CA ĐOÀN LE GIANG SINH TẠI VATICAN
|
ĐTC BỔ NHIÊM ĐÚC CHA AN PHONG LAM GIAM MỤC CHÍNH TÒA GP. VINH |
ĐTC BỔ NHIÊM ĐUC CHA GIUSE NGUYỄN THÁI HỢP LÀM GM. TIEN KHỞI GP. HÀ TĨNH |
LỄ LÀM PHÉP NHÀ THỜ PHONG HẢI |
MƯNG 15 NĂM LM. CHA PHERO LÊ ANH CƯỜNG |
MƯNG 15 NĂM LM. CHA PHERO LÊ ANH CƯỜNG |
MƯNG 15 NĂM LM. CHA PHERO LÊ ANH CƯỜNG |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH PHÁT QUÀ GIÁNG SINH CHO 105 HỘ NGHÈO TẠI BẢO HÀ |
LỄ LÀM PHÉP NHÀ THỜ PHONG HẢI |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ CÁC EM H'MONG KHE ĐĨA |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI TÂN AN |
MỪNG LE GIANG SINH TẠI TÂN AN |
40 SINH VIÊN HÀ NỘI MỪNG LE GIANG SINH TẠI BẢO HÀ
ĐTC BỔ NHIÊM ĐÚC CHA AN PHONG LAM GIAM MỤC
CHÍNH TÒA GP. VINH – ĐUC CHA HỢP LÀM GM.
TIEEN KHỞI GP. HÀ TĨNH. MƯNG LE GIANG
SINH
MỤC
LỤC
1. Con người - Lc 2,1-20
2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta
- Lc 2,1-14
3. Đừng thờ lầm - Ga 1,
1-18
4. Ngôi Lời là ánh sáng
thật
5. Vinh danh Thiên Chúa
trên trời - Lc 2,1-14
6. Đêm Ánh Sáng – ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt
7. Lời ngỏ của Tình Yêu -
Ga 1,1-18
8. Noel: Lễ nhập cuộc –
ĐGM. Vũ Duy Thống
9. Ngôi Lời đã trở nên
người phàm - Ga 1,1-8
10. Suy niệm của R.
Gutzwiller – Lc 2, 1-20
11. Sứ điệp vinh quang và
bình an – Lc 2,1-14
12. Ánh sáng nào soi chiếu
trong ta? (Ga 1,1-18)
13. Ngạc nhiên
14. Đêm Thánh
15. Chúa giáng trần (Ga 1,
1-18)
16. NOEL: Tình bạn
17. NOEL: Hữu hình
18. NOEL: Lễ vật dâng Chúa
19. NOEL: Đổi đời
20. Đêm An Bình
21. GIÁNG SINH: Nhập thể
(Ga 1, 1-18)
22. GIÁNG SINH: Hoà Bình
(Ga 1, 1-18)
23. Bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương
24. Chiêm ngắm Ngôi Lời
25. Suy niệm của Lm.
Trương Đình Hiền
26. Sức mạnh - Lc 2,1-20
27. Chuẩn bị chỗ cho niềm
vui.
28. Thiên Chúa làm người
vì chúng ta – Noel Quesson
29. NOEL: Yêu thương 91
30. Vinh danh 93
31. Ai thực sự mừng lễ
Chúa Giáng Sinh 96
32. Lễ Giáng Sinh - JKN
33. Tìm kiếm
34. Món quà vô giá
35. Giáng Sinh: Ánh sáng
36. Bài giảng của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II
37. "Emmanuel, Thiên
Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
38. Bài thánh ca hát mừng
Chúa Giáng sinh
CHÚ GIẢI
1. Chú giải của William
Barclay
2. Chú giải mục vụ của
Hugues Cousin
3. Chú giải của Fiches
Dominicales
4. Chú giải của Noel
Quesson
1. Con người - Lc 2,1-20
Ngày nay, con người là một
vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát
huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con
người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước
mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong
phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu hiệm
giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà
Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là
quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài
người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả,
thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận
con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống
con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã
bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những
người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những
gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính
là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã
đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa,
cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập
giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị
làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản
nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ
người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã
cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ
cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây
giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con
người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn
đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải
nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể
là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng
một niềm tin với chúng ta.
2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta
- Lc 2,1-14
(Suy niệm của Camille
Gagnon)
Đây là thời gian hoan lạc.
Từ vài tuần lễ nếu không
phải là vài tháng chúng ta đã dự tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi
đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận
tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh
hưởng đến những lo toan của chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không
lên đường được vì sẽ quá nguy hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ
đầy người, niềm vui sẽ lớn lên: "Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!" –
"Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!" – "Thật mừng là bạn có thể đến
được!".
Ở đây, trong nhà thờ chúng
ta có thể lập lại một lời gì giống như vậy trong suốt mùa Vọng: "Vì Ngài ở
với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở với chúng ta". Lời này đã trở thành khẩu
hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này
thốt ra như một tiếng kêu của con tim: "Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với
chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà Chúa, tối nay người ta đi viếng
thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng con đi đến nhà Chúa! Con ở đây,
vì Chúa cũng ở đây nữa!".
Tiếp khách.
Thường lệ khi khách đến,
người ta tiếp đón, hỏi han một chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và
khi có một em bé cùng đi người ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao
chúng ta hết thảy không đón tiếp Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư
cách một hài nhi mà Ngài đến viếng thăm: "Đức Maria hạ sinh một con trai
đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ". Nhưng hài nhi này đến viếng
thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang một niềm hy vọng rất đặc biệt, như
bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là "cố vấn tuyệt vời", Ngài sẽ là
"quyền năng của Thiên Chúa", "Nguồn sự sống đời đời". Ngài
sẽ là "một mầm mống bình an". Một hài nhi như vậy thật là quí báu.
Trong một gia đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì
như vậy được.
Chăm sóc một em bé vài
tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều
lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự
việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần một người nào khác đến ở bên cạnh chúng
ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói
quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở
luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài
chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong
ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón
"bé Giêsu" có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển
đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta
như một bài ca cổ xưa đã nói: "Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra
cho chúng ta". Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức
là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều
đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi
một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa.
Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất
lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không
mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này:
"Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm
Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?". Anh chị em đã biết
rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt
của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương
mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc.
Nhưng đêm nay, chỉ với một
con tim tươi trẻ mà chúng ta mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng
thăm trong cuộc đời chúng ta và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể
nói: Không có Ngài cuộc đời của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu
niềm vui đã nhận được và cho đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng
con người vì Hài Nhi này. Hài Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm
mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta
có thể kêu lên: "Vì Ngài ở với chúng con, nên đây là thời gian hoan
lạc!".
3. Đừng thờ lầm - Ga 1,
1-18
(Trích trong 'Lương Thực
Ngày Chúa Nhật')
Phần tự ngôn Phúc
âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ
Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi
Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng
ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức
là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như
vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên
Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội
lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng
Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến
thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có
sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian
để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn
của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức
Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý
niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một
số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại
chước cám dỗ xui con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc
đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự
thể bởi đâu mà mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành
động như thể không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y.
Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong
thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước
hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ
Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự
tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận
thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là
Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo
thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên
Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta
thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch
nhân loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn
con người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì
nhân lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán
nản hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là
Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên
đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô-
Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh
y.
Ánh sáng và sự sống liên
kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian)
thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô
hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối
và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do
niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự
sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh
sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư
gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức
Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.
4. Ngôi Lời là ánh sáng
thật
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Máng cỏ luôn làm cho chúng
ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu
mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con
đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi
lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được
Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt
gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người.
Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài
sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe.
Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một
thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không
làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa
và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã
trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi
qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong
bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều
người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng
tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của
Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập
thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho
Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc,
trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua
năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là
trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh
Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt
trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom
lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Ngôi Lời đã làm người và
đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn
hơn không?
• Làm sao để Chúa Giêsu
được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và
bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ
trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm
trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo
hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc
đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con
dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.
5. Vinh danh Thiên Chúa
trên trời - Lc 2,1-14
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô
quang Kiệt)
Đêm nay, tại các nhà thờ
trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm
xưa:
"Vinh danh Thiên Chúa
trên trời,
Bình an dưới thế cho người
Chúa thương"
Lời hát của các thiên thần
chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với
trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao ""Vinh
danh Thiên Chúa trên trời" phải đi liền với "Bình an dưới thế cho
người Chúa thương"? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự
ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại,
Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện
trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của
loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn
trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những
người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện
làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay
ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người
là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc
phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời
mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm
một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra
làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ,
yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ
những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy
biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy
biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính
chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh
cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người
là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời
Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc,
viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng
Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con
người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã
được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là
lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người
được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: "Vì
loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế",
ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để
suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa
Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu
thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa
đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều
xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng
những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh
Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị
em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi
người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ
khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có
thể hát vang lời ca:
"Vinh danh Thiên Chúa
trên trời,
Bình an dưới thế cho người
Chúa thương"
Trong tâm tình yêu mến và
kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân
sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Vinh danh Thiên Chúa
trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý
thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2. Tại sao Chúa Giêsu đòi
buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3. Lễ Giáng Sinh này, bạn
sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
6. Đêm Ánh Sáng – ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt
ĐÊM ÁNH SÁNG
Đêm Giáng Sinh chìm trong
lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một
đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm
trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người
nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng
tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài
nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn
lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên
chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân
loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là
cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình
yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp
con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của
nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của
nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận
được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương.
Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm
cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Ánh sáng Giáng Sinh chiếu
toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có
những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là
những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo
của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng.
Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên
các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các
ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận
được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt.
Trái lại "vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và
ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng
đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy
"một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống
bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì
nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn
thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp
ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ
thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho
muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi
chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh
sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được
nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng
Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm
hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin,
niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể
lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm
vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây
vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum
xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều
bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim
của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của
Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của
Chúa.
7. Lời ngỏ của Tình Yêu -
Ga 1,1-18
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tông Đồ định
nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu". Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của
Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình
ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của
Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con
người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình
yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì
thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu
bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái
tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua
khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì
thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình
yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự
nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một
lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là
lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm
hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện
những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời
sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng
những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình
yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình
vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị
Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho
con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu
mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người
ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình
yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi
con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin
lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả.
Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu
nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình
yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu
đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong
máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất
cả.
Đó là tiếng nói của tình
yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm
trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp
trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của
con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh,
bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ
với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng
nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên
Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là
ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta.
Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh
sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới
bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Bạn nghe thấy gì qua
tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2. Yêu thương, ngỏ lời mà
không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng
đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3. Còn nhiều người chưa
nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu
của Chúa đến với họ không?
4. Để làm sứ giả tình
thương, bạn cần những đức tính nào?
8. Noel: Lễ nhập cuộc –
ĐGM. Vũ Duy Thống
(Trích trong 'NÚT VÒNG
XOAY' – Trg. 35)
Đi qua trường Kinh Tế Tài
Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa
mấy cô gái. Có tiếng hỏi: "Noel, bồ có đi đâu không?". Có tiếng đáp:
"Không, mình ở nhà". Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó
xen vào: "Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!".
Vâng! Noel người ta ra
đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng
tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người.
Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì
thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức
Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra
dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là
một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập
cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín
hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm
thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp
đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn
úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu
Ước vốn coi Thiên Chúa là "Đấng khôn tả", nên muốn tả về Ngài người
ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ "vô cùng" vào
sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa
vốn coi Thiên Chúa là "Đấng đáng sợ", nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải
mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật
gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch
sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự
nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là "thời Hoàng đế
Cêsarê Augustô" và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là "thành Bêlem
xứ Giuđêa" như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích
ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như
bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người
khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi
đây là cuộc "Thiên Chúa viếng thăm Dân mình", nhưng cuộc viếng thăm
này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp
lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp
người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể
trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã
nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập
cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp
nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất,
qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là "Chúa hùng
dũng", thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ
nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là "Thủ
Lĩnh bình an", nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo
trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế
Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ
Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ
khẩu dẫn tới "hậu khổ"! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc
vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện
sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là "Cha vạn
thuở", bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn
nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người
lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng
thành tuần tự bình thường. Người là "Cố Vấn kỳ diệu", nhưng khi sinh
ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người
đã "cố mà vấn vào đời mình" những gì là bình thường nhất nếu không
muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập
cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế
cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc
đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả "bụi
trần", và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt
chuyện "đời là bể khổ" làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời
không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi
hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng
bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và
con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa
là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ
Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì?
Thưa để đem trần thế vào lại "trật tự nguyên thủy" như nét đẹp ban sơ
của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là
"Ngày sáng thế mới". Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn
phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì?
Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa
không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một "Thiên Chúa ở cùng chúng
ta", một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên
ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: "Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Và cũng
chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: "Thiên Chúa làm người cho
người được làm con Thiên Chúa". Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập
cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ
đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để
đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay
là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy
mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra
bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời
sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt
kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng
mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập
cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông
nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho
dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập
cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là
Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm
vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào
đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta
thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn
đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy:
thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng
cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập
cuộc của mình.
9. Ngôi Lời đã trở nên
người phàm - Ga 1,1-8
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Cảnh sát thành phố Los
Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ
tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi
người ta chuyển đến "Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố" một bức thư đầy
lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
"Thưa Ông
"dà" Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn
đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con
ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn...
Con muốn được lên
"chời" để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên
"chời" nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ
làm cho bố mẹ con "xung xướng". Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm
và ít thức ăn...
Con sẽ không ngủ đâu. Khi
Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy
tuần lộc... Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra
em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm
xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối
tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta
chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc,
những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những
người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa
Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm
kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên
Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để
nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng.
Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống
nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm,
nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động
đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh
trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu
thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt
Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa
liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa
chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt
hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai
đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị
em, chúng ta thấy Thiên Chúa "người" hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới
đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu
quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám
chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến
mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng
ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp,
của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ
gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường
của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, "ánh sáng cho
nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống".
Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao
trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho
đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và
cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không
muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào
là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho
đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta
phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng
ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa
đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những
người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa
tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em
Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này,
nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình,
những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi
không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho
được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé
mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những
con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ
rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương... Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà
nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta
không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng
ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh
em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự
sống.
10. Suy niệm của R.
Gutzwiller – Lc 2, 1-20
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu
nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với
sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn
nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không xảy
ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời
nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là
do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời
đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục
kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy
rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của
Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của
ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà
ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền
năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của
quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã
giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó.
Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây,
cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên
thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong
bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức
dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế
Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu
được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và
thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là
chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian.
Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ
'hoà bình của Rôma', thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì
đã mang đến 'bình an của Thiên Chúa'.
Tuy thế, ở Bêlem, không
còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ
trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang,
không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là
nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu
nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh
đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào
ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài
nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính
hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên
Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ
nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn
này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi
phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào
nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ
bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những
gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản
tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới
lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng
Sinh.
Các mục đồng là những
người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu
chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao
trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu
sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là
những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là
một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là
Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự
giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của
Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế,
tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã
được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ
lùng: 'Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ'. Điều nhỏ bé sẽ
biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc
Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và
làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng
vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca
khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với
nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có 'trời, vinh danh và Thiên Chúa'. Phần hai có
'thế trần, hoà bình và con người'.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ
đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ
nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô
biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm
được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn
thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho
nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các
Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca
mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc
đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. 'Chúc tụng Thiên Chúa' đó
là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh
dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công
việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu
tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời
đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm
tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ
trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ
nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với
đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra
Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự
biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí
này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay
lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu
đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là
vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh
quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh
nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn
của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
11. Sứ điệp vinh quang và
bình an – Lc 2,1-14
Từ nhiều thế kỷ nay, những
bài Phúc Âm tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng
tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay
chúng làm đối tượng cho những sự phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc
của một số trí khôn phức tạp đã tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm
mức của mình. May mắn thay, có một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài
tường thuật ấy ở trình độ mà Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật
của thánh Luca kể lại một sự kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời
thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách
tỏ tường như trong những bản văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt
việc Chúa Giáng Sinh trong tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu
Ước. Nhưng người ta bắt gặp cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức
Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra
cho các ngươi. Ta thử đứng thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra
một vài nét về ý nghĩa của danh xưng 'Cứu Chúa'.
Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là
lý do tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt
pháp lý, và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.]
Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh
Mátthêu cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh
nào.]
Chúa Giêsu là một con người. Người là Con
Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống
Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh
Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người
không giả bộ làm người; Người là người thật.]
Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó,
cho người chăn chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất,
giữa hạng người không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người
bám vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.]
Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an,
ng]hĩa là người đến tái lập
trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người tập hợp loài
người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế họ là anh em
với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu
lên trong bài tường thuật này một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta
đang cần, đó là sự thờ phượng.
Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và
Giuse đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.Y
Thờ phượng, ấy là công bố rằng: Hài Nhi chính
là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan biến khi viếng máng
cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh
Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và một sự tục hóa thiếu
suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt cử hành Thánh Thể
nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.Y
12. Ánh sáng nào soi chiếu
trong ta? (Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh
Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu
đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một
người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn
cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng
tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên
hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ
ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật,
Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một
trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân
Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng
cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân
Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn
bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi
người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp
nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng
bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô
đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê
muội.
Tự mình chúng ta hầu như
không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài
đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự
vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt
qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí
khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm
bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh
sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta?
Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần
thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô
mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần
phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê
muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục
chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong
đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho
ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều
được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan
liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là
tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng
nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở
trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau
và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang
đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức
chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên
con cái Chúa.
13. Ngạc nhiên
Tại miền Nam nước Pháp, có
một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này,
du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở
rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế,
người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương
thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân
vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì
anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của
mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
- Mày không biết xấu hổ
hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ
một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những
lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng
bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến
với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà
cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la
của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu
biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên
trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường
nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu
của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có
biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi,
khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc
nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên
cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó
khám phá ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm
những kỳ công trong vũ trụ, cùng với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không
khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán
phục này, chúng ta phải đi đến một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là
Đấng quyền năng và thương xót, đã dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn
sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên
Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn
sách được mở ra để mời gọi con người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên
Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào
lịch sử nhân loại, cũng như cuộc đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc
nhiên trước biết bao ơn sủng mà Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá
ra bàn tay của Thiên Chúa luôn hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi
người chúng ta trên vạn nẻo đường đời.
Và giờ đây trước máng cỏ
Bêlem, nếu thực sự biết ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la
của Thiên Chúa. Thực vậy, lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện,
Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính
Con Một của Ngài, hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận
con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng
cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành
cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho
tình yêu của Ngài. Khi gặp những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ
đã đành, mà ngay cả lúc khổ đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn
tình yêu của Ngài. Trong mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra
tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng
Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương
tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
14. Đêm Thánh
Vì sao gọi lễ cử hành hôm
nay là "Đêm Thánh"? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào
để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có
bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ
nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản
trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức
Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho
rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối.
Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng:
Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con
người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa "hàm
hồ"- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên
một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức
Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm
tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế,
trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh,
đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm
và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng
như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến
thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không
được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh
sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của
con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh
khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình
với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc
nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: "Kìa chàng rể đến!". Đêm tối
trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm
tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó
là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu
nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác
giả Thánh vịnh có thể thốt lên: "Ngày là của Chúa, đêm cũng là của
Chúa..." (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên
Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, "đêm này kể lại với đêm kia" sứ
điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta
về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể
cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh
nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng
cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên,
sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh –
như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to
lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai...
Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng
sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất...
... Nhưng nếu có một đêm
tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn
thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có
một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy ... thì
đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây
là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt
lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ:
"Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng...".
Không phải tình cờ mà vào
thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng
mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của
"Mặt Trời Công Chính" (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm
ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật
"thần mặt trời bất khuất".
Một gán ghép vô cùng chính
xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây
là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi 'khủng khiếp' của Ngài, đã đến
với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm
bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt
đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực.
Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình
vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng
sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở
giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng
ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc
chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của
chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa
chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của
ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con
đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của
Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh
ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng
ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm
này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà,
và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm
Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử
hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và
phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ
khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả...
Chúng ta phải dám ôm lấy
sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công
việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng
để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do
lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm
Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta
không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục.
Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này –
cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho
người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử
hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần
tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào
cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người,
những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta
nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng
nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập
tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao
trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa,
sự hiện diện "lên lời" bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có
thể 'nghe' được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước
đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm
của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía
trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng
mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự
hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm
vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh!
Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói
loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào
một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập
tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc
chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này
chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng
thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy
nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa
thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn
trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà
không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó.
Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không
gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất
ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy
lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên
với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng
Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên
Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh
rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm
thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và
những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối
tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào,
đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe
gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối
đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng...
Giây phút tưng bừng...
15. Chúa giáng trần (Ga 1,
1-18)
"Từ nguyên thủy đã có
Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên
Chúa." Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa
Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc
lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga
1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải
cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn
Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia
nhân Người và đã không được đón nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp,
"Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được
bởi Chúa Cha, như của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14). Ở
đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho
dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh
Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền
làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt
ra cho mình một câu hỏi, "Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con
Thiên Chúa? là công dân Nước Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay
trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ
đến cùng Thầy". Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. "Nước Thiên Chúa
thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên
Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước Trời" (Lc 18:16-17). Thật
đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực
đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát
khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ
niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của
những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các
bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy
tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người
đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ
vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ
điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ
không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh
thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình
an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin
Vâng" với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành
chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường
công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có
thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói
về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần
của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi
bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi
đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo.
Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có
tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu
"hết chỗ" (No Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên
cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia
Đình Thánh Gia còn chưa được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để
giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất
công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng, nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong
câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng
những cây thông, gói quà, kẹo ngọt... nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã
xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài.
Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận
lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có
thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các
bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa
Hài Đồng!
16. NOEL: Tình bạn
Nhiều thế kỷ trước đây tại
nước San Marinese, có một ông vua rất kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân
chúng. Ông sống chính trực và rất được dân chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua
không chỉ hài lòng với cuộc sống trên dung lụa của hoàng cung, cũng không chỉ
nghe theo lời báo cáo tường trình của các quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn
về hoàn cảnh sống của dân chúng, nhà vua thường hay cải trang đủ cách để có thể
đi lại dễ dàng và trà trộn giữa mọi lớp người để không bị theo dõi hoặc chú ý
tới. Một hôm nhà vua cải trang với manh áo rách vá chằng chịt như một người
hành khất và đến ngồi ăn xin tại một công viên. Nhà vua làm quen với người phu
quyét đường thường ngồi nghỉ trên ghế công viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới
ánh nắng mặt trời nắng gắt. Ngày qua tháng lại, nhà vua trở nên như bạn thân
của người phu quét đường. Họ chia sẻ từng nắm cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ
như hai người bạn thân vậy. Sau cùng vua quyết định nói sự thật và tỏ mình cho
người phu quét đường biết mình là ai. Nhà vua còn bảo người phu quyét đường có
thể xin điều gì mà anh ta ưa thích nhất như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết
ấy. Nghe nhà vua tỏ tình thương mến, người phu quét đường trố mắt ngạc nhiên
nhìn nhà vua và nói: Thưa hoàng đế, nhà vua đã không quản ngại khó nhọc, khước
từ vinh quang của cung điện để đến chia sẻ nắm cơm chén nước và những khó nhọc
của bần hèn này. Nhà vua có thể ban tặng cho quan thần những món quà quí giá,
nhưng đối với phận hèn này nhà vua đã dành cho món quà lớn nhất là chính mình.
Vì thế nếu được, phận hèn này chỉ xin một điều duy nhất, là xin nhà vua đừng
cất đi tình bạn mà nhà vua đã dành cho kẻ hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một
trong những món quà lớn lao, quí giá nhất mà con người có thể nhận được. Tình
bạn là mối dây liên kết vượt hẳn lên trên những mục đích chung của công việc
làm, của những lợi lộc hoặc những vấn đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện
diện cạnh bạn khi vui cũng như lúc buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui,
cũng chẳng biết làm vơi đi nỗi buồn của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm
tươi sáng. Có bạn cuộc đời cũng đỡ bớt cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu
cũng đã để cao giá trị của tình bạn khi Ngài nói với các môn đệ rằng:
"Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu, vì Thầy đã tỏ cho chúng con am tường
mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy". Cũng vì tình yêu cao quí mà Chúa Giêsu
đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân phận con người. Niềm vui của Chúa Giêsu
là trở nên như chúng ta những con người yếu đuối hạn hẹp mà Người đã muốn nâng
lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần của đại gia đình nhân loại và cùng đi
với chúng ta trên con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Đấng Emmaunuel: Thiên
Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao cả nhất. Thiên Chúa ở với loài người,
là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập Thể.
17. NOEL: Hữu hình
Chúng ta không cử hành lễ
Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng
đã chìm vào dĩ vãng. Vậy đâu là ý nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng
ta xác tín: Thiên Chúa đã trở nên hữu hình đối với chúng ta. Ngài không còn là
Thiên Chúa xa lạ, cách ta nghìn trùng nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người.
Ngài đã đến giữa loài người như một người trong chúng ta, sinh bởi một người
phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm sóc và âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá
khứ gia đình. Việc Ngài sinh ra được bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình
và những người chất phác có Kitô hữu năng thán phục trước một hài nhi đã ra
đời. Ngài đã đến trần thế này để dự phần vào những vui buồn của mỗi người trong
chúng ta. Ngài không yêu cầu đặc ân nào ngoài đặc ân được ở giữa những người
nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng trong dòng tộc với quá khứ và tương lai của dòng
họ. Tổ tiên của Ngài là những người chăn nuôi súc vật, những kẻ di dân, những
người lao động tay chân và những người đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại
kỷ niệm xấu vì giết chóc và trộm cướp. Những người khác là những người có đức
tin và lòng sùng đạo rất lớn với những nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính
như vậy đó mà Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong sự giống hệt loài người.
Ngài không mặc lấy nhân tính của chúng ta như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể
và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa không ngừng trở nên hữu hình! Lý do của việc con
Thiên Chúa nhập thể là "Thông ban ân sủng để cứu độ hết thảy mọi
người". Lý do này không bao giờ bị rút lại. Nó vẫn còn đó và luôn luôn
được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ
Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây
là lễ đón mừng một hồng ân hiện đang được ban cho loài người. Đôi khi người ta
nói về một người mà sự nghiệp đặc biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống
ở giữa chúng ta do ảnh hưởng công việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn
nhân vật quá cố thôi. Vì người ấy cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi
mãi được.
Nhưng công trình của Thiên
Chúa, ân sủng làm cho chúng ta trở nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể
hiện. Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong những cách hiện diện với loài người
mà Chúa Giêsu đã chọn sau cuộc Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp
thông giữa các môn đệ của Ngài, là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài
nơi những tâm hồn biết lắng nghe trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân
và dấu chỉ sự hiện diện thật sự của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống
với Chúa Giêsu có thể thiết lập với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể
được đối với mỗi người chúng ta. Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe,
bao giờ cũng đầy lòng thương xót và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta
cử hành với một niềm vui lớn lao cũng thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được
sinh vào đời sống thiêng liêng mà con Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.
18. NOEL: Lễ vật dâng Chúa
Đã biết bao nhiêu đêm như
đêm nay đã đến với đời mỗi người chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá,
ngắm những trang trí lạ mắt, ánh sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du
dương hớn hở, chung quanh ai nấy ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng
ta lại dâng trào niềm vui khôn tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người
chúng ta không thể không đưa mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương
mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút
linh thiêng trang trọng này, ai cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng
vui lòng đây, mình nên dâng cái gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi
người nghĩ ra nhiều việc hay, tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng.
Nhưng câu chuyện sau đây muốn trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa
thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa
sinh ra như đêm nay, các thú vật chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con
đều dâng Chúa một món quà nhỏ: Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu
Khỉ biếu Chúa mấy trái nho, chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng
khuyên hát một bài du dương, cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng
vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo
xuất hiện. Mọi thú đều ghét cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường
không cho Cáo đến gần Chúa. Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào.
Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ
đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui
tươi lễ phép đứng lên cáo biệt rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò
hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa
đáp:"Cáo đã dâng cái mà ta thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó".
Nghe thế ai mà chẳng bỡ
ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai
cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ
nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã
bỏ trời cao xuống trần mang lấy để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu
thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã
nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái
gì trên cõi đời này làm cho con người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối
rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi
Hai xuống thế làm người là Ngài mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích
thực, nhưng chỉ còn một trở ngại ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn
có sự bình an thật thì phải dâng tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được
chúng và giúp con người trở nên bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa
tức là chúng ta dâng trót cuộc đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn,
để chỉ ước muốn làm điều đẹp lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người
chúng ta một tặng phẩm quí giá: Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay
đem lại cho mọi người thiện tâm thiện chí.
19. NOEL: Đổi đời
Trời vừa rạng sáng, sao
vừa biến và người khách cuối cùng vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài
nhi thiu ngủ... Bỗng, cánh cửa của chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất
hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà,
Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp
ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành. Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước
chân của bà già đối với Mẹ Maria hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục
bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức
ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như
thể ánh lên cùng một niềm hy vọng. Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc
áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con
vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc
một vật dấu trong bàn tay, rồi trao lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái
gì và bà già là ai mà có vẻ bí hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi
xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh
nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ
diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ
mẹ Maria mới thấy được món quà tặng của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra,
bà già ấy chính là Eva vừa trao lại cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của
tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như
một quả địa cầu của thế giới vừa mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay
từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo
vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ,
phản ảnh tình thương của Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi
Hai mặc lấy bản tính của họ nên họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật
mới đầu tiên ở trong Chúa hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc
biến đổi nào muốn đi tới thành công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then
chốt này: Một là xác định rõ hướng đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì
theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội
lỗi thành một bản tính thần thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều
hơn nữa nếu con người muốn hóa thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã
là con người ai cũng cảm thấy thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng
chiều theo đam mê sa đọa, lúc nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát
tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội
nguyên tổ gây ra, khiến con người cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải
sống trong một tình trạng khốn khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người
khỏi bóng tối đến với ánh sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau
khổ đến bến bờ hạnh phúc, chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội
ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ
dẫn đường chỉ lối cho nhân loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã
xác định được hướng đi mà muốn thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng
hành động và hỗ trợ cho nhau. Về phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân
phận hư hèn của con người cũng đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài
là muốn cứu thoát tất cả mọi người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì,
ngoại trừ tội lỗi, để giúp con người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần
ngại phó mạng sống và quyền năng của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía
con người muốn đón nhận hồng ân cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương
nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo
những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi, con người muốn được cứu thoát phải biết
tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là khách quí mời vào trọ trong nhà mình để
yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo. Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con
người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa, coi ma quỷ như kẻ thù không đội
trời chung...
Cuối cùng khi đã quyết chí
lên đường theo Chúa để có thể đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực
được thì phải có lòng kiên trì bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì
con đường đến với Chúa và cùng đi với Ngài không phải là một con đường thoải
mái, dễ dàng, nếu không có chí sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi
trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là
được mà phải chấp nhận suốt đời và cũng không phải lúc nào đời người đều bình
yên lặng gió mà là luôn có trở ngại thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai
bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến đích bình an.
Chúa vì thương con người
đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt
và đưa con người lên hàng thần thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải
biết đổi đời từ tối thành ánh sáng, từ hư hèn thành bất diệt.
20. Đêm An Bình
Trong đêm Giáng sinh, sứ
thần Chúa đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
Vinh danh Thiên Chúa trên
trời,
Bình an dưới thế cho người
thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa
nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra và chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của
Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa
trao ban cho chúng ta là sự bình an như thế nào?
Trước hết đó phải là sự
bình an trong tâm hồn qua việc giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi,
giao hòa chúng ta với Chúa. Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất
phát từ bên trong, từ tâm hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống
trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo
lắng, Chính sự bình an nội tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc
sống, làm cho chúng ta được vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải
những túng cực và khổ đau. Chính trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây
dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng
này, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát
chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi. Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền
trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho
chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội
tâm không phải là một quà tặng từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải
là kết quả của những cố gắng cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và
xây dựng nơi chính bản thân mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người
thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn
là nền tảng để chúng ta vun trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người
chung quanh từ gia đình đến xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình
ngày nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt
mất rễ, thì làm sao sống nổi. Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này
mà bị đau yếu, thì làm sao nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây
liên kết đầy yêu thương, phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi
va tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta
đã ổn định qua việc hòa giải với Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ
được êm ấm qua việc yêu thương nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi
biên giới.
Và như vậy chúng ta đã
bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia,
rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Cũng trong chiều hướng áy,
Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu
phải rời bỏ tháp chuông, phải rời bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng
đồng thế giới, bởi vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng có chung một người
cha và cùng được dựng nên theo hình ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều
là những cuộc huynh đệ tương tàn, anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức
Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn
ảnh một cuộc chiến tranh thẳm khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng
dữ, luôn ám ảnh và đè nặng trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá
khủng khiếp nhất. Những phương tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi
chưa đủ, chúng ta còn phải cần đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu
nguyện và một cuộc sống được đổi mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị
giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự
trên tòa và những người quyền thế nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi
Maisen:
- Con đã trao cho dân
chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho
họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua
bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân
chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại
cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức
Kitô:
- Con mang đến cho trần
gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình
an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời.
Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên
một sự thật. Ngày nay hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay
mang những dấu đanh cho chúng ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà
Ngài đã kiến tạo, đã xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ
hòa bình, khởi đi từ tâm hồn bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng
một cuộc sống yêu thương và tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự
hòa giải và cảm thông, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng
sự bình an mà Chúa Hài nhi đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
21. GIÁNG SINH: Nhập thể
(Ga 1, 1-18)
"Thiên Chúa là Tình
yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua
việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật
sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình
yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu
này".
Hôm nay chúng ta cử hành
biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự
Giáng sinh của "Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm
trời này".
Sự Nhập Thể đó được diễn
tả trong bài Phúc âm hôm nay: "Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ
giữa chúng ta". Theo tiếng Hy Lạp chữ "cư ngụ giữa chúng ta" có
nghĩa là: "Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta". Biến cố vĩ
đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi
Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An
Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua
câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị
cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương
trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của
Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là
Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc
mắc và hỏi ông rằng: "Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho
đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của
các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần
gian này và nhập thể làm người để làm gì?" Ông cố vấn xin vua cho một ngày
ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi
vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con
trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn
đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi.
Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê
hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là
con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước,
người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao
xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói:
"Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần
thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống
vậy?" Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Đó chính là câu trả lời tại
sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người
thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
"Ngôi Lời trở nên
người phàm và cư ngụ giữa chúng ta". Giáo Hội dùng từ "Nhập Thể"
để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện
ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. "Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa
đã được bày tỏ cách trọn vẹn". "Với sự Nhập Thể của Người, một cách
nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người". Đó là cách biểu lộ tuyệt
hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
22. GIÁNG SINH: Hoà Bình
(Ga 1, 1-18)
Với mầu nhiệm xuống thế
làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta
cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả
quyết: "Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình
và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình".
Thánh Phaolô khuyên dạy
chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa Giêsu: "Anh chị em hãy có với
nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh,
đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình
ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư
xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và
chết trên thập giá".
"Vương quốc Fanxica
là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc
sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng
cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm
ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước
láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù
với vua Fanxica bằng một mối thù truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng
dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn
người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát
hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị
hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt
được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh
một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc
ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập
nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm,
vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con
ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ
khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và
buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót
sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang
dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên
tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác
thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả
tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai
người đều đầy thương tích máu me... Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người
đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi
làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và
sự khéo léo, đấu thủ cao người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm
rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ!
Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ
lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em
ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối
thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa
chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức
tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì
đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước
hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người".
Chính ma quỉ thù nghịch
của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con
người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là
con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh,
Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra
nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta
thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét
nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: "Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng
ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian,
để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên
một bằng cách cứu chuộc họ".
Bước vào thế kỷ
21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những
vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và
oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh
chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
23. Bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương
Chúng ta vừa nghe thánh
Luca thuật lại cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá
thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có
một vài mục đồng đến viếng thăm, và một vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi
Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ cực hơn cả người cùng cực thế gian,
nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn thiện chí và là sự cứu độ của toàn
thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan
long trọng mừng Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một
tin vui trọng đại, tin vui cho muôn người, tin vui này được các sứ thần của
Thiên Chúa loan báo cho các mục đồng: "Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo
cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay,
một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô,
là Đức Chúa".(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là
"Đêm Thánh" vì Con Thiên Chúa là Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân
loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi là "Đêm Bình An" vì chính sự
giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây
dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên
trời
Bình an dưới thế cho loài
người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của
các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm
hồn của người tín hữu, và biến thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng
của chúng ta với ước mong rằng, tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa
và đem bình an cho tha nhân trong cuộc sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên
trời
Bình an dưới thế cho loài
người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến
chúng ta trở thành những mục đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi
các trại mồ côi, an ủi những người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc
đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng
bóng người mặc áo quần lụa là, vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn
bè trong những nhà hàng sang trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng
hiên của ngôi nhà to lớn bên đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh
vì đói và không nhà để trở về vì không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần
cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm
hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh,
như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên
trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước
mặt anh chị em, trong hang đá lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng,
như mời gọi chúng ta hãy tỏa sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống
của mỗi người, bởi vì Con Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt
ngang bầu trời rồi tắt ngúm, nhưng là "ánh sao sáng vĩnh cửu" đầy hy
vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng, chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm
tội lỗi thấy đường để quay về với sự thiện vốn có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành
cho chúng ta.
24. Chiêm ngắm Ngôi Lời
Ngôi Lời đã làm người và
cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ
mà chúng ta vừa nghe trong bài tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa
Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng
kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo,
chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác
phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời
trong hang đá
Không ai thấy được Thiên
Chúa cũng như không ai được đưa tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà
chúng ta biết được Thiên Chúa Cha là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm
ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy
chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp
của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến
hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm mà không có mảnh chiếu che thân,
chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả Giuse là một gia đình nghèo đáng
thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời
đang nằm trong hang đá đó chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến
nhưng người nhà không chấp nhận, xua đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có
những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy Ngài là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi
Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà
chúng ta đang ngắm nơi hang đá được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu
nữa đây trên bàn thờ, trong hình bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh
nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người
nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích
Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận
Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu
Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta,
trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy
đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội
phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại
sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm
tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có
hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng
chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào
Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng
kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu
chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha
nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng
sinh là mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của
Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em
bé nghèo khó trên khắp thế giới sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ
đến những người phải lìa xa quê hương ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường
hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp
thế giới vì chính kiến, vì hận thù và vì đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi
tha nhân là cốt lõi của tình yêu và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại
-qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ
ơ với tha nhân, và chúng ta cũng không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu
nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua
đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được
cất vào kho nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng
ta, đó là một thực tại không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm
gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất
hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng
thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có
nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel năm ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà
Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi
người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành
cho chúng ta.
25. Suy niệm của Lm.
Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh
bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen
thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng. (Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật
là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay, hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ
lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần, tin Chúa hay tin Phật...đều đỗ nhau ra đường,
tuôn đến các Thánh đường, các tụ điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui:
Vui Noel, để rạo rực một tâm tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem
lại cho mỗi người chúng ta chỉ một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng
tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu
chuyện "Cô bé bán diêm" của văn hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel
qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ
vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với một đời thường tăm tối, đắng cay, thất
vọng, khổ sầu...thì việc đón mừng Giáng Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp
đón một người khách xa lạ, khách đi rồi mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái
nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào, một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển
biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc
biệt nầy, tôi xin mời gọi ông bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý
nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay,
âm thanh đêm nay, không chỉ loé sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm
của Cô bé bán diêm xấu số cùng với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết
lạnh; nhưng phải được nối dài, phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống
của chúng ta.
I. GIÁNG SINH: MỘT MẦU
NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải
chăng đây là một khẳng định táo bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo
khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu chúng ta, "Thiên Chúa làm người"
đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc
lòng trên môi miệng và đã được cử hành, nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc
sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long trọng cử hành trong chính đêm nay,
được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của Thánh lễ nầy " Vì loài người chúng
tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh
Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ Maria và đã làm người".
Nhưng với những người
không chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta, thì quả thật "mầu nhiệm Thiên
Chúa Làm Người" quả là một thách đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng.
Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì, cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn
tiên báo, cho dù được Sách Thánh thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề
chấp nhận được "Một Đấng Cứu Thế" sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một
Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc Giuse và Bà Maria ở làng quê
Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và cũng là tâm thức của nhiều
người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là một "Ông Trời" toàn
năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng; nếu
Ngài có "hạ cố làm người", thì cũng phải làm người trong cung cách
của một vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng
lệ, chứ làm gì có một "Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc
oa oa vấn tả nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ
nghèo kiết xác. Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ
Phương đông tìm đến để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện
của đại vương Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn,
nhờ "Sao Lạ dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa
máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối.
Vâng, nếu không có "Anh sao lạ", nếu không có "thiên thần hiện
ra loan báo Tin vui", nghĩa là, nếu không có sự "mặc khải", sự
dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người chúng ta không ai có thể khám phá, nhận
biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một
giấc ngủ triền miên của sự lầm lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên
Chúa làm người. Thật cần thiết biết bao "ánh sao mặc khải của Thiên
Chúa".
II. GIÁNG SINH: VÌ YÊU
THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa
lại phải làm người, và làm người trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý
nầy, chúng ta có thể mượn câu ca dao của Việt Nam:
"Yêu nhau trăm sự
chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê
cho bằng".
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng
ta, giữa con người với Thiên Chúa không phải chỉ có "một trăm chỗ
lệch" nhưng là cách xa muôn trùng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng,
toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là thân phận tạo vật do bàn tay Người tác
tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu, càng cách xa vời vợi khi con người
phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua
câu chuyện "bi kịch ăn trái cấm nơi vườn địa đàng".
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao
xa quyền năng đó, lại là một "Thiên Chúa nhân từ" và giàu lòng thương
xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó,
mà Thiên Chúa đã không đành bỏ mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi,
trong thân phận mồ côi lạnh lùng, trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan
đã nói: "Thiên Chúa đã yêu thương con người đến đổi đã ban Con Một xuống
trần..." (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để
con người được ơn cứu rỗi, hay như lời một Giáo Phụ: "Thiên Chúa làm người
để con người được làm Chúa". Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người
lên, đem con người vào vị trí cao cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo:
đó là giống hình ảnh Người. Đúng là "một trăm chỗ lệch..."
Vâng, chúng ta chỉ hiểu
được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU,
trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình
yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình
yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình
yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu
nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý nghĩa, hai tác động có liên quan mật
thiết:
- Thiên Chúa làm người và
con người được nâng lên
- Là ngày "chúng ta
tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa ", là dịp chúng ta ý thức "Hồng
ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta được mời gọi làm con Thiên
Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên Chúa.
III. GIÁNG SINH: THIÊN
CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên,
chân lý trên, có ích gì cho xã hội hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay?
Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng
chính cái chết và sự sống lại của Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập
để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa...thì
thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận
thù, với bịnh tật khổ đau...Để hiểu tại sao như thế, chúng ta phải trở về với
chính những Lời Chân Lý được công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ
ngôn I-sa-ia đã vang vọng những lời tuyệt đẹp: "Đoàn người bước đi trong
tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u
sự chết...vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người con đã được ban
tặng cho chúng ta"
Trong khi đó, bài Tin mừng
Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi
biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: "Trong vùng ấy
có những người chăn chiên sống ngoài đồng...bổng sứ thần Chúa trong vinh quang
sáng láng hiên ra loan báo rằng: "Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em
một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành
vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh..."
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu
đày nước mất nhà tan khi đế quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm
trước Công Nguyên, vị tiên tri thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo " một Đấng
Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh ra"... và 700 năm sau, trong buổi bình
minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, cũng lại là một đất nước
Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho
các mục đồng ở Bê-lem: "Đấng Cứu thế đã giáng sinh".
Với những lời tiên báo đó,
với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật
loài người đã có được những gì, đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì
đã xảy ra? Có hay không Một Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng
một Vị Vua oai hùng lẫm liệt đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có
hay chăng một Đấng Cứu tinh mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng
thênh thang, quyền uy chính trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái
ngược hẳn:
- Thay vì một hoàng tử
sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang
lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương
chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha
giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau
sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa
triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu
thế lại rao giảng một Tin Mừng "Tám Mối Phúc Thật" chỉ thích hợp cho
những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với
vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp
nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho
hàng nô lệ...
Quả thật, sự xuất hiện và
cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin
nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây,
chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một "Ông
Giêsu" chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là
được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất...thì có lẽ chúng ta sẽ ra về
trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường
nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó,
những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt
đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh
tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là
Đấng, như lời kinh thánh " trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay
"đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để
thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say
làm việc thiện" (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia
đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc
vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó,
"Hiến chương Nước Trời" được Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi
phúc chân thật lại là những giá trị xem ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh
hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để
chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng hòa bình, không ngừng biết khoan dung
để tha thứ...
Chính cuộc đời 33 năm trần
thế của Ngài, cho dù không để lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một
tác phẩm văn chương uyên bác, không một sáng chế khoa học diệu kỳ...thì 20 thế
kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa
cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời
của Chúa Giê-su duy nhât chỉ là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu
là cho đi và cho đi đến cùng: Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con
người được cứu độ vinh quang; Thiên Chúa chấp nhận làm "hạt lúa gieo vào
trần gian mục nát", để con người ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc
vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm
nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu
nhiệm Nhập thể - Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng
ta đón nhận và sống mầu nhiệm Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và
mang giá trị hiện thực? Để thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ:
"Tiệm tạp hóa bên kia ngọn đồi"
Khi ánh mặt trời vừa ló
dạng, có một chàng thanh niên đứng đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi.
Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một
thiên thần xuất hiện:
- Anh cần gì? Tôi là chủ ở
đây.
- Ở đây Ngài có bán hòa
bình không?
- Tôi bán tất cả.
- Con muốn mua hòa bình
đem vào nơi chiến tranh, mua an hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào
chốn lỗi lầm...
- Còn mua gì nữa nào?
- Con muốn mua ánh sáng
chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui đem vào chốn u sầu...Con muôn mua tất cả
những gì để thế giới không còn khủng bố, chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen
ghét, để mọi người hít thở trong không khí trong lành, huynh đệ yêu
thương...Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa được mọi bệnh tật, mọi
người được no cơm ấm áo...
- Thiên thần từ tốn đáp:
Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi...
Thưa ông bà và anh chị em.
Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng là "Hạt Giống" Tin mừng được trao gởi
cho mỗi người chúng ta. Hạt giống của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu
thương và chia sẻ, hạt giống của hy sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và
khoan dung, hạt giống của huynh đệ và đoàn kết...Đó chính là những hạt giống mà
Con Thiên Chúa đã trao tặng khi xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa
kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm
hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của
hòa bình và công lý, của bác ái yêu thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ
quên mình. Và như thế, chiến tranh bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh
chấp, đói khát nghèo nàn...sẽ bị đẩy lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp
hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia
trong bài đọc thứ nhất hôm nay: "Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ
chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì
Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho chúng
ta".
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn
đó không còn là một lời tiên báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ
chính thịt máu Ngài được ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm
tạ, hân hoan và yêu mến. Amen.
26. Sức mạnh - Lc 2,1-20
Có một người đi hành hương
đất thánh, khi trở về, ông ta đã mua một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức
Mẹ và thánh Giuse. Thế nhưng, trước khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv,
người ta đã kiểm soát từng bức tượng một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải
quan đã xin lỗi và nói:
- Chúng tôi có nhiệm vụ
bảo đảm rằng không hề có chất nổ trong những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách
hành hương đã thầm nghĩ:
- Phải chăng họ biết được
rằng bộ tượng này còn chất chứa một năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới.
Vậy thì nguồn năng lượng ấy là như thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng
vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng
chốc và có thể hủy diệt nó bằng một cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương
muốn nói tới, chính là năng lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với
nhân loại trong đêm Sinh Nhật đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy
được gồm tóm trong Tin Mừng Giáng Sinh, trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi
chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp ấy như thế này:
- Thiên Chúa, mặc dầu là
Đấng quyền năng vô song, nhưng đồng thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng
nhân từ và khoan dung, Ngài đã yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta...
Và để giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời,
Ngài đã sai chính Con Một Ngài xuống thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin
Mừng ấy, để công bố sứ điệp ấy, Ngài đã không đến như một ông hoàng với cung
điện lộng lẫy, với binh đội hùng mạnh, nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé
bỏng và yếu đuối, con của một gia đình nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên
một người giống như chúng ta, cũng bơ vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng
biết đau, biết đói, biết khát... Cũng đã bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn
phải chịu một cái chết ê chề và nhục nhã nhất.
Khi đến, Ngài đã không
được các vua chúa, các vị lãnh đạo thế giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng,
những kẻ thuộc giai cấp thấp hèn nhất đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với
những người nghèo khổ và túng thiếu, thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến
chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Ngài đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và
đường nẻo của Ngài không giống với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải
chăng đó chính là điểm đặc sắc, điểm thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây
nên. Sự thách đố này được diễn tả qua một bài thơ có nội dung như thế này:
- Khi ánh sao trên trời
chợt tắt, khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh
mới thực sự bắt đầu: để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ,
để dựng lại những gì đã gãy đổ. Người đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân
được giải phóng và hòa bình thực sự trở về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu
tiên cho tới ngày hôm nay, trải dài hơn hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của
Thiên Chúa được biểu lộ nơi hài nhi Giêsu, không ngừng làm nổ tung và biến đổi
bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy đã san bằng mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ
mọi bất công. Sức mạnh ấy đã giành lại những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em.
Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù oán...Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là
sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm Giáng Sinh đã tác động như thế nào đến bản thân
và đến cuộc sống riên tư của mỗi người chúng ta?
27. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui.
Những tình tiết chung
quanh sự việc Đức Giêsu Giáng Sinh là nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát
thông thái, là cảm hứng bất tận cho những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng
thượng. Những nhà uyên bác muốn xem bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự
trong đó thực tế lịch sử được thích ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ
ở những công thức kinh điển Cựu Ước. Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra
trong ký sự ảnh hưởng của thuyết hiện thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính
chất thần linh, khi thuyết này được áp dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến
trong nhân loại. Dù sao, những công trình khảo cứu bác học và sự suy niệm
thiêng liêng cũng gặp nhau ở điểm cùng xác nhận tính chất chắc chắn của những
sự kiện sau đây: bà Maria và ông Giuse đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế
đã Giáng Sinh, cũng tại đây những kẻ đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao
này.
Thánh Luca viết bản văn
này khoảng thời gian rất lâu sau biến cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông
thì sự kiện Phục sinh và Hiện xuống đã xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh
nguyện theo sát kinh nghiệm thiêng liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã
tuyển trong khối tài liệu phong phú về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều
nào hợp với kinh nghiệm nhất: Vinh danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban
cho loài người dưới thế đã được thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện
phụng vụ, chính bản kinh này bắt nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt
qua và Hiện xuống. Ngày nay khi chúng ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử
Đức Giêsu, điều lợi ích cho ta là chớ lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con
Chúa xuống thế làm người, để nhờ tác động của thần trí Người, Đức Kitô thực
hiện trong Giáo Hội sứ mạng làm vinh danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em
Người. Xin lấy một ví dụ thực tế để gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải
tội, và tham dự sốt sắng thánh lễ tạ ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp
Giáng Sinh. Ngoài ra, thi vị hoá ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo
phủ ngoài. Chúng ta có thể dừng lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai
đến bảo cho những mục đồng biết: Ta loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó
cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn dân. Đây là một niềm vui đáp ứng một hy
vọng. Từ bao thế kỷ; não trạng Israel được duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn
sứ, dựa vào niềm trông đợi Đấng Cứu Thế sẽ đến. Niềm vui này cũng là niềm vui
chung cho toàn dân, chỉ có thể xuất phát từ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần
mang đến cho những ai có tâm hồn như trầm xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô
mà Thiên Chúa hứa ban cho trần thế. Điều này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn
ta, có dọn dẹp chuẩn bị một chỗ cho niềm vui được Thiên Chúa loan báo không?
Chúng ta có những ước vọng nào? chúng hướng về đâu? Trong chúng ta có hay không
một chỗ dành cho sự mong mỏi đợi chờ Chúng ngự đến để Người tác động mạnh hơn
nữa? Thiên Chúa không thể loan báo cho chúng ta một niềm vui, nếu chúng ta
không cần đến Người. Tuy nhiên, nếu nhờ đức tin mà chúng ta phát hiện và ngẫu
nhiên cảm thấy điều sau: chỉ Thiên Chúa mới có thể ban phát tràn đầy ơn phúc
cho chúng ta, thì ta phải hiểu rằng chính đức tin chuẩn bị chúng ta tiếp nhận
những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu
Thế được sinh ra cho anh em. Dù cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách
phải nhận định điều này: đời sống cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu
tan bản thể. Cam phận hay nổi loạn, cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến
cho nhân loại phương thế hữu hiệu để vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta
tôn Người là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế được các thiên thần loan báo không chỉ
đến phải cứu con người khỏi định mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự
sống của Thiên Chúa. Não trạng thời hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số
người nào đó đành chịu rơi vào cõi chết – và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng
nộ. Là tín đồ của Chúa, ta hãy ý thức rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự
can tâm nhận lấy hư vô. Mặt khác ta hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một
niềm riêng tư của mình, chứ đừng có vun tưới cho những sự nổi loạn vô ích và
ngu dại. Hãy hiệp thông với hành động của Chúa Cứu Thế chúng ta.
28. Thiên Chúa làm người
vì chúng ta – Noel Quesson
Đêm Giáng Sinh, cả gia
đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là
một câu chuyện huyền thoại, Thượng Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con
đều đi lễ, một mình ông ở nhà, ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có
tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao
đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ
mưa hắt vào nhà. Những con chim bay vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn
tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi
hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông
ráng gọi và ra hiệu. Những con chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng
vào các khung cửa kính có ánh đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình
sẽ dẫn cả bầy chim tìm được nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu
ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những
chim sẻ không hiểu ý ông. Vì thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người,
cần nói tiếng con người, sống cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa.
Có như thế, những ý định, những bài học của Ngài mới được con người thông hiểu
và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn
việc con người trở thành một chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở
nên một con chim để lãnh đạo bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên
Chúa, để dạy dỗ và đưa con người đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng
Sinh dạy ta là bài học khiêm tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước,
mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu
mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng
bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh
đồng tạm trú trong một hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm
vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu
Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và
mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón
chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu,
ngay cả những người đạo hạnh cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với
các mục đồng, những người nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh
quang tỏa sáng, đó là dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa
thường xuất hiện nơi đền thánh. Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo.
Chúa tự nhận mình vào số những người nghèo khó: "Việc gì các con làm cho
một người nhỏ bé nhất, là các con làm cho Ta".
Thiên thần loan báo một
"Tin Vui", một tin vui cho toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng
Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa. Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ
khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu
Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng dấu hiệu thiên thần đã chỉ: "Một em bé
sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ". Phải đơn sơ khiêm tốn, không được
khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng như một thức ăn,
để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình
xuống làm người, để dẫn đưa con người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
Xin giúp chúng con theo gương Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người,
trở nên anh chị em của mọi người trong xã hội hôm nay.
29. NOEL: Yêu thương
Vào năm 1994, hai nhà giáo
Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện
mồ côi, và kể chuyện Chúa Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc
sung sướng há hốc mồm ngồi nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho
các em vật dụng thủ công để làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm
Máng Cỏ, họ ngạc nhiên khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có
đến hai bé sơ sinh nằm trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ,
nhưng bình thản, họ mời Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ
Misha kể rất thông suốt, rành mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho
đến khi hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ
sinh Chúa Giêsu và đặt trong máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi
Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em
thưa: Con đâu có cha, có mẹ, con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em
ngại ngùng: con đâu có quà gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong
muốn được ở với Bé Giêsu, nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em
có: Hay là con ôm Chúa cho Chúa ấm được không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai
cho tôi cả. Thế là em nhảy ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm.
Chúa Giêsu cũng giang tay ôm lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa
nói Misha vừa lấy tay chùi mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc
hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những
Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta
là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta
đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật
các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa
lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các
nước tân tiến, giàu sang cũng đầy kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì
không có căn nhà để ở, không tìm được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay
giữa bốn bức tường được cách hàn, cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa
những trái tim được insulated - cách biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi
chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,... bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em
ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ
con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em
ấy chính là người trong nhà bạn thì đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng
con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời, sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để
không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con
tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng
ta, luôn luôn!
30. Vinh danh
"Vinh danh Thiên Chúa
trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương". Nhìn vào bất cứ
một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ
giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát
tung hô của các thiên thần trên hang đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn
vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất... còn
biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu
chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta
còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa
phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha
chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy
tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta,
nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng
những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu chúng ta còn sống với người khác
và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa,
bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội,
bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh
Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội và xã hội hình ảnh sống động của
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của
Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề "Bình an
dưới thế cho loài người Chúa thương" thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta
biết: muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là
lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần
thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải
toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta
chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói:
"Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn
nạn". Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài
đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc
phúc của các thiên thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào
kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người không có bình
an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên
ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi
thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học
viết: "Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù
có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì,
mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa". Đó, một khi con tim đã bất
an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy,
thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng
tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa "Tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ".
Hôm nay ngày Chúa Giáng
Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn,
từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang
xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất
an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và
người đó có còn bất an với nhau không? Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt,
hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né? Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao
gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt,
hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ nhau... có gia đình đang gặp chiến tranh nóng
loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo "trâu bò
húc nhau, ruồi muỗi chết oan". "Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ
non", chúng ta là những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau,
đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm,
cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang
ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ
cho kỹ hai chữ "bình an" để sống cho mình và giúp người khác cùng
sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói
"Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa",
xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện
diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem
họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chung con biết từ bỏ mọi địa vị, khả
năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an
thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh
em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo,
danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn
được sống trong bình an của Chúa.
31. Ai thực sự mừng lễ
Chúa Giáng Sinh
Chắc bạn cùng đồng ý với
tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của
thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng
để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít
người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh
trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ
Giáng Sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu
nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện
đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên
thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần
hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm
yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào
thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì?
Thiên thần hát rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho
người thiện tâm". Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa?
Và nếu hiểu "thiện tâm" là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người
thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm
mất ý nghĩa của lễ Giáng Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để
hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh
thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng
để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những
dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến
Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất
tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên
chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra,
lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước
này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim
trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Khúc hát thiên thần:
"Bình an dưới thế cho người thiện tâm" không có được trên chính quê
hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca
nhạc, có thể là những bài ca rất giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca
sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa
không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm
nay ra khỏi nhà để vui đêm hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn
có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng
những thú vui vô giá mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết
bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân
khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm
hội Giáng Sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian
nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi
những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm
hội Giáng Sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của
mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người
Công giáo, đêm Giáng Sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm
kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa
Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ
Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong
tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới
có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là
những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo
toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn
xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi
thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng
thánh lễ Giáng Sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT
ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện
tâm".
32. Lễ Giáng Sinh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn khám phá ra cha
bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng
bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý
giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào
đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của
Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài
phải rời Nagiarét vào Bêlem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong
chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại
để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên
Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào
về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang
lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng
xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu
tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như
thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với
quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận
lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên
trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu
Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa
suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu
đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải
hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy
Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã
thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và
nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình
cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc
hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa
trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự
tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại
chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội
lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn
đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp
đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên
Chúa... thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không
thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí
của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi
dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng
đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và
nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của
đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã
đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên
Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng
Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi
núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái.
Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường
ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải
dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm
ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria
mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi
những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối
xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông
bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể
đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của
con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh
con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch
lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là
khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn
không phải! - Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan
tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự
quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có
lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa
buộc những «người của Ngài» phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn
những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh
quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại
rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa
coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại
không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài
trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi
được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng
đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn
ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương
lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con
cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút
hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé,
giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây,
thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10,
hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại
3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên
Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy.
Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý
nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng
của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu
trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con
mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục
nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một
căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau
khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục
nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có
thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có
quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh
quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện
của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ
hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng
ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi
chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ
không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là
lạ. Nhưng người Kitô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ,
người được Chúa chọn, được mang danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi
gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô
đã phiền trách: «Tôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo
Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những
trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn,
vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì
anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra
thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh
quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị
của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý... con phải vui mừng
vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã
từng thương Đức Giêsu và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được
đau khổ» chứ không phải «con bị đau khổ»!
33. Tìm kiếm
Chuyện kể rằng, có hai
người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại
sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá
quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc
quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa.
Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm,
nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang
lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung
tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng.
Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy
cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí
mà anh đã tìm được là gì, khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con
người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt
lên: - Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì
chính Người đã đi tìm tôi. "Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng
ta". Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính
Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã
phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất
trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô
phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên
đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con
người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: "Một hài
nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng
ta".
Con người không thể lên
tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để
cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con
người trở nên con cái Chúa: Thánh Gioan viết: "Những ai tin ở Người thì
Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa".
Giáng Sinh là mùa tặng
quà: "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con
người". Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ
cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng
cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những
kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất.
Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một
vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong
đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban
không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: "Kitô
hữu là người trao ban chính bản thân mình".
34. Món quà vô giá
Trong sinh hoạt của đời
sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là
một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng
đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn
tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước
muốn hoà bình của nhân loại trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy
từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch
Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp
Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là
một lời mời gọi, một xã hội sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn
sự sống như quyển Tân Ước mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo
Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov, cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có
ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả
những gì mà Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội
đã từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm,
Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho
xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.
Đối với xã hội:]
Tiên tri Isaia và Thánh sử
Luca cho chúng ta thấy quang cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than,
bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà
hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã
bao phủ vinh quanh Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh
giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ
lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực,
xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
Đối với gia đình:]
Biết bao gia đình cô đơn,
nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả
Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa",
vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của
nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào
đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống
thân phận của kẻ hành khất, ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên
Chúa đã xuống thế làm người trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi
loạn chống đối, chỉ biết vui sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ
thân phận nghèo hèn của họ, đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
Đối với cá nhân:]
Sống trong một thế giới
đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên
Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là
cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát
khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở
đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của
chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta
niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong
mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên
Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng
ta.
Phần chúng ta, là những
người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi
Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với
tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng
quang, thành những người tôi tớ mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn
11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến
giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban
cho chúng con tất cả, nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em
chị em chúng con? Chúng con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ
những thống khổ anh chị em chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng
con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội
lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy
trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn
mãi. Amen.
35. Giáng Sinh: Ánh sáng
Vào một đêm kia, nhà văn
Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc
đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc sáng trong tay, chạy đi thắp
từng chiếc đèn này qua chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin
không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một
vệt dài ánh sáng người ấy để lại đằng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin
đưa ra một nhận định hết sưc thâm thúy : "Đây là một minh họa tuyệt đẹp về
người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng
bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào
chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình".
Giáng sinh là một biến cố
vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh
thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài
Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối,
nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết :
"Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi
người".
Thiên Chúa là Đấng quyền
năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài,
con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình
xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng chí tôn. Vậy
mà, con người tội lỗi chưa kịp lên tận trời cao để xin tạ tội, thì Đấng Thánh
vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, để
cứu chuộc và yêu thương họ hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại
hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng,
chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết : "Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời". Hài Nhi Giêsu chính là ánh
sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng
tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia : "Dân đang lần bước giữa tối
tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay
được ánh sáng bừng lên chiếu rọi".
Mang thân phận tội lỗi,
con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói
chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, ánh
sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào
tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là
mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết :
"Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng
hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết".
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời
đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là
nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên
sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Anh sáng của Hài Nhi Giêsu
khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu
tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người
phán : "Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng
tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống".
Mừng lễ Giáng sinh chính
là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần
gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng sinh chính
là bắt chước Gioan, làm chứng cho ánh sáng : là chiếc đèn soi đường cho thế
gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng sinh chính
là thực thi những điều thiện hảo, vì "ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và
không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách".
36. Bài giảng của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II
(Lc 2,1-14)
HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ
ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
***
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã
Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời
loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh
thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai
đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn
sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm
nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta".
Dân Kitô đang tỉnh thức,
toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày
này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng:"Hôm nay Ðấng Cứu
Thế Giáng Sinh cho chúng ta". Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh
không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Ðêm Thánh này một cách mạnh mẽ
đặc biệt. Ðây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn
năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm
khởi đầu mới của lịch sử. "Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa
chúng ta".
Ngày hôm nay trong đêm cực
thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô,
Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ
cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của
Ðấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một
lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự
Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu
rỗi.
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã
Giáng Sinh cho chúng ta. Ðêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm
của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua
thời gian, trong cung lòng của Ðức Nữ Ðồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một
máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Ðấng là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự
sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong
chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách
tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ
của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những
điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh
ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm
hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Ðịa, tâm
trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính
trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui
không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là
thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn
ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong
đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của
toàn thể Giáo Hội đối với họ.
Thưa anh chị em rất thân
mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh
chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung
động vì số phận của toàn vùng Trung Ðông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng
nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới
Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời
loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên
trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương".
Niềm hy vọng của chúng ta
không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những
gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Ðấng ban hòa bình cho thế gian Giáng
Sinh. Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong
máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ
cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu
đài mà Ðấng Cứu Chuộc sinh ra, Ðấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời
và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài
thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không
bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa
tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao
anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng
con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở
nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ
vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng
con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu
nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn,
phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh
sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn
những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.
Ðức Thánh Cha kết thúc bài
giảng của Ngài với lời nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa
Bình, Ðấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội
Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
(Bài giảng Lễ Giáng Sinh
của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II)
37. "Emmanuel, Thiên
Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
Lễ Noel là lễ của chia sẻ,
lễ của bác ái. Chia sẻ không chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn
chia sẻ tình người cho anh em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống
cần cơm bánh để lớn lên và cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó,
mà khi nhập thể làm người Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy
nga, trong hoàng thân quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia
đình lao động bình thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con
người nghèo đói cơ hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã
từng nói rằng: "Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời
là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần
truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón
ân cần". Ngài đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết
vì Ngài mà biết thương nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà
hy sinh cho nhau, mà đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời
hôm nay vẫn còn đó những con người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu
cảm thông, những cái nhìn tẩy chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên
Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng
ta, nhưng chúng ta vẫn cố tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi
anh em của mình một cách bất khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là
xúc phạm đến Chúa, thế nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì
Chúa mà sống khoan dung, tha thứ cho nhau. Ðôi khi, chính cách đối xử bất khoan
dung đó đã khiến anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong
một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi,
trộm cắp được người đời đặt cho biệt hiệu: "Hiền bụi đời". Với thành
tích, trộm cắp và gây mất trật tự thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời
gian anh cải tạo là thời gian xóm làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi
không có anh. Cho đến khi nghe tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời
gian dài trong trại giam. Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu
người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa
nẻo để chống trộm. Hôm ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước
vào một cuộc sống mới để cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao
người khác. Ðối với hắn, dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui,
hắn tiến về phía Dì Năm hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những
người dân trong xóm. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi
người im bặt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo
lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn
khai: "Vì muốn trả thù đời".
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp
tục cuộc sống trộm cắp vì sự loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận
trong cuộc đoàn. Anh bị khước từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan
dung của thôn xóm đã tạo nên một Hiền bụi đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng
sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở
giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp
đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái
nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài
những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài.
Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm của tình thương chia sẻ với tấm
lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng năm xưa.
Nguyện xin Ðấng Emanuel
chúc lành cho những nghĩa cử yêu thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận
những hy sinh nhịn nhục và bác ái vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành
cho chính Ngài. Và cầu chúc cho mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là
đón nhận Ðấng Emmanuel ở cùng chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau
những nghĩa cử ấm áp tình người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.
38. Bài thánh ca hát mừng
Chúa Giáng sinh
(Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc
2,1-14)
Lễ Giáng sinh có thể nói
được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân
loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi
mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng
chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là
một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên
Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người
đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu
nói ngắn gọn như sau: "Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi
Lời đã hóa thành nhục thể" nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta.
Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài.
Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000
năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau
trên khắp thế giới. Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất
cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt
đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng
ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và
nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của
Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng
sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng
lời nói, mà Ngài còn nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với
chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy,
Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại,
Ngài trở thành thân thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời
này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh
thiêng bất khả nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng
mỗi con người sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu
cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên
Chúa, cũng đều là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn
khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài,
cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách
đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn
trong một không gian, một thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã
không hề là một người chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia
đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa.
Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của
Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp
tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một
lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh
là khi chúng ta để cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có
lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của
chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý
nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua
xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao
quý của Thiên Chúa trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng
sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát
mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là
khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên
Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ,
hành động và cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như
bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở
thành âm nhạc cho mọi người.
CHÚ GIẢI
1. Chú giải của William
Barclay
ĐƯỜNG VỀ BÊLEM (Lc 2, 1-7)
Trong đế quốc Rôma có
những cuộc kiểm tra dân số định kỳ nhằm hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để
tìm ra những ai đang ở tuổi làm nghĩa vụ quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa
vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra dân số ở xứ Palestine chỉ có mục đích chính là
đánh thuế. Về những cuộc kiểm tra dân số, chúng ta có được những thông tin xác
đáng về những gì đã được thực hiện tại Ai Cập, và gần như chắc chắn rằng những
gì đã được thực hiện tại Ai Cập cũng thực hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần
của tỉnh Syri. Những thông tin về các cuộc kiểm tra dân số được tìm thấy trong
các tài liệu viết trên giấy chỉ thảo phát hiện được trong các lớp cát bụi tại
các thành thị, làng mạc Ai Cập hoặc dưới lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm tra dân
số như vậy cứ 14 năm diễn ra một lần. Chúng ta có được các tài liệu kiểm tra
dân số từ năm 20 SCN đến 270 SCN. Nếu chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì
việc kiểm tra dân số đề cập ở đây hẳn đã diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là
năm Chúa Giêsu được sinh ra. Có thể Luca đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ
thực sự làm tổng đốc xứ Syri vào năm 6 TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các
miền đó từ năm 10 TCN đến 7TCN, và việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời
kỳ thứ nhất này. Các nhà phê bình thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều
phải về sinh quán của mình để đăng ký không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc
lệnh của nhà nước từ Ai Cập như sau: "Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ
Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng đã đến kỳ làm sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết
thảy những ai, đã vì bất cứ lý do gì mà hiện đang cư trú ngoài địa phận mình,
phải trở về quê nhà, để có thể thi hành lệnh kiểm tra dân số theo quy định, và
cũng để có thể chăm lo việc cày cấy đất ruộng mình". Nếu đó là trường hợp
tại Ai Cập thì cũng chính là trường hợp tại Giuđê là nơi còn giữ kỹ những gia
phả dòng tộc và đàn ông phải về bản doanh của bộ tộc mình. Đây thêm một bằng cớ
giúp ta hiểu biết hơn về sự chính xác của Tân Ước.
Con đường từ Nagiarét tới
Bêlem dài 128 dặm, những tiện nghi cho khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên
phương đông thời bấy giờ giống như từng dãy chuồng ngựa có cửa mở ra một cái
sân chung. Mỗi khách trọ tự liệu thức ăn cho mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn
cho súc vật và một bếp lửa để nấu nướng. Có đông người quá nên không còn chỗ
cho Giuse và Maria, thế nên con trai của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung
đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã. Trước tiên người ta bọc hài nhi trong tấm
vải vuông rồi quấn băng dài chung quanh mình nhiều vòng. Chữ được dịch là máng
cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó là một chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán
trọ không còn chỗ tượng trưng cho những gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi
có chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá. Ngài tìm một lối vào trong những tấm lòng
chật chội của loài người mà không tìm được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm,
mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.
MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (Lc
2, 8-20)
Một điều lạ lùng là câu
chuyện cho chúng ta biết bao lời báo tin đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các
người chăn chiên. Vào thời bấy giờ, giới mục đồng bị những người chính thống
coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi
lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ
quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế, giới chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ
điệp của Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng.
Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng
và chiều đều có một con chiên không tì vết làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào
cũng sẵn có của lễ toàn vẹn và không tì vết ấy, các quan chức cai quản Đền Thờ
nuôi riêng những bầy chiên của họ, và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem.
Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên
dành làm của lễ trong Đền Thờ. Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy
chiên của Đền Thờ lại là những người đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên
Chúa là Đấng xóa tội lỗi thế gian.
Chúng ta đã biết khi một
bé trai được sinh ra thì các nhạc sĩ địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng
bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu đã sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì
thế chi tiết đã không được thực hiện. Thật vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sĩ trên
trời thay thế các ca sĩ dưới đất và các thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa
Giêsu là những bản nhạc mà các ca sĩ trần gian không hát nổi.
Qua những lời Kinh Thánh
này, chúng ta phải suy tưởng đến vẻ đơn sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của
Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ nghĩ rằng nếu Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài
sẽ sinh ra trong một đền đài hay một dinh thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông
vua thường khiến triều thần lo ngại vì ông hay cải trang để trà trộn vào dân
chúng. Khi quần thần yêu cầu ông đừng làm thế vì lý do an ninh, thì ông trả lời
"Trẫm không thể trị dân nếu trẫm không biết nhân dân ta có một Thiên Chúa
hiểu thấu đời sống chúng ta, vì Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, không đòi
hỏi gì khác hơn một đời sống bình thường".
2. Chú giải mục vụ của
Hugues Cousin
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ
tiến trình song song. Thực vậy, có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh
trước. Đối với Người Con của Đức Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra,
trong khi việc cắt bì và đặt tên ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này
ngược với trường hợp của Gioan. Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc
cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc
rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10).
Và nhất là, đối với Chúa Giêsu, cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển
đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc
kiểm tra dân số, hành trình của cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ
của Xêda Augustô gây khó khăn về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho
tiến hành kiểm tra dân số xứ Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp
của Rôma; điều đó đã gây ra cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có
Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với
mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan
tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc 7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi
rồi –Người sinh ra dưới triều Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm
4 TCN. Như vậy Luca đã lầm khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký
Chúa Giêsu vào lịch sử thế giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và
cũng tỏ bày cho thấy Thiên Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ,
Thiên Chúa còn sử dụng các luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin
Mừng ở Rôma... nhất là điều đó đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái
cớ bởi vì những cuộc kiểm tra như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không
làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống
(x. Mt 2,1) Luca biết rằng con trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm
này cho phép nhấn mạnh một lần nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy
nhiên, Luca không trích dẫn sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm
thấy những trích dẫn rõ ràng ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành
trình không phải chỉ là Bêlem mà chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng
trọ chật chội đến nỗi phải đặt em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này
được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của
sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng
máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa
công thức thần học: "(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn
tất)", ông nói đến con trai đầu lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong
Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải
cho các mục tử (cc. 8-14). Tại sao những người làm một nghề như thế lại được
đón nhận mặc khải này? Hẳn là có một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề
tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11;
17,15), nhưng Luca không nói rõ về chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là
các mục tử ở Palestin vẫn bị mang tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ
bất lương và trộm cắp. Sách Tamud Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị
coi là kẻ tội lỗi: "Những mục tử và những người thu thuế thì khó mà sám
hối được". Những người bị khinh dể ở cấp bậc thấp nhất trong xã hội lại là
những người đầu tiên được nói đến nhờ việc đản sinh của một em bé có mẹ là một
người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo (4,18).
"Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho những người chăn chiên tội lỗi
nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel); con trẻ sơ sinh đã là người sẽ
đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc.
9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở những trình thuật về việc báo tin cho ông
Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên
Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel, việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin
Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ
sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi,
là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ. Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng
niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu
thứ nhất ở môi trường lương dân để đi đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như
vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực
hiện sau này đã được mặc khải cho các mục tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở
trong hai trình thuật báo tin, nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì
rất trái ngược với tước hiệu Kitô học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy
sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ
chứ không phải là trong một chiếc nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có
thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có
thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao
dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị
Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với
những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi
của một nhóm đông vô kể của các thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa
tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra
quyền năng của Thiên Chúa, Đấng, qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ
đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng
nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận
hồng ân của Thiên Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu
8-14 tập trung vào những vị sứ giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen
có tính cách phụng vụ. Tin Mừng từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử
trước khi họ loan truyền cho dân. Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt
thấy được bị hạn chế tối đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử
ở trong tư thế thụ động; họ không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó
thuật lại ba phản ứng (cc. 15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những
người nghe họ kể lại và cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy
những sự việc như thiên thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên
thần; khi nghe họ dân chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63),
như cha mẹ của Chúa Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi
từ máng cỏ trở về, họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh
Thiên Chúa (xcc. 13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận
(câu 19 trong đó dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết
rằng con mình sẽ là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là
Đức Chúa; từ các mục tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là
Đấng Cứu Tinh. Nhưng một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức
Maria suy nghĩ về tất cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu
hết ý nghĩa như chương 2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua
cảnh sau: như đối với người con của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường
như quan trọng hơn nghi thức cắt bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời
sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là đối tượng của một khai triển dài đối với vị
tiền hô, nhưng ở đây lại không phải như vậy.
3. Chú giải của Fiches
Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO
CÁC MỤC ĐỒNG
(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra
đời...
Trong phần mở đầu của tác
phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên
không theo nghĩa hiện đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy
cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức
Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với
"sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên
hạ." J. Potin suy diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường
diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên
chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với
cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên
chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử
có thật", Centurion tr. 93).
- Vì muốn nhấn mạnh sự nối
tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập
đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse
đi về Bêlem "thành của Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà
và dòng dôi Đaviđ".
Chính tại Bêlem "
Maria vợ ông đang có thai" sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách
giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng
Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu
lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt
vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho
họ trong "phòng tập thể": (sau này chúng ta sẽ gặp lại "phòng
tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm
tối".
Trái với sự thanh vắng,
bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây "trong vùng lân
cận", đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố
vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận
ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp
người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn
thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang
tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở
Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó
mà ăn năn trở lại". những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang
cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa
sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ " (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn
mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra
là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ " (15, 2) ("Tin
Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
- Sứ điệp mà "các
thiên thần của Chúa" mang đến cho họ là một "Tin Mừng"
(Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho "Toàn dân".
Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu:
"Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ", "Chúa " đạt được sự
viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên
Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng Mêsia" (Kitô),
"Chúa", ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục
sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô
(Cv 13,33...).
- "dấu chỉ" cho
các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, "bọc tã nằm trong máng có",
để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã
hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: " Kẻ trước hết sẽ
nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được
thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc
tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn
liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu
chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của
Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu
("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học", Cerf, tr. 36).
- Lời tạ ơn "đột
nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn
và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số
của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên
Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người
Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa,
Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự
"bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật
chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng
là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về
với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã
xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó,
họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu
cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai:
Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Từ Bêlem đến Phục
Sinh"
(A.George, trong
"Assemblées du Seigneur", số 10, tr. 6f' 67).
"Thánh Luca muốn diễn
tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu
theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ
ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi
tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính
là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu,
từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như
Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày
Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu
chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các
tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu
chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả
phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức
Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như
của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc
biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm
được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả
sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong
thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng
ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế
thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng
không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu
biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở
Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là
Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự
nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái
thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài
nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại
giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ
mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo
binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu
thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang
của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự
hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong
tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ
diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời
Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh
quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự
hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn
đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của
Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và
Phục sinh, "chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C
r 12, 9 ) .
2. "Đã 2000 năm"
(Mgr. F.Favreau trong
"Mùa Vọng năm 2000", Documents " épiscopat, số 14, tháng 10, 1
996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra
giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp
nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi
trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con
mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ
đây,
Chúa đang hiện diện mọi
ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường
tồn,
Một niềm phó thác, con
luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm
tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và
anh em
Vào trong nguồn suối êm
đềm
Của tình yêu Chúa ở trên
cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi
thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần
dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho
muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy
vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi
thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh
thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng
trình,
Anh em, đến với mối tình
tri âm.
Biến con thành thợ Phúc
Âm.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI
PHÀM
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Lời Tựa là một Thánh
Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng
bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham". Luca
thì bắt đầu "trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta "
(1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức
Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô
(như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề
đầy ý nghĩa: "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa".
Về phần Gioan, ông bắt đầu
Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng
thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu
cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như
đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải
thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời
mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của
Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ
tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài
là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết
rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi
vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi
trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở
định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón
nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể
ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến
giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày
trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa", "
("L Evangile de Jean", Centurion 1 992, trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình
của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự
triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức
Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên
"Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu
sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải:
xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như điểm hoàn tất của tất cả
mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con
đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài
người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói
đến "Ngôi Lời Thiên Chúa" (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước)
trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt
với Cha: và thiên tính của Người: "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và
Ngôi Lời là Thiên Chúa".
Sau đó thánh thi công bố
tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa:
"Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được
tạo thành". Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ
vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa,
Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là
Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con
người: Người
không chỉ là Đấng tạo
thành, Người còn là "Sự Sống" và "Ánh Sáng". Người không
chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng
sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng:
Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn
con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy
Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh
trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu:
"Có một Người..."
Sự Sáng đến thế gian đã có
một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người
này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho
Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin
vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: "ông không
phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng".
- Anh Sáng đã đến trong
thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến
thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo
thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế
gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người".
Còn trớ trêu hơn nữa, là
"gia nhân của Người", dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã
không đón nhận Người".
+ "Còn những ai đón
nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con
Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên
người phàm.
+ Gioan đã viết
"người phàm", theo đúng chữ là "trở nên xác thịt"; từ
"xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý
nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ "Người cư ngụ giữa
chúng ta" ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả
của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở
giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng
bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem,
giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22:
"Chúa nói về Đền thờ thân xác Người").
+ "Chúng tôi được
nhìn thấy vinh quang của người" trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan
quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm
chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc
khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao
giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi
cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết".
Jean Perron nhận xét:
"Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết
thúc bằng tư tưởng "Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là
dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào
cuối đời Người: "Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên
Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong "tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất
cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn
đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn
thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến
Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ
đến và ở lại trong người ấy" (14,23)" ("Lire de Bible", số
52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có
"động từ " thì không có nghĩa
("Bible du
Dimanche" trang 51 1-512).
(Trong tiếng Pháp,
"verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở
nên người phàm". Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt
được?
Thiên Chúa đã không sử
dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi
máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được
nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng
biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của
Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi
Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện
của Người: "Không ai đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ
nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ
đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các
nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một
lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời
cuối cùng" của Người.
Chỉ có Lời ("động
từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con
người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc,
nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ
có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng
mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của
Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời
Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm
tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong
"Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul.
trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt
đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội
Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong,
các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện
cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin
Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ
của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo.
Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này
là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân
loại.
- Khởi đầu là xác quyết
long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa
tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được
tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành". Gioan đã cả
quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng
tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ
lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi
Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng thế gian lại không nhận biết Người". Đó là xác quyết về mầu nhiệm
Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng
bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng.
Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự
do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng
ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa
cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã
đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người". Đó là số phận
của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ
nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại
của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của
ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế
và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả
mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã
là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất,
nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa
sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải
trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh
Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa".
Một bức hoạ diễn tả thảm
kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng
Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự
mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người
trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai
chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự
nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa
hai quy trình xem là trái ngược ("Célébrer" số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất
(1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài:
"Người", "trong Người", "nhờ người". Qua việc
dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời
với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người
ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ
do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách
này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi
ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn
con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải
hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu,
Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc
đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi
sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có
thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời
Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh
xưng "chúng tôi" để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như
tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan,
chương 1: "Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...?
Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự
thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong
niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa
Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi
đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này,
chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng
hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng
quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi
Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo
thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn
gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của
mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều
đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất
của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên
giống Chúa Con".
4. Chú giải của Noel
Quesson
Lc 2, 1-14
Noel là một cuốn sách đẹp
chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi
xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một
"chiêm niệm" nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một "nhập
đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt
trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda
Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế
nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) .
Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô,
tiếng Hỳ Lạp là "Sebastos", có nghĩa "xứng đáng được tôn
thờ". Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian"
như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết
bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng
thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu
tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel
đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm.
Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch
sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi
dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng
đất và công trình xây cất của dân chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu
cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên
quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên
miền Giuđê".
Giuse để cho các biến cố
hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy
những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng
trên những đường cong của chúng ta" . Và những biến cố là "những ông
thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín
rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn
tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với
một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi
là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca "giải
thích" biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là
"cứu Chúa" mà "một thiếu nữ Sion phải hạ sinh", "trong
một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa những người nghèo khổ, thuộc
"số nhỏ còn lại"... trong "thành của Đavít". Nhưng thực tế,
vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta
mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại
đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên Chúa nhận thấy, những
người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới
"kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới
chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu chấp nhận Người,
nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên
Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến
những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên
Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh
mình!
Nếu tất cả những điều đó
không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng
với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết:
"Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn
sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn
với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau
Maria vẫn là "trinh nữ" Vậy mà, cô lại "có thai"! Tại sao
ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên
Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với
đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi
thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha"
của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà
Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày
thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại
và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào
quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo
thành các ngươi theo "hình ảnh Ta" các người là những người cha,
người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu
chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt
độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng
giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần
nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt
nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những
lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên
chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để "nhận ra" cái tầm thường
Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân
loại vừa mới xảy ra " Từ giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con
người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với
số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở
"củng chúng ta". Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này
không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện
diện trong một "hang" bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống.
Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích!
Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa
không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ
của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực
nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149).
Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến.
Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những
người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng
cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel
muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những "người chăn chiên",
trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp
của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài
luật pháp". Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của
cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể
như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các
nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô
nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát
thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ
là hạng "quê mùa"!
Thế mà, họ lại là những
người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ
"bé mọn", những người "nghèo khổ" những loại người mà kẻ
khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ
ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra
đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ "huyền diệu"
chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý
tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác
định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại
nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì
vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện
gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh
quang" là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ
Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo.
"Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho
Thầy" (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như
thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng.
Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng
trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân".
Chúng ta vẫn thương nói,
ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động.
"Tiếng nói" của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe!
Nhất là đừng có ồn ào. Mọi "Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là
"Tin Mừng tin vui". Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui
này mang một tầm cỡ "phổ quát" cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài
khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh
em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều
lời. Lời "truyền đạt" của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay
vào điểm cốt yếu. Họ công bố "giấy chứng minh" đích thực của hài nhi
chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2.
Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử
dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn
sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì,
nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời
thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ
thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên
Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ)
Tính cách "Cứu Chúa" này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận
ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng
cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu
như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu
đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám
phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó
cách thực sự để làm của "ăn"! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều
Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho
những người bé mọn" (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm
hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên
binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên
Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực
hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
Sưu
tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét