TẠI ĐỀN
THÁNH PHÊRO, ĐTC PHANXICO ĐÃ PHONG THÁNH CHO ĐGH. PHAOLO VI, ĐỨC TGM. ELSANVADO |
TẠI ĐỀN
THÁNH PHÊRO, ĐTC PHANXICO ĐÃ PHONG THÁNH CHO ĐGH. PHAOLO VI, ĐỨC TGM. ELSANVADO |
ĐỀN THÁNH PHÊRO TÙY |
ĐỀN THÁNH PHÊRO TÙY |
LỄ GIỖ TAI ĐỀN THÁNH PHÊRO TÙY |
KHÁNH THÀNH GX. HOÀNG NGUYÊN TAI PHU LY GP. HA NOI |
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
1. Phục vụ
2. Phục vụ –
Jean-Yves Garneau
3. Lật ngược xuống
là đúng chiều rồi
4. Đầy tớ và nô lệ
5. Thế giới đảo
ngược – Achille Degeest
6. Ra lệnh và
truyền lệnh – Gm Arthur Tonne
7. Con Người đến
để phục vụ – Noel Quesson
8. Phục vụ
9. Làm lớn
10. Khiêm nhường
phục vụ
11. Chú giải của
Noel Quesson
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Truyền giáo
2. Sứ điệp Truyền
giáo năm 2012
3. Hãy đi khắp thế
gian
4. Hãy loan báo
Tin Mừng – Mc 16,15-20
5. Truyền giáo
theo gương Mẹ Têrêsa
6. Người châu Á truyền
giáo cho người Á châu
7. Tinh thần
truyền giáo (Lc 18, 1-8)
8. Thầy Ở Cùng Anh
Em
9. Chứng tá
10. Đời sống chứng
nhân
* CHÚA NHẬT 29
THƯỜNG NIÊN
1. Phục vụ
Nhìn vào cuộc đời
của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nổi bật lên tinh thần phục vụ.
Thực vậy, vì yêu
thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng
đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù
được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và
bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân
giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu
độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết:
Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc
kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến
để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài
cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục
vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống
rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm.
Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng
phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta cần
phải phục vụ và giúp đỡ người khác như thế nào?
Bác sĩ Tom Dolly,
người đã từng hy sinh cả cuộc đời của mình giữa chốn rừng thiêng nước độc ở bên
Lào, để giúp đỡ cho những người thiếu may mắn vào khoảng đầu thế kỷ này, đã nói
như sau: Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho
người khác.
Cũng vậy, dầu bất
tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu chăng nữa, thì chẳng ai là một kẻ vô dụng cho
người khác và cho xã hội. Như thế có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng
ta đều có thể thực hiện được những hành động bác ái yêu thương, phục vụ và giúp
đỡ người khác.
Đúng thế, một
người ăn xin ư? Họ có thể cho chúng ta một dịp để sống quảng đại và chia sẻ.
Một kẻ tàn tật và đau ốm ư? Họ có thể mời gọi chúng ta sống cảm thông và nâng
đỡ, đồng thời còn đặt ra cho chúng ta những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời,
của đau khổ và của sự chết. Một kẻ thù của chúng ta ư? Họ có thể đem lại cho
chúng ta một cơ may để sống kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ.
Phải, bất kỳ ai
cũng có thể ban tặng cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở
rộng cõi lòng để đón nhận hay không? Đồng thời chúng ta cũng phải tự vấn lương
tâm xem chúng ta đã làm được những gì để phục vụ và giúp đỡ những người chung
quanh? Chẳng hạn như một nụ cười, một ánh mắt, một sự lắng nghe, một lời nói
cảm thông, an ủi và khích lệ.
Mỗi lời nói, mỗi
cử chỉ, mỗi việc làm của tình bác ái yêu thương sẽ là như một quà tặng mà từng
giây từng phút, chúng ta có thể và phải đem đến cho người khác.
Giữa đám đông dân
chúng đang dâng cúng tiền bạc tại đền thờ, đôi mắt Chúa Giêsu đã dừng lại nơi
một bà goá nghèo hèn. Bà chỉ bỏ vào hòm tiền có một đồng xu, thế nhưng Ngài đã
nhìn thấy giá trị to lớn của hành vi và đồng xu nhỏ bé ấy. Bởi vì dưới cái nhìn
của Chúa, mọi sự dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa cũng vẫn có giá trị của nó.
2. Phục vụ –
Jean-Yves Garneau.
Chỗ nhất.
Giacôbê và Gioan
không ngần ngại xin Chúa Giêsu điều mà các ông mơ ước có lẽ đã từ lâu. Trong
vương quốc của Ngài, các ông muốn được những chỗ nhất, bên tả và bên hữu Ngài.
Mười môn đệ kia nghe các ông xin như vậy thì lấy làm chướng tai... Điều đó cho
thấy rõ rằng chính các ông này nữa muốn những chỗ nhất ấy.
Chúng ta đừng nói
đó là chuyện trẻ con, là nhẹ dạ. Tự bản chất, con người muốn làm lớn, muốn ở
trên kẻ khác, muốn thống trị, thích tìm ngồi chỗ nhất. Xã hội chúng ta lại
khuyến khích và khơi dậy ước muốn đó, một ước muốn mà mọi con người bình thường
đều có. Xã hội sùng bái những người đứng đầu, chiều chuộng những kẻ giàu nhất,
mạnh nhất, thông minh nhất, đẹp nhất, táo bạo nhất. Chỗ nhất! Đôi khi chẳng có
gì mà người ta không làm để đạt tới đó. Không phải ai cũng đều thành công,
nhưng ai cũng ao ước, ai cũng mơ ước được như vậy.
Phục vụ chứ không
phải được phục vụ.
Ta hãy lưu ý rằng
Chúa Giêsu không trách hai môn đệ của Ngài vì muốn được gần Ngài trong vinh
quang Thiên quốc. Ngài cũng không bảo các ông rằng ước muốn của các ông sẽ
không thành đâu. Ngài không biết được. Không phải Ngài quyết định về việc này.
"Về việc ở bên hữu hoặc ở bên tả Thầy thì không phải Thầy ban cho được".
Tuy nhiên Ngài lợi dụng dịp này để nhắc lại một giáo huấn cơ bản mà các môn đệ
của Ngài khó hiểu.
Giáo huấn đã được
lặp lại bao nhiêu lần rồi là: Những kẻ cao trọng trước mặt Thiên Chúa không
phải là những kẻ để cho người ta phục vụ mình, nhưng là những kẻ phục vụ; những
kẻ xứng đáng chỗ tốt trong Nước Trời, không phải là những kẻ chỉ biết ước mơ
xin xỏ, nhưng là những kẻ bắt chước Chúa Kitô, uống chén đắng mà Ngài đã uống,
làm đầy tớ như Ngài, chịu thanh tẩy bằng đau khổ như Ngài.
Uống chén đắng,
được thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy của Chúa Kitô: làm đầy
tớ, làm nô lệ mọi người, phục vụ chứ không mong người ta phục vụ mình, hiến
mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người, gặp thử thách, bị đau khổ nghiền nát,
làm cho cuộc sống của mình trở thành một của lễ hy sinh đền tội... Đó là những
từ ta gặp thấy trong các bài đọc hôm nay. Những từ ngày bổ túc cho nhau và diễn
tả những gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa và những gì
cho phép đạt đến những chỗ nhất bên cạnh Chúa Kitô. Ta có thể tóm tắt giáo huấn
này bằng công thức sau đây: Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Một công việc khó
nhọc.
Dĩ nhiên chúng ta
có ý muốn bước theo Chúa Kitô và thực hành lời giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng
ta biết rằng điều này không dễ. Phục vụ, phục vụ cách vô vị lợi, phục vụ trong
sự quên mình và xả thân, phục vụ cho đến nỗi phải đau khổ, không thể trong vòng
một ngày mà chúng ta làm được và cứ phải làm lại mãi.
Bao nhiêu người
muốn và tự nhủ phục vụ kẻ khác nhưng không phục vụ hoặc chỉ làm nửa chừng thôi.
Người bán hàng nói với khách hàng "Xin phục vụ quý vị!". Các nhà
chính trị tuyên bố: "Hãy bỏ phiếu cho tôi để tôi có thể phục vụ quý
vị!". Các công đoàn tự nhủ sẽ phục vụ công nhân, các công ty lớn khẳng
định là đưa tài sản phục vụ sự tiến bộ của xã hội, các bác sĩ muốn phục vụ bệnh
nhân, các giáo sư phục vụ sinh viên. Các phụ huynh phục vụ con cái, các cha sở
phục vụ con chiên và Giáo Hội phục vụ hết thảy mọi người bắt đầu từ những người
nghèo nhất...
Có nguy cơ lạm
dụng hai từ phục vụ. Bao nhiêu dịch vụ vẫn chẳng có gì là vô vị lợi cả! Nhiều
tham vọng, có thể trà trộn vào ý muốn chân thành phục vụ.
Dù ở địa vị nào
trong xã hội của chúng ta, bất chấp dù mức sống cao hay thấp, dù tài năng ra
sao, dù làm công việc gì, chúng ta có quan tâm đến phục vụ kẻ khác không? Chúng
ta có thực sự phục vụ họ không? Đó là những câu hỏi được đặt ra cho chúng ta
hôm nay.
3. Lật ngược xuống
là đúng chiều rồi.
(Trích trong 'Mở
Ra Những Kho Tàng' – Charles E. Miller)
Món Bánh táo đảo
ngược là món ưa thích đối với nhiều người. Trong lúc nướng nó có vẻ giống như
là bình thường và bằng phẳng, nhưng khi được phục vụ với đường, nước sốt và mứt
trên đỉnh. Chúng ta có thể tin rằng Mẹ Maria đã không bao giờ nướng bánh táo
lật ngược cho Chúa Giêsu (vì Giuđêa thời gian đó chưa nhập khẩu của Hawai),
nhưng nếu Mẹ đã làm bánh táo này thì đó là món ưa thích đối với Chúa Giêsu. Lý
do là khi bánh đảo ngược xuống giới thiệu những giá trị của Chúa Giêsu vì chúng
xuất hiện trên bề mặt úp xuống.
Xã hội thế tục nói
rằng: "Hãy tiến lên phía trước, hãy cạnh tranh. Đừng để bất cứ ai vượt qua
mặt bạn. Hãy trình bày cho mọi người biết ông chủ là ai. Hãy làm cho mọi người
nghĩ rằng bạn là quan trọng. Hãy tự chăm sóc như là số một. Hãy làm điều
đó". Ngay những tông đồ mặc dù không sống trong kỷ nguyên của chúng ta
"nơi cái bánh ngọt lật ngược" họ đã nếm, đã thưởng thức với những
loại tham vọng mà xã hội của chúng ta ngày nay đang tiến cử và Chúa Giêsu thì
chống lại nó.
Tham vọng nơi lòng
của Giacôbê và Gioan thì mạnh mẽ khiến cho họ bạo gan đòi hỏi Chúa Giêsu cho họ
được ngồi ở chỗ quan trọng, bên phải hoặc bên trái Người khi Ngài tiến vào
trong vinh quang của Người. Họ nhấn mạnh: "Hãy xem". Chúng ta không
chắc là những tông đồ đã tranh luận điều đó với Chúa Giêsu trong bao lâu, nhưng
Giacôbê và Gioan đã không hiểu cả hai: Giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu.
Giáo huấn chắc
chắn của Chúa Giêsu là khiêm nhường không được kiêu ngạo, đó là chúng ta phải
sẵn lòng phục vụ người khác, không thống trị người khác. Từ khi Giacôbê, Gioan
và những tông đồ khác đã thất bại trong việc nắm bắt giáo huấn của Chúa Giêsu,
Người đã trở thành rõ ràng bao nhiêu có thể. Ngài nói: "Bất cứ ai trong
các ngươi muốn làm lớn thì phải phục vụ như người hầu hạ, bất cứ ai muốn ngồi
chỗ nhất thì phải phục vụ tất cả những người có nhu cầu". Đó là tóm tắt
tất cả giáo huấn của Người .
Gương mẫu của Chúa
Giêsu còn quan trọng hơn giáo huấn của Ngài nữa, Chúa Giêsu là người Con đời
đời của Thiên Chúa, đã rời bỏ ngai tòa trên trời mà trở nên một với chúng ta.
Ngài đã từ bỏ tất cả những xa hoa của xã hội thế tục, Chúa Giêsu đã khiêm tốn,
Ngài khiêm tốn trong suy nghĩ, không phải cho chính Ngài nhưng cho chúng ta,
Ngài đã trở thành con người, Người trở thành tư tế, trở thành Đấng Cứu độ chúng
ta, Đấng mà chúng ta có thể tin tưởng và nhận được lòng thương xót và giúp đỡ
trong những giây phút cần. Đó là gương mẫu của Người mà Người đã trình bày
trong khi tuyên bố: "Này Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng
phục vụ và hiến trao mạng sống để cứu chuộc muôn dân".
Khi chúng ta tham
dự Thánh Lễ, chúng ta vẫn còn tiếp tục là nhân chứng cho sự khiêm nhường của
Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến với chúng ta trong bí tích Thánh Thể không phải để
đặt bẫy cho sự trung thành hoặc là ở giữa những tiếng xập xình của các tín hữu
hoặc là ở giữa những tiếng kèn trumbét của các thiên thần trên trời. Ngài đã
đến trong sự khiêm tốn, Ngài đã sẵn lòng trở nên tầm thường, một tấm bánh đơn
giản trở nên thân thể của Người, và Người đã thay đổi rượu nho rẻ tiền trở
thành Máu Người, Người đã làm như thế để phục vụ chúng ta và không có điều gì
hơn là để cho chúng ta có thức ăn và thức uống, nhưng chính Người là của nuôi
sống thiêng liêng cho chúng ta. Thiên Chúa có thể nghĩ được điều gì hơn, gương
mẫu nào hơn, trong sự khiêm nhường và phục vụ để cạnh tranh hơn không? Hãy để
cho những người khác ước ao cố gắng làm Chúa trên những người khác thấy điều
này, tất cả chúng ta có gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu. Một số người đã
cố gắng làm ra vẻ quan trọng, Chúa Giêsu nói: "Đừng làm như thế".
Thật là tồi tệ khi
các tông đồ đã không bao giờ ăn một cái bánh đảo ngược, điều đó thì có thể cho
họ nhưng điều đo cũng sẽ là cho chúng ta, một dấu hiệu mà Chúa Giêsu đã đảo
ngược lại thành đúng chiều.
4. Đầy tớ và nô
lệ.
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
Ghế tượng trưng
cho địa vị, quyền lực và quyền lợi, nên ghế là nỗi ám ảnh của nhiều người.
Ghế trưởng phòng,
ghế giám đốc, ghế đại biểu... Tất cả nỗ lực dồn vào việc có một ghế, sau đó là
giữ ghế, hay tìm cách lên ghế cao hơn. Ngay cả những người đã bỏ mọi sự để theo
Chúa cũng bị ám ảnh bởi những chiếc ghế danh dự.
Chính lúc Đức
Giêsu nói đến cái chết gần kề của mình, thì Gioan và Giacôbê lại xin được ngồi
hai bên tả hữu. Có vẻ họ không bắt được tần số của Thầy!
Thanh tẩy mình
khỏi tội lỗi không khó lắm. Nhưng thanh tẩy mình khỏi nhân đức và công trạng
của mình thì khó hơn bội phần.
Hai môn đệ đã từ
bỏ những điều rất cao quý, nhưng bây giờ lại muốn kiếm chút lợi lộc từ chính sự
từ bỏ và phục vụ của mình.
Họ dám lên tiếng
đòi hỏi Đức Giêsu: "Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con
xin." Thái độ bực tức của mười môn đệ còn lại có thể bắt nguồn từ một sự
ganh tỵ ngấm ngầm. Nhiều môn đệ cũng ước mơ hai ghế tả hữu.
Đức Giêsu kéo hai
ông ra khỏi tham vọng và đam mê để đưa họ trở về với thực tại gai góc sắp đến.
Họ muốn được chung phần với Ngài trong vinh quang, nhưng liệu họ có dám chia
phần với Ngài trong đau khổ? Uống chung chén đắng Thầy sắp uống, chịu chung
phép Rửa Thầy sắp chịu là chấp nhận bị dìm sâu xuống dòng nước khổ đau.
Thật ra được ngồi
hai bên tả hữu Thầy trong vinh quang đâu phải là phần thưởng để trả công cho
người bền chí. Trung tín theo Chúa đến cùng đã là phần thưởng rồi.
Chúng ta không giữ
đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa.
Người đứng đầu,
người làm lớn, người có quyền thường dễ có thái độ thống trị, áp đặt, hống
hách. Chức vụ và quyền lực trở thành phương tiện phục vụ bản thân. Đó là lối
lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.
Đức Giêsu không
chấp nhận chuyện đó nơi Hội Thánh: "Nơi anh em thì không như vậy."
Ngài đề xướng một lối lãnh đạo mới. Ai muốn làm lớn, làm đầu trong Hội Thánh
phải trở nên đầy tớ và nô lệ cho mọi người.
Đức Giêsu mời
chúng ta làm một cuộc cách mạng lớn, không phải chỉ là đổi ngôi, mà là đổi
lòng. Tận diệt trong tim những tham vọng ăn trên ngồi trước. Đức Giêsu không
ủng hộ một xã hội hay Giáo Hội vô tổ chức. Nhưng Ngài coi lãnh đạo là khiêm
nhường phục vụ.
Phục vụ là động từ
tóm kết toàn bộ đời Đức Giêsu.
Ngài đến trần gian
để phục vụ, sống như người phục vụ, và chết như dấu chứng lớn nhất của phục vụ
trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu chết để
chuộc ta khỏi cảnh nô lệ. Ngài tự nguyện trở nên nô lệ để giải phóng ta. Theo
bạn, con người hôm nay vẫn nô lệ cho những điều gì? Đâu là những hình thức nô
lệ mới của thế kỷ 21?
"Lãnh đạo là
phục vụ". Câu này khá quen thuộc với chúng ta. Bạn nghĩ sống khẩu hiệu này
có khó không? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn
đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con
những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha. Hơn nữa,
sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là
Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc. Xin cho chúng con luôn thi hành ý
muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy
lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ rửa chân cho chúng con như
một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con hiểu được
tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
5. Thế giới đảo
ngược – Achille Degeest.
(Trích trong
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật').
Vài ghi nhận chi
tiết trước khi đi vào một khía cạnh sâu sắc của bài Phúc Âm Giacôbê và Gioan là
con ông Zêbêđê và bà Salômê, bà này có họ xa với Chúa Giêsu. Theo một tục lệ
phương đông và đặc quyền huyết tộc, hai anh em có lẽ cho việc cầu cạnh những
chỗ trên trước là thường tình vì tất cả tộc họ đều được dự phần vào sự làm nên
người trong họ. Mặt khác, ta ghi lại câu đáp của hai anh em trả lời Chúa: Thưa
được. Tầm mức của câu đáp đi tới đâu? Có thể họ nghĩ tới sự thiết lập vương
quốc mà toàn dân mong đợi, sẽ không tránh được khó khăn và hai anh em tuyên bố
sẵn lòng đương đầu. Dường như họ không ý thức được thực tại sau này của Thập
Giá. Trong Kinh Thánh, có những đoạn lấy chén uống làm biểu tượng cho niềm vui,
trong những đoạn khác làm biểu tượng cho cay đắng, ở đây Chúa theo nghĩa chén
uống chỉ sự cay đắng, và phép rửa Người nói đến trong đoạn này có nghĩa tương
tự với câu chúng ta thường nói ngày này: 'Bị dìm sâu trong thống khổ'.
1) Chén Ta phải
uống... thanh tẩy ta chịu. Chúa dùng những từ ngữ mà mãi sau cuộc Khổ nạn và
Phục sinh các môn đệ mới hiểu, để loan báo rằng số mệnh dưới thế của người
không phù hợp với khái niệm của các môn đệ. Họ bám chắc lấy phương án trù
hoạch, một vương quốc thế gian mà Chúa sẽ là Vua. Khó khăn lắm Chúa mới đảo
ngược não trạng đó và chuyển đổi hy vọng của các môn đệ từ tầm mức tham vọng
trần tục, đến thực tại công cuộc cứu rỗi. Cũng giống nhiều đoạn Phúc Âm khác,
câu hỏi của Chúa chất vấn chúng ta ngày nay. Cuộc phấn đấu nói trong Phúc Âm,
chúng ta quan niệm nó như thế nào? Mục tiêu chúng ta là gì? Giả sử nhân danh lý
tưởng quảng đại của một nhân loại tốt đang sống, chúng ta phấn đấu cho một ý
thức hệ trong đó Phúc Âm chỉ là một sự đóng góp trong giả thuyết ấy, chúng ta
sẽ chỉ mưu tìm chiến thắng cho những tư tưởng của chúng ta. Trên hình diện này,
ở ngoài Phúc Âm cũng có những chủ nghĩa độ thế có độ lượng nhưng là thứ độ
lượng cuồng tín. Lời kêu gọi trước tiên và đặc thù của Phúc Âm thuộc một trật
tự khác, Phúc Âm mời chúng ta tham dự thanh tẩy và chén đắng của Chúa Giêsu.
2) Ai muốn làm lớn
trong các ngươi, thì hãy hầu hạ các ngươi. Chúa cố tháo gỡ một thứ xác tín theo
bản năng ra khỏi đầu óc các môn đệ, thứ xác tín này khiến người ta nghĩ rằng
điều quan trọng là tổ chức thế giới hiện đại theo những lời phán hứa của Thiên
Chúa, được họ hiểu theo hướng nghĩ vật chất. Trong thế giới ấy, dịch vụ 'tốt'
là chiếm lấy những chỗ tốt nhất. Vậy mà Nước Trời có những quy luật khác. Trước
khi chính mình làm gương phục vụ hoàn toàn, Chúa cố giác ngộ các môn đệ cho họ
ý thức được sự đòi hỏi đó. Chúa làm họ ngẩn ngơ, họ không hiểu Chúa muốn nói
gì, nhưng sau này, họ sẽ hiểu và không quên bài học đó. Sau cuộc khổ nạn và
Phục Sinh, họ sẽ phát hiện rằng: Tâm điểm của sự đòi hỏi phục vụ chính là tình
yêu. Chúa tự hiến, vì tình yêu cho Cha Người, từ Chúa Cha phát xuất tình yêu
của Chúa đối với loài người. Tình yêu thương của chúng ta đối với anh em nhân
loại có đích thật vững vàng, bền bỉ, độ lượng, rộng lớn, sẵn sàng phục vụ là
tùy thuộc ở mức độ chúng ta bị thâu tóm bởi tình yêu của Đức Kitô.
6. Ra lệnh và
truyền lệnh – Gm Arthur Tonne.
Francis Joseph,
hoàng đế nước Áo và vua nước Hungari từ 1848 đến 1916, một triều đại dài nhất
trong lịch sử, cũng là triều đại tiến bộ nhất. Francis Joseph là người nghiêm
khắc nhưng ông trị vì rất khoan dung. Khởi đầu triều đại ông, bệnh dịch tả lan
tràn khắp Châu Âu. Người ta xin Francis rời Vienna để lánh nạn sang Salzburg
cho tới khi tai nạn qua đi.
Hoàng đế hỏi:
"Ở Salzbugr có đủ phòng cho các con ta không?" Quan cố vấn trả lời:
"Chắc chắn, tâu Hòang Thượng, có nhiều phòng cho tất cả hoàng gia".
"Có thực sự
đủ phòng cho các con ta?" Vừa chỉ tay qua cửa sổ lâu đài, về phía đám đông
dưới, hoàng đế vừa nhắc lại: "Hãy nhìn đám dân này. Chúng là con của ta.
Cha của chúng bỏ mặc chúng trong nguy hiểm sao? Không, những người thành Viena
yêu quí luôn chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu".
Chúng ta vừa nghe:
Hai môn đệ Đức Kitô. Giacôbê và Gioan muốn được địa vị vinh dự và uy quyền
trong Nước Chúa, Chúa Giêsu nhắc họ rằng: "Những người cai trị thế gian
thì sai khiến con dân mình. Nhưng đó không phải là đường lối của Nước Chúa.
Trong Nước Chúa ai có quyền bính phải là đầy tớ của người dưới quyền
mình". Francis Joseph là một tấm gương về điều ấy.
Ngày nay, người ta
tranh luận nhiều về quyền bính và tự do. Một chân lý nền tảng cho cuộc tranh
luận này là: Trong mọi xã hội, loài người đều phải có người nắm quyền bính, một
người có quyền và có bổn phận ra lệnh, một người có quyết định tối hậu. Bạn
không thể có một quốc gia không người thủ lĩnh. Bạn không thể có một đội banh
không huấn luyện viên, một chiếc tàu không có thuyền trưởng, một quân đội không
tướng, một bộ lạc không tù trưởng, một xí nghiệp không giám đốc. Mỗi tập thể
loài người đều phải có "ông Bầu" hoặc chỉ định hoặc bầu lên.
Chúa Giêsu biết
cần phải có quyền bính. Người chỉ than phiền là nhiều người lạm quyền, lạm dụng
quyền bính. Người ta ích kỷ, bất công, có khi còn tàn bạo nữa. Trong Nước Chúa
Kitô, người lãnh đạo phải là đầy tớ của mọi người.
Bây giờ chúng ta
tìm câu trả lời cho vấn đề quyền bính và tự do. Người chỉ huy phải dự tính và
hành động vì lợi ích của tập thế. Cùng lúc người dưới phải được tự do góp ý, có
khi còn phải phê bình nữa. Tóm lại, mọi người phải hành động theo quyết định
của người có trách nhiệm với đoàn thể. Cũng vậy trong một thể chế dân chủ,
người lãnh đạo được bầu lên có bổn phận phải quyết định.
Đây cũng là đường
lối trong đơn vị xã hội nhỏ bé nhất và quan trọng nhất: gia đình. Nhiều gia
đình bàn luận về mọi vấn đề và quyết định như một tập thể. Rất nhiều gia đình
không có ai chịu trách nhiệm tối hậu. Đó cũng là tình trạng của nhiều tổ chức
như trường học và xứ đạo. Do đó chúng ta thường thấy: đáng lý những người phải
vâng lời lại ra lệnh cho người có trách nhiệm.
Việc phượng tự
chung của gia đình Chúa là một điển hình tập thể nghĩ tưởng và hành động với
nhau. Thánh lễ có thể dạy chúng ta ra lệnh thế nào và tuân lệnh làm sao.
Xin Chúa chúc lành
bạn.
7. Con Người đến
để phục vụ – Noel Quesson.
Martin Caphu là
người Bangla thuộc Cameroun Phi Châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu
niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở
Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu
rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công
giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được Gia đình gởi về Rôma học ngành
điện tử. Đậu tiến sĩ điện tử xong, anh Caphu gia nhập phong trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh
qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở
về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua.
Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo.
Và mọi người đã đồng ý.
Trong cuộc sống
trần gian, ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng
như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn.
Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa,
các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.
Nhân dịp này Chúa
Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu
Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng
một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết
mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng
hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống,
và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta
thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau
các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng
Tin Mừng.
Đọc lại câu chuyện
hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi
chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm
cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm
đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen
và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp
định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.
Lời thỉnh cầu của
Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng
tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư
tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34)
với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu,
ngừơi ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết... Trong lúc Chúa Giêsu tự
chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao
sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác
hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai
muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. "Vì Con Người không đến
để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc
muôn dân". Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp
chúng con biết noi gương Chúa, không màng tới địa vị cho mình, nhưng luôn dấn
thân phục vụ anh em, như Chúa đã đến phục vụ và hy sinh cả mạng sống làm giá
cứu chuộc chúng con.
8. Phục vụ.
Con Người đến để
phục vụ.
Nhìn vào cuộc đời
Chúa Giêsu, chúng ta thấy chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy của mình.
Thực vậy, với tinh
thần phục vụ, Ngài đã xuống thế làm người, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô
lệ của tội lỗi. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa
dịu nỗi đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc. Với tinh thần phục vụ,
Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cứu độ chúng ta khỏi án phạt đời
đời.
Đồng thời, Ngài
cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài thực hiện tinh thần phục vụ trong
đời sống thường ngày. Ngài phán:
- Ai muốn làm lớn
thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Trong bữa tiệc ly
vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn
đệ để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ:
- Nếu Ta là Thày
và là Chúa của các con, mà còn quỳ xuống rửa chân cho các con, thì các con cũng
phải quỳ xuống mà rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời
gian, biết bao nhiêu người đã thực hiện lời khuyên trên đây của Chúa Giêsu.
Phanxicô d'Assie,
mặc dù thuộc về gia đình quyền quý và giàu sang, nhưng đã từ bỏ tất cả, để sống
khó nghèo, trở nên một người anh em hèn mọn để phục vụ những người khổ đau.
Gần đây, một Kitô
hữu Nhật Bản nổi tiếng, tên là Kagawa, cũng đã từ bỏ căn nhà tiện nghi, đến
sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo, để chia sẻ chính bản thân và của cải
mình cho những ai đang cần đến một sự giúp đỡ. Một tác giả đã viết về ông như
sau:
- Ông đã cho đi
tất cả quần áo của mình và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng đã cũ. Lần kia,
mặc dù đang ốm, ông vẫn tiếp tục đi dạy giáo lý dưới cơn mưa, ông lặp đi lặp
lại không ngừng: Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên
Chúa. Trong một bức thư, chính ông đã viết như sau: Chúa ở trong tâm hồn những
người hèn mọn nhất. Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với
những bệnh tật. Ngài đứng về phe những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp
Chúa thì hãy đến thăm nhà tù trước khi đến nhà thờ, đến thăm bệnh viện trước
khi tham dự thánh lễ. Hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Còn chúng ta thì
sao? Chúng ta phải làm gì để sống tinh thần phục vụ một cách thiết thực hơn?
Chúng ta phải làm gì để trở thành những Kitô hữu đích thực trong chính gia đình
và môi trường làm việc của mình?
Tất cả chúng ta
đều có thể làm một điều gì đó, dù rất nhỏ bé và vô nghĩa, khởi đầu là cho những
người thân yêu trong gia đình, rồi từ đó mở rộng việc phục vụ ra môi trường
rộng lớn hơn. Còn nếu không khởi sự từ gia đình thì chúng ta cũng sẽ chẳng bao
giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Và để kết luận,
chúng ta nên nhớ:
- Mỗi khi chúng ta
phục vụ anh em, cho dù bằng những việc làm nhỏ bé và tầm thường nhất, thì đó
cũng là chúng ta phục vụ cho chính Chúa vậy.
9. Làm lớn.
Lắng nghe đoạn Tin
Mừng hôm nay, tôi bỗng nhớ tới một vài câu đố, thoạt xem ra thì có vẻ vô lý,
nhưng ngẫm nghĩ lời giải đáp thì lại thấy có lý.
Câu đố thứ nhất:
cái gì càng kéo thì lại càng ngắn. Tôi xin thưa đó là điếu thuốc lá. Câu đố thứ
hai: cái gì càng to lại càng bé. Tôi xin thưa đó là con cua.
Từ câu đố thứ hai
này, tôi muốn đi vào tinh thần của lời Chúa:
- Ai muốn làm lớn
thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu, thì phải trở nên đầy tớ.
Như vậy có nghĩa
là càng làm to thì càng phải sống bé nhỏ khiên tốn trong tinh thần phục vụ.
Suy đi nghĩ lại,
tôi thấy lời Chúa hôm nay quả thật rất đúng cho mọi mọi người ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Thời buổi nào cũng vậy, ngày xưa cũng như ngày nay. Thực vậy,
bất kỳ chế độ nào cũng hô hào lấy dân làm gốc. Người công an cảnh sát là bạn
của dân. Còn công chức cán bộ là nô bộc, là đày tớ của dân. Nhưng đó mới chỉ là
những khẩu hiệu, việc thực hiện mới chỉ được phần nào, nếu không muốn nói là
nhiều khi đã đi ngược lại với những lời hô hào kể trên.
Ngày xưa, ông vua
làm đầu trong một nước. Vua phải tôn trọng dân, vì ý dân là ý trời, như người
đời vốn thường bảo:
- Dân vi quí, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là dân đáng quí nhất, tiếp đến là đất nước,
rồi sau mới tới nhà vua.
Thế nhưng, nhiều
ông vua đã không tôn trọng nguyên tắc ấy, cai trị dân như tên hôn quân bạo
chúa, dùng pháp luật và quyền lực để áp chế dân, đúng như Chúa đã nói.
Còn ngày nay,
những cán bộ và công nhân viên cấp lớn, cũng vốn tự xưng mình là bạn dân, là
đầy tớ của dân, thế nhưng lại quan liêu hống hách, khiến cho người dân thấp cổ
bé miệng phải khốn đốn khổ sở.
Nhiều kẻ vơ vét về
cho đầy túi bằng tham nhũng hối lộ, theo kiểu làm quan để được vinh thân phì
gia. Nhiều kẻ lợi dụng chức quyền để bênh vực hay đề bạt đàn em, gương cao ô dù
theo kiểu: một người làm quan cả họ được nhờ.
Vì thế, trong
những ngày gần đây báo Tuổi Trẻ cũng như nhiều báo khác đã có những bức biếm
họa, những bài phiếm luận đượm mùi cay đắng, nói lên tình trạng trộn đảo lộn
khác thường: đầy tớ thì đi xe con còn ông chủ thì đi xe lớn, đầy tớ thì quát
tháo còn ông chủ thì đứng mà run...
Vì thế, cần phải
đổi mới cách nghĩ và cách sống, nhất là cần phải bám sát vào tinh thần của lời
Chúa. Càng làm lớn thì càng phải tỏ ra khiêm nhường và bé nhỏ trong tinh thần
phục vụ. Chúa Giêsu đã nói và đã làm như vậy. Là Thiên Chúa, Ngài đã trở nên
một người như mọi người và hơn thế nữa, Ngài còn vâng phục cho đến chết và chết
trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Trong ngày thứ năm
tuần thánh, để nêu gương khiêm nhường và phục vụ, Ngài đã quì xồng rửa chân cho
các môn đệ, như lời Ngài đã phán:
- Ta đến không
phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu
chuộc cho nhiều người... Các con gọi Ta là Thày và là Chúa thì phải lắm. Nếu Ta
là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân
cho nhau.
Trải qua dòng thời
gian, biết bao nhiêu người đã thực thi lời Chúa, đã sống khiêm nhường và phục
vụ anh em. Ngay cả đến Đức Thánh Cha, trong mọi văn thư chính thức, bao giờ
cũng tự xưng là "Servus servorum" nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ.
Chúng ta cũng vậy,
dù nắm giữ chức vụ nào trong xã hội cũng như trong tôn giáo, phần đạo cũng như
phần đời, chúng ta hãy sống khiêm nhường và phục vụ. Bởi vì như lời Chúa đã xác
quyết:
- Ai muốn làm lớn
thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu thì phải trở nên đầy tớ.
Nghĩa là càng to,
thì lại càng phải nhỏ.
10. Khiêm nhường
phục vụ.
Trên đường đi lên
Giêrusalem, một lần nữa, đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu lại loan báo cho các môn
đệ về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Lần này thánh
Marcô không kể lại phản ứng của các môn đệ như thế nào, nhưng câu chuyện kể ra
liền sau đó đã nói lên một cách sâu sắc rằng các ông vẫn chưa hiểu gì. Trái
lại, các ông tưởng đâu Chúa sẽ ra đi làm vua thống trị, thì họ sẽ được những
ghế cao trong nước Chúa, bởi vì trước đây vài tuần Chúa đã hứa là họ sẽ được
ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Ítraen. Nhân câu chuyện này, Chúa Giêsu
lại giảng thêm về ý nghĩa cái chết của Ngài và về cách thức làm môn đệ của
Ngài.
Khởi đầu câu
chuyện là việc hai anh ruột Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho họ được
ngồi hai bên tả hữu Chúa trong nước Chúa. Tức là hai ông muốn xin được địa vị
cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Theo bài Tin Mừng thánh
Marcô hôm nay thì chính hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu. Còn Tin
Mừng thánh Matthêu lại cho biết: không phải hai môn đệ thỉnh nguyện mà là bà mẹ
của hai ông đã đến thỉnh cầu cho hai con bà. Bà mẹ nào chẳng thế! Ai lại chẳng
muốn cho con mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự. Chúa Giêsu quá biết tâm lý
tự nhiên của mỗi người: muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai
bảo người khác. Chúa đã sửa bảo họ một cách tế nhị.
Trước hết, Chúa
hỏi họ: "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa
Thầy sắp chịu không?" Hai ông vui vẻ và mau mắn trả lời ngay: "Thưa
được". Chắc chắn lúc ấy hai ông chưa ý thức và chưa hiểu rõ thế nào là
uống chén và thế nào là chịu phép rửa. Bởi vì ngay những tư tưởng về nước trời
và vinh quang nước trời hai ông cũng chưa hiểu đúng, nên mới xin Chúa một cách
đơn sơ được ngồi hai bên tả hữu Chúa.
Vậy
"chén" và "phép rửa" Chúa Giêsu nói ở đây là gì? Trong Cựu
ước, "chén" đôi khi cũng dùng để chỉ phúc thái ơn lộc, nhưng qua thời
các ngôn sứ, "chén" thường được dùng để chỉ đau khổ, bất hạnh. Trong
vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: xin Chúa Cha cất chén đau khổ, nhưng
đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Còn "phép rửa" ở đây là cái
chết đau thương của Ngài, đây là phép rửa bằng máu, cũng có nghĩa là đau khổ.
Nói chung, điều kiện mà Chúa đòi hỏi hai anh em Giacôbê và Gioan là có sẵn sàng
chịu đau khổ với Ngài không? Lúc ấy hai ông thưa được dù chưa hiểu, nhưng sự
thật sau này hai ông đã uống chén và chịu phép rửa như đã cam kết với Chúa. Vào
năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua A-gờ-ríp-pa đệ nhất, và là
thánh tông đồ chịu tử đạo đầu tiên. Còn thánh Gioan, nếu không có một phép lạ
thì cũng đã chết tử đạo khi bị bỏ vào vạc dầu sôi. Nhưng dù sao ngài cũng chết
anh hùng sau chuỗi ngày bị lưu đày ở đảo Pát-mô.
Ngoài ra, nhân dịp
này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và
thắng vượt lòng ghen tị. Sở dĩ các môn đệ khác bực mình với Giacôbê và Gioan
bởi vì họ cũng có lòng ghen tị không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các
môn đệ suy nghĩ về nước Chúa Giêsu ở trần gian này. Nhưng Chúa lại suy nghĩ một
cách khác. Nước Ngài không thuộc về thế gian, nơi đó người có quyền áp bức
người yếu thế, người giàu sang cai trị người nghèo đói. Nước Trời ngay trong
lòng mỗi người, là Giáo Hội của Chúa, nơi đó không dựa trên quyền bính nhưng
dựa trên tình thương. Đó là nơi không có hận thù, ghen tị, tranh chấp.
Trong Giáo Hội
cũng như trong bất cứ một tập thể nào, thường có một người đứng đầu để điều
khiển những người khác và tổ chức sinh hoạt, không thể nào có cảnh "cá đối
bằng đầu" mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn tùng phục ai.
Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của
những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị
và quyền bính của mình để áp bức người khác, lên mặt ta đây tự cao tự đại. Trái
lại, phải biết phục vụ. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người vốn
là điều không tốt, nhưng lòng ghen tị cũng không tốt đẹp gì. Hai tật xấu này
vốn là những khuyết điểm đã từng làm cản trở sự phát triển đời sống con người
về mọi phương diện. Nên Chúa Giêsu bảo chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu ấy.
Xin Chúa cho chúng
ta luôn có tham vọng tốt để phát triển khả năng của chúng ta và sử dụng khả
năng đó để phục vụ mọi người. Đồng thời xin Chúa cho chúng ta luôn vui vẻ với
mọi người, không ghen tị, để chúng ta luôn được mọi người yêu mến, và nhất là
Chúa Giêsu cũng sẽ hài lòng về chúng ta.
11. Chú giải của
Noel Quesson.
Hai người con ông
Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: "Thưa Thầy, chúng con
muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây."
Đây là hai chàng
thanh niên con trai của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới, ở Bết-sai-đa một cảng
nhỏ trên bờ hồ Ti-bê-ri-át. Mẹ của họ có lẽ là bà Xalômê, chị em với Đức Maria
mẹ Đức Giêsu (Mc 15,10 - 16,l). Theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh
phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng các quyền của người trong dòng họ:
Vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con cho "dòng
họ" được tham dự vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc.
Vả lại Đức Giêsu
đã chẳng nói như thế sao: "Các ngươi hãy xin, thì sẽ nhận được". Vậy
họ đưa ra một lời xin: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn Thầy ban cho điều mà
chúng tôi xin". Đây là một dịp mà chúng ta cần phải nắm vững, vì đôi khi
chúng ta cũng ngạc nhiên về một số lời cầu xin của mình không được chấp nhận,
'như' chúng ta mong muốn.
Người hỏi:
"Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?"
Lời cầu xin của họ
quá mơ hồ. Đức Giêsu bảo họ hãy nói rõ lời yêu cầu đó.
Các ông thưa:
"Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được
ngồi bên tả Thầy.
Lần thứ ba, Đức
Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Người (Mc 10,32-34) "Nào
chúng ta lên Giê-ru-sa-lem; Con Người sẽ bị giao nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ
lên án tử hình Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn
và giết Người". Vào lúc Đức Giêsu "chọn chỗ chót" thì các ông
lại cố "đua nhau" chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu
Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ (và đối với chúng ta?), đó
là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự.
Vậy tại sao lại không lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được
hưởng đặc quyền, được tiến cử? Chúng ta chớ nên xét đoán các ông một cách khắt
khe.
Chính chúng ta đã
không làm như thế, khi chúng ta có dịp hay sao? Đó là chuyện thường tình của
con người! Khi chúng ta quen lớn, thì tự nhiên chúng ta không muốn nhờ vả để
trục lợi sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn: Đời sống Kitô hữu của chúng ta có
phải là một cuộc sống phụng sự Thiên Chúa hay không? Hay đó là một cuộc sống mà
chúng ta chỉ muốn Thiên Chúa phục vụ chúng ta? Việc hành đạo của chúng ta có
phải là một sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục hướng về Thiên Chúa không? Hay
đó chỉ là một thứ "bảo hiểm cho đời sau"? Lạy Thầy, xin dành cho con
một chỗ phụ chắc chắn ở trên trời.
"Các anh
không biết các anh xin gì!"
Thực vậy, họ đâu
có biết "ai" sẽ ở "bên phải và bên trái" của Đức Giêsu, khi
Người ở trong "vinh quang" của Người trên thập giá? Họ đang xin mà
không biết chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người trên đời. Họ vẫn
chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi, Đức Giêsu
đang cố chuyển biến tư tưởng của họ từ "vinh quang của Đấng Mêsisa"
sang "con đường dẫn đến vinh quang" đó. Chúng ta cũng vậy thường
chúng ta không biết điều mà chúng ta xin: Đó là lý do tại sao những lời cầu xin
của chúng ta không được chấp nhận.
Chúng ta hãy để
cho Thiên Chúa dời chúng ta đi, cho Người sửa đổi lời xin của chúng ta. Thiên
Chúa nói: "Các con không biết các con xin những gì, các con hãy tin Ta
hơn". "Sự vinh quang" mà các ông xin, hỡi Giacôbê và Gioan, các
ông sẽ nhận được vào một ngày nào đó! ước mộng tuổi trẻ của các ông sẽ được
thực hiện trong tuổi chín muồi của các ông.
Thực vậy, Giacôbê
sẽ là vị tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ
thời hoàng đế Nêrông, bị khổ sai tại đảo Patmos (Kh 1,9).
Chén Thầy sắp
uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Đức
Giêsu dùng hai hình ảnh cổ truyền của Kinh Thánh để giúp họ sửa đổi lời yêu cầu
và ý muốn của họ: Đó là chén đắng và phép rửa. "Chén" trong Kinh
Thánh là "chén đắng", thức uống ghê tởm, khó nuốt. "Chúa cầm
chén trong tay". Người rót một thứ rượu thuốc đã lên men: Họ sẽ uống rượu
này, họ nốc đến cạn (Tv 75,9). 'Phép rửa' có một ý nghĩa tương tự: Đó là hình
ảnh sự nhào nặn, chìm nghỉm; "Hết thảy nước đó sóng tràn ngập lút trên
tôi" (Tv 42,9). Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Người. Và Người
hỏi hai môn đệ: "Các con có thể uống được chén đắng của sự thương khó Thầy
không? Và chịu dìm vào phép rửa bằng máu của Thầy không? Như Thầy và cùng với
Thầy, các con có chấp nhận vùi sâu dưới dòng nước chết đuối bi thảm này nghĩa
là chia sẻ cái chết của Thầy không?
Các ông đáp:
"Thưa được"
Họ tỏ ra quảng đại
trong sự hăng say của tuổi trẻ.
Họ sẵn sàng trả
giá bằng chính bản thân của mình, để 'uống' chén đắng và bị dìm sâu trong phép
rửa. Chúng ta đừng quên rằng khi Máccô viết Tin Mừng của ông, thì đã có 2 bí
tích đang được các Kitô hữu thể nghiệm, như chúng ta ngày nay. Chúng ta gán cho
Phép rửa tội và Thánh Thể mà ta lãnh nhận ý nghĩa nào? "chén mà chúng ta
hiệp thông có thông hiệp với sự hy sinh của Đấng đã hiến ban mạng sống của
Người không? Đức tin ngày chịu phép rửa có làm cho chúng ta "Theo Đức
Giêsu không? và theo tới đâu?
Đức Giêsu bảo:
"Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em
cũng sẽ chịu.
Khi Máccô ghi lại
lời tiên tri này của Đức Giêsu, thì nó đã được thực hiện một phần rồi. Vào năm
44, Giacôbê đã tử đạo. Vào thời đó Vua Hêrôđê đã bách hại một số thành viên của
Giáo Hội. ông ấy đã cho chém đầu Giacôbê, người "anh em" của Gioan.
Và khi nhận thấy người Do Thái hài lòng về việc làm đó, ông lại cho tiến hành
cuộc bắt giữ khác (Cv 12,2-3). Kitô hữu là theo Đức Giêsu!
Còn việc ngồi bên
hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị
cho ai thì kẻ ấy mới được.
Một lần nữa Đức Giêsu
nói lên những lời khiêm nhường lạ lùng, trước Cha của Người: Người nói Người
"không có quyền". Người tỏ ra vâng phục. Qua lời này Người mời gọi
chúng ta đến lượt mình, cũng để Thiên Chúa tùy nghi định đoạt về chúng ta.
"Vinh quang" đó, Giacôbê và Gioan sẽ nhận được, nhưng không phải là
thứ vinh quang mà hai ông ước vọng: Đó sẽ là vinh quang của Đức Giêsu cho. Do
đó Chúa đã chấp nhận lời cầu xin của hai ông. Còn chúng ta thì sao? Khi lời cầu
nguyện của chúng ta xem ra không được chấp nhận, chúng ta có luôn phó thác nơi
Chúa, để Chúa chấp nhận, lời xin đó theo ý của Người hay không? Chính Đức Giêsu
cũng đưa dẫn các bạn hữu của Người tới mầu nhiệm không thể dò thấu được của ý
định Thiên Chúa.
Nghe vậy, mười môn
đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan
Các ông bực mình
vì các ông cũng có tham vọng như thế!
Đức Giêsu gọi các
ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì
dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân
Một lần Đức Giêsu
nói về "chính trị" thì Người lại mô tả quá mạnh và khá mù tối. Ta
không thể nói, Đức Giêsu muốn thiết lập một thế giới không có hệ thống hành
chánh hay san bằng cấp bậc.
Nhưng, một lần nữa
như đối với cách sử dụng (tiền bạc hay vấn đề tính dục), Người bác bỏ những lạm
dụng: Quyền thế không được áp dụng như một cách để thống trị và hà hiếp, hay
như một "tương quan lực lượng" mạnh được yếu thua. Đức Giêsu nói:
"Không được như vậy".
Nhưng giữa anh em
thì không được như vậy
Đức Giêsu dứt
khoát loại bỏ trong Giáo Hội, trong cộng đoàn Kitô hữu, kiểu quyền bính vẫn
được thực thi trên thế giới.
Ai muốn làm lớn
giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải
làm đầy tớ mọi người.
Đây không phải là
một điều luật trong những điều luật khác nhưng đó là "hiến chương"
của Giáo Hội, của cộng đoàn các môn đệ: Mỗi người phải trở nên đầy tớ của mọi
người.
Hình ảnh mà Đức
Giêsu đưa ra ở đây lại càng rõ nét. Ý mà chủ "đầy tớ" không nói ra ở
đây, thì từ "nô lệ" lại nói lên một cách mạnh mẽ, bằng cách thêm ý
"tùy thuộc" vào người mà ta phục vụ. Trong Giáo Hội, phải triệt để từ
bỏ nguyên tắc thăng thưởng, quân hàm, công nghiệp, tước vị huy chương và chỗ
danh dự. Chỉ có một nguyên tắc mà thôi: Đó là sự phục vụ, khiêm tốn. Cần nói về
những vị có một vai trò đặc biệt, ta sẽ dùng kiểu nói "thừa tác viên"
chữ này trong tiếng La tinh có nghĩa là "đầy tớ". Không có lãnh tụ
theo nghĩa thế gian trong Giáo Hội. Chỉ có những "thừa tác viên",
những "người phục vụ".
Vì Con Người đến
không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm
giá chuộc muôn người.
Lý do căn bản của
"hiến chương" nguyên thủy này của Giáo Hội, là Giáo Hội đương nhiên
phải bắt chước Đức Giêsu. Cần lưu ý về ý nghĩa tích cực mà Đức Giêsu đã gán cho
cái chết của Người. Trong ý thức của Người, Người không nghĩ về cái chết này
một cách đau khổ; con đường thập giá đối với Người không phải là "chịu đau
khổ" mà là "phục vụ". Mặc dù Người có quyền hạn đầy đủ vì là con
Thiên Chúa, thế mà Đức Giêsu đã không hành xử như một vị thống trị, nhưng như
"một người đầy tớ". Người đã không đóng vai "lãnh chúa" mà
là "gia nhân" (Ga 13,13) bằng cách hầu bàn chiều Thứ Năm Thánh. Các
bác cha mẹ Kitô hữu cũng phải hành xử như thế, đối với những kẻ dưới quyền của
mình. Các người có trách nhiệm cũng phải hành xử như thế, đối với thuộc cấp của
mình. Chúng ta có đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu một cách nghiêm chỉnh
không? Chúng ta chớ nên xét lương tâm kẻ khác. Tôi đang có khuynh hướng
"thống trị" ai? Tôi phải "thương yêu" ai? Tôi phải
"phục vụ"ai?
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Truyền giáo.
Công đồng Vat. II
trong sắc lệnh về truyền giáo có viết: Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để
nên bí tích cứu độ phổ quát, Giáo Hội vì những đòi hỏi căn bản của mình và vì
mệnh lệnh của Đấng sáng lập, nhất quyết loan báo Tin Mừng cho mọi người. Việc
loan báo này được thực hiện bằng nhiều phương thế khác nhau của toàn thể dân
Chúa vẫn luôn được Giáo Hội cổ võ, khuyến khích và chỉ dẫn. Vì vậy hàng năm
Giáo Hội đã chọn một ngày vào Chúa nhập áp cuối tháng 10 để thúc đẩy mọi linh
mục tu sĩ và giáo dân ý thức hơn về việc rao giảng Tin Mừng. Việc này không
dành cho riêng ai và không thể một cá nhân, một đoàn thể nào làm được hết. Trái
lại mọi thành phần dân Chúa phải có trách nhiệm để thực hiện lời Chúa đã truyền
dạy trước khi về trời: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Vì thế, theo lệnh
truyền của Chúa, từ ngày chịu bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở nên con cái
Chúa, rồi từ ngày lãnh nhận bí tích Thêm Sức, chúng ta đã lãnh nhận sứ vụ tông
đồ để thi hành đúng chức năng ngôn sứ của mình. Vì vậy, bổn phận đòi buộc hết
mọi người giáo dân trong bất kỳ lãnh vực nào cũng phải là chứng nhân cho Đức
Kitô. Hơn thế nữa, người giáo dân có một lợi thế hơn hẳn hàng giáo sĩ là sống
giữa các môi trường xã hội khác nhau với đủ ngành nghề, địa vị xã hội để có thể
cảm hoá cảnh vực và trở nên như men, như ánh sáng, như muối cho những người
chung quanh.
Lời thánh Phaolô
tông đồ mời gọi chúng ta suy nghĩ: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin
Mừng. Giáo Hội luôn ý thức điều đó và hôm nay nhắc nhở chúng ta luôn tích cực
thi hành sứ mạng truyền giáo cả những lúc bận tâm lo lắng công việc trần thế.
Tất cả mọi người đều phải cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa trên trần gian và
trở thành chứng nhân cho Ngài. Lời Chúa nói: Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì
ít, sẽ nhắc nhở chúng ta phải trở nên là những thợ gặt trên cánh đồng nhân
loại, và trở nên ngư phủ trên đại dương trần thế.
Tuy nhiên, như
chúng ta đã nói, có nhiều phương thế để góp phần vào công cuộc trọng đại này,
chẳng hạn cầu nguyện và rao giảng như các tông đồ, các vị thừa sai, sống đức
tin và đức ái phục vụ như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thực vậy, tục ngữ cũng đã bảo:
Lời nói như gió lung lay việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của
chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn người
khác đến cùng Chúa. Chính nhờ những việc làm cụ thể trong khi dấn thân để phục
vụ, chúng ta sẽ trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô.
Để kết luận, chúng
ta hãy ghi nhớ lời nói sau đây của Đức Phaolô VI: Con người thời đại thích lắng
nghe các nhân chứng hơn là những nhà giảng thuyết. Và nếu họ có nghe những nhà
giảng thuyết chỉ vì những nhà giảng thuyết này đã là những chứng nhân.
2. Sứ điệp Truyền
giáo năm 2012.
"Được kêu gọi
làm rạng ngời Lời Chân Lý"
(Tông Thư Porta
Fidei, 6)
Anh chị em thân
mến!
Cuộc cử hành Ngày
Thế giới Truyền giáo năm nay mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Việc kỷ niệm
50 năm Sắc Lệnh Ad Gentes của Công đồng, việc khai mạc Năm Đức Tin và Thượng
Hội đồng Giám mục về đề tài Tân Phúc Âm Hoá là các sự kiện cùng diễn ra trong
năm nay để tái xác nhận ý muốn của Hội Thánh là dấn thân một cách hăng say và
can đảm hơn vàomissio ad gentes (sứ vụ đến với muôn dân) hầu đem Tin Mừng đến
tận cùng trái đất.
Với sự tham dự của
các Giám mục Công giáo từ khắp nơi trên thế giới, Công đồng Chung Vatican II đã
là một dấu chỉ sáng ngời về tính phổ quát của Hội Thánh, qua việc lần đầu tiên
quy tụ một con số đông đảo như thế các Nghị phụ đến từ Châu Á, Châu Phi, Châu
Mỹ Latinh, và Châu Đại Dương. Các giám mục truyền giáo và các giám mục bản xứ,
các mục tử của các cộng đoàn rải rác khắp nơi giữa các dân không Kitô giáo, tất
cả các vị ấy đã đem đến cho các phiên họp của Công đồng hình ảnh của một Hội
Thánh hiện diện trên mọi châu lục và đã trở thành những người cắt nghĩa về thực
tại phức tạp mà thời ấy được gọi là "Thế Giới Thứ Ba". Là những người
giàu kinh nghiệm thực thi sứ vụ mục tử tại các giáo hội non trẻ đang hình
thành, và đầy nhiệt huyết loan truyền Nước Thiên Chúa, các ngài đã góp phần rất
quan trọng vào việc tái xác nhận nhu cầu và sự cấp bách của việc loan báo Tin
Mừng cho các dân tộc, từ đó đưa bản chất truyền giáo của Giáo Hội vào trung tâm
của khoa Giáo hội học.
Khoa Giáo hội học
hướng đến truyền giáo
Ngày nay, quan
điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, hơn nữa còn được tiếp nhận những suy tư thần
học và mục vụ phong phú, và đồng thời lại càng tỏ ra cấp bách, vì số người chưa
biết Chúa Kitô ngày càng nhiều thêm. "Những người mong chờ Đức Kitô vẫn
còn đông vô kể", như lời khẳng định của Chân phước Gioan Phaolô II trong
Thông điệp Redemptoris Missio về giá trị muôn đời của huấn lệnh truyền giáo, và
ngài thêm: "Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em
chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa,
chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô" (số 86). Phần tôi, khi
công bố Năm Đức Tin, tôi đã viết rằng Đức Kitô "hôm nay cũng như hồi ấy,
sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của Người
cho mọi dân tộc trên mặt đất" (Tông Thư Porta Fidei, 7); việc loan báo
này, như lời Vị Tôi tớ Chúa Phaolô VI trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, "đối
với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội
Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin
và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ
điệp không thể thay thế" (số 5). Vì vậy chúng ta cần phải lấy lại cùng một
nhiệt huyết tông đồ như các cộng đoàn Kitô hữu sơ khởi, tuy chỉ là một nhóm ít
người và không thể tự vệ, nhưng bằng lời loan báo và chứng tá, họ đã có thể
loan truyền Tin Mừng trên toàn thế giới được biết đến thời bấy giờ.
Vì vậy không lạ gì
khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn
mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các
môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh
mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện. Nhiệm vụ loan báo Tin
Mừng trên khắp thế giới trước tiên là nhiệm vụ của các giám mục, vì trong tư
cách là thành viên của Giám mục đoàn cũng như là Mục tử của các Giáo Hội địa
phương, các ngài là những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc rao giảng
Tin Mừng trên thế giới. Thực vậy, các ngài "đã được tấn phong không chỉ
cho một giáo phận, mà cho sự cứu rỗi của toàn thế giới" (Gioan Phaolô II,
Thông điệp Redemptoris Missio, 63), "các ngài là những người rao giảng đức
tin dẫn đến cho Đức Kitô những người môn đệ mới" (Ad Gentes, 20) và làm
cho mọi người "thấy được tinh thần và nhiệt huyết truyền giáo của Dân
Chúa, để toàn giáo phận trở thành những nhà truyền giáo" (nt., 38).
Địa vị ưu tiên của
rao giảng Tin Mừng
Vì vậy, đối với
một Chủ Chăn, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng không chỉ giới hạn vào việc chăm lo
cho thành phần Dân Chúa được giao phó cho ngài chăm sóc về mục vụ, cũng không
chỉ là sai một số linh mục hay giáo dân đi truyền giáo như là fidei donum (quà
tặng đức Tin). Nhiệm vụ ấy phải bao gồm toàn thể hoạt động của Hội Thánh địa
phương, mọi lĩnh vực của Hội Thánh ấy, tóm lại, phải bao gồm toàn thể đời sống
và hoạt động của Hội Thánh ấy. Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này và Huấn
quyền sau Công đồng đã mạnh mẽ xác nhận lại. Điều này đòi hỏi rằng các bậc
sống, các kế hoạch mục vụ và việc tổ chức giáo phận phải không ngừng được thích
nghi với chiều kích nền tảng này của Hội Thánh, đặc biệt trong thế giới không
ngừng biến đổi của chúng ta ngày nay. Điều này cũng đúng với các Hội Dòng và
các Tu đoàn Tông đồ, cũng như các Phong trào trong Giáo Hội: mọi thành phần
trong bức tranh lớn của Hội Thánh phải cảm thấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng
của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô được rao giảng khắp nơi. Là những
mục tử, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp
bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là "tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những người
dân ngoại" (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và chiến đấu để đem Tin Mừng
đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu hao sức lực, thời giờ và
của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.
Ngày nay cũng thế,
sứ mạng ad gentes –đến với muôn dân– phải không ngừng là chân trời và khuôn mẫu
cho mọi hoạt động của Hội Thánh, vì chính căn tính của Hội Thánh được tạo thành
bởi đức tin vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức
Kitô để đưa chúng ta đến ơn cứu độ, và bởi sứ mạng làm chứng và loan báo Người
cho thế giới, cho tới khi Người trở lại. Cũng như Thánh Phaolô, chúng ta phải
quan tâm tới những người ở xa, những người chưa biết Đức Kitô và chưa cảm
nghiệm được tình phụ tử của Thiên Chúa, và chúng ta phải ý thức rằng "sự
hợp tác truyền giáo hôm nay phải mở ra những hình thức mới để bao gồm không chỉ
việc trợ giúp kinh tế, mà cả sự tham gia trực tiếp vào việc rao giảng Tin
Mừng" (Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 82). Việc cử hành
Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về Tân Phúc Âm hoá sẽ là những cơ hội
thuận lợi để phát động sự hợp tác truyền giáo, nhất là trong khía cạnh thứ hai
này.
Đức Tin và việc
loan báo
Mối quan tâm loan
báo Đức Kitô cũng thúc đẩy chúng ta đọc lịch sử để từ đó nhận ra những vấn đề,
những khát vọng và hi vọng của nhân loại mà Đức Kitô phải chữa lành, thanh tẩy
và kiện toàn bằng sự hiện diện của Người. Thực vậy, Sứ điệp của Người luôn mang
tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng
thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức
rằng "các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp
hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên
Chúa" (Bênêđictô XVI, Tông huấn hậu THĐGM,Verbum Domini, 97). Điều này
trước hết đòi hỏi phải gắn bó với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô bằng đức Tin
được canh tân nơi mỗi cá nhân cũng như các cộng đoàn "lúc nhân loại đang
sống giữa những thay đổi sâu xa như hiện nay" (Tông thư Porta Fidei, 8).
Thực vậy, một
trong các trở ngại cho việc đẩy mạnh hoạt động rao giảng Tin Mừng chính là cơn
khủng hoảng đức tin, không chỉ của thế giới phương Tây, mà của phần lớn nhân
loại; họ cũng đói khát Thiên Chúa và phải được mời gọi và dẫn đưa tới bánh sự
sống và nước hằng sống, như người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp và nói chuyện
với Đức Kitô. Như tác giả Tin Mừng Gioan đã kể lại, câu chuyện về người phụ nữ
này có một ý nghĩa đặc biệt (x. Ga 4,1-30): bà gặp Chúa Giêsu, Người xin bà
nước uống, nhưng sau đó Người nói về một thứ nước mới, có khả năng làm cho bà
không bao giờ còn khát nữa. Thoạt đầu bà không hiểu, bà vẫn dừng lại trên bình
diện vật chất, nhưng dần dần bà được Chúa dẫn đi trên con đường đức tin giúp bà
nhận ra Người chính là Đấng Mêsia. Về điểm này, Thánh Augustinô quả quyết:
"Sau khi đã đón nhận Chúa Kitô vào tâm hồn mình, [người phụ nữ này] còn có
thể làm gì khác hơn là bỏ lại thùng nước ở đó để chạy đi loan báo Tin
Mừng?" (Bài giảng 15, 30). Một khi gặp được Đức Kitô hằng sống, là Đấng
làm thỏa cơn khát của trái tim, người ta không thể không mong muốn chia sẻ với
người khác niềm vui có Đức Kitô đang hiện diện và giúp họ nhận ra Người để tất
cả đều cảm nghiệm được sự hiện diện ấy. Cần phải đổi mới niềm hăng say loan
truyền đức tin để cổ vũ một cuộc tân phúc âm hoá các cộng đoàn và các nước vốn
có truyền thống Kitô giáo lâu đời mà nay chẳng còn màng đến Chúa, để họ tìm lại
được niềm vui của đức tin. Không bao giờ được gạt mối quan tâm loan báo Tin
Mừng ra khỏi mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như đời sống cá nhân của người
Kitô hữu, nhưng phải ý thức rõ mình là đối tượng đón nhận Tin Mừng, đồng thời
cũng là những thừa sai của Tin Mừng. Tâm điểm của lời loan báo vẫn luôn như
thế: đó là Kerygma (lời rao giảng cơ bản) về Đức Kitô chịu chết và phục sinh để
cứu độ thế giới,Kerygma về tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn của Thiên Chúa đối
với mọi người nam cũng như nữ, đạt đến tột đỉnh trong việc Thiên Chúa sai Con
Một hằng hữu của Người là Chúa Giêsu, Đấng không ngại nhận thân phận nghèo hèn
của bản tính loài người chúng ta, yêu thương và cứu chuộc bản tính ấy khỏi tội
lỗi và sự chết, bằng việc hiến mình trên thập giá.
Trong kế hoạch yêu
thương được thể hiện nơi Đức Kitô, đức tin vào Thiên Chúa trước hết là một hồng
ân và một mầu nhiệm mà chúng ta phải đón nhận trong lòng và trong cuộc sống, và
phải luôn luôn tạ ơn Chúa vì hồng ân ấy. Đồng thời đức Tin còn là một ân huệ
được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận
được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho
cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà
chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình.
Loan báo trở thành
bác ái
"Khốn thân
tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!", Thánh Phaolô nói như thế (1 Cr 9,
16). Lời này vang dội với sức thúc bách mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn
Kitô hữu trên mọi châu lục. Ngay cả đối với các giáo hội tại các xứ truyền
giáo, phần lớn là các giáo hội non trẻ, mới lập, hoạt động truyền giáo đã trở
thành một chiều kích tự nhiên, cho dù chính các giáo hội này vẫn còn cần đến
các nhà truyền giáo. Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ từ khắp nơi trên thế giới,
rất đông giáo dân và thậm chí cả gia đình sẵn lòng rời bỏ quê hương mình, rời
bỏ các cộng đoàn mình và đi đến các giáo hội khác để làm chứng và loan báo Danh
Chúa Kitô, nhờ Người mà nhân loại tìm được ơn cứu độ. Đây là một biểu hiện của
sự hiệp thông sâu xa, sự chia sẻ và bác ái giữa các giáo hội, để mọi người có
thể nghe và nghe lại lời loan báo có sức chữa lành, và có thể đến với các Bí
Tích, nguồn mạch đời sống đích thực.
Cùng với dấu chỉ
siêu vời của đức tin được biến đổi thành đức ái này, tôi ghi nhận và biết ơn
các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, công cụ của sự hợp tác trong sứ vụ phổ quát của
Hội Thánh trên thế giới. Qua hoạt động của các Hội truyền giáo này, việc loan
báo Tin Mừng còn trở thành hành động giúp đỡ tha nhân, thúc đẩy đối xử công
bằng với những người nghèo khổ nhất, đưa giáo dục về tận những thôn làng xa xôi
nhất, trợ giúp y tế tại các vùng sâu vùng xa, giải phóng khỏi cảnh khốn cùng,
giúp những người bị gạt ra lề xã hội tìm lại được quyền sống, nâng đỡ sự phát
triển các dân tộc, khắc phục những chia rẽ sắc tộc, tôn trọng sự sống ở mọi
giai đoạn của nó.
Anh chị em thân
mến, tôi khẩn cầu Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên việc rao giảng Tin Mừng
cho các dân tộc, đặc biệt trên những ai đang loan báo Tin Mừng, để Ân Sủng của
Thiên Chúa làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng tiến bước vững vàng trong lịch
sử thế giới. Cùng với Chân phước John Henry Newman, tôi muốn cầu nguyện rằng:
"Lạy Chúa, xin đồng hành với các nhà truyền giáo tại các xứ truyền giáo,
xin đặt trên môi miệng họ những lời lẽ chính đáng, xin làm cho công lao khó
nhọc của họ sinh nhiều hoa trái." Lạy Trinh Nữ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh
và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng, xin đồng hành với tất cả các thừa
sai Tin Mừng.
Vatican, ngày 6
tháng 1 năm 2012.
Đại lễ Chúa Hiển
Linh
Bênêđictô XVI,
giáo hoàng
(Bản dịch của Ủy
ban Loan Báo Tin Mừng / HĐGMVN)
3. Hãy đi khắp thế
gian.
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
"Hãy đi khắp
thế giới, loan báo Tin Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời
gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng
phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế giới là
những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân tôi chưa một
lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin
không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những
ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức
nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả năng nói những
ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm
việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan
Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là
bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi, sống
trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô hữu nghèo mà
vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội
được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo
phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no,
nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn
nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta
đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ.
Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa
nhỏ đã truyền giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé. Chị là
nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn mạng các
xứ truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân, nhưng bằng
lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để
người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên
thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là
giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này từ
lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon,
Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người khác như Đức
Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước
Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta
cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào
mình.
Nếu cả đời, mỗi
Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được
thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ
đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng
cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời
mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ
gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác
nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý
nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm
cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các
tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con
đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là
tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong
Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được
thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
4. Hãy loan báo
Tin Mừng – Mc 16,15-20.
(Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các
đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới
và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm
tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt
được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải.
Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa
nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào
là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được,
thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là
khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu.
Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có
ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng
tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng
nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường
như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.
Mẹ Têrêxa là một
nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy
người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi
xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao
gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ
cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm
một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm.
Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức
tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ
chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm
thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen
đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây
đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn
nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ
tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi
chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm
áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi
người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời
ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim
ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc
sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông
vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng.
Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi
mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm.
Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người
bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra
nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ
Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người
hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ
côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người
theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ
người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới
biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm
1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống
Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang.
Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn
cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh
hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một
nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi
trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu
nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi
mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn ấm áp
tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn
người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô
và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản
còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt. Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở
Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin
Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo Hội
cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta góp phần vào
việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa
tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế
giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ
Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc
truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là
ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4- Bạn quyết tâm
làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
5. Truyền giáo
theo gương Mẹ Têrêsa.
(Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay, toàn thể
Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ
nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh cũng là
ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta hãy
truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như
thế nào?
1- CUỘC ĐỜI
Mẹ Têrêxa sinh tại
nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để
phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh
mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường.
Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị
vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả
vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa
những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người.
Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc
chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công
việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông.
Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái.
Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ
được thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80
nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ
Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính
cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa
đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát
súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2- TRUYỀN GIÁO
Mẹ Têrêxa đã
truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:
Phương cách thứ
nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không
phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên
phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người
nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy
cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm
niẹm trong hoạt động.
Phương cách thứ
hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận
mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ
thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng
khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25
chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: "Mỗi lần các con làm những việc này
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày".
Phương cách thứ
ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính
nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin
thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự
nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường,
một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương cách thứ
tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ
người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận
phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ
bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn
trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một
nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô
giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho
mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa
những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim con người.
Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh
sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa
đó sưởi ấm tình người.
Năm 2004 sắp tới
được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi
gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết
yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo thực
sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người Công giáo là một
niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Chân Phúc
Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Mẹ Têrêxa đã
truyền giáo bằng những phương cách nào?
2- Trong hoàn cảnh
của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa
để truyền giáo?
3- Qua cuộc đời Mẹ
Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
6. Người châu Á
truyền giáo cho người Á châu.
(Mc 16, 15-20)
(Trích trong 'Niềm
Vui Chia Sẻ')
Từ ngày 5 đến ngày
8.1.1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ. Cao điểm của
chuyến viếng thăm lần này là nghi thức công bố Tông Huấn về "Giáo Hội tại
Á Châu". Tông huấn này là một đúc kết thành quả của Thượng Hội Đồng Giám
Mục họp tại Rôma hồi tháng 4.1999.
Chọn Ấn Độ làm nơi
công bố Tông Huấn "Giáo Hội tại Á Châu", Đức Thánh Cha muốn hướng các
dân tộc ở Á Châu tới các dân tộc Á Châu, tới đồng bào của mình tại lục địa mênh
mông rộng lớn này với hơn 3 tỷ người, trong đó chỉ có 3% là người Công Giáo.
Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn
phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa lục địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế
nhưng cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao
để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất
này.
Ấn Độ là một quốc
gia đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan dung. Trong những năm gần đây, người
ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô
Giáo. Nhiều mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà
thờ bị đốt phá. Nhân dịp Đức Thánh Cha viếng thăm Ấn Độ, nhóm Ấn Giáo cực đoan
đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như
xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn Độ trong quá
khứ. Chính bầu khí bất khoan dung ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn "Giáo Hội tại Á Châu".
Trong Thư Mục Vu
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gởi toàn thể Dân Chuá vào khoá họp thường niên từ
2-7/10/2000 tại Hà Nội, các Giám Mục đã viết: "Thật là phấn khởi vô cùng
khi nghe lời Đức Gioan Phaolô II mở đầu Tông Huấn: "Giáo Hội tại Á Châu ca
lên những lời ngợi khen Thiên Chúa cứu độ loài người" (GA. Số 1).
"Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đã đến trần gian làm một người Á Châu. Ngài
đã sinh ra, đã chết và sống lại tại Thánh Địa, một miền đất nhỏ bé của miền Tây
Á Châu. Thánh Địa đã trở thành mảnh đất của Lời Hứa niềm hy vọng cho toàn thể
nhân loại" (GA. Số 1). "Thế nhưng cho tới nay nhiều người Á Châu vẫn
chưa nhận biết Tin Mừng để trở thành Kitô hữu" (Thư MV. Số 2).
"Năm nay,
Ngày Thế Giới Truyền Giáo mang một ý nghĩa phong phú trong ánh sáng của Đại Năm
Thánh, một năm hồng ân, cử hành Mầu Nhiệm Cứu Độ từ 2000 năm, kể từ ngày sinh
của Đức Giêsu Kitô là vị Thừa Sai đầu tiên và vĩ đại của Chúa Cha. Hội Thánh
tiếp nối sứ mạng thừa sai của Chúa Kitô trong thời gian, qua hành động loan báo
Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Năm thánh 2000 là một thời gian
thuận tiện để toàn thể Hội Thánh, nhờ Thánh Thần, có một hứng khởi thừa sai
mới. Vì thế, Đức Thánh Cha mới gọi cách đặc biệt và chân thành mọi người đã
được rửa tội hãy trở nên sứ giả của Tin Mừng". "Đây là một sứ vụ liên
quan đến mọi Kitô hữu, mọi giáo phận và giáo xứ, mọi tổ chức và hiệp hội của
Hội Thánh" (RM. Số 2). "Trong những cách thế khác nhau, mọi người
được mời gọi tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu trong Hội Thánh". "Mỗi
người được mời gọi cộng tác tuỳ theo hoàn cảnh sống của riêng mình. Trong mùa
này, một mùa của ân sủng và lòng thương xót, tôi đặc biệt ý thức rằng tất cả sức
lực của Hội Thánh phải dành cho việc Phúc Âm Hoá Mới và Truyền Giáo. Không tín
hữu nào, không tổ chức nào trong Hội Thánh có thể trốn tránh nhiệm vụ tối cao
là loan báo Đức Kitô cho mọi người". (x. RM số 3). Toàn thể sứ vụ của Hội
Thánh và đặc biệt việc truyền giáo cần đến những tông đồ quyết tâm kiên trì cho
đến cùng, trung thành với sứ vụ đã lãnh nhận, bằng cách nào bước đi trên cùng
con đường Đức Kitô đã đi qua, "con đường nghèo khó, vâng phục, phục vụ và
hy sinh bản thân, cho cả đến chết..." (TG. Số 5). Trong công việc này,
người Kitô hữu không đơn độc. Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai Ngài kêu gọi
cộng tác vào công việc phục vụ của Ngài. "Thầy đã được trao toàn quyền
trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của
Thầy... và hãy biết rằng Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (X.
Mt 28,18-20). Sự hiện diện mãi mãi của Chúa trong Hội Thánh, nhất là trong Lời
Chúa và các bí tích, là một bảo đảm cho hiệu năng của công cuộc truyền giáo.
Viễn cảnh của Đại
Năm Thánh mà chúng ta đang cử hành, dẫn đưa chúng ta tới một sự dấn thân truyền
giáo hăng say hơn. Đã 2000 năm, kể từ khởi sự công cuộc truyền giáo, vẫn còn
lãnh vực rộng lớn về địa dư, nhân văn và xã hội, trong đó Đức Kitô và Tin Mừng
của Ngài chưa thấm nhập vào, cách riêng đối với chúng ta, người Á châu ở trên
châu lục này. Làm sao chúng ta có thể không nghe lời mời vang lên từ hoàn cảnh
này? Người Châu Á phải loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho người Á Châu, vì
Chúa Giêsu là người Á Châu. Tại sao người Á Châu lại không nhận biết Ngài?
Thưa anh chị em,
Cánh đồng truyền
giáo thật rộng lớn và nhiều việc còn phải làm: vì thế sự cộng tác của mọi người
thật cần thiết. Thật vậy, không ai nghèo nàn đến nỗi không có gì để ban tặng.
Trước tiên chúng ta tham dự vào hoạt động truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng
những hy sinh và dâng hiến những đau khổ cho Thiên Chúa. Đó là loại cộng tác
đầu tiên mà mọi người có thể trao tặng. Cũng quan trọng là đừng bỏ qua sự trợ
giúp kinh tế tài chánh cần thiết cho sự sống còn của biết bao Giáo Hội địa
phương.
Đức Thánh Cha kêu
gọi chúng ta, khi cử hành Năm Thánh 2000, "toàn thể Hội Thánh càng dấn
bước vào một Mùa Vọng truyền giáo mới, chúng ta phải gia tăng nhiệt tình tông
đồ để chuyển giao cho người khác ánh sáng và niềm vui của đức tin... Thánh Thần
của Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta. Thánh Thần, Đấng biểu lộ quyền năng
trong sứ vụ của Đức Giêsu khi Ngài được sai đi "loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo khó... Và loan báo một năm hồng ân của Chúa", đã đổ tràn trong tâm
hồn của mọi tín hữu (X. Rm 5,5), giúp chúng ta trở nên chứng nhân của
Chúa".
Thưa anh chị em,
Truyền giáo không
chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu
người. Trong một xã hội mà Kitô Giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với
Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để rao giảng một thứ Đạo, đó là
"Đạo của tình thương".
Mẹ Têrêsa
Calcutta, Ấn Độ, đã định nghĩa về một nhà truyền giáo, đó là một tín hữu Kitô
say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi
người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người
ta biết và yêu mến Chúa Giêesu bằng những lời nói suông, nhưng mẹ nói về Chúa
Giêsu, mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục
vụ của mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống
của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
7. Tinh thần
truyền giáo (Lc 18, 1-8)
(Trích trong 'Với
Cả Tâm Tình' – ĐGM. Vũ Duy Thống)
"Không biết
khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?".
Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu
hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có
thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các
môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức
tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực
đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong
bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài
đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên
mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần
truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền
giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm
được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan
niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao
trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng
thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực
của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện,
hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ
"sáng danh tôi, tối Danh Chúa". Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở
thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ
hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính
phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau
xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra
nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được
nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh
hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín
múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất
kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa
việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ
tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên,
phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay
riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và
hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa
Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh
khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín
năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài,
thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao
giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo,
ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến
tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo
Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền
giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo
đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền
giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự
sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn
bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn
thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần
truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng
bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên,
nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng
hạn mưa giông. "Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống", đó là kinh
nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh
bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được
chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều
tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải
bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là
khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến
nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của
mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không
chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay
trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm
phán bạo ngược "chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì"
trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc
thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý
tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép
người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm
thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít
vấn đề.
Khi không thuận
tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt
thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn.
Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một
mạch điện tự động "kiểm soát lợi suất" sẽ bù lại những giới hạn ấy
bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể
không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một
phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng
cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không
phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua
những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh
người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong
được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên
bền.
Và dầu hoàn cảnh
thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là
biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào
Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi
người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên
mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy
nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế
Giới Truyền Giáo hôm nay.
8. Thầy Ở Cùng Anh
Em.
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
Truyền giáo là một
mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ."
Ngài đòi ta phải
ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn
đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như
Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm
quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng
không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x.
Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm
chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách
làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép
Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi
Thiên Chúa.
"Bằng cách
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ
thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ
giáo huấn của Chúa.
"Và đây Thầy
ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho
tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là
Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ
trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê
hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có
trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và
nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ,
hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi?
Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức
nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không
phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi,
Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên
như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu
Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu,
và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại
sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ
chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi
truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ.
Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê
hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của
loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của
Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con
biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài
chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản
sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện
nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó
thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ
đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí.
9. Chứng tá.
Truyền giáo là
nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại
nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của
Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã
định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ
tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín
hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một
việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề
sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo
dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan
trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là
ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay
lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân
những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối
làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường... nhưng chính những giáo
dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ
đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa
là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ
đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò
yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong
những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách
truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công
giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu
chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi
chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên
những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương
mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây
đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng... để
nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu
thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta
đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là "một tín hữu Kitô say
mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người
nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và
yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ
bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do
đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để
làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng
một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại
lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: "Tôi đau rất nặng, người
ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ
ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy
chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: "Chị quỳ làm gì thế?". Chị
trả lời: "Tôi cầu nguyện cho ông". Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho
tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người
chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình
người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp
Chúa".
Câu chuyện trên
cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận
ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở
nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ
tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của
tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về
đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực
sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ
năm 2003 của các Giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này:
cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo
phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ.
Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu
gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức
thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo
xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: "Chính nơi điều này mà mọi người
sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau".
Tóm lại, ngày thế
giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của
việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền
giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
10. Đời sống chứng
nhân.
Hôm nay, ngày thế
giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải
truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền
giáo là gì? Truyền là tuyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền...
Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm... Truyền giáo là truyền bá đạo,
là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý
nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn
có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh
Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là
"trồng" Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những
người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa
này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền
thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo
Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con
người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được
Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã
có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho.
Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện
đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho
những người khác.
Những ý nghĩa trên
đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm
cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận
biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa
và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết
và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm
những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì
làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt
sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý
nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì
truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người
lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là
truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta
nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt
cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của
việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc
truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn
làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi
người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội
và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải
truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được,
nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng
nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện
cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng
đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời
không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc
truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền
giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng
ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc
truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai
là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo
tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng
ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng
trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói
hay, vì "Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ:
đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét