và cải thiện đời sống mình, trái lại phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta
hay biết về kinh nghiệm ấy. Chúa là người trồng cây, còn chúng ta là những cây
vả không có trái. Ngài muốn chúng ta cải thiện nên đã trồng chúng ta vào vườn
nho Hội Thánh. Rồi cũng chính Ngài đã chăm sóc chúng ta như người trồng cây đối
với cây vả của mình. Nhưng chúng ta lại là những cây vả có trí khôn, có tự do,
chúng ta có thể đón nhận hay không đón nhận ơn lành của Chúa. Chúng ta có thể
sinh những hoa trái tốt, nhưng cũng có thể chẳng có hoa trái nào cả. Nguyên do
là bởi chúng ta có biết đón nhận ơn Chúa hay không? Nghĩ tới đây hẳn chúng ta
sẽ cảm thấy lo lắng cho số phận của chúng ta, bởi vì có những lúc chúng ta đã
dửng dưng với ơn Chúa, đã từ chối ơn Chúa. Ý thức về thân phận yếu đuối, để rồi
phó thác cho tình thương của Chúa, là chúng ta đã khởi đầu sự ăn năn. Tuy
nhiên, tâm tình sám hối không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phải tiến tới ba việc
làm khác nữa, đó là cầu nguyện, hãm mình và làm việc bác ái, đặc biệt là bố thí
giúp đỡ người nghèo.
Và như thế, chúng ta thấy tâm tình sám
hối của chúng ta còn rất hời hợt. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta không phải
chỉ là không còn phạm tội nữa, mà còn phải tích cực làm việc lành. Vì việc lành
mới là những hoa trái thiêng liêng mà Chúa muốn có. Thế nhưng, bản thân chúng
ta đã có được những hoa trái thiêng liêng ấy chưa, hay là đến giờ này, chúng ta
vẫn chỉ là những cây vả không có trái?
2. Dấu chỉ thời đại.
Ngày xưa, cha ông chúng ta không cần tới
những phương tiện hiện đại để biết được thời tiết, trái lại, họ chỉ dựa vào
những hiện tượng trong thiên nhiên, mà cũng biết được nắng mưa, như tục ngữ đã
diễn tả:
- Gió đàng nam vừa làm vừa chơi.
Đôi khi chỉ việc quan sát những phản ứng
của thú vật, họ cũng biết được thời tiết. Chẳng hạn:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
cũng khuyến khích chúng ta hãy nhìn vào những sự kiện, những biến cố xảy ra
chung quanh, để nhờ đó mà biết được thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra hai
trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất đó là những người
Galilêa bị Philatô giết và trường hợp thứ hai đó là mười tám người khác bị tháp
Silôê đổ xuống đè chết. Dân Do Thái thì cho rằng sở dĩ những người bị chết là
những kẻ tội lỗi cho nên bị Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giêsu thì
khác, Ngài coi những biến cố đau thương và đẫm máu ấy là như một tiếng chuông
cảnh tỉnh được gởi đến với họ, để họ ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời và quay
trở về cùng Chúa, nếu không thì họ cũng sẽ phải chết một cách thảm khốc như
vậy.
Còn với chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Hằng ngày qua báo chí, truyền thanh và truyền hình, chúng ta đón nhận biết bao
nhiêu sự kiện, biết bao nhiêu biến cố đau buồn xảy ra khắp nơi trên trái đất.
Chỗ này có những người chết vì bom đạn chiến tranh, chỗ kia có những người chết
vì thiên tai bão lụt, động đất và sóng thần. Nơi khác lại có những người chết
vì bệnh tật và nghèo đói.
Trước những biến cố đau thương ấy, nhiều
lúc chúng ta cũng đã có một thái độ lạnh lùng và nghiêm khắc như người Do Thái:
Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi. Thế rồi chúng ta yên tâm với
cung cách mũ ni che tai, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. Trong khi đó,
Chúa đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ tích cực, đó là phải biết tìm hiểu thánh
ý Ngài được gói ghém qua những biến cố, qua những sự kiện ấy.
Cũng như nơi dân Do Thái, những biến cố,
những sự kiện ấy là như những tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến để kéo chúng
ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và tội lỗi. Vấn đề được đặt ra đó là Chúa muốn
nói gì với tôi qua những sự việc, qua những biến cố ấy? Rồi từ đó, tôi sẽ phải
uốn nắn, sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, để cuộc đời tôi sẽ đem lại
những hoa trái, và những hoa trái ấy luôn làm cho Chúa được hài lòng.
3. Hại đất
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Điều làm chúng ta khó sám hối đó là cảm
thấy mình ở trong tình trạng an toàn.
Đức Giêsu nói về hai biến cố nóng hổi
tính thời sự, một do sự tàn ác của Philatô, một do tai nạn lao động. Cả hai đều
dẫn đến cái chết thảm khốc: những người Galilê bị đổ máu ngay lúc dâng lễ ở Đền
Thờ, mười tám người chết vì bị tháp Silôa đè bẹp. Vào thời Đức Giêsu, họ bị coi
là kẻ có tội, bị Chúa phạt. Những người khác dễ nghĩ mình vô tội, vì còn được
bình yên. Điều này đưa đến sự tự hào và an toàn giả tạo.
"Đừng tưởng...": Đức Giêsu đưa
ta ra khỏi ảo tưởng về mình. Ngài nhắc mọi người sám hối vì biết ai nặng tội
hơn ai.
Lúc còn được sống yên lành là lúc cần
hoán cải. Có thể đây là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống.
Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình
trạng an toàn. Nó không cho trái độc, không làm hại nho, không phá cảnh quan.
Nó chỉ phạm một tội thôi: tội làm hại đất, tội sử dụng đất màu mỡ mà không sinh
trái.
Chúng ta có thể cảm thấy an toàn như cây
vả cằn cỗi. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai, nhưng lại quên
rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và
phải làm. Có bao nén bạc Chúa giao không được đầu tư (Mt 25,18), bao người túng
thiếu mà ta không giúp đỡ (Mt 25,42).
Khi không làm điều tốt cho đời, cho
người, ta tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tung hoành.
Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội,
mà còn là tích cực gieo rắc phát huy cái tốt.
Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là
một phản chứng.
Thế giới cần những Kitô hữu dấn thân
biết bao!
Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt
Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: "Đã ba năm nay..."
Ngài đã nuôi bao hy vọng: "Tôi ra tìm trái mà không thấy".
Quyết định chặt cây chỉ đến sau những
lần hụt hẫng.
Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay
động tim ta.
Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn
không kém: "Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa". Ngài không ngừng ấp ủ
chút hy vọng mong manh: "Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có
trái".
Nhưng đừng quên lời đe doạ cuối cùng:
"Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi".
Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng
cương quyết đòi hỏi: đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Đức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau
hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.
Hoán cải là đón lấy những săn sóc tế nhị
của Chúa, là đừng để thui chột những ơn lành Ngài ban.
Mùa Chay không phải chỉ là để thú tội,
mà còn thú cả sự cằn cỗi, ì ạch của mình.
Ước gì cây đời của ta có nhiều trái hơn
và ngọt hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tội thiếu sót việc bổn phận, tội sống vô
trách nhiệm, tội không làm điều lẽ ra phải làm: có khi nào bạn phạm những tội
này không? Bạn có thấy xã hội xấu đi vì nhiều người thản nhiên phạm thứ tội này
không?
Bạn nghĩ gì về cây vả của đời bạn? Tình
trạng này hiện nay của nó ra sao? Làm sao để có thêm nhiều trái ngọt?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của
con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc
rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích
kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành, những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim
con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn
sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng
trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái
tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
4. Cái nhìn nội tâm - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi
mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc
đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời
cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.
Thông thường, trước một biến cố, ta dễ
có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những
người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái.
Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người
ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong
Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau
này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau
này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.
Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có
một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc
bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn
giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám
hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của
linh hồn: "Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi
hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu;
nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy".
Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn
kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu:
"Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?". Gặp người phụ nữ phạm tội
ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là
một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành
cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người
tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự,
điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là
kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn
những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét
đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính
bản thân mình trước khi lên án người khác: "Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt
ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em".
"Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi".
Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo
tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội.
Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình
to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng
đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo
bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà
mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp
phần vào đổi mới thế giới.
Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng
ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu
nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những
lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy,
Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế
bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con.
Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý
Chúa không?
2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó
là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải
đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?
5. Ăn năn sám hối – R. Veritas
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Khi một người có vẻ gian ác gặp tai ương
hoạn nạn, chúng ta vẫn thường đưa ra nhận xét: ác giả ác báo, đúng là hắn bị
trời phạt. Đây là cách suy nghĩ thông thường của người đời. Cách đây đã hơn hai
ngàn năm, những người đồng thời với Chúa Giêsu cũng suy nghĩ cách thường tình
như thế khi họ đến kể cho Người nghe câu chuyện của người Galiê đang dâng lễ
vật thì bị quan Philatô giết chết. Khi kể câu chuyện này, họ ngầm ý nói rằng
những người Galiê đó chắc phải ăn ở thất đức mới bị giết đang khi dâng lễ như
vậy. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu sửa sai cách suy nghĩ thông thường đó và kêu
gọi dân chúng sám hối để thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Khi nghe thuật lại biến cố tàn sát những
người Galiê tại nơi tế đàn, Chúa Giêsu không đồng tình với các suy nghĩ thông
thường của những người kể chuyện. Người đưa ra một cái nhìn mới, trong đó điểm
quan trọng là mỗi người hãy tự xét lấy cách ăn thói ở của mình thay vì xét đoán
cách ăn thói ở và số phận của kẻ khác.
Phê bình, xét đoán người khác là một
việc làm thường gây thích thú cho chúng ta, bởi chúng tạo cho chúng ta cảm giác
mình là người tốt, hoặc ít nữa, cũng không phải là người tồi tệ, đốn mạt. Người
xưa có khuyên kẻ quân tử hãy tự kiểm mỗi ngày ba lần để sửa mình. Trong dụ ngôn
trên đây, Chúa Giêsu cũng không ngừng nhắc nhở dân chúng sám hối. Người đưa ra
hình ảnh cây vả trồng trong vườn nho là hình ảnh rất quen thuộc trong Kinh
Thánh khi nói về người Israel và dân Israel. Cây vả ở đây là một cây vả đã ba
năm rồi mà không hề sinh hoa kết quả. Ba năm Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin
Mừng Nước Thiên Chúa cho dân chúng, thế mà có mấy ai thu lượm được hoa trái.
Đúng ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên những con người ù lì
ương ngạnh kia như lời Gioan Tẩy Giả đã loan báo: "Cái rìu đã đặt sẵn gốc
cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa".
Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha nhân ái và giàu lòng thương xót, Người vẫn độ
lượng và gia hạn cho họ thêm một thời gian để ăn năn hoán cải. Vì yêu thương,
Người đã dằn cơn giận và cho họ thêm một cơ hội nữa: Hãy sám hối khi vẫn còn
thời cơ. Chúng ta thường mải miết lo toan cho cuộc sống vật chất mà lơ là với
cuộc sống tâm linh, đã biết bao năm rồi, chúng ta như cây vả được trồng trong
vườn nho của Thiên Chúa, chúng ta đã mọc lên ra sao, chúng ta xanh tươi cành lá
hay chúng ta quắt queo cằn cỗi, chúng ta đâm bông kết trái hay chẳng có quả
nào, chúng ta có tìm hiểu tại sao mình ở trong tình trạng hiện nay hay không,
chúng ta có kế hoạch cụ thể nào để phát huy những điểm tốt và khắc phục những
điểm xấu của mình hay chưa, ngày hôm nay của chúng ta có khác hơn ngày hôm qua
không, chúng ta có quyết tâm làm cho ngày mai của chúng ta khá hơn ngày hôm nay
hay không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói rằng:
"Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy, Thầy ở lại trong người
ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm gì
được". Xin cho con luôn kết hiệp chặt chẽ với Chúa trong mọi giây phút của
đời mình để cuộc sống của con được sinh nhiều hoa trái tốt lành làm tôn vinh
Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em.
6. Thiên Chúa luôn hiện diện bên con
người.
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio
Veritas Asia)
Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của
Kitô giáo, trong thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là
Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc sống xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong
sa mạc. Các nhân đức thánh thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết
đến, cũng như người ta biết đến cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng
thành Alexandria. Tức giận vì thấy ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa
nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ ông phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn
mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng vị ẩn tu đang sống.
Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn
tiếng giảng: Hãy ăn năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải
thiện nếp sống để có hạnh phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm
nở tối tàn, phù du và mau qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước
theo Chúa để được niềm vui vĩnh cửu.
Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và
nhìn sâu vào đôi mắt của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó
Hôrôniô không ngừng giảng thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với
Thiên Chúa. Những lời ông nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công
chúa quyết tâm hoán cải. Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình
nhân, tình yêu, cả cuộc đời trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm
Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật. Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải,
mà tấm lòng ông bị mê hoặc bởi sắc đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình
kiều diễm khiêu gợi của công chúa. Ông tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối
lạnh lẽo buồn bã này để thử nếm các vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm
tu luyện, ẩn sĩ trở lại kinh thành tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi
hưởng thụ và chết trong cảnh thân tàn ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm
trác táng mệt nhọc đã hoán cải tâm lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay
tịnh cầu nguyện và chết vì hao mòn khổ hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng
duy nhất của nàng.
Hoán cải tâm lòng để gặp gỡ Thiên Chúa,
được hạnh phúc đích thực và được ơn cứu độ. Đó cũng là lời Chúa Giêsu kêu mời
chúng ta trong Chúa nhật hôm nay, là thời gian Giáo Hội khuyến khích chúng ta
tìm thời gian gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm của thánh Luca hôm nay ghi
lại một vài biến cố thời sự Chúa Giêsu dạy các môn đệ và dân chúng biết học hỏi
ý nghĩa các dấu chỉ của một biến cố trong đời, các tai ương như quan Philatô
sát hại người Do Thái và biến cố tháp Siloe sập đè chết nhiều người, vì có các
lý do nội tại và ngoại tại của chúng nó. Có gì lạ khi tháp xây lâu ngày nứt nẻ,
đến nổi không còn đứng vững được nữa sập đè chết người. Có gì lạ khi một chính
quyền đô hộ nghi ngờ mọi cuộc hội họp là mưu toan chống đối phản loạn, và ra
lệnh giết mà không cần biết thực hư ra sao. Tháp sập theo luật vật lý, người ta
hội họp bị sát hại vì đường lối và chính trị của con người tàn ác. Các nạn nhân
là những người chẳng may gặp những hoàn cảnh đó, chớ không phải vì họ bị tháp
đè chết hay bị sát hại, mà có thể giải thích hay kết luận là họ tội lỗi hơn
những người khác nên Chúa phạt. Hay nói cách khác, không phải vì người gian ác
tội lỗi không gặp các tai ương mà có thể kết luận họ là những người thánh
thiện.
Các tai ương, các biến cố khổ đau, tội
lỗi và bất công đó sẽ trở thành dấu chỉ. Đó là sấm sét báo động kêu mời mỗi con
người hoán cải tâm lòng, thay đổi cuộc sống và canh tân phù hợp với cuộc sống
tốt lành thánh thiện hơn, để đừng gây ra chết chóc và khổ đau cho người khác,
để khỏi phải chết đời này và nhất là khỏi phải chết đời sau.
Kêu gọi loài người trở lại sống với
Chúa, bởi vì ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão. Mỗi người sẽ gặp những gì mình
đã gieo vào trong cuộc đời trên trần gian. Chính con người tự phạt mình qua
kiểu cách sống tội lỗi gian tham đó. Vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người,
điều duy nhất Thiên Chúa muốn là họ hoán cải tâm lòng để hình ảnh Ngài trở nên
trong sáng tinh tuyền. Đó là cuộc giải phóng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa không
ngừng tiếp tục trong lịch sử loài người. Cuộc giải phóng con người khỏi kiếp
sống nô lệ tội lỗi, sự dữ và cái chết. Cuộc giải phóng đó là một cuộc giải
phóng cụ thể toàn diện, liên hệ đến mọi bình diện cuộc sống chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hóa và tôn giáo.
Để thực hiện nó, Thiên Chúa luôn luôn
định mức trước và từ đó hiện ra cho con người như được kể trong sách Xuất Hành.
Tường thuật của gặp gỡ giữa Môisê với Thiên Chúa trong sa mạc là một bằng chứng.
Đối với các dân tộc Trung Đông, tên gọi của một người diễn tả bản chất của
người đó. Giavê, tên của Thiên Chúa xuất phát từ động từ Hawah trong tiếng Do
Thái, trong nghĩa thụ động nó diễn tả "sự hiện hữu", nhưng trong
nghĩa chủ động, nó có nghĩa "trở thành, xảy ra, hoạt động dấn thân, can
thiệp vào hay sống với".
Tên gọi mà Thiên Chúa mạc khải cho Môisê
đây, chứa đựng một Tin Mừng vĩ đại. Thiên Chúa là Đấng sống với con người, luôn
luôn hiện diện bên con người, luôn luôn dấn thân hoạt động và ra tay can thiệp
để trợ giúp, giải thoát và cứu vớt con người. Cho dầu có sự việc gì xảy ra đi
nữa, Thiên Chúa là Đấng giải thoát Israel, muốn và sẽ cứu độ loại người.
Tên gọi Thiên Chúa: "Lửa, khói, bão
táp, v.v..." một thứ ngôn ngữ, kiểu cách mà Cựu Tân Ước quen dùng để diễn
tả quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Cũng thế "bàn tay, cánh tay phải,
v.v..." diễn tả sự chở che bênh đỡ của Ngài, đối với những người bé mọn,
yếu đuối.
Đứng trước Giavê Thiên Chúa, Đấng hằng
giải phóng và cứu độ con người, thái độ đúng đắn duy nhất mà tín hữu phải có là
thái độ ký thác trọn vẹn. Mọi nghi ngờ, mọi than trách lẩm bẩm, phản kháng và
chống đối, không diễn tả bươc tiến của niềm tin trong sự quan phòng của Thiên
Chúa. Và thường khi, đó là thái độ của những người không có lòng tin.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô
chương 10, thánh Phaolô nhắn nhủ mọi người đừng lặp lại tội lỗi của cha ông họ
ngày xưa đã từng lẩm bẩm than trách Thiên Chúa, vì không có khả năng nhận ra sự
hiện diện giấu ẩn, nhưng sống động quyền năng và hữu hiệu của Ngài trong cuộc
đời họ và trong lòng lịch sử thế gian.
7. Thay đổi bộ mặt thế giới – Radio
Veritas Asia
(Trích trong 'Suy niệm Lời Chúa')
Đời sống con người là một cuộc chiến đấu
liên lỉ không ngừng. Không tìm đâu ra nơi nào mà không khỏi chiến đấu.
Một phần lớn dân Chúa đã phải bị chết
trong sa mạc và không được vào đất Chúa hứa vì không chiến đấu. Qua tấm gương
đó, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu thành Côrintô: bao nhiêu hồng ân của Thiên
Chúa đừng đổ vào vết xe cũ, đừng tụ phụ mà quên chiến đấu. Vì ai tưởng mình
đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã. Sứ điệp của thánh Phaolô trong đoạn thánh thư
trên đây thật rõ ràng. Các tín hữu Kitô cần phải thận trọng và đừng coi việc
lãnh nhận phép Rửa tội và những việc đạo đức như một bảo hiểm chắc chắn sẽ được
cứu rỗi, để rồi trở nên bất cẩn và quên chiến đấu với những yếu đuối, những cám
dỗ của ma quỉ và những đam mê dục vọng của mình. trong bối cảnh của Mùa Chay,
đoạn thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô cũng là một lời mời gọi các tín hữu
Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh trong tinh thần khiêm tốn, với ý thức mình là
người tội lỗi và luôn tỉnh thức để chiến đấu, bỏ con người cũ để mặc lấy con
người mới của Chúa Kitô Phục sinh.
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã tiến
vào tuần III của Mùa Chay, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời Giáo Hội kêu mời:
Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng.
Là những người tự xưng là tín hữu Kitô,
là những người tin, những người sống niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô,
nhưng thành thật với lòng, chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta vẫn còn
yếu kém, cuộc sống đức tin của chúng ta chưa nở hoa kết quả bằng những việc cụ
thể để nối dài đời sống của Đức Giêsu như Ngài chờ đợi, như hình ảnh cây vả
trong vườn nho được đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế một trong
những phương pháp để củng cố đức tin, một đức tin có việc làm đi kèm là nhìn
ngắm và dõi theo mẫu gương của những kẻ có đức tin vững mạnh.
Bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đọc
nhắc lại mẫu gương đức tin của ông Môisê. Khởi đầu cuộc hành ttrình đức tin của
ngài có thể gom lược vào những diễn tiến sau đây: Trong lúc chăn dê trên núi,
Môisê thấy dấu lạ, ngài đi để nhìn xem việc gì xảy ra, và đang lúc đi xem, ngài
nghe tiếng Thiên Chúa gọi dẫn dắt dân tộc Do Thái qua khỏi cảnh nô lệ lầm than
bên Ai Cập. Thấy bụi gai bốc lửa cháy mà không bị thiêu hủy, đi đến gần để nhìn
cho rõ và nghe tiếng Chúa gọi. Đó là ba bước tiến xem ra đơn sơ nhưng diễn tả
những giai đoạn xác thực của lịch sử ơn gọi của nhiều người có đức tin vững
mạnh.
Những người như ông Môisê trước đó có tổ
phụ Abraham và gần đây có những nhân vật lừng danh như mục sư Martin, như Đức
Gioan XXIII, hay Mẹ Têrêxa Calcutta. Mỗi người trong họ đều khám phá giữa môi
trường họ đang sống, có một cái gì đó lẽ ra không nên xảy ra: một dấu lạ, một
câu hỏi khó giải quyết, một vấn đề nóng bỏng.
Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho
đàn gia súc ngày một sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.
Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc
lột và đàn áp mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất
Ai Cập.
Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với
một giọt nước cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong
trào đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một
phụ nữ da đen bị bắt giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không
đứng dậy để nhường chỗ cho một hành khách da trắng.
Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có
bổn phận dẫn dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và
đàng khác để đáp ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên
tiến của những thập niên của thế kỷ XX.
Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi
đã thấy, Mẹ cảm nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người
nghèo đói, bệnh tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của
thành phố Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt
cuộc đời họ chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia
hy vọng.
Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều
người khác nữa không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng
bỏng. Ngược lại họ đã nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện
pháp để giải quyết.
Như ông Môisê họ đã tự nói với mình:
"Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này" Để rồi sau đó, họ càng xác tín
là những hoàn cảnh thương tâm ấy cần phải thay đổi tận gốc rễ. Trong những
tiếng kêu gào đòi phải có những biện pháp để thay đổi, họ nghe được tiếng nói
của Thiên Chúa. Họ cảm nghiệm được mệnh lệnh không thể cưỡng lại được, một mệnh
lệnh không cho phép họ chạy trốn trách nhiệm. họ cảm thấy như một con đường đã
được vạch ra giữa những hoàn cảnh khó khăn, kêu gọi họ phải theo đó mà hành
động. Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa
sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách
nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong trào giải phóng
người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung Vatican II và
nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những người nghèo.
Lắng tai nghe tiếng gọi vang lên từ
những hoàn cảnh, chạm trán với cuộc sống hằng ngày, những nhân vật trên đây và
nhiều người khác đã cảm thấy họ có trách nhiệm để sửa đổi. Vâng lời, cậy trông
và nhất là đầy lòng tin và can đảm, họ đã lên đường khởi đầu một cuộc hành
trình, một cuộc hành trình không thiếu những khó khăn vất vả, và nguy hiểm.
Nhưng càng tiến bước họ càng nghe rõ tiếng gọi của Chúa. Họ càng khám phá Thiên
Chúa không phải là Đấng ngự trên chín từng trời cao thẳm, nhưng Thiên Chúa là
Đấng luôn quan tâm và thiết tha đến vận mạng của nhân loại và của từng cá nhân.
Thiên Chúa là Đấng tuyên bố với ông
Môisê: "Ta đã thấy dân chịu cơ cực ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu
than bởi kẻ bất công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng". Và Thiên Chúa
là Đấng đã quyết định giáng tai họa xuống trên người Ai Cập để cứu dân Do Thái
và đưa chúng ra khỏi đất ấy, đến miền đất tốt tươi, đất tràn trề sữa và mật
ong.
Ngay trong những hoàn cảnh xã hội chúng
ta đang sống, chúng ta có thể khám phá ra những điều khác lạ với điều bị lửa
cháy mà không thiêu hủy. Những vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết, những
trạng huống kêu gào sự sửa đổi, những hoàn cảnh thương tâm kêu gọi những bàn
tay băng bó những vết thương, những vấn đề khó khăn xảy ra cả trong chính gia
đình hay ngoài thôn xóm.
Để sống niềm tin Kitô của chúng ta, chúng
ta không thể bưng tai giả điếc, ngoảnh mặt làm ngơ. Chúng ta càng không có
quyền chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta hãy noi gương ông Môisê và những người
có đức tin vững mạnh khác để đến gần xem cho rõ và nghe tiếng Chúa kêu gọi, hầu
chung tay sửa đổi, chung sức tìm cách giải quyết những vấn đề nóng bỏng hay tỏ
tình liên đới và rộng tay chia sẻ những gì mình có cho những kẻ không có gì. Và
ít ra là trao tặng cho những người đang gặp những hoàn cảnh thương tâm một câu
nói khích lệ, một nụ cười thông cảm. Đây có thể là tiếng Thiên Chúa gọi chúng
ta. Để đặc biệt làm trong Mùa Chay, chúng ta tham gia vào quá trình thay đổi
mới bộ mặt xã hội chúng ta đang sống. Nhưng thiết nghĩ, trong bầu khí ăn năn
thống hối và trong trung tâm cuộc sống của Mùa Chay, chúng ta không nên quên
câu châm ngôn: "Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu bằng cuộc
sống thay đổi chính mình".
8. Sự kiên nhẫn chờ đợi – Radio Veritas
Asia
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chỉ cho
chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn
cảm thông trước những nỗi khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất
trung, Người luôn mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong
ân sủng và tình thương của Người.
Nơi bài đọc thứ nhất, những lời Chúa nói
cùng Môisê chắc chắn vẫn còn vang dội đến ngày hôm nay: "Ta đã thấy dân Ta
phải khổ cực ở Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Ta đã biết nỗi đau khổ
của chúng và Ta đến cứu chúng". Khoảng 3,000 năm trước, Thiên Chúa đã nói
với Môisê những lời đó, thì ngày nay, chắc chắn cũng chính Thiên Chúa duy nhất
không bao giờ thay đổi đó cũng thấy, cũng nghe, cũng biết những nỗi đau khổ của
con người thời đại. Chúng ta đừng tìm đâu xa, hãy nhìn vào chính bản thân mình,
gia đình mình, xung quanh mình thôi, chúng ta đã nhận thấy biết bao đau khổ.
Khổ vật chất do túng thiếu, bệnh tật, bất công. Khổ tinh thần như buồn phiền,
thương nhớ, sợ sệt, lo âu... Trước tất cả những nỗi thống khổ đó Chúa đã nói:
"Ta đã thấy, đã nghe và đã biết và này Ta đến để cứu chúng".
Trong lịch sử Chúa đã cứu dân Do Thái
thế nào? Người không cứu họ như phù thủy quăng chiếc đũa thần trong nháy mắt
biến buồn ra vui, đổi đau khổ thành hạnh phúc và con người mất cả tính người
trở nên như một cái máy chỉ còn biết bị bắt buộc hướng về một chiều mà thôi.
Không, Chúa đã cứu dân Người bằng một thời gian tôi luyện 40 năm trong sa mạc,
trong cuộc hành trình về đất Hứa, đất tràn trề sửa và mật ong. Và để được cứu
thoát, con người phải trung thành với Chúa, tin tưởng nơi Chúa. Dầu qua gian
nan, qua thử thách, con người phải luôn nhớ như thánh vịnh 102 nhắc là:
"Chúa là Đấng thương xót và nhân ái". Hãy tin tưởng nơi Chúa và rồi
chỉ khi nào nhìn lại, chúng ta mới cảm thấy thấm thía những lời của thánh vịnh
trên. "Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và toàn thể thân tôi hãy chúc tụng
danh Người. Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và đừng bao giờ quên các ân huệ của
Người".
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô áp
dụng vào Tân Ước hình ảnh trong Cựu Ước. Môisê dắt dân Chúa qua biển Đỏ, nuôi
dân chúng bằng Manna trong sa mạc, giải khát dân chúng bằng nước từ tảng đá
chảy ra. Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dắt chúng ta vào đời
sống mới qua bí tích Thánh Tẩy, nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn cực thánh là Bí
Tích Thánh Thể và uống nước từ tảng đá mà thánh Phaolô nói rõ, tảng đá ấy chính
là Chúa Kitô. Và thánh nhân cũng nhắc nhở rằng cuộc thanh tẩy 40 năm ở Cựu Ước
đã được ghi chép để răn bảo chúng ta, là những người đang sống trong thời đại
cuối cùng đã được thanh tẩy tôi luyện, thì những ai bất xứng, những ai cố chấp
chắc chắn là tự mình tạo lấy sự hủy diệt cho mình. Và chỉ những ai trung thành
sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa mới được vào đất Hứa. Vì thế, kết luận
bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở phải bền đổ đến cùng. Ngài nói rõ:
"Ai tưởng mình đang đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã".
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng cho
chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thương xót và nhân ái. Trước tiên, Người dạy
chúng ta đừng kết án ai, cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao
nhiêu người khi thấy một điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người
mình yêu mến thì hay phàn nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho
tôi phải chịu như thế này? Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người
mà họ không ưa thì câu nói ở cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa
công bình vô cùng. Con người hay gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng
họ. Thiên Chúa công bình vô cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian,
Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi
những hoa quả tốt tươi trong đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và
mong cho cuộc đời chúng ta đơm hoa kết trái.
Nghe qua dụ ngôn trong Phúc Âm về sự
kiên nhẫn chờ đợi, mong mỏi những gì tốt đẹp xứng với sự chăm nom của chủ vườn,
chúng ta hãy thấy được tình yêu thương, lòng nhân từ, sự kiên nhẫn của Thiên
Chúa đối với con người và cố gắng trở về cùng Chúa nhất là trong Mùa Chay này.
Vì "đây là lúc thuận tiện, đây là thời cứu độ".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này,
tôi hãy đặt câu hỏi: Phải bắt đầu từ đâu để cải tạo thế giới? Và tôi sẽ nghe
được tiếng trả lời: Hãy bắt đầu từ chính bản thân tôi. Cải tạo thế giới, công
việc quá to lớn vĩ đại, nhưng mỗi người hãy bắt đầu từ bản thân mình và rồi thế
giới sẽ tươi đẹp. Vậy tôi hãy cố gắng sửa chữa một nết xấu tôi biết là quan
trọng của tôi trong Mùa Chay này và ngay ngày hôm nay. Xin Chúa nhận lấy lòng
thành của tôi và giúp đỡ tôi.
9. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc
(Trích trong 'Như Thầy Đã Yêu')
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như
sau: Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán
đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn
tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu
tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng
thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả
hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông
tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên
dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài
ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ
cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai tăng lên hai
ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba
ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài
người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì
đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm
vào đấy!
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ
và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người
Do Thái thời đó; Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát
mấy người Galilê và việc tháp Siluê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái
cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên
Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng
mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ
thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ.
Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán
xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh
hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được
Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa
Giêsu là người làm vườn, và dân Itraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã
tuyển chọn dân Itraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng
họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và
phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của
Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với
các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp,
không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó
đã được chứng thực vào năm 70 sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn
phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta
trong kế hoạch nhiệm mầu của người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc
biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta
chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt
trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ
diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Giêsu, để chúng ta tấu
lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa
trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm nhận tri ân Chúa Giêsu
đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy đế sinh nhiều
hoa trái trong mùa Chay thánh.
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là
một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ
hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng
bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để
nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ
chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen.
10. Suy niệm của Radio Veritas Asia
ĐẤNG TỪ BI VÀ HAY THƯƠNG XÓT CHẬM BẤT
BÌNH VÀ HẾT SỨC KHOAN NHÂN
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Trong cùng một thời gian, dân chúng tại
Phi Luật Tân đã xúc động mãnh liệt vì hai vụ án:
- Vụ án thứ nhất diễn ra tại Phi Luật
Tân. Một tòa án địa phương gần Manila đã tuyên án phạt bảy lần chung thân một
viên thị trưởng và sáu đồng bọn vì tội hãm hiếp và giết người. Đa số người dân
Phi đều biểu lộ sự hài lòng vì công lý đã được thực thi. Một số người khác thì
lại tỏ ra bất mãn vì cho rằng hình phạt tương xứng với tội nhân này lẽ ra là
phải tử hình.
- Vụ án thứ hai diễn ra tại Singapore.
Một phụ nữ Phi Luật Tân vốn làm nghề "giúp việc nhà" tại Singapore đã
bị toà án tại nước này xử tử hình vì tội giết người. Tối thứ Năm, tại Manila
cũng như nhiều nơi khác tại Phi Luật Tân, nhiều tín hữu công giáo Phi đã canh
thức suốt đêm để cầu nguyện cho việc thực hiện bản án được hoãn lại. Và vụ án
cần phải được xét lại bởi vì theo nhiều người Phi, người phụ nữ này vô tội. Tuy
nhiên, mặc cho phản đối của người dân Phi, và mặc cho lời cầu cứu của Tổng
Thống Phi Luật Tân, sáng thứ Sáu, chính phủ Singapore đã ra lệnh treo cổ người
phụ nữ Phi theo đúng qui định của hình luật nước này.
Phản ứng của người dân Phi Luật Tân qua
hai vụ án trên đây xem ra cũng là phản ứng thông thường của con người. Dù bất
cứ nơi nào và thời đại nào, có tội thì phải bị trừng trị và kẻ vô tội thì phải
được giải oan. Thời Chúa Giêsu xem ra người Do Thái cũng có một quan niệm tương
tự. Cho dẫu được lồng vào trong cái nhìn tôn giáo, khi tổng trấn Philatô ra
lệnh hành quyết một số người Galilê nổi loạn, thì nhiều người Do Thái cho rằng
những người này lãnh một hình phạt tương xứng với tội lỗi của họ. Họ là những
con người có tội cho nên cần phải bị trừng trị. Số phận của 18 người bị tháp
Silôê đổ xuống đè chết cũng được nhiều phán quyết tương tự: họ bị Chúa trừng
phạt vì họ là người tội lỗi.
Cùng với tự do hạnh phúc và những giá
trị cơ bản khác, công lý là điều mà con người không ngừng khao khát và tìm
kiếm. Tuy nhiên cái khái niệm công lý nơi con người thì hạn hẹp và sự thực thi
công lý lại càng bất toàn hơn. Trong những chế độ độc tài, có biết bao nhiêu
người bị giam giữ vì bất đồng chính kiến, có biết bao nhiêu người chết rũ tù mà
không hề được xét xử. Còn nay trong những chế độ thật sự có tự do, vẫn có biết
bao nhiêu người bị hàm oan, còn bao nhiêu kẻ gian ác thì vẫn không hề sa lưới
pháp luật. Nơi đây, người ta đòi lập bản án tử hình. Nơi kia người ta tranh đấu
để bãi bỏ. Quả thật trên trần gian này khát vọng về công lý của con người không
bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Chính vì thế mà khi nhận định về số phận của
những người bị Philatô sát hại, cũng như những nạn nhân của vụ tháp Silôê đổ
xuống đè chết, Chúa Giêsu đã mời những người Do Thái của thời đại này hãy vượt
qua cái quan niệm thông thường về công lý của con người: "mắt đền mắt,
răng đền răng", "có vay có trả", "tôi cho bạn là để bạn cho
tôi lại". Đó là cái quan niệm thông thường của con người về công lý. Tuy
nhiên, khi đưa ra thí dụ về cây vả, Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong một
cái nhìn mới. Đó là cái nhìn của kiên nhẫn, của khoan dung và tha thứ. Đó là
cách thế Thiên Chúa đối xử với con người. Theo công lý của loài người, thì cây
vả không sinh trái phải bị chặt quăng đi tức khắc. Thế nhưng, cái nhìn của
Thiên Chúa là cái nhìn của "Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và
hết sức khoan nhân" như chúng ta vừa đọc trong bài đáp ca.
"Hãy sám hối và tin vào Tin
Mừng", lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu luôn gắn liền với Tin Mừng của
tình yêu, của sự tha thứ, của lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa. Sám hối
không chỉ là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, mà thiết yếu là tin
vào tình yêu của Thiên Chúa. Nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và tin
vào tình yêu của Thiên Chúa, đây cũng chính là chìa khóa của sự hài hòa trong
cuộc sống xã hội.
Sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và
giết người, ông vẫn ung dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên
tri Nathan được Chúa sai đến gặp ông và kể về chuyện bất công của một người
hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy
giờ Nathan mới nói: "Con người bất nhân đó chính là ông". Lúc bấy giờ
Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình.
Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người
khác, đó là mầm móng của thái độ bất khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta
sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải
tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ
của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện chính sự tha thứ và khoan dung với
tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc đó sẽ không còn là "mắt đền
mắt, răng đền răng" nữa, mà sẽ là thông cảm tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ
không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay có trả, mà cần phải được xây
dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.
Thánh lễ chính là sự thể hiện của ơn tha
thứ của Chúa. Chúng ta đến đây để đón nhận ơn tha thứ một cách nhưng không,
chúng ta cũng được mời gọi để thể hiện sự tha thứ một cách nhưng không. Chỉ có
điều kiện đó, chúng ta mới xứng đáng cầu nguyện: "Xin Cha tha nợ chúng con
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" trước khi chúng ta rước Mình và
Máu Chúa Kitô.
11. Sám hối để tự cứu mình – Lm Ignatio
Trần Ngà
Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn
nho, được chăm sóc chu đáo mà không mang lại hoa trái, khiến người chủ vườn
thất vọng và muốn chặt bỏ đi, vẫn được tái diễn hằng ngày, như trường hợp điển
hình sau đây:
Một sinh viên được cha mẹ cho đi học ở
thành phố. Cha mẹ ở miền quê một nắng hai sương, cực nhọc đêm ngày, cắm đầu cắm
cổ làm việc hùng hục như trâu, cần cù như kiến, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư tất
cả cho con học hành với hy vọng con trai mình có ngày đổ đạt kỹ sư, có công ăn
việc làm, có đồng lương cao để báo đáp công ơn cha mẹ.
Nào ngờ, đứa con không dùng tiền cha mẹ
đầu tư cho mình để học hành cho thành đạt, lại đổ tiền vào việc ăn chơi đàng
điếm, rồi dần hồi trở thành người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, và trở nên một tên
côn đồ.
Bao nhiêu đồng tiền xương máu cha mẹ dồn
cho anh ta như muối bỏ biển. Đã mất tiền, lại mất con, cha mẹ vô cùng thất vọng
và đau khổ vì con.
Đây cũng là một thứ cây vả không sinh
trái khiến người chủ vườn thất vọng nên muốn chặt bỏ đi.
Như người cha người mẹ tốt lành, Thiên
Chúa cũng đầu tư cho chúng ta rất nhiều, chăm sóc chúng ta rất chu đáo. Ngài
đem trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh của Ngài. Ngài đã dùng lời Ngài để
uốn nắn chúng ta, dùng lời dạy của Hội Thánh để hướng dẫn chúng ta, dùng máu
Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi chết, dùng Mình Thánh Ngài
để thông ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nói tóm lại, chẳng có gì Ngài có thể
làm mà lại không làm để nâng đỡ cứu vớt chúng ta, để giúp chúng ta nên người
hoàn thiện. Thế nhưng thay vì sử dụng ân huệ của Ngài để cải thiện đời sống và
nâng cao phẩm chất cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa, chúng ta đã sử dụng
ân huệ dồi dào Chúa ban để làm điều bất xứng, làm suy giảm nhân cách, làm ô
danh Chúa, làm đau lòng cho Ngài.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động như
thế mà không sửa mình, thì như lời Chúa Giê-su cảnh báo hôm nay, số phận của
chúng ta sẽ y như số phận của cây vả đã được chăm bón đầy đủ nhưng không sinh
trái, là bị chặt bỏ đi, bị huỷ diệt đời đời trong đau khổ như các nạn nhân được
đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời
đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.
Tội lỗi là khối u ác tính; sám hối là
cắt bỏ khối u để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân phải chết:
"nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt"
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu
đi trật đường rầy; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết:
"nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt".
Con người vướng mắc tội lỗi cũng y như
ngôi nhà bị bén lửa, lửa sẽ lan nhanh và thiêu rụi ngôi nhà; sám hối là dập tắt
ngọn lửa kịp thời để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi cháy. "Nếu các ngươi không
ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt".
Lạy Chúa Giê-su, Chúa như người làm vườn
nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để
chăm sóc cho chúng con, hầu mong chúng con sinh hoa trái tốt;
Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất
vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ
còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất
cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và
chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
12. Hãy sinh hoa kết trái – Lm Jos. Tạ
Duy Tuyền.
Có ai đó đã nói rằng: "lầm lỗi là
của con người, tha thứ là của Thiên Chúa". Có lẽ đúng. Vì nhân vô thập
toàn. Vì con người bị giới hạn bởi tri thức, bởi văn hoá, bởi sự giáo dục...
Tất cả những điều đó làm cho con người không sao tránh khỏi những lầm lỗi và
thiếu sót. Nhìn vào những gì đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, cho chúng
ta thấy: có những người vì sự hiểu biết nông cạn, cộng thêm sự kiêu căng ngạo
mạn nên hành động thiếu chín chắn và hồ đồ gây nên biết bao đau khổ cho anh em.
Nhất là những người lãnh đạo nếu không khiêm tốn nhìn nhận sự khiếm khuyết của
mình sẽ là mối hiểm họa cho tập thể mình đang sống. Có những người bởi thiếu
văn hoá nên nói năng bừa bãi, thiếu lễ độ và bất lịch sự khiến người nghe cảm
thấy bị xúc phạm. Có những người vì môi trường giáo dục thiếu lành mạnh nên
sống buông thả và lười biếng gây nên biết bao tệ nạn xấu cho xã hội. Đáng tiếc
thay nhiều người đã hành động đến mất ý thức về chân thiện mỹ. Họ đã tiếp tay
với ma qủy để gieo sự dữ vào thế gian. Họ là người nhưng lại hành động thiếu lý
trí, thiếu tự chủ của ý chí. Cuộc sống sai lệch của họ đã gây nên biết boa hệ
lụy đắng cay cho bản thân và gia đình. Dầu vậy, tình yêu của Thiên Chúa còn lớn
hơn tội lỗi con người. Chúa đã không đối xử với chúng ta theo như chúng ta đáng
tội, nhưng Ngài luôn lấy lòng từ bi để yêu thương và tha thứ cho những lầm lỗi
của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy
sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật
lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về
tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: "Hãy sinh hoa kết
trái xứng với lòng ăn năn thống hối". Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa
trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái
của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó.
Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch,
đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi
nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn
chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công
bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống
yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy
luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự hủy diệt mình. Cây có
sinh trái. Trái mới cho hạt. Hạt mới nẩy sinh cây để đơm hoa kết trái. Quy luật
tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm
vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người
chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng,
biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi
thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho
đời những phiền lụy đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu
thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng
không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương
đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì
người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha
nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho
tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, hãy biết cho đi để được nhận
lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: "Điều gì anh em muốn
người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy".
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao
giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu.
Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều những nghĩa cử yêu thương. Khi
gieo yêu thương thì hận thù tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ
đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại
hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống
yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại.
Biết chết đi những đam mê ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và
hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.
13. Kiên nhẫn của tình yêu - Achille
Degeest
Người ta nghĩ rằng những người Galilê
nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là những nạn nhân bị đàn áp trong một cuộc
nổi dậy chống quân La mã, có lẽ xảy ra trong khuôn viên Đền Thờ Giêrusalem. Người
ta cho rằng tháp Silôam ở gần giếng Silôam phía đông nam thành. Nhân hai vụ bi
thảm này, Chúa Giêsu đánh đổ một thành kiến và Người đưa cuộc tranh luận lên
một tầm cao hơn. Não trạng Do Thái thời đó coi bất đắc kỳ tử là hình phạt
Thượng đế áp dụng cho kẻ tội lỗi. Nhân hai vị chết người tập thể này. Chúa phán
rằng những hình phạt thật sự về sự dữ nằm ở chỗ khác. Trước hết, dường như cách
kín đáo Chúa nói, nếu dân thành Giêrusalem không trở lại với Thiên Chúa bằng
niềm tin hôm nay vào Đấng Messia, toàn thành sẽ bị tiêu diệt. Phải chăng Chúa
ám chỉ cuộc tàn phá thủ đô sẽ xảy ra năm 70? Tiếp đó, Chúa đặt cuộc tranh luận
vào bối cảnh toàn bộ giảng thuyết của Người: Nếu không ăn năn trở lại, dân
chúng sẽ bị Thiên Chúa xét phạt nghiêm khắc. Dụ ngôn cây vả cho chúng ta hiểu
Thiên Chúa vừa kiên nhẫn, vừa quyết thi hành công lý của Người.
Chúng ta tự đặt hai câu hỏi:
1) Sự trở lại là gì?
Trở lại là thay đổi nội tâm, thay vì
hướng về bản thân, con người hướng về Thiên Chúa. Khởi đầu, người ta nhận mình
là kẻ tội lỗi, cách khiêm nhượng người ta ý thức về sự xa cách một trời một vực
giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và nỗi khổ cực trong tâm hồn mình. Mình có
một trách nhiệm nào đó về khổ cực bên trong ấy. Vì thế người ta hối hận về tội
mình, người ta trở lại với Thiên Chúa, vì Người luôn luôn tiếp đón những kẻ
khiêm nhường sám hối. Sự trở lại không chỉ một lần là xong, trái lại mỗi ngày
phải thực hiện một sự trở lại mới.
2) Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là gì?
Đó là sự kiên nhẫn của tình yêu, trước
hết là của tình yêu giáo hoá. Thiên Chúa không đòi hỏi con người nhất đán trở
nên hoàn toàn thánh thiện. Thiên Chúa cho con người có đủ thời gian làm công
việc cải thiện tâm hồn. Nhưng con người phải sử dụng tốt thời gian ân huệ ấy,
đúng ra nó ngắn ngủi lắm. Mỗi ngày trong đời sống của một Kitô hữu đều mang đến
một ân sủng để giúp tiến bộ trong niềm trung tín với Thiên Chúa. Mỗi ngày người
tín hữu phải tự chất vấn: Kinh nguyện của tôi, sự thờ phụng của tôi, cung cách
tôi phục vụ tha nhân có đủ tốt để đẹp lòng Thiên Chúa không? Như một nhà giáo
dục kiên nhẫn, Thiên Chúa giúp đỡ người tín hữu tìm được câu trả lời bằng cách
Người can thiệp ban cho những ân sủng bên trong, bằng những giáo huấn của Giáo
Hội, bằng những biến cố, v.v... Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng là niềm thương
yêu kiên nhẫn nhưng đòi hỏi gắt gao. Thiên Chúa thông cảm vô cùng đối với những
ai thành tâm thiện chí, nhưng chung cục Người sẽ tỏ ra nghiêm khắc đối với
những kẻ ngoan cố thờ ơ.
14. Mùa chay, mùa đổi mới.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng
đời đi qua của mình như sau:
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu
óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa,
xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy
rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc
đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến
cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con.
Và như vậy là đủ cho con rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long,
ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ
dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban
cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ
lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ... Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì
cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần
mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi.
Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng
bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công
khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện... Và lời kêu gọi đầu
tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta:
"Hãy ám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân
của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn
Philatô".
Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan
niệm "ác giả ác báo" theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân.
Lời Chúa hôm nay dạy ta không được suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền
xét đoán tha nhân, phần vì thường chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện
nên dễ sai lầm.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới.
Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ
hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. "Đừng để đến ngày mai việc gì
bạn có thể làm được hôm nay".
Tục ngữ Pháp có câu: "Nếu trẻ mà
hiểu ra, nếu già mà làm được" (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già
muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu:
"Lão lai tài tận" (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi
vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi.
Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là
quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp nữa. Hằng ngày, báo
chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn
chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể
đến nạn khủng bố đe doạ biết bao người trên thế giới...
Tại sao những người kia gặp nạn, chứ
chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng
mình sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn
những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con
người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình... nhất là nỗi
sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được
sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy
sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp
bách.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi,
đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào,
giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ
cuối, phút cuối... trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức
tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật,
cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.
Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người
tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc
bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến
mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh
Phaolô hôm nay đã nói: "Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo
ngã". Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.
Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối
trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta
đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta
sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho
nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn
chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải
tội xưng thú tội lỗi mình... nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi
dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa
kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức... nếu không, chúng ta
cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể "năm tới sẽ bị chặt đi".
"Đổi mới hay là chết". Có một
thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm
nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp
chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng
ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh
lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn
kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.
15. Trừ phi các ngươi hối cải – McCarthy
(Trích trong 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ
Trọng')
Suy Niệm 1. MỘT CƠ HỘI THỨ HAI
Người Pharisêu không có thì giờ dành cho
người tội lỗi. Họ tin rằng những người đó chỉ là đồ bỏ đi. Đức Giêsu không đồng
ý, và kể lại cho họ nghe một câu chuyện:
Vườn nho là một nơi rất đặc biệt, thường
chỉ dành ra để trồng nho mà thôi. Tuy nhiên, trong dụ ngôn của mình, Đức Giêsu
lại nói về một cây vả được trồng trong một vườn nho. Vào thời kỳ đó, điều này
không phải là bất thường. Đất đai quá khan hiếm, đến nỗi người ta phải trồng
cây ở bất cứ chỗ nào có thể được. Vậy chúng ta đang có một cây được trồng ở một
nơi rất đặc biệt.
Thông thường, một cây vả phải mất ba năm
mới trưởng thành. Nếu đến lúc đó, mà nó vẫn không trổ sinh hoa quả, thì chắc
chắn nó sẽ không thể nào đơm hoa kết trái được. Đây là trường hợp thân cây mà
Đức Giêsu đang nói đến. Sau ba năm, người chủ vườn đến xem, và nhận thấy thân
cây này vẫn cứ cằn cỗi. Ông ta đã kết luận rằng đó là một thân cây vô dụng. Nó
đã rút chất bổ dưỡng từ lòng đất, mà không hề trả lại gì cả, phải chặt nó đi
thôi, vì nó chiếm mất khoảng không gian có giá trị. Thế là ông bảo người làm
vườn chặt bỏ thân cây này.
Nhưng vốn là một người có nhiều hiểu
biết về cây vả, và là một người rất kiên nhẫn, nên người làm vườn đã đáp lại:
"Thưa ông xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón
phân cho nó. May ra sang năm, nó có trái, nếu không, thì chúng ta sẽ chặt nó
đi".
Người chủ vườn đồng ý. Chúng ta không
được nghe kể thêm điều gì sẽ xảy ra cho cây vả đó, nhưng không thành vấn đề.
Đức Giêsu đã cho thấy quan điểm của Người: Tương tự như người làm vườn kiên
nhẫn với cây vả, cũng vậy, Thiên Chúa rất kiên nhẫn với các tội nhân.
Bài Tin Mừng này gợi lên bài Tin Mừng về
cơ hội thứ hai. Thiên Chúa rất kiên nhẫn. Lịch sử Giáo Hội đầy rẫy các ví dụ về
những cây vả cằn cỗi, nhưng cuối cùng cũng đã trổ sinh hoa quả; nói cách khác,
đó là các tội nhân đã hối cải và nên thánh.
Môsê, nhân vật trung tâm của Bài đọc 1,
là một gương mẫu tốt đẹp. Khi còn trẻ, ông đã giết chết một người khác. Tuy
nhiên Thiên Chúa không hề loại bỏ ông. Thật vậy, ông có tính tình nóng nảy.
Nhưng nơi ông vẫn có điểm tốt. Ông là một ngài hiếm có –loại người không thể
chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy xảy ra điều bất công hoặc tội ác. Chính nhờ
tính cách này, mà Thiên Chúa đã chọn ông trong việc dẫn dắt dân của Người từ
tình trạng nô lệ đến với tự do.
Người ta có thể cho rằng Einstein là
người có trí tuệ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Tuy nhiên, đến năm lên 2 tuổi, ông vẫn
chưa biết nói. Cha mẹ của ông rất lo lắng cho ông, đến nỗi họ đã đưa ông đi
khám bác sĩ. Sau này, một trong những giáo viên của ông rất thất vọng về ông,
đến nỗi đã nói rằng "Anh sẽ không bao giờ đáng giá một chút gì cả",
bởi vì chưa hề có dấu hiệu nào về sự vĩ đại của ông trong tương lai. Nhưng cha
mẹ và thầy giáo của ông đã phán đoán về ông quá sớm. Một số người phát triển
một cách từ từ và chậm trễ, nhưng điều đó lại càng tốt hơn.
Nhưng loại người này cần có một người
nào đó tin tưởng nơi họ, một người nào đó kiên nhẫn đối với họ, nếu không,
nhiều tài năng sẽ bị mai một dần. Chúng ta có khuynh hướng hay khắt khe với
người khác, cho đến khi chính bản thân chúng ta cần có một cơ hội thứ hai.
Chúng ta phải cởi mở tâm hồn với người khác, bằng tấm lòng nhẫn nại và khoan
dung, mà chúng ta mong muốn cho bản thân mình.
Nhưng dụ ngôn này cũng cho thấy rõ ràng
đây như một cơ hội cuối cùng. Nếu người ta khước từ hết cơ hội này đến cơ hội
khác, thì khi ngày cuối cùng đến, không phải là Thiên Chúa không cho họ vào,
nhưng là họ cố tình chọn loại trừ bản thân. Nhưng ai trong chúng ta muốn cho
mình trở nên cằn cỗi, trong khi chúng ta có thể trổ sinh hoa quả?
Suy Niệm 2. LỜI KÊU GỌI THỐNG HỐI.
Cây vả trong câu chuyện của Đức Giêsu là
một thân cây rất đặc biệt, bởi vì nó được trồng trong một vùng đất đặc biệt
-vườn nho. Mặc dù được như vậy, nhưng thân cây này lại cằn cỗi. Tuy nhiên, nó
vẫn được tạo cho một cơ hội khác. Cây vả tượng trưng cho dân Israel được trồng
trong vườn nho của Chúa. Tình trạng cằn cỗi của nó tượng trưng cho tình trạng
cằn cỗi của dân Israel trước mặt Thiên Chúa.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng
lời kêu gọi thống hối: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến".
Ngày nay, thông qua tiếng nói của Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một
lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Đức Giêsu
nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho những người tội lỗi, nhưng là cho những
người tốt lành. Thật vậy, Người nói với tất cả mọi người, không có ngoại lệ.
Nhưng bạn có thể hỏi rằng: Điều này có thể diễn ra như thế nào –người tốt lành
cần phải thống hối sao?
Trong trường hợp những người tốt lành,
đối với họ, sự sa ngã hệ tại ở việc tốt lành mà họ đã không thực hiện. Đây là
sự công kích chính yếu của dụ ngôn nói về cây vả cằn cỗi. Cây vả này bị coi như
không đạt yêu cầu, không phải vì nó tạo ra những quả vả có chất độc, nhưng bởi
vì nó không hề trổ sinh bất cứ hoa quả nào. Nếu nó không sinh quả, thì cây vả
đó còn để làm gì?
Hiếm khi người Kitô hữu tự hỏi mình câu
hỏi: Tôi đã thiếu sót không làm gì? Lời kêu gọi thống hối không chỉ là lời kêu
gọi tránh xa sự dữ, mà còn là lời kêu gọi "trổ sinh hoa quả" của lối
sống tốt đẹp. Đó là nguyên nhân tại sao lời kêu gọi này phù hợp cho tất cả mọi
người.
Lời kêu gọi thống hối của Đức Giêsu làm
cho chúng ta bối rối, mà chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn
cho cuộc sống của mình được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích
kỷ. Có thể chúng ta không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có
thể rất ích kỷ, rất hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại
không muốn hay biết, ít nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này
của chúng ta. Chúng ta được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết
quan tâm đến kẻ khác, và tập trung vào Thiên Chúa.
Chắc hẳn là hầu hết chúng ta đều không
có bất cứ giây phút chuyển biến vĩ đại nào, giống như Môsê đã có. Hôm trước,
ông mời đi chăn giữ đàn cừu của ông, ngày hôm sau, ông lại dẫn dắt một dân tộc
bị áp bức đi tới tự do. Nhưng sự biến đổi là một điều thú vị. Đây là một tin
vui, là một lời kêu gọi thoát khỏi tình trạng nô lệ của thói ích kỷ và tội lỗi,
để đến với cuộc sống của tự do và ân sủng. Đây còn là một lời kêu gọi thoát
khỏi cuộc sống cằn cỗi để đến với một cuộc sống mang lại kết quả. Đây chính là
lời kêu gọi đi vào trong niềm vui của Nước Trời. Tuy nhiên, đây không phải là
điều gì đó mà chúng ta có thể đạt được một lần cho tất cả, nhưng lôi kéo theo
cả một quá trình lớn lên và phát triển. Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình
liên tục hoán cải.
Dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng một lời
cảnh báo và đe doạ. Mục đích của dụ ngôn này là để chỉ ra cho chúng ta rằng có
thể chúng ta đang bỏ lỡ, hoặc thiếu sót, hầu cho chúng ta có được một cuộc sống
sâu xa, phong phú và chính đáng hơn. Chúng ta hãy để cho những kẻ suy nghĩ rằng
họ đang an toàn, biết sống có ý thức, để khỏi bị sa ngã. Không ai bị sa ngã
nhiều cho bằng người cho rằng mình không thể được cứu độ.
NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN KHÁC.
1. Điều mà chúng ta nhận thấy được trong
sự kiện bụi gai đang bốc cháy, đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với dân
Người.
Thiên Chúa đã nghe được tiếng kêu cứu
của dân Người đang bị nô lệ, và Người đã sai Môsê đi giải phóng cho họ. Ngọn
lửa là biểu tượng của tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa không hề bị suy giảm
khi cho đi.
Điều gì nơi Môsê làm cho Thiên Chúa nhận
thấy rằng ông đúng là người để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến
với sự tự do? Kinh Thánh không nói nhiều với chúng ta về tính cách của người
thanh niên Môsê. Kinh Thánh không nói rằng ông là người tốt lành hoặc sốt sắng.
Nhưng Kinh Thánh kể lại cho chúng ta về ba giai đoạn trong cuộc đời của ông,
trước khi có sự mặc khải trong bụi gai đang bốc cháy. Khi nhìn thấy một người
Ai Cập đang tấn công một người Israel, ông đã can ngăn. Ông nhìn thấy những
người chăn cứu dân Midianite ngăn cản các cô con gái của Jethro không được cho
đàn gia súc uống nước, đã can thiệp.
Tất cả những sự kiện này đưa dẫn chúng
ta đến cùng một kết luận. Chúng chỉ ra cho chúng ta rằng ông là loại người
không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy một điều bất công hoặc tội ác đang
xảy ra. Vậy chúng ta có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn ông, để dẫn
dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.
Nhưng cảm nghiệm riêng tư về Thiên Chúa
có thể làm cho người ta ích kỷ. Nhưng đây không phải là trường hợp của Môsê.
Cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa càng lôi kéo ông vào sứ vụ giải thoát dân tộc
của ông.
2. "Vùng đất mà ngươi đang đứng là
vùng đất thánh".
Tất cả trái đất mà Thiên Chúa ban cho
chúng ta đều là vùng đất thánh thiện, và xứng đáng được đối xử bằng sự kính
trọng. Nhưng vùng đất thánh thiện nhất vượt lên trên tất cả thì lại ở trong tâm
hồn chúng ta.
Trước hết, cơ thể con người mang tính
cách thánh thiện. Cơ thể chúng ta là công trình của Thiên Chúa. Điều đó đủ lý
do để kính trọng và săn sóc cơ thể. Nhưng Thánh Phaolô đưa ra cho chúng ta một
lý do sâu xa hơn, để kính trọng cơ thể. Ngài nói: "Thân thể anh em là Đền
Thờ của Chúa Thánh Thần".
Tâm trí con người là thánh thiện. Nhiều
người mỗi ngày đầu lấp đầy tâm trí họ bằng đủ mọi thứ rác rưởi từ T.V. radio, báo
chí v.v... Theo lời của Thoreau "Người ta sẵn sàng chất chứa tâm trí mình
bằng những thứ rác rưởi –họ cho phép những tin đồn vô căn cứ và những sự kiện
tạp nham xâm nhập vào tâm trí mình, mà đáng lẽ nên dành để cho những suy nghĩ
thánh thiện. Liệu tâm trí con người sẽ là một phạm vi công cộng, hoặc tự thân
nó sẽ là một nơi thuộc về thiên đường?". Chúng ta nên phấn đấu đi theo lời
khuyên của Thánh Phaolô: "Những gì là chân thật, cao quý, những gì là
chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt,
những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý" (Plm 4,8).
Nhưng nơi thánh thiện nhất chính là tâm
hồn con người. Trong thời đại của chúng ta, người ta bận tâm quá nhiều với vẻ
sạch sẽ bề ngoài, và có nguy cơ coi thường sự thanh sạch bên trong, hoặc là sự
thanh sạch của tâm hồn. Chính từ trong tâm hồn, mà tất cả những suy nghĩ, lời
nói và hành động của chúng ta tuôn chảy, tựa như dòng nước đổ ra từ một con
suối. Nếu con suối đó sạch sẽ, thì tất cả dòng nước chảy từ đó ra sẽ trong
sạch. Như vậy, chúng ta phải cố gắng giữ sao cho tâm hồn mình luôn được thanh
sạch và tinh tuyền. Đặc biệt là chúng ta sẽ được nhìn thấy và gặp gỡ Thiên Chúa
ngay tại nơi thánh thiện này. Theo lời của Đức Giêsu: "Phúc cho những kẻ
có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa".
16. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn
(Trích trong 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Đang khi Chúa Giêsu khuyên giục các
thính giả ăn năn, thì có người thuật với Chúa Giêsu chuyện rùng rợn về vụ
Philatô giết hại những người Galilê. Chắc người ta tưởng Chúa sẽ đồng tình để
tuyên bố rằng số phận của những người bị tàn sát ấy là đúng lắm, và ngài cũng
rơi vào lối nguỵ biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã
phạm tội năng. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng người ta tạm thời chưa bị đau đớn
là dấu hiệu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những kẻ không ăn năn chắc
chắn sẽ phải chịu đau đớn và xứng đáng với sự đau đớn ấy. Nếu sự phán xét chưa
đến thì sự trì hoãn ấy là cơ hội ân điển cho người ta ăn năn.
Chúa Giêsu nhấn mạnh chân lý ấy bằng
cách nói thêm một tai hoạ về mười tám người bị tháp đổ đè chết, không nên xem
số phận của họ như là dấu hiệu họ đã phạm trọng tội, mà như là lời cảnh cáo kẻ
khác nếu không ăn năn thì cũng phải chịu một số phận như vậy. Trong trí Chúa
Giêsu hiện ra hình ảnh của nước Israel, Ngài lại nhấn mạnh lời kêu gọi ăn năn
bằng hình ảnh cây vả không sinh trái. Đó là biểu hiệu thật của quốc gia này và
cũng tượng trưng cho mọi linh hồn không ăn năn. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết
hơn. Ở đây chúng ta được nghe nói đến hai tai hoạ mà chúng ta chưa có thông tin
nên chỉ có thể phỏng đoán thôi. Trước hết là những người Galilê bị Philatô giết
đang lúc dâng lễ tế. Như chúng ta đã biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những
cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động, lúc đó Philatô đang
ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng
Giêrusalem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây
cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của
Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và sự chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng
chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí
chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà
trộn với họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu,
chúng xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng bọn lính
đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường
dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn
này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ
lộn xộn kể trên mà mối thù đó đã bắt Chúa Giêsu. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi
Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).
Còn về phần mười tám người bị tháp Silôê
đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Có bản văn dịch họ
là tội nhân, nhưng dịch họ là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút
tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Philatô,
một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là tiền của
Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài.
Khi tháp Silôê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm
công việc đó.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn
vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi
với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: "Có ai vô tội mà
bị tiêu diệt đâu?" (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp
đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân.
Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều
nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không
chịu ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt, Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều
thật rõ ràng. Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem
là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SC (x. Lc 19,21-24). Chúa Giêsu biết rõ nếu
người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và những tham vọng chính trị thì họ
chỉ đưa quốc gia đến chỗ tự sát mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân La mã sẽ
đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu
muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và
chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.
Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy
mâu thuẫn. Điểm đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và
tội lỗi tất phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau
khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con
đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ bị khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân
thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong
một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối
mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối
đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã
không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là lỗi của y. Nhưng quốc gia là một
đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của
một người cho tội lỗi của người đó trong cuộc sống trên trần thì bao giờ cũng
là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị
diệt vong thì đó là một phát biểu đúng đắn.
Chúa Giêsu minh hoạ ý tưởng trên bằng dụ
ngôn cây vả không sinh trái, đây là câu chuyện vừa chứa đầy ân sủng vừa mang
nhiều cảnh cáo đáng sợ.
1. Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn
các cây khác.
Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây
vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ
ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân
hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần
trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo
những cơ hội may mắn mà họ đã có. Có người đã nói về thế hệ chúng ta rằng:
"Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng như những
học trò vô trách nhiệm". Không hề có một thế hệ nào được hưởng dùng quá
nhiều như thế hệ chúng ta, và vì chưa hề có một thế hệ nào mang nặng trách
nhiệm trước mặt Thiên Chúa như vậy.
2. Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta rằng
một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến
hoá, tất cả cuộc tiến hoá nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích cứ
mạnh mẽ phát triển trên con đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích sẽ bị
tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho mỗi người chúng ta là: "Chúng ta
sống trên thế gian này để làm gì?".
3. Hơn nữa, dụ ngôn cũng dạy rằng những
gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được.
Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà
không sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó, xét cho cùng có hai hạng người
trên thế giới: những người "cầu" nhiều hơn "cung" và những
người "cung" nhiều hơn "cầu". Theo một phương diện, chúng
ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của
người khác, chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của
của những người thương yêu chúng ta. Chúng ta đã thừa hưởng một nền văn minh mà
không bởi công sức của chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho
mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận chúng ta. Abraham Lincoln đã nói:
"Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng: tôi
đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ cây hoa có thể
mọc". Có một học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được
thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra
thế nào... Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ trước như
thế nào. Cậu nói: "Theo như điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không
bao giờ làm một vòng nối yếu đuối". Nếu chúng ta cũng biết tự hứa như vậy
thì ta sẽ làm tròn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng
ta lấy đi.
4. Dụ ngôn này dạy chúng ta về phúc ân
của cơ may thứ hai.
Một cây vả thường phải ba năm mới trưởng
thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng
cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người
ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô rất hoan hỉ làm
chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã rồi trỗi dậy.
5. Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về
việc có một cơ may cuối cùng.
Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này tới
cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta
cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính
chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi
điều đó. "Hôm nay là ngày thuận tiện, hôm nay là ngày cứu độ".
17. Thống hối - R. Gutzwiller
Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn
Tin mừng này có tầm quan trọng và sự khẩn khoản thiết tha. Tâm tình đó, yêu
sách đó còn tăng thêm và đưa đến cụ thể là lời kêu gọi hoán cải sâu xa và thống
hối thực tình.
Đức Kitô dựa vào một vài biến cố để đưa
ra lời kêu gọi đó và soi sáng bằng một dụ ngôn.
1. Bài học của các biến cố
Trong một cuộc tế lễ tại đền thờ,
Philatô sai quân tàn sát một nhóm người Galilê, người ta đã tố cáo với quan
người họ mưu tâm phản loạn. Tại Galilê, các cuộc bạo động lại liên tiếp xẩy ra.
Hơn thế, gần hồ Siloê, một cái tháp sụp
đổ chôn sống mười tám mạng. Dân chúng tin rằng những biến cố đó là hình phạt
Thiên Chúa ra để trừng trị tội lỗi của các nạn nhân.
Nhưng Đức Giêsu bài bác lập luận đó.
Những người vong mạng đó không xấu xa hơn những kẻ còn đang sống. Tai nạn không
đồng nghĩa với hình phạt mà là những lời cảnh cáo: 'Nếu các các anh các chị
không ăn năn hối cải, thì các anh các chị cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy'. Lời quả
quyết nghiêm khắc ấy được nhắc đi nhắc lại hai lần. Lời đó nhắc đến ngày suy
tàn của Giêrusalem đang gần đến.
Đối với người đương thời vừa nhằm vào
ngày thế mạt, một sự kiện mà mọi thời đều mong đợi, và trước hết nhắm tới vận
mạng sau cùng của mỗi thụ tạo. Tất cả các tai hoạ (theo Đức Giêsu và sách Khải
huyền) đều là những dấu cảnh cáo của Thiên Chúa.
Con người không thể sống quá an tâm trên
đường đời và sống thản nhiên hết ngày này qua ngày khác. Họ phải biết nguy cơ
nào đang đe doạ mình và nhận mình sẽ không hề biết giây phút cuối đời của mình
là lúc nào. Cho nên lợi dụng thời giờ còn lại để hồi tâm và thống hối.
Con người sẽ được cứu thoát miễn là biết
phó thác vào ân sủng vào tình thương của Thiên Chúa và vì là tội nhân họ phải
nại đến ân sủng của Ngài. Khẩn nài Thiên Chúa đó là tín hiệu cấp cứu của con
người trong cơn nguy biến. Lúc đó, thống hối giống như chiếc tầu an toàn của
Noe trong cơn hồng thuỷ của cuộc sống. Con người luôn luôn thấy có những tai
hoạ; cho nên họ ít quan tâm đến tầm quan trọng của các dấu hiệu cảnh cáo đó.
Tuy nhiên, mỗi người không thể biết nếu chưa gặp phải. Những lời bình luận của
Chúa được trình bày một cách mập mờ và phải biết lắng nghe mới có thể lãnh hội
được.
2. Dụ ngôn
Đức Giêsu minh giải vai trò khẩn thiết
của thống hối qua dụ ngôn cây vả cằn cỗi. Người ta để nó sống một thời gian
nữa. Nếu nó không có ích, người ta sẽ chặt đi
Dụ ngôn này hợp với tình trạng của
Israel. Thiên Chúa đã ưu ái họ, đã chăm sóc họ như chưa từng thấy. Ngài ban cho
họ luật pháp, tiên tri, giao ước, đền thờ và ngày nay còn cho họ có cơ may cuối
cùng để định đoạt. Con Thiên Chúa làm người đã đến với họ. Nếu họ không hối cải
ngay, số phận của họ sẽ bị định đoạt.
Dụ ngôn đó cũng am hợp với chúng ta.
Chúng ta có Giáo Hội, các bí tích, giao ước mới, sách Tin mừng, nhất là có Chúa
hiện diện ngày đêm. Vì thế không ai có thể phàn nàn điều gì. Mỗi người đã được
chăm lo cách quá ư trọng hậu...
Nhưng con người cũng phải đóng góp về
phía mình. Con người không thể ỷ lại vào Giáo Hội và các bí tích, hay tệ hơn dựa
vào đám quần chúng để sống tầm thường như họ. Phải có suy nghĩ, hồi tâm và lấy
lòng thống hối chân thành để hoán cải tình trạng của mình. Chỉ trong trường hợp
đó, họ mới được ơn trợ giúp.
Kitô giáo không phải là bảo hiểm sinh
mạng, cũng không phải là bảo vệ an ninh. Trái lại, nó đe doạ sự an toàn giả tạo
và tha thiết kêu gọi thống hối. Càng tránh né vấn đề người ta càng đi vào con
đường suy vong.
18. Lời mời gọi sám hối- Lm. Phạm Thanh
Liêm
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám
hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng
trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị
tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải
phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô,
đưa dân ra khỏi Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của
dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy
Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để
sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê
lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là
điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương
và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai
hoạ là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Yêsu lại không cho rằng
những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết,
là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Yêsu nói: "Không
đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy". Những
người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào,
hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm
nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người
làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ
ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy
Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi
người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa,
để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi
dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa,
được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân
tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành "tấm gương tầy
liếp" (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi,
để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các
dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi
Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả
những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi
sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn
được nuôi sống bằng mình máu Đức Yêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học
cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc
biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình
yêu Thiên Chúa dành cho mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Qua các thiên tai cũng như những sự
dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là
người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?
2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên
Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa?
Nếu được xin chia sẻ.
3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo
bạn, chủ yếu hệ tại đâu?
19. Đổi mới cách nhìn.
Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh
được chiếc viễn vọng kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân
thượng, và đêm đêm, ông nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.
Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra
một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn
kéo đến để được nhìn thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn.
Thế nhưng, có một nhà bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi
đã xem qua, ông lắc đầu và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông
khám phá ra một sợi chỉ xanh vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên
văn:
- Này anh bạn, trước khi quan sát các vì
tinh tú, anh hãy coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?
Cái ống kính viễn vọng trong câu chuyện
vừa nghe là một hình ảnh tượng trưng cho cách chúng ta nhìn đời và nhìn người.
Thực vậy, nhiều khi cái ống kính ấy có
vướng mắc những sợi chỉ mong manh, có nghĩa là lắm lúc chúng ta đã nhìn đời và
nhìn người bằng cặp mắt thiển cận. Chúng ta muốn suy bụng ta ra bụng người,
chúng ta muốn lấy lòng mình làm thước đo người khác. Chúng ta muốn cư xử rộng
rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với người khác. Chúng ta muốn lấy cái rơm
trong mắt người khác mà không chịu lấy cái xà ra khỏi mắt mình.
Đây cũng là trường hợp đã xảy ra cho hai
biến cố mà Chúa Giêsu đã nhắm đến. Đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của
những người bị Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ
xuống đè bẹp, dân Do thái đã mau mắn đi tới kết luận:
- Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ
tội lỗi, đáng bị Thiên Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì
khác. Ngài xác định họ không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng
những biến cố ấy, những sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh cho chính bản
thân mỗi người.
Đúng thế, thay vì đánh giá người khác,
chúng ta phải đánh giá chính bản thân chúng ta. Thay vì kết án người khác,
chúng ta phải kết án chính bản thân chúng ta, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà
quay trở về cùng Chúa như lời Ngài đã phán:
- Nếu các ngươi không chịu ăn năn, thì
các ngươi cũng sẽ chết thê thảm như vậy.
Từ đó chúng ta nhận thấy rằng: điều cần
thiết là phải thay đổi cách nhìn, thay đổi cách đánh giá. Hãy nhìn vào bản thân
mình, chứ đừng nhìn vào người khác. Hãy nghiêm khắc với bản thân mình chứ đừng
nghiêm khắc với người khác. Hãy biết đấm ngực mình mà rằng:
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng:
- Lỗi tại anh, tại chị, tại ông, tại bà
mọi đàng.
Có như thế, những biến cố xảy đến trong
cuộc đời mới thực sự đem lại lợi ích, bởi vì những biến cố ấy chính là tiếng
chuông cảnh tỉnh thúc đẩy chúng ta thoát ra khỏi tình trạng tội lỗi. Những biến
cố ấy chính là lời Chúa mời gọi chúng ta vươn lên, thăng tiến bản thân và đổi
mới cuộc đời, để trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
20. Ăn năn sám hối
Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời
sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về
việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn "cây vả" để nhấn mạnh
thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.
Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng
kể cho Chúa, đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ
Galilê đến tế lễ, đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một
nhóm người quá khích tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại
bang Rôma, bằng phong trào "cứu thế" chống đế quốc ngay tại đền thờ
Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu
diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và lấy máu của họ hoà trộn với máu
của con vật được dùng làm của lễ rồi đem tế thần.
Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới
một sự kiện khác, đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta
thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa
Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: "Nếu các ông
không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy". Do đó, chúng
ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.
Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn "cây
vả" để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa:
không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình
ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như
cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng
người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh
hoa trái thì sẽ bị đốn bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do
thái: nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như
những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè
chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế
cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các
ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.
Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng
ta hai điều: phải ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm
trễ. Chúng ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta
cần phải ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này
thật rõ ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì
chúng ta đều là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã
phạm thêm những tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm
tội không? Do đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường
xuyên nữa.
Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc
khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta
đừng bao giờ có ý nghĩ "đâm lao theo lao". Lỡ yếu đuối sa ngã phạm
tội, rồi cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta
cũng đừng ru ngủ mình bằng ý tưởng: "Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn
chay đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi
mình". Chúng ta có chắc mình sống tới già không? có chắc tuổi già cô đơn,
bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn năn không? Hay là "Trẻ đi đàng nào,
già đi đàng đó", "Cây ngả chiều nào sẽ đổ chiều ấy". Thời gian
gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất đắc kỳ tử, chết
không kịp ngáp... nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu, và
cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể phải đối
diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào
cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với
tôi chăng?
Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức
tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật,
cho mau kẻo trễ: trông người mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.
21. Suy niệm của JKN.
ĐỪNG ĐOÁN XÉT NGƯỜI KHÁC, HÃY TỰ XÉT
CHÍNH MÌNH
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao có người cho rằng những người
bị giết hay bị chết trong bài Tin Mừng là những kẻ tội lỗi? Đức Giêsu có quan
niệm như thế không? Ngài có đồng ý với việc xét đoán người khác kiểu đó không?
Lập trường Ngài thế nào?
2. Áp dụng dụ ngôn cây vả vào đời sống
người Kitô hữu hôm nay, thì hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta là
gì? Là việc tham dự những nghi thức tôn giáo cho đầy đủ, hay là tình thương
phải có đối với nhau?
Suy tư gợi ý:
1. Đừng xét lỗi kẻ khác, hãy xét lỗi
chính mình
Thời Đức Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc
Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy chống lại chính quyền Rôma và đã bị giết. Một
số nhà giải kinh cho rằng những người bị Philatô giết ở đây cũng vì lý do ấy.
Mặc dù không ủng hộ chính quyền Rôma, người Pharisêu phản đối việc dùng vũ lực
chống lại chính quyền. Vì thế, theo quan điểm của họ, những người bị giết này
là đáng tội chết. Còn nhóm Dêlốt, một đảng chính trị chuyên khủng bố người
Rôma, chủ trương bất hợp tác với chính quyền đế quốc. Vì thế, khi thấy 18 người
Do Thái đào đường dẫn nước thuê cho người Rôma và bị tháp Silôác đổ xuống đè
chết, họ cũng kết án những nạn nhân này là đáng tội chết.
Thấy họ thích xét đoán và kết án người
khác như vậy, Đức Giêsu lên tiếng phản đối. Theo Ngài, khi ta kết án người
khác, thì chính ta lại là kẻ đáng bị kết án hơn cả: «Anh em đừng xét đoán để
khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1; x. Lc 6,37). Ngài muốn đừng ai xét đoán
ai, mà mỗi người hãy tự xét về lầm lỗi của chính mình, đồng thời sám hối và sửa
đổi mình trước đã. Vì thói đời thường «thấy cái rác trong mắt người khác, còn
cái xà trong mắt mình thì lại không thấy» (Mt 7,3). Vả lại, mỗi người một hoàn
cảnh, mình không phải là Thiên Chúa nên không thể biết rõ hoàn cảnh phạm lỗi
của người khác để có thể kết án họ. Càng kết án người khác, ta càng bị Thiên
Chúa kết án: «Anh em xét đoán (người khác) thế nào, Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán
anh em như vậy. Anh em đong (cho người khác) bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ
dùng chính đấu ấy để đong lại cho anh em» (Mt 7,2). Vậy, ta đừng dại gì mà xét
đoán người khác?
Khi người ta dẫn một phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình đến để tố cáo với Đức Giêsu, thì thái độ của Ngài là
không kết án chị ta, mà mời gọi mọi người hãy xét tội lỗi của bản thân mình
trước đã: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi!» (Ga
8,7). Khi được mời gọi xét lại chính mình, những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại
tình ấy đã từ từ «bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn
tuổi» (Ga 8,9). Tại sao vậy? Vì họ vẫn còn liêm sỉ để nhận ra chính mình cũng
chẳng phải vô tội! Nếu ta có thái độ «tiên trách kỷ, hậu trách nhân», hay «tiên
xét kỷ, hậu xét nhân», thì ta sẽ không bao giờ dám kết tội ai. Vì khi xét mình,
ta sẽ luôn luôn nhận ra mình cũng có lỗi. Do đó, kẻ hay kết án người khác chỉ
tự chứng tỏ rằng mình rất ít khi xét lỗi của mình. Vì một khi đã xét lỗi mình
thì ta sẽ không dám kết án ai.
Rất nhiều lần khi thấy con cái mình phạm
một lỗi nặng, tôi muốn nổi trận lôi đình với chúng, dự định la mắng chúng một
trận nên thân. Nhưng khi bỗng nhận ra mình ngày xưa cũng phạm những lỗi y hệt
chúng ngày nay, thì tôi hết giận ngay. Và tôi chỉ trách mắng chúng một cách nhẹ
nhàng; nhờ vậy, việc giáo dục chúng có kết quả hơn. Nhiều lần ra đường bị một
ai đó chạy ẩu làm tôi bị té hoặc bị thương, tôi giận muốn điên lên. Nhưng khi
nhận ra chính mình cũng đã từng làm cho người khác khốn khổ y như vậy, tôi bèn
mỉm cười và cơn giận lập tức tiêu tan.
2. Hãy tự xét lỗi mình và cải thiện theo
đúng đường lối Chúa
Ta chỉ có trách nhiệm xét lỗi của ta,
chứ không có trách nhiệm xét lỗi người khác: «Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét
xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán
người thân cận?» (Gc 4,12). Nếu thấy mình có lỗi thì ta phải sám hối và tự sửa
chữa, nếu không, e rằng ta sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt: «Nếu các ông không chịu
sám hối, các ông cũng sẽ chết hết y như vậy».
Rất nhiều người cảm thấy mình vô tội,
không cần sám hối, vì thấy rằng mình chẳng bao giờ làm điều ác cho ai. Mình vẫn
được mọi người cho là ngoan đạo: vẫn đi lễ, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng
tháng, vẫn đóng góp vào nhà thờ... Nhưng tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật
ngửa khi nghe Chúa nói: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta,
hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,23). Lúc ấy họ sẽ phân bua: «Lạy Chúa, nào
chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ
quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chúa sẽ nói lại:
«Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã
không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống...» (Mt 25,41-44).
Quả thật, rất nhiều Kitô hữu không biết
được cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu. Họ tưởng nằm ở trong các nghi
thức tôn giáo, trong việc lễ lạy, rước sách. Nhưng Đức Giêsu đã nói thật rõ
ràng: «Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7), và «điều quan
trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23)
chứ không phải mấy chuyện «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho
đền thờ, thậm chí cả việc dâng lễ vật lên Thiên Chúa nữa. Thật vậy, thánh
Phaolô nói: «Những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không thể làm cho lương
tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện» (Dt 9,9). Điều làm cho con
người nên hoàn thiện và nên giống Thiên Chúa là tình thương, vì tình thương
chính là bản chất của Thiên Chúa (x. 1Ga 4,8.16).
Nhiều người không hiểu cốt tuỷ của tinh
thần Kitô giáo nằm ở đâu, nên họ hay lên án những ai không giữ những luật lệ
giống như họ. Họ hành xử không khác gì những người Pharisêu xưa lên án Đức
Giêsu và các tông đồ: nào là vi phạm ngày sabát (chữa bệnh, bứt bông lúa
mì...), nào là không giữ luật lệ tiền nhân (ăn không rửa tay, nhậu nhẹt với
phường tội lỗi...). Nhưng Đức Giêsu trả lời họ: «Nếu các ông hiểu được ý nghĩa
của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án
kẻ vô tội» (Mt 12,7). Trước mặt Đức Giêsu, những người Pharisêu này mới chính
là kẻ có tội. Nhưng tiếc thay cho họ: tội mình thì không thấy, mà lại thấy tội
của những kẻ vô tội! Thời nay, nhiều Kitô hữu trách cứ những người khác là khô
khan, nguội lạnh chỉ vì những người này không sốt sắng giữ đạo theo kiểu của
họ, đang khi những người bị trách cứ này lại giữ luật yêu thương của Đức Giêsu
gấp nhiều lần họ. Thiết tưởng câu của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay
đáng cho họ suy nghĩ: «Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã»
(1Cr 10,12). 3. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ con người hối cải
Điều Thiên Chúa mong đợi nơi con người
là sự hối cải. Hối cải là quay trở về với Ngài: quan niệm giống như Ngài, nói
và hành động theo gương Ngài. Theo quan niệm của Ngài, yêu thương là điều quan
trọng nhất, cốt yếu nhất, nền tảng nhất. Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm
khác với Ngài, họ coi chuyện yêu thương là thứ yếu, mà coi những nghi thức tôn
giáo mới là quan trọng. Họ đã đi vào đúng vết xe đã đổ của các kinh sư, của
giới lãnh đạo Do Thái giáo xưa.
Đức Giêsu đến trần gian đã 2000 năm nay
để chỉnh đốn lại quan niệm sai lầm xưa. Nhưng cho đến hôm nay, biết bao kẻ mang
danh theo Đức Giêsu vẫn coi thường việc chỉnh đốn đó, vẫn tiếp tục đi theo con
đường Ngài đã đả phá từ thời đó. Ngài thì đặt nặng quan hệ yêu thương giữa con
người với con người, còn họ vẫn tiếp tục coi trọng những nghi thức tôn giáo hơn
quan hệ đó. Ngài nói: «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có
người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn
thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt
5,23-24). Hãy xem Ngài quan trọng hoá quan hệ yêu thương giữa con người với con
người hơn các nghi thức tế tự như thế nào! Nhưng rất nhiều Kitô hữu, kể cả
những người có trách nhiệm dạy dỗ Kitô hữu, đã quan trọng hoá theo chiều ngược
hẳn lại với Ngài!
Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không ra trái
trong bài Tin Mừng là một lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi Kitô hữu ngày nay. Thiên
Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta.
Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa kết trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói
rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm
trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta: «Cái rìu
đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng
vào lửa» (Mt 3,10; Lc 3,9). Các Kitô hữu quan niệm không đúng một phần khá quan
trọng là do những người có trách nhiệm giáo dục họ đã không chỉ dạy họ cho
đúng, hoặc đã không nhấn mạnh đủ điều nào là điều Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên
tất cả những điều khác.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu kêu gọi sám hối, nếu
không sẽ bị trừng phạt tất cả. Nhưng chúng con phải sám hối điều gì đây? Chúng
con phải thay đổi điều gì trước tiên? Hoa trái mà Cha mong mỏi nơi chúng con là
gì? Đọc kỹ Tin Mừng, chúng con thấy hoa trái mà Cha mong đợi nơi chúng con
chính là tình thương. Nhưng chúng con lại quan trọng hoá chuyện khác. Chúng con
lại đi đúng vào vết xe đã đổ của người Pharisêu xưa, là quan trọng hoá các nghi
thức tôn giáo mà coi thường luật yêu thương của Cha. Xin giúp chúng con sửa đổi
lại quan niệm cho đúng.
22. Chú giải của Fiches Dominicales
HÃY HOÁN CẢI VÀ ĐI THEO CON ĐƯỜNG TỰ DO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Hoán cải là khẩn cấp.
Sau cuộc hiển dung trên núi, Đức Giêsu
quả quyết lên đường đi Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc "xuất hành ",
cuộc "ra đi " của Người. Người khuyên đám đông hãy biết phân định
những dấu chỉ của Nước Trời và hãy đón nhận Tin Mừng đừng chậm trễ.
Một sự kiện được các thính giả trình
lên: Philatô tàn sát mấy người xứ Galilê tại Đền thờ các sử gia xác nhận ông đã
dùng những cực hình tàn bạo - và lấy máu của họ hoà vào máu các lễ vật của họ.
Phả i chăn ng họ là " những người tội lỗi hơn những người Galilê
khác?".
Thay vì trả lời trực tiếp vào câu hỏi,
Đức Giêsu dẫn sang một sự kiện khác đã diễn ra tại Giêrusalem: tháp Siloê đổ đè
chết 18 người. người kết luận bằng cách nhắc lại lời cảnh báo nghiêm trọng:
"Ta bảo cho các ngươi biết: nếu các ngươi không hoán cải, các ngươi cũng
sẽ chết như họ ".
Đứng trước những bất hạnh của người
khác, ta tự nhiên tìm xem đâu là lỗi lầm của nạn nhân. Họ đã chết như thế, có
lẽ đó là hình phạt do tội lỗi của họ. Và ta tự cho mình là công chính vì ta đã
không bị nạn.
Đức Giêsu khuyên họ đừng nên tìm giải
thích những cái chết tức tưởi tốt hơn hãy năng nhận biết mình tội lỗi và mau
mắn hối cải.
H. Cousin chú giải: "Hai kiểu chết
khốc liệt nói trên phải là lời cảnh báo cho những ai không mau mắn thay đổi đời
sống, lượng xét lại ý kiến và những hoài vọng lầm lạc của họ. Cũng như từ đầu
đã nói, hai thảm kịch kia diễn ra không có nghĩa là các nạn nhân đã phạm phải
một tội nặng nề nào, thì việc không gặp hoạn nạn cũng không phải là dấu chỉ về
sự vô tội của những "người sống sót". Mọi người đều là tội nhân là cần
hoán cải trước khi bị Thiên Chúa phán xét. Trước khi gặp tai nạn, khi cuộc đời
xem ra tươi sáng, đã cần phải sám hối và đón nhận Lời cứu độ của Thiên Chúa do
Đức Giêsu loan báo. Để sau, e rằng quá muộn.
2.... Và sinh hoa kết quả như Chúa mong
muốn.
Tiếp liền theo sau là dụ ngôn cây vả
không trái. Dụ ngôn này làm dịu lại những lời lẽ nghiêm khắc của Đức Giêsu.
Người thợ làm vườn mà dụ ngôn trình bày
cho ta luôn hy vọng rằng cây vả của ông, dù vẫn chưa ra trái, sẽ có ngày sinh
hoa kết quả. Ông thuyết phục người chủ vườn hãy hoãn lại quyết định đốn cái cây
ăn hại đất một cách vô ích ấy; và ông đã nhận được một án treo: " Xin hãy
để nó sống thêm năm nay nữa... Biết đâu nó sẽ ra trái? nếu không, lúc ấy ông
hãy đốn nó đi".
Thiên Chúa là như thế. Tha thiết mong người
ta hoán cải đừng chậm trễ và hãy đem tình yêu đáp lại tình yêu đi bước trước
của Người. Thiên Chúa của Đức Giêsu nhẫn nại vô biên đối với người tội lỗi.
Người chấp thuận cho họ một sự trì hoãn ân huệ. Người không tuyệt vọng vì bất
kỳ ai. Ta vẫn thường hát rằng: " Với Chúa chẳng có ai là quá xa,... Với
Chúa chẳng có gì hư mất... Vì Chúa chẳng có gì chấm dứt " (phiếu L.82,
chẳng có đứa con hoang đàng nào mà không được tha thứ").
H. Cousin kết luận: "Nếu giờ phán
vét chưa đến ngay, đó là vì Thiên Chúa ban cho ta một ân huệ sau cùng để ta
hoán cải chứ không phải là Người đã chấp thuận các hành vi của ta... cây vả
không trái chưa bị nhổ ngay là do lòng nhân hậu khôn tả, tuy nhiên nó vẫn còn
bị đe doạ phải chết nếu năm sau vẫn không ra trái... Lời khiển trách cây vả vì
không ra trái - là lời cảnh báo cho thính giả của Đức Giêsu: họ không được trì
hoãn việc chính yếu đến ngày mai là phải quyết định sinh hoa kết quả cho Chúa
ngay" (Sđd, trg 192).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một tình yêu vừa nhẫn nại vừa đòi hỏi
Không báo, không đài, chẳng có ti vi, mà
biến cố vẫn nhanh chóng loan truyền khắp xứ sở. Lợi dụng lúc dân tụ tập trong
đền thờ, bộ hạ của Philatô đã vét được một mẻ lưới vừa gọn ghẽ vừa dễ dàng, rồi
họ mau chóng biến thành một cuộc thảm sát. Nạn nhân là những ai? Những người
Galilê vốn có tiếng là có tinh thần dân tộc mạnh mẽ và bị chính quyền thống trị
Rôma coi như những hạt nhân cách mạng. Nhưng họ đã làm gì xúc phạm đến Thiên
Chúa đến nỗi phải chịu một tai hoạ như thế?
Câu hỏi gây lúng túng, nhưng đó là câu
hỏi cần đặt ra cho vị tiên tri mới mà giáo lý mới lạ của Người đã lôi cuốn biết
bao đám đông. Mỗi người đều có câu trả lời sẵn phù hợp với truyền thống xưa cũ.
Thiên Chúa chúc lành và thưởng công những người công chính. Vì Người trừng phạt
kẻ tội lỗi. Thành công là giàu sang là những dấu chỉ rõ ràng của sự ưu ái của
Thiên Chúa. Thất bại vì nghèo khổ đúng là phần thưởng cho những kẻ tội lỗi.
Đức Giêsu đã trả lời cho những kẻ đến
hỏi người: Còn anh em, anh em nghĩ rằng anh em là thánh, là những người được
Chúa Quan phòng sủng ái vì anh em không bị nạn ư? Tất cả anh em đều đáng bị kết
án vì có tội. Đừng lừa dối mình về ý nghĩa của các biến cố và nội dung của các
dấu chỉ'? Thiên Chúa không phải là một "ông chủ " khắc nghiệt và nóng
vội trừng phạt tức khắc là từ chối khoan giãn. Hình phạt và phần thưởng, sẽ có,
nhưng không phải theo cái lối mau chóng tức thờ i ấy.
Đừng gán ghép bất hạnh với tội lỗi,
thành công với Chúa quan phòng. Những kẻ thoát nạn không phải là những người
được khen thưởng, cũng không phải là
những người khốn khổ vì có tội. Chẳng có ai vô tội. Tất cả mọi người đều được
mời gọi hoán cải và sinh hoa kết quả. Đó mới là chính vấn đề.
Thiên Chúa là người thợ làm vườn nho đã
bài bác lý lẽ của người chủ vườn và đã đề nghị một khoan giãn ân huệ mới cho
cây vả. Thật là một Thiên Chúa nhẫn nại.
Nhẫn nại nhưng lại rất đòi hỏi, phối kết
hài hoà sức mạnh và sự dịu dàng, công lý và xót thương, tình yêu con người và
cương quyết chống lại điều ác.
2. Tính chất nghiêm trọng của những chọn
lựa của ta
"Nếu các ngươi không hoán cải, tất
cả các ngươi sẽ phải chết". Ta những muốn xoá đi những câu Tin Mừng như
thế. Nhưng làm sao thoát khỏi lời loan báo về cuộc "phán xét ": những
chọn lựa của ta tự nó mang một yếu tố quyết định, đó là vấn đề sinh tử "Sa
ngã.. bị loại trừ... chết").
Tin Mừng giúp ta ý thức về tính chất
nghiêm trọng của những lựa chọn và do đó của tự do của ta.
Chọn được sống tức là trở nên hình ảnh
của Thiên Chúa trong cuộc Xuất hành, Đấng tự xưng: " Ta là ". Chọn sự
sống hơn là những lối sống dẫn đến sự chết, là bước theo Đức Giêsu trên con
đường Phục sinh. Hoán cải là chọn sự sống. Nhưng chẳng phải một lần mà xong. Đó
là một hành trình kiên trì với Đức Kitô, có Thánh Thể nuôi dưỡng.
3. Ngày mai sẽ là quá trễ.
(Mgr. Daloz, trong "Thiên Chúa đã
viếng thăm dân Người" DDB, trg 109).
Đoạn văn ta đang đọc khai mở cho các môn
đệ và cho đám đông vây quanh Đức Giêsu ý nghĩa của thời gian hiện tại: Đây là
thời khẩn cấp phải hoán cải. Luca luôn nhấn mạnh đến tính chất cấp thiết này:
một thời gian trì hoãn đã ban cho ta, đừng để nó trôi qua mất. Đây là lúc ta
phải phân định những dấu hiệu tiên báo về một tương lai gần đến, vì ta có thể
đoán được ngày mai thời tiết ra sao: "Thời gian hiện tại, làm sao ngươi
không nhận biết?". Đó là sắp xếp trước khi ra hầu toà, lúc ta còn có thể
thay đổi đời sống trước khi chịu số phận như những người Galilê mà Philatô đã
tàn sát.
Đây là năm trì hoãn mà người làm vườn
ban cho cây vả, để nó mang lại những hoa trái mà ông chủ đang mong chờ... đừng
trì hoãn việc hoán cải đến ngày mai. Thời giờ ngắn ngủi lắm, đây là lần gia hạn
cuối cùng. Ngày mai sẽ là quá trễ. Ta có cơ may được nghe những lời cảnh báo
này. Ngày hôm nay là một ngày hồng ân của Thiên Chúa, ta không được bỏ lỡ. Đức
Giêsu mời gọi ta hãy phân định: ta qui hướng về một tương lai mà ta có thể linh
cảm thấy. Tin là bước đi trong đêm tối, nhưng đức tin hướng ánh mắt ta về một
thế giới tương lai là hé lộ cho ta thấy tính cách khẩn cấp của việc hoán cải.
23. Chú giải của Noel Quesson
Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu
nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà
lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Đức Giêsu không sống trong một thời đại
yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày
nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra.
Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong
trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc
đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị
cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập
tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.
Người ta kể lại sự kiện này cho Đức
Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án
Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô
trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát
chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt
chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này
trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với
các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp
chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và
tinh thần đức tin cao nhất.
Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông
tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người
Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến.
Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách
xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét
đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: "Thật là
bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế" hay là "chúng ta đã
làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế
này?".
Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc
nào giữa tai hoạ và tội lỗi. "Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ
anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy
tỏ hiện nơi anh". Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một
lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường
nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã
hội!
Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các
ông cũng sẽ chết hết như vậy.
Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn
nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. "Các ông tưởng
rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về
"những người khác". Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ.
"Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô.
Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao?
Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt
chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực
vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay
đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.
Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong
đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng
trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh
hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi
duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc "hoán
cải", của chính con.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh
trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.
Cũng như mười tám người kia bị tháp
Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất
cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải
thế đâu.
Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc
lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè
chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm
ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm
tiêu chuẩn an toàn... Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị
"trừng phạt" bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính
Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: "Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra
tai hoạ như thế".
Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một
điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không
phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên
của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh
được. Thay vì buộc tội Chúa, là "Nguyên nhân đệ nhất" như' các triết
gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những "nguyên nhân đệ nhị", mà
chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu
cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính
bản thân chúng ta.
Nhưng nếu các ông không chịu sám hối,
thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh,
Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới
hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng
sợ: "Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi". Đức Giêsu chấp
nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận?
Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà
những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức
Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương:
phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại.
Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con
người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân-
lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà
không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. "Nếu các ông không ăn năn
hối cải, các ông sẽ chết hết": Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận
thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội
lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta "khám phá": Thực sự
chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của
con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một "mạc khải", một vấn đề
đức tin.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người
đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.
Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về
với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa!
Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng
rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt
tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải...
Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra
khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn
mạnh về cách nói "triệt' để" của Luca "Các ông sẽ chết hết".
Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó
mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không
lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: "Nếu các ông
không ăn năn hối cải". Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt
của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con
người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta
hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về
Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những
vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện
"mạc khải": Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong
mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa
Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận
cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những
tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.
Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời
Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha
gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa,
xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này:
"Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái
mà không thấy, nên bảo người làm vườn: 'Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả
này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài
"Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không
xấu không tốt. Chúng là "một quả". Quan điểm hiện đại cố làm cho
chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa,
con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi
lầm gì cả... Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích ". Trái lại, Đức Giêsu
nói: "Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!" Người không những
lên án "trái thối" mà còn lên án cả tình trạng "không sinh
trái".
Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa
ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho
nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi".
Người "làm vườn" đầy tình
thương với "cây nho" của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu
mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân.
Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy
dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục
đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu
tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình
yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: "Nếu không ông
sẽ chặt nó". Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt
để nào đó của Tin Mừng.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét