CHIA TAY DUC CHA AN PHONG |
LE GIO BA CO MARIA VA ONG CO GIUSE |
LỄ HIỂN LINH
Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
"Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường
cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô
cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ
lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng
tiến."
MỤC LỤC
SUY NIỆM
1. Lễ vật
của dân tộc
2. Gặp gỡ
Chúa
3. Một
ngôi sao để đi theo
4. Suy
niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Thành
tâm thiện chí sẽ gặp Chúa
6. Gọi
tên ngày lễ - ĐGM Vũ Duy Thống
7. Gặp
được Chúa Cứu Thế
8. Lễ
Giáng Sinh của muôn dân
9. Gặp
Chúa – Lm Tạ Duy Tuyền
10. Ánh
sáng cho mọi dân tộc – Flor McCarthy
11. Lễ
Hiển Linh
12. Thiên
Chúa cho ai nhận biết Người?
13. Thiên
Chúa của các dân tộc
14. Tìm
Đức Kitô
15. Ba
vua
16. Ra đi
17. Ngôi
sao dừng lại
18. Ngôi
sao dẫn đường
19. Niềm
tin: một chuyến đi - ĐGM Vũ Duy Thống
20. Những
con mắt hiển linh
21. Từ bỏ
22. Đến
thờ lạy
23. Suy
niệm của JKN
24. Lễ
vật
25. Ngôi
sao hy vọng
26. Món
quà
27. Lễ
Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
28. Món
quà của các Đạo Sĩ - Lm Mark Link
CHÚ GIẢI
1. Chú
giải mục vụ của Claude Tassin
2. Chú
giải của Fiches Dominicales
3. Chú
giải của Noel Quesson
4. Chú
giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
SUY NIỆM
1. Lễ vật
của dân tộc
Cách đây
20 thế kỷ, một nhóm chiêm tinh rời bỏ xứ sở để bước theo một ngôi sao lạ. Họ
nhận ra ngôi sao ấy, có lẽ do họ được ơn soi sáng và được biết trước. Vì thế,
khi ngôi sao xuất hiện, họ liền ra đi vì lòng họ đang mong mỏi trông chờ.
Quả thực,
từ rất xa xưa, con người vẫn trông đợi một Đấng cứu tinh. Tội lỗi và đau khổ
của kiếp người khiến cho những ai biết suy nghĩ đều cảm thấy bâng khuâng, như
luyến tiếc một thiên đàng đã mất. Chính vì mong mỏi Đấng Cứu Thế, khao khát một
thứ ánh sáng siêu việt và một thứ ơn huệ từ trên ban xuống, mà nhiều khi con
người đã tự tạo ra cho riêng mình những vị cứu tinh.
Lòng mong
mỏi ấy càng trở nên tha thiết hơn nơi dân Do Thái, dân được tuyển chọn để bảo
tồn lời giao ước. Thế nhưng, con người không thể trở về với Thiên Chúa mà không
có hoà giải, mà không có phần đóng góp của mình.
Thực vậy,
nếu hoà giải là một cuộc trở về của con người, sau những năm tháng bất hiếu và
chìm đắm trong tội lỗi, thì cái phần hy sinh ở chính bản thân lại càng cần
thiết hơn nữa, đó là dứt khoát từ bỏ con người cũ.
Như ba
nhà đạo sĩ đã lên đường theo ánh sáng của ngôi sao lạ thế nào, thì chúng ta
cũng vậy, tâm tình sám hối ăn năn chính là bước chân đầu tiên của chúng ta trên
con đường trở về tìm gặp Thiên Chúa.
Đọc lại
Phúc Âm chúng ta còn thấy, sau khi gặp gỡ Hài Nhi Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã dâng
tiến những lễ vật, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, là những sản phẩm đặc biệt
của quê hương mình. Chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ cá nhân
chúng ta, đó là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường
ngày. Đồng thời chúng ta cũng hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ đóng góp của dân
tộc mình, để nhờ đó ơn cứu độ có thể đến cho mọi người trên quê hương đất nước.
Vậy của lễ dân tộc là gì?
Trước hết
đó là những lầm than của dân tộc từ xưa đến nay. Có khi dân tộc ta đã kiên nhẫn
chịu đựng và đó là một hành vi tùng phục đối với Chúa, mở đường cho ta tìm thấy
Chúa hôm nay. Có khi dân tộc ta chưa kiên nhẫn chịu đựng, chưa tham dự vào cùng
khổ giá ấy, thì ta có thể thay mặt dân tộc để tùng phục Chúa, và để, ở cương vị
con cái Chúa, dâng phần đóng góp thay cho dân tộc.
Như thế,
càng hoà mình trong những chuyển biến thăng trầm của dân tộc, ta lại càng có
thể đồng công cứu chuộc dân tộc nhiều hơn. Càng hoà mình với những người nghèo
túng và bị hất hủi, ta lại càng góp được phần nhiều hơn vào của lễ của dân tộc.
Của lễ
dân tộc còn là những tinh tuý, những giá trị văn hoá và luân lý, đó là những cố
gắng trong tối tăm của cha ông từ hàng ngàn vạn năm đã vươn mình về phía Chúa.
Của lễ ấy phần nào đang hiện diện nơi ta, bởi lẽ rằng, cũng như một người càng
thông thái bao nhiêu, thì khi tòng giáo rồi, họ càng dễ sống đạo sâu xa bấy
nhiêu.
Như thế,
ta sẽ đưa những cố gắng của cha ông thuở trước tới đích nơi ta, để những cố
gắng này trở thành một của lễ ba vua, của lễ đóng góp của dân tộc nhỏ bé chúng
ta.
2. Gặp gỡ
Chúa.
Những
hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước
hết là các mục đồng, những người canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và
hơn thế nữa, họ còn là những người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và
Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật,
họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám
người không biết đến lề luật ấy lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài
Nhi Giêsu.
Tiếp đến
là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến,
dám chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái
độ sẵn sàng của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng,
cái đám dân ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những
sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận định thứ nhất đó là sự
gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến
nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên
bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý của mình. Tuy nhiên trong
lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó
là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những người giàu, giàu về tiền bạc
cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra
không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ
khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn họ, không làm cho họ hổ
thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì vậy, không ngỡ ngàng,
không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của người nghèo, như triều
cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định
thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người ít được chuẩn bị nhất
lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người
đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ
đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế
nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không
có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ, bằng những phương
tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm
lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục
đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những người thiếu thông tin.
Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để hiểu. Không phải chỉ
sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần
phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ
cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và gặp gỡ Chúa.
Bởi đó,
là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng
và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?
3. Một
ngôi sao để đi theo.
(Suy niệm
của Jean-Yves Garneau)
Một ngày
lễ đầy màu sắc.
Có lễ nào
mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có những nhân vật (người ta nói là ba
nhưng Tin Mừng không khẳng định điều này) không biết chính xác đến từ đâu
(thánh Matthêu viết rằng từ phương Đông; nhưng phương Đông lớn lắm!). Người ta
không biết tên của họ (dù họ mang tên Mechior, Balthasar và Gaspar, theo một
truyền thống rất cổ xưa mãi từ thế kỷ thứ 5, nhưng đó không phải là một điều
chắc chắn mang tính khoa học). Và có ngôi sao! Ngôi sao mà người ta đã nói và
viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các vị hiền sĩ của chúng ta (có lẽ là những nhà
chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là vua) và nó đã dừng đúng chỗ, đúng lúc: Trên
ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi Giêsu! Lại có vàng, nhũ hương và mộc dược
nữa...
Hai sứ
điệp.
Lễ Hiển
linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên chúng ta đừng để mình quá bị chi phối bởi những
chi tiết dù có quan trọng đi nữa. Ta hãy quan tâm tới điều chính yếu: hãy chú ý
đến sứ điệp, sứ điệp này gồm hai điều:
Một là,
lễ hiển linh nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu không đến trong thế gian vì một
số người mà thôi (những người thân cận với Ngài), rằng Ngài không nhập thế duy
chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do Thái), nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế
và vì tất cả mọi người sống trên quả đất này. Thậm chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng
không thể bị quên lãng. Không ai, thực sự không người nào bị loại trừ khỏi
những bận tâm của Chúa Giêsu. Ngài sinh ra cho hết thảy mọi người. Tất cả mọi
người, đàn ông đàn bà, lớn bé, giàu nghèo ở khắp mọi nơi chốn và mọi thời đại
đều được mời gọi đến lãnh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để soi sáng và cứu vớt toàn
thể nhân loại. Những bản văn Thánh Kinh được công bố hôm nay khẳng định rõ ràng
điều đó (x. Ep 3,6: "Mầu nhiệm này là những kẻ ngoại giáo được thông phần
cùng một di sản, cùng một thân thể..." Is 60,3-4: "Chư dân sẽ bước đi
hướng về ánh sáng của Ngài... hết thảy họ đều tụ họp lại...").
Điều thứ
hai của sứ điệp dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu đã bị những kẻ thuộc về Ngài không
biết đến, thậm chí còn ruồng bỏ, nhưng lại được những kẻ xa lạ, các hiền sĩ,
tìm kiếm, khám phá, đón nhận và tôn thờ. Không có chỗ cho Ngài nơi những kẻ
thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ, ngày Ngài chào đời! Không có những người
trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh, chỉ có các mục đồng thôi! Còn
Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông muốn giết Đấng đến để cứu ông!
Hai áp
dụng cụ thể.
Ta có thể
rút ra từ sứ điệp trên đây hai áp dụng cụ thể.
Trước
hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ cũng có thể sống bên cạnh Chúa Kitô mà không
quan tâm đến Ngài, và cũng có thể biết tên của Ngài mà không thực sự biết chính
Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn hiệu Kitô nhưng kỳ thực ta không phải là Kitô
hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng định Chúa Kitô hiện diện trên thế giới, nhưng
ta không rút ra được từ đó một kết luận thực tiễn nào cả cho những ứng xử của
cá nhân mình và cho cách điều khiển xã hội.
Sau đó ta
phải tự nhủ –đây là áp dụng cụ thể thứ hai- rằng ta luôn luôn phải để cho một
ngôi sao hướng dẫn mình, phải luôn luôn lên đường tìm kiếm Chúa Kitô, luôn luôn
cố gắng hiểu rõ Ngài hơn... vì nơi chúng ta bao giờ cũng còn lại một cái gì
ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến tất cả những ngẫu tượng mà ít nhiều chúng ta còn
tôn thờ hoặc để cho mình bị chúng thôi miên mà không hay biết. Những ngẫu tượng
này là; tham tiền bạc, cá nhân chủ nghĩa thúc đẩy chúng ta quên đi số phận của
kẻ khác. Ta cũng có thể gọi là ngẫu tượng óc tiêu thụ quá đáng rất thường điều
khiển chúng ta và nhất là cái nhìn hoàn toàn duy vật của chúng ta về cuộc sống.
Tìm ngôi
sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu và Mẹ Ngài, từ bỏ xứ sở, đi đến một nơi xa lạ,
dám sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong đó ta dấn thân hoàn toàn và vì đó
ta cho đi cái tốt nhất nơi mình, đấy là những gì các hiền sĩ đã làm. Còn chúng
ta, quá thường sống như người ngoại đạo trong một đất nước còn mang tên Kitô,
chúng ta có can đảm lên đường tìm kiếm Chúa Kitô không? Chúng ta có biết đi
theo ngôi sao của các hiền sĩ còn đang chiếu sáng cho những kẻ đói khát Thiên
Chúa không?
4. Suy
niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
CHÚA TỎ
MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ
Bài Tin
Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường.
Tương
phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá
chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế.
Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng
Cứu thế hạ sinh.
Tương
phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông
thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên
không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua,
là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học
hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương
phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo
âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác. Trong khi đó, Đức
Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng
tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả
những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế,
nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến
trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng
trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả
những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa.
Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí
đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.
Ba Vua là
những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong
việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn thiện chí.
Là những
tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm
kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không
phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải
qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển
dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất
hiện.
Việc đi
theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi
nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp
nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí
của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ
cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa.
Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp
Chúa.
Đời sống
chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như
Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết
kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua
không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi
người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những
tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình.
Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua
những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh
sáng chân thật.
Để kết
thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con
đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một
gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường
thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa
chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối
mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người
ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm.
Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm
phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là một Đức Cha ở cao nguyên
Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp
đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng
như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1. Ba Vua
thiện chí ở những điểm nào?
2. Bạn có
gặp thử thách trong đời sống đạo không? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế
nào?
3. Theo
bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận,
sống bác ái?
4- Tuần
này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời Chúa?
5. Thành
tâm thiện chí sẽ gặp Chúa.
(Suy niệm
của ĐTGM Ngô Quang Kiệt)
Lễ Hiển
Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết
dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ
trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện... Tuy nhiên không
phải ai cũng gặp được Chúa.
Có những
người không gặp Chúa, dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó là
những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi
thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem.
Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý thuyết mà không thực hành.
Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không
chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ
trong đời thường.
Đó là
Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng
tướng mạnh trong tay. Ông không gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà
vì quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết.
Ông tìm Chúa không phải để tôn vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm
Chúa không phải để làm theo ý Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế
Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những
người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp
được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa
xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà
ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.
Họ đã gặp
Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời
hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay
tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên
đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên
đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Họ lên
đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ
không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la,
chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa
vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm.
Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết
tâm dò hỏi cho ra.
Họ đã gặp
Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi
tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng
đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn
đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm
hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em
bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống
đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi noi
gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính
Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới
răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa,
xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1) Tại
sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được Chúa?
2) Có
những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn đã gặp ai như thế
chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp
Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua
nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở thành ngôi sao đưa người
khác đến với Chúa?
6. Gọi
tên ngày lễ - ĐGM Vũ Duy Thống.
(Trích
trong 'VỚI CẢ TÂM TÌNH' – Trg. 31)
Trong dịp
tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan
đến Thánh Lễ hôm nay: "Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ
Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá
cả?".
Câu hỏi
ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm
linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã
đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp
phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và
cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong
tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin
là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục.
Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên
gọi "lễ Ba Vua"...
Đây là
tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông
Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền
quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số
ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng
được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của
Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày
lễ.
Nhưng
điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ
có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống
động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm
Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn
thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến
của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
Dưới cái
tên gọi "lễ Ba Vua", chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng
cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy
cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời
hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề
được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua
những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu
có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại
không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến,
không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến
sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu
cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra,
Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn
Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
2) ...
Đến tên gọi "lễ Hiển Linh"...
Mặc dù
tên gọi "lễ Ba Vua" vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay
Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi "lễ Hiển Linh" hơn, chẳng phải vì tên
gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu
hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm
rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa
trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi
thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu
"Ba Vua" là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì "Hiển
Linh" là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu
rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở
ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình,
lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới
nhằm vươn lên những đỉnh cao mới. Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì
thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí
biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ
vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là
những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai
thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên
Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người
ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu
xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa "cũng
cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể
và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là
tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp
gỡ.
3) ... Để
dẫn tới sứ điệp đời sống.
"Lễ
Ba Vua" hay "Lễ Hiển Linh", mỗi tên gọi có những bước nhấn
riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao
thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố
của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ
tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài
không.
Hôm qua
đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các
mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay
từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu
có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là
một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên
lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống
đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả lời
câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một
điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay
không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà
trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ
họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát.
Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của
những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân
tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những
chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực
thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi
kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của
tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm lại,
khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là
chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin,
khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng
để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để
kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và
đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
7. Gặp
được Chúa Cứu Thế.
(Trích
trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày' – Radio Veritas Asia)
Hôm nay
chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền
kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự
hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò
dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và
nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.
Như ngày
lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những
gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa
đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài
là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài
đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để
diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một
số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm
tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt
những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông
Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui
mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại
Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng
bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng
của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài
không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là ánh sáng của
muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú
túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến
Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên Chúa.
Nếu bài
đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân
tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa
hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được
đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư
tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh
hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất
đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với
lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn
chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con
người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban
ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân
biệt ai cả.
Bài Phúc
Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm
Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực
nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho
Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng
ngày của mình.
Dựa vào
đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này,
người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra,
không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số
của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh
Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Về tên
của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề
cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh
Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những giải thích khác nhau.
Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó là những con người đến
từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ
quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh
ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có
những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác.
Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người
là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là
của toàn thể nhân loại.
Cùng với
Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và
xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng
Chúa trong tâm hồn mình.
Để có
việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của Ba Vua trên
con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân
quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và
dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường
của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.
8. Lễ
Giáng Sinh của muôn dân.
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Henry van
Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: "Còn một nhà đạo sĩ khác nữa"
(The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba
nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là
Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất
trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp
ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết.
Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng
trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa,
ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra
thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt
Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong
một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho
người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được
Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối
và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm
cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu
báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất
là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những
nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển
Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra
cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta
phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ
Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa.
Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn
lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến
Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng
quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung
của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu
chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại
Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là
lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ,
có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương
Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là những người
ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được
lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi
kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói
lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ
quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ
sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin "Vua
người Do Thái mới sinh", Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại,
họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải
dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải
thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh
ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người
bị liệt vào hàng "dân ngoại" lại hăm hở đến với "Vua người Do
Thái", cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh
chị em,
Lễ Hiển
Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên
Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa nào có ai
thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài
đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người
như chúng ta và ở giữa chúng ta". Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận
Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề
được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là
mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức
Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới
hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số
chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp
của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu
chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã
nói: "Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương
Đức Kitô", thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc
sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản
thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp
mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự,
tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những
người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên
Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy,
còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi
bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với
chúng ta: "Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?" hoặc: "Đức Giêsu
là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: "Đức Kitô là
ai?". Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái.
Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là
một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác
đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã
vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm
tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người
Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi
lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi
một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của
mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm
dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn
là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy
sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ
diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng
các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác
đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ
Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm
tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện
với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn
là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con
người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu
đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ
quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn
rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa,
yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh
vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến
nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa
đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn
nhất của người đời: "giải thưởng Nobel Hoà Bình". Mẹ Têrêsa đã làm
cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên
Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng
năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập
thể ích kỷ, Thiên Chúa của người "tôi" ích kỷ đã chết, và phải chết
đi với cái người "tôi" ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa,
thực sự là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội.
Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn
là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu
người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các
bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công
khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa
Kitô.
Có những
người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại
liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi
thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân... Xin Chúa ban
cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể
như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước
gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!
9. Gặp
Chúa – Lm Tạ Duy Tuyền.
Một cậu
bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ
dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi
qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng
lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình.
Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà
lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một
lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu
của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không
nói một lời.
Mãi đến
khi trời sụp tối cậu bé mới rời chổ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà
lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và
rộng mở nhất của mình.
Khi cậu
bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn
trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé
đáp:
- Con đã
ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi
đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ
thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì
hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão
đáp:
- Mẹ đã
ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ
trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm
người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn chốn
hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của mình.
Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã sống
một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình
với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho
những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách, tù đầy...
Cậu bé
trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão
cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu
đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi
người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã
thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu
ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng
nhân ái của cậu.
Năm xưa,
ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại là
nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng cỏ
hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một gia
đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương
và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân vương.
Hôm nay,
Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa
còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn,
những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi
chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại.
Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh
chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất
chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì
mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại
niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
10. Ánh
sáng cho mọi dân tộc – Flor McCarthy.
Bài giảng
1: Họ mở các kho tàng ra
Một trong
những dụ ngôn của Aesop như sau: Một bé gái đang ngồi bên cạnh bức tường, thì
đột nhiên, có một con cóc ló ra từ một cái hang. Cô bé này liền trải chiếc khăn
quàng lụa của mình ra trước mặt con cóc, đây là loại vải mà con cóc rất thích
được bước lên đó. Ngay khi vừa nhìn thấy chiếc khăn quàng, con cóc liền quay
trở vào hang, và trở ra ngay, mang theo một vương miện nhỏ bằng vàng đính trên
chiếc khăn quàng, rồi lại quay trở về hang.
Ngay tức
khắc, cô bé liền cầm lấy cái vương miện, và bỏ vào túi. Ít lâu sau, con cóc lại
trở ra, nhưng khi không nhìn thấy vương miện trên chiếc khăn quàng, thì con cóc
liền bò lên bức tường, nó cứ đập cái đầu nhỏ xíu của nó vào bức tường một cách
đầy đau khổ, cho đến cuối cùng nó bị vỡ đầu và chết. Nếu cô bé cứ để cái vương
miện ở nguyên tại chỗ, thì chắc chắn con cóc sẽ còn mang thêm những kho tàng
của nó ra khỏi hang nữa.
Mục đích
của câu chuyện ngắn này cho thấy rằng mỗi người đều có một kho tàng để chia sẻ.
Vấn đề là: Làm thế nào để chia sẻ kho tàng đó ra. Điều này đòi hỏi nhiều sự
kiên nhẫn. Bí quyết hệ tại ở việc chia sẻ một cách tự nguyện. Không có lý do
nào để bắt buộc mọi người phải hy sinh. Nếu bạn lấy đi những thứ của người
khác, thì chúng bị nghèo nàn đi. Nhưng nếu bạn trao tặng chúng, thì chúng lại
được phong phú lên. Con người về căn bản đều tốt, nhưng nếu họ đi vào vương
quốc của tình yêu, thì họ phải đánh thức và kêu gọi tấm lòng tốt này.
Ở đây, Lễ
Giáng Sinh đến hỗ trợ chúng ta. Nếu Con Thiên Chúa đến trong sự giàu sang, thì
Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự nghèo hèn của mình. Từ đó, Người sẽ
khơi gợi một cảm giác thèm thuồng nơi chúng ta, và làm huỷ hoại tâm hồn chúng
ta. Nhưng Người đã đến trong sự yếu đuối, do đó, Người càng làm cho chúng ta ý
thức về sự giàu có của mình. Sự nghèo khó của Người khơi gợi nơi chúng ta một
cảm giác thương xót, từ đó, mang tâm hồn chúng ta đến với sự sống. Khi nhìn vào
cảnh nghèo hèn của Hài Nhi Vua Vũ Trụ, giúp chúng ta biết cởi mở tâm hồn của
mình ra.
Chính sự
nghèo hèn của Đức Giêsu đã làm cho các đạo sĩ mở ra kho báu của họ, gồm có
vàng, nhũ hương và mộc dược, đặt tất cả trước mặt Người. Thay vì bị nghèo nàn
đi, các đạo sĩ lại được trở nên giàu có. Chính nhờ biết cho đi, mà chúng ta trở
nên phong phú, bởi vì thông qua sự cho đi, chúng ta phát hiện được sự phong phú
của bản thân mình.
Lễ Hiển
Linh thách thức chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn,
là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta.
Nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản
thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Chúa Giêsu, mà chúng ta có
khả năng mở ra kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì
chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú.
Bài giảng
2: Tìm kiếm Chúa
Alan đang
hồi phục trong bệnh viện, sau một tai nạn xe cộ. Lễ Giáng Sinh sắp đến. Một đêm
kia, trong khi đang nằm trên giường, anh nhìn ra bên ngoài cửa sổ, và nhận thấy
bầu trời đầy sao. Đột nhiên, anh bắt đầu suy nghĩ về các đạo sĩ, và cuộc hành
trình đi Giêrusalem của họ, để tìm kiếm Đức Kitô.
Thế rồi
anh lại bắt đầu suy nghĩ về bản thân mình, có một điều gì đó mà cho đến nay,
chưa bao giờ anh thực sự làm. Và anh tự nhủ "Mình đã 22 tuổi rồi, mình đã
làm được gì cho cuộc đời mình? Mình đã đi đến đâu?". Câu trả lời là
"Không đi đến đâu". Anh vẫn còn sống theo những chuyện kích động và
phấn khích. Anh đã lãng phí những năm tháng đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình,
những năm tháng mà một nhà thơ đã gọi là "những năm tháng rực rỡ".
Sau đó,
anh suy nghĩ về mối tương quan của anh đối với Thiên Chúa. Các đạo sĩ đã không
có được Chúa ngay từ đầu. Nhưng họ đã tìm kiếm Người, và kiên trì tìm kiếm, cho
đến khi phát hiện ra Người. Đối với anh, thì trái ngược lại. Anh không hề tìm
kiếm Chúa. Anh đã có được Chúa ngay từ đầu. Anh được lãnh bí tích Thanh Tẩy và
được huấn luyện thành người Công giáo. Anh đi lễ nhà thờ thường xuyên, cho đến
năm 15 tuổi. Nhưng đến nay, anh đã bỏ tất cả. Anh đánh mất Chúa. Và thay vì tìm
kiếm Người, thì anh lại cố tình quay lưng lại với Người. Anh đã hoàn toàn rời
xa Người. Ngoài ra, anh còn chống lại Người nữa.
Đối với
anh, đó là một điểm rất tối tăm, khi tất cả những điều này dồn dập đến trong
tâm hồn anh. Nhưng khi bóng tối đạt đến độ dày đặc nhất, thì một điều tốt đẹp
xảy ra. Dường như ngôi sao của Chúa mọc ngay trước mặt anh. Anh nhận ra rằng
ánh sáng của Chúa không hề bị dập tắt, nhưng vẫn còn tiếp tục toả sáng trong
tất cả những năm tháng của cuộc đời anh, ngoại trừ có khi ánh sáng đó bị những
đám mây che khuất. Và một sự thật tuyệt vời đã ló dạng trên anh: Mặc dù anh đã
từ bỏ Chúa, nhưng Người vẫn không hề bỏ anh. Trong tất cả những năm tháng này,
Chúa vẫn đang tìm kiếm anh.
Tâm hồn
anh tràn đầy niềm vui. Chưa bao giờ anh nghĩ rằng mình đáng giá đối với bất cứ
ai, nhất là đối với Thiên Chúa. Và anh đã tự nhủ "Kể từ bây giờ, tôi có
một ngôi sao sẽ không đánh lừa tôi, tôi có một chiếc la bàn sẽ không nói dối
tôi".
Khi các
đạo sĩ tìm thấy Chúa, họ dâng lên Người những lễ vật tuyệt vời –vàng, nhũ
hương, mộc dược. Bây giờ Alan đã gặp được Chúa, vậy anh có thể dâng lên Người
cái gì đây? Có một thời gian, anh đã từng hoàn toàn bị lạc lối. Nhưng rồi anh
nhận ra rằng có điều gì đó mà anh có thể dâng lên Chúa. Anh có thể dâng lên
Chúa chính bản thân mình. Nhưng tất nhiên là trước hết, anh phải tìm thấy bản
thân mình, trước khi anh có thể hiến tặng bản thân mình như một quà tặng cho
bất cứ người nào khác. Tuy nhiên, ít nhất là anh có thể khởi sự, và anh xác
định là phải làm điều đó ngay tức khắc.
Lễ Giáng
Sinh đến, mà Alan vẫn còn trong bệnh viện. Nhưng mọi người đều ngạc nhiên khi
nhận thấy sự thay đổi nơi anh. Cho đến nay, anh luôn mang đầy vẻ cay cú về cuộc
sống nói chung, vụ tai nạn của anh nói riêng. Bây giờ, anh đã có nụ cười và lời
nói vui vẻ với tất cả mọi người. Ai cũng bối rối không biết điều gì đã làm anh
thay đổi. Nhưng chính Alan đã biết điều đó: Chính nhờ sự kiện anh đã gặp được
Chúa. Không ai có thể thực sự tìm thấy Chúa, mà không thay đổi.
Những năm
sau đó, anh nói "Đó là ngày Lễ Giáng Sinh đích thực đầu tiên trong cuộc
đời tôi. Không, tôi không thể nghe được các thiên thần hát trên bầu trời. Nhưng
tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an, mà các thiên thần đã hát trong đêm Giáng
Sinh đầu tiên đó".
Mọi người
đều cần có một ngôi sao để đi theo, giống như những con tàu cần đến ngọn hải
đăng mang ánh sáng, để hướng dẫn chúng vào bến bờ một cách an toàn. Phúc cho
chúng ta, nếu chúng ta đi theo ngôi sao của Chúa ở trước mặt chúng ta, và chúng
ta càng được chúc phúc gấp bội, nếu chúng ta kiên vững đi theo ngôi sao đó
trong toàn bộ cuộc sống của mình. Điều này có nghĩa là chúng ta gắn bó toa tàu
của chúng ta vào ngôi sao đó, một ngôi sao của hy vọng, ngôi sao của Bêlem.
Nhiều người trải qua cuộc sống của họ trong sự tìm kiếm những điều mà chúng ta
có, mà vẫn không tìm thấy được.
Và chúng
ta không được sợ hãi, nếu kết quả đưa đến là chúng ta nhận thấy cuộc sống của
mình thay đổi –sự thay đổi sẽ tốt đẹp hơn. Điều này sẽ đem lại cho chúng ta
niềm vui, mà thế gian không thể đem lại được.
CÂU
CHUYỆN KHÁC: Bức màn được vén lên
Chữ Hiển
linh có nghĩa là sự mặc khải. Sau đây là một ví dụ ngắn gọn và đơn giản: Đôi
khi, trong một ngày u ám, lạnh lẽo của mùa đông, một tia sáng xuất hiện trong
một lớp mây dày đặc, và qua đó, chúng ta thoáng bắt được ánh nắng lấp lánh của
mặt trời. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, tia sáng bị che khuất, và mặt trời lại biến
mất. Nhưng sự thoáng hiện ngắn ngủi của một thế giới sáng sủa hơn, ấm áp hơn,
vẫn có thể đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Chỉ cần nhớ lại điều này
thôi, sự lạ lùng của nó vẫn có thể tác động trong tinh thần của chúng ta.
Cuộc sống
hằng ngày đầy rẫy những sự mặc khải nhỏ bé, đối với những ai có đôi mắt để
nhìn, và có tâm trí để suy gẫm. Chúng len lỏi xuyên qua những khe hở của cuộc
sống bận rộn của chúng ta – một giây phút của sự bình an, hoặc của nét đẹp,
hoặc của tấm lòng tốt.
Vào ngày
này, ngày Lễ Hiển Linh, bức màn bí nhiệm được vén lên, giúp cho các đạo sĩ có
thể thoáng bắt được tia sáng lấp lánh của Hài Nhi ở Bêlem. Một số người nhìn
vào con trẻ Giêsu Kitô, và chỉ nhìn thấy giống như một đứa trẻ khác. Những
người khác, chẳng hạn như Hêrôđê, đã nhìn vào Hài Nhi như một mối đe doạ. Nhưng
các đạo sĩ đã nhận ra con trẻ Giêsu như là Đấng Cứu Độ. Tất cả những người đó
đều cùng có đôi mắt như nhau, tuy nhiên, với những đôi mắt đó, họ không nhìn
thấy cùng những sự việc như nhau. Chính lòng tin đã đem lại khả năng cho các
đạo sĩ, để nhìn xuyên thấu qua bức màn, và "thấy" sự thật ở phía sau
đó.
Tuy
nhiên, ngay cả đối với họ, bức màn cũng khép lại, ngôi sao biến mất, và họ phải
quay trở về nhà. Kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ Chúa đã tạo ra được sự khác biệt gì
cho họ? Xét về một khía cạnh, thì cuộc gặp gỡ này không hề tạo ra sự khác biệt
nào cả: Họ vẫn phải trở về với cuộc sống cũ, công việc cũ của họ v.v... Tuy
nhiên, xét về một khía cạnh khác, có thể nói rằng điều đó đã tạo ra cả một thế
giới, thay đổi đối với họ. Bấy giờ, họ đã có được một tầm nhìn mới, một hy vọng
mới.
Đối với
họ, mặc khải này đã là những giây phút đưa dẫn họ đến với chân lý bằng con
đường tắt. Đó là một ánh sáng loé lên, chiếu tỏ vào cuộc sống của họ, và đem
lại cho từng giây phút của cuộc sống một ý nghĩa mới. Chắc hẳn họ đã dành ra
thì giờ suy gẫm, để thấu hiểu được ý nghĩa của điều mà họ phát hiện được, vào
cuối cuộc hành trình đi đến Bêlem. Nhưng trong những ngày bị mây che phủ, họ
rút ra được lòng can đảm và niềm hy vọng, từ mặc khải mà họ đã được ban.
Giống như
các đạo sĩ, trong ngày lễ này, chúng ta phải đến thờ lạy con trẻ Giêsu Kitô. Và
lại cũng giống như các đạo sĩ, chúng ta phải trở về nhà mình, và tiếp tục cuộc
sống bình thường của mình. Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ nhận thấy cuộc sống
khác biệt hẳn, bởi vì chúng ta tự nhận thấy bản thân mình cũng khác đi. Nơi Hài
Nhi thần thánh, chúng ta nhận ra được thần tính của chính mình.
Đôi khi,
người ta đi hành hương những quãng đường thật dài, để tìm kiếm nhưng kinh
nghiệm thiêng liêng, mà họ vẫn có thể có được ngay tại chỗ ở của họ. Chúng ta
không cần phải đi đến bất cứ nơi đâu. Ngôi sao của Chúa chiếu toả ngay trước
mặt chúng ta ở nơi đây. Nhờ Đức Kitô ngự đến, chúng ta không cần phải sợ hãi
bóng tối nữa. Một ánh sáng đã đến với thế giới, một ánh sáng chiếu toả trong
bóng tối, một ánh sáng mà không ánh sáng nào khác có thể chế ngự được.
11. Lễ
Hiển Linh.
(Trích
trong 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Khi ngôi
sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy tư tế
già Dacaria phát biểu "ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần"
(Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô
phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: "Thuở ấy anh em không có Đức
Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên
lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian
này" (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi
cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông
Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi
sao của hy vọng.
Trong
quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan
hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là
ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy
sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại
truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ
đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính
trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường.
Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức
giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên
vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất
gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: "Ta biết
rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân
của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!". Đối với các nhà
bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một
mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là
đại biểu cho "ý muốn vĩnh cửu". Quan niệm của họ cũng tương hợp với
lời tiên tri của Kinh Thánh: "Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương
trượng trỗi dậy từ Israel" (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất
hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau
đi tìm cho thấy "vì sao xuất hiện từ Gia cóp" hầu tìm ra con đường
sáng cho mình trong một thế giới u minh.
2. Ngôi
sao thần bí
Khi nghe
được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây
là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ
viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong
của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên
ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu
hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng
được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát
khỏi tai hoạ.
Một điều
lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện
tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó
được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu
ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi
sao dẫn đường.
Ngôi sao
trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ,
đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm.
Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên
Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua
của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao
trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm
chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại
của Thiên Chúa.
4. Ngôi
sao của vui mừng.
"Khi
thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng". Vì đối
tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp
sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là
điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: "Thầy nói điều
đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên
trọn vẹn " (Ga 15,11).
Trong
những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương
đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường
dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng
yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và nếu
ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới
mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa
mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.
12. Thiên
Chúa cho ai nhận biết Người?
(Trích
trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Như đã
nói, thật là dại dột nếu muốn xem ký sự của thánh Matthêu như một phóng sự lịch
sự tuyệt đối chính xác. Sự kiện đã xảy ra thật, được thánh chép sử- hoặc cựu
truyền mà ông nhắc lại lồng trong một hình thái ký sự hoà hợp với văn hoá Cựu
Ước và não trạng người đương thời. Những sự kiện rất thật lẫn lộn với những yếu
tố được rút ra từ ký ức tôn giáo của dân tộc và cả từ Kinh Thánh nữa. Đối với
chúng ta, điều chủ yếu là thu lượm ký sự này lời giáo huấn mà thánh sử muốn
truyền đạt. Vả lại ông cũng không chú ý đến sự kiện lịch sử vì bản chất của nó,
chỉ cốt soi sáng để làm nổi rõ tầm mức của sự kiện.
1) Sự
kiện ba nhà Đạo sĩ đến thờ lạy 'Vua của người Do Thái' làm cho Hêrôđê động tính
hiếu kỳ, rốt cục nổi giận, sự kiện đó cho thấy Đức Giêsu được thụ phong một
vương quyền thời đó, thánh Matthêu đem đối chiếu thái độ các đạo sĩ nó tương
phản với cách xử sự của Hêrôđê. Một bên là những người tìm kiếm Chúa – bên kia
là một ông vua chuyên chế bị tư lợi và kiêu ngạo làm mờ mắt. Điều này mời chúng
ta nhớ lại tính chất của Vương quyền Chúa. Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết,
và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh, và đã vào trong Vinh Quang Nước Người.
Mọi vật điều suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi tạo vật suy phục
Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người. Người cũng thông ban cho
các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả và chiến thắng ách
thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện, hơn nữa,
để khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhượng và kiên nhẫn dẫn đưa
anh em mình đến cùng Đức Vua, Đấng mà những kẻ phụng sự cũng là những kẻ thống
trị có quyền bính. Triều đại Chúa là một triều đại của Chân Lý và sự sống của
ân sủng và thánh thiện, của công lý tình yêu và hoà bình' (Ánh sáng muôn dân,
36). Sự phủ phục của các đạo sĩ dưới chân Hài Nhi Giêsu nhắc chúng ta nhớ lại
điều này: muốn nhận biết Thiên Chúa thì phải ao ước thánh thiện, công lý, tình
yêu và hoà bình. Ngược lại, hướng của Hêrôđê chứng minh rằng khi lòng bị sa lầy
trong tham vọng, khắc nghiệt, bất công, thì trí sinh mù quáng.
2) Tại
sao sau khi cho tin đúng, cấp lãnh đạo dân tộc và những ký lục không chịu khó
đi tìm 'Vua của người Do Thái'. Chắc là vì họ không cho rằng công phu tìm kiếm
của các đạo sĩ là quan trọng. Có thể đây là hạng người thần cảm – họ nghĩ vậy –
còn mình là cấp hữu trách, mình phải sáng suốt. Bất hạnh thay, lý trí họ đã biến
thành chủ trương hệ thống hoá cứng rắn. Đa số trong bọn họ thành tâm muốn trung
thành với Thiên Chúa, nhưng lại dựng lên giữa Thiên Chúa và họ một hệ thống chủ
thuyết – lý luận, định kiến – hệ thống đó khiến cho trí tuệ họ không thể hấp
thụ được cái chưa từng thấy, cái bất ngờ. Đó là tình trạng của bất cứ khoa học
nào không quan tâm trước hết đến sự cởi mở do cầu nguyện đem lại. Càng thu thập
về kiến thức vế trí tuệ, càng phải phát triển kiến thức về tâm hồn, là loại
kiến thức giữ cho tâm khảm trong tư thế sẵn sàng nghênh tiếp những sự can thiệp
của Thiên Chúa. Cấp lãnh đạo dân Do Thái đã không nhận ra Đức Giêsu vì họ muốn
Đấng Cứu Thế hiển linh ở trình độ họ, trong uy thế của quyền bính, thông tuệ,
hành động. Nhưng Đấng Cứu Thế đó lại xuất hiện với nét mặt một đứa trẻ, con nhà
nghèo. Những kẻ khiêm nhượng và những kẻ nghèo hèn đã nhận ra Ngài. Chúng ta tự
hỏi: chúng ta đi tìm kiếm Đức Giêsu ở đâu?
13. Thiên
Chúa của các dân tộc.
(Trích
trong "Niềm vui chia sẻ")
Một linh
mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon, Phi Châu. Nhân dịp lễ
Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc gia đình Delvart. Ngài
đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ và rửa tội với tên
thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa con trai tên là
Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ quen nhau dễ
dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê đen và
Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho bạn
Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem cho
đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết
thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê
đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ. Nhưng cậu bé da màu sầm mặt xuống,
thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với bạn:
- Bạn
trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao
vậy?
- Bạn có
Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở nhà đây rồi lại có thêm một người mẹ ở
trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng
ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa Giêsu là Chúa của hết mọi người và Mẹ Maria
cũng là Mẹ của hết mọi người kia mà. Nhất là Mẹ của những đứa con thơ ấu côi
cút như bạn.
Nhưng
Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa tay chỉ tượng Đức Mẹ vừa buồn rầu
nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn
trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn
gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng thì làm sao có đứa con đen.
Thế rồi
sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy Giacôbê trắng một mình từ dưới kho đi lên,
tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ, tiến về phía nhà thờ. Cậu bước ngay tới
máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu biến tượng Chúa Hài Đồng da trắng thành
một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da của bạn Giacôbê đen vậy.
Giáng
Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên thích thú, vừa vui vẻ sốt sắng đón mừng
Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn Giacôbê đen không ngớt nở nụ cười để lộ hai
hàm răng trắng toát. Em sung sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài Đồng da màu, em cũng
có được một bà mẹ da màu trên Thiên đàng.
Một câu
chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng lại mang một ý nghĩa cho người lớn chúng ta trong
ngày lễ Hiển Linh hôm nay: Chúa Giêsu giáng trần không riêng cho một ai, một
dân tộc nào, nhưng là cho hết mọi người, mọi dân tộc: da trắng, da đen, da đỏ,
da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ tìm đến hang đá Bêlem người ta cũng thấy có một
vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển Linh là Lễ Thiên Chúa đến với mọi người. Với
biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh làm người trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá
đổ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị
chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp... Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải
cộng tác với Thiên Chúa làm bừng sáng lên mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh
sao dẫn đường cho người ta đến với Chúa.
Thời đại
chúng ta, Chúa không dùng lời ca của các thiên thần hoặc ánh sao của ngôi sao
lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Chính mỗi người chúng ta được mời gọi
đóng vai "nhà đạo sĩ" để chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu rồi loan
truyền về Ngài cho anh em khác. Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và
hành động như Đức Giêsu. Cha mẹ là "nhà đạo sĩ" thích hợp nhất để
trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái mình. Các thầy, cô giáo là những
người cộng tác với "các nhà đạo sĩ". Các nhà truyền giáo: giáo dân,
tu sĩ, linh mục, là những "nhà đạo sĩ" đi đây đó để giới thiệu Chúa
Giêsu cho những người khác.
Mới đây,
cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề: "Đức Giêsu Kitô trong hội họa"
tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa bế mạc, quả là một
cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Đã có hàng vạn lượt người đến xem, kể
cả người ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều
bạn đã ghi lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng hạn:
"Tôi là một con chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa, tôi
đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với những
cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu" (Tường
Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn sinh viên khác đã viết: "Con không biết
gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là đạo Thiên Chúa.
Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong thế giới này,
và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn tất cả
những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người cho con
lòng tin". (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96
trang 87) v.v... Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi
khám phá ra gương mặt đích thực của Đức Giêsu, chúng ta hãy đem Chúa ra giới
thiệu cho mọi người. Còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng
liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ
không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Vua dân Do Thái sinh ra ở
đâu?" Cũng chính là câu hỏi: "Đức Giêsu là ai?" vậy thì, hỡi các
kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách
Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một
Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con
người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám
phá ra Đức Giêsu Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch: con đường yêu thương.
Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người
đến với nguồn chân lý, nguồn tình yêu và sự sống.
Như ánh
sao dẫn đường ba đạo sĩ lên đường đến với Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy từ bỏ
những lời nói trống rỗng, những công thức, những khuôn mẫu có sẵn và tìm Chúa
trong mọi biến cố cuộc đời, để từ đó chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em đồng
bào bằng chính cuộc sống của chúng ta.
14. Tìm
Đức Kitô
Ba vua
tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của người Do Thái về một
thời đại vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm tin ấy có thể đã lan tràn
ra hàng trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng? Có người đã nêu ra giả
thuyết rằng có những cuốn lịch trong các miền nói trên ghi rằng trong thời gian
ấy Vị Chúa Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở Palestine. Dù sao, chúng ta
thấy một số người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về đề tài này, ta có thể nêu lên
vài suy nghĩ sau đây:
1) Tìm
Chúa Kitô đòi hỏi trước hết phải có một thái độ tinh thần căn bản
Người ta
sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể đưa tới Chúa. Cứ chấp
nhận rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí mong chờ một ông vua Cứu
Thế, dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi sao, một dấu hiệu, tâm
hồn họ tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết nhận ra, giữa trăm ngàn
yếu tố tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta đến Đức Kitô không? Dấu
hiệu ấy có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm thấy cần phải phó thác cho
Chúa, vì chỉ mình Người có sức soi sáng và giải quyết. Có thể là một niềm vui
lớn lao, từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm tạ Chúa. Dấu hiệu ấy cũng có
thể là một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu biết nhìn, ta sẽ nhận ra sự hiện
diện kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp như thế, ta cần phải để ý tới những
dấu hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo
sĩ đã lên đường
Muốn tìm
Đức Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng 'yên chuyện' và 'an tọa' của mình. Có
người 'an tọa' trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác, trong một địa vị 'ngon
lành'; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương thiện v.v... Bằng cách này
hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng tự đóng kín trong tình
cảnh 'yên thân', nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá ra một cái gì lạ lùng,
chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được sự mong chờ của ta, với
điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo
sĩ tìm kiếm một cách tích cực
Bao lâu
ánh sao còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn đường. Nhưng kìa, ngôi sao
biến mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng. Không hồ nghi về tính xác
thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu vật chỉ đạo lạ lùng, tức
ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han. Họ đi đến
những nhà hữu trách tôn giáo. Những người này không muốn bị phiền hà về vụ ông
Vua mới sinh ra, nhưng họ cho ba người khách những lời chỉ dẫn đúng. Thế là các
đạo sĩ được 'thưởng công': họ tìm thấy Chúa Giêsu. Trong đời ta có thể đã có
những dấu này, dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan biến đi. Bổn phận ta bây giờ
là tiếp tục nỗ lực tìm kiếm với những phương tiện thông thường sẵn có. Lúc ấy
Đức Kitô sẽ không lẩn tránh đâu.
15. Ba
vua
Lễ Hiển
Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo
sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Dân
ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời
đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được thực
hiện cho muôn dân.
Chúng ta
hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương
tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ
nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài
đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người
khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy và chẳng hiểu.
Có lẽ
chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi của
Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng, tiền
bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ dần, cứ
tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ
hai, đó là sau khi nhận ra sứ điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho
những khó khăn chờ đón. Các ngài có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối
dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt
khoát lên đường, không chần chừ do dự, và đã trung thành với quyết định của
mình cho đến cùng. Mặc cho người đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước
vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do Thái.
Thái độ
của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh
Augustinô diễn tả như sau:
"Các
ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ,
họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài
nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài
rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến,
và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy".
Có lẽ
chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi ba
trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện nơi
những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi nhận
ra và giúp đỡ.
Điểm thứ
ba, đó là sau khi đã khám phá ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho
Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng
đại của mình.
Còn chúng
ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở chặng
cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn tay
trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng,
các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được thiên
thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê hương
xứ sở của mình.
Qua đó
chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân
phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng
ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó, chúng
ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng những
phản bội.
Hãy noi
gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa. Hãy
bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.
16. Ra đi
(Trích
trong 'Manna')
Suy Niệm
Thiên
Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel. Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác,
vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà
chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.
Đối với
họ, bầu trời là một cuốn sách, các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu. Có
thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu Con Ngài
chào đời.
Thiên
Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó để mời họ lên đường đi gặp
Đấng Cứu Độ.
Hôm nay,
Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng muôn vàn cách thức khác nhau,
khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa
vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao
có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: khát vọng sự thật, tự do, ấm
no, hạnh phúc?
Ánh sao
đưa con người lên đường tìm kiếm, và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt
cuộc hành trình.
Các nhà
chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà, ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến, để đón
tiếp cái bất ngờ.
Họ chỉ
mong được bái lạy vị Vua mới sinh. Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao
sang, mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh
tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường, sống trong một căn nhà bình
thường.
Hêrôđê
bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
Các
thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ không muốn lên đường
tìm kiếm.
Các nhà
chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ, nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm
kiếm, tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn có
đám đông những người không phải là Kitô hữu đang miệt mài nghiên cứu trong mọi
lãnh vực, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng..., đang gắng công tu tập
trong các tôn giáo, hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn. Có ánh
sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi. Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ
nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các nhà
chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.
Hôm nay,
còn bao người vẫn trên đường dong ruổi. Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng
hay. Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.
Lễ Chúa
Hiển Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa nơi anh chị em
ngoài Kitô giáo.
Có khi
chúng ta giống các thượng tế và kinh sư tự mãn với cái biết lý thuyết của mình
về Thiên Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì
chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng khiêm tốn học hỏi nơi
những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Bạn có
nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không?
Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?
Thiên
Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng
đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng
quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa
nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa
một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín
và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha
nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng,
xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh
phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
17. Ngôi
sao dừng lại
(Trích
trong 'Manna')
Suy Niệm
Người Do
Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ. Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà
Giacóp (x.Ds 24,17).
Nói một
cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia là chờ đợi một vì sao xuất hiện.
Hình ảnh
vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ cho
dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).
Nhưng
không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ. Theo các sử gia đáng tin cậy ở
thế kỷ đầu, cả dân ngoại cũng tin rằng Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ
xứ Giuđê.
Phải
chăng đó là lý do khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập xa xôi đã lặn
lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương, khi họ thấy trên bầu trời xuất hiện vì
sao lạ?
Tuy
nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau trước sự hạ sinh của Vua dân
Do Thái.
Hêrôđê
thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay. Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh
của vị Vua mới để âm mưu loại trừ một đối thủ.
Các
thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem lại có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ
Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia, nhưng họ chẳng buồn cất bước tới
Bêlem.
Còn các
nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại, đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc
phiêu lưu tìm kiếm. Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng quân vương. Dù Đấng ấy
chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với
cả lòng thành.
Lễ Hiển
Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo.
Các nhà
chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà
gặp được Chúa?
Mỗi môi
trường cần một thứ ánh sáng riêng. Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh
sáng. Chúng ta phải tìm hiểu xem đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con
người.
Ánh sáng
của sự chân thành, của phục vụ yêu thương;
Ánh sáng
của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một nụ
cười, một ánh mắt, một lời khích lệ cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao.
"Giữa
một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl
2,15).
Chúng ta
chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr
1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì
mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao: ánh sao nói được điều gì đó với người đang
chờ đợi, ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường, ánh sao ngừng lại
trước nhà của Con Thiên Chúa để Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp nhau.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Những
người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở
sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ
nào, điều kiện nào?
Ở môi
trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ ánh
sáng đó không?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu,
Tạ ơn
Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn
năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn
Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là
vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho
chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền
và thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong
lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây
của cuộc sống.
Lạy Chúa
Giêsu,
cuộc
chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng
chúng con.
Ước gì
chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn
lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
18. Ngôi
sao dẫn đường
(Trích
trong 'Manna')
Suy Niệm
Đoạn Tin
Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại theo ánh sao mà tìm đến bái yết
Hài Nhi
Một loạt
câu hỏi thường được đặt ra hôm nay. Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho
họ đi? Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng thì tại sao thành Giêrusalem lại
không nhận biết? Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới Bêlem? Có tin được
chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không? Các câu hỏi trên đều xoay quanh
ngôi sao lạ. Một ngôi sao như thế có thật không hay đây chỉ là một truyền
thuyết?
Thánh
Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái.
Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen. Điều quan trọng không phải
là có một ngôi sao lạ, một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường. Điều
quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta: Đức Giêsu không phải chỉ là Mêsia
cho dân Do Thái, Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân loại.
Các nhà
chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ
khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ
nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả
và bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài
ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong
manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang
khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng
cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp
mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên
Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu
Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao
trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải
trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm,
như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi
chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu
Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn vào sự bấp bênh, mong
manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Sống đời
Kitô hữu là bước vào một cuộc hành trình đức tin. Trong cuộc hành trình đầy cam
go ấy, vẫn thường có những ánh sao. Có khi nào bạn gặp được một ánh sao lạ
hướng dẫn bạn không?
Thiên
Chúa đi tìm con người và con người đi tìm Thiên Chúa. Bạn có thấy đó là hai yếu
tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu không?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ
những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn
Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách
nhiệm nặng nề.
Xin cho
chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền
và thất vọng.
Xin cho
chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và
biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa
Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và
trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng
can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
19. Niềm
tin: một chuyến đi - ĐGM Vũ Duy Thống.
(LÀM NỤ
HOA TRẮNG - Trg. 13)
Phúc Âm
hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của
những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại
Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường
khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng
lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này
và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í
ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ
bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng
chỉ biết bàn ra.
Nhưng
giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy,
người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc
tính tiêu biểu:
1) Niềm
tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai
chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem "triều bái Vua dân Do Thái mới
sinh" được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì
gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì
những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn
thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những
người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để
tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm
cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn
thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi
đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình
thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ
một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói
là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng
người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự,
niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi
người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể
có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra
khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu
đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra
khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ
hành.
2) Niềm
tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng
ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con
người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là
những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện "thức
lâu mới biết đêm dài" để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm,
mà còn là chuyện "lửa thử vàng gian nan thử đức" trong những lúc
Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc "ba Vua toan
mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn". Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối
diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành
tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng
biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái
lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế
và kinh sư trong dân.
Đêm Noel
Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những
không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như
vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính
nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se
lòng.
Thử thách
đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên
lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc
sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những
cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách:
niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin
chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu
chút nào.
3) Niềm
tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không
phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể
tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục
12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc
đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do
"càng đông càng vui" mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất
của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người
thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện
buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt
giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời
đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo "Đạo yêu
nhau", tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
"Ngựa
chạy có bầy, chim bay có bạn", tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ
nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu
nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo
là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương,
"giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống,
tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh". Con đường khác
ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn
bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống như
Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân "Tôi
tin", nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa
cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh
tuyên tín "Chúng tôi tin". Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ
khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại,
dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin
như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách
và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ
mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng
cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là
chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh
động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình
ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh
danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới
đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
20. Những
con mắt hiển linh.
Trong bài
Phúc Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy. Có mắt để
phát hiện những điều bí ẩn, những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ:
"Họ thấy Con Trẻ và Mẹ Ngài và họ liền sấp mình thờ lạy Ngài".
Họ thấy
gì? Họ tưởng tượng điều gì? Từ bậc quyền cao chức trọng nào họ phải xuống để
thích ứng ngay với thực tế rất khiêm hạ này: một cặp vợ chồng và đứa con của
họ? Các đạo sĩ đã "thấy".
Lời mời
gọi đầu tiên của lễ Hiển Linh là: thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì có nơi
Đấng Tuyệt Đối duy nhất này, thầm bảo rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy Thiên
Chúa, như phụng vụ Acmêni diễn tả rất hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển linh.
Đấng mà con người không thấy nay tỏ hiện để chúng ta được thấy.
Làm sao
không nghĩ đến câu nói nổi tiếng của thánh Irênê mà luôn luôn phải trích dẫn
nguyên vẹn: "Vinh quang của Thiên Chúa chính là sự sống của con người, và
sống đối với con người chính là thấy Thiên Chúa".
Thấy
Chúa. Thánh Gioan nói trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình: "Không ai thấy
Thiên Chúa; chính Con duy nhất ngự trong lòng Chúa Cha mới tỏ bày Ngài cho
chúng ta".
Ước gì
chúng ta có mắt để thấy những điều này! Con mắt đức tin, con mắt xưa kia, ở
Palestine, biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và cái nhìn nội tâm
giờ đây làm chúng ta phải sấp mình trước mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila
đã viết: "Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về
Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi".
Cái nhìn
nội tâm này, sức mạnh của con mắt đức tin này không được đóng kín chúng ta
trong một tháp ngà nhỏ: "Anh và tôi!" hoặc trong một tháp ngà lớn
hơn: "Chúng ta, những người theo Kitô giáo". Đây là lời kêu gọi thứ
hai của lễ Hiển Linh: nhận rõ ràng Con Trẻ xuất hiện vì tất cả chúng ta. Đàng
sau các đạo sĩ, ta thấy được những đám đông mà các vị là biểu tượng, những đám
đông mà Isaia phát hiện bằng con mắt hiển linh: "Hãy nhìn xem, hỡi
Giêrusalem! Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên ngươi, các
dân tộc hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn xem! Họ đang quy tụ lại".
Người ta
nói rằng định mệnh hạn chế cái nhìn của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng cho
những gì là to lớn của một thế giới đang chờ đợi Chúa và chúng ta cúi xuống
nhìn vào cuộc sống của chúng ta và nhìn vào giáo xứ của chúng ta. Thỉnh thoảng,
những đám đông hoan hô Đức Thánh Cha làm cho chúng ta cảm nhận làn sóng Công
Giáo, nhìn thấy muôn dân họp lại đời đời. Nhưng chúng ta nhanh chóng trở về với
chúng ta, những nhóm nhỏ đang hành đạo.
Chúng ta
có quá dễ dàng chấp nhận làn sóng những người không tin đang gia tăng hay
không? Quen sống trong những khu vực theo Kitô giáo, ở giữa những môi trường mà
hai tiếng Thiên Chúa không còn ý nghĩa gì nữa có phải là điều bình thường hay
không?
Lạy Chúa,
xin khơi dậy nơi chúng con lòng nhiệt thành của những người theo Kitô giáo đầu
tiên mà đối với họ lời của Chúa Giêsu vẫn còn sống động: "Các con hãy đi
dạy dỗ muôn dân" (Mt 28,19). Ước chi Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội vào thời
đại có nhiều người không tin này, không ngừng chọn lựa làm những người thừa
sai, ước chi trong số mười linh mục người ta không chọn chín vị để nâng niu
chiều chuộng các tín hữu và một vị để xông pha những chỗ mà Chúa không còn ở đó
nữa.
Trong khi
cầu nguyện như thế con cảm thấy con cũng thiếu tinh thần truyền giáo. Hay có lẽ
con sợ hãi. Con sống ở giữa những anh chị em không thấy Chúa và con làm như thể
con cũng là một người không thấy Chúa. Nhưng làm sao để nói với những người ở
ngoài đường, ở trong các cửa hàng và trong nhà máy về Chúa? Và thậm chí đơn
giản hơn là nói với anh A chị B mà con thường gặp từ bao nhiêu năm nay nhưng
không nói gì với họ về Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm của họ chăng? Phải tôn
trọng rồi. Con coi thường khi người ta nói về những chứng nhân của Giêhôva
nhưng con, con làm gì để truyền giáo?
Con làm
chứng nhân như thế nào đây? Thật đơn giản khi nhắc lại rằng người ta làm chứng
bằng cuộc sống của mình, con biết rõ rằng đôi khi việc loan báo Tin Mừng cần
đến lời nói, thế mà con im lặng. Thậm chí sau cùng thì con không còn thấy những
người có lẽ đang chờ đợi chứng tá của con nữa. Xin Chúa cho con có những cặp
mắt của người tông đồ, những con mắt hiển linh.
21. Từ bỏ
Hôm nay,
chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại diện
là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu hỏi
thứ nhất: các ngài là ai?
Phúc âm
đã dùng danh từ "magi" để nói về các ngài. Magi có nghĩa là các vị tư
tế, ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là thiên văn, vì
thế họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn có nghĩa là
các nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc âm không
xác định rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người học rộng biết
nhiều và thông thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những nhà bác học,
thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài ra,
dựa vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh vịnh 71:
- Từ
Tác-sít và hải đảo xa xăm,
Hàng
vương giả sẽ về triều cống.
Cả những
vua Ả-rập, Xơ-va,
Cũng đều
tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân
vương phủ phục trước bệ rồng,
Muôn dân
nước thảy đều phụng sự.
Tertulianô
đi tới kết luận: các người là những bậc vương đế. Vì thế, từ xa xưa người ta
thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân trên không được xác thực
cho lắm.
Câu hỏi
thứ hai: các ngài có bao nhiêu người?
Những bức
bích họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu, có bức vẽ hai vị, có bức
vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ tới...mười hai vị. Ngày nay,
chúng ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ vật các ngài dâng tiến.
Câu hỏi
thứ ba: các ngài từ đâu mà tới?
Magi là
hạng người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa thường vẽ các ngài
với y phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài từ Ba Tư mà đến. Tuy
nhiên, lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ nói các ngài từ
phương đông mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường dùng để gọi xứ Ả
Rập. Hơn nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là thổ sản của xứ
này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng,
câu hỏi thứ bốn: đâu là bài học chúng ta cần ghi nhận?
Bài học
chúng ta ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các ngài là những người
giàu sang, có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế nhưng một khi đã
nhận biết ý Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám liều, dám từ bỏ tất
cả để lên đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng thế,
các ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào tiền bạc giàu sang, nào
địa vị chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu vô định, dưới sự soi dẫn
của một ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đã phải
chấp nhận biết bao nhiêu nguy hiểm: nào là những nụ cười mỉa mai của bà con bè bạn,
nào là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường dài...Thế nhưng, các ngài vẫn
cất bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy
nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ,
phải hy sinh, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn
theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin
đưa ra hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường hợp của Abraham. Ông
đang sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế nhưng Thiên Chúa đã
hiện ra bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà Ngài sẽ trao ban làm
sản nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi già và có được một
mụn con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa lại truyền phải sát tế mà
dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến,
đó là là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống yên ổn bằng nghề chài
lưới, thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên tiếng gọi:
- Hãy
theo ta.
Lập tức
các ông từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân yêu để bước theo Chúa.
Với
Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau khi nghe tiếng gọi
của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ mẫu
gương của ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham và của các tông đồ,
chúng ta đi tới một kết luận: Muốn theo Chúa, muốn chu toàn thánh ý của Ngài,
chúng ta cũng phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh tất cả, dám dấn thân
vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng ta có đủ quảng đại để
đáp trả tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện những điều ấy không?
22. Đến
thờ lạy.
Xưa kia
có một tu sĩ thánh thiện sống ở Ai Cập. Một ngày nọ có chàng thanh niên đến
thăm và muốn xin ngài dạy bảo. Anh thỉnh cầu với tu sĩ: "Thầy là người
thánh thiện, xin thầy chỉ cho con biết làm thế nào tìm thấy Thiên Chúa".
Tu sĩ là người khỏe mạnh và lực lưỡng. Ngài hỏi chàng thanh niên: "Anh có
thực sự muốn đi tìm Thiên Chúa không?" Chàng thanh niên trả lời:
"Đúng vậy, thưa ngài, con thực sự ước ao muốn tìm kiếm Thiên Chúa".
Sau đó tu
sĩ dẫn chàng thanh niên xuống bờ sông. Thình lình, ngài túm lấy cổ anh rồi nhấn
đầu xuống nước. Thoạt tiên chàng thanh niên nghĩ rằng tu sĩ ban cho anh nghi
thức thanh tẩy đặc biệt giống như Phép Rửa tội của thánh Gioan Tẩy giả ở bờ
sông Giođan. Nhưng sau gần hai phút tu sĩ vẫn không buông ra, anh bắt đầu vùng
vẫy. Dù vậy tu sĩ vẫn dìm anh dưới nước. Bị ngộp thở, chàng thanh niên đã phải
vùng vẫy mãnh liệt hơn nữa. Sau vài phút, tu sĩ lôi cổ anh lên khỏi mặt nước và
nói: "Khi nào anh ước muốn tìm Thiên Chúa mạnh mẽ như anh ước ao có không
khí để thở, lúc ấy anh sẽ tìm thấy Thiên Chúa".
Hôm nay
thánh Matthêu nói với chúng ta về những người có một ước muốn mãnh liệt đi tìm
kiếm Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Đó là các nhà đạo sĩ.
Một số
người Kitô hữu gốc Do Thái trong cộng đoàn của Matthêu thắc mắc rằng theo Đức
Giêsu có phản bội lại đức tin của tổ tiên không. Họ hỏi: "Thưa ngài
Matthêu tại sao nhiều người không phải là Do Thái đang đi theo Chúa Giêsu,
trong khi đa số những người đồng hương Do Thái lại từ chối Ngài?" Matthêu
đã trả lời rằng vì những người không phải Do Thái, những người ngoại trở lại đã
có một lòng ước muốn mãnh liệt tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Trái lại, những vị lãnh
đạo Do Thái nghĩ rằng họ đã có Thiên Chúa rồi, họ nhận thấy không có lý do gì
phải đi tìm kiếm Đấng họ đã có. Đối với họ, có Đấng Cứu Thế thì cũng tốt, nhưng
không phải là vấn đề cấp thiết như sự sống và sự chết. Do đó, họ đã không có
một lòng ước ao mãnh liệt để tìm kiếm Ngài.
Các nhà
đạo sĩ chính là những nhà thiên văn đã kiên trì nghiên cứu trong Thánh Kinh,
sách của người Do Thái, nói về những dấu hiệu xuất hiện trên trời, những dấu
hiệu của Đấng Cứu Thế đang đến. Họ theo dõi hằng đêm, cho đến khi khám phá thấy
một vì sao. Vì lòng ao ước tìm kiếm chân lý mãnh liệt họ đã từ bỏ xứ sở của
mình và lên đường. Đây là cuộc hành trình rất vất vả, khổ cực và đầy nguy hiểm
trong sa mạc với đoạn đường dài 800 dặm, khoảng 1280 km, từ Babylon tới
Giêrusalem. Còn chúng ta, chúng ta có khao khát muốn tìm gặp Chúa hay không?
23. Suy
niệm của JKN
Câu hỏi
gợi ý:
1. Theo
bài Tin Mừng, những kẻ gặp được Đức Giêsu là người có đạo hay ngoại đạo? Tại
sao? Bạn có rút ra được kết luận gì không?
2. Có
Kinh Thánh, giáo huấn của Chúa và Giáo Hội trong tay, điều đó đã đủ để ta gặp
Chúa chưa? Còn thiếu điều gì nữa?
3. Trong
thời đại này, ta có thể tìm gặp Chúa ở đâu? trong nhà thờ? trong phụng vụ?
trong các bí tích? hay nơi những người anh em chung quanh ta? Theo tinh thần
của Tin Mừng, thì Chúa muốn ta gặp Ngài ở đâu hơn?
Suy niệm
1. Người
ngoại cũng được vào Nước Trời
Ngày xưa,
những người theo đạo Do Thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái,
nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứu rỗi. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy
quan niệm ấy của họ: «Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng:
"Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể
được cứu độ"» (Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm
tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay mạc khải một sự thật
hoàn toàn ngược lại quan niệm ấy.
Qua bài
Tin Mừng, ta thấy chính những người Do Thái – mặc dù biết Đấng Cứu Thế sinh ra
tại đâu – lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm
Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng tặng vật cho Ngài lại là dân ngoại
từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do Thái chẳng những không
tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho
người Do Thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối,
nên đã được đem đến cho dân ngoại: «Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng:
"Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa,
nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống
đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại» (Cv 13,46). Và lịch sử cho
thấy dân ngoại vô số người đã vào Nước Trời – mà dấu chỉ là Giáo Hội – đang khi
người Do Thái lại đứng ở ngoài. Thật đúng với câu Đức Giêsu nói: «Từ phương
đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác
và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối
tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12). Đức
Giêsu cũng đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên sự thật này: xem Mt 21,28-32 (Hai
người con kẻ nói vâng người nói không), Mt 21,33-46 (Những thợ vườn nho sát
nhân), Mt 22,1-14 (Tiệc cưới).
2. Bài
học cho người Kitô hữu hôm nay
a) Có
Kinh Thánh và giáo lý trong tay... không đủ!
Điều trớ
trêu trong bài Tin Mừng hôm nay là người Do Thái – đặc biệt những tư tế và luật
sĩ – có Kinh Thánh trong tay, nên họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu, và lúc
nào họ cũng tỏ ra mong chờ Đấng ấy đến. Thế nhưng những người gặp được đấng Cứu
Thế – các đạo sĩ và mục đồng – lại là những kẻ chẳng biết gì về Kinh Thánh.
Điều ấy chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ sao?
Người
Kitô hữu hôm nay có đủ mọi phương tiện để được cứu rỗi: Kinh Thánh (Cựu và Tân
Ước), giáo lý, giáo huấn Giáo Hội (các văn kiện Tòa Thánh), các sách thần học,
tu đức, luân lý, rồi các bí tích, các giờ phụng vụ... Nhưng hãy coi chừng kẻo
lịch sử lại lập lại «y trang» như cách đây hơn 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho
thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn phải
nhạy bén để biết thời điềm, đồng thời thật sự lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do
Thái – cụ thể là các tư tế và luật sĩ – có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các
đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao
của Ngài), nhưng đã không lên đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những
tập tục đạo đức của họ, với cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng
Cứu Thế sẽ chủ động đến để gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật
đã xảy ra không phải như vậy.
b) Điều
cốt yếu là tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và tha nhân
Bài Tin
Mừng hôm nay mời gọi người Kitô hữu xét lại xem: cách sống đạo của chúng ta có
giúp chúng ta đến gặp Chúa hay không, nghĩa là có thể đem lại ơn cứu độ cho
chúng ta hay không. Chúng ta đừng an tâm tưởng rằng cứ giữ những tập tục đạo
đức truyền thống cho tốt là bảo đảm vào được Nước Trời. Như thế không đủ! Điều
cốt yếu để vào được Nước Trời không chỉ là tin vào Đức Giêsu mà còn phải thể
hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài: «Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em» (Ga 13: 34). Nghĩa là chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu
của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mà tình yêu đối với Thiên Chúa lại
được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến
Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không
yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà
họ không trông thấy» (1Ga 4,20).
c) Tình
yêu phải được thể hiện thành hành động thật sự
Giấy
thông hành để vào Nước Trời chính là tình yêu, mà phải là tình yêu đích thực.
Không ai thiếu tình yêu mà vào Nước Trời được, vì Nước Trời là Nước của Tình
Yêu. Tình yêu đích thực tự bản chất là phải được thể hiện thành hành động. Nếu
«đức tin không có hành động thì là đức tin chết» (Gc 2,17), thì cũng vậy, tình
yêu không có hành động là tình yêu giả hiệu. Với tình yêu giả hiệu, chúng ta
không thể vào Nước Trời được.
Nhưng làm
sao ta dám nói là ta có tình yêu đích thực đối với anh em mình khi họ lâm nạn
mà ta lại khoanh tay đứng nhìn? Làm sao tình yêu của ta là đích thực được khi
ta thấy rõ ràng anh em mình đang chịu bất công mà ta lại không chịu lên tiếng
hay can thiệp, nhất là khi tiếng nói của ta có thể rất hữu hiệu? Nếu ta thấy
anh em mình chịu bất công tỏ tường mà vì muốn yên thân ta lại làm chứng với mọi
người rằng đó không phải là bất công, thì tình yêu của ta là chân thực sao
được? Nếu cách hành động của ta là như thế, thì dù ta có tuân thủ giữ những tập
tục truyền thống trong tôn giáo một cách hoàn hảo, không chê vào đâu được,
chúng ta vẫn luôn luôn ở ngoài Nước Trời.
d) Cần
cảnh giác với thứ đạo đức hương nguyện, thiếu việc làm
Tệ hơn
nữa, là khi chính chúng ta đã không chịu thể hiện tình yêu, mà lại cổ võ một
thứ đạo đức không việc làm, luôn luôn đề cao việc đọc kinh cầu nguyện, dâng
thánh lễ... mà không hề nhấn mạnh bổn phận phải dấn thân cho anh em, phải quan
tâm mưu cầu hạnh phúc cho những người chung quanh, biến cải xã hội nên công
bằng và tốt đẹp hơn, thì phải chăng chúng ta đang tiếp tay cho kẻ ác ru ngủ
quần chúng, làm tê liệt sức đấu tranh cho công bằng xã hội của họ? Phải chăng
chúng ta đang biến tôn giáo của chúng ta thành «thuốc phiện» thật sự? Chúng ta
quên rằng «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng
chân thành» (Mt 23,23). Và có thể chúng ta miệng thì nói về Nước Trời, nhưng
thật sự ta lại dẫn quần chúng đến một nơi khác vì những giáo huấn của ta khác
hẳn với tinh thần Tin Mừng? Đức Giêsu nói: «Các người rảo khắp biển cả đất liền
để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho
họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người» (Mt 23,15), liệu câu này có đúng với
ta chăng? Vì nhiều khi cứ để họ ngoại đạo, họ lại quan tâm đến việc thể hiện
tình yêu với tha nhân hơn khi họ vào đạo? Đến khi vào đạo, họ lại nghe lời ta
chỉ biết quan tâm tới những tập tục đạo đức cổ truyền?
Trái lại,
những người không có Kinh Thánh trong tay, không có giáo lý hay giáo huấn của
Giáo Hội, không có bí tích, nhưng họ lại có tình yêu đích thực, tức có giấy
thông hành để vào Nước Trời. Rất có thể họ lại vào Nước Trời trước chúng ta, là
đối tượng ưu tiên của Nước Trời, là những kẻ lúc nào cũng nói về Nước Trời mà
không hành động cho Nước Trời! Thánh Phao-lô nói: «Người ta được Thiên Chúa coi
là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật»
(Rm 2,13), và «nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy
họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao» (Rm
2,26). Bài Tin Mừng hôm nay và nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy
viễn cảnh ấy! Và đó cũng là một lời cảnh cáo chúng ta!
Cầu
nguyện
Lạy Cha,
nhiều khi chúng con làm chuyện hết sức khờ dại. Chúng con luôn luôn đề cao đạo
của mình trước mặt mọi người, nhưng chính chúng con lại chẳng sống tinh thần
đạo ấy. Đang khi có nhiều kẻ ngoại giáo lại thật sự sống được tinh thần ấy.
Việc đề cao tôn giáo của chúng con, tự nó là một điều rất tốt, nhưng nhiều khi
lại xuất phát từ một khuynh hướng kiêu ngạo tập thể chứ không phải là tình yêu.
Vì nếu nó xuất phát từ tình yêu đích thực, thì chúng con đã phải thể hiện tình
yêu ấy bằng sự dấn thân đích thực cho những anh em đang chịu khốn khổ của mình.
Sự im lặng trước bất công, sự thụ động trước cảnh khốn cùng của đồng loại chứng
tỏ chúng con chưa có tình yêu đích thực. Vì thế, việc đề cao tôn giáo của chúng
con chỉ là một hình thức kiêu căng tập thể, là điều Cha rất ghét. Xin cho chúng
con biết sống đích thực tinh thần đạo của mình trước khi đề cao nó, để sự đề
cao ấy có giá trị đích thực làm sáng danh Cha. Amen.
24. Lễ
vật
Các nhà
bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ
Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ
đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này... Thế nhưng những lễ vật này có
ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết
là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng,
cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định:
- Hãy
kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
Đồng thời
thánh Phaolô còn nhấn mạnh:
- Ai có
thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng yêu mến đối với Đức Kitô, dù bắt bớ, dù tù đày, dù
đòn vọt, dù đói khát cũng không thể nào được.
Vàng còn
làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị
chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội. Hãy trung thành với Chúa
cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Sau hết,
vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa
dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay
thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn
biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ vàng ròng chứ không
phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến
là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô.
Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc
Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể.
Qua hình
ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên
Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều
hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là
Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng
ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong
Phúc âm.
Nhũ hương
còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh vịnh đã viết:
- Lạy
Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa.
Sự cầu
nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm hồn chúng ta với Thiên
Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta. Đồng thời sự cầu nguyện
còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng Chúa hơn cả là lời nguyện
của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của Giáo Hội chúng ta tìm thấy
lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng
là mộc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ
được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ:
- Mỗi khi
anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Ngài trở
lại.
Chính vì
thế, thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta:
- Anh em
hãy mang lấy dấu tích của Đức Kitô nơi thân xác anh em.
Vì thế,
mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn
theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Tiếp đến,
mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau
vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ
những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần vào những đau khổ của Đức
Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm
chứng cho Chúa.
Mỗi người
chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài
Nhi hay chưa?
25. Ngôi
sao hy vọng
Tại nước
Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người,
là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh
giun chỉ.
Tộc
trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều nước và nhiều tôn giáo nhưng không
kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với Đức cha Peters thuộc giáo phận Buca ở
Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: "Bộ lạc chúng tôi chẳng tốt
lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng tôi xin Đức cha và các tín
hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời".
Đức Cha
Peeters và giáo dân của người không chỉ cầu nguyện mà còn hành động. Họ chung
tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày càng tốt đẹp hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ,
1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào Giáo dân Hoạt động cho thế
giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.
Ngày nay,
bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng nước độc thì nay là
phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính thành phố này lại là chiếc nôi của một
phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Số
người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều vô kể.
"Chúng
tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện". Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh
sao lạ, và đã mau mắn lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy. Vâng, chính trong
niềm hy vọng tràn đầy mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến với Đức cha Peeters
như ánh sao hy vọng. Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát cảnh bệnh tật và nghèo
đói, ông hy vọng dân tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh tiến bộ của nhân loại.
Cuối cùng, hoa hy vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của ông đã được ngôi sao hy
vọng tỏa sáng để họ không chỉ đến với nền văn minh khoa học mà còn tiến bước
vào nền văn minh tình thương.
Ngôn sứ
Isaia đã nói: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy
hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi".
Ánh sáng
bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng của muôn dân. Kể
từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân loại mò mẫm
trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian.
Ngôi Sao
Hy Vọng đã xuất hiện ở trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn đi.
Lễ Hiển
Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, trong đó
có tất cả chúng ta.
Nếu Chúa
là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta, thì Người
cũng muốn chúng ta sẽ là những ánh sao, luôn chiếu tỏa niềm tin yêu và hy vọng
nơi con người.
Nếu Chúa
là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người
thất trung phản bội, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng về chính mình.
Nếu Chúa
là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi trông cậy nơi Người,
thì chúng ta cũng đừng bao giờ để một nỗi thất vọng nào chạm được đến anh em.
Tuy Ngôi
Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương Đông đã 2000 năm qua, nhưng tại Á Châu này tỷ lệ
những người được Ngôi Sao chiếu rọi mới chỉ có 10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của
Giáo hội và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II bày tỏ trong Tông Huấn "Giáo hội tại Á Châu" như sau:
"Những kẻ tin vào Chúa Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh
mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát, họ sống
đức tin cách sống động đầy hy vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất tình yêu,
mới có thể mang lại".
"Tham
vọng duy nhất của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình,
để tất cả dân Á Châu "có sự sống và sống dồi dào".
26. Món
quà
Nhìn vào
các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức
Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng... Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục
như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi
mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?
Theo mẫu
đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi
họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà
chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên
văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.
Có nhiều
người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại?
Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định
rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được
coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự
hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu
đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là
cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan
trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.
Trước
hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành
trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là
một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự
thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được
Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có
đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì
những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn
kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.
Chúng ta
phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui
có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và
khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của
chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn
tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc
vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.
Hơn nữa,
đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh
Giacôbê đã nói: "Đức tin không có việc làm là một đức tin chết".
Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống
gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích
lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh
hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà
chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn
thờ.
Thứ hai,
các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại
lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia
chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và
yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.
Văn sĩ
Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa
cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư.
Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn
vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba
viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc
thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô
gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối
cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các
hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành
động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng.
Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa
hai tay ra và mỉm cười nói với ông: "Con đã dâng cho Ta món quà quí giá
nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử
đối với tha nhân".
Chúa
Giêsu đã nói: "Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính
Ta". Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh
chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta
làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì
chúng ta trao tặng cho tha nhân.
27. Lễ
Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
Trong một
buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang sưởi ấm quanh đống lửa. Khi
ấy, hai người trong bọn họ tranh luận với nhau để so sánh xem đạo của ai là đạo
thật. Okoro, người cao tuổi nhất trong bọn chỉ ngồi yên lặng nghe hai người kia
tranh luận. Đột nhiên, hai người kia quay sang nói với Okoro rằng: "Quyết
định dùm chúng tôi, Okoro. Tôn giáo nào đúng?" Okoro vuốt râu, ngẫm nghĩ
và nói: "Các anh nên biết rằng, có ba lối để đi từ đây lên xưởng ép dầu.
Anh có thể đi thẳng lên đồi, đấy là lối ngắn nhất nhưng phải leo dốc cao nhất.
Anh có thể đi quanh bên phải của ngọn đồi, lối ấy không xa nhưng đường gập
ghềnh và nhiều ổ gà lồi lõm. Hoặc là anh có thể đi quanh bên trái của ngọn đồi,
đấy là đường xa nhất nhưng lại là lối đi dễ nhất". Okoro nói thêm rằng:
"Các anh nên biết rằng, khi các anh đến nơi, người chủ không hỏi các anh
đến bằng cách nào. Ông ta chỉ hỏi hoa quả các anh mang đến có tươi tốt
không?"
Trong
những câu chuyện kể về Đức Giêsu sinh ra, có hai nhóm người đến kính viếng hài
nhi mới sinh, đó là mục đồng và ba vua. Tại sao giáo hội không có lễ kính các
mục đồng để tưởng nhớ việc họ đã kính viếng Chúa Hài Đồng, nhưng hôm nay giáo
hội lại đặc biệt cử hành lễ Hiển Linh để kính nhớ ngày ba vua kính viếng Hài
Nhi Giêsu? Bởi vì sự viếng thăm của ba vua là một bất ngờ. Các mục đồng biết
được việc Chúa sinh ra là do các thiên thần trực tiếp hiện đến trong đêm vắng
để báo tin. Đấy là sự bày tỏ tự nhiên và hầu hết mọi người trong chúng ta đều
lãnh hội được. Về phần ba vua thì khác, họ biết tin Chúa sinh ra là do họ quan
sát một ánh sao. Ngôi sao chẳng nói với họ điều gì. Họ đã phải tự tìm hiểu dấu
hiệu tự nhiên của ánh sao để biết ý nghĩa và nơi mà ánh sao đã dẫn đưa họ đến.
Nếu chúng ta nhớ rằng, ba vua là những người thờ lạy thiên nhiên, sùng bái tạo
vật qua việc quan sát sự di chuyển của tinh tú và các thiên thể Chúa tạo dựng,
thì chúng ta sẽ thấy rằng việc ba vua chiêm bái Hài Nhi Giêsu là một thách đố cho
niềm tin của chúng ta.
Như những
người hái dừa, người theo đạo thường tin rằng chỉ có truyền thống tôn giáo của
mình mới đúng là đường đến với Chúa. Đây là điều chúng ta thường nghe khi đề
cập đến lời của Đức Giêsu: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự
sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Gioan 14:6). Chúng ta
vội vã kết luận rằng con đường của Chúa tương đương với truyền thống tôn giáo
của mình. Nhưng sấm ngôn của Chúa cảnh cáo chúng ta về những diễn giải hạn hẹp
ấy rằng: "Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Isaia 55:8); đấy là
lý do làm cho chúng ta ngỡ ngàng về việc ba vua kính viếng Chuá Hài Đồng, và là
câu chuyện lạ thường để cho chúng ta biết rằng Chúa không giới hạn bất kỳ một
truyền thống tôn giáo nào.
Nên để ý
xem có bao nhiêu truyền thống tôn giáo khác nhau tìm biết Con Thiên Chúa giáng
trần. Bọn mục đồng, bị xem là hạng người dơ bẩn không đáng được vào Đền Thờ cầu
nguyện nếu không trải qua thời kỳ thanh tẩy; họ đã tìm biết Chúa qua các thiên
thần trực tiếp hiện ra báo tin. Ba vua đã tìm biết Chúa bằng sự quan sát ánh
sao. Và các kinh sư của vua Hêrôđê thì tìm biết Chúa qua sách ngôn sứ. Thị ứng,
ánh sao, sách thánh... Nhiều cách khác nhau nhưng đã đưa đến một chân lý. Dĩ
nhiên, điều này không có nghĩa là bất cứ truyền thống tôn giáo nào cũng tốt
lành như nhau. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng khi ánh sao dẫn lối đến
Giêrusalem thì tắt, và ba vua đã phải nhờ các kinh sư chỉ lối đến Bê-Lem. Tuy
rằng đã có ánh sáng tự nhiên của ánh sao, ba vua vẫn cần ánh sáng siêu nhiên
của sách thánh, để cuối cùng tìm đến được với Chúa.
Vậy câu
hỏi chính của câu chuyện là: "Ai đã thật sự tìm biết Chúa Giêsu?" Vua
Hêrôđê và các kinh sư, người có ánh sáng siêu nhiên là kinh thánh nhưng lại
không tìm thấy Chúa, nhưng ba vua là những người đi theo ánh sáng tự nhiên của
ánh sao đã có thể tìm ra Chúa. Tại sao? Vì giới cầm quyền Do-Thái có được chân
lý tỏ ra trong sách thánh nhưng họ đã không tin theo. Họ đã không bước đi trong
ánh sáng của thánh kinh. Còn ba vua thì khác, họ chỉ biết ánh sao và bước theo
ánh sao dẫn lối. Việc có được chân lý không quan trọng cho bằng làm thế nào để
chuẩn bị bước đi trong ánh sáng của chân lý ấy mà chúng ta đang nhận biết. Thà
rằng chúng ta có ánh sao mờ dẫn lối, còn hơn là có được ánh sáng siêu nhiên
chói chan của thánh kinh mà chúng ta lại sao lãng, hững hờ.
Là Kitô
hữu, chúng ta hằng tin rằng chính tôn giáo cho ta có con đường công chính.
Nhưng điều ấy có đem lại bổ ích gì nếu chúng ta không bước đi theo con đường
công chính ấy. Những người sùng bái thiên nhiên hoặc kẻ không biết Chúa, họ chỉ
biết thành tâm quyết chí theo ánh sáng mờ ảo của thiên nhiên; họ có thể đến với
Chúa Giêsu trước những Kitô hữu hằng tán tụng Thiên Chúa, nhưng không bước đi
trong đức tin. Đấy thật là một thách đố mà chúng ta cần đối diện trong câu
chuyện ba vua, những người đã tìm và đã gặp được Chúa.
28. Món
quà của các Đạo Sĩ - Lm Mark Link
Những
tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính, nhân tính và vương
quyền của Đức Giêsu.
William
Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn sống vào giữa thế kỷ này.
Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông được độc giả nhớ đặc biệt
là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông bằng cách gây ngạc nhiên
hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng của ông lấy tựa đề từ ý nghĩa
của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề "Món quà của vị đạo sĩ".
Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng rất giàu
tình thương đối với nhau.
Giáng
sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim bằng món gì đây. Nàng
muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một
sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc của
nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng hồ.
Hôm áp lễ
giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp rất đẹp, trong đó có
sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng mái tóc của nàng. Bỗng
nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim rất yêu quí mái tóc dài của
nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có buồn phiền vì nàng cắt và bán nó đi
không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng thôi.
Dela leo
nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai đứa nàng. Nàng mở cửa và
thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp gói lại thật đẹp đựng
món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc ngắn của Dela, chàng bắt
đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì cả. Chàng cố cầm những giọt lệ
của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela mở hộp ra, nàng không thể tin vào mắt
mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp để nàng chải mái tóc thướt tha của
nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra, chàng cũng khó mà tin được đôi mắt của
chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ rất đẹp dùng cho chiếc đồng hồ bằng
vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng
vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải tóc.
Có những
người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc nhiên nhưng bi thảm quá.
Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm cho kết thúc đó đẹp không
phải là những món quà mà là tình yêu được những món quà đó biểu tượng và nói
lên.
***
Câu
chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển Linh hôm nay, cũng gọi
là Lễ Ba Vua (tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại sao O. Henry lại đề tựa
cho câu chuyện ấy là "Món quà của nhà Đạo Sĩ". Có lẽ vì những món quà
của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy suy nghĩ
về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta
hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc dược để ướp xác người
chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày đầu tuần, các phụ
nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có tương quan đến sự chết,
nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn của con người.
Vì thế
món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Nó nói với chúng
ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ bị thương tổn vì ngài
là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được toàn bộ mọi thứ cảm xúc của
con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô đơn.,...Ngài cũng không khác gì
chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.
Bây giờ
chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ hương trong việc phụng
tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến
các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món quà bằng nhũ hương
tượng trưng cho Thượng Đế tính của Đức Giêsu. Thánh Phaolô đã nói về Thượng Đế
tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo dân ở Philipphê: "Đức Giêsu
vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài.... Đã trở nên giống người phàm, và chấp
nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa
đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả nhất trên trời" (Pl 2,6-9)
Cuối cùng
chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là vua của mọi thứ kim loại.
Vì thế, vàng tượng trưng cho đức vua. Nhà vua là vị thủ lãnh ở bên trên tất cả.
Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối với dân chúng, ông bảo đảm
là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người khác ủng hộ. cộng tác với ông nhờ
chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính là một vị vua như thế. Ngài lãnh đạo bằng
tình thương. Ngài bảo đảm có chính nghĩa khi thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần
gian. Và Ngài thôi thúc mọi người cộng tác với Ngài trong công việc ấy. Điều đó
dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ Hiển Linh hôm nay.
Hiện nay
trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng hơn lễ Giáng sinh. Sở
dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra với thế giới ngoại
giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với
những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc
biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là "Lễ của Chư Dân".
Những gì
được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng phải được chúng ta tiếp tục
trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi dân mọi
nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng chính những cố gắng của
chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc trên thế giới biết "Tin
Mừng" này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc lấy xác thịt và sống giữa
chúng ta chúng ta phải nói cho họ biết rằng Đức Giêsu đã đi vào lịch sử không
phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào thời của Ngài, mà cứu độ tất cả mọi dân
tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại nữa.
Đức Giêsu
đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế giới mới, thế giới mà
trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà trong đó những người
nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình, yêu thương, nơi mà trước đó họ
chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt. đó chính là "Tin Mừng" mà
chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ điệp thực tiễn của lễ Hiển Linh
hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi người chúng ta phải hành động.
Tôi xin
kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ vô danh. Bài thơ này tóm
tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh rất sống động.
"Khi
bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi
sao trên bầu trời đã biến mất,
khi các
vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các
mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về,
thì công
việc Giáng sinh mới bắt đầu
"Để
tìm lại những gì đã mất,
để hàn
gắn những gì đã gẫy đổ,
để người
đói được ăn no,
để tù
nhân được giải phóng,
để các
nước xây dựng lại,
để đem
lại hoà bình cho mọi người,
và để hoà
nhạc bằng trái tim".
CHÚ GIẢI
1. Chú
giải mục vụ của Claude Tassin
CÁC ĐẠO
SĨ
Đoạn Tin
Mừng đề cập đến các vị đạo sĩ gắn kết với đoạn trước bằng cái tên
"Giêsu". Ngoài ra, Mt 1,23 đã loan báo rằng trinh nữ "sẽ sinh
hạ"; còn ở 2,2 các đạo sĩ vấn hỏi: vua dân Do Thái "đã sinh hạ"
ở đâu. Tuy sự thể đã quá hiển nhiên như vậy rồi, truyền thống kể lại ở đoạn Mt
2,1-12 lại chắc chắn có trước thời Matthêu; ví dụ: như việc không đề cập gì đến
sự hiện diện của Giuse (x. c.11) mặc dù ở Mt 1,18-25 lại nói nhiều đến Giuse.
Ý nghĩa
phong phú của đoạn này nằm ở chỗ chứa đựng rất nhiều câu ám chỉ. Trước hết ta
nên dựa vào bố cục của đoạn văn, căn cứ vai trò của ngôi sao lạ mà chia nó
thành hai phần để phác họa rõ nét hơn sự đối kháng giữa thái độ của các đạo sĩ
với thái độ của Hêrôđê.
Trong
phần đầu (1-8) tấn tuồng được hình thành:
Câu 1-2:
các đạo sĩ quan sát thấy một ngôi sao loan báo sự ra đời của vua dân Do Thái và
họ phải đến kính viếng. Văn bản chỉ nói rằng ngôi sao đã chỉ đường cho họ, thế
thôi. Họ đi đến Giêrusalem, trung tâm của thế giới Do Thái, và hỏi ra vị vua
này ở đâu?
Câu 3-6:
Ở Giêrusalem, Hêrôđê vua dân Do Thái và toàn thể công nghị (thượng tế và luật
sĩ) tập thể đại diện cho dân Do Thái đặc trách việc chú giải Kinh Thánh, đã nghiên
cứu những lời tiên báo về Đấng Mêsia. Hơn cả ngôi sao, Kinh Thánh mới là cuốn
chỉ nam dẫn đường cho các đạo sĩ.
Câu 7-8:
Giới chức Do Thái giải thích rất chính xác các lời tiên tri nhưng không hề ra
tay hành động. Còn bản thân Hêrôđê lúc nào cũng e ngại một đối thủ xuất hiện
nên đã ghi nhớ điều mặc khải này như đoạn sau sẽ cho thấy.
Phần hai
(9-12) tấn tuồng được diễn:
Câu 9-11:
Các đạo sĩ lại được ngôi sao hướng dẫn đến tận chỗ ở của Đấng Mêsia sau khi họ
được Kinh Thánh soi rọi.
Câu 12:
Mưu mô giết chóc của Hêrôđê bị thất bại bởi vì Thiên Chúa lại ra tay can thiệp
một lần nữa "các đạo sĩ trở về xứ qua một lối khác".
Ngoài ra
bản văn còn cho ta những chìa khóa khác nếu ta nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân vật
(các đạo sĩ, Hêrôđê), dấu hiệu ngôi sao và câu trích dẫn (c.6)
1. Các
đạo sĩ: Vừa là những bậc thông thái lại là những nhà thuật sĩ, các "đạo
sĩ" Đông Phương hành nghề bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Trước
đó, Môsê đã từng đụng độ họ ở cung điện vua Pharaon, sau này các tông đồ cũng
đôi lần gặp phải các nhân vật nhóm này (x. Cv 8,9; 13,8). Kinh Thánh không yêu
thích gì họ. Và chỉ có dân ngoại mới làm đạo sĩ bởi vì ở xứ Israel, "phù
thủy" là nghề bị cấm chỉ.
Các vị
đạo sĩ trong Mt 2 đến từ Đông Phương bởi vì các thuật sĩ Đông Phương nổi tiếng
hơn, nhất là các người Chaldé xứ Babylone. Matthêu không nói rõ họ thuộc dân xứ
nào. Những lễ vật họ mang theo gợi ta đoán là xứ Ả Rập. Cũng có thể là xứ Ba
Tư. Theo hai tác giả La tinh, khoảng năm 66 có các đạo sĩ Ba Tư tuân theo các
ngôi sao chỉ đường, đã đến Rôma để triều yết hoàng đế Neron, khi trở về họ chắc
rồi cũng "đi theo lối khác". Tuy nhiên, Matthêu không dẫn dắt các đạo
sĩ đến với Neron mà là đến với Chúa Giêsu và cũng rất mỉa mai khi xảy ra sự thể
là: đang khi giới hữu trách Do Thái hằng được Kinh Thánh soi sáng lại không
biết cách làm thì các đạo sĩ ngoại giáo chỉ dựa vào hiểu biết khoa học chứ
không phải do Kinh Thánh soi sáng hoặc do tuân giữ Kinh Thánh lại làm được: đó
là bài học truyền giáo đầu tiên của tác giả Tin Mừng.
Giáo Hội
Đông Phương cho rằng có ba vị đạo sĩ (dựa vào số món quà đem theo) và gọi họ là
ba vua. Sự tôn vinh này khá phổ biến trong Cựu Ước. Thực vậy, theo Thánh Vịnh
72, 10-15 thì các kẻ cầm đầu các dân nước đến dâng hiến châu báu xứ sở lên cho
Đấng Mêsia. Nhưng Matthêu không gọi họ là vua: họ là những dân ngoại khiêm hạ
nhất đã đến với Đức Kitô.
2. Ngôi
sao lạ: Chắc chắn tác giả Tin Mừng sẽ giật mình khi biết rằng hậu thế mình đã
ra công cất sức truy tìm những giả thuyết để xác định cho được tinh vân nào
hoặc sao chổi nào có lẽ đã xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Ngôi sao của Matthêu
không phải là vì tinh tú mọc trên bầu trời, mà là ở trong Kinh Thánh (Theo Ds
24,17 thì sẽ có ngày "ngôi sao nhà Giacóp" sẽ mọc lên. Và dân Do Thái
ở thế kỷ I đã áp dụng lời tiên tri này cho Đấng Mêsia. Hình ảnh tượng trưng đó
rất phù hợp với câu chuyện về các đạo sĩ ở đây). Bởi vì lời tiên báo trong Ds
24 cho dân Israel không phải do một tiên tri Israel nói ra mà bởi Balaam, một
kẻ ngoại mà truyền thống vẫn coi ông ta như là kẻ giải mộng, nghĩa là một
"đạo sĩ".
3.
Hêrôđê: Khi Chúa Giêsu ra đời, triều đại Hêrôđê đại đế (năm 37-4 trước Công
nguyên) đã chấm dứt. Ta biết rằng Denys bé nhỏ, một tu sĩ sống vào thế kỷ VII
đã sai lầm khi xây dựng bộ lịch ngày nay. Đúng ra, Chúa Giêsu ra đời vào năm
thứ bảy hoặc thứ sáu "trước khi Chúa Giêsu Kitô ra đời". Bấy giờ,
Hêrôđê rất sợ kẻ chiếm ngôi đến độ y đã ra lệnh xử giảo ngay cả một số con cái
mình: các kẻ đương thời đã khôi hài với nhau rằng: thà rằng làm con heo (hus
theo tiếng Hy Lạp) của Hêrôđê hơn là làm con đẻ (huios) của y. Tóm lại, những
gì ở đây Matthêu gán cho nhân vật Hêrôđê đều cảm hứng từ thực tế. Nhưng một
phần thì đoạn kể về các thuật sĩ mang tính biểu tượng và mặt khác lúc bấy giờ
người ta lại không hề biết sự ra đời của Chúa Giêsu nhưng cuộc tàn sát ở Bêlem
chắc chắn có để lại dấu ấn trong lịch sử Do Thái, đều là những sự kiện thực tế.
Hình tượng nhân vật Hêrôđê được truyền thống Tin Mừng xét theo hai cách:
a) Đàng
sau lời sứ thần báo tin cho Giuse đúng là một việc khả thi, giống như lời báo
tin của Thiên Chúa cho người cha tương lai của Môsê vậy. Nhưng lại có truyền
thuyết Do Thái cổ xưa khác, cũng thuật lại một giấc mộng làm Pharaon lo lắng và
được các thuật sĩ cắt nghĩa như sau: một Hài Nhi sẽ sinh ra nơi dân Hy Bá Lai,
nó sẽ triệt hạ xứ Ai Cập. Chính vì vậy mà Pharaon đã ra sắc chỉ tàn sát mọi con
trai đầu lòng của người Hy Bá Lai (x. Xh 1,15). Chịu ảnh hưởng của truyền thống
này, ở đây Chúa Giêsu xuất hiện như một Môsê mới và Hêrôđê đóng vai vị vua tàn
ác nhưng chỉ chuốc lấy thất bại.
b) Mặt
khác, trong đoạn tường thuật này, Hêrôđê được bao quanh bởi "toàn thể
Giêrusalem" (c.3) và các quan chức Do Thái giáo (tư tế, luật sĩ: c.4). Như
thế cuộc khổ nạn và những kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu đã
được dựng lên ở đây rồi vậy.
4. Lời tiên
tri của Mikha (c.6): Đáp lại câu hỏi ở c.2 "Vua dân Do Thái sinh hạ ở
đâu?". Dựa vào lời nói của các tư tế và luật sĩ (thực ra là của Matthêu),
bằng cách trưng ra "bố trí" sẵn những câu trích dẫn Cựu Ước. Matthêu
đã trích Mk 5,1-3 và phối kết với 2Sm 5,2 "Ngươi sẽ là mục tử chăn dắt
Israel dân Ta" đó chính là lời hứa đối với Đavít. Ta cũng cần nói thêm
rằng tiên tri Mikha nối kết với câu Is 7,14 đã được trích ra ở trên. Như thế,
lời tiên báo được sắp xếp lại như vậy có ý nghĩa gì?
a) Trung
thành với Mikha, và ít lạc quan về tương lai của Giêrusalem, Matthêu đã tôn
vinh làng Bêlem đơn hèn, vì đó chính là ngôi làng của Đấng sẽ trở nên Mêsia cho
những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25-30).
b) Nhận
chân giá trị của thành vua Đavít và lời hứa ban cho vị vua này (2Sm 5,2) nối
kết tầm quan trọng của tổ phụ Đavít của Chúa Giêsu như đã nhấn mạnh trong Mt 1.
c) Nếu
Chúa Giêsu phải là "mục tử dân Israel" (một tước hiệu gán cho chính
Thiên Chúa x. Tv 80,2) và nếu Giêrusalem đã khước từ Đấng chăn dắt mình, vậy
thì lời tiên tri làm sao nên trọn được? Đó chính là toàn bộ thảm kịch của sứ vụ
Đức Kitô.
Toàn bộ
nét biểu trưng đoạn đã biến Tin Mừng về ba vị đạo sĩ thành một Tin Mừng thu nhỏ
lại: vua Đavít mới, Môsê mới ngày kia sẽ rao giảng trên núi, Người mục tử bị
chê bỏ (cf. Mt 26,31) bởi những kẻ kêu gào phải giết Ngài đi, rồi chế nhạo
"Vua dân Do Thái" trên đồi Calvariô (cf. Mt 27,37) để rồi đến một
ngày vang dội lệnh truyền khẩn thiết này "hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn
dân".
Câu hỏi
cốt lõi của đoạn này là: Ở ĐÂU? Những chuỗi kế đến sẽ liệt kê (Mt 28,19) thêm
Ai Cập, Rama, Galilê, Nagiarét trong số nhiều địa điểm có ý nghĩa của cuộc sống
đời Đấng Mêsia.
2. Chú
giải của Fiches Dominicales
BỊ DÂN
NGƯỜI TỪ CHỐI KHI MỚI SINH RA,
ĐỨC GIÊSU
ĐƯỢC DÂN NGOẠI TIN NHẬN
LÀ VUA
KHẮP THIÊN HẠ
VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI
1. Đọc
lại dưới ánh sáng Phục sinh...
Luca đã
thuật lại việc các mục đồng đến viếng thăm hang đá, bài tường thuật ấy ăn nhịp
với quan điểm lựa chọn người nghèo của ông. Về phần Matthêu, ông này kể lại
chuyến thăm viếng của các vị Đạo sĩ, bởi ngay từ những trang đầu của Tin Mừng,
họ đại diện cho những vùng đất xa xôi mà Đấng Phục Sinh sẽ sai các môn đệ đến,
trong lần gặp gỡ cuối cùng ở Galilê: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành Môn đệ... " (Mt 28,19).
Bên dưới
cái bề ngoài có vẻ ngây ngô trẻ con kia, đoạn Tin Mừng về các vị Đạo sĩ rất
quen thuộc này thực ra đã được hình thành một cách tài tình, bằng một thứ nghệ
thuật ngôn ngữ biểu tượng hoàn hảo, và chứa đầy những ẩn dụ của Cựu Ước mà nó
hoàn tất: dưới ánh sáng của Phục sinh, tác giả Tin Mừng đã tìm về nguồn gốc lai
lịch của Đức Giêsu, cho chúng ta khám phá thấy dưới dạng còn mới tiềm ẩn, những
gì rồi đây sẽ hiện tỏ trọn vẹn trong cuộc đởi và biến cố vượt qua của Người.
A.
Marchadour lưu ý chúng ta: "Tác giả Kinh Thánh, không cố bận tâm về tính
xác thực lịch sử như chúng ta ngày nay, là những kẻ đầu óc mang nặng chủ nghĩa
thực nghiệm. Nên nhớ tất cả những trình thuật về thời thơ ấu của Chúa đều được
biên soạn từ các dữ kiện xảy ra về sau, được đưa vào muộn màng sau này. Phải
đọc lại quá khứ dưới ánh sáng của hiện tại, tầm quan trọng của Kinh Thánh như
là những "Lời tiên tri", vẻ huy hoàng của biên cố vượt qua, tất cả
đều tỏ cho thấy căn tính đích thực của Đức Giêsu. Tất cả cho phép chúng ta hiểu
rằng các trình thuật thơ ấu đều đã được viết lại và tính xác thực lịch sử không
phải là bận tâm hàng đầu của tác giả Kinh Thánh" (Les dossiers de la
Bible, số 44, tr.5).
2. Một
tường thuật sử dụng ý nghĩa biểu tượng của những đối lập:
Người đọc
dễ dàng nhận ra được ngay hai phía đối lập nhau:
1. Phía
thứ nhất có khung cảnh là đền thờ Giêrusalem, nơi triều đình của Hêrôđê.
Các Đạo
sĩ có thể là những nhà chiêm tinh xứ Babylon, chuyên tìm đọc những bí ẩn của
những vì sao - đã lên đường đi Giêrusalem, trái tim của thế giới Do Thái, để
đến bái lạy "Đức Vua dân Do Thái", bởi thấy sao của Người xuất hiện
loan báo (c.1 và 2).
- Tuy
nhiên, để gặp được Đấng họ tìm kiếm, ngôi sao lạ kia không đủ. Các ông cần đến
sự trợ giúp của dân Do Thái và Kinh Thánh của họ.
Khi được
các vị đạo sĩ đến hỏi, Hêrôđê và thành phần lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem quay
sang tra cứu các lời sấm liên can đến Đấng Mêsia (c.3 và 6).
Để trả
lời cho các vị khách phương xa này, nhóm cầm quyền Do Thái đã chú giải một cách
chính xác lời các Ngôn Sứ, nhưng vẫn ở lại trong thành Giêrusalem (c.7 và 8).
2. Phía
thứ hai ở tại Bêlem, nơi Đức Vua Giêsu đang chờ đón các vị đạo sĩ.
- Được
Kinh Thánh chỉ dẫn lại, các vị đạo sĩ tìm thấy lại ngôi sao lạ. Lần này, nó đưa
các ông đến với Đấng Mêsia ở Bêlem (c.9 và 10).
- Đến nơi
họ gặp được Chúa Giêsu và sấp mình bái lạy Người, rồi dâng tiến Người những bảo
vật quý giá nhất của xứ sở mình, đó là "vàng, nhũ hương và mộc dược"
(c.11).
Hêrôđê
thì chỉ nuôi những ý đồ giết người, nhưng không thành do sự can thiệp của Thiên
Chúa: "được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên các vị đạo sĩ
đã đi lối khác mà về xứ mình" (c. 12).
Nếu phân
tích kỹ hơn, người ta sẽ phát hiện thấy một bộ ba những cặp đối lập nhau - một
lời báo trước về khổ nạn – làm thành cái khung của câu chuyện:
1.
Giêrusalem, trung tâm chính trị và tôn giáo, đã khước từ Đấng đến để hoàn tất
những lời hứa, đối chọi với Bêlem, nơi hạ sinh của Con Vua Đavid các ngôn sứ
từng loan báo.
2. Các
đầu mục dân lsrael (các thượng tế và kinh sư hợp thành thượng Hội Đồng, cơ quan
thẩm quyền đại diện cho Do Thái giáo) là những kẻ tự cho mình là hiểu biết Kinh
Thánh, nhưng lại tỏ ra bất lực không thể ra đi, rời bỏ khỏi nơi ở của mình là
Giêrusalem, họ đối chọi với các vị đạo sĩ ngoại giáo đã biết tìm kiếm, lên
đường và sau cùng đã tìm thấy. Trong lúc phía bên kia "bối rối, xôn
xao" thì phía bên này "mừng rỡ vô cùng".
3.
Hêrôđê, kẻ được tác giả gọi là "vua", và là kẻ chỉ nơm nớp cho ngai
báu của mình, đối chọi với Hài Nhi Bêlem, Đấng thật sự là vua: - Nơi Người đã
ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia 60 (bài đọc I), loan báo ngày mà dân ngoại lũ lượt
tiến về Giêrusalem, mang theo vô vàn châu báu để triều cống. Nơi Người đã ứng
nghiệm lời ngôn sứ Mica 5,1 nói đến Bêlem như là nơi sinh của Đấng Mêsia:
"Phần ngươi, hỡi Bêlem, nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa. Chính tự
nơi người sẽ xuất hiện cho Ta, Vị có mệnh thống lĩnh Israel".
Nơi Người
đã ứng nghiệm lời tiên tri của Balaam, một người ngoại giáo, trong sách Dân Số
24, báo trước sẽ có một ngày xuất hiện "một ngôi sao mọc lên từ
Giacob".
Như thế,
qua nét tinh tế của bố cục và lối viết của mình, câu chuyện đã công bố cho thấy
căn tính nhiệm mầu của Đức Giêsu, loan báo sứ mạng của Người, báo trước việc
Người sẽ bị những đầu mục của dân Người chối từ, cũng như sự kiện dân ngoại sẽ
tìm đến với Hội Thánh. Tắt một lời, nói theo kiểu của Claude Tassin, chúng ta
đang có ở đây một thứ "Tin Mừng ở dạng thu nhỏ".
Được đặt
lại trong toàn bộ Tin Mừng của Matthêu, ý nghĩa của đoạn văn sẽ trở nên sáng
tỏ. Francois Brossier tóm tắt như sau: "Những kẻ đáng ra phải đón nhận
Đấng Mêsia do Thiên Chúa gởi đến, lại không nhận biết người, bởi đầu óc chúng
đã ra cằn cỗi. Đang khi đó, chính những dân ngoại lại đón nhận và tôn thờ
Người. Sự chối từ nơi phần lớn dân Israel và thái độ đón nhận nơi dân ngoại,
một chủ đề sẽ bàng bạc trong khắp cả Tin Mừng, đó là điều đang được minh nhiên
công bố ở đây" (Le Monde de La Bible, số 85, trang 18).
BÀI ĐỌC
THÊM
1.
"Chúng ta có để mình được Phúc Âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có
bổn phận phải loan báo?"
(T.Sintas,
trong "Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie", Médiaspaul,
tr.27).
"Nơi
chúng ta, là Giáo Hội, hôm nay, được ký thác một ánh sáng có khả năng soi dẫn
đường đi nước bước cho tất cả những ai đi tìm Đức Giêsu. Điều đó chẳng do bởi
nhân đức thánh thiện của chúng ta, cũng chẳng do bởi đời sống tốt lành hay đức
tin cá nhân của chúng ta. Tất cả chỉ vì đó là sứ mạng chúng ta đã nhận lãnh từ
nơi Đức Kitô. Những gì chúng ta phải loan báo không có cơ sở chân lý từ chính
bản thân chúng ta, nhưng duy nhất từ Đấng đã giao phó sứ mạng ấy cho chúng ta.
Sức mạnh của việc Phúc âm hoá đến từ Thiên Chúa. Đừng chờ đến khi nào nên thánh
rồi mới thi hành nhiệm vụ. Một cách đơn sơ, khiêm tốn, chúng ta hãy để mình
được phúc âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan
báo".
2. Bạn có
biết rõ câu chuyện về Balaam và con lừa của ông ta chưa?
(H.Denis,
trong "100 mots pour dire la soi", Desclée de Brouwer, tr. 71-72).
"Không
có hang đá nào mà lại không có ngôi sao. Chẳng có lễ Hiển Linh nào mà lại thiếu
vắng vì sao lạ ấy... Nhưng sự thực mà nói, bạn có biết rõ hay không câu chuyện
về Balaam? Người ta không biết đích xác nó xảy ra khi nào (sách Dân Số, ch. 22-
24), nếu không phải là vào khoảng giai đoạn cuối cuộc xâm nhập của Israel vào
Đất Hứa, không xa thành Giêricô bao nhiêu. Những người dân xứ Moab kinh hoàng
trước sức tiến của Israel. Họ tìm đến với một người tên Balaam nào đó, có lẽ là
một thầy bói, để nhờ ông ta trù ẻo cho Israel (vào thời đó, người ta còn tin
vào hiệu năng hầu như ma thuật của những lời trù ẻo).
Được
Thiên Chúa can ngăn trong giấc mộng, lúc đầu Balaam từ chối, rồi sau đó lại
quyết định lên đường và cưỡi con lừa cái của mình. Thiên Chúa liền nổi giận và
hiện ra cho con lừa dưới dạng một Thần sứ với gươm tuốt trần cầm tay. Con lừa
tránh sang một bên đường và phóng xuống ruộng. Balaam đánh đập và hành tội con
vật. Nó lại chui vào một khúc đường trũng và hẹp, vô phương tới lui hay nhúc
nhích bên này bên kia. Con lừa đáng thương quỵ xuống dưới làn roi tới tấp. Lúc
ấy, Thiên Chúa cho nó mở miệng nói: nó trách móc Balaam đã đối xử với nó sao
quá tàn nhẫn. Phút chốc, Balaam nhìn ra được vị thần sứ với lưỡi gươm trần, ông
quì xuống sấp mặt bái lạy. Sau đó, ông được tiếp tục ra đi, nhưng với một điều
kiện: chỉ được phép nói trước mặt các thù địch của Israel điều Thần sứ bảo nói!
Thế là cái ông Balaam của chúng ta xổ ra một tràng những lời chúc phúc cho
Israel: "Làm sao tôi sẽ trù ẻo kẻ Thiên Chúa không cho trù ẻo? Ai nào đếm
được số đông của Giacob và Israel? Một ngôi sao mọc lên từ Giacob và một vương
tướng xuất từ Israel sẽ đập tan Moab lẫn Eđom? Câu chuyện là như thế, trong đó
có nói đến một con lừa biết nói, y như trong chuyện ngụ ngôn của La Fontaine.
Đó cũng
còn là lời loan báo trong trời đất về ánh huy hoàng của Đấng Mêsia: "Một
ngôi sao mọc lên từ Giacob". Rồi đây chẳng bao lâu. các nhà đạo sĩ sẽ công
bố cái âm hưởng vang vọng khắp địa cầu của cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu. Từ
nay, trong Người, toàn thể nhân loại, đã được chúc phúc.
Tôi muốn
nghĩ rằng ngôi sao của Noel bắt đầu từ chuyện một con lừa cái bị kiệt sức và
quỵ ngã, là kẻ đầu tiên nhận thức được tầm mức lớn lao của biến cố. Đúng thế,
nhân loại vừa được sinh ra dưới một ngôi sao tốt, ngôi sao của Đức Giêsu.
3. Chú
giải của Noel Quesson
Khi Đức
Giêsu ra đời lại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì.
Đó chỉ là
những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Matthêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít
thật! Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca.
Trái lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ ý trình bày với các độc giả của mình ý
nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện này về các
nhà chiêm tinh... chính câu truyện được triển khai tối đa, và được trình bày,
nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo Thánh
Matthêu.
Thời vua
Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi:
"Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?"
Matthêu
so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu:Vua Hêrôđê... vua dân Do Thái. Câu hỏi
này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở
Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc.
Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch
sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy
chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết
chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về
chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu dành cho danh hiệu "Vua dân Do
Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước Trời sẽ là một trong những đề tài ông
ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức Vua của Vương quốc này. Ngay
trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai
thực sự là "vua" dân Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua chuyên chế, hiếu
sát và tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết
như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một
phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại
cho Đức Giêsu "Vua dân Do Thái" này. Những binh lính sẽ nói "Ngự
tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi "Này là Vua dân
Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rõ cái
"lý do khiến người bị kết án" (Mt 27,37). Tất cả các kinh sư và đại
giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi
thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ khi
sinh ra, Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh của
"Người đầy tớ chịu đau khổ" của Isaia vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên
lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với những tàu lá, vị vua đến
không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn
hữu của mình "đừng thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy
tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này không thuộc về thế gian này,
nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch
lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong
lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị đến!"...Người trị đến
với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ".
Chúng tôi
đã trông thấy vì sao của Người xuất hiện.
Ngày nay,
Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn của Isaia được chọn lựa
giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mêsia đến như một ánh sáng.
"Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của người đã đến và vinh quang của
Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất,
nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người chiếu tỏ trên
ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các vua, về phía
luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu
Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh: Người đi trong bóng tối đã
trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài Nhi đãsinh ra cho
chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ
đề về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức
tin như "sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta" (2Pr 1,19). Ngôi sao
tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong
tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa
nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu. Trong
đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi
theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong
ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Và chúng
tôi đến bái lạy Người.
"Bái
lạy". Động từ này được Matthêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ
sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi
khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về
việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ
ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó có người nhận biết sự
bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất
cả vạn vật.
Nghe tin
ấy vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu
tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân Israel lại.
Giữa câu
truyện Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại
trong sách Tin Mừng cha ông: "Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ
chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra
Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ
đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to
lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: "Khốn thay! Các kinh sư và các
Pharisêu... Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngạo giết chết những người ta sai đến
với ngươi bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái ta! Và các người đã
không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng
khác, trái lại, sự "đón tiếp" của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù
không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm
Người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy "một nỗi vui mừng
lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu:
Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực ra,
trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích cho
các Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao
Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại
gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ
được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có những
người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả
những lại phát ngôn "có tính chất phổ độ" loan báo trước: Giêrusalem
phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. "Lạc đà từng đàn che rợp đất,
lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Saba kéo đến, đều mang theo vàng
với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,1-6). Người ta
nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba, đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ
Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một chủ đề của
phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ mang các tặng phẩm
đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong sách Tin Mừng của ông rằng
các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, an phần vào bữa tiệc với
Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta thấy sách Tin Mừng này được cấu
tạo như thế nào. Vâng, các "nhà chiêm tinh" tượng trưng cho tất cả
những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi thời đại Và trong những
từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào cả. trái lại!trong số các
bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả những người này hoàn toàn
chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc sống ngay thẳng, có một ý
thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có một đời sống gia đình gương
mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy,
họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ Hiển
Linh là lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu, của tất cả những người
có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên
Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng
ta phê phán họ như thế nào?
Và đây là
điều ngôn sứ đã viết: "Phần ngươi, hỡi Bêlem. miến đất Giu-đa,... vì ngươi
là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời".
Tại sao,
hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh,
nếu phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua Giêrusalem,
qua các "kinh sư và thượng tế" Bởi vì Thiên Chúa trung thành với
những lời Người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi người,
thì ơn đó đến qua trung gian những người Do Thái (Rm 9, 10-11).
Họ mở bảo
tráp, lấy tặng vật mà dâng tiến.. Họ đi lối khác mà về xứ mình...
Việc thờ
phường là một trong những chức năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật,
chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của con người và của đất.
Như vậy cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn được.
Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường mới mở ra... Tin Mừng vui
biết bao, lạy Chúa!
4. Chú
giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÁC ĐẠO
SĨ
I. Thật
và không thật.
Câu
chuyện này gây ra 2 cảm tưởng trái ngược nhau: (a) một đàng có những chi tiết
khiến ta nghĩ rằng đây là một chuyện hoang đường, giả tạo, chẳng hạn: cuộc hành
trình dài của các đạo sĩ, ngôi sao lạ di chuyển dẫn đường rồi cuối cùng chỉ
đúng vào chỗ Thánh Gia đang ở, cả thành Giêrusalem khi hay tin có vua mới sinh
ra lẽ ra phải vui mừng mà sao lại bối rối. Hêrôđê phải triệu tập tất cả các
thầy thượng tế để hỏi một câu rất dễ, mọi người đều biết nơi Hài Nhi sinh ra
trong khi Hêrôđê không biết, sao chẳng ai tò mò đi theo các đạo sĩ để xem Hài
Nhi v.v. (b) nhưng đàng khác có nhiều chi tiết rất hợp với lịch sử, như quan
tâm của các chiêm tinh gia phương đông về một vì vua cứu thế, những hồi nổi cơn
bất ngờ của Hêrôđê...
Những nét
không thật và những nét thật ấy khiến chúng ta nghĩ rằng tác giả không chủ ý
viết một bài tường thuật đúng nghĩa, mà chỉ muốn viết một bản văn để diễn tả
quan điểm thần học của mình. Trong mục đích đó, tác giả đã xử dụng văn thể
Midrash (xem lại trang 19, số III,4): tường thuật một sự kiện có thật nhưng
giải nghĩa thoáng rộng nhằm đưa ra một bài học cho độc giả.
II. Vấn
đề đặt ra bài học của Matthêu
- Trong
cộng đoàn của Matthêu mà đa số là Kitô hữu gốc Do Thái, người ta rất thắc mắc
về sự kiện tại sao trong khi lương dân thì đón nhận Đức Giêsu Kitô, còn dân
Chúa chọn lại từ chối Ngài.
- Matthêu
viết chuyện này (theo văn thể Midrash) nhằm đưa ra câu trả lời: Tại vì lương
dân ngoan ngoãn với Thiên Chúa hơn, chẳng hạn các đạo sĩ. Họ chỉ có hiểu biết
rất đơn sơ tự nhiên (chiêm tinh), nhưng nhờ ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của
Chúa (biểu tượng là ngôi sao lạ), nên đã được dẫn tới đức tin vào hài nhi
Giêsu. Ngược lại, các thủ lãnh tôn giáo của người do thái cùng với Hêrôđê, mặc
dù đã có Sách thánh trong tay (họ biết rõ là hài nhi sẽ sinh tại Bêlem) nhưng
vẫn không tin. Sự kiện Đức Giêsu được lương dân tin thờ gợi nhớ đến lời của
ngôn sứ Isaia (49,23 và 60,3-6), cũng như Tv 72,10-15.
- Matthêu
vừa giải đáp thắc mắc của cộng đoàn, vừa xoáy sâu hơn vào luận đề chung của
mình trong cả 2 chương nhập đề:
. Bảng
gia phả chứng minh sự châm rễ của Đức Giêsu vào lịch sử dân biệt tuyển.
. Câu
chuyện báo tin cho Giuse cho thấy tính siêu việt của Đức Giêsu.
. Câu
chuyện các đạo sĩ này cho thấy tính vương giả của Ngài, đồng thời hé mở cái
nghịch lý vẫn thấy xuất hiện tới lui nhiều lần trong tác phẩm: dân Chúa đã
không chấp nhận Ngài.
III. Giải
thích một số chi tiết
- Bêlem:
ở 7km phía Nam Giêrusalem, là quê quán của Booz, Jessé và nhất là của Đavít (1S
16 20,6).
- Hêrôđê:
Đây là Hêrôđê Cả, trấn nhậm miền Judée (37-4 trước công nguyên). Sử sách làm
chứng rằng vào những năm cuối đời, ông nghi ngờ mọi người có ý đồ lật đổ ông,
vì thế mà ông không ngại ra tay tàn sát tất cả những ai mà ông nghi là sắp làm
hại ông, kể cả những người trong gia đình ông.
- Đạo sĩ:
Có lẽ đây là những nhà chiêm tinh ngoại đạo nhưng có tiếp xúc với đạo Do Thái
và cùng chia sẻ một số niềm tin của Do Thái, trong đó có niềm tin vào Đấng
Messia sắp đến. Họ sống ở phía bờ bên kia sông Jordan. Từ thế kỷ V, người ta
cho rằng họ là những vị vua số lượng là 3. Đến thế kỷ 8 người ta còn đặt cho
các ông những tên là Gaspar, Balthasar và Melchior.
- Vua Do
Thái mới sinh ở đâu? Matthêu nhấn mạnh đến tính vương giả của Đức Giêsu. Đồng
thời Matthêu cũng cho thấy một nét mỉa mai: chính lương dân nhận ra tính vương
giả này và nói cho dân Do Thái hay.
- Ngôi
sao: Do Thái giáo dựa vào Dc 24,17: "Một ngôi sao sẽ xuất ra từ nhà
Giacóp, một vương trướng sẽ chổi dậy từ nhà Israel" để tin rằng sự xuất hiện
một ngôi sao lạ là dấu chỉ Đấng Messia đến.
- Chúng
tôi đến thờ lạy Ngài: Động từ "thờ lạy" (preskunêô) được Cựu Ước
thường dùng để chỉ việc lương dân đến tôn thờ Giavê trong Đền Thờ. Matthêu dùng
động từ này có ngụ ý nói đến tính đại đồng của ơn cứu rỗi mà Đức Giêsu mang
đến.
- Cả
thành Giêrusalem bối rối: chi tiết này rõ ràng là phóng đại. Matthêu phóng đại
như vậy để diễn tả ý tưởng cả một phần lớn dân Do Thái từ chối Đức Giêsu. Chi
tiết này càng làm nổi bật cái nghịch lý mà ta đã nói ở trên.
- cc 4-5:
không nhằm chúng minh sự ngu dốt của Hêrôđê, cũng không chứng minh sự thông
thái của các ký lục và thượng tế, mà đơn giản Matthêu chỉ dùng mấy câu này để
dẫn vào câu Sách Thánh mà Matthêu sắp trích dẫn sau đó.
- c 6:
Matthêu trích dẫn phối hợp Mt 5,1-3 và 2S 5,2 để trình bày Đức Giêsu là một vua
Đavít mới.
- c 10:
Niềm vui của các đạo sĩ: "Các ông vui mừng hớn hở". So sánh với Lc
2,10 (Tin vui vĩ đại). Đó là niềm vui to lớn của lương dân khi thấy Đức Giêsu
mang đến cho họ ơn cứu rỗi mà bấy lâu nay họ khao khát chờ mong.
- c 11:
Cử chỉ của các đạo sĩ cho thấy vừa tính vương giả vừa tính thần linh của Đức
Giêsu. Các lễ vật (vàng, hương và mộc dược) là những lễ vật được dâng cho bậc
vương giả (xem Tv 72,15 vàng, Is 60,6 vàng và hương, Tv 45,8 mộc dược).
Kết luận
Nghịch lý
đã khởi sự diễn ra; Hêrôđê và các thủ lãnh tôn giáo cùng với phần đông dân do
thái đã khước từ Đức Giêsu, nhưng lương dân thì lại đến triều bái và tôn thờ
Ngài, cũng giống như cộng đoàn Kitô đang tập hợp chung quanh Đức Giêsu phục
sinh. Như thế thì lời của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện (Is 60 và 62): đông
đảo lương dân kéo đến Giêrusalem mới, một Giêrusalem sáng ngời vinh quang Thiên
Chúa.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét