CHÚA NHẬT 34 TN B – CHÚA KITO
VUA
1. Kitô
Vua
2. Vua
tình yêu
3. Một vị
vua khác thường – Guy Marin
4. Ai là
vua của bạn? – Charles E. Miller
5. Dung
mạo của vương quyền Đức Kitô
6. Vua Sự
Thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
7. Làm
Vua là làm chứng – ĐGM. Vũ Duy Thống
8. Đức
Giêsu Kitô Vua: phục vụ là cai trị
9. Nước
Cha trị đến - Gm. Arthur Tonne
10. Tôi
là Vua – Noel Quesson
11. Thuộc
về Chúa
12. Vua
vĩnh cửu
13. Vạn
tuế Vua Giêsu
14. Đứng
về phía sự thật
15. Vương
quyền tình yêu – Lm. Hồng Phúc
16. Hoàng
tử và người nghèo
17. Một
giải pháp cho nền hòa bình thế giới
18. Phục
vụ
19. Làm
chứng cho sự thật – Lm. Tạ Duy Tuyền
20. Vua
sự thật
21. Trung
tín
22. Danh
hiệu
23. Xét
xử
24. Suy
niệm của JKN
25. Chú
giải của Noel Quesson
26. Chú
giải của Fiches Dominicales
1. Kitô
Vua
Trong
lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra
hành quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất
quyền hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông
không còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước
Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử
một người với cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường
hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài
chưa bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã
có cơ hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra
trước tòa tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là
vua, tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra
thì Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói
với Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế
gian này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái,
nhưng quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả
lời muốn nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở
đâu? Ở trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở
đời sau? Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói:
Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như
các môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói:
Nước Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian
này. Bởi vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là
chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy
có nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay
giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực
trần gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia
kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương
quốc của Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những
con người tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người.
Bởi đó, những ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ
có tình thương mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người.
Một khi xác tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào
công trình xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo
nên nước Đức Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.
Thế
nhưng, không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt
và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm
bông kết trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô
đã lấy chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương
quốc Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế,
cây thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài
chọn cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng
của vương quốc mở ra cho mọi người.
2. Vua
tình yêu.
Ngày nay,
người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó,
chẳng hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo
các loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ
bóng đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là
vua, thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác
quyết mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì
Ngài đứng đầu trong lãnh vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy,
không một ai đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả
khi chúng ta là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là
một đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người
hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn
toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống
như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài đã hiến thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm
thông thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả
người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta:
Hãy nghiêm khắc với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm
vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi
mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không
đến để được phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu
chuộc cho nhiều người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống
tình bác ái yêu thương và phục vụ.
Và để cho
việc yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có
tính cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con
một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở
thành một giới răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu
thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng
kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc
yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu
đã không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như
thế. Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ
Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy,
đó là đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực,
trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót
như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm
người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần
ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết,
điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu
của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất
hạnh.
3. Một vị
vua khác thường – Guy Marin.
Vua chúa
trần gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng: Chúa Giêsu
Kitô không có nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền
mang hình ảnh của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán
vậy; Chúa Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh
sát, bom và súng đại bác, và sử dụng chúng khi cần, trong vườn Cây Dầu, Chúa
Kitô chỉ có hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm
lớn ở đời này cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ
đoạn, thậm chí đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô
không thể dùng phương tiện nào trong những phương tiện cấy, vì Ngài là Đấng
Thánh của Thiên Chúa.
Nếu Chúa
Giêsu Kitô không có chút gì trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể
thực sự xưng Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời chúng ta... "vương
quốc Ngài sẽ vô cùng tận". Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ
Gabriel loan tin cho Đức Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit; Ba vua thờ
lạy Ngài như một vị vua; suốt ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy
nhiên, các sách Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa
Giêsu đối với quyền làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm Vua,
Ngài đã từ chối. Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm
vua cả, Chúa Giêsu lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho
được vương quyền, trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến
dâng nó cho Ngài thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật: khi có thể dễ
dàng làm Vua, thì Ngài từ chối. Khi điều này không thể xẩy ra thì Ngài lại cố
đòi cho được. Chúa Giêsu quả là một vị Vua lạ lùng.
Chứng
nhân cho sự thật.
Trước mặt
Philatô, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Vua ở điểm nào: "Tôi đến để làm
chứng cho sự thật". Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu
rỗi của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi
lần bằng lời nói và và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài
thực thi quyền là vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời
vương giả, vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa
Giêsu chữa lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong cùi, nhưng hành động
này đối với dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã đến gần, tức là Thiên
Chúa đang can thiệp. Cũng vậy khi, bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ
là Ngài minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi
Ngài lui tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là
Ngài biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải
chết. Khi Ngài khóc thương Giêrusalem, Ladarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của
Chúa Cha đối với những nỗi khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm,
Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát,
buồn rầu, bị bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng
họ sẽ là những người đầu tiên được hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị
trói buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói với một lời giải phóng: "Ngày
sabat được đặt ra vì con người...". Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về đứa
con hoang đàng, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương
quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Làm chứng
cho sự thật bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái
chết. Vì những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì
làm chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen
thuộc, Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm
cho các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người
ta nói với một kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở
về lắc đầu mà nói: "Không tôi không thấy gì thay đổi cả". Kinh sư này
có lý, Chúa Giêsu là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết
là lòng con người. Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải theo các mối phúc
thật và từ bỏ các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột, bị
bách hại còn hơn là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ, thà khóc còn hơn
làm cho kẻ khác khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con
người biết Tin Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh vực
chính trị. Họ không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình
đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng người Kitô
hữu có một cái nhìn phê phán trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối
quyền bính chính trị, nhưng Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm
chính trị. Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta
sống theo chân lý của Ngài mà thôi.
4. Ai là
vua của bạn? – Charles E. Miller.
(Trích
trong 'Mở ra những kho tàng')
Vào năm
1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt
vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức
Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu
cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật
chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ
hai mươi.
Đức Giáo
Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh.
Sự nhận biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên
trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối
năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa
chúng ta và vẫn còn đang đến: "Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui
mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến". Đấng sẽ mang lại
vương quốc của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày
Phục Sinh chung.
Theo sắc
lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài
muốn làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần
như là những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không
được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn
mạnh là mọi người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần
làm việc. Người ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, "ngay cả những chàng
trai đánh giày" cũng như một sử gia đã nói "cũng lao vào chợ hàng
hóa". Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh
được.
Thất là
đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm
1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo
Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài
trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng
ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng
chất trong những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là
Vua, thách đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc
trong thái độ thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự
tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo
huấn và gương mẫu của Đức Kitô Vua.
Chủ nghĩa
thế tục nhấn mạnh rằng, đất nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi
hình thức của đức tin tôn giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo
lý tìm sự an ủi, vui thú và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời
sống. Chúa của chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân
đến thánh giá hy sinh nhưng là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi
dâm dật.
Trái lại,
làm nhân chứng cho sự khôn ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân
của Nước Trời. Họ trình bày cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh
phúc còn con đường tham lam là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và
những tạm bợ của những chủ nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng
tuyệt đối còn chủ nghĩa vật chất là không.
Kinh Tiền
Tụng ngày chúa nhật hôm nay tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc
đời đời, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện
và ân sủng, một vương quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương
quốc ngự trị mãi mãi.
Một lời
nài xin cho được trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày chúa
nhật hôm nay là thời gian thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua.
Theo hình thức đề nghị được rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể
trong lễ trọng này có thể dùng tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những
lời nài xin theo sau vị linh mục chủ tế của họ.
Chúng con
nài xin sự trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúng con
trân trọng vương quốc đời đời và phổ quát của Người.
Chúng con
nhận biết vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự sống.
Của sự
thánh thiện và ân sủng.
Chúng con
ước mong làm những gì chúng con có thể làm trong cầu nguyện và hành động.
Để mang
lại cho thế giới này vương quốc của Người. Một vương quốc của sự công chính và
tình yêu bình an.
5. Dung
mạo của vương quyền Đức Kitô.
(Trích
trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)
Đoạn Phúc
Âm hôm nay cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị
Philatô lên án tử hình. Để hiểu rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai
mức độ khác biệt. Khi Philatô nói lên tiếng 'vua', ông nghĩ đến một vương quyền
chính trị. Khi Chúa tự nhận là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người.
Chúng ta diễn giải rõ hơn. Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng
rộng lớn so với quan niệm của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình
ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết
rằng Người là Vua, nhưng không theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính
của người Do Thái. Vì thế, sau câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không
thuộc về thế gian này. Thật là một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị
kết án vì Người tự nhận từ 1 thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai
đến. Đối với Philatô, đó không phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do
Thái đưa ra một cớ khác, mà trớ trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không
muốn chút nào, là làm một ông vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án
theo hai thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế
gian, tuy nhiên Philatô nhận thấy Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý
Do Thái buộc tội Chúa vì lẽ Người tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn
đề pháp lý này lại chẳng liên quan gì đến Philatô.
Minh định
xong điểm rắc rối đó, chúng ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn
vinh điều gì?
1) Vương
quyền của Chúa làm chứng về sự thật.
Chúa
không phải là Vua của thế gian. Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian
Người làm chứng cho một thực tại thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa 'sự
thật' ở đây. Trong Phúc Âm theo thánh Gio-an, sự thật không chỉ là sự hiểu biết
của trí tuệ phù hợp với điều có thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến
trong con người. Con người do đó được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời
mình. Tuy nhiên muốn được như vậy, phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa.
Nghênh đón không chỉ bằng trí tuệ mà cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả
bản thể mình. Chúa làm chứng cho sự thật, bởi vì trong tư thế một con người
được thấm nhuần và biến hóa nhờ một cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị
với tất cả mọi người hãy tiến tới một sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó
là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ Người đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua
khi mà trong nhân loại, quá nhiều phen làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn
còn những kẻ nghênh đón 'lời chứng', nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư
hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm
ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi
Vậy
'thuộc về sự thật' là gì? Là có tâm hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do
Chúa đem đến cho loài ngừoi. Về thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là
sự ăn ở ngay thẳng đối với Lời Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong
Phúc Âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền
Chúa chẳng giống chút nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương
quyền đó trở nên hữu hiệu khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội,
trong đời sống thật sự, đạt tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và
về với Thiên Chúa, để rồi trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho
nhân loại nhận biết sự thật với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời
của Tình yêu.
6. Vua Sự
Thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Chúa
Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân
hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng
cách trốn đi. Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan,
cởi áo lót đường, cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì
quá thuận lợi. Thế mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn
hôm nay, phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ,
thân tàn ma dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang
xưng mình là vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái
chết, đối diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng
vương trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật
mà Đức Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc
trần gian. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài
cuộc đời này còn có một cuộc đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới
khác. Đó là vương quốc của Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc
sự sống vì sẽ không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức
Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta
biết vương quốc của Ngài "không thuộc thế gian này". Sự sống trần
gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được
vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật
mà Đức Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu
đuối nhưng vẫn hiên ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế
quốc La mã bao trùm thiên hạ, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là
nguồn gốc của mọi quyền năng như Ngài đã trả lời Philatô: "Ông có quyền
không bởi tự mình mà có, nhưng từ thành công ban cho". Thánh nữ Xêxilia
cũng nói: "Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự
nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi
kim cũng làm nó xẹp xuống". Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng
của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu không xưng vương khi tràn
đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân
chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín,
thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng
hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng
vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế
gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn
vào vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần
gian.
Sự thật
mà Đức Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối
diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên
Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần
gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết
vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: "Không có tình yêu
nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu". Dù
những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã
trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu
thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới
cứu được thế giới.
Đức Giêsu
đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến
thắng, Đức Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ
những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết
chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý
trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối
trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng
Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức
Giêsu là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc
về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu
muôn đời.
GỢI Ý
CHIA SẺ
1- Chúa
Giêsu cho biết gì về vương quốc của Chúa?
2- Chúa
Giêsu cho biết gì về quyền năng của Chúa?
3- Chúa
Giêsu cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận?
4- Muốn
sống trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
7. Làm
Vua là làm chứng – ĐGM. Vũ Duy Thống.
(Trích
trong 'VỚI CẢ TÂM TÌNH')
Không còn
nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày
nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không
ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi,
vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có
những nhà vua riêng của mình.
Thuật ngữ
"Vua" xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh
hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua
lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải
chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay
là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm
chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa
Kitô không làm Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi
tự ý cho treo tấm bảng "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái" lên đầu Thập
giá, Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông,
bất kể phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ
nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo,
đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể
xoá nhoà.
Chúa Kitô
không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có
lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình
ảnh của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng
đã từng trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau
phép lạ hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố
mình là Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy
mình còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn
muôn thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn
Người vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với
cái chết của Người trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã
được khai sinh không phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang
lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát
đã hình thành vượt trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công
cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một
triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là
Vua phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ
bởi chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: "Khi nào Ta bị
treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta".
Và nếu
theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của "Đấng đến
giữa mây trời" thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực
so với các vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp
mặt đất cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt
trên tất cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không
phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô,
mà chính trong tư thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật
lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian
xem ra thắng thế còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã
tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ,
nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự
chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc
bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm
nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một
người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để
trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc
về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại
mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người.
Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa
Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.
Dẫu vào
Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại
mới trong "sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu
thương và an bình" (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của
một đời lựa chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng
cho sự thật: "Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự
thật". Nếu sự thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình" như một kiểu nói
của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công
cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập
Thể, Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã
nhận vào mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng
chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ
có được khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của
"Người Tôi Tớ đau khổ".
Rõ ràng
là nơi Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời
mà bằng chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục
Sinh. Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy,
và làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và
chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và
viên thành.
Thảo nào
vương quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng
để mà thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự
để mà bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương
quốc trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được,
không phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm
chứng cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ
quát và vĩnh cửu.
Trong ý
hướng ấy, bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ
khi nào sống trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ
chết và làm Vua muôn vua.
3) Ai
thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô,
Người làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin
là: "tôn vương" Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra
thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm
tin vào vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức
Piô XI đã ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự
sống, nên chỉ khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng
là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.
Không thể
nhận mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại
nghiêng theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời
Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
Cũng
không thể nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào
đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như
coi thường nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo... càng không thể nhận mình sống
trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán
thù, ghen ghét, gian tham, bất công, gương xấu, tội lỗi...
Càng
không thể nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự
hiến thân một cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái
chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở
thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và
sống đạo một cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai
thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người
sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện.
Đồng thời, chính mình cũng cần nỗ lực "làm chứng" sao cho niềm tin
luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những
người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền
Chúa Kitô, là "tôn vương" Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng
là cùng với mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm
"quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô".
Ở Bãi Sau
Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển,
đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng
những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần
sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa
trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một
chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự
trong Vương Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy Chúa
Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương
Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi
quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân
cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
8. Đức
Giêsu Kitô Vua: phục vụ là cai trị.
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Truyện cổ
Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa
khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh
phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi
cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một tí thời giờ để
thăm họ. Nhưng dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến
của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười
rượi.
Ngày kia,
có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh
săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao,
và còn phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy
trở thành người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh
dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hòa giải những thù oán, và giúp đỡ họ
sống đúng với phẩm giá con người.
Bác sĩ
trẻ ấy chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với
thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ
họ.
Anh chị
em thân mến, Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Nhưng Ngài đã trở nên
giống như chúng ta, để có thể yêu thương và phục vụ chúng ta. Ngài đã tuyên bố:
"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và
hiến sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28). Trong Tin Mừng hôm nay,
khi bị Philatô tra hỏi: "Ông là Vua ư?" Chúa Giêsu không phủ nhận,
Ngài chỉ nói: "Chính quan nói rằng tôi là vua". Vua vẫn chỉ là một từ
ngữ gây hiểu lầm mà Đức Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói
đến Nước của Ngài. Ngài "sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài... trong
Nước của Ngài" (Mt 16,27-28). Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: "Nước
tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài
nhớ đến anh "khi Ngài đến trong Nước của Ngài", Chúa Giêsu đã không
từ chối: "Hôm nay anh sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi" (Lc 23,41-43).
Vào ngày tận thế, Ngài sẽ đến phân xử người lành kẻ dữ trong tư cách một vị Vua
(Mt 25,34-40).
Chúa
Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài đã được Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời
dưới đất (Mt 28,18). Nhưng Ngài đã sống như một người tôi tớ phục vụ. Trong
cuộc sống trần thế, Ngài vẫn luôn ý thức về vai trò quan trọng của mình trong
việc cứu độ nhân loại. Ngài biết mình là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời
Ngài là một sự phục vụ không ngừng. "Vua của các dân thì lấy quyền mà
thống trị họ, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân... Bởi lẽ, giữa
người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế
mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu bàn" (Lc 22,25-27).
Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực
khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa Giêsu là phục vụ, chứ không phải
là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ
của người nô lệ: "Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em,
thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau" (Ga 13,14). Với Chúa Giêsu, cử chỉ
đó là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính đích thực. Qua cung cách
của Ngài, Chúa Giêsu đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền bính. Quyền bính đích
thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho đến hy sinh mạng sống.
Cử chỉ
phục vụ cao cả nhất và khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên
thập giá. Cần chiêm ngưỡng vị vua bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm
vua của Ngài. Trên đầu Ngài có gắn tấm bảng ghi dòng chữ: "Giêsu Nagiaret
Vua dân Do Thái", được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp,
để ai cũng đọc được. Một vị vua lạ lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá.
Không vương miện, chỉ có vòng gai. Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc.
Không quan quân đứng hầu, chỉ có người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng
mạ. Một vị vua không có chút quyền lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của
vâng phục và yêu thương tha thứ tất cả. Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực
thẳm, vừa nâng Người lên cao. Chúa Giêsu trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con
đường thập giá, con đường tử bỏ mình để khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng
không phải là con đường cùng, mà là con đường dẫn đến vinh quang. "Khi nào
Ta được đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta" (Ga 12,3).
Vua Giêsu hôm nay vẫn tiếp tục thu hút cả vũ trụ nhân loại với Ngài. Nước của
Ngài đã được khai mạc và nước ấy vẫn lan rộng không ngừng nhờ có những người
dám "đứng về phía sự thật" và "nghe được tiếng Ngài mời
gọi" (Ga 18,37).
Nước của
Vua Giêsu không có trên bản đồ, bởi lẽ Nước ấy "ở trong thế gian này"
nhưng "không thuộc về thế gian này". "Ở trong thế gian",
nghĩa là không xa cách, nhưng hòa quyện với thế gian như men trong bột, như
muối ướp thức ăn. Nhưng "không thuộc về thế gian này", nghĩa là không
chạy theo những thần tượng của thế gian: quyền lực, tiền của, khoái lạc... Thế
gian sa đọa là thế gian chống lại Nước Chúa và cũng chống lại quyền lực của con
người. Thế nên, xây dựng Nước Chúa cũng là xây dựng một xã hội công bằng, bác
ái, tôn trọng con người. Chúng ta cầu nguyện: "Xin cho Nước Cha trị đến",
được mọi người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành tựu khi Chúa Giêsu Kitô được
mọi người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và
Nước Chúa Kitô là một. "Vào lúc tận thế, Chúa Kitô sẽ trao lại Nước cho
Chúa Cha, sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực sự dữ, để cuối cùng,
Thiên Chúa làm mọi sự cho mọi người" (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị
em thân mến,
Chúa
Kitô, một vị vua dùng thập giá ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở
cạnh sườn của Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối tình yêu luôn tuôn tràn cho nhân
loại đang khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu,
đó là món quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống
đích thực là người, con người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và
trao ban cho đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền
bính cai trị. Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các
người cầm quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào
vương quyền của Ngài trong Nước của Ngài, vì "Phục vụ là cai trị"
vậy.
9. Nước
Cha trị đến - Gm. Arthur Tonne.
Thánh
Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông
minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở
mấy năm. Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người
nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên
lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn
tiền không. Vị thánh trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.
Đi được
một quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở
lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối
họ.
Bọn cướp
ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả
tiền nong đã lấy của ngài.
Hôm nay
chúng ta tôn thờ Đức Kitô là Vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với
Philatô: "Vương quyền của tôi không thuộc về trần gian". Chúa Giêsu
nhận rằng Người là Vua nhưng không phải là Vua của các Vua.
Người
không phải là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự. Người không phải là một
ông vua giàu có, danh vọng và quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc
Người ở đâu? Vương quốc Người là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ hôm nay
trả lời các câu hỏi ấy.
"Người
hiến thân trên thập giá... Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại...
Người đã quy phục mọi loài dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của
Chúa. Một vương quốc sự thật và sự sống, một vương quốc thánh thiện và ân sủng,
một vương quốc công bình, tình thương và hòa bình".
Mỗi lần
chúng ta hành động vì những điều quý giá này: Chân lý, sự sống, sự thánh thiện,
ân sủng, sự công bình, tình thương và hòa bình, là chúng ta hành động cho Chúa
Kitô, làm cho Chúa Kitô là Vua của chúng ta.
* Sự
thật: Như Thánh Gioan Cantio, bạn hãy nói sự thật dù phải trả bằng mọi giá và
bạn phục vụ Chúa Kitô –Vua sự thật.
* Sự
sống: Chúa Kitô đến để chúng ta được sống, những kẻ theo Chúa phải phát triển
sự sống. Thí dụ: Bạn hãy làm mọi cái có thể, để ngăn ngừa sát hại hàng triệu em
bé vô tội vì phá thai.
* Thánh
thiện và ân sủng: Mọi cái chúng ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong
chúng ta. Thí dụ: Tham dự Thánh Lễ này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn
mạch sự thánh thiện.
* Công
bình: Khi chúng ta cố gắng khiêm nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với
chúng ta. Chúng ta bỏ phiếu bầu Chúa Kitô là Vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
* Tình
yêu: Mỗi lần chúng ta cố gắng làm đẹp lòng Chúa, giúp đỡ anh em chúng ta minh
chứng dấu chỉ đặc biệt việc phục tùng Chúa Kitô là Vua.
* Hòa
bình: Bạn hãy cố gắng xây dựng hòa bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc
về vương quốc hòa bình của Chúa Kitô. "Nước Cha trị đến" chúng ta cầu
nguyện trong kinh Lạy Cha. Trong ngày lễ Chúa Kitô là Vua, chúng ta thề hứa
phát triển trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng
liêng này để thực sự nhận Chúa Kitô là Vua.
Xin Chúa
chúc lành bạn.
10. Tôi
là Vua – Noel Quesson.
Đức Hồng
Y Deschamps, Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang
của vua Bỉ. Từ cửa sổ một cao ốc, Deschamps đứng xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc
diễn hành trang trọng của hoàng gia và đoàn tùy tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn
tất, các nẻo đường phố trở lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười
nói: Thế là một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi
không muốn phục vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi.
Và chàng nghĩ tới Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu
sĩ, một linh mục và một niên trưởng Giáo Hội nước Bỉ.
Chúa
Giêsu đã nhận mình là Vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án
người ta đang xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi
Chúa: Ông có phải là Vua không? Thì Chúa lại quả quyết Người thực là Vua. Danh
hiệu Vua có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước
hết, một vị Vua theo quan điểm chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách
thống trị và đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị Vua theo quan điểm
Đấng Thiên Sai mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị ngai tòa Đavid.
Người sẽ chiến thắng quân thù và giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế
quốc.
Còn khi
Chúa Giêsu nói với Philatô: Tôi là Vua, thì chức vị Vua ở đây lại hoàn toàn
khác biệt. Chúa là Vua mà không hề bó buộc ai theo mình, một vị Vua để người ta
bắt nộp mà không chống cự, không có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc
như vậy làm ngạc nhiên các chính trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa
Giêsu không phải một người yếu đuối, Chúa đã từng xua đuổi ma quỷ, đã triệt hạ
khổ đau bệnh tật. Người đã lên tiếng nạt sóng gió và khiến bão tố im lặng.
Người đã cải tổ Luật Do Thái với tư thế quyền uy. Tuy Người là Chúa và là Thày
chúng ta mà vẫn để chúng ta hoàn toàn tự do.
Chúa
Giêsu thực là Thiên Chúa: "Ai thấy Ta là thấy Cha". Chúa đến để thiết
lập một vương quốc nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu
ẩn như hạt cải nhỏ xíu nhưng rồi sẽ phát dậy men... như hạt lúa mì mục nát trong
đất và đem lại mùa màng tốt đẹp. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua theo kiểu
Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh Vịnh ca tụng
(Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho
"Nước Chúa trị đến". Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc
con người tin theo. "Người cho mặt trời soi chiếu cho người công chính và
kẻ bất lương, cho người vô thần cũng như cho các tín hữu" (Mt 5,43-48).
Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu mến Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo
lối Người.
Philatô
hỏi: "Vậy ông là Vua sao?". Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của
Chúa khác với quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô: "Ông nói
đúng, tôi sinh ra để làm Vua, để làm chứng cho chân lý". Chúa làm Vua theo
lối khác, Chúa không nói khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta
giết Chúa, Chúa vẫn cai trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc
Chúa đăng quang, là lúc Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là
thần dân của Chúa? Chúa bảo: "Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng
Tôi". Chúa cai trị những người nghe tiếng Chúa, những người tin thác vào
Lời Chúa, tin hoặc không tin. Như vậy, cả nhân loại là công dân của Nước Chúa,
không một ai có thể thoát khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính
Đức Kitô Vua, không phải là dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô... Nhưng
trước hết là nghe tiếng Chúa, và điều chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề
nghiệp, xã hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa
là Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền năng và tình thương của
Chúa, để tất cả được trở nên công dân trong Nước Chúa. Nước yêu thương, an bình
bất diệt. Amen.
11. Thuộc
về Chúa.
Trước mặt
Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về
thế gian này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước
Chúa không có một thế lực chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước
Chúa không có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước
thiêng liêng triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm
hồn chúng ta. Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng,
đó là chúng ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như
thế nào?
Chúng ta
không thuộc về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang
danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời
sống kitô hữu của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi
vì: xét theo tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo
đời sống, thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ
nhất đễ lạnh nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và
lần thứ ba để ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù
tin Chúa, nhưng họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức
Kitô là vua, nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến
anh em lương dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo.
Họ chỉ là một thứ Kitô hữu "dổm", hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống
như mồ mả bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí,
nhưng bên trong thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ
chỉ là như một bộ quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và
treo và tủ. Họ chỉ giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời.
Tại nhà thờ họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa
kiếp thành một loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác... Với chúng ta thì
khác. Giữa một xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ,
thì những người Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và
yêu thương, phải trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải
trở nên nắm men làm cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác
ái và yêu thương, phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối,
phải trở nên ánh sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả
những điều ấy muốn nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống
động, thì mới có thể cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa
khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Trong
cuộc sống này, không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo
dòng, nhưng lại thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin,
thì tôi chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm
chi? Với chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu
chúng ta có thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc
rước lễ được hay không? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm
điểm lại đời sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà
rằng: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng... Bởi vì chúng ta mới chỉ là những
người Kitô hữu trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ
chưa thực sự là những người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một
đức tin mạnh mẽ và nhiệt thành.Với lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu,
nhưng với việc làm chúng ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta
là những người có đạo, nhưng với đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với
ngôn ngữ, chúng ta là những người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng
ta lại là những kẻ chối bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà.
Miệng Na mô, bụng bồ dao găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng
ta phải nói, phải làm và phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một
lời tuyên xưng vương quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh
hiệu là công dân Nước Trời.
12. Vua
vĩnh cửu.
Trong một
ngày lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa
Giêsu bằng những tiếng chúc tụng và ca khen "Chúa Kitô muôn năm". Khi
tung hô ai như vậy, chúng ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ.
Đó vừa là lời chúc mừng vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu
và cũng là một cử hành tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng
ta nói: "Chúa Kitô muôn năm", chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn
cầu, một lời kính tôn đối với Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng
diễn tả trong câu đó một lời tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng
diễn tả một nỗi khát vọng, mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn
chúng ta cũng như trong tâm hồn mọi người tin vào Chúa.
Thầy
Brian Morton có kể lại câu chuyện sau đây:
"Một
nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất
lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ
khác đang đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở
chỗ kia.
Bất thình
lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: "Này chị, đến với tôi. Tôi
muốn chị gặp một người". Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ
đến bên một cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một
ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn
một cái răng duy nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa
ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ
gọi người nữ tu trẻ tuổi: "Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu".
Chúng ta
cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của
Người trở thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống
trong và với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang
sống trong mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta
nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
Chúa Kitô
muôn năm! Xin Chúa sống mãi mãi trong tâm hồn chúng con.
13. Vạn
tuế Vua Giêsu.
Cách đây
hai ngàn năm, nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng
nuốt cay, sống dưới chế độ hà khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do
Thái, những người đế quốc đã đặt Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để
tận diệt vương tộc Đavid, còn ở Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ,
dưới sự thống trị của tổng trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các
nước bị chiếm đóng, đô hộ, người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng
chống đối nhau và kình địch nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng
Sađốc thì cộng tác với quân đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết
với nền độc lập quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và
đẩy lui đế quốc, họ luôn nhắc nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà
Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi
đất nước đang bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực
vô song, Ngài đã làm những việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự
kiện đó, người Do Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa
gửi đến và ngày giải phóng đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón
rước Chúa vào thành đô như một vị đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ
lượt kéo nhau đi như biểu tình, miệng ca hát: "Vạn tuế con vua
Đavid". Như vậy, dân chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn,
ngồi trên lưng lừa, đúng như ngôn sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ
reo vang hô lớn: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, Người chính là
vua". Hôm ấy Chúa Giêsu không cải chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như
vậy.
Nhưng dân
Do Thái đã thất vọng, vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ
chối việc giải phóng dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là
Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như
người Do Thái quan niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước
nữa, Ngài công khai chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì
phải đến đã đến: ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo
mừng tung hô Ngài trước đây, bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến
nhà cầm quyền để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô
ra gặp họ, Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông
đang gào thét và hỏi họ: "Các ngươi tố cáo người này về tội gì?". Nếu
họ tố cáo Chúa là đã nói xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm
cười bỏ qua, nhưng lời tố cáo của họ là "Chúa đã xúi giục dân nổi loạn,
cấm nộp thuế cho Xêda, và tự xưng mình là vua". Nghe vậy, Philatô hỏi
Chúa: "Ông là vua à?". Chúa trả lời: "Ông nói đúng, tôi là
vua". Nhưng Ngài nói thêm ngay: "Vương quyền của tôi không đến từ thế
gian này", vương quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc "làm chứng cho sự
thật". Đây là điều Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy,
Chúa Giêsu không phải là vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền
thế với hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người
ta vào sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài
thì nghe tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do
Thái và nhân loại khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát
chúng ta khỏi đói khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng
chúng ta khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người
để bộc lộ vương quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do
đó, tất cả những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống
theo những lời Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước
của Ngài.
Trong
thời đại này, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời,
hợp tình, hợp lý. Vấn đề là chúng ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền
của Chúa. Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự
thật. Sự thật đây là ơn cứu rỗi và hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng
nhau vung tay lên hô lớn: "Vạn tuế Chúa Giêsu là vua" như người đàn
bà trong câu truyện sau: Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới
mang về đây thi thể của một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu
đạn nổ tung làm cho xác người chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó
nên đem về chôn cất tử tế, trước khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở
quan tài ra, bà ta có một người con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài
ra, bà chỉ thấy có một đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh
tay đó đưa lên cao và nói: "Anh con trước khi chết đã kêu lên: "Vạn
tuế Chúa Giêsu là vua", nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như vậy, thì bây
giờ con hãy kêu lên với mẹ". Nói xong, bà giơ cánh tay con mình lên và hô
ba lần: "Vạn tuế Chúa Giêsu là vua".
Xin Chúa
cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là
vua, Ngài luôn quan tâm đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài
sẽ trợ giúp chúng ta luôn đi trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với
điều kiện chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời
chúng ta.
Chúng ta
tuyên xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng
Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm
sáng tỏ sự thật ấy. Có lẽ chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao
giảng, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy
lo toan, vất vả, bon chen dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp
hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn
lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những
thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa... Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực,
chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối,
ích kỷ, ti tiện... có lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược
dòng nước, nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu
thương lại là cách làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá
trị nhất.
14. Đứng
về phía sự thật.
(Trích
trong 'Manna')
Suy Niệm
Từ sau vụ
nổ big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất
chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là
hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Con Thiên Chúa đã ghi dấu
chân mình trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ
Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ
trụ của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về
đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại
tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức
Giêsu không nói rõ mình là vua, cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình,
nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó,
Philatô chẳng có gì phải sợ. Một nước không có quân đội để chiến đấu, không có
lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian. Nhưng Nước đó lại có những công
dân thực sự. Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt
gặp sự thật nơi lời chứng của Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài
tiến bước. Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của
Vua Giêsu là Nước của sự thật. Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng. Kẻ
trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá nhiều khi được
coi là khôn ngoan. Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
"Ai
đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
Chúng ta
không nghe được tiếng Chúa, chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật,
như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm
bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân
của mình, của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ
Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề:
ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý, mafia, tham nhũng,
nghèo đói, lạc hậu, bất công... Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế,
ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi. Chúng ta không chỉ cầu xin cho
Nước Chúa mau đến, mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian:
chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm
cho sự thật và tình yêu thắng thế thì Nước Chúa càng lớn dần lên cho đến lúc
thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Đức
Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng
Kitô hữu.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Các bạn
trẻ thường có một thần tượng để tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua
nhạc rock Michael Jackson... Bạn có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như
thần tượng đó ra sao?
Vũ trụ
vật chất là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm
ngày càng gia tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói,
tiếng ồn...?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế
giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay
của Chúa.
Chúa đâu
muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho
chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi
người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi
dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả
những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
15. Vương
quyền tình yêu – Lm. Hồng Phúc.
"Ta
là Vua..."
Lịch sử
nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III.
Ông là vua của một cường quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần
ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: "Thánh
Thượng" là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt
đất và trên biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả
đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các
vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không
được trờ tới. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của
vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đường đến trước tượng
chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội lên đầu Chúa và nói: "Lạy Chúa, chỉ có
Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa".
Hôm nay,
Giáo hội kêu mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia
đình và xã hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn
vinh Chúa, như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm
về Chúa, mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn
thắng của các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh.
Nên để kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là
trung tâm của vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức
Chúa Cha: "Mọi sự đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành
sự" (Ga 1,3). Ngài là Vua vũ trụ.
Trước mặt
Philatô, Chúa Giêsu đã xác định: "Ta là Vua". Ngài là Vua vì Ngài là
Con Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi
và ma quỉ, nhờ sự chết và sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng:
Nước Ngài không phải ở trần gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ
khí thế lực. Vương quyền của Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao
nhiêu triều đại vang bóng một thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ.
Còn Ngài, Ngài vẫn chiến thắng, vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi
như Ngài dám đòi hỏi, nhưng cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến.
Chúa là Vua các Thánh Đồng Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là
Vua vinh hiển ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy "như Con Người đến trong
đám mây trời... quyền năng vĩnh cửu" (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo
Patmos đã được thị kiến: "Đấng là Alpha
và Ômêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Đấng là
Thiên Chúa" (Kh 1,8). "Ngài làm cho chúng ta thành một vương quốc tư
tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài".
Christus
Vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus
Regnat: Chúa Kitô cai quản.
Christus
Imperat: Chúa Kitô thống trị muôn đời. Amen.
16. Hoàng
tử và người nghèo.
Mark Twain
viết trong cuốn "The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo"
về hai người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được
sinh ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử
được diễn tả: "Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và
bây giờ thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu
cũng như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng."
Cùng ngày
đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo
túng và lụp xụp tại London :
"Nó là một đứa bé mà không ai muốn." Không một ai trông đợi sự ra đời
của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không
ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả hai
đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác
nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều
lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi
những đứa con trai khác.
Một ngày
nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của
cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt
nó bị hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất.
Cùng một
lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh
đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời
Tom vào trong cung điện để thăm quan.
Sau đó,
hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc
quần áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những
người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một
thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố
gắng kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam
trong nhà tù.
Để rút
ngắn câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy
nhiên, trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào
những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống
nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng
tử đã được trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến
chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu
truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và
mỗi người chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng
tử, được tiền định là Vua của tất cả tạo vật.
Chúa
Giêsu đã thay đổi chỗ của mình với chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc
thiên tính của mình để đổi lấy những áo quần rách rưới của thân phận con người
chúng ta.
Giống như
hoàng tử trong câu truyện của Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế
nào là kiếp sống con người nghèo nàn và bị chà đạp.
Tuy
nhiên, Chúa Giêsu khác với hoàng tử là Ngài đã chịu chết trong tay loài người,
sống lại từ cõi chết, và trở nên Vua các vua trên khắp vũ trụ.
Đây là
một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta
mừng kính Chúa Giêsu, Vua của toàn thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của
chúng ta bởi vì Ngài đã trở thành một người trong chúng ta và cảm nghiệm được
những gì mà chúng ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa,
chúng con suy tôn Chúa là Vua Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng
con.
17. Một
giải pháp cho nền hòa bình thế giới.
(Suy niệm
của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vương
quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại
có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có
khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp
với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi
đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc,
nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng
dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn
người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát
hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua
Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai
phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi
hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo
vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua
độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay
biết gì về số phận của người kia.
* * *
Theo
thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết
đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan
quân và dân chúng.
Năm nay,
thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh,
mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ
phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được
trả tự do.
Cả đấu
trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với
thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng
ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc
chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ
mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu
nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để
được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi
đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối
phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh
hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra.
Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính
là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao
vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm
tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt
tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau
khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác
thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc
tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh
hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên
đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa
cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra
những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma
quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã
trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. "Người là chó sói của người -
homo homini lupus". Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em
cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống
cho mình.
Đứng
trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ
chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai
bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên
sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì
đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch
đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải
làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm
cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất
không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ
của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua
Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô:
"Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự
thật". Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người
biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của
Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị
tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ
Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón
nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới
có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương
tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở
thành một đại gia đình huynh đệ.
18. Phục
vụ.
Thế nào
là một ông vua?
Dưới chế
độ quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với
quyền hành lớn lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải
cung phụng cho mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay,
mặc dù chế độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta
vẫn tiếp tục dùng danh từ vua để chỉ một người thành công vượt bực trong một
phạm vi nào đó, chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi...
Những ông
vua thần tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có,
nhưng lắm khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng.
Đành rằng
trong lịch sử có những bậc minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có
nên gọi Đức Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay
không?
Lần kia,
sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất
cờ giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn
lên núi một mình.
Còn đoạn
Tin Mừng sáng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: - Vậy ông là vua ư?
Đức Kitô
đã không từ chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo: - Chính quan nói rằng
tôi là vua.
Thế nhưng
rất nhiều lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là
vua, thì chắc chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ
vua chúa trần gian nào.
Thực vậy,
sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một
hòn đá tựa đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua
không ngai vàng, không cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực
Ngài là một vị vua không giống ai.
Nét đặc
sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:
- Con
Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác
Ngài cũng xác quyết:
- Thày
sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm
vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả
nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài
được tôn vinh:
- Ngày
nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh
Phaolô đã xác quyết:
- Ngài đã
vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài
lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Với chúng
ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi
tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu các
con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng
phải rửa chân cho nhau.
Nơi khác
Ngài cũng xác quyết:
- Vua
chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như
thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho
mọi người.
Chính nhờ
tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên
men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
19. Làm
chứng cho sự thật – Lm. Tạ Duy Tuyền.
Có 4 bà
mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình.
Một bà khoe:
- Thằng
Tí nhà tôi thế nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì
nó cũng tìm cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ
nhì nói:
- Thằng
Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi
cho bằng được!
Bà thứ ba
than:
- Thằng
con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không
có nốt vẽ của nó!
Bà cuối
cũng góp chuyện, sau khi suy nghĩ:
- Thằng
nhỏ nhà tôi số nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả
bao giờ nó tới ngay cho người ta nhờ!
Vâng,
mong con thành đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho
con mình mau khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau
công thành danh toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn
học. Nhiều gia đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp,
chạy chọt cho con được một thứ hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực
lực với tài trí con mình. Xem ra con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là
đức. Câu khẩu hiệu "tiên học lễ, hậu học văn" đã lỗi thời hay chỉ còn
là một sáo ngữ không còn phù hợp với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu
tư vào giáo dục đức dục con người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự
khép mình trong hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân
đức không được trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau "có
lý mà không có tình". Mọi quan hệ giữa người với người đều phải hạch toán,
lời mất, được thua. Con người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống
tương thân tương ái, "tối lửa tắt đèn có nhau" mà chỉ là "đèn
nhà ai - nhà ấy rạng" hay an phận thủ thường theo chủ nghĩa
"mackeno" cho xong.
Một xã
hội đang chuyển mình như thế, liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược
dòng để sống theo đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy
yêu tha nhân như chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giê-su Ngài
đã đến không phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính
Ngài đã chấp nhận tan biến đời mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay,
lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công
dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian
bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên
trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta.
Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống
giữa người với người. Mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được
mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải
cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự
thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương
còn mời gọi chúng ta sống tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia
sẻ vui buồn với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng,
cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau.
Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho
dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người
kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để
kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong
chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban
thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi
giáo huấn của Ngài.
Vì thế,
dù rằng chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế
giới đầy bóng tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng
đời này. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh
sáng của bác ái yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh
sáng của bao dung để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh.
Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là
ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình
yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình
cũng cần có ánh sáng tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng
hạnh phúc cho nhau. Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau,
hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì
mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống
chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
20. Vua
sự thật.
Chúa
Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? Bài Tin Mừng trả
lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người
xét xử là tổng trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do
thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là
Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô
hỏi Chúa: "Ông có phải là vua dân Do thái không?". Để trả lời, Chúa
hỏi lại: "Ngài tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về
tôi?" Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô
tự ý hỏi như vậy tức là Philatô muốn hỏi: "Anh có phải là tay lãnh tụ
chính trị, dám chống lại chính quyền Rôma không?". Đối với Philatô, là vua
Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là
"không". Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato
hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là
vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì
câu trả lời của Chúa là "có". Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải
chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu
là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông
thường trần gian. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ
không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần
gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc
và rao giảng sự thật. Chính chúa đã khẳng định với Philatô: "Tôi là vua, nước
tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục
đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng
tôi".
Như vậy,
chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là
gì? Chính Philatô đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà
bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc
của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng
chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ.
Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung
quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ
là như vậy: Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh,
Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá... Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu
ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một
tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu
thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì
đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố
gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo
toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta
không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt
người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn
độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng
sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta
tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng
Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm
sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết
định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không
thì nói không. Một khi chúng ta trả lời "có" cho một người, tức là chúng
ta trả lời "không" cho người khác. Khi chúng ta trả lời
"có" cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời "không" cho ma quỉ
cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh
sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một
triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không
nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ
hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư
tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội
cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi
chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người
khác... cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và
có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta
hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã
hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện... có lẽ sẽ bị đánh giá là
một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính
việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh
giá mà mỗi người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở
nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
21. Trung
tín.
Chúng ta
hẳn đã nghĩ rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ
ngẫu tượng. Sự thật không phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu
tượng của họ. Và họ tôn thờ các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu
tượng phổ biến nhất hôm nay. Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác: tài sản, lạc
thú, thành công, danh vọng, quyền lực... Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn
người ta đến một đời sống phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách,
đê tiện. Nhưng tai hại to lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm
cho người ta quên đi Thiên Chúa chân thật.
Người ta
có thể lấy mình làm ngẫu tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu
tượng. Một trong những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là "tôn thờ lãnh
tụ". Các lãnh tụ đặt chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng
thấy những hình ảnh, tranh tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với
Sadam Hussein). Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị
giật sập và đập vỡ. Những quái vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự
đàn áp và khủng bố.
Trong lúc
mà những bức tượng bị đổ nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc
động. Bức ảnh được chụp ở Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu
nguyện xung quanh một bàn thờ đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người
ta đặt một tượng bán thân của Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các
thần tượng bị lật nhào, Đức Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương
phản biết bao giữa qui luật của Người và qui luật của những thần tượng. Các
thần tượng chỉ huy; Đức Kitô mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi,
Đức Kitô chỉ huy thông qua tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết
chóc; Đức Kitô đem đến tự do và sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng
ta giữ lòng trung tín, trung kiên với Người, điều mà chúng ta không làm đối với
một người khác hoặc một cơ chế trên trần gian.
Tin Mừng
cho chúng ta thấy Đức Giêsu đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm
tổng trấn một tỉnh thuộc Lamã, Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có
hàng ngàn binh lính dưới quyền ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một
người lính để bảo vệ. Tuy nhiên, Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh
bằng. Và mặc dù Người có thể bị tổn thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm
chủ.
Quyền lực
chính trị là khả năng ép buộc những người khác làm theo ý muốn của người ta.
Khả năng này chủ yếu là do một địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người
chiếm giữ địa vị ấy. Quyền lực chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự
khôn ngoan. Nhiều người ngu ngốc và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác,
quyền bính tinh thần hoàn toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng
ép buộc những người khác. Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang
và đôi khi chiếm những vị trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và
không có quyền lực chính trị.
Chúng ta
phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự
chỉ huy người khác. Một số người với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn
toàn không có quyền lực và phần lớn người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những
người mà họ có ảnh hưởng. Đức Giêsu làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của
Người một cách đơn giản bởi tính cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng
trong mọi việc Người nói và làm.
Đức Kitô
là niềm tin hy vọng của loài người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và
làm cách nào để giữ Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không
phải là một khuôn mặt xa lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên
trời, Đấng gần gũi với chúng ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với
Người.
Đức Kitô
không đến để thiết lập một quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho
chân lý về quyền tối thượng của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
22. Danh
hiệu.
Trong mọi
danh hiệu mà chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu thì danh hiệu "Vua" xem ra
không thích hợp nhất. Nó có vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi
chúng ta nghĩ đến một ông vua, chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương
miện, một cung điện, sự giàu sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các
tôi tớ, và dĩ nhiên một quân đội.
Khi chúng
ta nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta thấy gì? Không có ngai vàng, vương miện, cung
điện, quân đội. Chúng ta thấy Người đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ
Palestien với một nhóm môn đệ. Chen chúc xung quanh Người là những người nghèo
và người bệnh, những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó
là những loại người mà ở trong vương quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung
để ngó vào, còn hoàng cung thì khép lại trước mắt họ.
Tuy vậy,
danh hiệu "Vua" vẫn thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật
với Đức Giêsu. Trên hết, nó có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa
của mọi loài, Vua của vũ trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng
cai quản và phán xét mọi sự.
Nhưng
ngay cả trên bình diện con người, danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối
nguồn cao cả nhất của điều thiện hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới
tối tăm. Đức Giêsu có một quyền bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất
cao cả của Người. Sự hiện diện của Người có thể thay đổi những người ở xung
quanh Người vượt qua sự nhận biết của họ. Thái độ của Người đối với những tội
nhân là lòng nhân hậu và sự thuyết phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi
người cảm thấy họ nhỏ bé. Nhưng một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy
họ cao cả. Trong ý nghĩa đó, Đức Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt
chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ
huy ở mặt kia. Có người có quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có
quyền lực, và người có ảnh hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những
người chịu ảnh hưởng của họ. Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực
trên dân; Đức Giêsu có ảnh hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy
sự hiện diện của Người một cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một
quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Và Người
đã nói về một Nước Trời – một Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người
thể hiện mọi điều mà thế gian này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt.
Đó là tất cả những gì đúng và chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương
quốc Người sẽ đến khi ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật
được thành tựu.
Mặc dù
Vua Kitô không cần hoặc không muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có
những chiến sĩ – những người sẵn sàng "chiến đấu" cho công lý, sự
thật, hòa bình. Có một cuộc chiến đã tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh
sáng, vua dối trá với vua chân thật, vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở
về phía nào?
23. Xét
xử.
Chính
trong Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán
xét – Sự phán xét sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin
Mừng hôm nay làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là
chính Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi
trong một phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi
khi chính khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy
trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở
Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi,
Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã
tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm
thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra
bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu
vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa
Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông,
nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người
có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một
áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay
không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi
cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ
hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về
cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy
tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên
trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel
được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự
nhiệt thành.
Hình ảnh
của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng
trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những
người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho
xê-da là sai lầm.
Tuy
nhiên, Philatô đã sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô
tội trước nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp
lực chính trị trên ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho
một người mà họ xác nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây
sự chú ý chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử.
Ông có thấy rằng công lý phải được thực hiện không? Đức Giêsu làm cho điều đó
trở nên dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không
đe dọa Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa
hiệp. Ông cố làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh
Đức Giêsu bằng roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn,
ông nhượng bộ áp lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô
biết điều ông đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy
sạch khỏi những vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần
một cái búng tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa
vị của mình, ông đã để cho một người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến
cái chết. Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức
Giêsu.
Ngày nay
các nhà lãnh đạo chính trị thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi
phối họ, đe dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó.
Cũng có lúc, tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử.
Bởi cách
chúng ta sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý,
chúng ta tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc
chúng ta giống như Philatô, đi theo con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể
có thái độ trung lập.
Ai xét xử
Philatô? Ông là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng
chờ đến ngày phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi
ngày, trong những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng
trăm, ngàn cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình,
theo hoặc chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một
điều gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên
chúng ta đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở
trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó,
mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho ngày đó.
Vui biết
bao khi thuộc về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta
được thần khí Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở
rộng nước của Người – một vương quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và
ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.
24. Suy
niệm của JKN.
Đức
Giêsu, Vua vũ trụ, cũng là vua mọi tâm hồn, Ngài thống trị bằng tình yêu
Câu hỏi
gợi ý:
1. Tại
sao Giáo Hội lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền
hành gì trên vũ trụ vạn vật?
2. Ngài
là vua, nhưng có gì khác biệt với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng
gì?
3. Ngài
là vua của vũ trụ, nhưng điều ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua
tâm hồn tôi? Vậy tôi phải làm gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư
gợi ý:
1. Chú
giải đoạn Tin Mừng
Philatô
hỏi Đức Giêsu: «Ông có phải là vua dân Do Thái không?». Nếu người Do Thái hỏi
Ngài câu ấy, thì câu ấy nghĩa là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi
Philatô hỏi, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do
Thái phản loạn không? Theo não trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu
Tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma
để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi
loạn chống lại Rôma, thì dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không
phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi
ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu
diệt Ngài. Nhưng họ không dám ra tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người
Rôma để giết Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống
lại Rôma.
Nhưng
Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để
chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa
Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông ta đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà
dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta
được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không
phải là vua của một nước trần gian. Chính Ngài xác nhận: «Tôi được sinh ra để
làm vua». Thật vậy, có những dấu hiệu báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức
Giêsu vừa sinh ra, đã có ngôi sao lạ ở phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ
đến chiêm bái Ngài như một vị vua mới sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô
như một vị vua khi vào thành Giêrusalem (x. Mt 21,4.9).
2. Đức
Giêsu là vua
Nếu Đức
Giêsu không phải là vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài
là vua của ai?
Làm vua
có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân
đội, triều đình... mới là vua. Người ta vẫn nói: «vua dầu lửa», «vua xe hơi»,
«vua bóng đá», v. v... mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai
trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài
là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước
hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì
Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài
vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và
không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua
của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần
gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian
này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả
vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
3. Ngài
thống trị bằng tình yêu
Đức Kitô
là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng
quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi
con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết
rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên
(xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa
là tình yêu» (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một
cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền
cai trị.
4. Đức
Giêsu là vua các tâm hồn
Đức Giêsu
không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn
mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi
người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày
càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay
không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng
ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc
nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn
làm cho ta.
Để Ngài
có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần
tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
– Trước
tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến
là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và
sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng
thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài
muốn nơi ta.
– Vì thế,
ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản
thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo
ý của Ngài.
– Vì Ngài
yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm
tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho
Ngài.
– Và cuối
cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu
thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần
gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng
nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều
trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: «Thiên Chúa
làm cho mọi sự phối hợp lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người» (Rm
8,28).
Nắm vững
điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây
đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu,
một «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung
sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng
ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13).
CẦU
NGUYỆN
Lạy Đức
Kitô, Chúa là Vua của vũ trụ, của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con
xin phó thác tất cả mọi sự của con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh
phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương
lai của con, v. v... Con xin phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa
quyết định mọi sự theo ý muốn của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào
tình yêu và quyền năng của Chúa hơn. Amen.
25. Chú
giải của Noel Quesson.
Đây là
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước
công chúng trong đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa "thời tai họa",
Người sẽ đến quy tụ toàn thể loài người để hưởng "một mùa hè tươi
đẹp" Đức Giêsu đề cập đến cái chết của người và Người bước vào cuộc thương
khó: Đó là phần kết và là đỉnh cao của "Tin Mừng" theo Thánh Máccô,
mà chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật
cuối cùng này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh
Gioan, nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng
một kết luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó,
vừa đau khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp ông nói về "Vua",
"Vương quyền" (Ga 18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là
một ông Vua bị đóng đinh mà vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ
ràng là "Vương quyền" của Đức Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn
khác với bình diện chính trị.
Ông
Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là
vua dân Do thái không?
Đức Giêsu
bị buộc tội. Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong
mọi thời đại!
Thẩm phán
là ông Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn
quyền của một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy
giờ ngự trị nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư,
Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi,
Angiêri, Ma -Rốc. Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô
là quan toàn quyền có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong
dân Do Thái. Người ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng
ngàn người đã bị treo lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo
hôm đó; đối với Philatô là một "ông Giêsu nào đó" Mà cách đây ba năm
chỉ là một anh thợ mộc giản dị và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ,
chính quyền cũng không biết tới họa chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn
ngắm hai người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu
hỏi lại ông ấy.
Thật là
một điều quá đáng? Bị cáo bây giờ lại "hạch hỏi quan tòa". Có phải
vai trò bị đảo ngược không? Táo bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là
ai vậy?
Đức Giêsu
đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu
thật tuyệt vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa
muốn ông có một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp
lý, để bày tỏ một lập trường của riêng ông, "này, ông Philatô, có phải
chính ông nói rằng tôi là Vua không?". Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ
thuật, hệ thống hóa, hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ
trên đây của Đức Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ
"quan tòa - bị cáo" để bước sang tương quan "người và người".
Chúng ta không ngừng đóng những vai trò" và ưa đeo mặt nạ: Chủ - thợ, y sĩ
- bệnh nhân, thông gia - khách hàng, trợ lý xã hội với người được trợ giúp linh
mục - con chiên, cha mẹ - con cái, thầy dạy - học trò, Giáo Hội giáo huấn và
Giáo Hội thụ huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta.
Ông hãy nói, ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những bài đã học ở kẻ khác.
Chính ông phải có lập trường. Chính ông phải "tuyên xưng Đức tin".
Ông
Philatô trả lời: "Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng
tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm
thấy quan tòa hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn
bị kêu gọi bước vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với
"mặt nạ" của mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là
để xử vụ án. "Ông đã làm gì?" Đức Giêsu đã cố gặp "một
người". Nhưng Philatô đóng vai trò "một nhân vật" Dù sao thì
Philatô cũng đang "thống trị ", chính ông mới có uy quyền. Người thợ
ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng,
không phải là César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở
nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau... nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị
khinh khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn
năm.
Đức Giêsu
trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế
gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái.
Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu
không trả lời câu hỏi của quan tòa "ông đã làm gì?". Chính Đức Giêsu
không có ý thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà
Người muốn bàn cãi.
Đức Giêsu
giải tỏa mọi sự hiểu lầm về tước hiệu "Vua" mà Philatô đang tìm cách
điều tra ít nhất có ba cách làm "Vua". 1. Vua theo nghĩa chính trị,
theo kiểu La Mã: Người ta thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
2. Vua
theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng
dõi Vua Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel , của
Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
3. Sau
hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai,
không đè bẹp ai "bạn có muốn theo tôi không?" "Các bạn cũng muốn
bỏ đi hay sao?". Một vương quyền mà lại để "Vua" bị "Giao
nộp" cho kẻ thù mà không kháng cự một tổng thống mà không có "vê
binh" để bảo vệ mình, không có cận vệ để bao bọc trước đám đông. Một vương
quốc không quân đội, không thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh
tụ Xô Viết trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao
nhiêu sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu
luôn hành động như Đấng có "Toàn quyền": Người đã đuổi quỷ ra khỏi
con người, đã đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới
cách giảng dạy Luật Do Thái với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong
khi làm như vậy, Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là
vị Thầy đã để cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn tự "Giao nộp"
để cho chúng ta tấn công Người. (Tôi suy niệm về từ "Giao nộp" mà
chính Chúa đã dùng ở đây). Đức Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình
ảnh của Thiên Chúa vô hình (2 Cr 4,4). "Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa
Cha" (Ga 14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã thấy được Thiên Chúa, nhưng Con
Một đã mạc khải Người cho chúng ta" (Ga 1,18). Trong nội dung rao giảng
của Người được ghi lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã không ngừng
nói về "Nước Trời", "Nước của Thiên Chúa", nhưng đó không
phải là một vương quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một
vương quốc ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm
men, người đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang
lại bông hạt. Đức Giêsu là "Vua", vâng, nhưng theo cách của Thiên
Chúa. Và rõ ràng Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa
"trị vì", Thánh Vịnh đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1;
96,1; 98,14; 145,10) và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha
"Xin cho Nước Cha trị đến". Thiên Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người.
Thiên Chúa không bắt buộc con Người phải tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc
lên trên cả người công chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác cũng như người
lành, trên người vô thần cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu
thương những người không yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng ta cũng làm như
vậy. Người không phải là "Vua"! Không, tuyệt đối không phải là
"Vua"! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của trần gian.
Nhưng
không! Nước Tôi không thuộc về thế gian này.
Sau khi
đã phân biệt rõ ràng vương quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ
Đức Giêsu có thể tuyên bố Người là Vua..., bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có
thể hiểu lầm về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì
với những quyền lực dưới thế gian này.
Người quả
quyết, Vương quyền này từ "nơi khác" đến. Người cảm thấy không cần
nói rõ "nơi khác" mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa,
nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển trị. Cái nghịch lý của "nơi khác" thần
thiêng này là Vinh quang của Người không thể bị suy giảm bởi những thử thách
hay thất bại trên thế gian. Vương quyền (thần thiêng!) của Người không tránh
cho Người phải chết về mặt thể xác. Vinh quang của Người là vinh quang được
"nâng lên khỏi mặt đất" trên thập giá, và lên ngự bên phải của Chúa
Cha.
Ông
Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?
Trên môi
miệng của Philatô, đại danh từ "ông" được đặt sau động từ, trong bản
văn Hy Lạp rất có ý nghĩa: "Vua ông".
Sao? ông,
người mạo danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà
tôi, sắp cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương không thể tự vệ được:
Đức Giêsu
đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian
nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
"Đã
đến". Người đã nói "Tôi đã đến", từ một 'nơi khác', đã đến thế
gian.
Trong bài
đọc 2 được đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu
như là "nhân chứng trung thực". Chữ "Chứng nhân" này dịch
từ chữ Hy Lạp "Martyr" do đó có chữ Pháp là "Martyr" có
nghĩa tử đạo.
Người đã
trả giá cho vương quyền của Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng
về phía sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì
vương quyền của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng
nghe "một giọng nói" tất cả những ai thuộc về sự thật". Người
"trị vì" nhờ Đức tin mà chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác
mà chúng ta đặt vào Lời của Người, nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù
hợp với "Tiếng nói của Người. Không ai có thể thoát khỏi "Vương
quyền" này.
Là con
người, chúng phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại "Sự thật". Làm
vinh danh Chúa Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là
tổ chức những lễ long trọng mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các
Vua Chúa trần gian. Nhưng chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao
cho cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với
"Tiếng nói đó"
26. Chú
giải của Fiches Dominicales.
VƯƠNG
QUYỀN CỦA ĐỨC KITÔ
VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI
1. Đức
Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế.
Ta đang
tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn
Philatô ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc
đầu cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng
chống lại Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được
mục đích của là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: "Ông
có phải là vua dân Do Thái không?".
X.
Léon-Dufour giải thích: "Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị,
dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập
cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới.
Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau
phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy "vị Ngôn
sứ" để tôn lên làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga
6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần
chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu
của thắng trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là
"Vua Israel", vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy
giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc
đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ để cỡi." ("Lecture de
l'evangile selon Jean", tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức
Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước
hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: "Ngài
tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?". Philatô
nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: "Tôi
là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.
Ông đã làm gì?".
- Sau đó,
Chúa đã dùng câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách
của trần gian này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước
khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ
của Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc
thế trần: "Nước tôi không thuộc về thế gian này".
A.
Marchadour quảng giải: "Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông
đợi, cũng không như Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống
trị nhờ sức mạnh quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của
Người đến từ nơi khác, đến từ "xứ sở" nơi Đức Giêsu "sinh
ra", và từ đó Người "đã đến thế gian", vì Người đã hiện hữu từ
muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời
mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên công dân của Vương quốc, không chỉ
ở cuối đời, mà ngay lúc này" ("L'evangile de Jean", Centurion,
trang 227).
2. Đức
Giêsu là vua, nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì
Philatô gạn hỏi: "Vậy ông là vua ư?", Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm
bằng một câu xác quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là "làm
chứng cho chân lý" (từ "làrn chứng" trong tiếng Hy lạp là
"martyr": tử đạo). Chân lý này chính điều đã được nói đến trong
chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn ("Người Con duy nhất đầy ân sủng và
chân lý"): Chân lý về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên
Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người
đã đến trần gian để đề nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh.
Người làm chứng bằng hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng.
Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu "bất cứ
ai thuộc về chân lý".
Sứ mạng
của Người, và có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này,
nhưng nó hoạt động ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ
người nào Chân lý về Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người
được nâng lên khỏi đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ
lập trường: " Hễ ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi" Nếu Đức
Giêsu thi hành quyền bính, thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người
lôi kéo người ta đến bằng đức tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng
chỉ mời gọi người ta tự nguyện đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như
Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân lý là gì?" ("Célébrer" tạp chí
của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số 243, trang 42).
BÀI ĐỌC
THÊM.
1. Đức
Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn.
(x.
Léon-Dufour, trong "Lecture de l'evangile selon St Jean", cuốn 4,
Seuil, trang 21).
Phụng vụ
tung hô Đức Kitô là "Vua Vũ Trụ", một danh xưng xứng hợp, đoạn văn
của Gioan là "một cuộc hiển linh của vi vua" Nhưng Đức Giêsu là vua
theo nghĩa nào, đó là điều mà Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của
dân Do Thái đến theo truyền thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông
đợi, nhưng đã chu toàn việc chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời
công khai của Người, vương quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự
khác. Lúc này, đối diện với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương
quốc của Người không đến từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân
lý. Vị vua là "người"vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai
làm triều thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép
người ta khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo
lên thập giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi
giới hạn địa lý hoặc dân tộc: bởi vì "chân lý" mà Người công bố, liên
quan đến mọi người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về
cuộc phán xét cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua " ấy ở đâu: Vua
vinh quang phán: "Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các
người thân của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40): để có
thể tìm thấy "vua", tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp.
Giêsu, người Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm
vóc toàn cầu. Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari
rằng, ơn cứu độ đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu "vua dân Do
Thái" phản ánh theo cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là
đã công bố cho toàn cầu rằng lời hứa về "vị vua" đã được thực hiện:
nó thành hiện thực nơi Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh
viễn của Thiên Chúa với loài người đã được đóng ấn.
2. Đức
Giêsu, phản vua (L'antiroi)
"Nước
tôi không thuộc về thế gian này", Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người
lính binh thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết
lập do việc trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói
trần thế cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu
chuẩn tự phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô
đã không hiểu gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã
tranh cãi để chiếm địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu
bao nhiêu.
Ngày nay
cũng vậy, chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn
thấy khó hơn để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về
phản-anh-hùng (antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần
gũi, đơn giản và thân thiện.
Lòng tôn
kính đối với Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không
chỉ là những định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là
quyền lực của tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của
Người là mời gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm
chứng cho chân lý... giống như Người.
Thành
công của Người, cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ
mặt thất bại thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị
nghi ngờ, phúc thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là
đầu của thân thể, không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là
thân thể của Người cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể
này, nếu muốn là thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản
che giấu sự trống rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài - chân lý bị lừa
gạt.
Vương
quyền của Đức Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng
đỡ vương quốc là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập
giá, và những đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha .
Sưu tầm
CHÚA NHẬT
34 THƯỜNG NIÊN B
GÓP PHẦN
KIẾN TẠO "TRỜI MỚI ĐẤT MỚI"
Lễ Đức
Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ
Đn
7,13-14 ; Kh 1,5-8 ; Ga 18,33b-37
I.HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN
MỪNG: Ga 18,33-37
(33) Ông
Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: "Ông có phải
là Vua dân Do thái không?" (34) Đức Giê-su đáp: "Ngài tự ý nói điều
ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?". (35) Ông Phi-la-tô trả
lời: "Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thương tế đã nộp
ông cho tôi. ông đã làm gì?" (36) Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không
thuộc về thế gian này. nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã
chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc
chốn này". (37) Ông Phi-la-tô liền hỏi: "Vậy ông là Vua sao?"
Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đã đến
thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật
thì nghe tiếng tôi".
2. Ý
CHÍNH: Trước tòa
án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã cho ông biết về Vương Quốc của
Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc về thế gian, không có quân đội
và không biên giới. Đức Giê-su cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là vị Vua
Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai sẵn
sàng tin theo sự thật của Người.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 33-34:
+ Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su: Đức Giê-su đã bị dân quân Đền
thờ bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước.
Sau khi bị bắt Đức Giê-su đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thương tế Cai-pha
kết án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người
Rôma truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức
Giê-su đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình cho Đức
Giê-su. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật,
mà ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô
đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã
vào trong phòng thẩm vấn Đức Giê-su + "Ông có phải là Vua dân Do thái
không?": Người Do thái đã tố cáo gian cho Đức Giê-su tội phạm chính trị là
xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô quy tội phản lọan và
kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô tra vấn Người về việc này. +
"Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về
tôi?": Đức Giê-su không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng
Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự vu cáo bịa
đặt?
- C 35: +
Tôi là người Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn
đề tôn giáo, vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các
thương tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và
các đầu mục Do thái đã tố cáo như thế để yêu cầu ông xét xử. Ông hỏi Đức Giê-su
đã làm gì chống lại họ để đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?
- C 36: +
"Nước tôi không thuộc về thế gian này": Đức Giê-su không chối điều họ
tố cáo, nhưng Người xác định mình không phải là ông vua trần tục. Vì Nước của
Người không thuộc về thế gian này. + "Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này,
thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái": Lời
này cho thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên
Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12),
về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan
giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).
- C 37: +
"Vậy ông là vua ư?": Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết
thêm về chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giê-su, chứ ông không
nghĩ Người là vua thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giê-su không làm loạn, vì
Người không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + "Chính
ngài nói: tôi là vua": Đức Giê-su xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình
Yêu, Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn
chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn
sàng hy sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến
"để cho chiên được sống và sống dồi dào" (x. Ga 10,10). + "Tôi
đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật": Sứ mệnh của Đức Giê-su là
đến để làm chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo.
Đức Giê-su làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng
** Sự thật không có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời
mà Người loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã
được biểu lộ qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là trong biến cố Tử nạn và
Phục sinh của Đức Giê-su. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi":
Đức Giê-su đến không những để cứu độ dân Do thái là dân được Thiên Chúa ưu
tuyển, mà Người còn đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập
vào Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và là Thiên Đàng mai sau.
4. CÂU
HỎI: 1)Tại sao
các đầu mục Do Thái lại phải giải Đức Giê-su đến tòa án của quan Phi-la-tô?
2)Tại sao người Do thái không vào trong nhà làm cho quan Phi-la-tô phải đi ra
ngòai hành lang để tiếp họ đứng dưới sân? 3)Đức Giê-su cho Phi-la-tô biết Nước
Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào khác với nước thế gian? 4)Khi hỏi
Đức Giê-su: "Ông là Vua ư?", Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục
Do thái tố cáo Đức Giê-su không? 5)Đức Giê-su nhận mình là Vua nhưng chức vị
này có những phẩm chất nào? 6)Đức Giê-su đến để "Làm chứng cho Sự
Thật" nào và làm chứng bằng cách nào? 7)Ngòai dân Do thái ra, Đức Giê-su
còn đến cứu độ những ai?
II.SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI
CHÚA: "Tôi là Vua" (Ga 18,37):
2. CÂU
CHUYỆN:
Lịch sử
nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là U
3. SUY
NIỆM:
1) Hôm
nay là ngày Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ. Giáo Hội long trọng mừng kính
lễ Chúa Giê-su Ki-tô là Vua Vũ Trụ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đã khẳng
định trước mặt quan Phi-la-tô: "Phải, tôi là Vua".
2) Đức
Giê-su là Vua, vì Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Đấng đã dùng Lời quyền năng
sáng tạo nên vũ trụ vạn vật như sau: "Phải có ánh sáng! Liền có ánh
sáng" (x. St 1,3). Đức Giê-su thực là Vua, vì Người đã chiến thắng ma quỷ,
tội lỗi và sự chết bằng Lời quyền năng như sau: "Câm đi và hãy xuất khỏi
người này!" (Mc 1,25-27) ; "Này con, con đã được tha tội rồi"
(Mc 2,5) ; "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!" (Ga 11,43).
3) Người
từng tuyên bố: Nước Người không thuộc về trần gian này. Vương quyền Người không
dựa trên sức mạnh của vũ khí quân đội mà dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa,
bao nhiêu triều đại xưa đã từng xuất hiện một thời trên trần thế, thì nay đều
đã bị diệt vong. Chỉ duy Vương Quyền của Đức Giê-su vẫn luôn tồn tại và hiển
trị trong các tâm hồn.
4) Chúa
Ki-tô chiến thắng! Chúa Ki-tô trị vì! Chúa Ki-tô hiển trị muôn đời!
("Christus vincit. Christus regnat. Christus... imperat"): Ngày nay
các tín hữu chúng ta tôn kính Vua Giê-su không phải chỉ bằng nghi lễ trong nhà
thờ, bằng việc ca hát tung hô Người ... Nhưng quan trọng hơn: Chúng ta phải
tích cực góp phần xây dựng Nước Trời yêu thương an bình hạnh phúc ngay từ trong
gia đình đến khu xóm, chợ búa, trường học, xí nghiệp, sở làm và mọi lúc mọi
nơi... Chúng ta phải làm thế nào để mọi người nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa
là Cha, sống chan hòa yêu thương nhau như anh em trong đại gia đình của Thiên
Chúa, dưới quyền cai trị của Đức Giê-su Vua vũ trụ, như Người đã phán trước khi
lên trời: "Thầy đã được trao tòan quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt
28,18b-20)..
4. THẢO
LUẬN: 1)Mỗi tín
hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su làm Vua gia đình mình? 2)Chúng ta cần
làm gì để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho anh em lương dân, hầu mở rộng Vương
Quyền của Vua Giê-su đến tận cùng thế giới?
5. NGUYỆN
CẦU
- LẠY
CHÚA GIÊ-SU: Ngày nay các bạn trẻ thường hay chọn cho mình một thần tượng để
tôn sùng và bắt chước: Người thì mê vua bóng đá Pê-lê; Có người lại chạy theo
vua nhạc Rốc Mai-côn Giắc-sân (michael jackson). Có những cô gái cố trang điểm,
ăn mặc giống như cô ca sĩ này, hay người mẫu nọ... còn chúng con là môn đệ của
Chúa, chúng con có Chúa là vị thần tượng ưu việt duy nhất. Ước chi chúng con
nói được như thánh Phao-lô: "Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô" (Pl
1,21)- Từ nay "tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống
trong tôi" (Gl 2,20).
- Lạy
Chúa. Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của sự thật. Xin cho chúng
con biết yêu sự thật và nói thật để mưu ích cho tha nhân, (nhưng không phải mọi
sự thật đều nên nói ra). Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo. Trong
giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người
Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36). Trong
quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói
rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt
người nhẹ dạ dễ tin. Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc
làm, để xứng đáng là con dân của Vua Giê-su "là đường, là sự thật và là sự
sống" (Ga 14,6).
X) HIỆP
CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN
VINH
VUA treân thaäp giaù
Năm phụng
vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức
Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội
nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ
của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt
trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa
Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Giây phút Chúa được
tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ
lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại
hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng:
" Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Người
trộm bên hữu đã nhận ra vị vua tình yêu, nên anh đã xin với Ngài nhớ đến anh
khi vào vương quốc của Ngài.Anh đã tuyên xưng vị vua tình yêu chiến
thắng.Tình yêu đã chiến thắng mọi trở ngại: từ những lời thách thức
của những người đòi một vị vua uy quyền đến cái chết khổ đau. Trên Thập
giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ
đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân
loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác
quyết : "Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã giao hòa
với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời"(Cl 1,20).
Trong tất
cả những gì đã viết về Chúa Kitô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gioan ở
lời tựa sách Tin Mừng: "Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà đã không
tiếp nhận" (Ga 1,11). Bêlem không có chỗ cho Ngài sinh hạ, Nadarét không
có chỗ cho Ngài sinh sống, Giêrusalem không có chỗ cho Ngài chết.
Bốn mươi
ngày sau khi Ngài sinh hạ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ Maria : "Ngài sẽ là
dấu gợi lên chống đối"(Lc 2,34). Đó là một kiểu nói khác chứng thực điều
Thánh Gioan đã nói. Chưa được hai tuổi, Ngài đã bị binh lính Hêrôđê lùng sục để
sát hại. Suốt những năm tháng rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng bị hiểu lầm, bị
ghen ghét, bị kết án loại trừ và bị đóng đinh khổ giá.
Chúa
Giêsu Kitô đã chọn Thập giá làm phương thế thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thập giá được
tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết
và sự hận thù ghen ghét của thế gian; thanh đứng tượng trưng cho tình yêu và sự
sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự
sống và sự chết; giữa vui và buồn; cười và khóc; hận thù và thứ tha; ghen ghét
và yêu thương; giữa ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa. Đặt thanh sự
sống và tình yêu lên thanh sự chết và oán thù là cách duy nhất để làm nên một
thập giá.
Chúa Kitô
lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa.
Nói đến
vua, chúng ta thường nghĩ đến con người uy quyền, đầu đội vương miện, mình mặc
cẩm bào, ngồi trên ngai vàng xét xử trăm họ.Ngày nay, người ta còn nói đến vua
xe hơi, vua bóng đá, vua dầu lửa, vua vi tính... Đó là những thần tượng giàu
có, sang trọng của con người thời đại. Chúa Giêsu là vua không phải theo kiểu
trần thế, vương quyền của Ngài không theo kiểu chính trị. Chúa Giêsu là vua sự
thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu
thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Bài Tin
Mừng đưa chúng ta về với Chúa Giêsu trên Thập giá.Vị Vua bị lăng nhục, các thủ
lãnh thế gian cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng
tranh thủ nhục mạ. Những lời chế diễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay
gắt. Chẳng lúc nào Chúa làm Vua rõ ràng bằng lúc này. Tấm bảng trên Thập giá
ghi bằng tiếng Hípri, Latinh và Hylạp chữ INRI – Jesus Nazarenus Rex
Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái.
Nhưng
kiểu làm Vua của Ngài thật khác thường : không có vương miện mà chỉ có vòng
gai, không có cẩm bào mà chỉ có trần trụi nhơ nhuốc, không có câu tán tụng mà
chỉ có lời nhạo báng khinh chê. Bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu nghe những lời
mời mọc rất ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Satan buổi đầu:
"Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình.Hãy xuống khỏi thập giá"
(Mt 27,40). Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới
lãnh đạo đến những người chưa tin.Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được
một thành công rực rỡ. Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi Thập giá. Cứu lấy
mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con của Chúa Cha, nên
Ngài không tự ý xuống khỏi Thập giá, như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc
Đền Thờ.
Đức Giêsu
không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng
ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín
thác.
Mừng Lễ
Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, người Kitô hữu muốn khước từ những thần tượng trần
thế, muốn để Ngài làm vua của lòng mình.Người Kitô hữu muốn đưa Ngài đi vào mọi
lãnh vực của cuộc sống: văn chương, khoa học nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã
hội ...để xây đắp hoà bình và tình thương cho trần thế.
Vương
quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của
yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng
lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương
Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa
Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình
yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố : "Khi nào Ta chịu treo trên thập giá,
Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta".
Qua hơn
2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua
nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận
hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của
Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có
một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau
Công nguyên thì nói như Thánh Gioan Phaolô II : "Con người sẽ không bao
giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình". Đức Kitô đang lôi kéo mọi
người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc
đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở
thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận
Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm
lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài.
Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng.
Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của
Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu
thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng
vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe
được lời hứa của Ngài cho người trộm lành : "Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta
trong vương quốc của Ta".
Mỗi người
tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã
chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng,
lời nói và việc làm của ta chưa?
Lạy Chúa
Giêsu, Vua Tình yêu, Chúa đã yêu thế giới đến nỗi đã ban chính sự sống mình,
xin Chúa chiếm trọn con người chúng con từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, để
chúng con không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về
vương quyền của Chúa, là vương quyền của sự sống và chân lý, của ân sủng và
thánh thiện, của công lý và hoà bình. Amen.
Lm Giuse
Nguyễn Hữu An
Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ(Ga 18,
33b-37)
Chúa Nhật
cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ
trụ với niềm vui khôn tả, đồng thời quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa
chúng ta.
Đã từ
lâu, trong ngôn ngữ thông thường, người ta đã gán cho Chúa Giêsu Kitô tước hiệu
Vua ; Đúng, Người là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, trổi
vượt trên hết mọi loài, thống trị lòng người, Người hiển trị đến muôn đời. Chúa
Giêsu là vua lòng người, với tình yêu và lòng trùi mến, Người lôi kéo mọi con
tim đến với mình. Người là "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận
thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh
quang..." (Ca nhập lễ).
Lễ Chúa
Kitô Vua tương đối mới, nhưng có nền tảng Thánh Kinh và thần học sâu xa. Từ
tước hiệu vua, được áp dụng cho Chúa Giêsu thật quan trọng trong các Tin Mừng,
chính Tin Mừng cung cấp cho chúng ta một bài đọc đầy đủ về dung mạo cũng như
sứ vụ của Đấng Cứu Thế. Khởi đi từ "Vua người Do thái", dẫn đến tước
hiệu "Vua của thế giới", "Chúa của vũ trụ và lịch sử", vượt
qua mọi kỳ vọng của dân Do thái.
Trọng tâm
tiến trình mạc khải về vương quốc của Vua Giêsu, còn tiềm ẩn bí mật về cái chết
và sự phục sinh của Người. Khi bị treo trên thập giá, các thượng tế, luật sĩ và
kỳ lão nhạo báng Người rằng : "Nếu ông là vua Do thái ; thì hãy xuống
khỏi thập giá đi để chúng ta tin nào" (Mt 27, 42).
Trong
thực tế, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu
chết trên cây Thánh Giá, một nghịch lý của Vua Giêsu thể hiện thánh ý Chúa Cha
trên sự bất tuân của tội lỗi. Chính sự hiến mình làm của lễ đền tội này mà Chúa
Giêsu đã trở thành Vua vũ trụ, như Người đã tuyên bố với các tông đồ sau khi
sống lại, "Thầy đã được trao mọi quyền năng trên trời dưới đất" (Mt 28,
18).
Quyền
bính của Chúa Kitô Vua ở đây là gì ? Hẳn không phải là quyền bính của các
vua trần thế và những kẻ có thế lực ; nhưng là quyền năng thiêng liêng có thể
ban sự sống thần linh để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, đánh bại sự thống trị
của thần chết. Ðây là quyền năng yêu thương, một quyền năng có thể rút từ sự ác
ra sự lành, làm cho tâm hồn chai đá ra mềm mỏng, mang lại hòa bình cho những
cuộc xung đột, biến tăm tối thành hy vọng. Vương quốc của Chúa Kitô không hề áp
đặt bất cứ điều gì và luôn tôn trọng tự do của con người. Khi Philatô hỏi Chúa
Giêsu rằng : "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" (Ga 18, 33) Bị
hỏi, nhưng với tư cách là Vua, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Philatô, mà
Chúa hỏi lại ông : "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan
về tôi?" (Ga 18, 35)
Khi thi
hành sứ mạng công khai, đã có lần đám đông dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua,
nhưng Người lại chốn khỏi Vương quốc thế trần, đúng như Chúa nói với Philatô :
"Nước tôi không thuộc về thế gian này"(Ga 18, 36). Chúa là Vua không
có quân đội, không khí giáp.
Cung điện
Người ở đâu ? Thưa, Người ngự trị trong lòng chúng ta. "Vua không có
cung điện" nhưng toàn trái đất thuộc về Người. Nhờ Người mà thế giới này
được tác tạo. Trước Philatô, kẻ có quyền ra án tử cho Chúa, Chúa khẳng định,
"Tôi đến trần gian để làm chứng cho Chân Lý" (Ga 18, 37).
Vậy chúng
ta theo ai : Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay giả dối? Tùy chúng ta lựa chọn.
Chọn theo Chúa Kitô không bảo đảm cho chúng ta sự thành công theo những tiêu
chuẩn thế gian, nhưng bình an và niềm vui thì chỉ mình Người mới có thể mang
lại cho chúng ta. Với Người, chúng ta có thể xây dựng yêu thương và an bình.
Chúa là "Vua, của một vương quốc gồm những người tội lỗi!" Chúng ta
phải thường xuyên lặp lại : Xin thương đến con là kẻ tội lỗi, để chúng ta nhìn
anh em mình với lòng từ bi. Họ cũng là những tội nhân nghèo như chúng ta. Chúa
là Vua của những người nghèo! Chúng ta biết tình yêu đầy ân sủng của Thiên Chúa
là sự giàu có của chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu nó. Chúa là
"Vua của một vương quốc huynh đệ!" Hãy là những người anh em yêu
thương nhau! Trong mắt Chúa Giêsu, Bình an và Tình yêu lan tỏa. Vì vậy, Tin
Mừng trình bày Chúa Giêsu, Vua vũ trụ bị kết án, Philatô là kẻ xét xử Người.
Khi nói :
"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Philatô hỏi lại: "Vậy ông là
Vua ư?" Chúa Giêsu đáp : "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và
đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì
nghe tiếng Tôi"(Ga 18, 36-37).
Chúng ta
đang ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta có bổn phận làm
cho tình yêu, sự dịu dàng, hiền lành, vẻ đẹp trở lại vương quốc này. Chúa Giêsu
là Đấng Cứu Thế, Người đã không đến để xét xử nhân loại, nhưng là để cứu. Người
là Đấng công chính duy nhất, thế chỗ cho tội nhân.
Để phục
vụ Đức Giêsu Vua, chúng ta phải chấp nhận làm việc mỗi ngày cho Triều Đại
cánh chung đang đến... điều ấy không xảy ra mà không có chiến đấu : Vâng, Vua
chúng ta yêu cầu chúng ta cầm sẵn vũ khí trong tay để chiến đấu, chống lại
"các thế lực của bóng tối" (Cl 1, 13). Cùng với Người, chúng ta nắm
chắc phền thắng (x. Ga 16, 33), nhưng với điều kiện là chúng ta cũng tham gia
chiến đấu, chiến đấu hàng ngày với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt... vì
"những ngày là xấu xa! "(Ep 5, 16) và rằng "cả thế giới nằm dưới
sự thống trị của ma quỷ"(1 Ga 5, 19).
Làm cho
Chúa hiển trị, tiên vàn vẫn là làm cho Chúa hiển trị trong lòng chúng ta... khi
tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hàng ngày cách cá nhân hay cộng đoàn, chúng
ta không xấu hổ! (LG •31). Lời Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
nói cùng dân chúng ngày 15 tháng 6 năm 1993 vẫn còn vang vọng : "Hãy
đi đến các ngả đường, sống đức tin của chúng con với niềm vui vẻ, hãy mang đến
cho mọi người Ơn cứu độ của Đức Kitô, ơn ấy phải thâm nhập vào trong gia đình,
trường học, trong các nền văn hóa và đời sống chính trị!" Đừng sợ phải đi
ngược dòng! Làm cho Đức Kitô hiển trị, là trở nên tông đồ lôi kéo nhiều linh
hồn về với Chúa là Vua Vương Quốc Yêu Thương và An Bình.
Lm. Antôn
Nguyễn Văn Độ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét