TỔNG KẾT MỤC VỤ TẠI SAPA |
TỔNG KẾT MỤC VỤ TẠI SAPA |
NHÀ LƯU TRÚ SINH VIÊN H’MÔNG |
CHÚA NHẬT II
MÙA VỌNG
MỤC LỤC
1. Chết
2. Sa mạc
3. Sám hối, hoán cải tâm lòng – Radio Veritas
Asia
4. Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa
5. Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát
6. Con đường nội tâm - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
7. Dọn đường cho Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
8. Có Lời Thiên Chúa phán
9. Hãy dọn đường cho Chúa – Lm. Nguyễn Cao Siêu
10. Tuân giữ luật Chúa từ trong lòng – Achille
Degeest
11. Suy niệm của McCarthy
12. Sám hối canh tân
13. Suy niệm của André Sève
14. Dọn đường cho Chúa đến
15. Hãy dọn đường cho Chúa
16. Tiếng kêu trong sa mạc
17. Sứ giả của Chúa Kitô
18. Sám hối và cải thiện đời sống – JKN
19. Chuẩn bị đón mừng Chúa đến
20. Hãy dọn đường
21. Chú giải mục vụ của R. Gutzwiller
22. Chú giải của Noel Quesson
23. Chú giải của Fiches Dominicales
1. Chết.
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng
vụ cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận
việc Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ
đón nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón
nhận việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày
sau hết của vũ trụ vật chất này. Vậy để đón mừng Chúa đến, chúng ta đã chuẩn bị
như thế nào?
Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho
người Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường
tội lỗi để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa
trái tốt lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này
đây cái rìu đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị
chặt và ném vào lửa.
Chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn lương tâm xem: nếu như lúc
này Chúa đến với tôi, thì liệu tôi có sẵn sàng để trình diện, để tính sổ cuộc
đời với Ngài hay không?
Có một cậu bé 17 tuổi, người Hoà Lan, đã từng trốn khỏi
trại tập trung của Đức Quốc Xã hồi thế chiến lần thứ II, nhưng rồi cậu bị bắt
trở lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành quyết, cậu đã gởi cho bố
cậu lá thư như thế này:
"Thưa bố quý yêu!
Thật là khó khăn lắm con mới viết được những hàng chữ này
cho bố, để báo tin rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá
thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, điều
đó sẽ xảy đến với con. Và chỉ trong thoáng chốc, thế là con sẽ về với Chúa. Nói
cho cùng đấy có phải là một cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi hay không? Con cảm
thấy rõ ràng mình đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị mọi sự cần thiết để đón
chờ cái chết. Con nghĩ rằng con sẽ đỡ đau khổ hơn bố nhiều vì con biết rằng
mình đã xưng thú hết mọi tội lỗi và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.
Con của bố".
Ước chi vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng
ta cũng nói lên được như vậy. Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để chúng ta
chuẩn bị những hành trang cần thiết cho cuộc gặp gỡ định mệnh với Chúa. Thế
nhưng cho đến lúc này, chúng ta đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp
gỡ định mạng ấy.
2. Sa mạc.
Thomas Morton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Mặc dù theo
Anh giáo, nhưng khi còn trẻ, chàng đã sống như một kẻ vô thần. Sau khi trở lại,
chàng đã vào dòng khổ tu. Chàng đã ghi lại biến cố làm đảo lộn cuộc đời chàng
như sau:
Hôm đó tình cờ tôi bước chân vào một nhà thờ Công giáo.
Điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là một cô gái duyên dáng đang quỳ cầu
nguyện một cách sốt sắng, không để ý tới những gì xảy ra chung quanh. Tôi tự
hỏi: Tại sao một thiếu nữ trẻ đẹp lại có thể quỳ cầu nguyện trong một ngôi
thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm như thể bị hút hồn?
Dĩ nhiên cô gái vào nhà thờ không phải là để cho người ta
nhìn ngắm, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Cuộc gặp gỡ thân
tình của cô gái với Thiên Chúa trong khung cảnh vắng lặng ấy đã là một trong
những yếu tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này.
Ngôi thánh đường, trong bầu khí trang nghiêm và thinh lặng
ấy, phải chăng là hình ảnh của một sa mạc, nơi con người có thể gặp gỡ và sống
thân mật với Thiên Chúa giữa dòng chảy của một cuộc đời nhiều bon chen và dao
động này.
Thực vậy, theo Kinh Thánh sa mạc vừa là nơi con người chịu
thử thách, vừa là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Như chúng ta thường thấy: sa
mạc thì khô cằn sỏi đá. Ban ngày thì nắng cháy, còn ban đêm thì lạnh buốt.
Đó chính là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng
dáng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người
đói khát và lạc hướng. Thảm trạng ấy sẽ giúp con người ý thức được cái bé bỏng
của thân phận, cái vô nghĩa của đời mình, bởi vì con người là gì nếu không phải
chỉ là cát bụi.
Nhận thức này sẽ giúp chúng ta từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng
và ngạo mạn, đồng thời mở rộng tâm hồn mình cho ơn sủng của Chúa hoạt động.
Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con người đến
điểm hẹn, gặp gỡ với Thiên Chúa và đón nhận những ơn phúc của Ngài.
Trong cuộc sống thiêng liêng, càng biết vào sa mạc, nghĩa
là càng sống thinh lặng và cầu nguyện, thì càng cảm nghiệm được sự gặp gỡ với
Thiên Chúa một cách mật thiết và gắn bó hơn.
Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi
năm trời. Trong thời gian này, họ đã phải gặp nhiều thử thách, nhưng cũng đã
được chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm vì yêu thương họ.
Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, cũng đã
vào sa mạc suốt bốn mươi đêm ngày. Và Phúc âm đã ghi nhận trong thời gian này,
Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Còn chúng ta thì sao? Giữa những bon chen của cuộc sống,
chúng ta có biết vào sa mạc, có biết dành lấy những giây phút thinh lặng để
thực sự cầu nguyện, gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa hay không?
3. Sám hối, hoán cải tâm lòng – Radio Veritas
Asia.
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Thomas Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng
khắp thế giới. Vào thập niên 60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô
thần. Một ngày nọ, tình cờ đi ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc
đẩy ghé vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần
đi nhà thờ đó, nhưng vì tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin,
dầu chàng đã được cha mẹ cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo
Công Giáo và nhập vào Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như
sau:
"Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự
chú ý của tôi đó là, tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang
quì cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra
chung quanh. Khi cả lúc tôi bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự
kiện, một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng
lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ
nhiên, là cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là
để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt
sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân
tình ấy của thiếu nữ đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của
ngôi thánh đường hôm đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp
Chúa và theo đạo sau này".
Ngôi thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa
mạc nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều
bôn chôn, dao động này. Qua các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo Hội cũng
kêu mời chúng ta hãy biết tạo ra sa mạc trong tâm lòng mình khi nào đó để gặp
gỡ Thiên Chúa. Chương 5,1-9 sách tiên tri Barúc, là một lời sấm liên quan đến
ơn cứu độ theo truyền thống Kinh Thánh. Barúc đã là bạn kiêm thư ký của tiên
tri Giêrêmia, nhưng thật ra sách Barúc là một tổng hợp các văn bản thần học góp
nhặt đó đây và được soạn chung lại bằng tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước
Tây lịch. Tiên tri Barúc muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Cuộc sống và
niềm hạnh phúc là những điều có thể thực hiện được sau những năm tháng họ phải
sống trong cay đắng, tủi nhục, đen tối của kiếp sống lưu vong. Để diễn tả sứ
điệp hy vọng và tin tưởng ấy, tiên tri dùng một số hình ảnh biểu tượng như
chiếc áo, tên gọi, và các kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Chiếc áo đó ám chỉ
phẩm giá của con người khi giới thiệu thành thánh Giêrusalem, là biểu tượng của
toàn dân Chúa. Trong chiếc áo mới rực rỡ của mừng vui, chớ không phải chiếc áo
tang của sầu buồn mà tiên tri Barúc cố ý loan báo cho dân chúng biết, Thiên
Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ phẩm giá làm dân riêng Chúa chọn và chấm dứt sự
sống khổ nhục họ phải chịu trong thời lưu đày. Chiếc áo tang của sầu thương
diễn tả thời gian và khung cảnh sống lưu đày tủi nhục. Hình ảnh chiếc áo mới
mừng vui trên đây hé mở cho chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào
lịch sử nhân loại khi cho Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người. Chúa Giêsu Kitô
mặc lấy chiếc áo yếu hèn của thân phận làm người, mặc lấy chiếc áo rách nát, tả
tơi, hôi thúi của tội lỗi từng biến dạng con người khiến cho nó không còn giống
Thiên Chúa nữa, vì đã đánh mất đi phẩm giá làm con Thiên Chúa và là thụ tạo
tuyệt diệu nhất trong mọi loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho
loài người chiếc áo mới, chiếc áo mừng vui được làm con cái Thiên Chúa và giống
hình ảnh Ngài. Với phẩm giá mới ấy, thành thánh Giêrusalem đại diện cho dân
Chúa, cũng mang một tên gọi mới trong ngôn ngữ của Kinh Thánh.
Đặt tên cho một người, một vật, có nghĩa là tuyên bố người
đó hay vật đó thuộc quyền sở hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật
đó được che chở yêu thương và săn sóc. Giêrusalem từ nay, Thiên Chúa sẽ đặt tên
cho là Hòa Bình, Công Chính và Vinh Quang của lòng thương xót. Dân riêng của
Thiên Chúa từ nay, sẽ làm một dân tộc diễn tả sự an bình, công chính, lòng nhân
từ, thương xót và vinh quang mà Thiên Chúa hiện thực trong vương quốc thiêng
linh của Ngài. Vương quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây
giờ, trên trần gian này, với biến cố Đấng Thiên Sai nhập thể làm người. Trong
tên gọi mới này cũng tiềm ẩn tên gọi Giêsu mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Đấng
Cứu Thế. Chúa Giêsu là ơn cứu rỗi, là sự che chở Thiên Chúa gởi đến cho loài
người luôn bị sự dữ cám dỗ và thường bị tội lỗi chiếm hữu. Công trình cứu độ và
giải phóng ấy được Thiên Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với
sự cộng tác của mọi loài, mọi vật, y như trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập
thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn. Đường vào
sa mạc dẫn đưa dân Ngài vào Đất Hứa sẽ thẳng băng, không còn gò cao. Sa mạc
nắng cháy khô cằn sẽ nở hoa xanh tươi.
Trong chương 3 Phúc Âm của mình, thánh sử Luca ghi lại các
biến cố ấy trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy
giờ. Ơn gọi và hoạt động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào
năm thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế
lên ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô,
Palestine hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa,
Philipphê và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ
6 đến năm 14 sau Tây lịch) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau
Tây lịch).
Tuy nhiên, điểm thánh sử Luca cố ý nêu bật ở đây chẳng phải
là các biến cố lịch sử chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử.
Thánh Luca muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất
cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và
giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi lời của Thiên Chúa
nhập thể làm người để cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy
Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn
được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm
lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi
vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Sa mạc nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối
là một điểm thần học nổi bật khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh
Thánh, sa mạc là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc khô cằn, nóng bỏng ban ngày, giá
buốt ban đêm, là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và không
có sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói
khát và lạc hướng. Những tình trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng
hư không, vô nghĩa của đời mình. Bởi vì nó chỉ là gì, nếu không phải là cát
bụi, hư vô? Nhận thức ấy khiến cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo
mạn, mọi chủ trương coi mình là thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình.
Thái độ và tâm tình ấy khiến cho con người rộng mở tâm lòng mình, cho hành động
và ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa. Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn
đưa con ngươì về đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ Ngài ban.
Trong cuộc sống thiêng liêng càng biết năng vào sa mạc, chúng ta càng sống cảm
nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa sâu đậm hơn.
Sông Giođan, cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác. Như
tường thuật Phúc Âm thánh Luca, Giođan là con sông của hai thời giao ước, nó là
chứng nhân của các biến cố lịch sử ý nghĩa của dân Do Thái. Nước sông Giođan là
nước thanh tẩy của cuộc sống phục sinh và của bí tích rửa tội.
Hình ảnh nổi bật sau cùng trong tường thuật Tin Mừng của
thánh Luca là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri của hai thời giao ước,
người đã nhận được Lời Chúa trong sa mạc, Thánh nhân loan báo rằng chính Ngôi
Lời của Thiên Chúa là động lực hướng dẫn dòng lịch sử của nhân loại, chớ không
phải con người và các chương trình loài người đưa ra. Do đó, càng biết san bằng
các chướng ngại ngăn cách chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận
ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong đời ta, giữa lòng thế giới.
Trong chương 1 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ
cho chúng ta một con đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa
trở lại. Đó là luôn kiên trì sống tình yêu thương, bác ái, biết vun trồng lòng
tin, cậy, mến và khả năng bén nhạy giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp
lòng Ngài. Sống được như thế, là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú
và hiện thực nơi con người điều gọi là con cái Chúa và là dân riêng của Ngài.
4. Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Với Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của
Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị
tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Barúc gợi lên niềm hy vọng
cho dân chúng Israel đang tản mác khắp nơi. Sau khi thành thánh Giêrusalem bị
thất thủ, ông với một số người cùng với tiên tri Giêrêmia chạy trốn sang Ai
Cập. Barúc kêu gọi dân chúng đừng mất niềm tin, niềm hy vọng vào Thiên Chúa.
Ông phác họa cho dân lưu đày thời gian nô lệ, lưu vong sắp kết thúc. Một thời
đại huy hoàng của Giêrusalem đang gần kề. Và Giêrusalem sẽ vui mừng thấy mình
trút bỏ được áo tang chế, mặc lấy áo vinh quang, đầu đội vương miện và hớn hở
mở rộng tầm mắt, dang rộng đôi tay để nhìn xem và đón nhận con cái từ các nơi
trở về. Đó là hình ảnh của Giêrusalem thiên quốc. Nơi đó, Chúa Giêsu Kitô là
vua hiển trị các dân. Các nước tôn thờ Người, trở về với Người sau khi đã bị
tội lỗi và sự dữ phân tán tản mác khắp nơi. Và muốn cho sự trở về được dễ dàng,
cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được nhanh chóng: "Hãy san bằng
những núi cao và những đồi gồ ghề. Hãy lấp đầy những hố sâu, những vực thẳm.
Uốn cho ngay những con đường quanh co, hiểm trở, để mọi người vững vàng bước đi
và cao rao vinh quang của Thiên Chúa".
Qua hình ảnh tiên tri đó, Barúc kêu gọi chúng ta hãy hoán
cải tâm hồn bằng cách hồi tâm, suy nghĩ về những việc hiện tại mình đang làm,
để xem con đường của mình có ngay thẳng không? Không những quanh co, lên đèo,
xuống hố, mà nhất là có phải là đường hầm không, con đường đi trong tối tăm và
mờ ám?
Nơi bài đọc thứ hai trong thư gởi tín hữu thành Philipphê,
thánh Phaolô mở ra con đường lạc quan trong công cuộc trở về cùng Thiên Chúa.
Thánh nhân tin tưởng rằng Thiên Chúa đã hứa, để thực hành lời hứa thì việc gì
Thiên Chúa đã bắt đầu, Người sẽ hướng dẫn cho đến hoàn thiện, nhất là trong đời
sống của những kẻ tin nơi Người. Tin tưởng vào Thiên Chúa thì thánh Phaolô hết
lòng tin tưởng. Nhưng điều ngài lo, ngài ao ước, ngài cầu nguyện, là làm sao
cho mọi người biết thương yêu nhau, biết thông minh sáng suốt và biết phán đoán
mọi sự. Việc yêu thương nhau còn gọi là bác ái, còn gọi là yêu người, sẽ dễ
dàng thực hiện khi tất cả mọi người trong một cộng đoàn, một tập thể biết suy
nghĩ đến hạnh phúc của nhau, biết sống vì ích lợi, vì sự thăng tiến của tập thể
mình đang sống. Bao lâu còn những kẻ lộng hành, chèn ép, bóp nghẹt người khác,
thì thánh Phaolô muốn mọi người phải biết sáng suốt phán đoán mọi việc. Một
người bị ức hiếp một cách bất công mà tôi bảo người đó cố gắng bằng lòng chịu
vì Chúa, yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ làm khốn mình, tức là tôi đồng lõa
với kẻ làm điều gian ác, là tôi dùng tôn giáo như á phiện ru ngủ con người.
Đành rằng Chúa đã dạy: "Chúng con hãy yêu kẻ ghét chúng con và làm lành
cho kẻ làm khốn cho chúng con", nhưng phải sáng suốt phán đoán như thánh
Phaolô dạy, để phân biệt con người và điều ác người đó đang làm hại cho kẻ
khác. Con người thì phải yêu thương cầu nguyện cho họ, mong cho họ cải tà qui
chánh, sống trong tình anh em con một Cha trên trời. Nhưng điều ác họ đang thi
hành là nọc độc tác hại cho người khác, phải tận diệt những nọc độc đó mới là yêu
thương nhau thật sự.
Dầu vậy, thánh Phaolô cũng khuyên tất cả, trong hoàn cảnh
nào cũng hãy sống không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô. Và thánh
nhân đưa ra bằng chứng đời sống của ngài để làm gương nơi câu 7 của đoạn thánh
thư này. Nhưng rất tiếc, không hiểu sao khi chọn làm bài đọc phụng vụ thánh lễ,
người ta lại bỏ câu 7. Từ câu 6 nhảy đến câu 8 ngay, trong câu 7 đó thánh
Phaolô nói: "Tôi cầu xin anh em như thế là điều hợp lý, bởi vì tôi mang
anh em trong lòng tôi khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực củng cố
Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ơn sủng tôi đã nhận được". Nói thế,
tức là trong mọi hoàn cảnh, thánh Phaolô đều dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn,
sướng khổ để cầu nguyện cho nhau.
Nơi bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng,
niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như
đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía
cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện
ngay trên trần gian này, đừng chờ đâu nữa. hãy bắt đầu ngay và dĩ nhiên là đã
bắt đầu từ thời xa xưa trong Cựu Ước. Nhưng thời kỳ quyết liệt bắt đầu, với sứ
mạng của Gioan Tẩy Giả để cho thấy Cựu Ước và Tân Ước cũng là một công cuộc
chuẩn bị. Gioan đã lấy lại lời tiên tri của Barúc trong Cựu Ước mà chúng ta đọc
thấy trong bài đọc thứ nhất: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa soạn đường
Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Con đường cong
queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ
thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Trong khoảng ba tuần nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh
của Đấng Cứu Thế. Ước gì lễ Chúa Giáng sinh không qua đi như bao ngày lễ tết
khác trong năm. Nhưng phải làm sao để Chúa Giêsu sinh lại trong đời sống, trong
gia đình, trong cộng đoàn của mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng và
sống được như thế tức là chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi nhìn lại xem,
trong những công việc mệt nhọc hằng ngày của tôi, cái gì giúp tôi càng ngày
càng gần Chúa hơn? Để được thế, tôi cũng hãy tìm xem chỗ nào trên con đường nối
kết Chúa với cá nhân tôi cần được sửa chữa, để khỏi cản trở việc Chúa đến với
tôi. Và nếu được, cũng hãy chuẩn bị tham dự một nghi thức thống hối và coi đó
là một sự khai thông bế tắc giữa tôi với Đấng tôi yêu mến và Người luôn yêu tôi
hết lòng.
5. Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát.
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Tin Mừng hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí
đối nghịch nhau. Trên một cái phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị
giàu sang nơi ngự trị của hoàng đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn
Phongxiô Philatô, và các thứ vua bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê. Cũng trong cái
phông lờ mờ ấy, người ta còn thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và
Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Trên cái phông lờ mờ
ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi
cư ngụ của môt kẻ nghèo nàn ấy là Gioan, con của Giacaria. Thánh Luca có lẽ đã
muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng
chỉ có trong sa mạc vắng vẻ nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói
của Thiên Chúa.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những
cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã
phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng
dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết
để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được
các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành
sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh
của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi
vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn.
Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không
cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện
được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách
hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ
đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ
được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên
sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ
đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường
hơn.
Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có
thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc
Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người
được nghe thấy: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy
lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng,
đường gồ ghề hãy san cho bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ
với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống
trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố
gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng
ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng
và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu,
không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Đó là lý
do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức
cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng
ta quen gọi là Hồng Y. "Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các
Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở
này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi
Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng,
cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và
kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì
để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân
huệ nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực
thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của
các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài
ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến
cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng
lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi
vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng
nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ
can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng,
hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay
thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Khi cuộc sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi,
khi miệng lưỡi của họ nói lên những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin
Mừng nói với chúng ta, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.
6. Con đường nội tâm - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả
những vị lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã,
quyền uy phủ trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho
hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến
em ông cai trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế
nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói
lên thực trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao
giờ hết người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Người. Chúa đã
đến, không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh
Gioan Baotixita hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm.
Chỉ những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của Thánh
Gioan Tiền Hô, đường nội tâm có những đặc điểm sau:
Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương
trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ lời với các vị lãnh đạo cao cấp
uy quyền, nhưng lại ngỏ với Thánh Gioan Baotixita. Một chương trình lớn lao như
thế không khởi đầu từ thủ đô đất nuớc nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa
xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu
thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng
thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng
Chúa. Thánh Gioan Baotixita nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch.
Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai
tất cả những tiếng ồn ao thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp
được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.
Đường nội tâm đi trong đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng
vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh
đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp
mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần áo lụa sang trọng.
Tự mãn yến tiệc linh đình. Thánh Gioan Baotixita thật khiêm nhường. Khiêm
nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ.
Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong
rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che
thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp
được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với
người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu được Thánh Gioan
Tiền Hô dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con
đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường
tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa
phải bát núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm
hồn có những khúc quanh co, để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa
tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình
khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội
tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời Thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở
về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào
nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống
đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để
từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm
hồn còn lồi lõm quanh co. khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co
trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường
và chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh Gioan Tiền Hô có sống những lời Ngài rao giảng
không?
3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn
nào? Có dễ không? Tại sao?
7. Dọn đường cho Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trong những trận bão lụt tại miền Trung nước Việt, nhiều
làng bị nước ngập; nhiều đoạn đường bị nước lũ cuốn đi hay bị sạt lở, xe cộ
không đi lại được... Dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá
không còn xử dụng được nữa. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi,
nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người
bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu
trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người.
Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc
cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu
trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho
thật tốt.
* * * * *
Bạn thân mến, Con đường vật lý đã cần, nhưng "con
đường thiêng liêng" còn cần hơn...Con đường thiêng liêng có thật tốt mới
giúp ta lãnh nhận Ơn Chúa và nhất là đón nhận chính Chúa đến. Thật ra Chúa đã
đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được Ngài vì con đường thiêng liêng trong
tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những đỉnh đồi
kiêu ngạo, luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không chịu thua kém người
khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu
nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những hố sâu
tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta
có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn
nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh lợi, thú
vui dục vọng
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những khúc quanh
co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác
và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự
trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những lượn sóng
gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì sự lười biếng
không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ
trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những hố sâu, những khúc quanh co,
những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta.. Trong Mùa vọng này, chúng
ta được mời gọi hãy sửa chữa con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta cho tốt
đẹp hơn để đón Chúa đến
Hãy bạt đi những thói kiêu căng tự mãn; tính tự ái ngang
ngạnh. Hãy lấp đầy những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà; những đam mê, dục
vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá, giả hình. Hãy san bằng những
lượn sóng gồ ghề độc ác; những câu nói hành nói xấu trong cuộc sống hằng ngày.
* * * * *
Lạy Chúa,
Đổi mới một con đường bằng cách lấp đầy những hố sâu, uốn
thẳng những khúc quanh thì thật dễ, dọn dẹp cho sạch sẽ một con đường thì dễ
hơn... Nhưng đổi mới tâm hồn, dọn dẹp con đường thiêng liêng trong tâm hồn thì
không dễ chút nào. Để chuẩn bị cho ngày Con Thiên Chúa lại đến, xin ban ơn giúp
sức cho con trên con đường phấn đấu bản thân, để mỗi ngày con biết "bắt
đầu lại" công việc dọn dẹp đổi mới con đường thiêng liêng trong tâm hồn
con. Amen.
8. Có Lời Thiên Chúa phán.
(Trích trong 'Manna' – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Mỗi lần mùa Vọng đến, ta lại gặp Gioan. Một cuộc sinh ra kỳ
lạ, một lối sống khác thường.
Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng
chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với
Thiên Chúa.
Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã
kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ
lời với ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven
sông Giođan mà gặp con người. Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố.
Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng
bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế
Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng
trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này.
Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy.
Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ.
Gioan biết mình là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, và ông cố làm
tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.
Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như
xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.
Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua
Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày.
Đường quan trọng là đường vào cõi lòng.
Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những
lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của
tự kiêu, tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa
cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp...
Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người
cùng dọn các con đường thành đại lộ. Điều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường
gây đau đớn.
Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp
bỏ những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu.
Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối.
Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn
gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống.
Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu
những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người.
Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới
trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôn sứ là người nói lời của Thiên Chúa. Có khi nào bạn dám
nói một điều do lương tâm đòi buộc, nhưng đem lại cho bạn nhiều thiệt thòi,
nguy hiểm không?
Đường sá là cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển.
Bạn đã làm gì trong mùa Vọng này để dọn đường cho Chúa đến?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không
đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại
đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu
đuối chúng con; xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối
sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối
mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những
hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
9. Hãy dọn đường cho Chúa – Lm. Nguyễn Cao
Siêu.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta muốn tự định nghĩa về
mình. Chúng ta tự hỏi mình là ai. Đây là một câu hỏi quan trọng và cần thiết.
Gioan Tẩy Giả cũng đã đặt cho mình câu hỏi tương tự. Nhiều
người nghĩ rằng ông là đấng Mêsia, là Êlia... Còn ông, ông biết rõ ông là ai.
Gioan không đánh lừa mình hay đánh lừa người khác. Ông tự định nghĩa: "Tôi
là tiếng kêu trong sa mạc. Hãy dọn đường cho Chúa đến" (Ga 1, 23).
Cả cuộc đời Gioan là một tiếng kêu. Tiếng kêu ấy đã vang
lên từ khi ông được thụ thai, một cuộc thụ thai lạ lùng khi cha mẹ ông đã luống
tuổi. Tiếng kêu ấy rõ dần qua cuộc sống đặc biệt của ông: nơi hoang địa, mặc áo
lông thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Tiếng kêu ấy vang động khắp vùng ven
sông Giođan.
Một tiếng kêu khẩn thiết: hãy sám hối. Một tiếng kêu cấp
bách: hãy dọn đường cho Chúa đến. Tiếng kêu cuối cùng của Gioan đã đưa ông đến
cái chết: "Vua không được phép lấy bà ấy làm vợ" (Mt 14,4).
Gioan hấp dẫn vì ông sống điều ông giảng: ông sống khổ hạnh
và mời gọi người ta sám hối. Gioan mãi mãi hấp dẫn vì ông không bao giờ tìm
mình. Ông sống vai trò của người mở đường, người giới thiệu cho Đấng đến sau
ông nhưng lại quyền thế hơn ông. Ông vui mừng tự xóa mình đi để Đức Giêsu được
nổi bật. Chính vì thế mà ông trở nên cao trọng.
Con người chỉ cao trọng khi sống cho Thiên Chúa.
Mỗi lần mùa Vọng trở về, chúng ta có dịp gặp lại Gioan,
người dọn đường.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn cần những Gioan Tiền Hô mới biết
tiếng kêu thức tỉnh nhân loại, biết dạy cho họ chờ đợi và nhận ra ơn cứu độ đã
đến.
Dọn đường là lội ngược dòng, là chấp nhận bị khai trừ, bị
từ chối.
Gioan đã dọn đường bằng cả cuộc đời để cuộc hôn nhân giữa
Chúa Kitô và nhân loại thành tựu.
Hội Thánh vẫn cần những người dám sống điều mình nói, và
dám nói điều mình sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giáo Hội mời gọi chúng ta lội ngược dòng trước sự lôi kéo
của vật chất, hưởng thụ. Có khi nào bạn dám đi ngược với tập thể, vì muốn sống
theo ý Chúa?
Trong cuộc sống của Gioan Tẩy Giả, điều gì đánh động bạn
hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Khi đến với Chúa con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của
con; con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con; con đóng lại bút viết: các
quan điểm của con; con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con; để con được ở
một mình với Ngài, lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo
đường của Chúa, con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo
kính vào để nhìn thế giới của Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của
Chúa, con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa.
10. Tuân giữ luật Chúa từ trong lòng – Achille
Degeest.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Sứ vụ thánh Gioan Tẩy Giả là chuẩn bị việc Đấng Cứu Thế
đến. Ông rời bỏ hoang địa sau thời gian tĩnh tâm lâu ngày. Để trả lời cho những
kẻ nghĩ rằng cứ giữ đúng những nghi thức Lề Luật là được Thiên Chúa thương yêu,
ông giảng về sự cần thiết phải hồi tâm và thay đổi nếp sống. Thật ra, ông chỉ
tiếp nối lời giảng dạy của các ngôn sứ. Ông là người cuối cùng, đến trước Đức
Kitô, trong chuỗi dài những ngôn sứ không ngớt nhắc nhở Israel về sự cần thiết
chuẩn bị nghênh đón Chúa. Công việc chuẩn bị này là nhiệm vụ toàn dân cũng như
của mỗi người. Sửa soạn đón Đức Giêsu là không được quên lãng việc thờ phượng
Thiên Chúa, là xua đuổi ngẫu tượng, là uốn thẳng những đường ngõ bị bất công và
ích kỷ làm cho cong queo khúc khuỷu.
Chúng ta có thể từ đoạn Phúc Âm trên đây rút ra hai câu
quan trọng:
1) Thiên Chúa phán với Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.
Nói chung, người ta nhận thấy trong Kinh Thánh điều này:
Thiên Chúa chuẩn bị những sứ giả của Người bằng một thời gian tĩnh tâm vắng vẻ
lâu dài. Trong thế giới hiện tại, lối chuẩn bị như thế vẫn có giá trị đối với
bất cứ Kitô hữu nào. Không phải tất cả các tín đồ đều phải dành nhiều ngày giờ
để sống trong cô tịch. Nhưng chính trong chừng mực mà, theo ơn gọi, Kitô hữu
nào đảm nhận một trách vụ trong Giáo Hội, thì phải sắp đặt thời giờ cần thiết
để cầu nguyện mặt đối mặt với Chúa.
2) Gioan Tẩy Giả rao giảng một sự thanh tẩy bằng sám hối,
trở lại để lĩnh ơn tha thứ.
Biệt phái và Sa đốc là giới thính giả được thánh Gioan chú
trọng đặc biệt. Họ dễ tin rằng hễ tuân giữ đúng Lề Luật là giữ đạo cách đầy đủ.
Nhưng ông nói với họ: Điều chủ yếu là phải đổi mới tâm hồn. Ít lâu sau, Đức
Giêsu sẽ phán dạy rằng những điều làm cho người ta ô uế, chúng xuất phát từ
trái tim: Đó là thù hận, tà dâm, ghen ghét, bất công, là chủ trương duy vật
thực tế của thế gian. Để chuẩn bị nghênh đón Đức Giêsu, thánh Gioan Tẩy Giả
loan báo sự cần thiết phải thanh luyện tâm hồn. Chúng ta có thể ghi lấy điều
sau đây: Tuân giữ giới răn Chúa mới chỉ là bề ngoài; còn phải kèm theo một nội
tâm thật sự xua đuổi sự tội. Tâm tình ấy chính là thái độ thành thật đối với
Thiên Chúa.
11. Suy niệm của McCarthy.
Suy Niệm 1. CHUẨN BỊ CON ĐƯỜNG CHO CHÚA
Có một nhà giảng thuyết nổi tiếng, cứ hết Chúa nhật này đến
Chúa nhật khác, đều đến giảng tại một cộng đoàn rộng lớn. Họ rất chăm chú lắng
nghe. Vào một Chúa nhật, khi ông đang đi đến bục giảng, thì những lời trong Tin
Mừng vang bên tai ông: "Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng
để Người đi". Một ý tưởng bất chợt đến với ông: "Thiên Chúa không cần
chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính chúng ta mới cần".
Từ trên bục giảng, ông nhìn vào các gương mặt đang chờ đợi
của giáo dân, và tự hỏi không biết những lời đó có ý nghĩa gì đối với họ. Những
điều cần phải chấn chỉnh trong cuộc sống của họ là gì? Ông nhận ra rằng chỉ bản
thân họ mới có thể trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên, có một lãnh vực mà ông cảm
thấy đáng nói đến: các mối quan hệ thường xuyên bị bóp méo và rối loạn của họ.
Ông đã quen biết những người này cả một thời gian dài. Họ
đã từng đến với ông, để được giúp đỡ và hướng dẫn qua những vấn đề của họ. Ông
biết những đố kỵ nhỏ nhặt làm cho tâm hộn họ bực bội, những hận thù khiến cho
người này chống lại người kia, những cuộc cãi vã vặt vãnh vẫn còn tồn tại,
những ghen tỵ và hiểu lầm, sự tự hào xuẩn ngốc.
Ông quyết định gởi một thông điệp cho những con người cố
chấp, đầy cay đắng, không chịu tha thứ và bỏ qua đó. Ông sẽ ghi khắc nơi họ ý
tưởng rằng cuộc đời vốn dĩ quá ngắn ngủi rồi, không ai nên gây hận thù và bất
mãn cho nhau nữa. Ông sẽ van nài họ nên cư xử trong sự hiểu biết và khoan dung
đối với nhau. Ông sẽ nói với họ từ tận tâm hồn của ông, như thể ông đang nói
riêng với từng người vậy. Thế là ông bắt đầu:
Anh chị em thân mến, tôi xin được nhắc lại những lời trong
Tin Mừng: "Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người
đi". Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính
chúng ta cần.
Chúng ta cứ để mặc cho những chuyện hiểu lầm diễn ra từ năm
này sang năm khác, với ý nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ khai thông chúng. Chúng
ta cứ để cho những cuộc cãi vã tiếp tục tồn tại, bởi vì chúng ta không thể sắp
xếp tư tưởng, để dẹp bỏ và chấm dứt lòng tự hào của chúng ta.
Chúng ta đi ngang qua những người khác với vẻ mặt sưng sỉa,
không hề nói với họ một lời nào, mà không có một vài thái độ đố kỵ vớ vẩn, mặc
dù chúng ta biết rằng mình sẽ hối hận và xấu hổ nếu nghe tin rằng ngày mai một
trong những người đó sẽ qua đời.
Chúng ta cứ để mặc cho người đồng loại của mình bị đói
khát, cho đến khi chúng ta nghe tin rằng người đó đang chết đói, hoặc chúng ta
làm cho người bạn của mình bị đau lòng, vì một lời đánh giá mà một ngày nào đó
chúng ta đã nói với họ.
Nếu chúng ta nhận ra rằng "thì giờ ngắn ngủi",
thì câu nói này sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến thế nào. Làm sao để chúng ta có thể
ra đi ngay tức khắc, và làm được những điều, mà có thể không bao giờ chúng ta
có cơ hội khác để thực hiện.
"Tôi xin nhắc lại: Thiên Chúa không cần chúng ta phải
sửa đường cho Người nhưng chính chúng ta cần. Vì thế, nếu chúng ta có thái độ
quanh co, hoặc lối sống không ngay thẳng, hoặc mối quan hệ không chân thật nào
đó cần được chấn chỉnh lại, thì chúng ta hãy sửa đổi ngay. Sau đó, chúng ta sẽ
thực sự chuẩn bị đường cho Chúa đến với chúng ta".
Ông kết thúc bài giảng của mình ở đó. Nhưng lời nói của ông
thật đáng suy gẫm. Đối với những người đang đi trên một con đường quanh co, thì
quả thật mọi sự đều khó khăn. Nhưng mọi sự đều trở nên dễ dàng, đối với những
người đi trên đường ngay nẻo chính –đường lối của sự thật, lương thiện và tốt
đẹp. Nhưng để đi trên một con đường ngay thẳng, người ta cần có sức mạnh, sự
khôn ngoan và chân thật.
Thiên Chúa không hề từ bỏ con người, khi chúng ta bị lạc
khỏi đường lối ngay thật. Người vẫn mời gọi chúng ta rời bỏ con đường quanh co,
để đến với đường ngay nẻo chính. Mùa Vọng là một thời gian tuyệt vời, để chúng
ta biết nhắm bản thân đến đường hướng ngay thẳng, và tự mình cam kết đi trên
đường lối đúng đắn. Chúng ta phải cầu xin Chúa cất đi sự mù lòa khỏi cặp mắt
chúng ta, sự yếu đuối khỏi ý chí chúng ta, và sự cứng cỏi trong tâm hồn chúng
ta, để sao cho cuộc sống chúng ta được tràn đầy ân sủng trong ngày Người đến.
Suy Niệm 2. TỰ MỞ LÒNG RA CHO ƠN CỨU ĐỘ
Ơn cứu độ là một trong những chủ đề lớn của Mùa Vọng. Hôm
nay, một lời mời gọi lớn lao xuất phát từ Phụng vụ "Hãy dọn sẵn con đường
cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy. Mọi
núi đồi, phải bạt cho thấp; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm,
phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa".
Đây là những lời tuyệt vời. Đây là lời tuyên bố về tình yêu
của Thiên Chúa đối với chúng ta. Nhưng ở đây, có thể phát sinh ra một vấn đề.
Một số người cứ nghĩ rằng để được Thiên Chúa yêu thương, thì họ phải hoàn hảo.
Họ nói: "Thiên Chúa không bao giờ muốn gặp tôi trong tình trạng tội lỗi và
bất toàn của tôi". Vì thế, họ nỗ lực trở nên con người hoàn hảo, nhằm đạt
được tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đưa đến hậu quả là họ cứ cố gắng tự mình
xoay sở lấy. Thiên Chúa khó cứu độ những người như vậy.
Lần kia, có một tu sĩ tên là Ambrose. Vốn là một chuyên gia
về đời sống thiêng liêng, tu sĩ Ambrose rất đòi hỏi trong cách nói chuyện và
suy niệm. Ông còn là một người rất thông minh, và chăm chỉ làm việc. Vì là một
con người ưa sự triệt để hoàn hảo, nên ông luôn luôn thích được sắp xếp và kiểm
soát mọi sự. Ông làm cho mọi người lóa mắt thán phục về năng lực và kiến thức
của ông.
Nhưng khi đang ở trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, thì ông bị
một căn bệnh ở giai đoạn cuối làm cho ông quỵ ngã. Dường như thể sứ mạng của
ông đã kết thúc. Tuy nhiên, sự việc lại không diễn ra như vậy. Trái lại, chính
khi ông trở nên yếu đuối, và hoàn toàn không kiểm soát được mọi sự, thì ông lại
trở nên có hiệu quả nhất.
Điều này diễn ra như thế nào? Ông quyết định sử dụng căn
bệnh của mình để tiếp cận với những người đau khổ khác. Và nhờ đó, ông đã quá
thành công, đến nỗi chính căn bệnh ở giai đoạn cuối của ông lại chuyển thành
một giai đoạn hiệu quả nhất. Trước khi qua đời, ông nói "Tôi đã đi theo
một phương hướng, thì đột nhiên, tôi lại bị bắt buộc phải đi theo một hướng
khác. Nhưng trong quá trình đó, tôi được học hỏi về bản thân mình, và về tấm
lòng tốt của người khác, nhiều hơn là tôi đã từng học hỏi được trong suốt những
năm tháng trước đây của cuộc đời tôi".
Và về mức độ cá nhân, thì tu sĩ Ambrose đã trải qua một sự
biến đổi tuyệt vời. Dường như thể cái vỏ bọc bảo vệ nào đó đã nứt vỡ ra, và làm
nổi bật lên một con người thực sự có sức quyến rũ. Trước đây, ông là một người
có vẻ cô độc trong cộng đoàn. Bây giờ, ông đã tự đặt mình vào giữa cộng đoàn,
cùng ăn uống với các tu sĩ bạn, nhưng cũng đóng góp một cách rộng rãi vào tinh
thần của cộng đoàn, nhờ sự dịu hiền và an bình mà ông tỏa ra. Đây là công trình
của ân sủng, và điều này chứng tỏ sự thật trong vài câu ngắn sau đây:
Hãy rung lên những hồi chuông nào vẫn còn có thể vang vọng
được.
Hãy quên đi sự hiến thân hoàn hảo của bạn.
Trong tất cả mọi sự, đều có một vết nứt.
Đó là cách để ánh sáng thâm nhập vào.
Những hoàn cảnh làm cho chúng ta mở lòng mình ra, để đến
với điều mà Thiên Chúa mong muốn ban cho chúng ta quả thật lạ lùng. Khi chúng
ta đến với Thiên Chúa từ trạng thái đầy đủ và mạnh mẽ của bản thân, thì chúng
ta đặt Thiên Chúa sang một bên. Nhưng khi chúng ta đến với Thiên Chúa từ tình
trạng yếu đuối và có nhu cầu, là chúng ta mời gọi Người đi vào tâm hồn của
mình. Thông qua sự bất toàn của mình, mà tâm hồn của chúng ta được mở ra cho ân
sủng của Thiên Chúa. Sự bất toàn của chúng ta chính là những vết thương thu hút
sự chú ý của Thiên Chúa, khiến chúng ta xứng đáng được Người thương xót và chữa
lành.
Trong cuộc sống chúng ta, có một thái độ quanh co, hoặc
cách cư xử không ngay thẳng cần được chấn chỉnh lại, chúng ta hãy cố gắng làm
điều đó. Nhưng chúng ta không được suy nghĩ rằng Chúa sẽ không đến với chúng
ta, trừ phi chúng ta vẹn toàn. Nếu chúng ta đã hoàn hảo rồi, thì Thiên Chúa
không đến với chúng ta nữa. Thiên Chúa đến, bởi vì chúng ta là những tội nhân
cần được cứu độ. Người đến, bởi vì chúng ta là những đứa con bị thương tích, cần
được chữa lành. Điều mà chúng ta cần, đó là lòng khiêm tốn và sự chân thành, để
tỏ cho Người thấy những tội lỗi và vết thương của chúng ta.
Có những người nói rằng chúng ta không nên bộc lộ sự yếu
đuối, bởi vì điều này không tạo ra được sự kính trọng, và do đó, tốt hơn là nên
mang lấy gánh nặng của bản thân mình trong sự bí mật. Nhưng chính sự am hiểu về
nỗi đau khổ của cá nhân, lại càng làm cho chúng ta có khả năng cống hiến kinh
nghiệm bản thân mình, như một nguồn suối để chữa lành cho người khác. Những ai
không che đậy sự đấu tranh của họ, nhưng biết sống bằng chính con người thật,
nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, thì có thể mang lại niềm hy vọng cho người
khác.
12. Sám hối canh tân.
(Trích trong "Như Thầy Đã Yêu" – Thiên Phúc)
Đời Chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang nước Sở, phải đợi
suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay. Vua Sở
bảo: "Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân
xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu
ở lại là cớ làm sao?"
Tô Tần thưa: "Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt
hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết
kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc, thổi quế, nhờ ma thấy
trời hay sao?
Vua Sở khẩn khoản nói: "Xin mời tiên sinh cứ ở lại,
quả nhân đã hiểu rõ quá rồi".
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: "Gạo châu củi
quế", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao.
Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế
chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa
chữa.
Mỗi lần mùa vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch
ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là
Gioan Tẩy giả: "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa, sửa
lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4)
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là
ngôn sứ của dân tộc Do thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô
đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị
thượng tế Anna và Caipha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng
hố sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: "Mọi thung lũng,
phải lấp cho đầy; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho
phẳng" (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường
quan trọng chính là đường vào cõi lòng.
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch
lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn, tự
kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất
chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy
dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì
chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh
em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con
đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn cứu độ của Người cũng chỉ ban cho những ai
rộng tay đón nhận.
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không
dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành
động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón
rước Chúa đến, mang nguồn vui ơn cứu độ. Amen.
13. Suy niệm của André Sève.
THIÊN CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI
Luca là tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển
khai thành ba điệp khúc như trong đoạn rất súc tích này chẳng hạn: "Cho
đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin
Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào" (Lc
16,16)
Luca muốn xây dựng những chiếc cổng qua đó ông làm cho
chúng ta đi vào trong lịch sử một cách long trọng. Vào lúc hạ sinh Chúa Giêsu:
"Hồi ấy Xêda đại đế ra chiếu chỉ ...". Và đối với bước đầu công khai
của Ngài, cùng với Gioan tẩy giả vén màn lịch sử: "Năm thứ mười lăm triều
đại vua Xêda Tibê..." Đây là tiếng chuông lớn của lịch sử.
Có một lời loan báo phi thường: "Mọi người sẽ được ơn
cứu độ". Đây là điều ông già Simêon đã công bố một cách âm thầm hơn:
"Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là
ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài".
Chúng ta thường quá thu hẹp các chân trời này, loại bỏ những chân trời này,
quên lãng những chân trời kia. Và chúng ta luôn có nguy cơ mất đi trên các con
đường của lịch sử điều phải là nỗi ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên
Chúa của tất cả mọi người, Ngài muốn cứu độ tất cả những người ấy.
Người Do thái thời bấy giờ mong chờ Đấng Cứu Thế đến độ
trái tim họ rung động khi nhìn vị tiên tri mới xuất hiện là Gioan Tẩy giả:
"Có phải người này là Đấng Cứu Thế hay không?".
Điều này sẽ còn khó tin hơn nữa! Sẽ phải có toàn bộ Tin
Mừng, sự phục sinh và hiện xuống để người Do thái độc thần triệt để lòng trí mở
ra (một cách khó khăn!) cho điều không thể tưởng tượng được: Đấng Cứu Thế chính
là Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả phác hoạ chân dung đầu tiên đó: "Có Đấng
mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm
phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa".
Nhưng cũng sẽ phải có các thần học gia giám mục vĩ đại của
các thế kỷ đầu tiên, kinh nghiệm của các thánh, nhất là Chúa Thánh Thần để nói
lên điều không thể được trình bày: Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh
Thần; và Chúa Con đã làm người, dưới thời Xêda đại đế, dưới triều vua Tibê.
Mùa vọng lại đặt chúng ta trước những chân trời rộng lớn
của việc cứu độ tất cả mọi người mà Chúa Cha đã sai phái Con của Ngài cho họ.
Còn việc tiếp nhận: Gioan Tẩy giả yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Ngài một con
đường. Hai hình ảnh giải toả và tẩy sạch có thể giúp chúng ta hình dung công
việc này một lần nữa: làm bung ra những cái cửa quá rỉ sét và làm sập đổ sự từ
chối mà chúng ta đã làm cho chai cứng nơi chúng ta, những núi đồi do dự và bác
bẻ. Nói với Chúa: "Xin hãy vào trong con" đòi buộc một sự hoạt động
tích cực.
Tôi có đi quá nhanh từ lời loan báo lớn lao của Gioan Tẩy
giả "tất cả mọi người sẽ xem thấy ơn cứu độ" đến những lo toan cá
nhân nhỏ nhặt hay không? Chúng không nhỏ nhặt đâu, những cái nhìn rộng lớn trên
thế giới không được làm cho chúng ta quên đi khu vườn của chúng ta. Trả lời cho
một lãnh chúa người Tây Ban Nha, thánh Pierre ở Alcantara nói: "Ông hãy tỏ
ra có tấm lòng tốt, thì đó đã là một phần của thế giới sẽ trở nên tốt
đẹp". Nói với Chúa trong mùa vọng: "Hãy đến cứu độ tất cả chúng
con" sẽ là một lời nguyện của kẻ mơ mộng nếu lời nguyện đó không hướng
chúng ta về điều phải được cứu độ nơi mỗi người trong chúng ta.
14. Dọn đường cho Chúa đến.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có vô vàn ngăn trở khiến con người không thể đến được với
nhau.
Ngăn cách vì tường cao luỹ sâu, vì đồi núi chập chùng hiểm
trở đã hoá thành xưa cũ, không còn là vấn đề đối với phương tiện đi lại tân
tiến hôm nay.
Ngăn cách vì đường xa thiên vạn lý đã dần dần bị thu ngắn
lại; hai người ở cách nhau nửa quả địa cầu có thể gặp nhau sau một vài ngày lên
máy bay.
Thậm chí ngăn cách giữa các hành tinh xa xôi diệu vợi cũng
đã được bắc cầu.
Bên cạnh những ngăn cách về không gian, về đường sá thì
ngăn cách về quan điểm, về ý thức hệ đáng quan ngại hơn nhiều.
Đã có thời, ngăn cách bởi ý thức hệ (cộng sản và tư bản),
bởi những quan điểm và chủ trương khác nhau, đã tạo nên những chia cắt rất sâu
sắc giữa cộng đồng nhân loại, tạo nên những khoảng cách tưởng chừng không bao
giờ có thể vượt qua. Vậy mà hôm nay những chia cắt như thế xem ra đã được thu
hẹp rất nhiều.
Rốt cuộc, chỉ còn ngăn cách vô hình trong lòng người, do
lòng hận thù, do ghen tị, do hiểu lầm nhau mới là ngăn cách đáng quan ngại nhất
và tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử loài người.
Những ngăn cách loại nầy đã khiến cho hai người láng giềng
cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được, khiến cho hai người bạn
cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ
chồng chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa
nhau vạn dặm.
Con người đã xây dựng được nhiều nhịp cầu thật dài và kiên
cố, bắc qua những dòng sông rộng mênh mông, để nối kết đôi bờ; nhưng ai có thể
xây dựng những nhịp cầu thiêng liêng để kết nối những tâm hồn xa cách?
Thánh Gioan Tẩy Giả là người được sai đến để dựng xây những
nhịp cầu như thế.
Theo Tin Mừng hôm nay, Ngài được sai đến làm tiền hô, làm
kẻ bắc cầu, dọn đường cho Chúa đến:
"Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con
đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho
đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường
lồi lõm, phải san cho phẳng."
Phải dọn đường đón tiếp Chúa thế nào đây?
Người ta thường rất sùng mộ Thiên Chúa uy linh ngự trên cõi
trời cao thẳm mà lãng quên các chi thể của Ngài đang sống kề cận quanh mình.
Chính những chi thể của Thiên Chúa quanh ta mới cần ta dọn đường để đón tiếp.
Chúa Giê-su luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Ngài đang hiện
diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người
chung quanh là làm cho chính Ngài. (Mt 25, 40)
Vậy thì dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là dọn
đường cho anh chị em chung quanh có thể đến được với mình.
Các chủ quán Bê-lem hôm xưa khước từ hai người lữ hành lạc
lõng đi tìm chỗ trọ (thánh Giu-se và Mẹ Maria) là trực tiếp khước từ Thiên
Chúa.
Hài Nhi Giê-su phải sinh trong chuồng bò vì con người đã
không tiếp nhận con người.
Tất cả những ai hành xử như thế với người chung quanh sẽ bị
Chúa Giê-su cảnh cáo: "Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước"
(Mt 25, 43)
Vậy thì đón tiếp Chúa không là gì khác ngoài việc hoà thuận
tiếp nhận mọi người không trừ ai.
Dọn đường đón Chúa không là gì khác ngoài việc xoá bỏ đi
những ngăn cách do chúng ta dựng lên giữa mình với tha nhân mà chúng ta giáp
mặt hằng ngày.
Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không
còn phân li ngăn cách, ấy mới là lúc đường sá đã dọn xong và Chúa mới có thể
đến được với mình.
15. Hãy dọn đường cho Chúa.
Người ta kể lại rằng, một khoa học gia và cũng là họa sĩ
nổi danh Leonardo da Vinci vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly, bức tranh được rất nhiều
người khen ngợi cho đến ngày hôm nay. Ông có một tranh chấp mạnh mẽ với người
láng giềng, tâm tình thù hận trong tâm hồn không cho phép ông vẽ một chân dung
nhân từ dịu dàng của Chúa Giêsu. Ngồi trong phòng vẽ hàng giờ, nhưng Leonardo
da Vinci không thể nào tập trung tinh thần để vẽ chân dung. Cuối cùng, ông
quyết định đi tìm để làm hòa với người đang có tranh chấp, rồi với tâm hồn an
bình thư thái, ông đã vẽ được dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh nổi tiếng Bữa
Tiệc Ly, và dung mạo của Chúa Giêsu do ông vẽ ra đó thể hiện tuyệt vời đặc sắc
tinh thần của Chúa Giêsu mà cho đến ngày hôm nay chưa có hay ít có họa sĩ nào
theo kịp.
Hơn Leonardo da Vinci, mỗi người chúng ta được mời gọi
không phải chỉ vẽ chân dung Chúa Giêsu trên trang giấy trong bức họa mà thể
hiện chính Chúa Giêsu, trở thành một Chúa Giêsu Kitô thứ hai. Chúng ta không
thể nào thành công làm công việc này, nếu tâm hồn chúng ta còn tích chứa những
tật xấu, những tội lỗi, những tâm tình thù hận, ganh tị với anh chị em. Mỗi
người chúng ta cần thực hiện điều mà thánh Phaolô tông đồ gọi là lớn lên trong
đức bác ái: "Lòng bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông
biết và am hiểu, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của
Chúa Kitô ngự đến". Đây có thể nói là mục tiêu chính của Mùa vọng chúng ta
đang cử hành, mùa chuẩn bị tâm hồn của chúng ta hay đúng hơn tẩy sạch tâm hồn
chúng ta khỏi những gì là tiêu cực xấu xa, nghịch lại sự thật của Chúa, để
chúng ta có thể không phải là họa lại mà là trở thành chính Chúa Giêsu, đón
nhận hoàn toàn ân sủng cứu rỗi của Ngài. Đây cũng là điều mà Gioan tiền hô
trong bài Phúc âm hôm nay lớn tiếng nhắc lại cho mọi thành phần dân Do thái
thời Ngài đang bị cám dỗ bỏ quên Thiên Chúa, hoặc làm méo mó dung mạo Thiên
Chúa mà họ đã được mời gọi làm chứng giữa muôn dân. Bí quyết đó là việc ăn năn
thống hối, thay đổi nội tâm đã được Gioan rao giảng. Đón tiếp một vị khách phàm
trần, người ta chỉ cần chưng diện treo hoa đèn, biểu ngữ, chào đón, chúc tụng
và hô to những khẩu hiệu ngoài môi miệng cho qua lượt, nhưng để đón Chúa đến và
họa lại chân dung của Chúa trong chính đời sống của mình thì con người phải
thay đổi thực sự tâm hồn, phải thực hiện cuộc canh tân thay đổi nội tâm khỏi
những tâm tình xấu xa tội lỗi.
Ước chi trong Mùa vọng này giúp chúng ta lắng nghe lời mời
gọi của Gioan tẩy giả và nhất là lời mời gọi của chính Chúa đang đứng ngoài gõ
cửa chờ ta để trở nên hiện ảnh, hiện thân của Chúa Giêsu giữa anh chị em, làm
vinh danh Thiên Chúa và cũng vừa xây dựng được một xã hội tốt đẹp xứng đáng với
con người mỗi ngày một hơn.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết hoán cải, canh tân
đời sống trở về với Chúa mỗi ngày một nhiều hơn, thiết thực hơn. Amen.
16. Tiếng kêu trong sa mạc.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả
Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu.
Có người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: "Tôi nghe sa mạc
khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi".
Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy, tâm hồn
con người luôn hướng tới về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn
xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con
người. Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô
cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu có không được
vun xới và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao
là kiên nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi... để
biến sa mạc của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt... Sa mạc tâm hồn của chúng
ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.
Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng
cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: "Có tiếng kêu
trong sa mạc: "Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi".
Đó là tiếng kêu của Gioan Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể
vắng bóng trong Mùa Vọng – Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với
đời sống của Chúa Cứu Thế như "tiếng kêu" gắn liền với Đấng là
"Lời của Thiên Chúa". Đàng khác, đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do
khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía sau; và đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa
sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa Giêsu, Đấng thiết lập Bí tích Thánh Tẩy để
tha tội.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu
qua các Ngôn Sứ trong Cựu Ước để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là
Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp
mọi tiếng kêu của các Ngôn Sứ khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của
Êlia, tiếng kêu của Giêrêmia, của Baruc (Bđ.1). Chính vì vậy "Tiếng kêu
trong sa mạc" là tên gọi của Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh,
nhưng lại rất súc tích: "Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài
đi. Mọi thung lung, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh
co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người
phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
Thưa anh chị em,
Ngày nay, khi nói "Tiếng kêu trong sa mạc", người
ta thường hiểu là tiếng kêu vô ích, lời hô hào không được hưởng ứng, không được
đón nghe. Nhưng tiếng Gioan đã kêu lên trong sa mạc không phải là "tiếng
kêu trong sa mạc" theo nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ
mọi hạng người khắp xứ Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy
mặc dù kêu lên trong sa mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem đến
nỗi một phái đoàn chính thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến để chất
vấn Gioan tận nơi sa mạc.
Tiếng kêu của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì
ngày nay, sau gần 2000 năm, tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng
nhiều người. Những điều xưa kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp
thời, vẫn còn có giá trị. Và trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu
hỗn loạn, tranh chấp, hận thù vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn
còn cấp bách. Như vậy, tiếng kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người
thay đổi đời sống cho tốt đẹp hơn.
Mỗi Mùa Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay
động, thức tỉnh chúng ta, đặt chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm
vi lương tâm và công bình xã hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để
cải thiện đời sống mỗi ngày thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho
Chúa Cứu Thế ngự đến. Tuy nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã
trở thành thực sự là "tiếng kêu trong sa mạc", không được họ lắng
nghe và hưởng ứng bởi vì trong lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn
độn, ô nhiễm..., tâm hồn họ thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc khiến họ
không nghe được tiếng kêu của Gioan: Hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của
Gioan không gặp được một âm vang nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ
là nhất thời và hời hợt như "hạt giống rơi vào bụi gai" mà Chúa đã
giải thích là "những hạng người nghe lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn
lo lắng, đam mê khoái lạc trên đời làm nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả
được" (Mt 13,18-23).
Vì vậy, muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải
tạo cho lòng mình trở nên sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp
gỡ thân tình để nghe rõ tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như
ngôn sứ Hôsê đã viết: "Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi
thanh vắng, để ở đó, lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó" (Hs 2,16). Ở sa
mạc Sahara ngày nay, người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các
Tiểu đệ, Tiểu muội Chúa Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu
sĩ ấy dù ở đâu cũng phải qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe
Chúa gọi giữa sa mạc, giữa cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh
nghiệm cụ thể về sa mạc, các tu sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc
trong khi dấn thân phục vụ con người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun
xới cho sa mạc nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu
muội của Chúa Giêsu được, nhưng chúng ta cẩn phải tạo cho lòng mình trở thành
một sa mạc, một nơi trầm lặng, yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng
Chúa mời gọi giữa cuộc sống ồn ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe
được tiếng Chúa nói qua tiếng kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt
tay vào việc dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường
xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối quanh co theo sở thích trái chướng
của mình, lúc thế này khi thế khác... Phải trung thành trước sau như một, thi
hành mọi đòi hỏi của Tin Mừng. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với
Thiên Chúa, với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình
người chan hòa đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành
huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn, sẵn sàng cho Chúa đến, và cuối cùng để đón nhận ơn
cứu độ từ chính Đấng Cứu Độ như Gioan loan báo: "Hết mọi người phàm sẽ
thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
17. Sứ giả của Chúa Kitô.
Gioan là vị tiên tri được linh hứng đầu tiên đến đập tan sự
yên lặng của bao thế kỷ trôi qua từ đời tiên tri Malaki. Sự quan trọng của chức
vụ của ông được Luca nêu ra bằng cách liệt kê những chi tiết xác thực định vị
thời kỳ của ông. Khi nói đến tên những nhà cầm quyền chính trị và tôn giáo, ông
đã cho biết trong thời ấy có sáu cuộc bổ nhiệm, để đưa dần tới tính cách phổ
thông của Tin Mừng. Với thiên tài của một sử gia, Luca đã liên kết câu chuyện
ông kể với các biến cố của thế giới. Trước hết, ông phải nêu tên vị hoàng đế
đang trị vì đế quốc La mã là Xêda Tibêriô, rồi ông kể đến Philatô, tổng đốc xứ
Giuđê, người đã mang một vết nhơ muôn đời là kẻ lên án tử cho Chúa Giêsu,
Hêrôđê Antipa, con người quyến dụ và sát nhân, con của Hêrôđê đại vương, được
bổ nhiệm cai trị xứ Galilê, Philipphê và Lyxania làm tổng đốc các xứ lân cận.
Về phương diện giáo quyền, ông nhắc tới Anna và Caipha.
Chưa bao giờ có hai thượng tế cùng một lúc. Vậy Luca có ý gì khi nêu ra hai
tên? Thượng tế là người đứng đầu Do thái cả về phương diện tôn giáo lẫn chính
trị. Ngày xưa chức thượng tế được cha truyền con nối và mãn đại, nhưng khi người
La mã đến, chức vị đó làm đầu mối cho đủ thứ gian lận. Kết quả là từ khoảng năm
37TC-26SC đã có đến hai mươi tám thầy thượng tế khác nhau. Anna hành chức thực
thụ từ năm 7TC-14SC. Cho nên khi ấy ông đã mãn nhiệm, nhưng kế vị ông là bốn
người con trai và Caipha là con rể ông. Do đó, tuy Caipha là thượng phẩm đương
chức, nhưng thực quyền vẫn ở trong tay Anna. Vì thế, sau khi Chúa Giêsu bị bắt
đã phải điệu đến chỗ ông trước tiên, dẫu lúc đó ông không còn tước vị gì. Luca
đem ghép tên ông vào với Caipha để muốn nói lên tình trạng "bất
thường" về tôn giáo thời ấy.
Một bản danh sách của những lãnh tụ như thế cho ta thấy sự
thoái hoá tột bậc về đạo đức lẫn tôn giáo lúc bấy giờ và sự cần thiết phải có
một người kêu gọi Israel trở lại thờ phượng và phụng sự Thiên Chúa.
Vị sứ giả ấy đã đến trong con người của Gioan, con
Giacaria. Sau một thời gian dài tôi luyện bằng kỷ luật khắc khổ trong sa mạc,
ông đã xuất hiện với một sứ điệp quả quyết từ Thiên Chúa, lôi cuốn quần chúng
đông đảo đến thung lũng Giođan, để nghe giảng đạo và tiếp nhận phép rửa như một
dấu hiệu và ấn chứng cho lòng ăn năn. Bản chất của chức vụ ông làm ứng nghiệm
lời báo trước của tiên tri Isaia "Tiếng kêu trong hoang địa", người
được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Sự chuẩn bị này có
tính cách Đông phương: khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào trong vương
quốc mình thì sai một vị quan đi trước để hô hào dân chúng sửa sang đường sá.
Chỗ trũng phải lấp đầy, chỗ cao phải bạt xuống, đường quanh co phải nắn lại cho
thẳng, đường gồ ghề phải sửa cho êm. Cũng thế, Gioan được coi như sứ giả của
Vua, nhưng sự sửa soạn của ông nhấn mạnh là sự sửa soạn tâm hồn và đời sống.
Như vậy, muốn cho người ta sẵn sàng tiếp nhận Chúa Kitô, những trở ngại đạo đức
cần phải dẹp sạch, phải sám hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Luca đã kết thúc câu
trích Isaia rằng: "Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa", để
phù hợp với tính cách phổ thông của Tin Mừng.
Vicka là một trong sáu thị nhân tại Mễ du, được chính Đức
Mẹ dạy dỗ, khi có người hỏi: "Theo cô biết, ăn năn trở lại là thế
nào?".
- Ăn năn hối cải là ý thức rằng chúng ta đang sống trước
mặt Thiên Chúa, đêm cũng như ngày, và chúng ta chịu trách nhiệm về tất cả những
gì thuộc bản thân ta, cũng như những gì thuộc quyền sở hữu của ta. Mẹ đã đến
kêu gọi mọi người thế hãy nghe theo các sứ điệp của Mẹ mà ăn năn hối cải. Sống
trong tội quả là điều nguy hiểm! Những tai hoạ ghê gớm đang chờ đợi những kẻ
không quay trở về cùng Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho ta, dầu
tội lỗi đến như thế nào đi nữa. Không có tội nào quá lớn đến nỗi Thiên Chúa
không tha thứ được. Tình yêu Thiên Chúa luôn mãi lớn hơn tội lỗi chúng ta. Tất
cả những gì ta có thể làm là nài xin. Đức Mẹ đến để bảo ta nài xin Chúa tha thứ
ngay bây giờ. Mẹ nhắc lại cho ta rằng Thiên Chúa không bao giờ từ chối tha thứ
cho bất cứ ai xin Người.
- Và khi được hỏi về mức độ khẩn trương phải ăn năn, Vicka
đáp: "Đức Mẹ phải khóc vì những đứa con của mình không biết Thiên Chúa,
hoặc quay lưng với Thiên Chúa, hoặc bất tuân các giới răn của Người.
- Rồi sau khi được Đức Mẹ dắt đi tham quan thiên đàng,
luyện ngục và hoả ngục, cùng với Jakov, trong một cuộc phỏng vấn, có người hỏi:
"Từ khi thấy hoả ngục lời cầu nguyện của cô có khác gì không?" Vicka
đáp ngay: "Ồ! Dĩ nhiên là có. Bây giờ tôi cầu nguyện cho kẻ tội lỗi ăn năn
hối cải. Tôi biết cái gì đang chờ đợi họ, nếu họ từ chối quay trở về.
- Vậy điều gì xảy ra đối với kẻ phạm tội?
- Hết thảy chúng ta đều phạm tội. Đó là lý do Đức Mẹ kêu
gọi ta làm hoà lại với Thiên Chúa và với anh em ta, chị em ta, ngay từ bây giờ.
Ta càng cứng đầu chống nghịch đường lối của Thiên Chúa, thì ta càng rời xa Nước
Thiên Chúa. Và khi được hỏi: "Làm sao để chúng ta quay trở lại?".
Vicka cho biết: "Đức Mẹ bảo rằng bao lâu còn sống trên trần, ta còn có thể
trở lại với Thiên Chúa mọi giờ mọi phút, bằng cách ăn năn sám hối. Và cũng vì
thế, ăn năn hối cải không phải là một việc nhất thời, làm một lần là xong. Đó
là con đường xuyên suốt đời người, và lúc đầu, người ta có thể gặp nhiều khó
khăn, vì satan rất mạnh, nó tìm mọi cách để cản trở việc ăn năn hối cải của ta.
Càng gặp khó khăn ta càng phải cầu nguyện. Ăn năn hối cải không thể là chuyện
trên đầu môi chót lưỡi, song bằng hành động, bằng tình yêu, một công việc kiên
trì mỗi ngày".
- Còn Jakov, khi được hỏi ăn năn hối cải có ý nghĩa thế nào
đối với cậu? Cậu trả lời: "Khi em còn nhỏ, em chỉ biết sơ sơ về Thiên
Chúa. Cũng có đi dự lễ, đi nhà thờ, nhưng không bao giờ thực sự cảm nghiệm được
Thiên Chúa. Đi là chỉ do sự thúc đẩy. Cần nhất là Thiên Chúa phải sống trong
ta. Em không cảm nghiệm được điều ấy cho đến khi các cuộc hiện ra xảy ra. Em có
thể nói ăn năn trở lại là Thiên Chúa sống trong em và em nhận biết sự ấy".
- Rồi khi được hỏi: "Làm thế nào để cảm nghiệm được
Thiên Chúa hiện diện trong đời sống? Jakov được Đức Mẹ dạy, trả lời: nhờ cầu
nguyện. Và như vậy, phương thế để ăn năn trở lại đó là: dành thời giờ để cầu
nguyện.
Bạn đã sám hối như thế nào? Và quyết định mỗi ngày dành ra
bao nhiêu thời giờ để cầu nguyện?
18. Sám hối và cải thiện đời sống – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Thiên Chúa nói với Gioan, mời gọi ông cộng tác với Ngài
vào kế hoạch cứu độ của Ngài. Thế còn chúng ta? Ngài có mời gọi ta làm gì
không? Ta có nghe thấy Ngài mời gọi ta làm gì không? Nếu không thì tại ta hay
tại Ngài?
2. Gioan mời gọi mọi người sám hối. Sám hối là gì? Sám hối
chỉ hoàn toàn mang tính cá nhân hay còn mang tính tập thể nữa?
Suy tư gợi ý:
1. Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa kêu gọi
Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa kêu gọi một cách rất đặc
biệt. Trước khi ông sinh ra, đã có những biến cố kỳ lạ liên quan đến ông. Cha
ông đã gặp thiên sứ hiện ra trong Đền Thờ báo tin việc ra đời của ông, rồi cha
ông bị câm vì cứng tin; mẹ ông mang thai ông trong tuổi già; và cha ông chỉ hết
câm khi đặt tên cho ông (x. Lc 1,5-25.57-80). Khi ông đến tuổi trưởng thành,
Kinh Thánh viết về ông: «Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông
Gioan trong hoang địa». Và ông đã đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa ra đi, rao
giảng về Nước Trời, chuẩn bị hay dọn đường cho Đức Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân
loại, đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi một cách hết sức nhiệt thành, đến
nỗi đã chết một cách rất anh hùng vì ơn gọi của mình (x. Mt 14,3-12; Mc
6,17-29).
2. Thiên Chúa cũng kêu gọi chúng ta
Ơn gọi của Gioan thì như thế. Còn ơn gọi của chúng ta thì
sao? Để cứu rỗi nhân loại và làm cho con người được hạnh phúc, để thiết lập
Nước Trời, Thiên Chúa cần rất nhiều người cộng tác. Ai cộng tác thì Ngài cũng
đều kêu gọi và thánh hóa. Nhưng Ngài không kêu gọi một cách minh nhiên, rõ rệt
bằng lời nói theo kiểu một người cao cấp ngoài đời mời gọi một ai đó cộng tác
với mình. Người được Ngài mời gọi, ban đầu, thường cảm thấy một cách mơ hồ có
một khuynh hướng hướng về Ngài, về công việc của Ngài. Khuynh hướng ấy ngày
càng trở nên mạnh mẽ và rõ nét cho đến một hôm nó trở thành một lời mời gọi rõ
rệt từ bên trong. Khuynh hướng này có trở nên mạnh mẽ và rõ rệt hay không, điều
ấy còn tùy thuộc vào lòng nhiệt thành và quảng đại của ta trong những lần Chúa
mời gọi ta thực hiện những công việc nho nhỏ trong những tình huống xảy ra
thường ngày. Người không làm theo tiếng lương tâm, không đáp lại tiếng Ngài
trong những trường hợp cụ thể của đời sống, sẽ không cảm thấy Ngài gọi mình
trong những công việc lớn hơn.
Rất nhiều người không được mời gọi cộng tác với Ngài trong
công việc của Ngài chỉ vì họ không nghe được tiếng Ngài. Sở dĩ ta không nghe
được tiếng Ngài chính vì ta chẳng mấy khi chịu im lặng để lắng nghe tiếng Ngài
vang vọng trong thâm tâm ta. Thực ra Ngài vẫn nói, vẫn kêu gọi mọi người, nhưng
nhiều người chẳng thèm nghe vì còn bận quan tâm đến những chuyện của trần gian.
Nhiều lần như thế, tiếng Ngài ở trong ta ngày càng yếu ớt và đến một lúc nào đó
tiếng Ngài như tắt hẳn. Như vậy, không phải Ngài không nói mà vì lỗ tai tâm
linh của ta đã bị điếc, không còn khả năng nghe thấy tiếng Ngài nữa. Và ta bị
điếc cũng là tại ta không muốn nghe, hay không muốn đáp lại lời mời gọi của
Ngài.
3. Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối
Trước khi Đức Giêsu đến với trần gian, Thiên Chúa kêu gọi
Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Ngài, bằng cách mời gọi mọi người sám hối, và biểu
lộ lòng sám hối bằng một nghi thức bên ngoài là rửa tội. Sám hối là nhận ra
những tội lỗi, khuyết tật của mình để quyết tâm sửa đổi hầu trở nên tốt lành
thánh thiện hơn. Nếu sám hối không dẫn đến tình trạng tốt đẹp hơn, thì sám hối
đó chỉ là sám hối hời hợt, ngoài miệng... Nếu thực hiện nghi thức sám hối ở bên
ngoài (như rửa tội, xưng tội...) mà trong lòng không thật tâm sám hối thì đó
chỉ là việc làm lấy lệ hay giả dối.
Sám hối để đón Chúa đến không chỉ mang tính cá nhân mà còn
phải mang tính xã hội nữa. Nghĩa là người thật sự sám hối không chỉ làm cho bản
thân mình, tâm hồn mình nên tốt đẹp hơn, mà còn phải tìm cách làm cho tập thể,
cộng đoàn hay xã hội của mình nên tốt đẹp nữa.
Việc sám hối ấy căn bản là ở trong nội tâm. Và nếu đó là
sám hối thật sự thì nó phải hướng đến hành động, hay tất yếu dẫn đến hành động
thật sự. Ngôn sứ Isaia mô tả sự sám hối ấy bằng những hình tượng khác nhau:
«Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung
lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn
cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng».
4. Sám hối một cách cụ thể là gì?
Điều quan trọng để đón Chúa đến là phải có tinh thần sám
hối. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành
động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự chừa cải, tu sửa, cải thiện... Nói khác đi,
có gì sai thì phải sửa cho đúng, xấu thì sửa cho tốt, cho đẹp, cong thì thành
thẳng, gồ ghề thành phẳng, cao thì bạt xuống, thấp phải đôn lên... Việc sám hối
và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà còn trong giáo hội và xã
hội.
- nơi cá nhân: cá nhân nào cũng đều có những tật xấu,
khuyết điểm, sự vị kỷ, tính kiêu căng, tham lam, đố kỵ, ghen ghét, lười biếng,
hèn nhát, v.v...
- trong giáo hội và xã hội: giáo hội hay xã hội nào cũng đều
có bất công, những cơ chế phát sinh bất công, những luật lệ phi lý, những lạm
dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ nạn... tất cả đều làm cho con người
trong tập thể đau khổ, trì trệ, không phát triển, v.v...
Hiện nay, trong đời sống tâm linh và tu đức, rất nhiều kitô
hữu chỉ nghĩ tới việc nên thánh cá nhân, sự cứu rỗi cá nhân, mà quên đi chiều
kích giáo hội và xã hội của ơn cứu rỗi và sự nên thánh. Họ quan niệm việc nên
thánh hay cứu rỗi của họ có thể thực hiện một mình, độc lập với những người chung
quanh... Nghĩa là họ có thể nên thánh, được cứu rỗi mà không cần nghĩ gì đến xã
hội và giáo hội, bất chấp đến những bất công, trì trệ hay những thành quả tốt
đẹp của giáo hội và xã hội. Họ cho rằng họ có thể nên thánh và được cứu rỗi mà
không cần nghĩ đến những người chung quanh xem họ có nhu cầu gì, đau khổ hay
hạnh phúc ra sao.
Thiết tưởng tinh thần cốt yếu của Kitô giáo là tình yêu,
một tình yêu trải rộng đến mọi người không phân biệt bạn thù, giàu nghèo, giai
cấp, v.v... Tiêu chuẩn cuối cùng để Thiên Chúa xét đoán sự công chính của mỗi
người là tình yêu họ dành cho tha nhân (x. Mt 25,31-46). Nên sự sám hối cũng
như sự tu sửa của người kitô hữu để đón Chúa đến phải chủ yếu nhắm đến tình
yêu, đến sự quan tâm của mình đối với tha nhân, đối với giáo hội, xã hội, quê
hương, đất nước và toàn nhân loại.
Trong chiều hướng đó, câu «Hãy dọn sẵn con đường cho Đức
Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi
đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải
san cho phẳng» cần phải được hiểu không chỉ áp dụng cho bản thân mỗi cá nhân mà
còn cho cả giáo hội và xã hội nữa.
5. Ý thức sám hối mang tính giáo hội và xã hội
Tất cả mọi kitô hữu đều có trách nhiệm biến cải giáo hội và
xã hội nên tốt hơn, nghĩa là phải sửa sai, phải thay đổi những gì chưa đúng,
hoặc có hại trong giáo hội và xã hội. Trong dân gian có câu: «Giặc đến nhà, đàn
bà phải đánh», hay «quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách» (kẻ kém cỏi nhất
trong đất nước cũng có trách nhiệm về sự thịnh suy của đất nước). Cũng thế, mọi
kitô hữu dù là giáo dân hay linh mục tu sĩ, là người thất học hay trí thức đều
có trách nhiệm đối với sự phát triển hay suy thoái của giáo hội và xã hội.
Những kitô hữu tỏ ra vô tâm, vô tình, vô trách nhiệm đối với tha nhân, với xã
hội, đất nước, thế giới, với giáo hội địa phương, cũng như với giáo hội hoàn
vũ, cần phải suy xét lại thái độ vô tình ấy của mình. Rất có thể ta chưa phải
là kitô hữu đích thực, chưa có đủ tình yêu đối với tha nhân, một phẩm tính căn
bản của người kitô hữu.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin Cha giúp con thực hiện lời kêu gọi sám hối của
Gioan Tẩy Giả, cụ thể là mở rộng tấm lòng hẹp hòi của con ra. Xin cho con biết
ôm cả thế giới, cả giáo hội, cả quê hương vào lòng, để con biết quan tâm đến
những vấn đề rộng lớn, biết ý thức chia sẻ trách nhiệm chung với mọi người
trước lịch sử của đất nước, của giáo hội và thế giới. Xin đừng để con quá hững
hờ, làm ngơ hay dửng dưng vô trách nhiệm trước những biến cố đau thương hay sự
hưng thịnh của đất nước, của giáo hội và thế giới.
19. Chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Nếu bây giờ đi thăm một thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy
những gian hàng thật lộng lẫy, những cây thông, những ông già Noel và những ánh
đèn màu nhấp nháy. Nếu hỏi tại sao, lập tức chúng ta sẽ ghi nhận được câu trả
lời:
- Lễ Giáng sinh đã gần tới.
Lễ Giáng sinh đối với nhiều người là một dịp để mua sắm, để
tặng quà và để ăn nhậu. Họ tích cực chuẩn bị cho ngày lễ lới, nhưng chỉ là
những sự chuẩn bị bên ngoài và mang tính cách phù phiếm. Đối với chúng ta thì
khác. Lễ Giáng sinh là ngày chúng ta mừng kính biến cố trọng đại nhất của lịch
sử: biến cố con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, Ngài sinh
ra trong yếu đuối như một hài nhi bé bỏng, Ngài sinh ra trong nghèo túng nơi
máng cỏ Bêlem.
Là một biến cố trọng đại nhất của lịch sử nhân loại, nên
chúng ta không thể không chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị cần thiết và quan trọng
nhất chính là việc chuẩn bị cõi lòng của mình: Hãy gột rửa tâm tư, hãy thanh
tẩy con tim. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta lại quên lãng sự cần thiết và quan
trọng ấy.
Chúng ta chống lại khuynh hướng tục hóa những sự kiện linh
thiêng. Sự tục hóa này mỗi ngày một lan rộng trong thế giới hôm nay, nhưng lại
chạy theo thời trang, về phe với đám đông để không còn nhận ra sự thật. Chúng
ta hô hào trở về nguồn, nhưng lại không hiều trờ về nguồn là như thế nào. Đoạn
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Ông
vào sa mạc để sống cảnh nghèo túng và khắc khổ: ăn châu chấu với mật ong rừng.
Trong chốn hoang vu ấy, ông đã chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Lời
ông nói thật thẳng thắn và cứng rắn, không đưa đẩy theo kiểu ngoại giao:
- Hỡi nòi rắn độc, ai sẽ cứu các ngươi khỏi cơn thịnh nộ
sắp tới. Hãy đâm bông kết trái theo như lòng thống hối. Cái rìu đã đặt dưới gốc
cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Dân chúng ta thắc mắc về những lời cảnh cáo ấy:
- Vậy chúng tôi phải làm gì?
Và Gioan đã không ngần ngại trả lời:
- Ai có hai áo, hãy chia sẻ cho người không có. Ai có của
ăn cũng hãy làm như thế.
Với bọn biệt phái và lính tráng, ông đòi hỏi nơi họ sự
thành thật và công bằng. Ông lặp lại lời tiên tri Isaia:
- Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san
cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Để ngày Chúa đến đem lại niềm vui mừng và hy vọng, mỗi
người chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn, cụ thể là hãy ăn năn sám hối, chạy đến
nơi tòa cáo giải và xưng thú mọi tội lỗi để được ơn tha thứ.
Nếu chúng ta khô khan nguội lãnh, hãy xin Chúa giúp chúng
ta cảm nghiệm được tình thương Chúa đã dành cho chúng ta qua màu nhiệm Giáng
sinh, để rồi chúng ta cũng sẽ quì gối thờ lạy Hài nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem
như mẹ Maria và thánh Giuse, như các mục đồng và ba nhà đạo sĩ phương đông. Nếu
đầu óc chúng ta còn chất chứa nhiều hận thù, thiên kiến và bè phái, hãy xin
Chúa giúp chúng ta biết yêu thương và trở nên anh em của tất cả mọi người. Nếu
chúng ta còn nóng nảy, tức tối và giận hờn, hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên
hiền dịu và khiên nhường, như chính Chúa đã xác quyết:
- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Rồi trong những sắm sửa cho ngày lễ Giáng sinh, hãy nghĩ
đến những người nghèo khổ, bằng cách dành một ngân khoản nào đó để làm phúc bố
thí và giúp đỡ họ, bởi vì Đức Kitô đang ở trong họ, như lời Ngài đã phán:
- Sự gì các con làm cho một kẻ bé mọn nhất là các con đã
làm cho chính Ta vậy.
Có chuẩn bị như vậy, thì ngày lễ Giáng sinh mới đem lại cho
chúng ta niềm an bình và hanh phúc. Niềm an bình và hạnh phúc ấy các thiên thần
đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
20. Hãy dọn đường.
Năm cùng tháng tận, chúng ta sắp giã từ một năm cũ. Cũng
như mọi năm, tôi có cảm tưởng là trước khi lật sang trang sử mới, con người ghi
vội vào cuối trang sử cũ một vài nghĩa cử để nói lên thiện chí của mình, cũng
như để bày tỏ niềm hy vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc, một cuộc sống được xây
dựng trên nền tảng của công lý và hòa bình.
Một trong các nghĩa tử ấy là việc phóng thích các người bị
giam cầm, như việc trả lại tự do cho các con tin Tây phương bên Trung đông
chẳng hạn. Quả tim của con người không khỏi bị giao động khi nhìn thấy trên màn
ảnh truyền hình những gương mặt hớn hở hân hoan của những người được trả lại tự
do. Hay những nụ cười hòa lẫn nước mắt của họ và của những người thân thương
của mình trong những giây phút hội ngộ. Đối với những người bị bắt làm con tin
ấy cũng như đối với những ai bị giam cầm ở bất cứ nơi nào dưới hình thức nào đi
chăng nữa, thì sự phóng thích mang một ý nghĩa của một kinh nghiệm mãnh liệt về
sự tự do. Khung cảnh sống bị giới hạn trong bốn bức tường chật hẹp của nhà giam
bây giờ là cả một bầu trời rộng thênh thang, cuộc sống tưởng chừng như bị bóp
nghẹt, giờ đây có thể được phát triển với bao dự án, bao hy vọng, bao giấc mơ.
Tương lai dường như bị chặn đứng giờ đây lại được tự do tiến tới.
Chúa nhật thứ II mùa vọng của phụng vụ năm C cũng có thể
gọi được là "Chúa nhật giải phóng". Với những hình ảnh tràn đầy hân
hoan trong bài đọc 1 nơi ngôn sứ Baruk diễn tả công việc Thiên Chúa giải phóng
và đưa dân Chúa từ một cuộc sống đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ của họ
trong vui mừng và trong vinh dự.
Rồi trong bài Phúc âm, thánh Gioan tẩy giả tiếp tục rao
truyền Tin mừng giải phóng và lập lại lời kêu gọi của ngôn sứ Baruk: "Hãy
sửa đường cong queo cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi
làm cản trở công việc hồi hương của dân Chúa và gây chướng ngại cho Đấng Cứu
Thế đến ở giữa dân người để giải phóng và cứu rỗi họ". Nhưng làm sao mọi
người cảm thấy Thiên Chúa thực sự đến tại đây và trong lúc này để giải thoát họ
không những hoàn cảnh lúc họ đang sống, và làm thế nào để mọi người có thể cảm
nghiệm rằng thánh Gioan tẩy giả vẫn còn đang tiếp tục rao giảng về sự ăn năn
thống hối để chuẩn bị cho ngày Chúa đến mà tất cả mọi người chúng ta trong Chúa
nhật hôm nay cũng đang hướng về ơn cứu độ.
Câu trả lời cho hai vấn nạn trên nằm trong ý nghĩa của mùa
vọng, bởi lẽ mùa vọng không phải là đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ
xưa, mùa vọng càng không phải là mùa đợi chờ để mừng kỷ niệm Giáng sinh như
mừng sinh nhật của Đức Giêsu diễn ra cách đây hơn 2000 năm. Không! Mùa vọng
phải là mùa chuẩn bị tích cực để Thiên Chúa qua Đức Giêsu đến giải phóng và cứu
rỗi mọi người trong hoàn cảnh cụ thể của ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao thánh
sử Luca ghi thật rõ ràng niên lịch và nhân vật lịch sử làm bối cảnh chính trị
của một biến cố Ngôi hai giáng trần.
Hoàng đế Rôma thống trị khắp vùng Trung đông, Palestine bị
lực lượng ngoại xâm chiếm đóng. Giuđêa nằm dưới quyền cai quản của quan trấn
thủ Phongxiô Philatô, còn các vùng khác được trao cho các tay sai của hoàng đế
Rôma giám quản. Cả tình trạng tôn giáo cũng bị lũng đoạn, vị Anna và Caipha đã
cố gắng dung hòa giữa tôn giáo và chính trị để giữ vững địa vị thượng tế của
mình. Trong bối cảnh chính trị, xã hội và tôn giáo đen tối ấy, Thiên Chúa đã
bắt đầu hành động, qua đó một lần nữa Thiên Chúa chứng tỏ rằng công cuộc giải
phóng và cứu rỗi của Người không phải được diễn ra trên trời, nhưng thực sự
được diễn tiến trên mặt đất, giữa con người và trong dòng lịch sử. Quả thật,
Thiên Chúa đã bắt đầu cuộc giải phóng để mang ơn cứu rỗi cho con người qua lời
kêu gọi và rao giảng của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu trao phó cho ngài để
dọn đường cho Chúa đến và chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ngày Chúa đến.
Để chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao phó, thánh Gioan tẩy
giả đã đi vào sa mạc hoang vắng. Thánh Gioan muốn lôi kéo các thính giả của
ngài và lôi kéo chúng ta ra khỏi nếp sống bon chen thường nhật, ra khỏi những
lo lắng hằng ngày, ra khỏi những thói quen tật xấu, những đam mê và ra khỏi con
người cũ để đi vào sa mạc vắng vẻ là nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa.
Và cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đúng nghĩa nào cũng phơi bày con người thật và biết
sống thật của mỗi cá nhân.
Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người
phải ăn năn, phải thống hối, có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên
Chúa. Vì thế, sau thời gian vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con
người và nếp sống thật của mình, thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về
cuộc sống hằng ngày, xuyên qua dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối
là dấu chỉ bên ngoài của một quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một
Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.
Vì thế, công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không
thể chỉ diễn ra bằng lời nói: "Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh
chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm...",
nhưng phải kèm theo những hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được
thánh Gioan loan báo hôm nay: "Hãy dọn đường Chúa đến". Hãy sửa đường
cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung
lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật
thà, biết tôn trọng sự thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên
kiến nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin
tưởng vào khả năng của nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa
phương bằng tinh thần khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá
nhân, quyền lợi của đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của
những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng
những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác
và nơi cuộc sống. Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực
hiện trong ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người,
xây dựng trên công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của
ngày hôm nay.
Vậy! Bạn và tôi sẽ làm gì trong mùa vọng năm nay để chung
tay đẩy mạnh tiến trình giải phóng và cứu rỗi của Thiên Chúa trong gia đình,
trong làng xóm, trong giáo xứ và trong xã hội chúng ta đang sống?
21. Chú giải mục vụ của R. Gutzwiller.
SỰ XUẤT HIỆN CỦA VỊ TIỀN HÔ.
Sau những biến cố quá ư là đặc biệt đi kèm với việc truyền
tin và sinh ra của Gioan và của Chúa Giêsu, tất cả đã trở lại yên tĩnh. Suốt
trong ba mươi năm, người ta không nghe nói gì nữa. Cảnh cậu bé mười hai tuổi
trong đền thờ không được ai nhắc tới. Những tiếng đồn thổi trong nhân gian về
các điềm lạ quanh việc truyền tin đã bị quên đi từ lâu. Vì thế, khi vị tẩy giả
xuất hiện và Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy đã gây ngạc nhiên không ít. Vị Tiền
Hô vào cuộc trước, rồi sau đó mới tới Thày Chí Thánh.
1. Thời kỳ
Tin mừng đã đánh dấu thời kỳ này cách uy nghiêm và trang
trọng. Những thời biểu lịch sử được nhắc đến ở đây che dấu một thảm kịch sâu
xa:
'Năm thứ mười lăm thời hoàng đế Tibêriô-Xêda'. Hoàng đế
Augustô mà vì chiếu chỉ của ông, Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem thay vì Nagiarét,
đã băng hà ngay vào lúc đó. Tất cả mộng ước mà vị hoàng đế Rôma xây dựng đã
theo Ngài xuống mồ. Ngài đã không trở thành 'vị cứu tinh nhân loại' như người
ta hy vọng ở ông. Các con trai ông cũng vậy, đều đã qua đời. Và như vậy, triều
chính phải trao cho người ông nhận làm con nuôi, Tibêriô, con người bẳn gắt và
đa nghi, nên ít người còn trông đợi ông sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Vinh
quang của Rôma bắt đầu lạt dần, và trong cái khung nhà của hoàng đế đã có những
tiếng gẫy răng rắc.
'Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa'. Dưới những
tiếng này, như muốn che đậy những biến cố đáng lưu ý. Trong thời gian trên,
Hêrôđê, vị đại sư của người Do thái cũng đã chết. Sự thống nhất của vương quốc
bị đổ vỡ.... chia làm bốn quận vương nhỏ. Dù cho các vị cầm quyền vẫn còn mang
tước hiệu 'vương', nhưng đó chỉ là tia sáng mờ nhạt và phần đất quan trọng
nhất, miền Giuđêa và Giêrusalem, đã bị mất cho dù tới lúc này bên ngoài vẫn
mang bộ mặt tự trị. Vì thực ra người kế vị Hêrôđê, Archelaus đã do người Rôma
đặt lên. Miền Giuđêa đã trực thiếp bị khuất phục quyền Rôma và được cai trị
bằng một vị toàn quyền Rôma.
Trong pháo đài Antônia đã có những toán quân Rôma. Binh
lính Rôma đi tuần trên đường phố và coi sóc miền này. Dân Chúa đã tùng phục dân
ngoại và phải đóng thuế. Vẻ hào hùng và sự tự do đã mất.
Ngoài ra, Philatô còn là một cao uỷ cứng rắn và không biết
kiêng nể. Để biết những chuyện xảy ra, ông đã cho một toán quân mặc thường
phục, trang bị gậy ngắn, lẫn lộn vào dân chúng, rồi còn để quân sĩ của ông can
thiệp thẳng thừng nếu cần... ông không hề nể vì gì tập tục Tôn giáo của người
Do Thái. Ông bãi bỏ tuỳ ý và chỉ muốn làm giàu.
'Hêrôđê làm quận vương xứ Galilêa, còn em ông là Philiphê
làm quận vương vùng Iturêa và Tracônitiđê; Lisania làm quận vương xứ Abilêna'.
Hêrôđê Antipas là người phóng đãng. Ông muốn làm thân với người Rôma và vì muốn
tâng bốc, ông đã đặt tên cho công thự mà ông xây trên bờ hồ Giênêsarét là
Tibêriađê, để tỏ lòng tôn kính hoàng đế Tibêrio, nhưng ông vẫn còn nể nang
người Do Thái, còn dự các buổi lễ ở Giêrusalem hầu chứng tỏ mình đạo đức. Hơn
nữa, ông còn có những đội quân bí mật dùng để chống lại sức mạnh này khác nếu
thấy cần. Miền Galilêa nơi mà Chúa Giêsu hoạt động lại thuộc quyền nhân vật
đáng buồn này.
Quận vương thứ ba là một người thân Hy lạp, hoà hoãn nhưng
lại quá bình thường. Còn quận vương thứ bốn là một nhân vật không được biết
đến. Như vậy, xứ sở thì bị phân chia, dân chúng thì bị trao vào cho các quan
quyền chuyên chế chỉ nghĩ tới thân họ và cuộc sống xa hoa, tiện nghi của riêng
họ. Chẳng còn gì vẻ lớn lao của một đất nước cựu trào. Vương miện đã rớt khỏi
trán Israel.
'Dưới thời thượng tế Anna và Cai pha'. Israel là một dân
tộc tư tế. Đền thờ là nơi cần thiết nhất. Tư tế và vua chúa đều được Giavê xức
dầu, đặt tên và trao phó việc phục vụ. Nhưng sự thánh thiện của chức Tư tế tinh
tuyền đã mất đi. Vị thượng tế được gọi phục vụ trong cả cuộc đời, là nhân vật
được thánh hiến trong dân chúng. Thế mà người Rôma lại không để ý gì đến tập
tục này, họ tự gọi và đặt lên tuỳ ý họ. Sứ vụ thánh được trao phó cho dân ngoại
và người ta còn có thể mua chức đó nữa. Hai vị thượng tế đã được đặt lên như
thế đó: Anna và rể ông là Caipha. Anna đã lãnh trách vụ, rồi lần lần tới năm
người con và bây giờ thì tới con rể ông.
Như vậy quyền thế tạm thời và thiêng liêng không còn nữa,
và tất cả hình ảnh lịch sử được gợi lên bằng những hàng chữ này chỉ nói lên một
kỷ niệm buồn của một dĩ vãng vàng son đồng thời với ảo ảnh hiện tại thất vọng
hoàn toàn.
'Lời Chúa được phán ra'. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa chỉ
bắt đầu ở điểm mà khôn ngoan của con người sắp kết thúc. Khi sức mạnh của con
người ngừng lại, sức mạnh của Thiên Chúa mới tỏ hiện. Ân sủng giả thiết phải có
bản tính và liên kết với bản tính, nhưng không thể bị đầy đoạ ở đó. Lời của
Thiên Chúa có thể được phán ở nơi và vào lúc mà người ta ít chờ đợi nhất.
Thiên Chúa có thể dùng Xêda và hoàng đế Rôma để thống nhất
nhân loại, dùng con đường Rôma để dễ giảng truyền Tin mừng và để trao sứ điệp
cho thế giới. Ngài cũng có thể dùng các binh lính và thương gia. Rồi Ngài có
thể từ khước sự sửa soạn tự nhiên đó và can thiệp bằng một cách hết sức bất ngờ
dựa vào chính sức mạnh của lời Ngài. Ngài hoàn toàn tự do, toàn quyền quyết
định khi nào, ở đâu, trao cho ai, trong mục đích nào Ngài sẽ phán.
Đó là lý do khiến con người không bao giờ phải thất vọng vì
cái có thể ấy là Thiên Chúa phán bảo và hoạt động, lời Ngài vẫn luôn sẵn sàng.
Lại là lúc Israel được nâng cao nhất. Khi mà yếu kém cả về chính trị lẫn Tôn
giáo, thì Đấng Mạnh Mẽ, Quyền Năng lại đến.
Một dòng dõi suy tàn đã nảy sinh trong Đấng Messia, vị tạo
Thành thế giới mới.
2. Nơi chốn
'Lời Thiên Chúa được phán với Gioan con Giacaria, trong
hoang địa. Và ông đi khắp vùng xung quanh sông Giođan'.
Hai địa danh được nhắc đến:
Hoang địa: Môisen đã được Chúa gọi, và sai đi trong hoang
địa. Dân chúng đã được dẫn dắt vào đây và giáo dục ở đây. Êlia đã đến đây. Chúa
Giêsu đã chuẩn bị ở nơi này. Thánh Phaolô cũng tới đây sau khi trở lại. Có hàng
triệu và hàng chục triệu người nối gót theo gương này. Trong im lặng, người ta
thấm Lời Chúa rõ hơn, và cuộc sống khắc khổ làm cho người ta thấy tỏ tình
thương Chúa hơn.
Sông Giođan: Dòng sông không phải chỉ làmột lãnh giới để
dân địa phương và người từ hoang địa về gặp gỡ nhau. Nhưng Giođan là dòng sông mà
những người Do Thái đã vượt qua để chiếm Đất Hứa: bây giờ, họ phải từ bỏ một
hoang địa thiêng liêng và phải bước vào nước Thiên Chúa.
Ở Giođan, nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, tường thành Giêricô
đã bị sập xuống; thì bây giờ tới lượt tường luỹ thiêng liêng của Satan đã ngăn
lối vào nước Chúa cũng sẽ bị đổ như vậy.
Do đó, hoang địa và sông Giođan đều có ý nghĩa. Đấy là
những nơi mà Lời của Chúa được vang vọng đặc biệt, được đón nhận tốt, là những
miền của ân phúc nơi mà dân chúng hành hương tới, là những nơi thuận tiện cho
hoạt động của Thiên Chúa, nơi có đền thờ vì Thiên Chúa là Đấng Thánh đã tới
gần.
3. Hoạt động
Ba sự việc đáng được để ý đặc biệt.
Thánh Gioan rao giảng: đã qua nhiều thế kỷ, từ ngày Thiên
Chúa phán với Israel, nay mới lại thấy xuất hiện, lần đầu, một trong các đại
nhân của Thiên Chúa mà ngày xưa thật dễ gặp thấy trong dân được Chọn. Từ nay
không còn là lời của Thiên thần mà là Lời của Thiên Chúa, không qua trung gian
nào cả, phán bảo với Gioan và Ngài sẽ truyền đi.
Trong bài giảng, người ta đâu được công bố sự hiểu biết
riêng hay kết quả của nghiên cứu thần học hoặc truyền bá kinh nghiệm nội tâm,
mà là giảng Lời Chúa. Vị giảng thuyết chỉ là dụng cụ, là trung gian. Cá nhân
Ngài hoàn toàn giữ vai trò thứ yếu. Ngài chỉ biết lắng nghe và truyền lại. Như
vậy, cùng một lúc phải mở lòng ra với Thiên Chúa (từ trên xuống) và với dân
chúng (từ dưới lên), Ngài không được giữ gì cho mình, nhất là không được thay
đổi gì, giảm bớt hay làm sai lạc đi.
Loan báo Lời Chúa, người ta không thể tìm thấy nơi mình sự
bất trắc hoà lẫn với sự hoài nghi, sự phức tạp và một tình trạng thua sút của
một người yếu kém, vì tất cả đều không đảm bảo cho công việc của mình. Nhưng họ
cũng không được cậy vào một thế lực, phát sinh từ một khoa học kiêu hãnh và
thấm nhuần tư tưởng này, vì lời giảng với sức mạnh và theo Thần Trí đã đủ xứng
với Lời Chúa rồi.
Gioan tẩy giả: cử điệu thêm vào với tiếng nói, nghi lễ đi
với lời giảng. Con người không phải là một hữu thể tinh thần thôi. Vì thế, họ
phải nhờ vào những dấu thấy được để suy niệm cái chẳng thấy.
Chúa Giêsu đã lập các bí tích đi theo lời giảng dạy. Nơi
thánh Gioan cũng vậy, bên cạnh những từ ngữ mang tính cách nhất thời là những
dấu hiệu, những điềm báo về các bí tích. Rửa tội là một cuộc thanh tẩy vì từ
nay tội lỗi sẽ được xoá sạch. Một dân tộc nhơ nhuốc sẽ được rửa sạch. Thanh tẩy
là trầm mình xuống nước rồi lên lại, vì tạo vật phải trầm mình với Đức Kitô để
chết cho cái chết của con người tội lỗi cũ và được nâng lên nhờ Đức Kitô Phục
sinh để sống cuộc sống mới trong ân sủng. Thanh tẩy, nước trôi chảy... Vì từ
đây nước Thần Linh sẽ đổ tràn và vọt lên ngập đồng.
Thanh tẩy của Gioan, như vậy cũng có giá trị lớn lao. Gioan
kêu gọi thống hối. Nếu con người không khước từ những khuynh hướng tội lỗi,
không làm một cuộc đổi thay hoàn toàn đưa tới việc trở lại. Họ không thể tiếp
nhận Lời Chúa. Sự thánh hoá giả thiết và đòi buộc phải có sự thống hối như bước
đầu, khước từ tội phạm, ra khỏi mình, và hướng về Thiên Chúa. Sự thay đổi trong
những định hướng của tư tưởng và sự sẵn sàng thâm sâu, đã thấy được khi Chúa
giáng sinh và lúc thiếu nhi mười hai tuổi giảng dạy trong đền thờ, bây giờ rõ
ràng là một đòi hỏi đối với với chúng ta. Sự thống hối là cốt cán của ơn cứu
độ. Đó là một đòi hỏi mà con người không bao giờ tự ý muốn nhắc nhở mình, nhưng
lại rất cần thiết cho họ.
4. Hoàn tất.
Tin mừng thêm vào ở đây như để làm trọn lời tiên tri Isaia:
'Có tiếng kêu trong hoang địa, hãy dọn đường Chúa, hãy sửa
đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu, và hãy bạt mọi núi đồi; con
đường cong queo hãy làm cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa'.
Bản văn ngôn sứ bàn về cuộc tái trở về từ nơi lưu đầy của
dân Do thái. Giavê trở lại dẫn đầu dân Ngài qua hoang địa vào Đất Hứa. Để đám
rước khải hoàn đi qua thì đường xá phải bằng phẳng và có sửa soạn đàng hoàng.
Lời tiên tri đã được nên trọn lúc này với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh
thần hơn. Nó không còn nói về xứ sở hay về đường xá trần tục. Rời bỏ cuộc lưu
đầy và tôi đòi thiêng liêng con người lên đường về nước Chúa với một thái độ
cương quyết. Và chính Thiên Chúa sẽ là đầu đoàn rước: nhưng xác đáng hơn phải
nói là Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa nhập thể, Đấng Messia.
Vì thế, những con đường thiêng liêng hẳn sẽ phải phẳng lì
do việc sửa soạn tinh thần và tâm hồn. Gioan là tiếng kêu, là người tiền hô đến
kêu gọi dọn đường vì sắp có vị Đại Vương tới.
Không có gì ngạc nhiên cả khi thấy sau lời kêu gọi đó, dân
chúng bị lay chuyển và lũ lượt kéo về Giođan để nghe lời giảng và theo sát các
biến cố này.
Hoạt động cứu độ đã bắt đầu nhập cuộc.
22. Chú giải của Noel Quesson.
Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô
Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân
khai mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa
trong lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không "ở bên ngoài" thế gian,
trên mây gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến
cố thế tục. Một "lịch sử Thánh" phát triển giữa những biến cố thế
giới. Như Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa "nói" và "hành
động" trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị,
xã hội và văn hóa ngày nay không?
Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra
dưới thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta,
Chúa bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô,
nghĩa là khoảng năm 28 hay 29.
Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu
tốt đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá
chủ thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung
Hải, hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của
Rôma. Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, "Tin
Mừng", phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc "Công
vụ Tông Đồ" (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của
chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu... Hoàng đế Tibêriô.
Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất
có chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: "Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ
Đồng Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô... Phongxiô
Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người
"cứng rắn và không xót thương", theo người lân cận của ông là Hêrôđê
Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari
tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả
ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do
chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.
Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của
thời đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm
đóng và đàn áp không chút nương tay thế đó!
Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê
làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người
"hợp tác". Uy quyền thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh
thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là
"con cái Israel" (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân "ngoại
giáo" (Iturê - Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì
đây là một chỉ dẫn "thần học": Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng
cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo
nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và Caipha làm thượng tế
Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo,
chịu trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp
lại.
Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn
chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê
chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá
dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.
Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực
sự: mà là một "phát ngôn viên", một "ngôn sứ", Gioan Tẩy
Giả, vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ
"bên trong" những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực
hiện, nhưng tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn
thờ những ý thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu
chính trị. "Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng"
(Lc 1,52). Một "lời", từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự
mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch sử - Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi,
như Gioan Tẩy giả không?
Trong hoang địa
Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng.
Sự cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay
cuồng, xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm?
"Hãy nghe đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người
đang đi trên đường, có người đang đến gặp ngươi!". Vậy thì, riêng tôi, tôi
đã dành cho sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt
của tôi?
Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là
một nhà giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn
chúng ta thì sao?
Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để
chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông
chọn một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà
mọi người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên
tả ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã
xây cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi
có tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?
Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau:
"Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại".
Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé
trầm tĩnh, nhưng đó là một cái "loa phóng thanh" với âm lượng được
vặn tối đa. Chữ Hy Lạp "Kérygme" có nghĩa là "tiếng la",
lời "tuyên bố". Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa
"như thế", nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía
Chúa, phải "lao mình" vào Ngài! Chữ "batisma" phép rửa, gọi
lên hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn
lân cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và
thôi thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân
mình trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm
kín, không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể
hiện ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ:
"Tôi muốn thay đổi cuộc sống... và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ
tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước
của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh".
Phép rửa là một tự nguyện dìm chết "con người cũ"
để cho "con người mới" tái sinh (Rm 6,6-7,6 - Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó
là hình ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai... mà có thể chúng
ta muốn lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh.
Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở
lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi
luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như
những học thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó.
Nhưng đúng ra là ta "quay trở lại với Chúa" cùng với những hậu quả
luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực
dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng,
thái độ chế ngự kẻ khác, v.v...
Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho
tất cả mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách
tự do. Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa
nhà chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do "thừa tác viên"
thi hành bí tích, nói "nhân danh chính Chúa Kitô" (in persona
Christi). Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc
biệt qua sự thú nhận cá nhân hay tập thể.
Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức
Giêsu trong chính hành vi Người "Tự hiến để tha thứ tội lỗi", trong
hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa
Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để "hướng về" Thiên Chúa.
Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng
người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng
để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp,
khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm
sao! Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có "xưng
tội riêng", không đau đớn gì?
Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người
đồng hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà
là "Cứu chuộc". Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa
hành động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta "hôm nay
đang gieo trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng".
23. Chú giải của Fiches Dominicales.
HÃY DỌN ĐƯỜNG CỦA ĐỨC CHÚA VÀ MỌI NGƯỜI SẼ ĐƯỢC THẤY ƠN CỨU
ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Lời hoạt động trong lịch sử con người
Chúa nhật trước, chúng ta mượn ở Tin Mừng Luca một trích
đoạn bài diễn từ mang tính cánh chung, diễn từ về "tiến trình dài dẫn đến
giải phóng" (H. Cousin). Hôm nay, với lời kêu gọi và rao giảng của Gioan
Tẩy Giả, chúng ta đang ở vào giai đoạn đầu của tiến trình ấy.
Bản văn hướng ta về một thời kỳ dài có nhiều báo trước một
kỷ nguyên mới của lịch sử.
- Tiên vàn hoạt động khởi sự được ghi vào lịch sử Israel
một cách thật trang trọng, bằng cách nhắc đến tên tuổi của sáu nhân vật:
+ Năm vị đầu là những vị đại diện cho quyền lực chính trị
hiện hành tại Palestin và trong một vài tỉnh lân cận.
+ Vị thứ sáu đứng đầu giới tư tế mà sau này cùng với
Philatô và Hêrôđê sẽ là những người đóng vai trò tích cực trong cuộc Khổ nạn
của Chúa theo Tin Mừng Luca 22 và 23.
Công việc mở đầu này, như tác giả xác định rõ, xảy ra vào
"năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô", tức là năm 28.
Vai chính của trang sử này, mặc dầu không ai nhìn thấy,
cuối cùng cũng được chỉ định là chủ thể của suốt thời kỳ dài lâu này. Đó chính
là "lời của Thiên Chúa".
Chủ thể ấy được giới thiệu ở cuối câu, khi nói về người
được kêu gọi làm trung gian của lời này: "Gioan con ông Dacaria".
"Việc sử dụng nhiều chi tiết trang trọng như thế để
xác định về mặt lịch sử buổi khai mào sứ mệnh của ông Gioan, theo Roland Meynet
nhận xét, là điều không cần thiết. Vả chăng, không phải dể xác định rõ ràng về
mặt đia lý một địa danh bé nhỏ của Đế quốc, mà tác giả Luca đã muốn kể ra những
địa danh khác nhau là tên tuổi những vị tổng trấn và tiểu vương nắm quyền cai
trị trên những miền đất ấy. Cuộc "diễu hành" của những nhân vật tai
to mặt lớn kia là hoàng đế Rôma là người dẫn đầu, thực ra có một cái gì long
trọng và gây ấn tượng khác thường đế nói lên tầm quan trọng lớn lao của sự việc
đang xảy ra. Và những con người đang sát cánh với nhau khi ấy, là Do Thái hay
Rôma đang cai trị Israel hay những miền dân ngoại, đều phải mắt thấy tai nghe
về một sự việc có liên can tới họ hết thấy. Việc gì xảy ra với Giêsu, thì có
liên can tới tất cả mọi người trên toàn thế giới ("Tin Mừng theo thánh
Luca". Phân tích tu từ", Cerf, trg 44).
Gioan, người trung gian cho Lời:
Hai câu đầu đã chỉ cho ta thấy gốc gác con người của Gioan:
ông là "con ông Dacaria" và sứ mệnh của ông có gốc gác của Thiên
Chúa: Ông đã được "lời Thiên Chúa" kêu gọi. Giờ đây bóng dáng của vị
ngôn sứ được rõ nét.
Nơi Gioan thi hành sứ vụ là "vùng ven sông
Giođan".
Chính ở đó, ông rao giảng một "phép rửa tỏ lòng sám
hối để được ơn tha tội".
Giống như các thánh sử khác, Luca định nghĩa cho sứ mệnh
của Gioan từ sách Isaia đoạn 40: "Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia
rằng: "Có tiếng người hô to trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đườn g của
Đức Chúa".
Nhưng chỉ có mình Gioan là người theo đuổi cho đến cùng lời
trưng dẫn sau đây: "Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa". Tin Mừng mà Gioan loan báo chính là Thiên Chúa cứu độ, và ơn cứu độ
của Người dành cho hết mọi người. Điểm phổ quát này, chính Luca, người ngoại
giáo trở lại đón nhận đức tin đã làm vang dội lên trong 2,30-31 rồi khi đặt vào
miệng ông già Simêon lời ca: "Vì chính mắt con dược thấy ơn cứu độ Chúa đã
dành sẵn cho muôn dân".
Điểm son ấy, Luca sẽ không ngừng làm vang lên trong tác
phẩm của mình, mà Phaolô sẽ là người đưa ra phần kết khi tới Rôma, kinh đô của
đế quốc "Vậy xin anh em biết cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã
được gởi đến cho các dân ngoại, họ thì họ sẽ nghe" (Cv 26,26).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Chính hôm nay, ta phải dọn sẵn con đường cho Chúa.
Đây là giờ phút phải lựa chọn và quyết định, phải đắm mình
vào tầng sâu của nội tâm sám hối, để tính toán việc loại bỏ đi những chướng
ngại cản đường Chúa tới giải phóng: Cái đáng ăn thua là được trở thành một thọ
tạo mới, trở nên những con người đã được tôi luyện và can trường.
Vậy để cho Thiên Chúa có thể đi đến được, ta hãy khai mở
những con đường thênh thang của tâm hồn rộng mở và chan hòa yêu thương, hãy đạp
đổ những bức tường cách ngăn kỳ-thị và phân biệt chủng tộc. hãy cất đi những
rào chắn của tư lợi nhỏ nhen, hãy đập tan những xiềng xích bất công và bất bình
đẳng mà người ta đang la ó đả đảo, hãy để cho lưỡi gươm Lời Chúa được thảnh
thơi tung hoành, hãy thức dậy và đứng thẳng người lên".
2. "Chính hôm nay, ta phải khai mở những con
đường".
(J. Debruync, trong "Jesus, son Evangile",
Descléc, trg 14- 16).
Tin Mừng thánh Luca cho rằng Ngôn sứ Isaia đã nhìn thấy
tiếng nói ấy đến từ xa: một tiếng nói phát ra như tiếng hô to vang lên giữa nơi
hoang đia, rằng:
Hãy khai mở con dường của Chúa. Hãy dọn sạch khắp mọi nẻo
đường! Con đường thẳng tắp giữa chốn hoang vu, mọi thung lũng, phải lấp cho
đầy, mọi núi đồi, phải san thấp xuống, lối quanh co, phải uốn cho ngay đường
lồi lõm phải san cho phẳng, rồi hết mọi người phàm sẽ được thấy ơn Cứu độ của
Thiên Chúa chúng ta".
Nếu đường đi cần được mở, là để ta đi tới nơi kia. Vậy là
hiện có một nơi. Và đường dẫn tới cho người khát khao.
Đường kia phải mở làm sao, để không còn những hàng rào chặn
ngang. Đường đi rộng rãi thênh thang, để ta vui bước mà lòng thảnh thơi.
Vẫn luôn có một con đường giải thoát, để con người không
còn phải sống cảnh tù đày, để hy vọng luôn chiếu sáng con tim, và để tầm nhìn
không còn bị mây mù che lấp.
Nếu phải mở những con đường, chính là để ta phải cất bước
ra đi, là để ta phải mau mắn lên đường, để cho Lời cùng ta vui bước.
Nếu phải mở những con đường, thì cần phải có những bước
chân khai sáng. Những kẻ vạch đường. Những kẻ tìm ra bao người không ai biết
đến. Những người thích đi chinh phục những thế giới mới. Những bàn tay dám đục
đá vá trời. Những ai biết vượt khó vượt nguy. Những ai biết khai phá, mở lối
cho tương lai. Những ai biết khoan đường hầm để lần ra ánh sáng.
Nếu phải mở những con đường, là vì tha nhân mà tôi vẫn hững
hờ, thì nay phải trở nên người khẩn thiết. Tha nhân ở đàng kia kìa. Tôi phải
vội vã lên đường, tôi phải đi để gặp cho được.
Thật bất ngờ. Không còn phải là lề luật mới là con đường
tốt. Chính là con đường trở thành luật; Không còn phải là quy tắc cho thấy rõ
con đường phải đi, mà chính là đường đi định ra quy tắc.
Vậy đây còn phải là Đền Thờ làm ra lề luật. Đền Thờ đích
thực, từ nay chính là con đường.
Vậy Thiên Chúa không còn ở trong bốn bức tường nữa, Người
đang đi trên đường".
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét