ĐỨC THÁNH CHA SẼ PHONG THÁNH CHO ĐGH. PHAO LÔ VI VÀO NGÀY 14/10/2017 TẠI VATICAN
|
ĐGH. PHAO LÔ VI THĂM GIÊRUSALEM |
CHUẨN BỊ CHO LỄ PHONG THÁNH ĐGH. PHAOLO VI |
TỪ GÁI MẠI DÂM TRỞ THÀNH NỮ TU |
NẠN NHÂN BỊ ISIS BẮT TRANH ĐẤU CHO NHÂN QUYỀN |
BĐ. I "Đem
so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như
không." (Kn 7,1-7)
BÀI ĐỌC
2: "Lời của Chúa phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn." (Dt
4,12-13)
PHÚC
ÂM: "Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta" (Mc
10,17-30)
BÀI ĐỌC
1: "Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu
sang như không."
Bài trích sách Khôn Ngoan (Kn 7,1-7)
Tôi đã
ước ao được ban sự hiểu biết, tôi cầu khẩn được thần trí khôn ngoan đến cùng
tôi. Tôi lấy sự khôn ngoan làm hơn vương quốc và ngai vàng: Đem so sánh sự giàu
sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không. Tôi cũng không so sánh
nó như kim cương, vì mọi thứ vàng đem so sánh với nó thì kể như hạt cát nhỏ bé,
và bạc đem để trước nó, thì kể như đất bùn. Tôi yêu quý sự khôn ngoan hơn sức
khỏe và sắc đẹp, tôi lấy nó làm hơn được sự sáng, vì sự sáng của nó không hề
tắt. Tất cả mọi sự tốt lành đều đến cùng tôi làm một với nó, và nhờ tay của nóù
tôi được đoan chính không kể xiết.
Đó là Lời Chúa.
Đó là Lời Chúa.
ĐÁP
CA Tv. 89: 12-13, 14-15, 16-17
Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa,
để chúng con mừng rỡ hân hoan
1. Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Người.
2. Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin ban niềm vui thế cho những ngày Chúa hạ nhục chúng con, thế cho những năm chúng con mục kích nạn tai.
3. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con Cháu họ được thấy vinh quang Người. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngườụi củng cố, xin Người củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
BÀI ĐỌC
2: "Lời của Chúa phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn." (Dt
4,12-13)
Bài trích thơ gửi tín hữu Do thái.
Anh chị em thân mến, lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tủy não, phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn. Không một tạo vật nào ẩn khuất được trước mặt Chúa; tất cả mọi sự đều phơi trần và tỏ ra trước mắt của Đấng mà chúng ta phải trả lẽ.
Đó là Lời Chúa.
Bài trích thơ gửi tín hữu Do thái.
Anh chị em thân mến, lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tủy não, phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn. Không một tạo vật nào ẩn khuất được trước mặt Chúa; tất cả mọi sự đều phơi trần và tỏ ra trước mắt của Đấng mà chúng ta phải trả lẽ.
Đó là Lời Chúa.
ALLELUIA
Lc 19, 38
Alleluia, Alleluia.- Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.- Alleluia.
Alleluia, Alleluia.- Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.- Alleluia.
PHÚC
ÂM: "Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta" (Mc
10,17-30)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "õSao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: Đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt. Hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ". Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao". Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ"? Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự". Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".
Đó là Lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "õSao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: Đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt. Hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ". Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao". Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ"? Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự". Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".
Đó là Lời Chúa.
CÁC BÀI SUY
NIỆM CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Kn
7,1-7; Dt 4,12-13; Mc 10,17-30
MỤC LỤC
1. Tiền của
2. Lấy của
cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững.
3. Sự giầu
có đích thực – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Người tự
do - Lm. Hồng Phúc
5. Người
giầu khó vào Nước Trời
6. Hãy theo
Tôi – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
7. Tin và
theo Chúa Giêsu
8. Được gấp
trăm.
9. Khôn
ngoan – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
10. Lựa chọn
hai kho tàng.
11. Suy niệm
của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
12. Giàu:
tốt hay xấu - Gm. Arthur Tonne.
13. Suy niệm
của Noel Quesson.
14. Giàu.
15. Làm
nhiều hơn.
16. Tiền
của.
17. Dâng
hiến.
18. Sự lựa
chọn.
19. Chúa
nhìn chàng.
20. Chia sẻ-
tiền của.
21. Lòng
nhân từ.
22. Quan
trọng.
23. Bước
theo Chúa Giêsu - Lm Nguyễn Hữu An.
24. Suy niệm
của Lm Mark Link.
25. Đức
Giêsu giáo huấn về của cải.
26. Chú giải
của Noel Quesson.
27. Điều cần
phải bỏ trên đường theo Giêsu
1. Tiền của
Tiền của
đã làm cho chàng thanh niên phải bỏ cuộc, không còn đủ sức đi theo Chúa. Chàng
đành phải sống một nếp sống bình thường. Bởi sức ràng buộc của nó, tiền của là
một trở ngại lớn để vào Nước Trời. Vì thế Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải từ
bỏ. Sự từ bỏ này mang nhiều hình thức và mức độ khác nhau tuỳ hoàn cảnh mỗi
người. Nhưng trong mọi trường hợp, điều không thể thiếu vắng đó là lòng siêu
thoát. Vậy thì chúng ta phải sống tinh thần siêu thoát ấy như thế nào?
Trong một
thế giới mà sức mạnh của đồng tiền được khẳng định và sự thịnh vượng vật chất
đang nổi lên hàng đầu. Đất nước nào cũng mơ ước sẽ trở thành những con rồng
kinh tế. Liệu chúng ta có phải quay lưng lại với sự giàu sang để ca tụng tinh
thần nghèo khó hay không? Thực ra chẳng có ai chống lại sự thịnh vượng giàu có
và cũng chẳng có ai tìm kiếm sự nghèo khổ. Kitô giáo lại càng không làm như
vậy. Chính Thiên Chúa đã truyền cho con người phải tiếp tục công trình sáng tạo
của Ngài, nghĩa là phải làm chủ và khai thác tối đa tài nguyên của thế giới này
để nâng cao mức sống. Kitô giáo không phải là kẻ thù của sự phát triển và là
đồng minh với sự nghèo đói. Tuy nhiên, không phải lúc nào tiền của cũng phục vụ
con người.
Trước hết
là phương thức kiếm tiền. Người ta đã kiếm tiền bằng những phương thức bất
công, chèn ép bóc lột kẻ khác. Tiếp đến là cách thức tiêu tiền. Thừa tiền dư
của, thường dẫn tới một lối sống hưởng thụ, phi đạo đức, sa đoạ. Vì chạy theo
lợi nhuận và tiền của người ta đã giết chết lương tâm, bán rẻ nhân phẩm, bằng
những hành động lường gạt, giả dối. Tiền của nhiều khi còn là nguyên nhân gây
nên tàn ác, bất công, bạo lực, đàn áp và chiến tranh. Đam mê và lòng tham vốn
tiềm ẩn nơi con người, dễ bị tiền của thổi bùng lên. Chính vì những cạm bẫy
khéo nguỵ trang đó mà Chúa Giêsu đã phải cảnh cáo: Những người giàu có khó vào
Nước Thiên Chúa. Cho nên vấn đề được đặt ra cho người Kitô hữu không phải là
chính tiền của mà là cách thức tìm kiếm và sử dụng cũng như thái độ đối với
tiền của.
Tinh thần
nghèo khó luôn được Tin Mừng đề cao và sự từ bỏ được coi là thái độ không thể
thiếu vắng của người môn đệ Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt rõ ràng
tinh thần nghèo khó khác với tình trạng nghèo khó. Nghèo khó chẳng những là
điều không dám mơ ước mà còn phải tìm cách chống lại, bởi vì sự nghèo khó sinh
ra không biết bao nhiêu hậu quả tai hại, tệ đoan, bất ổn, tội ác, con người
thiếu điều kiện điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá của mình, như tục ngữ
cũng đã nói: Bần cùng sinh đạo tặc. Trong khi đó, thực hiện tinh thần nghèo khó
của Tin Mừng thì khác. Người nghèo khó trong tinh thần luôn giữ lòng siêu
thoát, kể cả khi tiền của dư dật, không lấy của cải làm chủ đích đời mình nhưng
sử dụng của cải đúng mức, theo nhu cầu chính đáng của mình và trong tinh thần
liên đới, chia sẻ với anh em. Tột đỉnh của tinh thần nghèo khó là sự từ bỏ.
Từ bỏ là
mức độ siêu thoát cao nhất, là thái độ chọn lựa Thiên Chúa và Nước Trời làm ưu
tiên hàng đầu. Đó là một thái độ tích cực chứ không phải là tiêu cực. Nó không
bao hàm sự khinh chê những giá trị vật chất và nhân bản, nhưng biểu thị nỗ lực
tìm kiếm những giá trị tâm linh thiết yếu mà nếu thiếu thì ngay cả những giá
trị vật chất và nhân bản ấy sẽ bị sụp đổ, bởi vì: Người ta không sống chỉ bằng
cơm bánh.
2. Lấy
của cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững.
(Suy niệm
của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chàng
thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là con người có đầu óc, biết nhìn xa thấy
rộng. Anh có nhiều của cải nhưng anh biết rằng mai đây anh chết đi thì tài sản
cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Vì thế anh tìm gặp Chúa Giêsu để xin Ngài chỉ giáo
cho biết phương cách đạt được sự sống đời đời.
Chúa
Giêsu dạy anh giữ các giới răn. Anh đáp: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó
tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
"Bấy
giờ Đức Giêsu nhìn anh ta và đem lòng yêu mến, Người bảo: "Anh chỉ còn
thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh
sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi."
"Nghe
lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi..."
Anh bỏ đi
vì anh có nhiều của cải. Anh đã hành động dại dột vì không muốn đánh đổi của
cải phù du hiện có để lấy gia nghiệp tồn tại muôn đời.
Qua đoạn
Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một bài học quan trọng, đó là phải
khôn ngoan dùng những của cải tạm bợ đời nầy để đổi lấy kho tàng vô tận trên
thiên quốc; hay nói một cách bình dân là "bỏ con tép bắt con cá" mà
cá đây lại là cá voi! Vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.
Chúa
Giêsu tiếp tục khẳng định điều nầy với thánh Phê-rô và các tông đồ: "Thầy
bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng
đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời."
Vào
khoảng năm 1975-1980, thời điểm kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng, vật giá leo
thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá.
Rồi lâu
lâu lại có vụ đổi tiền, sau mỗi lần đổi tiền, giá trị đồng tiền lại giảm sút
thêm. Từ đó, những người có tiền không dại gì giữ tiền trong tủ, có tiền cứ mua
vàng mà trữ. Vàng thì càng lúc càng lên giá, Nhà Nước có đổi tiền mấy lần cũng
không sợ. Thế là khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có
nhiều tiền thì sắm cả cây vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai
phân. Thế là an lòng chắc dạ.
Người
khôn thời đó biết đổi tiền giấy lấy vàng, nhưng vàng cũng không còn giá trị khi
người ta nằm xuống nhắm mắt xuôi tay. Thế nên Chúa Giêsu dạy chúng ta phải đổi
bạc, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ quý kim muôn đời có
giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời
không bao giờ mai một, hư hao.
Mai đây,
ngày chết của chúng ta rồi cũng ụp đến thình lình. Nếu hôm nay không kịp chuyển
đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người trắng tay,
chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối
tiếc thì cũng đã quá muộn màng!
Cầu
Nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu,
Xét về
một vài khía cạnh nào đó, chúng con cũng là những người giàu có, không giàu của
cải thì cũng có thể giàu thời giờ, hoặc giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí
tuệ... Xin dạy chúng con biết đem những thứ của cải tạm bợ nầy đổi lấy thứ tài
sản không bao giờ hư nát.
Xin cho
chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó
là cách chuyển của cải tạm bợ đời nầy thành công đức bền vững cho mai sau.
Xin cho
chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ... để gánh vác việc đời, để
góp phần xây dựng xã hội, để phúc âm hoá môi trường, để phụng sự Hội Thánh. Đó
là những cách biến của cải tạm bợ đời nầy thành công phúc, thành của cải không
bao giờ hư nát dành cho mai sau.
3. Sự
giầu có đích thực – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đức Hồng
Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã có một lần nói với nhà tỷ phú Bill Gatte
rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Nhà tỷ
phú trả lời rằng: "Sẽ có một ngày tôi trả lại cho thế giới những gì mà tôi
đã thu lại hôm nay". Câu trả lời này xem ra có sự tiến bộ hơn chàng thanh
niên trong đoạn Tin mừng hôm nay. Anh thanh niên nghe Chúa nói liền buồn rầu bỏ
đi. Nhà tỷ phú khôn ngoan trả lời rồi để đó. Ngày mai sẽ làm nhưng không phải
là ngày hôm nay. Ngày mai có thể là một ngày không xa nhưng cũng có thể là một
ngày rất xa, xa lắm. Điểm chung của cả hai là: đều "lắm tiền, nhiều
của". Cả hai đều làm ra tiền bằng chính mồ hôi công sức của mình. Có thể
nói cả hai đều hoàn hảo về mặt đạo đức. Họ đều thành đạt trong cuộc sống. Họ
đều có một vị trí tốt trong xã hội. Họ đều có cố gắng vươn lên bằng chính sức
lực, trí tuệ của mình. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại đề nghị anh thanh niên
phải bỏ tiền ra cho người nghèo? Tại sao Đức Hồng Y lại nhắc nhở Bill Gatte
phải quan tâm tới những người kém cỏi hơn mình? Họ đâu có lỗi với người nghèo?
Họ đâu cản trở sự tiến bộ của người khác? Họ đâu lấy chiếc bánh của người
nghèo, họ cũng không cản bước con đường thành công của người nghèo hay được lợi
từ sự thiếu may mắn của người bất hạnh. Họ đâu phải chịu trách nhiệm về sự
nghèo đói của những người chung quanh? Vậy đâu là điểm then chốt mà Chúa muốn
nói với chúng ta hôm nay?
Thưa, bởi
vì cả hai đều thiếu sự chia sẻ. Họ có tất cả nhưng không có lòng quảng đại. Họ
giầu có về vật chất nhưng không giầu có về tấm lòng. Sống ở đời cần có tình có
nghĩa. Nghĩa và tình đều là hoa trái của sự trao ban. Tình yêu cần có sự trao
ban. Ân nghĩa cần có sự đền đáp. Dòng sông luôn có bên lở bên bồi mới cải tạo
lại ruộng đất, làm phong phú hoa màu. Con người sống ở đời cũng cần có tình có
nghĩa mới làm phong phú cho cuộc đời và hữu ích cho tha nhân. Chính Chúa Giêsu
đã nói với người thanh niên: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán
những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy
đến theo tôi."
Nhưng
tiếc thay, sự ích kỷ đã bóp chết con tim của anh. Anh không thể trao ban vì
lòng ích kỷ của anh lớn hơn lòng quảng đại. Núi tiền của anh chất quá cao nên
anh không thể nhìn thấy sự khốn cùng của tha nhân. Lòng tham của anh quá sâu
nên không thể lấy ra để trao ban. Chúa đã đau xót nhìn anh bước đi trong vùng
tối của cõi lòng. Anh đã tự đi vào trong sự cô đơn đầy chán chường. Con người
sinh ra là để sống với đồng loại. Không ai sống một mình. Cuộc sống chung đòi
hỏi phải chia sẻ, phải trao ban mới mang lại những giây phút hạnh phúc trong
cuộc đời. Cuộc sống mới thi vị và đầy ý nghĩa. Anh thanh niên giàu có đã không
có niềm vui của sự trao ban. Anh có tiền nhưng đồng tiền không sinh lời cho
cuộc đời của anh. Anh lo cất giấu đồng tiền như cất giấu cuộc đời anh trong một
thế giới rộng lớn bao la mà lòng anh vẫn cô đơn chán chường, bởi thiếu tình
liên đới, chia sẻ với tha nhân. Anh không dám dùng đồng tiền mua lấy lòng nhân.
Anh đã đánh mất cơ hội dùng của cải Chúa ban để mua lấy bạn hữu nước trời. Cuộc
đời anh đã chết bởi thiếu giá trị sự hiện diện hữu ích cho tha nhân.
Đó chính
là thảm cảnh của cuộc sống hôm nay. Người ta có tiền nhiều nhưng lại có rất ít
bạn thân. Người ta dùng nhiều thời gian cho việc kiếm tiền nhưng lại rất thiếu
thời gian cho thân nhân bạn bè. Người ta tìm cách sở hữu thật nhiều của cải
nhưng lại ít khi trau dồi nhân cách cho bản thân. Người thời nay giỏi tìm cách
mưu sinh nhưng lại không biết tạo dựng cuộc sống cho có giá trị và ý nghĩa. Người
thời nay sống thọ hơn nhưng tình người lại mong manh dễ tan vỡ. Con người dường
như đang vong thân, đang đánh mất ý nghĩa của cuộc đời, đang giảm dần giá trị
sự hiện diện của mình giữa tha nhân, bạn bè.
Vâng, có
thể khi nghe đoạn tin mừng hôm nay, nhiều người cho rằng Chúa không nói với
tôi, vì tôi vẫn còn nghèo lắm! Tôi đâu có gì để cho! Chúa đang nói với người
hàng xóm ích kỷ gần cạnh nhà tôi. Chúa đang nhắc nhở những người giầu có ở
trong xứ đạo của tôi. Thế nên, tôi an tâm. Vì Chúa không trách cứ những người
nghèo đói như tôi. Vâng, có lẽ nhiều người đã nghĩ như vậy. Có những người cả
một đời chưa một lần bố thí cho một ai đó. dù chỉ là một chén cơm, một chút mắm
muối gọi là "tối lửa tắt đèn có nhau". Có những người cả một đời chỉ
biết dùng đôi tay để nhận lãnh mà quên rằng đôi tay còn có khả năng để trao
ban. Có những người chỉ chờ mong anh em nói tốt về mình, nhưng bản thân lại
chưa một lần nói tốt cho anh em. Cuộc đời họ vẫn còn thiếu. Thiếu lòng quảng
đại. Thiếu tấm lòng chia sẻ, trao ban. Họ cần phải bán đi cái tôi ích kỷ của
mình để mở rộng trái tim đến với anh em. Họ cần bán đi một chút nhu cầu của bản
thân để chắt chiu từng nghĩa cử tốt với tha nhân. Họ cần bán đi bản tính tự cao
tự đại của mình để sống khiêm nhường với tha nhân. Có như vậy, cuộc đời họ mới
thực sự có ý nghĩa. Vì giá trị sống ở đời là trở nên có ích cho đồng loại, nếu
cuộc đời của chúng ta thực sự không mang lại ích lợi gì cho gia đình, cho xã
hội thì cuộc sống đó có dài đến trăm năm vẫn là con số không, hay chỉ là một
đời sống thực vật, vì trái tim đã không đủ cung cấp nhựa sống cho cơ thể của
mình.
Ước gì
mỗi nguời chúng ta luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban để luôn trở nên
có ích cho gia đình và xã hội. Vì sự khôn ngoan đích thực là hãy Dùng của cải
cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Amen.
4. Người
tự do - Lm. Hồng Phúc
"Vì
anh có nhiều của cải"
Trong bài
Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai điều. Đó là tình và tiền; tình yêu
phụng sự Thiên Chúa và tiền bạc nhiều khi phản lại lý tưởng Chúa.
Một thanh
niên được Chúa chú ý và kêu gọi đáp lại tình yêu của Ngài. Anh vốn là người đạo
đức từ thuở nhỏ. Anh nói: "Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở
nhỏ". Nhưng hôm nay, Chúa kêu gọi anh tiến lên một bậc nữa, để đáp lại
tình yêu của Ngài, là "bỏ, bán, bố thí" của cải và theo Ngài. Tình
yêu đòi hỏi cởi bỏ để đi theo, như người vợ thương chồng, bỏ tất cả để theo
chồng, "chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo". Nhưng người thanh
niên này bỏ không đành, "bỏ thì thương vương thì tội", anh bị chi
phối quá nhiều. Phúc Âm nói: "Vì anh có nhiều của cải". Tiền đã thắng
anh.
Nhân cơ
hội này Chúa Giêsu đã nói về tiền của. Ngài không lên án người có của. Ngài
biết "đồng tiền nối liền khúc ruột", cần có tiền để sống, để giữ đạo
nữa, "có thực mới vực được đạo". Nhưng Ngài lên án sự ham mê tiền
bạc. Tiền của hay làm người ta ham mê dính bén. Tiền bạc hay làm cho lòng người
ta đen bạc, khó vào Nước Thiên Đàng. Chúa phán: "Con lạc đà chui qua lỗ
kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa". Câu nói ấy có nghĩa làm
sao? Đây là một từ ngữ Á đông để chỉ một việc làm rất khó. Sách Talmud của Do
thái cũng có một thành ngữ tương tự: "Khó như con voi chui qua lỗ
kim!"
Thật ra
Chúa Giêsu không lên án người giàu cũng không chúc lành cho người nghèo. Những
người "đàn bà thánh thiện" đi theo Chúa, họ là những người giàu có,
đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị
kết án. Cũng như khi Maria, em của Martha và chị của Lagiarô, đem bình thuốc
thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một
đồng), Ngài không chối bỏ cử chỉ yêu mến đó. Cũng như nhiều lần, Ngài đi dự
những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9),
hay những người thâu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy, Chúa lên án sự gì?
Ngài lên
án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ tiền của. Thật khó cho người
giầu, có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể.
Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân
theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Chỉ có
những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới là những người tự do, những
chứng chân thật sự và quả cảm. Phaolô nói: "Chúng tôi là những kẻ được coi
là không mảy may, nhưng lại được mọi sự làm sở hữu" (IICor 6,10). Và chị
Thánh Têrêxa nói: "Từ khi tôi từ bỏ mọi sự, tôi sống thật hạnh phúc, tôi
như được sống lại".
Người từ
bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.
Thánh
Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống phó thác vào tình
yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố thí, còn dư bao
nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển một cô nhi viện
với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa
"động tĩnh" gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào
báo động. Thánh nhân bảo: "Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường
lệ". Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà
khách vang reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: "Lạy cha, tiểu
đoàn chúng con đi hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy
xin cha nhận của ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!"
Thánh
nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác Ái và hai dòng nam để
tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển thánh ngày 19-5-1934.
"Thầy
bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái, đồng
ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở đời này và đời sau được
sự sống vĩnh cửu" (Mc 10,29-30).
5. Người
giầu khó vào Nước Trời
(Suy niệm
của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Hơn gì
nhau giữa một người có 30 tỷ dollars và một người có 1 tỷ dollars, khi mỗi
người đều chỉ có một bụng để ăn, chỉ có 24 giờ để ăn chơi, cũng không thể ngủ
quá 24 giờ một ngày, cũng chẳng thể sống quá 100 năm! "Tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Người hỏi Đức Giêsu câu này quả là
người có đầu óc, và cũng có thể được coi là người khôn ngoan.
I. Khôn
ngoan qúy hơn vàng bạc
Đã có
thời người Do Thái tự hào với lề luật của mình: thập giới là 10 lời Thiên Chúa
ban cho dân, là những lời giúp dân thấy được điều hay lẽ phải để theo, điều dữ
phải tránh. Thập giới đã mang lại cho dân bình an. Quả vậy, ba giới răn đầu
tiên về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp con người không tin vào bất cứ thần linh
nào khác; và điều này giúp con người được tự do không phải sợ hãi bất cứ uy
quyền nào, vì Thiên Chúa là Đấng tối cao trổi vượt tất cả thần thánh. Thờ
phượng Ngài, được Ngài yêu thương và bảo vệ, thì còn sợ ai nữa?
Tuân giữ
ba giới răn về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp người ta sống an bình. Những
giới răn tiếp sau, từ giới răn thứ tư đến thứ mười, giúp người ta đối xử công
bình với tha nhân: bảo vệ quyền lợi của tha nhân, cũng là bảo vệ quyền lợi của
chính mình, cũng là bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người. Con người có một số
quyền căn bản mà người khác không được phép tước đoạt, cho dù nhân danh bất cứ
điều gì chăng nữa, vì nó gắn liền với phẩm giá con người. Tôn trọng quyền lợi
của người khác, và người khác tôn trọng quyền lợi của mình, làm cho xã hội an
ninh, và con người sống an bình. Khôn ngoan là tuân giữ luật Thiên Chúa.
Đức Giêsu
xuất hiện như một giá trị. Tin Mừng cho thấy người giầu có này truy tìm sự sống
đời đời làm gia nghiệp; anh ta mong muốn điều trường tồn tuy dù anh ta giầu
sang nhiều của. Anh ta có mong ước tốt lành; điều này đã làm Đức Giêsu rung
động. Ngài nhìn anh đem lòng yêu mến! Ngài nói: anh chỉ thiếu một điều. Đi và
bán tất cả những gì anh có mà cho kẻ nghèo, rồi đến theo tôi. Đi theo Đức
Giêsu, là điều khôn ngoan và giá trị hơn cả giầu sang.
II. Bán
hết của cải mà cho người nghèo
Để có thể
đi theo Đức Giêsu, phải bán những gì mình có mà cho kẻ nghèo. Nếu không dứt
khoát đi theo Chúa bằng bán tất cả, thì e rằng sẽ quay đầu trở lại. Nếu không
bán tất cả, khi gặp cảnh túng nghèo không có gì để ăn, phải tuốt lúa dọc đường
mà ăn cho đỡ đói, anh ta sẽ quay về. Đức Giêsu cũng có lúc đói lúc khát, cũng
mong cây vả bên đường cho một trái để ăn mà cũng không có. Bao nhiêu lần trong
đời, Đức Giêsu đã ngủ ngoài trời. Đã bao nhiêu lần Đức Giêsu và các tông đồ đã
qua đêm ở trên vườn dầu! Nếu không từ bỏ tất cả, nếu không từ bỏ tiền của, làm
sao có thể theo Đức Giêsu cho được! Đức Giêsu đã sống nghèo, vì Ngài thấy giá
trị của cái nghèo. Ngài cũng muốn người khác chọn lựa như Ngài. Hãy bán hết những
gì anh có mà cho kẻ khó, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo tôi.
Theo Đức
Giêsu là một điều gì quý hơn cả vàng bạc, mà anh thanh niên giầu có và nhiều
người không hiểu được. Người ta thích tiền, nghĩ rằng tiền của có thể mang lại
cho người ta nhiều điều nếu không muốn nói là tất cả: "đồng tiền là tiên
là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của tuổi già, cái đà của danh vọng,
cái lọng để che thân, cán cân của công lý". Đức Giêsu không nghĩ như vậy,
Ngài lại cho rằng tiền của làm người ta khó vào Nước Trời.
Với Đức
Giêsu, điều gì quý hơn tiền của? Tiền của, là điều người ta sở hữu, điều người
ta có; còn nghèo là tình trạng một người không có tiền của, không coi tiền của
là quan trọng. Không có gì, cũng có thể là tình trạng của một người tự do. Một
người đeo đầy vàng trên tay, và một người không có gì trên tay, bàn tay nào
thanh thoát và nhanh nhẹn hơn, bàn tay nào tự do hơn? Một người có của, coi
trọng tiền của, phải lo giữ tiền, bất quá cũng "thủ tài chi lỗ". Một
người nghèo có cái thú và tự do của người nghèo mà người giầu không thể có
được. Nếu người giầu luôn có những người ham tiền mà nghèo đeo bám để xin xỏ,
cách này hay cách khác, thì người nghèo quả thật là người có cái thú tự do mà
người giầu không có được.
III. Hãy
đến theo tôi
Theo Đức
Giêsu, là điều quý: không chỉ là không có gì như một lối sống thanh thoát, mà
chính yếu là trở thành một thực tại cao quý hơn. Sống theo Đức Giêsu là một giá
trị. Các tông đồ khi theo Chúa vẫn còn ham danh lợi, còn tranh nhau ngồi bên
phải bên trái, tranh nhau "làm lớn" ngay khi thầy mới báo tin Ngài sẽ
bị bắt bị giết; nhưng các tông đồ đã ra khác vì các ngài được diễm phúc sống
với Đức Giêsu, sống bên một người thanh thoát với tất cả, tự do với tất cả, và
phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Các tông
đồ nhận ra thầy mình thực sự là ai, một khi các ông biết Đức Giêsu đã thực sự
sống lại. Ngài là Đấng rất đặc biệt của Thiên Chúa, người thuộc hoàn toàn về
Thiên Chúa, người được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngôn từ diễn tả về chân
tướng của Đức Giêsu thời các tông đồ chưa rõ ràng; từ ngữ thông dụng để chỉ một
người rất đặc biệt là tiên tri, Đấng Kitô (Đấng được xức dầu); cũng có một vài
từ ngữ đặc biệt khác như con người, con người ngự bên hữu Thiên Chúa, người tôi
tớ của Thiên Chúa, con chí ái của Thiên Chúa; và mãi trễ sau, công đồng chung
Nicea (325) dùng từ ngữ triết học diễn tả chân tướng của Đức Giêsu: đồng bản
tính với Thiên Chúa: "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh
sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa
Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành".
Thời Đức
Giêsu đang tại thế, người ta khó hiểu tại sao Đức Giêsu lại đòi người nhà giầu
này bỏ tất cả để theo Ngài, mặc dù thực tế các tông đồ cũng là những người đã
bỏ tất cả mà theo Đức Giêsu. Với các tín hữu ngày nay, điều này dễ hiểu hơn khi
người ta biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu
thực là Người từ cõi trên, có nguồn gốc thần linh, thì việc đòi người ta bỏ tất
cả để đi theo Ngài là điều có thể hiểu được. Các tông đồ cũng chỉ hiểu về chân
tướng của Đức Giêsu khi Ngài đã từ cõi chết sống lại, khi các ngài đã được ơn
Thánh Thần, và được dẫn vào sự thật trọn vẹn.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ
1. Tại
sao con người của mọi thời đại ham thích có nhiều tiền của?
2. Tiền
của quan trọng đến mức nào để giúp con người hạnh phúc?
3. Tại
sao theo Đức Giêsu lại có thể giúp con người sống hạnh phúc?
6. Hãy
theo Tôi – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Tiền bạc
có một sức mạnh kinh hồn. "Có tiền mua tiên cũng được." Ai có thể
thoát được ma lực của đồng tiền? Nhưng Đức Giêsu sẽ cho thấy có những giá trị
không thể mua bằng tiền. Những giá trị cao vượt đó chỉ có thể tạo được khi
thoát khỏi mọi ma lực của đồng tiền. Đó là điều rất khó hiểu. Nhưng đó cũng là
sự thật.
Đồng tiền
liền khúc ruột
Một hôm,
có chàng thanh niên con nhà giàu đến gặp Đức Giêsu. Chàng có nhiều đức tính
thật dễ thương. Khác với những bạn đồng lứa ăn chơi xa xỉ, chàng cố giữ những
điều luật luân lý nghiêm nhặt. Mọi người đều nhìn vào anh như mẫu người lý
tưởng. Chính Đức Giêsu cũng "đem lòng yêu mến."(Mc 10,21) Anh chẳng
thiếu thứ gì trên đời. Nhưng anh vẫn không hoàn toàn hạnh phúc. Anh thấy còn
thiếu một cái gì trong cuộc đời. Anh ưu tư, khắc khoải. Bởi đó nêu thắc mắc với
Đức Giêsu: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời
làm gia nghiệp?" (Mc 10,17) Có mấy công tử bột có thể nêu được câu hỏi sâu
sắc đó? Anh đã bị dằn vặt rất nhiều vì không thấy thỏa mãn hoàn toàn với những
hứa hẹn vật chất. Anh tin Đức Giêsu sẽ trả lời dứt khoát và rõ ràng về vấn đề
quan trọng cho cuộc đời anh.
Xưa nay
anh cứ tưởng một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức. Tiền
bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất. Đời sống như thế đã quá đủ tiêu chuẩn đạt
hạnh phúc. Nhưng anh không thể ngờ hạnh phúc lại vượt lên trên những tiêu chuẩn
tầm thường đó. Hạnh phúc là quan tâm tới người nghèo. Quan tâm tới độ "bán
những gì anh có mà cho người nghèo." (Mc 10,21) Bán sạch. Trở nên nghèo vì
người nghèo. Chính lúc nghèo như thế, "anh sẽ được một kho tàng trên
trời." (Mc 10,21) Kho tàng đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Bởi đó
Đức Giêsu mới nói: "Rồi hãy đến theo tôi." (Mc 10,21) Đức Giêsu là
một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là "sức
mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa." (1 Cr 1,24) "Trong Người có
cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết." (Cl 2,3) Gia tài
của chàng thanh niên đó là cái gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là
Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói: "Tôi coi của cải chẳng là gì
so với Đức Khôn Ngoan." (Kn 7,8)
Chàng
thanh niên là người có thiện chí, nhưng vì chưa ý thức được kho tàng khôn ngoan
nơi Đức Giêsu, nên đã không thể có một lựa chọn đúng. Có lẽ anh kinh ngạc về đề
nghị và mời gọi của Đức Giêsu. Anh không thể tưởng tượng có một thứ hạnh phúc
ngoài tiền bạc. Để theo đuổi hạnh phúc đó, Đức Giêsu đề nghị anh dấn thân cho
ngươì nghèo và mạo hiểm theo Người đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng "nghe lời
đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi," (Mc 10,22) vì trong anh đang
nổi lên một cơn thất vọng và cuộc xung đột giữa hai tiêu chuẩn hạnh phúc: hạnh
phúc do tiền bạc và bổn phận, hạnh phúc do từ bỏ và dấn thân.
Trước khi
nói tới lời mời gọi tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người thấy
mối nguy hiểm của tiền bạc hay của cải: "Những người có của thì khó vào
Nước Thiên Chúa biết bao!" (Mc 10,23) Thực ra, tiền bạc không phải là một
sự dữ. "Có của" không đương nhiên là xấu. Thái độ khi "có
của" mới xác định giá trị con người. Giáo Hội từng có những vị thánh xuất
thân tự ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stephan nước Hung. Giữa đống
tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho ngươì nghèo.
Của cải
chính một phúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, "chính phúc lành của ĐỨC
CHÚA cho ta được giàu sang." (Cn 10,22) "ĐỨC CHÚA bắt phải nghèo và
cho giàu có." (1 Sm 2,7) Người giàu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền
của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giàu sang quyền quí, như
Giakêu, Nicôđêmô, Máthêu v.v. Như vậy cả tiền bạc lẫn người giầu có đều không
phải là đối tượng của lời nguyền rủa. Đức Giêsu muốn cho thấy cái đáng quan tâm
là mối tương quan giữa con người và tiền bạc. Ưu tư quá về tiền của đến nỗi
không thể dấn thân cho người nghèo và Tin Mừng là đánh mất cơ hội lớn nhất cuộc
đời: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" (Mc
10,23)
Đòi hỏi
gắt gao
Đầu óc
bình thường coi đạo nào cũng như đạo nào. Nhưng Đức Giêsu muốn môn đệ phải sống
trên mức đạo đức bình thường, không thể thỏa mãn với những đòi hỏi luân lý mà
thôi. Chính khi vượt lên trên hạnh phúc bình thường, họ mới thấy rõ giá trị tiền
bạc. Chính tiền bạc sẽ trở thành phương tiện giúp đỡ và cứu thoát những người
anh em nghèo khổ khỏi cơn túng quẫn. Nếu "từ bỏ mọi sự" một cách
tuyệt đối, sẽ chẳng còn phương tiện nào để làm việc bác ái. Bởi đó, đúng hơn
phải nói về "tinh thần khó nghèo," (Mt 5,3) một tinh thần cần thiết
để sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, chấp nhận mọi thử thách thương đau vì hạnh
phúc đồng loại. Đó là con đường làm vinh danh Thiên Chúa.
Mặc dù đã
"bỏ mọi sự" theo Chúa, Phêrô cũng không chấm dứt mọi tương quan
với bên nhà vợ. Chính ông đã mời Đức Giêsu vào nhà mình và xin Người chữa bà mẹ
vợ mình khỏi cơn sốt (Lc 4,38-39; Mt 8,14; Mc 1,30). Mối liên hệ vẫn còn đó.
Phải chăng Phêrô chưa "bỏ mọi sự"? Vậy làm sao hưởng gấp trăm? Phải
chăng lời Chúa mâu thuẫn với thực tế? Mâu thuẫn vì có nhiều nhà truyền giáo
sống rất nghèo khổ, bị tù đầy, đói khát, chết chóc vì Chúa thì sao? Suốt đời họ
chẳng được gấp trăm, mà chỉ toàn bị "ngược đãi" (Mc 10,30). Lời Chúa
được thực hiện ở đâu? Vả lại có những người không hề biết đến từ bỏ, lại được
hưởng gấp trăm ngàn lần những người đã hiến thân theo Chúa.
Đúng hơn,
Đức Giêsu muốn so sánh hạnh phúc tự nhiên với siêu nhiên. Thực vậy, "đời
sống cộng đoàn Kitô hữu sẽ thay thế cho sự hỗ trợ và hạnh phúc gia đình cũng
như của cải đã từ bỏ. Đời sống Kitô hữu "ở đời này" tràn đầy niềm
vui." (Faley 1994,661) Ngay trong bắt bớ, niềm vui đó vẫn không chấm dứt,
vì phát xuất tự Thiên Chúa. Niềm vui từ của cải hay huyết tộc làm sao so sánh
với niềm vui là chính Chúa? Cuộc sống hôm nay đang thiếu vắng niềm vui chân
thật đó. Vì thế gian không chịu nổi sự phân rẽ của lời Chúa. "Lời đó phê
phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người." (Dt 4,12) Lời Chúa gây
nhức nhối và thách đố cho lương tâm thời đại. Đúng như Chúa nói: "Thầy đến
không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo." (Mt 10,34) Lời Chúa
vẫn còn đó như một tra vấn liên tục, khiến họ không thể ngủ yên. Quả thực,
"lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai
lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy," (Dt 4,12) nghĩa
là vào chỗ sâu kín nhất: lương tâm con người. Không ai có thể trốn chạy Lời
Chúa. "Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa."
(Dt 4,13)
Lời Chúa
hôm nay đang thúc bách chúng ta dấn thân hơn nữa vào việc xây dựng Nước Chúa,
tức là đem cả nhân loại vào "sự công chính, bình an và hoan lạc trong
Thánh Thần." (Rm 14,17) Không còn con đường nào khác ngoài việc hiến thân,
từ bỏ và mạo hiểm vì Nước Trời. Cuộc mạo hiểm đầy thú vị, nhưng cũng chan chứa
niềm hi vọng, vì Đức Giêsu đã quả quyết: "Thầy đã được trao toàn quyền
trên trời dưới đất." (Mt 28,18)
7. Tin và
theo Chúa Giêsu
(Suy niệm
của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Báo Tuổi
Trẻ Cười có bài thơ:
"Ông
Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông
đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền
nhiều: mặc kệ... vẫn hơn,
Dẫu cho
nhân sự ngã nghiêng tứ bề.
Tiền
nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay
một cái nhằm nhò gì ông".
Con người
dù sở hữu nhiều "ông tiền" và "mua tiên cũng được", nhưng
chắc gì đã hạnh phúc?
Ngày
06.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ
đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia
tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại. Tôi không
đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại,
nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Cơ quan
vũ trụ Nasa của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần đầu tiên trên trái đất
đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt lên " Ôi, yên bình
quá, ở đây không có tiền".
Một cuộc
sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền chưa hẳn đã có hạnh phúc.
Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.
Trang Tin
mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của và vẫn thao
thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thuở nhỏ.
Một thanh
niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt có thiện
chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để
được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn
khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một
thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn.
Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi
tìm bậc "Thầy nhân lành". Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa
Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi
Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi "anh có giữ các giới răn
không?". Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: "Thưa, tất cả những điều đó tôi
đã giữ từ nhỏ".
Chúa
Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn,
Chúa "Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Chúa thương vì thấy
chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường
trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ
cho anh thấy con đường: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì
anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo
Tôi" (Mc 10, 21). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được
hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh
Máccô kể chuyện cách dí dỏm: "Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu
bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải" (Mc 10, 22). Niềm vui lịm tắt, người
thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo
dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với
của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các
môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn
đệ nhỉ?
Chàng
trai trẻ tiếc của bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa "nhìn
chung quanh" và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước
Thiên Chúa biết bao". Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng
một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải "kho tàng ở đâu thì
lòng trí ở đó" (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là
tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật "sắc bén như gươm hai lưỡi".
Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng
trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa
nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo
hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất.
Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế,
đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà
ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh
phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những
thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự
sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân
hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp
ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi
hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn
sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải,
người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người
giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật
chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm
bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói:
Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với
khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan
trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa
Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn
chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý
đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được
(Lc 12, 16-21; 16, 19-26). Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: "Đồ ngốc, nội
đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi" (Lc 12, 20). Khi các phú hộ
ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: "Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm",
Tổ phụ Abraham đáp lại: "Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng
rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi" (Lc 16, 23-25).
Con người
thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật
chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ
mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn
mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị,
danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa
Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà
Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biêt dừng lại để
thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một
bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn
sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia
đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến...Biết
bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có
những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết
yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là
bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có
rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa
Giêsu không chọn những thanh niên "học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu".
Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học
thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có "tấm lòng", vì "chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài".
Người trẻ
luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới
Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài
Chúa Giêsu Kitô, Đấng "là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống" (Ga
14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao
phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng...
đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con
người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng
về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con
người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng
thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi
loạn. Ý tưởng đó được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế
Giới Trẻ 1993 xác nhận: "Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có
thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình".
Vì thế,
cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để "coi của cải chẳng là gì so
với Đức Khôn Ngoan"; "Đức Khôn Ngoan hơn vương trượng, ngai vàng...
của cải bằng không. So với Đức Khôn Ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là
một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn". (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự
giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý
chuộng tiền bạc và sự giàu có, còn người Công chính coi Đức Khôn Ngoan là điều
quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn
ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến
với người công chính.
Người
thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống
một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn,
không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công chính Cựu ước chu toàn
lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên
người Công Chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho
báu trên trời và hãy theo Người. Đó là điều kiện nên người Công chính Tân ước.
Không
ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường
gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành
về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị
của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả
sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và
sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Lạy Chúa
Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung
thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn,
chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
8. Được
gấp trăm.
(Trích
trong 'Manna')
Suy Niệm
Khi đọc
bài Tin Mừng trên đây ta nếm được nỗi buồn của Đức Giêsu và của anh nhà giàu.
Đức Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến. Anh kia buồn vì có sự
rạn nứt nơi bản thân. Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi đầy muộn phiền.
Thầy
Giêsu đòi anh đúng điều anh muốn giữ lại, vì của cải vốn là chỗ dựa của đời
anh.
Anh sẵn
sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc bỏ chỗ dựa này.
Bây giờ
anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì. Tiếc thay anh không có can đảm ra khỏi
sự nô lệ này dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Bi kịch
của anh cũng là của chúng ta.
Ai trong
chúng ta cũng từng bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì của vật chất.
Của cải
vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ
tôi và trở thành thịt xương mà tôi không thể dứt bỏ.
Không
chắc người giàu này sẽ bị luận phạt, nhưng chắc chắn anh ta khó hạnh phúc. Hạnh
phúc chỉ đến với người dám sống theo ý Chúa.
Người có
của khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Vào thời
Đức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành. Vậy mà Ngài lại coi đây là một
cản trở nguy hiểm.
Của cải
dễ làm người ta khép kín trước Thiên Chúa và nỡ tâm chà đạp lên quyền lợi anh
em.
Tệ nạn
tham nhũng, hối lộ ở Châu Á là một thí dụ về nguy hiểm của tiền bạc.
Đức Giêsu
và các môn đệ đã sống nghèo, sống như những người lữ hành, không chỗ cậy dựa,
để tín thác vào Cha và dễ dàng đến với anh em.
Theo Đức
Giêsu là chấp nhận tay trắng, bấp bênh. Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở
nên giàu có.
Không
phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến.
Không
phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà
tặng biếu không.
Theo Ngài
không phải chỉ là bỏ nhà cửa, ruộng vườn, bỏ những người thân yêu, bỏ đến cả
mạng sống. Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay từ đời này, và nhất là đời sống
vĩnh cửu mai hậu.
Khi Phêrô
ra khỏi hồ Galilê, với nghề đánh cá, ông được biết những biển khơi mênh mông
hơn nhiều. Khi Phêrô bỏ lại cha mẹ, vợ con, ông đứng đầu một cộng đoàn đông đảo
là Hội Thánh.
Chắc
Têrêxa Hài Đồng không ngờ mình trở nên Thánh Sư.
Chắc
Têrêxa Calcutta không ngờ đám táng của mình sẽ có cả triệu người tham dự.
Theo Đức
Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Cái được quan trọng nhất là được
Đức Giêsu (x. Pl 3,8).
Gợi Ý
Chia Sẻ
Bạn nghĩ
gì về giá trị của tiền bạc, của cải? Đâu là thái độ cần có trước những cạm bẫy
của tiện nghi vật chất đang mời mọc chúng ta?
Theo Chúa
trong tư cách là một Kitô hữu đòi hỏi ta phải từ bỏ nhiều. Bạn có thấy mình
được lại điều gì không? Bạn có khi nào được gấp trăm so với điều đã mất không?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng
trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho
những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải
phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần
nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì
chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được
viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì
chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao
giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong
chúng con. Amen.
9. Khôn
ngoan – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Câu
chuyện chàng thanh niên giàu có tốt lành có một khởi đầu tốt đẹp. Đẹp cho đến
nỗi Chúa nhìn và đem lòng yêu thương anh. Nhưng lại có một kết thúc đáng buồn.
Anh thanh niên bỏ đi buồn bã vì không thể theo Chúa. Chúa Giêsu cũng buồn vì
anh gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa.
Câu
chuyện người thanh niên có thể là câu chuyện của mỗi người. Cũng như chàng
thanh niên, bình thường ta giữ đạo rất dễ dàng. Sáng đi lễ, chiều đọc kinh,
không làm điều gì gian ác, không bất công tham lam của người khác. Nhưng khi
gặp mâu thuẫn giữa cuộc sống với việc đạo, phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và
những giá trị trần gian, nhiều khi ta nao núng và rất nhiều người đã vì những
giá trị trần gian mà bỏ Chúa. Có những người khi còn nghèo túng thì giữ đạo rất
tốt. Nhưng khi đứng trước những cám dỗ của tiền của thì vì ham mê tiền của mà
sống gian dối, đánh mất lương tâm Công giáo. Có những người khi còn nhỏ thì rất
ngoan ngoãn đạo đức, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì vì thú vui mà bỏ quên
việc đạo. Nhưng nhất là có những người vốn con nhà đạo gốc rất sốt sắng, nhưng
khi gặp cám dỗ về chức quyền thì vì một chút danh vọng, đành bỏ Chúa, bỏ đạo.
Theo suy
nghĩ của người đời, những ai tìm được tiền của, đạt được danh vọng, nay lên
chức mai lên quyền, là những người tài khéo khôn ngoan. Nhưng đó chỉ là khôn
ngoan nhất thời kiểu trần gian. Vì cuộc sống trần gian có hạn. Con người ai
cũng phải chết. Chết rồi có ai mang theo được của cải, danh vọng, chức quyền
vào thế giới bên kia đâu. Thế mà cuộc sống sau cái chết mới là quan trọng, vì
là cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ phai tàn.
Chúa muốn
ta đừng gắn bó với của cải nhưng phải gắn bó với Chúa, không phải vì Chúa muốn
con cái phải khổ sở, hèn hạ. Nhưng vì Chúa muốn cho ta chọn con đường khôn
ngoan, để đạt tới hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.
Ta đi đạo
để chọn Chúa. Vì chọn Chúa ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với
Chúa. Những cản trở có thể là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Những cản trở
cũng có thể là một người mà ta gắn bó, một nơi mà ta không thể dứt bỏ. Những
cản trở đó cũng có thể là một lòng tự ái, một sự ghen ghét, bất mãn.
Nếu ta
biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa ta sẽ đạt được chính Chúa. Được
Chúa là được tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không
còn khao khát gì khác nữa.
Vì thế
khi thánh Phêrô hỏi Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con sẽ
được gì. Chúa đã trả lời: ai bỏ mọi sự mà theo Chúa, sẽ được gấp trăm và được
sự sống vĩnh cửu.
Người
khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng. Biết bỏ những mối lợi trước mắt để
tìm những giá trị vĩnh cửu.
Như thế
yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt
đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.
Lạy Chúa,
xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc của
con. Amen.
10. Lựa
chọn hai kho tàng.
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một bác
nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết. John Wesley là một nhà
giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley bắt
đầu bài giảng bằng tư tưởng; Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả
năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Đúng
lắm! Rồi wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói
phung phí tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt xoa: bài giảng tuyệt vời! Cám ơn
Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm. Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba:
Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là
thuộc trách nhiệm của mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ
đi ra...
Anh chị
em thân mến
Chàng
thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay cũng thế. Anh muốn theo Chúa Giêsu để
được sống đời đời. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu bảo: "Hãy về bán những gì anh
có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy
đến theo tôi". "Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi,
vì anh ta có nhiều của cải". Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng
thương tiếc, vì anh ta vốn là một người rất tốt. Anh đã tuân giữ các điều răn
của Chúa từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta, nhưng đồng thời Ngài
lại cho anh ta thấy rõ: Kitô Giáo không phải chỉ là việc tuân giữ các điều răn
một cách tiêu cực: "Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp,
không làm chứng gian, không làm hại ai...". Kitô giáo mang tính tích cực
hơn nhiều. Chúa Giêsu nói thẳng với anh chàng giàu có: anh chưa bao giờ làm gì
gây thiệt hại cho ai, vì anh có nhiều tiền của, có vợ đẹp con khôn, đâu cần
phải đi ăn trộm, ăn cướp hay ngoại tình... nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai
chưa? Anh đã dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người trần
trụi ăn mặc, cho kẻ vô gia cư có nơi trú ngụ chưa? Chính khi nghe điều này, anh
chàng giàu có kia đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khiếm khuyết biết bao. Vì vậy,
Chúa Giêsu mới thách thức anh: Nếu muốn theo Tôi, anh hãy thay đổi cách nhìn
đi. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, chẳng hạn như không gây
thiệt hại cho ai. Anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn
như giúp đỡ những người nghèo đói. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh
phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau. Thách đố Chúa
Giêsu đặt ra cho chàng thanh niên giàu có có thể tóm lược như sau: Anh có dám
chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không?
Anh có quan niệm bước theo Tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng
hy sinh của cải của anh để được sống đời đời không? Anh chàng giàu có trả lời:
Thưa Thầy, tôi cũng muốn theo Thầy lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt
thòi kia! Thế là chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa
Giêsu. Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình
xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Nhiều
người trong chúng ta có lẽ cũng giống như chàng thanh niên giàu có kia. Chúng
ta biết rõ mình có thể trở thành một Kitô hữu tốt hơn, nhưng chúng ta vẫn thiếu
nhiệt tình để sống tích cực Tin Mừng của Chúa. Chúng ta đã tuân giữ các điều
răn, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại đối với những người túng thiếu, trần
trụi, đói khát. Vì việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt
thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy
sinh đó là cần thiết để đem lại bình an và niềm vui trong tâm hồn. Và để có thể
hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là
phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu
Chúa và yêu người. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi
tiêu cực của các điều răn: không hại người, không gian dối, không trộm cắp...
Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại
nàng, không nói dối, không xúc phạm đến nàng. Tình yêu khiến anh phải làm tích
cực hơn như thế rất nhiều, vì nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó
không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những điều răn
Chúa dạy, chúng ta chỉ là người "quen biết" Chúa chứ chưa phải là
người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là
vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa yêu Chúa và chưa yêu tha nhân.
Rất nhiều
người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì đã được biết Chúa, tự mãn vì mình
đã giữ các điều răn của Ngài từ thuở nhỏ, giống như chàng thanh niên giàu có
trong Tin Mừng. Đó là một điều rất đáng khen, vì Thiên Chúa cũng rất hài lòng
vì chúng ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh
niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước nữa, đó là sẵn sàng hy sinh
nhiều hơn nữa cho Chúa và cho anh em. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao
nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, cần đến sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta. Chúng
ta không thể nói mình yêu Chúa mà lại làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ.
Tình yêu thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào
những nhu cầu thiết yếu của anh em. Và chúng ta cũng cần có con mắt nhận xét và
tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình
nhất.
Chàng
thanh niên nghe Chúa Giêsu nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã
buồn rầu bỏ đi, vì anh quá thiết tha với tiền của. Từ đó Chúa Giêsu đưa ra nhận
định: "Người giàu có khó vào được Nước Trời". "Khó vào" chứ
không phải là không vào được, nếu không biết chia sẻ, giúp đỡ những người túng
thiếu, nghèo đói, để được một kho tàng trên trời. Dĩ nhiên, tiền của cần cho
cuộc sống, nhưng tiền của dễ làm cho con người trở nên mù quáng và ích kỷ.
"Tiền của là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu". Tiền của là đầy tớ đắc
lực cho mọi người, nhưng khi chúng ta coi tiền của như một ông chủ, thì lúc đó
nó sẽ trở thành ông vua thống trị với những luật lệ ác nghiệt của nó, nó hành
hạ, sai khiến chúng ta như tên nô lệ. Vì thế, Chúa đã nói: "Không ai vừa
làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của" (Lc 16,13). Phải lựa chọn
một.
Chúa
Giêsu đã tỏ ra tuyệt đối trong đòi hỏi của Ngài: "Ai trong anh em không từ
bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Thầy" (Lc 14,33). Từ
bỏ của cải không nhất thiết là từ bỏ quyền sở hữu. Từ bỏ đây, đối với đa số
Kitô hữu là có của mà lòng không tham lam, không nô lệ cho tiền của. Có của mà
biết dùng của để mua sắm kho tàng không bao giờ hư nát trên trời. Có của mà
biết quan tâm đến nhu cầu của người khác, coi hoàn cảnh thiếu thốn của người
chung quanh là thộc trách nhiệm của mình. Đó phải là cách sống của tất cả những
ai muốn thực sự là môn đệ của Chúa Kitô.
11. Suy
niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
SỰ CHỌN
LỰA KHÔN NGOAN
Một đám
cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15
năm là đám cưới của công nương Diana và hoàng tử Charles. Một chiếc nhẫn trị
giá đến 205 ngàn đô la để chỉ ngự trị trên bàn tay quí phái của Diana không quá
năm tiếng đồng hồ là chiếc nhẫn mà nhà triệu phú Dodi Fayer đã tặng cho công
nương trong đêm định mệnh. Tai nạn bất ngờ sảy ra. Diana đi về thế giới bên
kia. Không mang theo được đồng đô la nào. Chiếc nhẫn kim cương đắt giá cũng
được tháo ra trao lại cho gia đình Spencer.
Nằm trong
quan tài, Diana với đôi tay không nhẫn cưới và cũng chẳng có nhẫn kim cương.
Điều kỳ lạ là trên đôi tay ấy người ta có thấy một cỗ tràng hạt do Mẹ Têrêsa
trao tặng trong một lần tiếp xúc. Phải chăng:
Kiếp ngắn
dài, một mộ bia
Xoay vần
cát bụi ngày lìa dương gian
Dừng chân
đếm túi hành trang
Những gì
còn lại, chuỗi vàng lời kinh?
(Lm. Trần
Cao Tường)
Phải
chăng những người có trách nhiệm sau cùng trên thi hài của công nương đã muốn
nói với mọi người: tiền bạc, kim cương, danh dự, vật chất, sang giàu, thế
gian... không phải là hành trang cho một cuộc sống hạnh phúc đời đời, nhưng là
những mầm sống yêu thương và những giá trị thiêng liêng mà Mẹ Têrêsa, qua bộ
tràng hạt, đã trao lại cho Diana và thế giới như một lời nhắn nhủ?
Hạnh phúc
sung mãn và trường tồn không thể tìm thấy trong sự sang giàu của thế gian.
Thánh kinh đã khẳng định điều đó. Cả ba Phúc âm Nhất lãm đều ghi nhận: một ngày
kia khi Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để bước vào cuộc khổ nạn
hầu mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho muôn người, thì một chàng thanh niên
giàu có "chạy" đến. Anh ta quì xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa:
"Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ
nghiệp." Chắc hẳn câu hỏi của anh thanh niên đã làm bối rối và sửng sốt
cho không ít người: cứ tưởng "có tiền mua tiên cũng được," đàng này
trong con người còn có một thứ mắc hơn tiên đến nỗi có tiền chưa chắc đã mua
được. Đấy chính là một khát vọng vô biên.
Vì là
khát vọng vô biên nên chắc chắn không một thực tại hữu biên nào trên thế gian
này có thể lấp đầy. Dù đó là xác thịt, kiến thức, giàu sang hay bất cứ thứ
gì... ngoại trừ Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, mới có thể thoả
mãn cái khát vọng vô biên nơi lòng con người. Chính Thánh Augustinô, sau khi
trải qua biết bao kinh nghiệm tìm kiếm đối tượng cho khát vọng vô biên nơi lòng
mình, đã thốt lên:
Chỉ trong
Thiên Chúa mà thôi
Hồn tôi
mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Trước
những trăn trở không câu trả lời, người thanh niên giàu có thấy được Đức Giêsu
như một cứu cánh. Anh đã "chạy" đến với Ngài. Chạy là thái độ của
khao khát, nôn nóng kiếm tìm chân lý, trái nghịch với thái độ thẫn thờ, bàng
quang, chẳng thiết tha.
Trước tâm
tình và ước nguyện của chàng thanh niên, Đức Giêsu đã làm một cuộc phỏng vấn
liên quan đến các giới răn: ngươi không được giết người, không được ngoại tình,
không được trộm cắp, không làm chứng gian, không.... Và người đó đáp lại:
"Thưa Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở còn thơ." Nghe thế Đức
Giêsu bảo anh ta: "Ngươi còn thiếu một điều. Có gì thì hãy đem bán mà cho
kẻ nghèo. Đoạn hãy đến theo Ta" (Mc 10:21).
Thật kỳ
lạ! Sống không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình, không bất công,
không gian dối, ấy thế mà Chúa Giêsu còn bảo là chưa đủ. Chàng thanh niên giữ
các giới răn khá là trọn vẹn mà còn bị cho là thiếu. Không biết đời tôi từng
phạm điều này, lỗi nghịch điều kia, chắc là còn thiếu nhiều lắm!
Thế nên
không thể cho rằng tôi sống đàng hoàng, không phạm 10 điều răn Đức Chúa Trời,
chẳng để sót sáu điều răn Hội Thánh, tôi không làm hại ai, không gây tổn thương
cho người nào là bảo đảm vào thiên đàng 100% rồi đâu. Nếu chỉ không điều này,
không điều kia mà đủ tiêu chuẩn để sống hạnh phúc đời đời thì cần gì theo Chúa.
Theo vô vi cũng được vậy. Song người ta cần phải có. Đó là có yêu thương, có
quảng đại, có trao ban, có thứ tha, có cho đi chính mình như Đức Giêsu.
"Hãy
đến mà theo Ta" cũng có nghĩa là bước theo Ngài trên nẻo đường dâng hiến
đời mình cho sự sống tha nhân. Và chỉ khi trao ban dâng hiến như thế con người
mới tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thật sự cho cuộc đời.
Nong nả
đi tìm câu trả lời cho đâu là ý nghĩa của cuộc sống, ấy thế mà khi nhận được
lời giải đáp, chàng thanh niên lại sa sầm nét mặt, bỏ đi buồn rầu. Thánh kinh
cho biết "vì anh ta có nhiều của" (Mc 10:22).
Bước theo
Đức Giêsu đòi hỏi một thái độ vươn mình trên những gì là của cải vật chất. Bởi
vì "không ai có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét người này mà mến
người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể
làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được." Ấy thế mà, nếu thành tâm xét lại,
thì hình như trong đời tôi vẫn còn đó những khoảnh khắc vừa mang danh Kitô hữu
lại vừa xem tiền bạc như lẽ sống. Phải chăng vừa theo Chúa, tôi vừa tự biến
mình làm "con vật kinh tế," thậm chí có khi còn giành giật, lừa gạt,
chà đạp, sát phạt kẻ khác... vì đồng tiền.
Bao lâu
chỉ biết thu về mà không hề trao ban, người ta sẽ cứ mãi "sầm mặt xuống,
buồn rầu." Khi nào biết san sẻ cho kẻ nghèo khó, người ta sẽ lớn lên trong
tình yêu và tiếng cười. Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở:
"Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô
lệ cho thành công. Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó. Để
giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục." Nhưng rồi sau những công việc
từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: "Chỉ từ khi biết yêu thương,
đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự."
Cha
Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự.
Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van
Cruyssen. Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy,
với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo. Nhưng
giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái
Tim Chúa Giêsu trong tu viện.
Trong dịp
ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng
viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự. Sau lễ
nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: "Cha
Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều."
Yêu
thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những
ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi. Yêu thương
san sẻ không hệ tại nơi tiền bạc của cải, song là ở tất cả những gì mình có.
Đức Giêsu đã bảo: "Hãy đi bán tất cả những gì ngươi có mà cho kẻ
nghèo." Người nghèo là người túng thiếu-không chỉ thiếu về của cải, nhưng
còn có thể thiếu về giáo lý, kiến thức, sức lực, cảm thông, tha thứ, tiếng ca,
nụ cười....
Vậy nếu
trong gia đình, nơi giáo xứ, cộng đoàn, hay tại sở làm của tôi vẫn còn những
người thiếu thốn như thế, liệu tôi có can đảm đáp trả lời mời gọi của Đức
Kitô-"Hãy cho, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời"-hay tôi sẽ cúi
mặt, bỏ đi, buồn rầu.
Chọn lựa
bước theo Đức Kitô là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu. Nhưng đó lại chính
là một lựa chọn khôn ngoan và đáng giá vô cùng.
12. Giàu:
tốt hay xấu - Gm. Arthur Tonne.
Ngày 6
tháng 6 năm 1976. Một người giàu nhất xưa nay đã qua đời, thọ 83 tuổi; ông I.
Paul Getty để lại từ khoảng 2 đến 7 tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, mấy năm trước
đây ông tuyên bố với một người phỏng vấn: "Tôi mong dùng tất cả gia tài
của tôi để xây dựng một hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi sợ không thể
tạo được hạnh phúc hôn nhân". Có lần một phóng viên làm ông phải thú nhận
là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình. Suy nghĩ vài giây, ông trả lời:
"Vâng, thật đáng buồn". Một lần khác ông xác nhận: Tiền bạc không thể
mua hạnh phúc, hơn nữa ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với bất hạnh nữa.
Chúng ta
nhớ đến nhà tỷ phú này khi đọc câu chuyện người thanh niên giàu có trong bài
Tin Mừng hôm nay. Người thanh niên giàu có này sống đời luân lý tốt đẹp, nhưng
anh cảm thấy thiếu một cái gì. Chúa Giêsu đã nói cho anh điều anh thiếu:
"Bạn về và bán những gì bạn có. Giúp người nghèo và bạn sẽ có một kho tàng
ở trên trời. Rồi đến theo tôi". Chàng thanh niên bỏ đi, vì anh giàu có.
Điều này
áp dụng cho bạn và tôi làm sao? Trước khi trả lời, chúng ta lưu ý hai sự kiện:
Một là từng người một trong chúng ta, không kể giàu nghèo. Chúng ta phải làm
điều Chúa Giêsu đòi hỏi người thanh niên: Chúng ta sẽ phải từ bỏ mọi sự chúng
ta có – Cái chết.
Hai là có
hàng ngàn người nam, nữ trong suốt dòng lịch sử và trong thời đại chúng ta,
tình nguyện bỏ mọi sự để làm linh mục, làm tu sĩ nam nữ. Cả một số giáo dân
cũng làm như vậy để phụng sự Chúa tự do hơn.
Chúa
Giêsu có truyền tất cả chúng ta phải bỏ mọi sự mình có không? Người có mong tất
cả chúng ta là tu sĩ không?
Không,
hoàn toàn không. Nhưng người truyền chúng ta biết dùng của cải một cách nào đó
để đừng quên Cha trên trời, Đấng ban cho chúng ta những cái đó.
Có phải
tiện tặn là là sai? Phải chung góp vốn là sai? Để dành tiền phòng khi già yếu?
Hay xây dựng gia đình là sai? Không, hoàn toàn không. Cái sai của sự giàu có là
tôn thờ, phục vụ và tin tưởng vào đồng đôla vạn năng thay thế cho Thiên Chúa
quyền phép.
Khi các
Tông đồ hỏi Chúa: "Vậy ai có thể được cứu rỗi?". Chúa tuyên bố:
"Với người ta thì không thể được, nhưng không phải với Thiên Chúa. Vì
Thiên Chúa làm được mọi sự".
Như thế
người giàu cũng có thể được cứu rỗi, nhưng phải nhờ ơn Chúa giúp. Tôi đề nghị
chúng ta hãy xin Cha trên trời giúp chúng ta sử dụng của cải đúng cách, giúp
chúng ta ý thức rằng của cải vật chất cũng là hồng ân và ơn huệ của Chúa. Tôi
xin được phép giới thiệu một lời kinh:
"Lạy
Cha trên trời, con cảm tạ Cha vì gia đình con đầy đủ và và quá đầy đủ nữa, xin
giúp con biết sử dụng của cải theo ý Chúa. Xin giúp con biết chia sẻ cho những
người ít hơn hoặc không có. Xin giúp con tiếp tay trong công cuộc của Chúa trên
trần gian. Xin giúp con tin tưởng nơi Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Xin
giúp con sống rộng rãi với mọi người như Chúa hằng quảng đại với con".
Bạn đọc
kinh này khi dâng bánh và rượu trong Thánh Lễ.
Xin Chúa
chúc lành bạn.
13. Suy
niệm của Noel Quesson.
NGƯỜI
GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA.
Một bác
nông dân người Anh có dịp nghe Dôn Oets-lây (John Wesley) giảng. Oets-lây là
một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Hôm đó ông giảng về việc sử dụng tiền của.
Oets-lây
bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng, phải ra công tích lũy tối đa, phải dùng hết
khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh:
Hay lắm.
Rồi
Oets-lây khai triển điểm thứ hai: phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung
phí xa xỉ, tiêu xài quá đáng. Bác nông dân suýt xoa: Bài giảng tuyệt vời. Cám
ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm.
Cuối cùng
nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Hãy chia sẻ tối đa. Phải quan niệm sự
thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe thế, bác
nông dân lắc đầu bỏ nhà thờ đi ra.
Người
thanh niên mà Tin Mừng kể hôm nay, anh cũng có nhiều đức tính, vốn thi hành
luật Chúa từ nhỏ, nhưng khi nói tới tiền của, phải hy sinh tiền của cho người
khác thì anh không chấp nhận.
Khi người
thanh niên hỏi Chúa: Phải làm gì để được sống đời đời. Chúa đã kể ra những việc
phải làm. Chúa chỉ kể ra những việc mà Chúa cho là quan trọng: đừng giết người,
đừng ngoại tình, đừng trộm cướp, đừng làm chứng gian, đừng lừa dối ai, hãy thảo
kính cha mẹ. Nói tới điều quan trọng nhất trong việc giữ đạo, ta thường nghĩ
tới việc thờ phượng, đọc kinh xem lễ. Nhưng trong cách diễn tả của Chúa Giêsu
thì quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người, mà hai điều đó giống nhau (Mt
22,39). Hay đúng hơn phải bắt đầu bằng biểu lộ bác ái yêu thương với anh chị em
đồng loại, vì chính đó là dấu hiệu của lòng mến Chúa.
Nhưng
những việc luật đòi giữ đây mới là phần tiêu cực, và Chúa Giêsu chưa cho thế là
đủ. Chúa đòi ta chia sẻ với anh chị em những gì mà ta quý trọng nhất, những gì
tha thiết nhất với chúng ta. Chúa bảo ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu, và
chúng ta biết Chúa yêu thương cho tới cùng, cho tới hiến cả mạng sống mình.
Chúng ta phải sẵn sàng chia sẻ những gì thiết thực nhất, trong đó có tiền của
và có thể coi tiền của là một thước đo mức độ bác ái của ta với anh em.
Anh thanh
niên nghe Chúa nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ
đi, có nghĩa là anh quá thiết tha với tiền của. Và từ đó Chúa đưa ra nhận định:
Người giàu khó vào Nước Thiên Chúa. Tiền của cần cho cuộc sống. Tiền của là đầy
tớ đắc lực cho mọi người. Những ý niệm này rất đúng, và Chúa Giêsu hoàn toàn
tán đồng. Nhưng khi chúng ta coi tiền như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ là một
ông chủ khắc nghiệt, nó hành hạ, sai khiến chúng ta. Và khi đó Chúa không chấp
nhận, "Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của" (Lc
16,13), phải chọn một.
Lạy Chúa,
xin giúp chúng con biết quan tâm đến những người anh chị em nghèo khó, sẵn sàng
chia sẻ cho họ những gì chúng con có, để chúng con xứng đáng làm môn đệ Chúa và
được thừa hưởng sự sống muôn đời.
14. Giàu.
Ngày
06.6.1976, một nhà tỷ phú, giàu có và hạnh phúc nhất trên thế giới, là ông Paul
Getty, đã qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly
dị, ông đã tuyên bố với một phóng viên báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài
của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi lo không
thể tạo được hạnh phúc hôn nhân. Có lần ông cũng đã thú nhận rằng mình đã không
đạt được hạnh phúc trong gia đình. Và ông đã kết luận: Tiền bạc không thể mua
được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Từ hình
ảnh nhà tỷ phú Paul Getty chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chàng
thanh niên giàu có, sống một đời sống luân lý tốt đẹp, nhưng chàng vẫn cảm thấy
còn thiếu vắng một cái gì đó. Và rồi Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho chàng biết điều
thiếu vắng ấy: Ngươi hãy về, bán tất cả những gì ngươi có, làm phúc bố thí cho
kẻ nghèo túng, rồi hãy đến và theo Ta. Thế nhưng chàng thanh niên đã buồn bã,
cúi mặt bỏ đi vì chàng là một người giàu có.
Câu
chuyện về chàng thanh niên giàu có sẽ đem lại cho chúng ta những kết luận cụ
thể nào? Trước khi trả lời, chúng ta hãy lưu ý tới hai sự kiện:
Sự kiện
thứ nhất, đó là từng người một, bất luận giàu sang hay nghèo túng, chúng ta đều
phải thực hiện điều Chúa Giêsu đòi hỏi, là từ bỏ mọi sự chúng ta đang có, nhất
là khi chúng ta phải đối đầu với cái chết. Thực vậy, khi thần chết đã lên tiếng
gọi, thì chúng ta không thể mang theo bất cứ tiền bạc của cải vật chất nào sang
thế giới bên kia, vì đó là một chuyến đi, một cuộc hành trình cô đơn nhất.
Sự kiện
thứ hai, đó là trong dòng thời gian, có biết bao nhiêu người, nam cũng như nữ,
đã từ bỏ mọi sự để dâng hiến trọn vẹn cho Chúa, sống trong những dòng tu cũng
như sống giữa lòng cuộc đời, để nhờ đó được tự do phụng sự Chúa.
Vậy Chúa
Giêsu có truyền cho tất cả chúng ta phải từ bỏ mọi sự mình có và Ngài có mong
cho tất cả chúng ta đều trở thành linh mục, tu sĩ hay không? Dĩ nhiên là không,
hoàn toàn không. Thế nhưng Ngài truyền cho chúng ta phải biết dùng của cải một
cách nào đó, để sinh ích cho linh hồn chúng ta, cũng như đừng bao giờ quên rằng
Thiên Chúa, là Cha trên trời, Đấng đã ban cho chúng ta tất cả những cái đó.
Ngoài ra
sự tiết kiệm, góp vốn, phòng xa có phải là điều sai quấy hay không? Dĩ nhiên là
không, hoàn toàn không. Cái sai quấy của sự giàu có là tôn thờ tiền bạc, phục
vụ tiền bạc, tin tưởng vào tiền bạc như một đấng vạn năng thay cho Thiên Chúa.
Trước
những khó khăn là như thế, các tông đồ đã hỏi Chúa Giêsu: Vậy thì ai có thể
được cứu rỗi? Chúa Giêsu đã tuyên bố: Đối với người ta thì không thể được,
nhưng không phải là đối với Thiên Chúa vì Ngài làm được mọi sự. Như thế người
giàu cũng có thể được cứu rỗi nhưng phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Bởi đó,
hãy biết tìm kiếm tiền bạc một cách công bằng và hãy biết xử dụng tiền bạc một
cách chính đáng, vì của cải vật chất cũng là một thứ hồng ân của Thiên Chúa.
Cái khó là đừng để cõi lòng mình quá quyến luyến, quá dính bén, quá đam mê chạy
theo tiền bạc, để rồi bỏ quên Chúa và bóc lột những người anh em của chúng ta.
15. Làm
nhiều hơn.
Có một thanh
niên làm nghề bán sách rong. Ngày kia anh vào nhà một bác nông dân và giới
thiệu:
- Thưa
bác, cháu có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp mười cách bác
đang làm.
Bác nông
dân yên lặng, bắn một điếu thuốc lào rồi nói:
- Này anh
bạn, chẳng cần sách của anh, nhưng tôi cũng đã biết phải làm thế nào để canh
tác sinh lợi gấp mười lần cách thức hiện nay tôi đang làm.
Câu
chuyện trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, bác nông
dân biết cách canh tác tốt hơn nhưng bác lại thiếu nhiệt tình để cố gắng làm
điều ấy.
Cũng như
chàng thanh niên giàu có, dư sức làm nhiều hơn việc tuân giữ các giới luật,
nhưng anh ta đã không đủ nhiệt tình để thực hiện những yêu cầu của Chúa. Sau
khi anh ta cho biết mình đã tuân giữ các giới luật từ thuở nhỏ, Chúa Giêsu đã
tỏ ra thán phục, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô giáo không
chỉ là việc tuân thủ các huấn lệnh tiêu cực ấy như đừng trộm cắp, lừa đảo...
nhưng phải mang tính cách tích cực hơn nhiều. Và Ngài đã nói với anh ta:
- Con
chưa hề gây thương tổn cho ai, điều đó quả là đáng khen. Nhưng con đã làm gì để
giúp đỡ người khác. Con đã biết dùng của cải để cho kẻ đói được ăn, kẻ khát
được uống và người trần trụi được mặc?
Chính khi
nghe những điều ấy, anh ta đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khuyết điểm.
Rồi Chúa
đề nghị cùng anh:
- Nếu
muốn theo Ta, con hãy thay đổi cách nhìn. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một
cách tiêu cực, nhưng phải nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn
như giúp đỡ người khác. Vì thế, hãy bán mọi sản nghiệp, bố thí cho người khác,
rồi hảy đến và theo Ta. Cứ thực hành điều như vậy, thì con sẽ tìm thấy hạnh
phúc đời này và đời sau.
Thế
nhưng, anh ta đã không có đủ can đảm để chấp nhận những thiệt thòi trên con
đường bước theo Chúa, trên con đường trở nên trọn lành. Và anh ta đã buồn sầu
cúi mặt bỏ đi.
Nhiều
người trong chúng ta cũng giống như bác nông dân. Chúng ta biết rõ mình có thể
trở thành một Kitô hữu tốt lành gấp mười lần tình trạng hiện nay, nhưng chúng
ta lại thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.
Cũng
giống như chàng thanh niên giàu có. Chúng ta đã tuân giữ những giới luật của
Chúa, nhưng lại chưa tỏ ra rộng lượng đối với những kẻ túng thiếu, khổ đau và
bất hạnh. Bởi vì công việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận
những thiệt thòi. Và cốt lõi của vấn đề, đó là vì chúng ta còn thiếu tình yêu
đối với Chúa và đối với anh em.
Đúng thế,
tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của lề luật:
không gian dối, không trộm cắp... Một thanh niên yêu một thiếu nữ, sẽ không chỉ
hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không xúc phạm đến cô ấy, nhưng hơn thế
nữa, tình yêu thúc đẩy anh phải làm cho cô ấy được hài lòng, được vui mừng,
được hạnh phúc. Bằng không thì đó chưa phải là tình yêu đích thực.
Cũng vậy,
nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, thì chúng ta mới chỉ là
những người "quen biết" với Chúa, chứ chưa phải là người yêu Chúa.
Nếu chúng
ta không muốn làm những điều tích cực hơn nữa, thì đó chính là vì chúng ta
thiếu tình yêu. Chúng ta chưa thực sự yêu Chúa cũng như chưa thương người.
16. Tiền
của.
Một bác
nông dân người Anh đang ngồi nghe một nhà giảng thuyết tài ba tên là Dôn
Oét-lây (John Wesley) rao giảng Tin Mừng. Hôm đó, nhà giảng thuyết đề cập đến
vấn đề tiền bạc của cải, đầu tiên, nhà giảng thuyết nói đến việc "phải ra
công tích lũy tiền bạc tối đa, phải dùng hết khả năng để kiếm tiền và làm
giàu". Bác nông dân gật đầu và nói nhỏ vào tai ông bạn thân đang ngồi bên
cạnh: "Thật là một tư tưởng hay". Rồi nhà giảng thuyết khai triển điểm
thứ hai của bài giảng: "Phải tiết kiệm tối đa, ông lên án những thói ăn
chơi xa xỉ, quăng tiền qua cửa sổ". Bác nông dân một lần nữa lại xuýt xoa:
"Bài giảng thật là tuyệt vời, cám ơn Chúa, từ trước đến giờ ta vẫn luôn
làm như ta vẫn luôn làm như lời ông ta nói là tiết kiệm". Cuối cùng, nhà
giảng thuyết đề cập đến điểm then chốt của bài giảng: "Hãy đem những của
cải đã thu gom được chia sẻ cho những Đức Kitô hiện thân nơi những người nghèo
chung quanh, vì của cải vật chất là của Thiên Chúa ban chung cho nhân loại,
chúng ta chỉ là những người quản lý. Do đó, chúng ta phải tích cực làm việc bác
ái xã hội, phải dạy người nghèo một nghề để tự kiếm sống, phải tạo ra nhiều
việc làm, đừng để xảy ra tình trạng người thì ăn sung mặc sướng, trong khi
nhiều người khác lại bị đói khát, bất hạnh...". Nghe vậy, bác nông dân sụ
nét mặt lại, lắc đầu tỏ ý không bằng lòng và bỏ ra về, ông vừa đi vừa lẩm bẩm:
"Cái lão thầy tu này giảng không thực tế chút nào, tại sao lại phải đem
tiền của kiếm được do công lao mồ hôi nước mắt của mình mà chia sẻ cho kẻ
khác?"
Bác nông
dân trên đây đã phản ứng trước đòi hỏi của Tin Mừng về vấn đề tiền của rất
giống với chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay. Anh thành tâm thiện chí
xin Chúa Giêsu một lời khuyên để đạt sự sống đời đời. Có lẽ ít có thanh niên nào
lại bận tâm đến cuộc sống đời đời như anh thanh niên này, vì thường họ chỉ nghĩ
sống cho hiện tại. Chúa âu yếm nhìn anh và nói: "Hãy giữ các điều
răn", đó là phương thế rất phổ thông và truyền thống trong đạo Do Thái. Có
thể nói anh rất hài lòng về câu trả lời của Chúa, và hãnh diện vì mình đã tuân
giữ các điều răn ngay từ nhỏ. Vậy tại sao anh còn tìm kiếm thêm? vì đó chỉ là
mức tối thiểu đối với đa số người Do Thái. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi anh bước
thêm bước nữa: "Bán của cải và chia sẻ cho người nghèo để theo Ngài".
Nhưng anh đã chùn bước.
Giả như
Chúa Giêsu bảo anh giữ thêm một điều răn nữa, dù có khắt khe hơn, chắc anh sẵn
sàng nhận ngay, nhưng Chúa lại mời gọi anh chia sẻ cái anh có cho người nghèo,
nên anh khó chấp nhận và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. Quả thật, giữ
thì không khó khăn lắm, nhưng cho thì không dễ dàng gì. Người ta có thể dễ dàng
theo Chúa khi họ không phải từ bỏ của cải mình có, nhưng khi đòi phải từ bỏ
những đồng tiền thì họ không dứt được, vì "đồng tiền liền khúc ruột".
Con đường giữ đạo và con đường hoàn hảo còn cách xa nhau lắm, vì con đường hoàn
hảo là con đường từ bỏ, kể cả mạng sống mình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đảo
lộn mọi dự đoán của chàng thanh niên ấy: vấn đề không phải là làm việc gì hay
giữ điều gì, nhưng là từ bỏ những cái thân thiết, gần gũi, quý giá để thong
dong và dễ dàng đón nhận Chúa là nguồn gốc và đích điểm của cuộc sống hạnh phúc
vĩnh cửu.
Chúng ta
thấy bác nông dân trong câu chuyện trên và anh thanh niên trong bài Tin Mừng,
cả hai đều có thiện chí muốn nên tốt hơn nên đã đi tìm và hỏi ý kiến Chúa
Giêsu, cả hai đều hài lòng về những điều mình đã làm là tuân giữ các điều răn.
Nhưng khi Chúa đòi phải từ bỏ bằng việc bán gia sản mà chia sẻ cho những người
nghèo khổ, thì cả hai đều sụ nét mặt và buồn rầu thất vọng bỏ đi.
Liền sau
đó Chúa đề cập đến vấn đề tiền của và sự giàu có: Đối với phần đông chúng ta,
Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tiền của, như mọi người khác, chúng ta cũng
cần có tiền của, và có tiền của mới sống được " chúng ta cần có một căn
nhà để tránh "ăn nhờ ở đậu" gây phiền hà cho người khác. Chúng ta cần
có đủ áo mặc, có đủ cơm ăn để khỏi nên gánh nặng cho tha nhân, không đánh mất
phẩm giá của mình và tránh lệ thuộc vào người khác. Ngoài ra, nhiều người đã
biết khởi điểm của mọi sự là "thủ tục đầu tiên", không có "thủ
tục đầu tiên" này thì mọi việc khó mà êm xuôi. Hơn nữa, không có tiền có
lẽ khó mà lấy vợ có chồng, một tiệc cưới cũng tốn kém từ vài triệu đến vài chục
triệu. Ở Hàn Quốc, họ nói như sau: "muốn cưới vợ thì chàng phải có ba chìa
khóa: chìa khóa xe hơi, chìa khóa nhà, và chìa khóa hòm tiền ở ngân hàng".
Nhưng đối với chúng ta, cần phải có chìa khóa thứ tư nữa, ba chìa khóa kia mở
cửa "tiền", còn chìa khóa thứ tư mở cửa "lòng".
Bởi lẽ:
tiền có thể mua nhà cửa nhưng không mua được tổ ấm, tiền có thể mua giường nệm
nhưng không mua được giấc ngủ yên, tiền có thể mua lạc thú nhưng không mua được
hạnh phúc, tiền có thể mua thế gian nhưng không mua được thiên đàng. Cửa lòng
mà chìa khóa thứ tư mở ra, đó là lòng bác ái, lòng yêu thương của chúng ta.
Tóm lại,
điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta phải sống là đừng coi tiền bạc là ông chủ,
nhưng hãy coi nó là đầy tớ. Tiền của là ông chủ xấu, nhưng lại là một đầy tớ
tốt. Một khi trở thành phương tiện, thì tiền của sẽ là một trợ thủ đắc lực, giúp
chúng ta làm được nhiều việc lớn lao và chu toàn được sứ mệnh làm vinh danh
Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.
17. Dâng
hiến.
"Con
lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa".
Lời tuyên
bố trên đây của Chúa Giêsu có bao gồm và đụng chạm đến những người đang sống
trong các khu vực sang trọng giàu có ở Manila như Forbes Park, Corinthian
Gardens và Ayala Alabang hay không? Lời tuyên bố này có đánh động những người
đang làm chủ các tập đoàn thương mại khổng lồ ở Philippies hay không?
Trên thực
tế, tiền bạc hay sự giàu có không phải là một sự dữ tất yếu. Ngay cả Chúa
Giêsu cũng đã hưởng những thực phẩm, những bữa tiệc và cả nơi nghỉ ngơi do
những người bạn giàu có của Ngài cung cấp. Cũng vậy, với tiền bạc, bạn có thể
làm được nhiều việc tốt, chẳng hạn như lo việc ăn học cho con cái, mua những
vật nhu yếu phẩm, làm những việc từ thiện bác ái. Nhưng với tiền bạc, bạn cũng
có thể làm nhiều điều ác. Với tiền bạc, bạn có thể hối lộ, mua các lá phiếu
trong các cuộc bầu cử, thuê những tên khủng bố và làm những hành động bất lương
khác. Sống như vậy, con người thay vì làm chủ tiền bạc thì lại trở nên nô lệ
cho nó.
Mặt
khác, nghèo khó hay sống trong nghèo khó cũng không phải đương nhiên là
một nhân đức. Lấy ví dụ: một người nghèo luôn miệng nguyền rủa thân phận nghèo
khổ của mình. Anh ta bị ám ảnh muốn trở nên giàu có như người hàng xóm. Nhưng
thực tế anh vẫn phải sống trong cảnh nghèo. Và một người nghèo khác, mặc dù
nghèo khổ nhưng anh vẫn hướng về Thiên Chúa, chuyên chăm cầu nguyện và tham gia
vào các hoạt động truyền giáo của Giáo hội, giúp đỡ những người khác. Lúc đó,
nghèo khó trở thành một nhân đức Kitô giáo, vì giúp ta sống gắn bó với Thiên
Chúa và không dính bén với của cải thế gian.
Chúa
Giêsu muốn mỗi người chúng ta sống một cuộc đời dâng hiến trọn vẹn cho Thiên
Chúa đúng với căn tính của mình là Kitô hữu. Vì thế, nếu bạn là một người đã
kết hôn, hãy là một người chồng hay một người vợ tốt, đừng tìm kiếm một người
khác xinh đẹp hơn người phối ngẫu của mình. Nếu bạn là một người làm công, hãy làm
việc chu đáo. Nếu bạn là một người chủ, hãy ở công bằng. Cuối cùng, chúng ta
hãy suy nghĩ về bốn hướng dẫn quan trọng sau đây:
- Hãy nhớ
rằng vào một thời điểm nào đó, bạn sẽ phải ra đi.
- Hãy tìm
niềm vui trong sự trao ban hơn là khi thu góp.
- Sống gắn
bó với thánh giá hơn là dính chặt vào đồng pêsô.
- Hãy nhớ
rằng tiền bạc thì mau qua, và bạn chỉ có một bảo đảm chắc chắn ở nơi Thiên
Chúa.
Lạy Chúa,
xin giúp con nhớ rằng không dính bén với của cải thế gian là một phương thế
giúp sống gắn bó với Chúa.
18. Sự
lựa chọn.
Cách đây
một vài năm, Sir Kenneth Clark người Anh làm đầu chương trình trên TV "Nền
Văn Hóa" nổi danh khắp thế giới. Clark theo chủ nghĩa nhân bản, không cho
tôn giáo là việc quan trọng. Điều này không có nghĩa rằng ông khinh khi việc
theo đạo hoặc lãnh đạm việc thờ phượng. Ngược lại, ông còn nói một vài nét đặc
biệt của việc theo đạo. Một hôm, tại nhà thờ San Lorenzo
ông đã lãnh nhận được một cảm nghiệm. Ông viết: "Trong một vài phút, cả
người tôi như được soi sáng với một niềm vui thiên đàng mà còn hơn tất cả những
cảm giác mà tôi đã từng trải qua."
Khi nói
về cảm tưởng đó, Clark đối diện với một câu
hỏi: "Tôi phải làm gì với cái ơn đó?" Công khai, ông không phải là
người theo đạo. Nếu ông tự nhiên trở thành một người theo đạo, thì gia đình ông
và bạn bè ông sẽ nghĩ rằng ông đã dẫm vào chỗ lầm lạc. Và như thế, Clark đã lựa chọn không làm một cái gì hết với cảm tưởng
mà ông đã lãnh nhận được. Ông hoàn toàn quay lưng lại trong vấn đề đó.
Câu
truyện của Sir Kenneth Clark mang một ý nghĩa giống như câu truyện về người
thanh niên giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay.
Giống như
người thanh niên giàu có, Kenneth là một người rất tốt, Kenneth tìm thấy một
hấp dẫn ở nơi Chúa Giêsu một cách không thể ngờ được, Kenneth đã phải đương đầu
với câu hỏi thật khó khăn để tìm được câu trả lời: Tôi phải làm gì?
Giống như
người thanh niên giàu có, Sir Kenneth đã nghĩ đến cái giá phải trả nếu ông chọn
theo Chúa Giêsu, nhưng ông đã từ chối ơn Chúa..
Sự hưởng
ứng của người thanh niên giàu có và Sir Kenneth nhắc nhớ chúng ta dụ ngôn người
gieo hạt giống. Đặc biệt là phần những hạt giống rơi trên vệ đường.
Chúa
Giêsu đã giải thích rằng những hạt giống rơi trên vệ đường tượng trưng cho
những người đón nhận lời Chúa, nhưng để cho quỉ dữ lấy đi trước khi nó đâm rễ
vào cuộc đời của họ (Mc 4,15).
Hai câu
truyện trên rất thích hợp với chúng ta bởi vì nó rất thực tế. Chúng diễn tả con
người ngày nay cũng đang phải chiến đấu giữa những sự lựa chọn.
Người
thanh niên giàu có trong Phúc Âm đã bị của cải thế gian làm cho lù mờ lời mời
gọi của Chúa Giêsu. Cũng như thế, Sir Kenneth đã lựa chọn làm hài lòng gia đình
và bạn bè hơn là theo Chúa. Cả hai người đều chạy theo vui thú thế gian thay vì
kho tàng trên trời.
Điều này dẫn
chúng ta đến con người của chúng ta. Sự ưu tiên của chúng ta là cái gì? Kho
tàng thế gian quan trọng hơn hay là kho tàng đời sau?
Nếu sự ưu
tiên của chúng ta là thế gian, thì chúng ta phải làm thế nào để đổi mới? Chúng
ta phải làm sao để không đưa đến hậu quả giống như người thanh niên trong Phúc
Âm? Vậy, chúng ta hãy cầu nguyện và nài xin ơn khôn ngoan để có thể nhìn ra
những sự giả trá của thế gian mà không chạy theo chúng.
Bài đọc
thứ hai nhắc nhở chúng ta rằng một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải tính sổ về
cuộc đời của chúng ta với Chúa. Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu trách
nhiệm về những quyết định mà chúng ta làm. Ngài sẽ bắt chúng ta trả lời về
những hành vi của quyết định của chúng ta.
Nói một
cách khác, sự lựa chọn mà người thanh niên đã đương đầu thì chúng ta cũng vậy.
Giống như họ, chúng ta phải làm một quyết định. Quyết định này sẽ giúp chúng ta
định rõ không phải sự hạnh phúc thế gian mà thôi, nhưng là hạnh phúc vĩnh cửu.
19. Chúa
nhìn chàng.
Qua đoạn
Tin mừng hôm nay, có một chi tiết đáng cho chúng ta ghi nhận, đó là sau khi
chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu:
- Thưa
Thày nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?
Chúa
Giêsu trả lời:
- Hẳn anh
đã biết các điều răn: chờ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng gian, chớ ám hại ai, hãy thảo kính cha mẹ.
Anh ta
nói:
- Thưa
Thày, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.
Bấy giờ,
Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Phải,
Chúa Giêsu nhìn chàng và yêu mến chàng. Thế nhưng, đâu là điều đã làm cho Chúa
Giêsu yêu mến?
Theo tôi
nghĩ, điều làm cho Chúa Giêsu yêu mến không phải là sự trọn lành tương đối mà
chàng đã đạt được ngay từ hồi còn nhỏ, đó là tuân giữ các điều răn của Ngài,
nhưng là sự khắc khoải muốn được vươn lên, là sự cầu tiến của một tâm hồn thấy
mình chưa được trọn lành, và chưa được thỏa mãn, là sự băn khoăn trước nhu cầu
cần phải làm thêm hơn nữa.
Đó là một
tâm hồn cởi mở tự nhận thấy, ít nữa là một cách lu mờ, rằng mình chưa làm gì
hết, bao lâu còn có sự phải làm, mình chưa cho gì cả bao lâu còn có sự phải
cho.
Thế
nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu chỉ cho biết điều kiện cần thiết, điều kiện ắt
có và đủ để được trở nên trọn lành, đó là hãy trở về, bán hết mọi của cải, làm
phúc bố thí cho người nghèo khổ, rồi hãy đến mà theo Chúa...thì chàng đã hoang
mang suy nghĩ, vì đó là một điều kiện cân não đòi buộc chàng phải từ bỏ. Sau
đó, chàng đã lưỡng lự phân vân, để rồi cuối cùng chàng đã cúi mặt bỏ đi. Chàng
đã không dám liều, không dám đánh đổi tất cả để được theo Chúa, chàng đã không
có can đảm để hiến dâng trọn vẹn cho Chúa.
Phúc âm
còn ghi rõ: sở dĩ như vậy vì chàng có nhiều sản nghiệp. Tiền bạc đã cản ngăn
bước chân của chàng. Chúng ta cảm thấy tiếc xót cho chàng và cho Giáo hội vì đã
mất đi một vị tông đồ nhiều thiện chí.
Rất có
thể trong một giờ cầu nguyện sốt sắng nào đó, chúng ta cũng đã cảm thấy khắc
khoải như chàng thanh niên. Chúng ta muốn thoát khỏi sự tầm thường, chúng ta
muốn vươn lên, muốn ra khỏi tình trạng nọa lực thiêng liêng và chúng ta đã
thành thực thưa lên cùng Chúa:
- Lạy
Chúa, xin dạy cho con đường nẻo trọn lành.
Rất có
thể trong thinh lặng, Chúa Giêsu cũng đã nhìn chúng ta và đem lòng yêu mến
chúng ta. Và rồi sau cùng, Ngài cũng đưa ra một điều kiện cân não. Dĩ nhiên,
Ngài không bảo chúng ta phải bán hết mọi của cải, nhưng Ngài bảo chúng ta phải
từ bỏ ý riêng để theo ý Ngài:
- Ai muốn
theo Ta, phải từ bỏ mình.
Ý riêng
ấy có thể là một mơ ước, một đam mê hão huyền. Ý riêng ấy có thể là cái chúng
ta ưa thích nhưng không được đẹp lòng Chúa...
Rất có
thể chúng ta cũng đã phân vân và lưỡng lự, chúng ta cũng đã hoang mang suy nghĩ
và rồi cuối cùng chúng ta cũng đã buồn sầu bỏ đi vì cõi lòng chúng ta đã quá
quyến luyến với những thực tại trần gian hay với những ước mơ hão huyền. Chính
những cái đó đã cảm bước chân chúng ta tiến đến cùng Chúa.
Vì vậy,
muốn theo Chúa, muốn đáp trả lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải có can đảm,
dám liều, dám đánh đổi tất cả những gì mình đang có và yêu thích để dấn thân
vào một cuộc phiêu lưu.
Theo Chúa
là phải từ bỏ. Không phải chỉ từ bỏ những của cải vật chất mà thôi, trái lại
nhiều khi còn phải từ bỏ cả những khắc khoải của con tim như lời Chúa đã phán
dạy:
- Ai muốn
theo Ta, phải từ bỏ mình,vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Xin cho
con biết quảng đại và trung thành theo Chúa dù có gặp phải những gian nan thử
thách trên bước đường tiến đến cùng Chúa.
20. Chia
sẻ- tiền của.
Có một
người giàu có kia thường đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều
tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ
nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc
và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng
tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn
lên cây thánh giá treo trên tường, ngài cân nhắc độ cao của thánh giá rồi đề
nghị với người đàn ông giàu có: "Ông là người cao lớn, ông thử với coi tới
thánh giá không". Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào
chạm tới Chúa Giêsu trên thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy
cái hòm tiền của người giàu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái
hòm tiền để với tới cây thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa
Giêsu trên thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: "Để có thể nắm lấy được
Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng
trên tiền bạc của cải".
Câu
truyện trên phần nào tương tựa như câu truyện trong bài Tin Mừng. Một thanh
niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu: làm sao vừa có được đời sống giàu sang sung
sướng lại vừa được sống đời đời? Chúa thông cảm, nhìn anh một cách trìu mến, vì
thấy anh là một thanh niên mà đã biết nghĩ đến đời sống trọn lành, đã biết lo
lắng cho cuộc đời mai sau.
Sở dĩ anh
hỏi Chúa Giêsu như vậy là vì anh muốn làm môn đệ của Chúa. Anh nghĩ anh đã giữ
được sáu điều răn của Chúa rồi: không giết người, không ngoại tình, không trộm
cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Vậy
anh còn thiếu điều gì nữa? Chúa bảo anh hãy về bán hết của cải, không phải để
cất giấu dành dụm, nhưng là đem chia sẻ cho người nghèo. Đối với Chúa, đó là
điều kiện cho riêng anh để được trọn lành và làm môn đệ của Ngài. Nhưng điều
kiện này anh lại không chấp nhận được vì anh có nhiều của cải, nên anh buồn bã
rút lui. Đại bàng muốn cất cánh lên mây xanh, nhưng đã bị xiềng xích. Của cải
vật chất đã xiềng anh ta lại mất rồi. Rõ ràng giữa Chúa và của cải, giữa đời
sống trọn lành và tiền của, anh đã chọn của cải, chọn tiền của.
Qua
trường hợp anh thanh niên này, Chúa Giêsu nghĩ tới tất cả những người bị xiềng xích
như anh, nên Chúa nói với các môn đệ: "Các con ơi, vào được nước Thiên
Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào
nước Thiên Chúa". Chúa nói đến nỗi khó chung của mọi người để vào nước
Thiên Chúa rồi mới nói đến nỗi khó đặc biệt của người giàu. Đây chỉ là một kiểu
nói sánh ví thôi, để chỉ một việc rất khó thực hiện, như những câu nói của Việt
Nam :
"Lấy đá vá trời", "Tát bể đông cũng cạn". Đây là kiểu nói
nhấn mạnh để in sâu vào tâm trí người nghe và làm nổi bật nỗi khó của người
giàu. Tại sao có nhiều của cải, có nhiều tiền của lại khó vào nước trời?
Ai ai
cũng công nhận rằng: của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem
lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả tây phương lẫn đông phương đều có
chung quan niệm: bao tử đi trước, đầu óc theo sau; có thực mới vực được đạo;
hoặc cần phải ăn trước đã, kế đến mới suy tư, triết lý. Tiền của cần thiết như
thế nên Chúa Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là
người giàu. Ngài biết con người cần phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc
sống của mình. Ngài biết "đồng tiền liền với khúc ruột", cần có tiền
để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiếu, bần cùng là một sự dữ, loài người không
ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vàoTuy nhiên,
tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi: được sử dụng như một phương
tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn. Trái
lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh cho cuộc đời mà quên đi những
giá trị khác trong cuộc sống, nhất là những giá trị thiêng liêng, tinh thần thì
nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần. Sự ham mê
tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào nước trời.
Nói rõ
hơn, tiền của tự nó tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem
sử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của, người ta có thể đánh mất
lý tưởng cuộc đời. Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng
như của người khác.. Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin. Vì tiền
của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm. Vì tiền của, người ta có
thể làm những điều bất chính, tội lỗi... Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể
rơi vào. Và người nào ham mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó
chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào nước trời.
Anh thanh
niên giàu có đã từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Anh không dám từ bỏ mọi sự
để đi theo làm môn đệ Chúa. Tin Mừng lại cho biết: các tông đồ chính là những
người đã đáp lại lời mời gọi ấy. Ông Phêrô đã nói lên điều đó như một niềm hãnh
diện: "Còn chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Theo bản văn Tin
Mừng Marcô thì ông Phêrô chỉ nêu lên thực trạng đó thôi, ông không đòi hỏi gì
và cũng không xin xỏ gì. Nhưng trong Tin Mừng Matthêu thì lại cho biết ý của
ông Phêrô muốn hỏi: "Vậy chúng con sẽ được cái gì?". Vì thế, nhân dịp
này Chúa đã giải đáp một thắc mắc ngấm ngầm trong lòng các môn đệ. Việc các ông
tranh giành ngôi thứ với nhau chứng tỏ các ông vẫn băn khoăn về chuyện các ông
sẽ được cái gì. Không riêng gì ông Phêrô hay các môn đệ mà người tín hữu nào
cũng có lúc thắc mắc như thế: chúng ta đi đạo, chúng ta tin Chúa, chúng ta sẽ
được cái gì?
Chúa
Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho
cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.
Một phương thế Chúa dạy là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất
cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ
cho người khác một, Chúa sẽ trả cho chúng ta gấp nhiều lần hơn. Bởi vì một đồng
tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa
tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu
nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui
sướng. Về mặt thiêng liêng cũng thế, chúng ta cho đi chúng ta sẽ được nhận lại.
Chúng ta càng chia sẻ, chúng ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn, nhất là Chúa
sẽ trả lại nhiều hơn cho chúng ta ở đời sau.
21. Lòng nhân
từ.
Tại sao
người thanh niên đã đến với Đức Giêsu? Một người thanh niên ở vào địa vị của
anh ta hẳn sẽ hạnh phúc nhiều hơn với số phận của mình. Điều gì vẫn còn làm anh
phải thắc mắc? Điều gì còn làm cho tâm hồn anh chưa chai cứng vì của cải? Chúng
ta không biết. Nhưng chúng ta biết chắc người ta có thể trở thành tự mãn đến
nỗi họ không còn nghe được sự kêu gọi của một đời sống tốt đẹp hơn. Anh ta hỏi:
"Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Là một thanh niên, anh
khao khát hành động. Anh đã nhận thức rằng chỉ có công việc mới đáng kể. Điều
này hẳn đã làm Đức Giêsu yêu mến anh ta. Vì khi chúng ta càng già, chúng ta
càng kiên định trong công việc.
Và anh đã
có một nền tảng vững chắc dưới chân mình. Anh ta có thể nói: "Tôi đã giữ
mọi giới răn. Tôi không giết người. Tôi không ăn cắp của ai, hoặc lừa đảo ai.
Tôi không phạm tội ngoại tình. Tôi không làm mất danh dự của cha mẹ tôi".
Ở đây
không chút nghi ngờ, anh có một cuộc sống tốt và là một thanh niên đáng kính –
một người con mà bất cứ cha mẹ nào cũng phải tự hào. Một kiểu mẫu chăng? Phải –
đến một mức độ nào đó. Khi chúng ta xem xét yêu sách của anh ta về sự cao cả,
người ta ít bị thuyết phục hơn. Vậy anh ta không giết người, không trộm cắp,
không phạm tội ngoại tình... hay tóm gọn lại, điều anh thanh niên nói là:
"Tôi không làm cho ai bị tổn hại" – đây là một tiêu chuẩn phủ định.
Và thật ngạc nhiên khi có nhiều người nghĩ rằng đó là tiêu chuẩn cao nhất của
đức hạnh.
Chắc chắn
chúng ta đang đối diện với một thanh niên tốt, một người có cuốn vở bài học sạch
sẽ. Nhưng có phải là một người nổi bật không? Có phải là một thanh niên đã trải
qua gian khổ và đã chứng tỏ được chính mình? Không, anh ta chỉ đơn giản là
không bị thử thách. Nhưng sắp được thử thách. Đức Giêsu nhìn anh với lòng yêu
mến. Người đã nhìn thấy những tiềm năng lớn trong anh. Rồi Người đề nghị với
anh một quan điểm mới về nhân từ – một quan điểm tích cực – chủ yếu không phải
chỉ là tránh điều xấu mà là làm điều tốt. Người nói: "Nếu anh muốn làm
điều trọn hảo, anh hãy bán hết những gì anh có mà cho người nghèo – rồi hãy đến
theo tôi, và anh sẽ có được một kho tàng trên trời".
Đức Giêsu
muốn giải phóng người thanh niên ấy khỏi lòng ham mê sở hữu và chỉ cho anh con
đường chia sẻ thương xót. Nhưng người thanh niên không vươn lên nổi. Vì thế,
anh bỏ đi lòng buồn bã.
Tại sao
anh ta buồn? Bởi vì thách đố mà Đức Giêsu xuất phát từ anh ta đã tạo thành một
quan điểm về sự cao cả thật lóe sáng trong tâm hồn trẻ trung và quảng đại của
anh. Tuy nhiên, cái giá đó quá cao. Vì thế anh ta trở về với đời sống cũ và với
những tiện nghi và an toàn cũ. Chắc chắn anh ta sẽ còn tiếp tục mơ đến việc làm
một điều gì thật sự đáng giá với cuộc đời mình. Nhưng trong thời gian, giấc mơ
ấy sẽ phai nhạt dần.Thật thú vị khi Đức Giêsu để anh ta đi. Người ta từ bỏ của
cải rất khó khăn, bởi vì điều ấy có nghĩa là tước đoạt họ khỏi mọi tài sản mà
họ phải dựa vào đó như thân thế, sự an toàn và thụ hưởng đời sống. Nhưng đó
chính là lý do tại sao các môn đệ của Đức Giêsu phải từ bỏ của cải. Cốt lõi của
đức tin Kitô giáo là đặt sự tín thác của con người vào Thiên Chúa và trông cậy
vào Thiên Chúa như là suối nguồn duy nhất cho sự an toàn và hạnh phúc. Khi Đức
Giêsu nói: "Hãy đi bán những gì anh có..." Người không có ý nói rằng
các môn đệ phải túng thiếu. Đời sống của người nghèo, với khó khăn và đau khổ
không được đưa ra như một lý tưởng cho các môn đệ của Đức Kitô. Nhưng mặt khác
ước muốn chiếm hữu và tích lũy của cải cũng không được chấp nhận. Giống như
người thanh niên, một đôi khi chúng ta cũng mơ đến đời sống của một Kitô hữu
chân chính. Chúng ta mơ – nhưng có sẵn sàng hành động không? Chúng ta chỉ mơ
ước những điều ấy mà không nỗ lực thực hiện. Đối với những người nỗ lực thực
hiện, phần thưởng sẽ to lớn ngay cả trong đời này bằng những từ ngữ đầy ý
nghĩa, tràn đầy và vui mừng – mặc dù phải trải qua những nỗi gian nan và khó
khăn. Ngay khi nói với người thanh niên, Đức Giêsu không cho phép chúng ta bằng
lòng với một lời giải đáp không đòi hỏi điều tốt nhất trong chúng ta. Một người
bạn chân thành là một người bạn buộc chúng ta phải thực hiện giấc mơ đẹp nhất
của tuổi thanh xuân. Người bạn ấy thách thức và kéo căng chúng ta đến giới hạn
của khả năng chúng ta và vượt qua nó, để sau đó, chúng ta sẽ có những tiêu
chuẩn mới qua đó tự phán đoán chính mình.
22. Quan
trọng.
Người
thanh niên hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để thừa hưởng sự
sống đời đời?" Rõ ràng là anh ta đã hỏi một câu hỏi khác, nếu không hỏi
Đức Giêsu thì cũng đã hỏi một người khác. Câu hỏi đó là: Mục đích của đời này
là gì? Câu trả lời là: để có được sự sống đời đời.
Đấy là
hai câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời. hầu hết chúng ta cũng đã hỏi như
thế khi chúng ta còn trẻ. Có lẽ chúng ta không còn hỏi những câu hỏi đó nữa?
Hiện nay chúng ta đang ở trên chuyến tàu hỏa của đời sống, được nó đưa về phía
trước không thể lay chuyển được, và dường như với một tốc độ ngày càng tăng
dần, nhưng nơi mà con tàu hướng về không còn là giải pháp mà chúng ta muốn
biết.
Tại sao
lại như thế? Có thể vì chúng ta quá vướng bận với hành lý, hoặc với những trò
chơi hay sự tiêu khiển đến nỗi chúng ta không còn thời gian dành cho những vấn
đề như thế? Hoặc có thể giống như người thanh niên đã đến với Đức Giêsu, chúng
ta thấy rằng đặt những câu hỏi như thế quả là nguy hiểm.
Bầu khí
chúng ta đang sống không khuyến khích kiểu đặt câu hỏi và suy tư đó. Những vấn
đề về tinh thần hiếm khi là chủ đề trong các câu chuyện ở bàn ăn hoặc trong các
câu chuyện thân mật giữa bạn bè. Người ta chú trọng nhiều hơn đến việc làm,
những vấn đề gia đình, và những giải pháp chính trị và kinh tế trong ngày.
Những cuộc tranh luận về các giá trị đạo đức và niềm tin về tâm linh hiếm khi
xảy ra. Thật vậy, những đề tài này dù ít hay nhiều cũng là điều cấm kỵ.
Chúng ta
là những con người thực tiễn. Chúng ta muốn có những lời giải đáp mà không muốn
có vấn đề. Những vấn đề đạo đức và tinh thần là những giải pháp khó khăn. Một
nhà phân tâm học người Mỹ đã nói:
"Ở
một tầm mức rộng lớn, đời sống chúng ta được dùng để tránh đối đầu với chính
mình. Hầu hết những hoạt động hàng ngày của chúng ta làm cho điều đó được dễ
dàng. Chúng làm chúng ta xao lãng chính mình và việc suy tư. Chúng ta được trấn
an bởi những sự tầm thường".
Đức Giêsu
đã trả lời người thanh niên: "Anh hãy giữ các giới răn". Và người
thanh niên nói: "Tôi đã giữ các giới răn".
Đối với
Đức Giêsu giữ các giới răn chỉ là mức tối thiểu. Người biết rằng người thanh
niên này có khả năng nhiều hơn. Thật vậy, anh có khả năng đạt được điều cao cả.
Vì thế Người nói với anh: "Nếu anh muốn nên trọn lành, anh hãy đi bán
những gì anh có mà cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi".
Người
thanh niên đã đứng trên bờ vực của một thế giới mới mẻ và lôi cuốn. Tuy nhiên,
anh lập tức nhận ra rằng anh không thể bước vào thế giới mới này mà không nói
lời giã từ thế giới cũ của anh. Anh ngần ngại. Anh phân vân. Anh nhìn về thế
giới cũ ấy và bắt đầu cân nhắc những gì anh đang bỏ lại phía sau. Thình lình
anh đã nhận ra rằng anh không thể làm được điều đó. Có quá nhiều điều trong thế
giới cũ mà anh yêu thích và thèm muốn, chính vì thế mà anh từ khước lời mời gọi
của Đức Giêsu.
Một số
người không muốn bỏ mất dù chỉ một giá trị cũ của họ để có được một giá trị
mới. Nếu chúng ta sợ mất đi những lạc thú của thế giới cũ, chúng ta sẽ không
bao giờ nếm hưởng những niềm vui của thế giới mới.
Đức Giêsu
đòi hỏi nỗ lực tối đa của chúng ta khi Người đòi hỏi người thanh niên. Người
không muốn chúng ta bằng lòng với bất kỳ điều gì kém cỏi. Lời thách thức:
"Nếu anh muốn nên trọn hảo", cũng xuất phát từ chính chúng ta. Tuy
nhiên, để đảm nhiệm thách thức đó, chúng ta được kêu gọi phải hy sinh. Hy sinh
điều gì còn tùy vào mỗi người chúng ta. Chúng ta phải nhìn kỹ tâm hồn mình để
biết chúng ta phải từ bỏ điều gì để đáp lại lời kêu gọi ấy.
Sự hiện
diện của chúng ta ở đây mỗi Chúa nhật bắt chúng ta phải suy nghĩ về những câu
hỏi cao cả ấy. Chúng ta được nhắc nhở đời sống là một cuộc hành hương đến nước
trời vĩnh cửu. Chúng ta nghe Lời Chúa và đón tiếp Thánh Thể. Nhưng chúng ta
phải nhớ lại rằng sự cứu chuộc luôn luôn là sự thành tựu của Thiên Chúa. Người
nào tin vào chính mình sẽ không bao giờ được cứu. Người nào tin vào quyền năng
cứu độ và tình yêu cứu thoát của Thiên Chúa mới có thể bước vào ơn cứu độ một
cách tự do.
23. Bước
theo Chúa Giêsu - Lm Nguyễn Hữu An.
Các bạn
trẻ thân mến!
Tôi xin
được chia sẻ một đôi suy niệm của mình về người thanh niên trong trang Tin Mừng
hôm nay.
- Đây là
một người trẻ rất giàu có.
Tin Mừng
không nói cho ta hay nguồn gốc về tài sản của anh, nhưng qua cuộc sống đạo hạnh
của mình, chứng tỏ rằng anh là người dễ thành công trong cuộc sống và thực sự
anh thành công trong cuộc sống trần thế. Anh ta có nhiều của cải
- Anh
cũng là một người trẻ Do Thái công chính, ngay thẳng, không dối gian.
Bằng
chứng qua việc anh tuân giữ các giới răn của Chúa thật tốt ngay từ lúc còn bé
và dĩ nhiên đến hôm nay "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ
làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ". Thật là một người
trẻ tuyệt vời trong đời sống niềm tin và xã hội của người Do Thái. Chính Chúa
Giêsu cũng nhìn anh với ánh mắt yêu thương và trìu mến.
- Anh là
người biết cầu tiến.
Sự cầu
tiến ở đây không chỉ ở phương diện thế trần mà còn thể hiện trong đời sống tâm
linh của anh " Lạy Thầy nhân lành! Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời
làm gia nghiệp?". Sự giàu có về vật chất, lòng đạo tinh tuyền của một
người Do Thái, không làm cho anh tự kiêu tự mãn như anh biệt phái trong câu
chuyện "người thu thuế và anh biệt phái lên đền thờ cầu nguyện", trái
lại anh vẫn luôn nghe được tiếng réo gọi trong tâm hồn anh về khát vọng sống
đời đời. Anh khao khát và anh kiếm tìm. Anh kiếm tìm và anh đã gặp Chúa Giêsu
là nguồn mạch sự sống đời đời. Thánh Luca ghi lại "khi ấy Đức Giêsu vừa
lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người ". Đây là
một cử chỉ mang tính phụng vụ, cử chỉ của con người trước thần linh và như thế,
người thanh niên này đã bước từ Do Thái giáo sang Kitô giáo. Thật là một quyết
định sáng suốt, can đảm và khôn ngoan. Anh muốn được Đức Giêsu chỉ dạy như một
vị Thầy.
- Nhưng
tiếc thay! Anh không thể hoàn tất khởi đầu thuận lợi ấy. Anh thiếu một điều cơ
bản là " bỏ mọi sự để thuộc về Đức Kitô"
Thật vậy!
Trang Tin Mừng cho ta thấy một khởi đầu thuận lợi nơi cuộc gặp gỡ và đối thoại
giữa Chúa Giêsu và người thanh niên. Ai trong chúng ta và có lẽ chính anh cũng
nghĩ rằng anh đầy đủ điều kiện để đón lấy sự sống đời đời mà không cần phải làm
gì hơn nữa. Chính lúc ấy, và lần đầu tiên anh phải đối diện với Lời là Đường,
là Sự Thật và là Sự Sống. Lời mà thư Do Thái đã diễn tả thật hay " Lời
Thiên Chúa là lời hằng sống, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên
thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ, lời đó phê phán tâm tình cũng như
tư tưởng của lòng người ..." (Dt 4,12-13). Lời đã hoá thành xác phàm và
đang đứng trước mặt anh: Đức Giêsu thành Nagiaret. Lời muốn anh đón tiếp Người
để trao cho anh quyền làm Con Thiên Chúa, đây là ân huệ tuyệt đỉnh nhất mà
Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó cũng là sự sống đời đời mà anh khao khát
kiếm tìm. Đón tiếp Ngài bằng một sự khó nghèo, một sự từ bỏ "anh chỉ thiếu
có một điều, là hãy về bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được
một kho tàng trên trời rồi hãy đến theo tôi.".
Nghe lời
trên anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Anh sáng
của Lời Hằng Sống tưởng sẽ xuyên thấu và đổi mới tâm hồn chàng trai trẻ bỗng
khựng lại bởi bức tường của tiền bạc đang bao phủ vây kín cuộc đời anh, níu
chặt lấy anh không cho anh bước theo Đức Giêsu. " tim anh phút chốc bừng
nắng hạ, nhưng tiếc thay mặt trời là lời chân lý không thể chói qua tim anh bởi
anh đã khép tim mình lại trong bóng tối của tham sân si".
Các bạn
trẻ thân thương!
Qua câu
chuyện của người thanh niên trong Tin Mừng, tôi rút ra mấy xác tín cho người
trẻ chúng mình:
+ Thiên
Chúa mới chính là gia nghiệp và là hạnh phúc đích thực cuộc đời của chúng ta
chứ không phải tiền bạc, danh vọng, địa vị hay bất cứ một thế lực nào đó trên
trần gian này. Người trẻ trong trang Tin Mừng là một minh chứng hùng hồn về
nhận định "tiền không phải là tất cả". Sự giàu sang không thể khoả
lấp cơn đói khát nằm sâu trong tâm hồn con người. Trái lại sự giàu có dễ trở
biến thành rào cản ta lãnh nhận hạnh phúc đích thực từ Thiên Chúa. Thánh
Augustinô sau những tháng năm tìm kiếm sự thoả mãn cơn đói khát trong tâm hồn
mình bằng danh - lợi - thú trần gian, cuối cùng Ngài mới nhận ra rằng "
Lạy Chúa! Chúa dựng nên chúng con là để cho Chúa, và vì thế tâm hồn chúng con
khát khao cho đến khi nào được an nghỉ trong Ngài". Sống và được no thoả
trong Thiên Chúa thánh nhân đã nức nở " ôi con yêu Chúa quá muộn màng,
Ngài đã chiến thắng, con mù loà Ngài đã chiếu sáng, Ngài toả ngát hương và làm
con say mến, Ngài là dịu êm và lòng con thao thức ngày đêm". Mong thay,
bạn sẽ không phải hối hận thốt lên như Augustiô "ôi! Con yêu Chúa quá muộn
màng". Nhưng nếu đã thấy đã muộn thì mau quay về với Ngài. Ngài vẫn chờ
bạn như người cha ngóng chờ đứa con hoang đàng trở về. Bạn ơi! Hãy cho Chúa một
cơ hội, một niềm vui, một lễ hội trên thiên đàng qua sự trở về của bạn. Bạn ơi
với Chúa " một ngày ví tựa ngàn năm". Bởi đó, đối với Chúa không bao
giờ là trễ cả.
+ Chúa
Giêsu là vị Thầy duy nhất hướng dẫn ta đến cùng Thiên Chúa. Chính Ngài đã khẳng
định " không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Thánh Phêrô cũng
đã tuyên xưng" bỏ Thầy con biết đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự
sống đời đời. Bởi Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Và như vậy hạnh phúc
và ý nghĩa đời ta tuỳ thuộc vào thái độ và tương quan của ta với Đức Kitô. Anh
Charles de Foucaul xác tín " biết Đức Kitô đó là tất cả, phần còn lại
chẳng là gì hết". Biết Đức Kitô là biết, yêu mến và nên một với Người.
+ Bước
theo Đức Kitô đòi ta phải từ bỏ không phải một lần nhưng là mọi ngày trong suốt
đời ta. " Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hàng
ngày mà theo tôi". Sự đòi hỏi của Đức Kitô có tính triệt để hiến dâng
"không có tình yêu nào cao hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì
người mình yêu". Bạn và tôi được mời gọi từ bỏ những gì mình có, từ bỏ
những gì làm thành cuộc đời mình, để thuộc về Đức Kitô cách trọn vẹn hơn. Cụ
thể, người trẻ chúng mình phải bỏ qua lối sống đạo hời hợt bên ngoài, sống đạo
cách tiêu cực, sống đạo theo thói quen mà thiếu hẳn xác tín, thiếu hẳn tình yêu
và nhất là thiếu tính dấn thân trong việc sống, làm chứng và loan báo Chúa Kitô
cho những người xung quanh
Cầu chúc
các bạn hạnh phúc và làm cho mọi người và Thiên Chúa hạnh phúc.
24. Suy
niệm của Lm Mark Link.
VÌ TÌNH
YÊU CHÚNG TA PHẢI LÀM NHIỀU HƠN NỮA
"Chỉ
cần chúng ta tiến về phía Chúa một bước, thì Ngài sẽ chạy về phía chúng ta mừơi
bước"
James
Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của ông như sau: Cách đây
nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ nhà này đến nhà kia, anh
đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào nhà một nông gia, ông này
đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng thanh niên đến gần người
nông dân nhiệt tình ngỏ lời: "Thưa ông, tôi có bán một cuốn sách chỉ cách
canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm".
Người
nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc ghế đu. Cuối cùng,
sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói; "Này anh bạn
trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh tác sinh lợi
gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm".
***
Câu
chuyện trên giúp ta hiểu rõ điều Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm nay.
Người nông dân có khả năng canh tác tốt hơn nhưng ông ta lại thiếu nhiệt tình
để dấn thân làm điều ấy. Chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng cũng dư
sức làm nhiều hơn là chỉ tuân giữ các giới luật, nhưng anh ta chả có nhiệt tình
để làm điều ấy. Bài Phúc Âm hôm nay nói thẳng cho ta thấy Kitô giáo không chỉ
hệ tại việc tuân giữ các lệnh truyền. Chúa Giêsu tra vấn anh chàng giàu có về
sự tuân giữ lệnh truyền như là khởi điểm cho đời sống Kitô hữu. Chàng trả lời
là đã tuân giữ tất cả lệnh truyền ấy, tức là chưa hề làm gì thương tổn ai... Về
điểm này Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta. Nhưng đồng thời Ngài lại cho chàng
ta thấy rõ Kitô giáo không chỉ là việc tuân giữ các huấn lệnh tiêu cực ấy như
đừng trộm cắp hay lừa đảo.... Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều: Ngài nói
thẳng với anh chàng giàu có:
"Anh
chưa bao giờ gây thương tổn cho ai quả là đáng khen, nhưng anh đã làm gì để
giúp đỡ ai chưa? Anh đã biết dùng của cải để cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng
mặc, cho kẻ vô gia cư trú ngụ chưa?"
Chính khi
nghe điều này anh chàng giàu có kia nhận ra mình vẫn còn khiếm khuyết biết bao.
Vì vậy Chúa Giêsu bèn thách thức anh: 'Nếu muốn theo tôi thì anh hãy thay đổi
cách nhìn đi, đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, tỉ như không gây
thiệt hại cho ai – và anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng
hạn như giúp đỡ người khác. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc
ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau"
Thách đố
Chúa Giêsu đặt ra cho anh chàng giàu có thể tóm lược như sau; Anh có dám chấp
nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh
có quan niệm bước theo tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy
sinh của cải của anh để được sống vĩnh cửu, cũng như để theo tôi không?
Anh chàng
giàu có trả lời:
- Thưa
thầy, tôi cũng muốn theo Ngài lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi
kia;
Thế là
anh chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc dùng
của cải không chỉ cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối
với anh.
Điều này
bày ra trước mắt mỗi người chúng ta ngay bây giờ hình ảnh sau: Nhiều người
trong chúng ta giống như anh nông dân ngồi chơi trước cổng nhà. Chúng ta biết
rõ chính mình có thể trở thành một Kitô hữu, tốt hơn gấp mười lần tình trạng
hiện nay nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.
Chúng ta
khác nào anh chàng giàu có trong Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cũng đã tuân giữ
những luật truyền, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại hết sức có thể đối với
những người túng thiếu, kẻ trần trụi và người đói khát.
Vì công
việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải
can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy đó là cần thiết để
đem lại an bình và vui tươi trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận
những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực
mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Thiên Chúa và thương
tha nhân. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực
của lề luật: cấm hại người, cấm gian dối, cấm trộm cắp... Một thanh niên yêu
một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không nói dối,
không xúc phạm đến cô ấy.. Tình yêu khiến anh phải làm hơn như thế rất nhiều,
và nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng
vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, chúng ta mới chỉ
là người "quen biết" với Chúa, chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng
ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình
yêu, chúng ta chưa yêu Chúa và thương tha nhân.
Chắc chắn
nhiều người trong chúng ta đã biết mình phải làm gì để trở thành một Kitô hữu
tốt hơn gấp mười lần hiện nay, nhưng chúng ta đã không làm, vì chúng ta thiếu
tình yêu, thiếu nhiệt tình. Cũng như anh chàng nông dân ngồi trên ghế xích đu
kia, anh đã biết rõ phải làm gì để canh tác có hiệu quả gấp mười lần phương
pháp anh đang làm, nhưng anh đã không thèm làm. Lý do có thể là anh ngại ngùng
phải bỏ vốn ra nhiều hơn, phải bỏ ra nhiều công sức hơn, phải mệt mỏi hơn. Lý
do sâu xa hơn khiến anh ngại là vì anh chưa thấy nhu cầu của vợ con anh đang
càng ngày càng tăng lên, hay anh chưa đủ quan tâm đến những nhu cầu ấy, hay nói
cách khác đi là tình yêu của anh đối với những người thân của mình chưa đủ mạnh
để thúc đẩy anh hoạt động, làm những gì phải làm và nên làm.
Tình
trạng đó Thánh Phaolô cũng đã cảm nghiệm được nơi con người của ngài. Ngài
viết: "Quả thực ngay những gì điều tôi làm tôi cũng không hiểu được nữa,
vì những gì tôi muốn thì tôi lại không làm, còn những gì tôi không muốn thì tôi
lại cứ làm" (Rm 7:15). Và ngài đã giải thích tình trạng đó như sau: không
phải là tôi hành động, mà là tội lỗi ở trong tôi đã hành động (Rm 7:20). Và
theo ngài chỉ có Đức Kitô mới có thể cứu ta ra khỏi tình trạng ấy. (Rm 7:24).
Do đó, muốn thoát khỏi tình trạng ù lỳ không chịu làm những gì cần phải làm, ta
phải tin tưởng vào ngài đã đến để giải phóng ta khỏi tình trạng đó, và ta cũng
phải hết lòng yêu mến ngài qua những người sống bên cạnh ta, chung quanh ta.
Chỉ có tình yêu mới giải phóng ta khỏi tình trạng ù lỳ đó. Tình yêu phát sinh
sức mạnh.
Rất nhiều
người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì mình đã theo được chính đạo, và
tự mãn vì mình đã giữ luật Chúa một cách trọn vẹn từ hồi nhỏ, giống như anh
chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là một điều rất đáng
khen, và Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì ta đã sống được như vậy. Chính Chúa
Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu
thương. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa
hơn một bước kia, là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Thiên Chúa và tha nhân.
Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, hay
cần tới sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta, chúng ta không thể vừa nói mình yêu
Chúa lại vừa làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy ta
phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu đó của anh em. Và
chúng ta cũng cần phải có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những
nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất. Để đi vào cụ thể, tôi xin đề
nghị với anh chị em là mỗi ngày chúng ta dành ra ít phút suy nghĩ để xét xem
những người ở gần ta có nhu cầu gì mà ta có thể giúp đỡ cụ thể được, và chúng
ta quyết định mỗi ngày làm một hai việc cụ thể giúp ích cho người khác, việc đó
càng buộc ta phải hy sinh, thiệt thòi, mất mát thì càng tốt, và tối đến ta xét
lại xem mình đã thực hành quyết định đó thế nào. Làm được như thế, chính là đã
áp dụng phần nào tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay.
Để kết
thúc, tôi xin nhắc lại lời kinh Cáo Mình mà chúng ta đọc mỗi khi chuẩn bị dâng
Thánh Lễ, trong đó có câu; "tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói,
việc làm, và những điều thiếu sót". Tôi xin nhấn mạnh đến "những điều
thiếu sót", là những gì mà chúng ta đáng lẽ phải làm, nên làm, mà chúng ta
đã không làm. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải ra tay cứu giúp người khác mà
ta đã không ra tay. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải hy sinh cho người khác
mà ta đã không hy sinh, vì chúng ta không muốn bị thiệt thòi, bị mất mát, bị
phiền hà, là những lần đáng lẽ chúng ta phải bỏ tiền bạc ra để cứu giúp ai đó,
nhưng vì tính bỏn xẻn, tính toán, khiến chúng ta lại thôi. Là những lần đáng lẽ
chúng ta phải can đảm đứng ra bênh vực lẽ phải, nhưng vì sợ bị liên lụy, sợ bị
lôi thôi, mà chúng ta đành làm ngơ để cho bất công được tự do hoành hoành. Mỗi
lần đọc kinh Cáo Mình khi dâng Thánh lễ, chúng ta phải nghĩ đến những thiếu sót
đó.
25. Đức
Giêsu giáo huấn về của cải.
(Giải
thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Trong
chuỗi các sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo huấn ban cho các môn đệ,
phân đoạn này phù hợp với Mc 10,1-12. Cũng như trong trường hợp ấy, ở đây, phần
giáo huấn cho các môn đệ đã được thêm vào sau, bởi vì ta thấy truyện người giàu
có (cc. 17-22) tự nó đã kết thúc và được khoanh vùng rõ ràng.
2.- Bố
cục
Bản văn
này có thể chia thành ba phần:
1) Cuộc
gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (10,17-22);
2) Gíáo
huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (10,23-27);
3) Giáo
huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (10,28-30).
3.- Vài
điểm chú giải
- Đức
Giêsu vừa lên đường (17): Ekporeuomenon autou eis hodon, ở dạng
"thuộc-cách tuyệt đối" (absolute genitive), một lối hành văn rất quen
thuộc của Mc.
- có một
người chạy đến: Chỉ khi đến cuối câu truyện, ta mới biết anh này là một người
giàu (10,22). Không có một ghi chú nào về tuổi của anh (x. Mt 19,20).
- quỳ
xuống: Cử chỉ này cho thấy người này hết sức kính trọng Đức Giêsu (x. 1,40).
- Thưa
Thầy nhân lành: Lời xưng hô kiểu này rất hiếm trong Do Thái giáo thời Đức
Giêsu, cho dù từ "nhân lành" thường được áp dụng cho Thiên Chúa ở
trong Cựu Ước (x. Tv 117/118,1; 1 Sb 16,34; 2 Sb 5,13). Nói chung, người Do
Thái cho rằng chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là "nhân
lành", còn không ai khác là "tốt" cả (x. Rm 7,18). Tuy vậy, khẳng
định này cũng không tuyệt đối, bởi vì thọ tạo cũng được mô tả là
"tốt" (St 1,31). Phaolô cũng nói như thế về Lề Luật trong Rm 7,12.16.
Đức Giêsu cũng có nói đến người "tốt" và kẻ "xấu".
- tôi
phải làm gì: Người này lấy mình làm điểm chuẩn: "tôi cần làm gì để thủ đắc
sự sống đời đời".
- sự sống
đời đời (x. 10,30): Đây là công thức của Đn 12,2 (LXX), có thể hiểu là sự sống
sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý "bất tử". Có thể coi như
đồng nghĩa với "Nước Thiên Chúa" (x. 9,43-47).
- Không
có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa (18): Không thể giải thích là có
một vực thẳm giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, vì như thế thì quá mâu thuẫn với
truyền thống Tin Mừng. Có thể coi đây là một phản ứng của Đức Giêsu nhằm trắc
nghiệm người ấy hoặc một phương thức sư phạm nhằm gián tiếp giới thiệu về mình
như là Con Người.
- anh
biết các điều răn (19): Loạt các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần
hai của Thập Điều (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), là phần nói về những quan hệ giữa
người với người.
- đem
lòng yêu mến (21; thì quá khứ aorist của agapaô): Hẳn là Đức Giêsu thấy anh này
đơn sơ chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ
các điều răn; Người "đem lòng yêu mến" anh. Tình thương này đi đến
chỗ gọi anh làm môn đệ.
- Anh chỉ
thiếu có một điều: Dù anh đã cam đoan là giữ tất cả các điều răn từ thuở bé,
Đức Giêsu bảo rằng anh vẫn "còn thiếu" (hystereô).
- hãy đi
bán những gì anh có mà cho người nghèo: Câu này nên hiểu như một thách đố Đức
Giêsu đề ra cho anh này hơn là một nguyên tắc chung của đời sống Kitô hữu hoặc
thậm chí, nền tảng của một bậc sống đạo cao hơn. Người ấy không được hiểu rằng
mình chỉ cần làm một điều tốt hơn, là được thừa hưởng sự sống đời đời! Đức
Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm tựa an toàn để tín nhiệm vào bản thân và sứ
vụ của Người: "Rồi hãy đến theo tôi".
- anh ta
có quá nhiều của cải (22): Anh đã hỏi, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu thật quá
khó đối với anh.
- các môn
đệ sững sờ (24): Các ông sững sờ kinh ngạc bởi vì Đức Giêsu vừa nhận định rất
tiêu cực về của cải, trong khi các ông trung thành với truyền thống Do Thái
giáo, coi của cải là một dấu chỉ về phúc lành của Thiên Chúa, với điều kiện là
bố thí cho người nghèo. Thật ra, cái khó không nằm ở chính của cải, nhưng những
cám dỗ chúng gây ra.
- con lạc
đà .... lỗ kim (25): Mặc dù trong quá khứ, các nhà giảng thuyết và chú giải đã
tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh một cái cổng lớn ở tường thành Giêrusalem, mà
một con lạc đà không thể đi qua, và mặc dù có một vài thủ bản nhỏ đọc là
kamilos (sợi dây thừng) thay vì kamêlos (con lạc đà), chúng ta phải kết luận
rằng đây là một ví dụ về lối nói ngoa, thậm xưng (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42).
- đối với
Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được (27): Trước khi nói câu này, Đức Giêsu
"nhìn thẳng vào các ông", một công thức riêng của Mc để nêu bật tầm
quan trọng của câu nói sau. Đức Giêsu nhấn mạnh tới quyền năng của Thiên Chúa
và sự ký thác cậy dựa vào Thiên Chúa để được cứu độ.
- chúng
con đã lìa bỏ mọi sự mà theo Thầy (28): "Lìa bỏ" (aphêkamen) ở thì
quá khứ aorist, diễn tả một hành vi đã hoàn tất, còn "theo"
(ekolouthêkamen) ở thì vị hoàn, để diễn tả một hành vi còn đang thực hiện.
- vì Tin
Mừng (29): Chi tiết của riêng Mc, nhằm đồng hoá Đức Giêsu với Tin Mừng.
- sự
ngược đãi ("bách hại", 30): Đây cũng là một xác định riêng của Mc, để
nói rằng bước theo Đức Kitô, là phải chấp nhận bị bách hại như Thầy mình đã
từng bị bách hại.
- mà bây
giờ, ngay ở đời này... và sự sống đời đời ở đời sau (30): Đức Giêsu hứa ban
phần thưởng không chỉ vào đời sau nhưng ngay vào lúc này, khi các môn đệ được
hưởng một tình bằng hữu phong phú về mặt xã hội và về mặt tôn giáo.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Cuộc
gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (17-22)
Điều gì
thật sự có giá trị? Điều gì thạt sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết thúc với
cái chết. Người giàu đến găp Đức Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh
có nhiều của cải, anh biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy
có trách nhiệm đối với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian
thế nào để không mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp
Đức Giêsu, và chờ đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các
điều răn: ai muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn
tới sự sống đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ
các điều răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà
bảo anh về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo
Người. Người chỉ cho anh thấy một nôi dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải
đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói, nhìn xem các công việc Người
làm, có đầy Thần Khí của Người, ở lại mãi mãi với Người, chia sẻ lối sống của
Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh đến chỗ hiểu thế giới và đời
sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống đời đời, nghĩa là
cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Ở đây Đức
Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi thánh ý
Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều răn. Và Người cũng
khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối chắc chắn đến sự sống
đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn đệ đầu tiên (x.
1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu là
Tin Mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn
lựa làm cho anh buồn rầu.
* Giáo
huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27)
Đức Giêsu
không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của
các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là
chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là "con" (chỉ có ở đây
trong TM Mc) cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức
Giêsu cất đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, có những câu với nọi dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr
18,6.
* Giáo
huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30)
Trong câu
trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là người ta có thể đạt được sự sống này
nếu liên kết với bản thân Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ với của
cải và với gia đình mình, mà gắn bó với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt
một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một người đi vào trong gia đình những
người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại những của cải và các người thân
thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng
thời người ấy lại đang ở trên con đường chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu
trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin Mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là
bản thân Người, người ta có thể đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống
có giá trị không thể triệt tiêu.
+ Kết
luận
Khuôn khổ
trong đó bản văn hôm nay được đặt vào khiến chúng ta phải lưu ý: đây là những
điều xảy ra trong cuộc hành trình Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để ở đó, Người
cảm nhận sự từ bỏ đau đớn nhất, tức là cái chết. Giữa lần loan báo Thương Khó
lần hai (9,30-31) và lần ba (10,32-34), chủ đề "Con đường" thúc bách
chúng ta xem xét những điều kiện để theo Đức Giêsu và để được vào Nước Thiên
Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng ra đón tiếp, đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự
để đi theo Chúa.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Tuân
giữ các điều răn của Thiên Chúa có thể đưa đến những thiệt thòi trong cuộc sống
hiện tại, nhưng nối kết chúng ta với ý muốn của Thiên Chúa, tức là với chính
Thiên Chúa. Như thế, nền móng của sự sống vĩnh cửu đã được củng cố. Quả thật,
chỉ từ sự kết hợp với Thiên Chúa, là Đấng Sống vĩnh cửu và tuyệt đối, mới trào
vọt ra sự sống đời đời.
2. Mọi
người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin Mừng, trước
tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của người
đương thời (x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo
Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng kết dệt một liên hệ
mới, có được một nội dung mới cho cuộc sống.
3. Lời
kêu gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng và thật ra là một đặc quyền cao cả: bởi vì,
chẳng hạn, đặc quyền này đã không được ban cho người ở Ghêrasa sau khi đã được
giải thoát khỏi ma quỷ (5,18t). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tách mình khỏi của
cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự
do và có khả năng liên kết với Người.
4. Ta chỉ
có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và đầy
tin tưởng vào Người. Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia đình Người, ta
nhận được sự sống đời đời như một ân huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu không bị
hủy diệt bởi cái chết.
26. Chú
giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu
vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi:
"Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp?"
Đây là
một cảnh sống động. Một người đầy ham muốn: Người ấy chạy đến và sụp quỳ dưới
chân Đức Giêsu, vừa thở hổn hển, người ấy vừa đặt câu hỏi.
Khi ta
biết người này là ai (nhờ đoạn tiếp sau của trình thuật ta sẽ ngạc nhiên, vì
đây là một người có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông
thường: Anh ta giàu sang, có nhiều "của cải lớn", hơn nữa, cuộc sống
anh ta ngay thẳng, anh tuân giữ những giới răn từ thuở còn nhỏ. Trong mọi tương
quan với người khác. Chắc hẳn anh ta được kính nể. Vậy anh ta còn thiếu điều
gì? Anh ta còn cần gì nữa? Tại sao anh ta lại mong ước điều gì khác?
Đức Giêsu
đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình
Thiên Chúa".
Đó là câu
trả lời sắc bén như dao. Con người giàu có này đã quen với những "tước
vị". Vì quá hâm mộ, anh ta nói thêm. Thường thường người ta chỉ gọi Đức
Giêsu bằng "Thầy", còn anh ta quen giao thiệp rộng nên đã thêm từ
"nhân lành". Đức Giêsu không thích những kiểu nói tâng bốc đó. Người
thích sự đơn giản hơn, Người khước từ những tước vị mang tính khoe khoang. Hơn
nữa, Đức Giêsu là Người luôn nói về Thiên Chúa. Người luôn hướng về Chúa. Ở đây
chúng ta nghe người thốt lên một lời dễ gây ngạc nhiên: Dường như Đức Giêsu
không biết Người là Thiên Chúa! Người khước từ chữ "nhân lành". Đây
không phải là trường hợp - duy nhất mà Đức Giêsu khiêm tốn tự cho mình là
"thấp kém" hơn Chúa Cha, hơn Thiên Chúa: Một hôm khác người còn dám
quả quyết, Người "không biết ngày chung thẩm, mà chỉ có mình Chúa Cha mới
biết" (Mc 13,32).
Đức Giêsu
nói chỉ có một mình Thiên Chúa mà thôi. Tôi cầu nguyện từ lời quả quyết triệt
để này.
"Hẳn
anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ".
Danh sách
và thứ tự các giới răn làm cho ta ngạc nhiên. Trước tiên, Đức Giêsu không nêu
những giới răn "đối với Thiên Chúa" như là giới răn đầu tiên. Hình
như qua tình yêu tha nhân, ta chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa. Thông
thường tự nhiên ta dễ nghĩ đến những "bổn phận" về tôn giáo hơn, để
đạt đến sự sống đời đời. Một lần nữa, Đức Giêsu hướng chúng ta thiết thân gắn bó
với những người anh em của mình, với những mối tương quan nhân bản.
Hơn nữa,
Đức Giêsu đã thêm một điều răn mới rất ý nghĩa vào mười giới răn cố hữu:
"Chớ làm thiệt hại ai" như thể điều răn này tóm tắt các điều khác.
Chúng ta cũng nên để ý rằng, "bổn phận đối với cha mẹ" được kể cuối
cùng. "Điều răn thứ bốn" được đời ra sau chót, như Đức Giêsu đã muốn
đặt lên hàng đầu những cám dỗ đối với người có tiền của: Lấy của kẻ khác, làm
thiệt hại kẻ khác, làm giàu cách bất chính...
Anh ta
nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ".
Quả thật
đây là một người ngay thẳng, có hướng tâm.
Anh ta
tuân giữ lề luật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành
thực của những lời anh ta nói. Người ta tưởng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây. Đây
là một người có quyền hưởng sự sống đời đời! Chúng ta hãy nghe đoạn sau.
Đức Giêsu
đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Đó là cái
nhìn của Đức Giêsu. Tôi cố tưởng tượng lại: Một cái nhìn đầy thương yêu. Đức
Giêsu tỏ vẻ trìu mến. Người đang yêu thương. Người cảm động.
Người bảo
anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho
người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi."
Vậy sống
lương thiện và tuân giữ mọi giới răn cũng chưa đủ sao?
Ta tưởng
rằng con người này trung thành không có gì chê trách được, thế mà bây giờ lại
gặp một đòi hỏi mới, sẽ rọi chiếu vào tận đáy lòng anh: Anh có tự do không hay
chỉ là nô lệ? Thái độ của anh đứng trước tiền bạc của cải vật chất như thế nào?
Thật lạ
lùng và đáng ngạc nhiên khi ta liên tục gặp thấy đòi hỏi trên đây của Đức
Giêsu. Người không ngớt nhắc lại điều này. Đó là lời kêu gọi đầu tiên của
Người: "Hãy theo Ta", tức khắc họ bỏ lưới và cha của mình dưới
thuyền... (Mc 1,18-19). Đó cũng là chỉ thị đầu tiên của Đức Giêsu đối với các
môn đệ Người sai các ông đi thi hành sứ vụ,Người truyền cho họ không được đem
gì đi đường, không bánh, không bị, không tiền trong thắt lưng! (Mc 6,8).
Đó còn là
hệ luận đầu tiên phải rút ra từ lời loan báo cuộc thương khó của Chúa: "Kẻ
nào muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình" (Mc 8,34). Đức Giêsu đã không bao
giờ nói khác Người có những ý nghĩ theo nhau rõ ràng. Người yêu cầu một sự lựa
chọn dứt khoát. Người đòi hỏi "trọn vẹn". Muốn theo Người, phải bỏ
tất cả. Đây là một đòi hỏi vô biên. Tin Mừng không phải là một cách giải quyết
dễ dàng cho mọi vấn đề, mà là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, đầy nguy cơ liều lĩnh
tối đa. Thật là một tham vọng quá lớn.
Nghe lời
đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải
Đây là
một người cũng giống chúng ta thôi. Chúng ta chớ nên lên án anh ta. Chúng ta
cũng không thường mong muốn nếp sống hoàn hảo và sự sống đời đời sao?
Thế mà
lại không nhất quyết trả giá cho những điều đó Trình thuật về ơn gọi lúc này,
nhắc chúng ta rằng chính chúng ta cũng đã từng khước từ những lời mời gọi của
Thiên Chúa tới hưởng nguồn vui, mặc dầu bề ngoài chúng ta phải dứt bỏ nhiều thứ
sự "buồn bã" của người này rất có ý nghĩa: Anh ta có nhiều tiền, có
nhiều của cải lớn, và với sự sung túc này anh ta vẫn không được hạnh phúc. Đó không
phải là hình ảnh của phương Tây quá tràn đầy của cải vật chất sao? Nhưng chúng
ta hãy đi xa hơn, và hãy can đảm nhìn nỗi đau buồn đang làm tối sắm khuôn mặt
của anh. Đấy phải chăng là dấu hiệu hồng ân đầu tiên đã bắt đầu đến với anh
sao? Cho đến lúc đó, anh không ý thức được điều cốt yếu mà anh còn thiếu. Anh
vẫn tưởng rằng, của cải là đủ. Bây giờ anh mới biết, anh còn có một định mệnh
khác.
Lạy Chúa
xin biến những nỗi buồn của chúng con trở nên tích cực, có thể đánh thức chúng
con ra khỏi không ảo ảnh và ngủ mê. Chúng con đã được tạo dựng cho Chúa. Tâm
hồn chúng con, ước muốn của chúng con quá cao không thể chỉ thỏa mãn những của
cải hữu hạn trần gian: "Lạy Chúa, xin hãy đến, vì chỉ có Chúa mới làm cho
chúng con được no thỏa".
Đức Giêsu
rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ
Một lần
nữa, Thánh sử Máccô ghi nhận ánh mắt của Đức Giêsu. Chúa nhìn tôi. Chúa nhìn
những người mà tôi thương yêu. Chúa nhìn thế giới của chúng ta. Chúa nhìn những
đám đông ở những siêu thị. Chúa nhìn dân chúng trong những nước thuộc thế giới
thứ ba. Và cái nhìn này không thể lãnh đạm Người bắt đầu nói:
Những
người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Một lần
nữa Đức Giêsu tố cáo quyền lực ghê gớm của tiền tài. Đây là một sự cảnh giác
thường xuyên trong suốt thời gian rao giảng của Đức Giêsu: "Các ngươi
không thể phục vụ Thiên Chúa và Mammon cùng một lúc" (Lc 16, 13).
Người
giàu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần gì đến Thiên Chúa
nữa (Lc 12,16-20). Người giàu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy người
anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giàu sang bóp
nghẹt Lời Chúa (Mt 13,22).
Một lần
nữa, chúng ta không nên lên án kẻ khác. Hãy nhận mình cũng là những người giàu:
Số tiền trợ cấp thất nghiệp của một người Pháp là cả một sản nghiệp đối với một
người châu Phi hay châu Á.
Nghe
Người nói thế, các môn đệ sững sờ.
Sự kinh
ngạc của những môn đệ không phải là không có ý nghĩa. Tâm trạng người Do Thái
đinh ninh rằng, sự giàu sang là một ân huệ của Thiên Chúa, ý định của Thiên
Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế
gian này, nhằm xây dựng và làm cho thế gian thêm giá trị sao? (St 1,27-31).
Nhưng phải thú nhận rằng, chính chúng ta cũng không chấp nhận lời này của Chúa
Kitô. Thế kỷ 20 càng sẵn sàng hơn để đón nhận luân lý cách mạng sau đây:
- Phải
chăng chúng ta làm việc để "kiếm tiền", càng nhiều càng tốt.
- Phải
chăng chúng ta mong cho con cái chúng ta làm một nghề "có nhiều
tiền".
- Phải
chăng hàng ngày chúng ta thường bị sự quảng cáo tấn công, thúc đẩy chúng ta
tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và ám chỉ rằng, càng có nhiều, càng hạnh phúc.
Nhưng
Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!
Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa"
Thay vì
rút lại sự cứng rắn trong lời vừa nói, Đức Giêsu lại tăng cường một hình ảnh
không thể quên được. Đức Giêsu nhà thuyết giảng nổi tiếng, đã có nghệ thuật
dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh và dễ nhớ: Chúng ta không nên làm nhẹ
những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý. Thực sự, chúng nói lên mạnh mẽ
rằng, giữa giàu sang và sự cứu rỗi, luôn có tình trạng xung khắc nhau: Chúng ta
phải chọn lựa giữa hai kho tàng này, kho tàng trần gian, kho tàng trên trời.
Tiền của là cần thiết. Đức Giêsu không phủ nhận điều đó. Tiền của phục vụ chúng
ta, Đức Giêsu đồng ý. Nhưng nếu tiền của thống trị chúng ta, và chúng ta trở
nên nô lệ của nó, thì Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi.
Các ông
lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai có thể được
cứu?" Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người
thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với
Thiên Chúa mọi sự đều có thể được"
Lại một
lần nữa, cái nhìn của Đức Giêsu, được ghi nhận lần thứ ba trong cùng một trang
Tin Mừng. Ở đây Đức Giêsu trích một lời trong Thánh Kinh dành cho Abraham (St
15,14). Mặc dầu tuổi cao, không đủ điều kiện thể lý. Bà Xara sẽ sinh ra một con
trai, vì tất cả có thể được đối với Thiên Chúa. Thiên Thần Gabriel cũng đã nói
điều này với Mẹ Maria (Lc 1,37). Vậy sau khi lên án khắt khe thái độ chiếm hữu
của chúng ta, Đức Giêsu đã mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng.
Lạy Chúa,
là Chúa tể càn khôn, Chúa đòi hỏi điều không thể làm được. Xin hãy đến giải
thoát chúng con! Và tay chúng con sẽ mở ra trước Chúa, để đón nhận những gì còn
thiếu trong tình thương của chúng con.
27. Điều
cần phải bỏ trên đường theo Giêsu
(Giải
thích và suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
Vài hàng
sơ lược
- Đoạn
phúc âm này là bài giáo huấn thứ 3 trong chương 10, sau lời giáo huấn về hôn
nhân (10,2-12) và về tinh thần của trẻ em (10, 13-16). Đề tài chính của đoạn
này là câu hỏi về sự sống đời đời làm gia nghiệp trên nước Trời, và tinh thần
theo Giêsu.
- Đoạn
này có thể chia làm 3 phần: (1) từ câu 17-22 là cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa
Giêsu và người thanh niên giàu có đi tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp. (2) Từ
câu 23-27, Đức Giêsu giáo huấn tinh thần nghèo khó cần có trên đường theo Chúa,
và cần có để được vào nước Trời. Và (3) từ 28-31, câu hỏi của Phêrô về phần
thưởng khi theo Giêsu, và câu trả lời của Giêsu.
Suy niệm
"17
Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người
và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm
gia nghiệp?"
-
"Giêsu lên đường" trong câu này, là đi tới Giê-ru-salem (ss. Mc
10,32), để Ngài sẵn sàng chịu đau khổ, chịu bắt hại và chịu chết. Và trên đường
đó, có một người chạy đến gặp Giêsu. Người này, theo Mt 19,22, là người thanh
niên. Theo Adolf Pohl, trong xã hội Do-thái, đàn ông đến 40 tuổi vẫn có thể được
gọi là thanh niên. Ngoài ra, so sánh với Lc 18,18-23, thì người hỏi Giêsu là
một thủ lãnh. Người này có thể là trưởng hội đường, là quan tòa, hay một thành
viên trong hội đường. Vì thế, không biết người anh em trong đoạn phúc âm của
chúng ta có phải là một thanh niên hay không? Tuy nhiên, thuận theo Mát-thêu
chúng ta cứ coi là một thanh niên.
- Anh ta
chạy đến và quỳ xuống trước mặt Giêsu và hỏi. Thái độ quỳ xuống ở đây nhắc nhớ
chúng ta đến hình ảnh của người phong hủi quỳ xuống xin Giêsu: "Có người
bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể làm cho tôi được sạch." (Mc 1,40) Thái độ này còn có ý nghĩa
công nhận Giêsu là một vị Thầy. Vì thế, trong câu hỏi, anh ta đã nói rằng:
"Thưa Thầy nhân lành". Tính từ "nhân lành" hay "tốt
lành" ở đây được thêm vào, có ý nghĩa chỉ về vị thầy được nhắc trong Mc
12, 14, mà các người Pha-ri-sêu nói về Giêsu: "Thầy là người chân thật.
Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo
sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa." Và "tốt lành" ở đây
chỉ vị Thầy khiêm nhường, như Gioan Tẩy Giả nhỏ đi, để Thiên Chúa lớn lên:
"Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi." (Ga 3, 30). Vâng,
quên chính bản thân mình, để tất cả chỉ vì vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
-
"Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp? Câu hỏi của chàng trai trẻ đặt ra cho vị Thầy tốt lành, trở nên một câu
hỏi quan trọng cho mỗi con người trong từng thời đại. Một câu hỏi nói lên lòng
khao khát của con người về kho tàng quý giá nhất, về hạnh phúc tuyệt vời và
vĩnh cửu, hạnh phúc mà con người không thể tìm thấy trong cuộc sống trên trái
đất này. Sự khao khát về sự sống vĩnh cửu, sự sống không bao giờ quen tới chữ
"hết" và chữ "chết". Nhưng để cho cuốn phim cuộc đời không
"hết" và sự sống con người không "chết", thì cần phải làm
gì đây? Vấn nạn của chàng thanh niên thuở xa xưa cũng là vấn nạn của từng người
trẻ thời nay. Trước vấn nạn này, chúng ta hãy lắng nghe Giêsu trả lời.
"18
Đức Giê-su đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả,
trừ một mình Thiên Chúa."
- Đúng
theo kiểu của Giêsu, Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi cho người đã hỏi.
(ss. Mc 10,3). "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả,
trừ một mình Thiên Chúa." Ở đây, chúng ta cũng có thể thắc mắc, tại sao
Giêsu lại đặt ra câu hỏi đó. Và tiếp đến tại sao Giêsu lại từ chối tính từ
"nhân lành hay tốt lành"?
Câu hỏi
Giêsu đặt ra và sự từ chối của Ngài như là một cách thức và "phương
tiện" Giêsu dùng để hướng về một điều quan trọng trong câu chuyện này.
Điều quan trọng đó nằm trong câu trả lời: "Chỉ một mình Thiên Chúa tốt
lành" (ss. Mc 12, 29). Câu trả lời này, theo R. Pesch, có ý nghĩa là,
Giêsu qua câu hỏi của người thanh niên về điều cần làm, muốn hướng mọi người về
giới răn chính yếu của Thiên Chúa tốt lành. Chỉ có giới răn này là quan trọng,
là cần được thực thi. Đó chính là giới răn được nhắc trong Đnl 6,4-5: "
Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất.
Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh
(em)." Điều răn chính yếu này hướng về điều răn khác cũng quan trọng không
kém. Đó là: "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình." Và
"chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." (Mc 12, 31).
19 Hẳn
anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ."
Tiếp đến
Giêsu hướng anh chàng thanh niên về các giới răn mang tính cách xã hội, trong
tương quan giữa ngưới với người: "Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm
cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." Đây là
những giới răn quan trọng được nhắc tới trong Mười điều răn căn bản của Đức
Chúa Trời dạy. Mười điều răn này tựu trung lại chính là giới răn: "Yêu người
thân cận như chính mình." Ai thực thi những điều răn này thì đang đi trên
con đường công chính, và sự sống đời đời thuộc về người đó. Như vậy, anh chàng
thanh niên của chúng ta có sống theo các giới răn đó không?
20 Anh ta
nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ."
Thật
tuyệt vời! Còn gì bằng nữa. Từ năm 13 tuổi anh thanh niên đã sống theo các giới
răn. Vâng, như các trẻ em Do-thái khác, khi được 13 tuổi anh đã đón nhận trách
nhiệm sống tương hợp với những điều Gia-vê truyền. Theo Billebeck, thì Do-thái
giáo coi những người, dù ở trong một xã hội sô bồ và tội lỗi, vẫn sống theo lề
luật mà Mô-sê truyền là những người công chính. Đó là 365 điều răn cần làm và
248 điều răn cần tránh trong các sách của Mô-sê.
Cuộc gặp
gỡ giữa Giêsu và chàng thanh niên có thể chấm dứt ở đây, và anh ta có thể ra về
trong hân hoan. Nhưng không, chính Đức Kitô không để cho anh đi dễ dàng như
vậy. Ngài lên tiếng và thêm vào một điều quan trọng khác kế bên các giới răn
trên. Điều đó người thanh niên cần có để có thể đạt được sự sống đời đời làm
gia nghiệp.
21 Đức
Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ
thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ
được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."
Trước câu
trả lời của chàng thanh niên, Giêsu hướng nhìn anh và đem lòng yêu mến. Ở đây,
theo R. Pesch, thì đó không phải là kiểu Giêsu biểu lộ cảm tình của mình với
anh thanh niên, mà là một thái độ cao thượng của người Thầy có quyền dạy dỗ về
giới răn và quyết định giới răn. Sau đó, Giêsu đã chỉ ra một điều thiếu thốn,
kế bên những giới răn mà anh thanh niên đã hiểu và sống theo. Đó là: "hãy
đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Rồi hãy đến theo tôi." Trong Mát-thêu 19, 29 thì: ""Nếu anh muốn
nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ
được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Điều Giêsu đòi hỏi
liên hệ đến chính sự sống và và vệnh mạng của anh thanh niên. Một sự đòi hỏi
tận căn cho những con người muốn sống hoàn thiện.
Thực ra,
nếu so sánh với kho tàng trên trời mà Giêsu hứa ban, thì của cải tài sản trên
trái đất này có là gì đâu. Nói vậy, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Có biết
bao người đã coi của cải trần gian như ông chủ của mình, và bị lệ thuộc vào nó
hoàn toàn. Hơn nữa, cái mình đang có trong tay bao giờ cũng quý, và cái mà mình
được hứa ban cũng thật quý. Nhưng ai dám đánh đổi hay bỏ hết cái mình đang có
trên tay, đề rồi nhận cái mà mình được hứa trong tương lai? Rồi còn cái
"lòng tham vô đáy" của con người nữa chứ.
Dù vậy,
vẫn có rất nhiều anh chị em trong lịch sử đã thấu hiểu cái giá trị cao quý của
Nước Trời, nên chẳng màng tới của cải trần gian. Đó là Phan-xi-cô A-si-si, là
Ê-li-sa-bét miền Thue-ring-gen, là I-nhã thành Lô-giô-la, và một vị thánh khác
rất gần gũi với người Châu Á, Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Tất cả đều là những con nhà
quyền quý và giàu sang, nhưng đã rũ bỏ tất cả những vật hồng trần, để trở nên
con người tự do thực sự. Đây chính là điều Giêsu muốn nói trong đoạn phúc âm
này. Bỏ hết của cải để được tự do cho Nước Chúa, tự do cho Tin Mừng, tư do theo
Đức Kitô, và cùng với Ngài sống hoàn toàn cho tình yêu thương. Chắc chắn phần
thưởng của họ không gì khác hơn là kho tàng lớn nhất. Đó là Nước Trời. Về điều
này, R. Pesch đã giúp cho chúng ta đọc những tâm tình của các thầy Ráp-bi
Do-thái giáo. Dưới đây là một trích dẫn mang suy nghĩ "công trạng và phần
thưởng": "Người công chính rất thích chờ đợi giây phút cuối cùng, họ
chẳng sợ gì khi lìa bỏ cuộc đời này. Vì ở nơi Thiên Chúa, họ có một kho tàng từ
chính những công trình của mình. Kho tàng đang được giữ gìn cho họ trong phòng
cất giữ đồ quý." Tuy nhiên, kho tàng ở trên trời không phải là thước đo,
bắt người có niềm tin phải sống sao cho có hiệu quả, phải sinh ra lợi ích này
hoa trái kia. Suy nghĩ của Giêsu không theo suy nghĩ của các Ráp-bi, "công
trạng và phần thưởng". Kho tàng trên trời là một hướng đích, giúp cho
người có niềm tin định hướng cho hành động của mình sao cho được tốt, có thái độ
hợp tình hợp lý với anh chị em bên cạnh, từ chối những gì mang mùi vị của sự
dữ, không làm cho người bên cạnh bị tổn thương. Kho tàng trên trời giúp biết ý
thức sống công chính với người nghèo, sẵn sàng chia sẻ và nâng đỡ họ, ... Tóm
lại, có thể nhắc đến nguyên tắc vàng trong Mt 7,12: "Vậy tất cả những gì
anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người
ta."
Như vậy,
ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì
giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13,
44-46: "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người
kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình
có mà mua thửa ruộng ấy. "Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương
gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những
gì mình có mà mua viên ngọc ấy."
Và người
đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng
"vốn
dĩ là Thiên Chúa
mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy
thân nô lệ,
trở nên
giống phàm nhân
sống như
người trần thế.
Người lại
còn hạ mình,
vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên
cây thập tự." (Pl 2, 6-8).
- Cùng
với Đức Kitô, người sống tinh thần từ bỏ tất cả của cải, và chỉ hướng về Nước
Trời, đang sống chứng tá giữa lòng thế giới đầy phức tạp, với chủ nghĩa hưởng
thụ, đề cao của cải vật chất, tiện nghi hiện đại, đến nỗi chẳng còn màng gì đến
nhân phẩm con người, đến lòng bác ái cần có trong xã hội. Trong thế giới này
thiếu vắng văn minh của tình thương. Theo Carlo Maria Martini, tinh thần nghèo
khó của Kitô giáo cần trở nên dấu chỉ sống động cho sự đoàn kết và tương trợ
giữa con người với nhau. Đàng khác, tinh thần sống nghèo khó của người Kitô hữu
cần mang một "khuôn mặt" khác nữa. Sự nghèo khó của chúng ta cần phải
tự tách biệt ra khỏi thế giới này, trở nên lời phê bình đối với thế giới xung
quanh chúng ta. Sự nghèo khó của Kitô giáo cần phải đem lại thước đo giá trị
khác về con người và vật chất. Nghĩa là, phẩm giá con người không thể được đo
và đánh giá theo chuẩn mực của danh vọng địa vị, của tiền bạc vật chất. Kinh
nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường nghèo khó cũng chính là con đường giải phóng,
con đường của niềm vui và mừng rỡ. Kinh nghiệm này nối kết chúng ta với Đức
Giêsu Kitô. Con đường nghèo khó này giúp cho chúng ta thấu hiểu và cảm nhận
được sức mạnh của Thánh Giá.
Ai đã cảm
nhận được phần nào niềm vui này, ai đã tập sống chú ý và sống thật giản dị đơn
sơ, sống khiêm nhường và ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, thì người
đó sẽ khám phá nhiều điều mới trong những trang của Tin Mừng. Không có sự cố
gắng sống tinh thần nghèo khó này, các trang giấy Tin Mừng luôn là những trang
giấy "câm lặng".
Ai cất
bước đi trên con đường nghèo khó của Đức Kitô, thì lời của Đức Kitô sẽ trở nên
sống động đối với người đó. Lời của Đức Kitô sẽ bắt đầu ngân vang lên những
khúc nhạc thật tuyệt vời, đem lại cho cuộc đời nhiều niềm vui, bình an và cuộc
đời thật đáng sống, vì cuộc đời đẹp lắm thay.
- Ngoài
ra, liên quan đến câu nói của Đức Kitô, Anselm Grun, một tu sĩ người Đức thuộc
tu viện Biển Đức Muensterschwarzach, đã có những suy niệm khá lý thú. Trước hết
cha đã trích dẫn lời của Evagrius (346-400), một vị ẩn sĩ khắc khổ, và một nhà
văn người Hy-lạp: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, hãy vác
lấy thánh giá của anh trên vai anh, để anh có thể cầu nguyện sốt sắng, mà không
bị chia trí gì cả." Tiếp đến, cha Grun đã giải thích lời này như sau.
Evagrius
đã thay đổi câu nói của Đức Kitô theo một ý nhất định. Trong phúc âmcủa
Mát-thêu Chúa Giêsu nói với người thanh niên: "Nếu anh muốn nên hoàn
thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một
kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." (Mt 19,21) Evagrius đã đồng
nhất sự theo chân Đức Kitô với việc cầu nguyện thật sốt sắng. Thật là táo bạo,
khi thay đổi ý nghĩa lời của Giêsu. Và như vậy, việc theo chân Đức Kitô được
hoàn thiện trong cầu nguyện, trong chiêm niệm.
Nhưng
điều kiện cho việc cầu nguyện sốt sắng không chia trí là, chúng ta phải bán tất
cả những gì mà chúng ta đang bám vào và lệ thuộc vào, và cho người nghèo. Chúng
ta cần phải trở nên tự do hoàn toàn, tự do với tất cả những gì chúng ta đang sở
hữu. Không chỉ là những vật chất bên ngoài, mà là tất cả những gì mà chúng ta
đã đồng nhất hóa với chúng: như thói quen của chúng ta, suy nghĩ của chúng ta,
công việc của chúng ta, lo toan của chúng ta, kết quả tốt đẹp và cả tiếng tốt
của chúng ta. Sự tự do nội tâm là điều kiện cho việc cầu nguyện, mà trong đó
chúng ta được trở nên một với Thiên Chúa.
Evagrius
cũng nêu lên một điều kiện khác. Đó là chiêm niệm (contemplation). Chúng ta cần
phải đón nhận thánh giá và vác trên vai mình. Thánh giá là sự hiệp nhất của tất
cả mọi sự đối lập tương phản. Chúng ta cần phải đón nhận vào trong mình tất cả
mọi tương phản, cả cái bóng của chúng ta, cái bóng làm cho hình ảnh lý tưởng
của chúng ta bị lu mờ. Đón nhận Thánh Giá cũng còn có ý nghĩa là nói «Vâng» với
tất cả những gì đi ngang qua chúng ta, nói «vâng» với đau khổ đến với chúng ta,
nói « vâng » với thất bại, nói «vâng» với tương quan đổ vỡ, nói «vâng» với
những «vết rách» trong cuốn sách lịch sử cuộc đời của chúng ta.
Chỉ khi
chúng ta hòa giải với Thánh Giá đang ở trên cuộc sống của chúng ta, thì chúng
ta mới có khả năng cầu nguyện sốt sắng và không chia trí. Chỉ có những người
đón nhận tất cả một cách vô điều kiện, thì mới có thể cầu nguyện thực sự. Còn
không, thì người đó sẽ bị quấy rầy thường xuyên, bởi những gì khó chịu ở bên
trong mà người đó đang chống lại.
22 Nghe
lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
- Khi
nghe lời của Đức Kitô, anh chàng thanh niên của chúng ta sầm nét mắt lại. Thái
độ hăng say đầu tiên đã biến mất. Vâng, đụng tới tiền bạc là thế! Tiền bạc đã
làm cho Anh không thể tìm thấy nơi Giêsu ách êm ái và gánh nhẹ nhàng được (ss.
Mt 11,30). Vì vậy, anh ta bỏ đi, trở về lại với kho tàng của mình, để tiếp tục
gánh cái gánh nặng nề đang đè trên vai mình. Không chỉ thế, bỏ đi nhưng bỏ đi
một cách buồn rầu nữa chứ. Anh ta buồn rầu vì suy nghĩ của anh ta về "công
trạng và phần thưởng" không được phê chuẩn hoàn toàn? Hay anh ta buồn rầu,
vì phải lìa xa Giêsu, sau khi đã nhận được một chút "hơi thở" tốt
lành, nhân ái của Giêsu? Nhưng anh ta còn thiếu cái gì để có thể từ bỏ được của
cải vật chất? Chắc chắn rằng, anh ta chưa yêu Chúa hơn yêu của cải của mình.
Của cải của anh ta nhiều quá, đến nỗi che mắt anh ta, làm cho anh ta không còn
thấy Chúa nữa, không còn sáng suốt để nhận định giá trị đích thực của vật chất
là gì. Vâng, thật tiếc vì anh ta chưa hiểu được điều: "Anh em hãy biết
rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được
cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại." (1 P
1,18) Hơn nữa, con người như một bình sành dễ vỡ. Một lúc nào đó, bỗng chợt anh
ta bị một tai nạn gì hay mang cơn bệnh gì, thì thử hỏi rằng, của cải nhiều vô
kể có đi theo với anh ta xuống hầm mộ không? Tất cả những của cải dù có lớn
kếch sù đến mấy cũng không thể "mua được chiếc hỏa tiễn chở" anh ta
lên Trời.
- Ngoài
ra, anh ta còn thiếu thái độ bình tâm. Thái độ bình tâm coi Chúa và thánh ý
Chúa là trên hết, đến nỗi: "chúng ta không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật,
giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương
tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng
ta tới cứu cánh của mình hơn cả." (Linh Thao số 23)
- Thái độ
bình tâm này giúp chúng ta biết hướng con tim của mình về trời. Hướng con tim
về trời nghĩa là chúng ta biết lo lắng những điều lớn hơn cả sự sống của mình,
lớn hơn cả của cải, sự nghiệp, gia đình và bạn vè, lớn hơn cả những lời hứa hẹn
và dự định tương lai. Theo Henri J. M. Nouwen, các điều đó là những điều thuộc
về Thiên Chúa: Sự thật, tình yêu, niềm tin, ánh sáng và thánh ý của Chúa. Chừng
nào chúng ta còn hướng con tim mình về những điều này, thì lý trí của chúng ta
sẽ không còn nghĩ đến những "chuyện vớ vẩn", những sự vật hấp dẫn
chúng ta, đến nỗi chúng ta luôn muốn có, nhưng thực sự thì chúng ta chẳng cần
đến chúng. Chừng nào chúng ta còn hướng về chân lý, ánh sáng và sự sống của
Thiên Chúa là tình yêu, cũng như đi tìm thánh ý Ngài, thì chúng ta còn tham dự
vào trong cộng đoàn của Thiên Chúa. Đấng luôn hiện diện ở đó ngay trong lúc
này. Chính Ngài sẽ ban tặng cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần tới. Như
thế, thì những lo lắng cuộc đời của chúng ta trở thành lời cầu nguyện, và những
cảm giác bất lực của chúng ta sẽ được biến đổi và thánh hóa trong sức mạnh của
Thần Khí Thiên Chúa.
- Thực
thế, nếu chúng ta hướng lòng mình vào của cải, vào những lo toan làm sao được
sung sướng tiện nghi hơn, nhiều tiền của hơn để hưởng thụ, thì chúng ta vẫn
không thể làm cho cuộc sống của mình dài thêm một gang tấc nào cả. Vì thế, điều
khôn ngoan cần có ở đây, là không chỉ mong sao cho được sống sung sướng trên
nhung lụa, mà còn dám bỏ nhung lụa để chạy đến và nép vào lòng của Thiên Chúa;
dám bỏ tất cả, để tự do hoàn toàn trên đường làm con trai con gái của Thiên
Chúa, Đấng sẽ đem lại cho chúng ta sự sống đời đời làm gia nghiệp.
- Nói
thế, nhưng không phải như vậy là chúng ta không còn "tham lam" của
cải, và bám chặt vào chúng, và ngày ngày lo toan sao có thêm nhiều hơn nữa.
Khuynh hướng này vẫn ở đó trong chúng ta. Như vậy, chúng ta sống trong tình
trạng "què quặt". Một đàng là vậy, đàng khác thì lại mong ước điều
khác hẳn. Vâng, chúng ta không bao giờ thoát khỏi cái ước muốn của chúng ta, và
thoát khỏi lòng tham muốn có thêm của cải, để trở nên con người tự do thực sự.
Có lẽ hiểu được điều đó mà Tagore đã lên tiếng: "Ước muốn trong tôi nhiều
vô kể và tiếng nói tôi than nghe não nuột, thảm thương." (Lời dâng, 14)
Trong
tình trạng "què quặt" này, Henri J. M. Nouwen đã khuyên chúng ta biết
luôn trở về và biết ý thức hướng trọn tâm hồn mình về với Chúa, Đấng Tốt Lành
vô cùng. Ở bên Ngài chứ không phải ở bên cạnh "đống của cải", chúng
ta có thể thảnh thơi và mỉm cười về chính cái ích kỷ của mình, lòng tham vô đáy
của mình, và song song luôn mở đôi mắt mình và đôi tai mình cho sự bắt đầu mới,
bắt đầu tập sống tinh thần từ bỏ, tinh thần làm con cái Thiên Chúa, những người
con thực sự tự do trên đường theo Thầy, và sống tinh thần của Thầy. Và khi đi
trên con đường của Đức Kitô, chúng ta không cần phải lo lắng quá đỗi cho chính
mình. Vì "Ngày lại ngày người làm tôi xứng đáng với tặng vật lớn lao giản
đơn người ban, mà chẳng cần để tôi xin hỏi – này bầu trời, ánh sáng, này xác
thần, này trí tuệ, này cuộc đời – cứu tôi khỏi những hiểm nguy của vũng lầy ước
muốn." (Lời dâng, 14)
23 Đức
Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có
của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! "24 Nghe Người nói thế, các môn
đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa
thật khó biết bao!25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước
Thiên Chúa." 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau:
"Thế thì ai có thể được cứu?"
- Khi anh
chàng thanh niên bỏ đi, Giêsu liền rao mắt nhìn chung quanh và nói với các môn
đệ. Cái nhìn chung quanh của Giêsu chính là cái nhìn giáo dục, cái nhìn dạy bảo
những môn đệ gần gũi với Ngài nhất. Ngài dạy bảo điều gì? "Những người có
của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" Chắc chắn rằng, việc vào Nước
Trời là một quà tặng của Thiên Chúa ban, nhưng không vì thế mà có nghĩa là sẽ
dễ dàng nhận được món quà này. Trở về lại với Mc 9, 43.45.47, chúng ta sẽ thấy
Giêsu đã nói mạnh bạo như thế nào. Vâng, "thà chột mắt mà được vào Nước
Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục." (Mc 9,47)
Trước
những lời của Giêsu, các môn đệ sững sờ. Vâng, không ngạc nhiên sờ sững sao
được, khi hiểu được cửa vào Nước Thiên Chúa đâu phải là cánh cửa rộng thênh
thang, mà chính là cánh cửa hẹp: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và
đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa
hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy."
(Mt 7,13-14)
Trở về
với Mác-cô, chúng ta thấy cánh cửa hẹp của Nước Trời Giêsu đã so sánh với cánh
cửa "lỗ kim". Cánh cửa rất nhỏ tại bức tường vào thành Giê-ru-sa-lem.
Thật là tương phản biết bao, khi con lạc đà đứng trước "lỗ kim" này.
Nghe tới
hình ảnh so sánh rất tương phản của Giêsu, các môn đệ lại sững sỡ hơn nữa, và
các ông đã hỏi nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?" Câu hỏi này của
các môn đệ được Giêsu trả lời như sau:
27 Đức
Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể
được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự
đều có thể được."
Câu trả
lời của Giêsu có hai vế. Vế đầu tiên là: ""Đối với loài người thì
không thể được." Vế này chỉ là phần phụ. Vế thứ hai chính là điều mà Giêsu
muốn nói rõ: "nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với
Thiên Chúa mọi sự đều có thể được." Ở đây, chúng ta nhớ lại câu chuyện của
bà Sa-ra, đã không tin vào lời của Chúa hứa cho bà sẽ sinh con dù tuổi đã cao.
Sau đó, Chúa đã hiện ra với bà và ông Áp-ra-ham, và Ngài đã nói rằng: "Nào
có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA?" (St 18,14). Còn Gióp, dù bị rơi vào
trong hoàn cảnh đau khổ, nhưng ông vẫn tin tưởng vào Chúa, Đấng sẽ cứu thoát.
Ông đã cầu nguyện như sau: "Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được,
không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu." (G 42,2). Thực
vậy, cuối cùng " ĐỨC CHÚA đã khôi phục tài sản cho ông Gióp...ĐỨC CHÚA đã
tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia." (G 42, 10)
Chữ
"nhưng" nổi tiếng mà Đức Giêsu nhắc đến ở đây thật có ý nghĩa sâu sa.
Chữ "nhưng" đó Thiên Chúa đã nói với Sa-ra, khi bà thầm cười, như
cười hình ảnh con lạc đà với lỗ kim. Chữ "nhưng" đó Gióp đã hiểu rõ
ràng, nên đã không thầm cười, mà đầy tin tưởng cầu nguyện với Gia-vê Thiên
Chúa, Đấng chắc chắn sẽ cứu độ ông. Và chữ "nhưng" này còn được làm
nổi bật nơi Áp-ra-ham, chồng của bà Sa-ra: " Mặc dầu không còn gì để trông
cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân
tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần
một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác
ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút
nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và
tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa
thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công
chính." (Rm 4, 18-22)
Trở về
lại với cuộc đời thường ngày, nhiều lần tôi cũng đọc được chữ "nhưng"
này trong một số cuộc đời. Vâng, có cuộc đời bị thế lực sữ dữ đe dọa và hãm
hiếp, nhưng dù vậy người anh chị em đó vẫn luôn bám vào Chúa, vì tin rằng, sự
dữ dù lớn đến thế nào, nhưng vẫn không lớn bằng tình yêu của Chúa. Còn cuộc đời
khác, bị đồng tiền hãm hại, bóc lột, nhấn chìm xuống vực sâu, nhưng vẫn can đảm
vươn lên, không nằm chết dưới bóng đêm trong hố sâu thăm thẳm kia, vì người anh
chị em đó tin rằng, đồng tiền dù có giá, dù con người ai ai cũng cần đến, nhưng
nó không là ông chủ của mình, mà Ông Chủ đích thực của đời người là Thiên Chúa,
đấng mạnh mẽ hơn đồng tiền nhiều lắm. Vâng, dù một số người cứ tưởng rằng:
"Có tiền mua tiên cũng được", nhưng họ đã lầm to, dù trả giá cao đến
mấy, họ vẫn không bao giờ mua Chúa được đâu. Còn cuộc đời khác thì đang quằn
quại đau đớn, vì bị người thân yêu nhất của mình bỏ rơi, cái đau thê thảm nhất,
nhưng dù sao thì người anh chị em đó trong cơn đau vẫn không đánh mất niềm hy
vọng, không đánh mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Thần Khí của Ngài, Đấng
có thể thúc đẩy một tâm ác phải lên đường trở về với chính lộ, với chánh niệm,
trở về lại với tình yêu nhân từ của Chúa, và từ đó trở về với mái ấm mà mình đã
lỡ dại một lần bỏ rơi và đi hoang.
Thực, dù
con người và thế giới này có bất lực hoàn toàn, "nhưng" đối với Thiên
Chúa, thì mọi sự đều có thể được.
28 Ông
Phê-rô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ
mọi sự mà theo Thầy!"
Câu 28
này nối tiếp với câu chuyện anh chàng thanh niên hỏi Chúa, và ở đây Phêrô xuất
hiện như là người đại diện cho các anh em. Ông lên tiếng hỏi Giêsu: "Thầy
coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!" Một cách nào
đó, Mác-cô đã đặt câu chuyện của Phêrô ở đây tương phản với câu chuyện của
người thanh niên, đã không dám bỏ mọi sự theo Chúa. Song song với Mác-cô, câu
hỏi của Phêrô trong phúc âm Mát-thêu rõ hơn một chút: "Thầy coi, phần
chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?"
Đây là câu hỏi mà các nhà chú giải thường giải thích theo cái nhìn "công
trạng và phần thưởng", tương hợp với suy nghĩ của các Ráp-bi. Theo Adolf
Pohl, thì Giêsu đã đón nhận câu hỏi của Phêrô một cách bao dung. Ngài cũng đã
trả lời Phêrô rõ ràng, nhưng câu trả lời này không theo suy nghĩ của các thầy
Ráp-bi, cũng theo suy nghĩ mang tính cách luân lý, mà là một lời hứa:
29 Đức
Giê-su đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị
em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây
giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng
đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
- Trước
hết, đọc kỹ hai câu này, chúng ta thấy Mác-cô trong câu 30, đề cập đến những gì
các môn đệ nhận được ngay bây giờ, thì lại không nhắc đến cha, mà chỉ là mẹ và
anh chị em. Theo Pesch, thì ở đây trong cái nhìn của Giêsu, chỉ có một cha trên
trời mà thôi, và Ngài muốn hướng mọi người về Cha: "Anh em cũng đừng gọi
ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên
trời." (Mt 23,9). Cha trên trời chình là "nguồn gốc mọi gia tộc trên
trời dưới đất." (Ep 3,15) Và trong câu 30, Giêsu nhắc đến sự ngược đãi, có
nghĩa là Giêsu hướng về sự bắt bớ mà các môn đệ sẽ hứng chịu, khi thi hành sứ
vụ truyền giáo trong thời giáo hội tiên khởi
- Ngoài
ra, câu trả lời của Giêsu nhắc nhớ đến sự đòi hỏi của Ngài giành cho những ai
muốn theo Ngài: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những
kẻ lưới người như lưới cá." (Mc 1, 16), và "Ai muốn theo tôi, phải từ
bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình,
thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu
được mạng sống ấy." (Mc 8, 34b-35) Như vậy, động lực đầu tiên thúc đẩy các
môn đệ từ bỏ là theo Giêsu, và động lực thứ hai là vì Tin Mừng, Tin Mừng mà
Giêsu rao giảng: "Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa." Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1,14-15)
Những gì
các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất
cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình... Nhưng đâu
phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các
ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt
giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo
khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng
cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại
được biết bao nhiêu. Vâng, lời nói của Giêsu: "ngay bây giờ" là lời
nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa
thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ
đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh
chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là "gấp trăm" nữa chứ! Cái
"gấp trăm" này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ
ngôn người gieo giống (ss. Mc 4, 1-20)
Những
người từ bỏ hoàn toàn giờ đã được lại tất cả và còn nhiều hơn thế nữa. Đó là mẹ
Tê-rê-sa, người mẹ có biết bao nhiêu con cái nghèo nàn. Là Frere Roger có biết
bao người trẻ là môn đệ, và con mình. Và điều quý báu nhất là Mẹ Tê-rê-sa và
Frère Roger trở nên những người anh chị em của Đức Kitô: "Ai thi hành ý muốn
của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." (Mc 3,35).
Cả hai
chẳng thiếu thốn nhà cửa và ruộng đất. Nhà cửa ở khắp mọi nơi trên thế giới,
ruộng đất tại mọi ngõ nghách của trái đất này. Không chỉ thế, món quà lớn nhất
mà Giêsu hứa ban đó là "sự sống vĩnh cửu ở đời sau." Sự sống mà anh
chàng thanh niên đã ao ước. Sự sống ở bên Thiên Chúa, trong tương quan gần gũi
với Người, tương quan như cha với con vậy. Sự sống thông hiệp với tất cả các
thiên thần, các thánh và các anh chị em, những người con yêu dấu của Chúa ở
trên thiên quốc.
Một cách
nào đó, Thiên Quốc đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, nơi các môn đệ của Đức Kitô
đang sống vì Chúa và vì Tin Mừng. Nơi đó, các ông đã trở nên những người anh em
ở bên Đức Kitô.
31 Quả
thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được
lên hàng đầu."
Câu này
thường xuất hiện trong phúc âm nhất lãm. Lúc thì trong bối cảnh này, lúc thì
trong bối cảnh khác, và có những chủ đích khác nhau. Như trong dụ ngôn thợ làm
vườn nho trong Mt 20, 1-6 hay trong Lc 13,30, khi Đức Giêsu khi lên
Giê-ru-salem, đã rao giảng trên đường, và Ngài đã nhắc đến điều này: "Và
kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống
hàng chót."
Còn trong
đoạn Tin Mừng của chúng ta, thì lời của Đức Kitô mang âm thanh thật an ủi.
Trong sự sụp đổ của ngày cánh chung, tất cả kẻ chết sẽ chỗi dậy, người nghèo
khó sẽ được tặng ban, kẻ đói khát sẽ được no thỏa, người buồn sầu sẽ được ủi
an, ké bé nhỏ sẽ trở thành "người lớn", người đau yếu sẽ mạnh khỏe,
kẻ bị tù đày sẽ được giải thoát, và người rốt hết sẽ nên trước hết.
Ngoài ra,
với câu 31 này, Mác-cô muốn nêu bật chủ đề mà ông muốn nói trong đoạn 10,
17-31. Đó là chủ đề trở về và theo chân Chúa. Vâng, những ai nhờ giàu có, địa
vị, và quyền lực mà trở nên những người trước hết, thì họ sẽ trở nên người cuối
hết trong ngày cánh chung, vì họ đã không từ bỏ được của cải, địa vị và quyền
lực. Còn những ai trong cuộc sống này chẳng có gì cả, và cũng không là ai nổi
tiếng và danh giá cả, mà chỉ là người môn đệ đơn sơ của Đức Kitô, những người
ngồi ở chỗ cuối cùng trong "căn phòng thế giới" này, thì họ sẽ trở
thành những người trước hết trong "căn phòng Thiên Quốc", với sự sống
vĩnh cữu.
Tham khảo
- Rudolf
Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band
II/2, S.135-147
- Adolf
Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT
1, S. 376-386
- Hermann
L. Strack und Paul Billerbeck, Kommentar zum NT aus Talmud und Midrasch,
C.H.Beck Munchen, 8. Aufl., Band III, S. 161.
- Carlo
Maria Martini, Mein spirituelles Worterbuch, Pattloch Verlag, Ausburg 1998,
Begriff: "Armut"
- Henri
J. M. Nouwen, Dem vertrauen, der mich
halt. Das Gebet ins Leben nehmen. Herder Verlag, Freiburg Basel Wien 2003
- Anselm
Grun, Der Weg durch die Wuste. Vier-Turme-Verlag, Munsterschwarzach 2001.
-
Gitanjali RABINDRANATH TAGORE, LỜI DÂNG, Đình Khoan chuyển ngữ, nguồn
<www.dunglac.net>
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét