CHÍN LM GP. HƯNG HÓA PHONG CHỨC NGÀY 22/08/2018 |
CÁC TÂN LM CHẾT ĐI CHO MÌNH |
CA ĐOÀN CHỦNG SINH |
CHÍN TÂN LINH MỤC |
Thêm chú thích |
ĐỨC CHA ANPHONG DAANG THÁNH LỄ TẠI BẢO HÀ |
LM HỒ SĨ HIỀN MỞ TAY TẠI GX. ĐẠI ƠN HÀ NỘI |
LM HỒ SĨ HIỀN BAN PHÉP LÀNH TÒA THÁNH |
MỤC LỤC
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đức tin là một con đường: con đường
dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới
hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo
von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ
Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải
trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử
thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm
trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi
niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán
chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ
dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
30.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và
một số môn đệ hôm nay. Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn
người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ
tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm
tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút
với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
31.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số
môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt
nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng
chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp
thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng
bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của
những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức
tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ
có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích
thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng
nghĩa.
32.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại
diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều
Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là
tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin
nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu
làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc,
các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh
trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm
tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng
màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá
trị và cần thiết.
33.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có
giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ
thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những
lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
34.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ
không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi,
ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt
ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an,
niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
35.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm
thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy
Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao,
tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời
Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm
không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như
những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.
36.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách
như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên
xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt
qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
37.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh
dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai.
Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.
38.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1-
Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo,
lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2-
Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác
tín điều đó không?
3-
Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy
tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
39.
L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
40.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan : đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế : theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa. Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng : "Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống" II. GỢI Ý SÁM HỐI - Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian. - Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao. - Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con. III. LỜI CHÚA 1. Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b) Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Đất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Đất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát : Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác. 2. Đáp ca (Tv 33) Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Đất Hứa. 3. Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69) Kết quả của bài giảng về Thánh Thể : - Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ : "Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa". - Đức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" 4. Bài đọc II (Êp 5,21-32) (Chủ đề phụ) Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng : (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô ; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình. IV. GỢI Ý GIẢNG * 1. Sống là chọn lựa Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu : "Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống". Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằn co : khi ấy người ta đi theo Đức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Đức Giêsu đột ngột chuyển hướng : Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân : họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Đức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình "Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?" Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn. Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không ; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc ; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh. Đời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn : Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau. Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế : . Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình : ta phải chọn hoặc là lòng thâm hay là đức công bình. . Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ. . Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình. Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra. Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau : "Bỏ Ngài con biết theo ai ? . Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió "Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi". . Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông. "Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu ?" . Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ. "Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ. . Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã. "Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh". Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như m con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an. Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời. Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt. * 2. Bỏ Thầy con biết theo ai ? Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau : Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Đức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại : "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại : "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.Tận hiến cho Đức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Đức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm : mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng ? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công ? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Để theo Đức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói : "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ?". (Ga.6,68)Đứng trước lời tuyên bố của Đức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Đức Giêsu.Đứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa : "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn ?" (Ga.6,52).Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm : * Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin… Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu") * 3. Đức tin "nghĩa địa" Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ "gin", còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin "nghĩa địa". Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand. Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình ; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình. Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin "nghĩa địa" cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Đức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi : "Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống" (Viết theo Flor McCarthy) * 3. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng ? Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Đặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi ! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng ! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình ! Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò. Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Đức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa "và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và "không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (c.3). Và "Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (c.14). Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : "Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." (cc.32-33). Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận ! Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Đức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Đức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Đức Giêsu. Điều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan : "Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa." (Ga 1,10-12). Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Đức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Đức Giêsu tuyên bố với người Do Thái : "Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi ; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại", các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Đức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ. Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả ! (Mc 9,34). Đức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người ! Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Đức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông : ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21). Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Đức Giêsu tại Caphácnaum. Đức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Đức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ : "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (c.35). Đó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42). Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Đức Giêsu tuyên bố "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống" (c.51). Thịt nói đây là "sarx" trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Đức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Đức Giêsu lại còn nói : "Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (cc.53-56) Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Đức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng : "Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?" (c.60). Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Đấng từ Thiên Chúa mà đến : "Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống" (cc.62-63). Đáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa. Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Đức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Đức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là : "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?" Ông Simon Phêrô liền đáp : "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Đức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, "vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé." (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001) V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI Chủ tế : Anh chị em thân mến, sau khi Đức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng : 1. Hội thánh hôm nay gặp nhiều khó khăn và thách đố / Xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tin tưởng và nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn. 2. Thế giới hôm nay đang phải chọn lựa giữa chiến tranh và hòa bình, giữa vật chất và tinh thần, giữa hận thù và yêu thương / xin Chúa cho mọi nhà cầm quyền biết chọn lựa đường lối nào đem lại tự do và hạnh phúc thật cho mọi người. 3. Nhiều người đã dứt khoát từ bỏ Chúa / nhiều người còn dửng dưng không cần quan tâm đến Chúa / Xin Chúa cho họ được ánh sáng dẫn đường đẻ tìm về với Chúa là lẽ sống của mọi người. 4. Nhiều anh chị em trong họ đạo chúng ta đã biết Chúa mà còn thờ tiền bạc và ham mê đời sống vật chất đời này. / Xin Chúa cho họ được thức tỉnh và trở về với Chúa là Đấng ban sự sống hạnh phúc muôn đời. Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh ; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. VI. TRONG THÁNH LỄ - Trước lúc rước lễ : Đức Giêsu đã dạy "Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời". Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa. VII. GIẢI TÁN Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời. |
41. kịch liệt vì họ cho đây là một việc
tởm gớm, không thể chấp nhận được. Thậm chí cả một số môn đệ cũng có phản ứng
tương tự :”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe đuợc”. Kết quả là một số
môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
1-
Sau thất bại tàn tệ đó, Đức Giêsu quay sang nhóm Mười Hai, là những
người thân tín nhất, xem họ có thái độ thế nào ? Rất may, ông Phêrô
đã thay mặt cho nhóm Mười Hai thưa ngay với Ngài rằng:”Lạy Thầy, bỏ Thầy
chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Như vậy, các
Tông đồ đã tin vào lời Chúa và quyết tâm theo Ngài.
2-
Ngày nay, trước mầu nhiệm Thánh Thể, vẫn còn có những người có thái
độ như dân Do thái và một số môn đệ xưa : họ không tin nhận phép Thánh Thể vì
họ cho là một việc phi lý, một sự bầy đặt. Còn chúng ta, chúng ta hãy học theo
gương thánh Phêrô và các Tông đồ mà tuyên xưng đức tin và quyết tâm theo Chúa
đến cùng, mặc dầu việc tin theo đó đòi hỏi nơi chúng ta nhiều từ bỏ, nhiều hy
sinh.
42. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
43. + Bài
đọc 1 : Gs
24,1-18.
1-
Sau khi ông Maisen qua đời, ông Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh
đạo dân chúng và đưa họ vào Đất Hứa. Sau khi chinh phục được Đất Hứa và chia
phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuêâ tập họp dân chúng lại tại Sikem và đòi họ
phải tuyên bố dứt khoát lập trường : tin theo Đức Chúa và trung thành với Giáo
ước của Ngài hay tin theo các thần của dân ngoại ở Babylon hay các thần của xứ
sở mà họ vừa chiếm cứ ?
2-
Toàn dân dứt khoát và đồng bộ chọn Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát
họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Từ nay họ sẽ trở thành dân riêng của Đức Chúa, trung
thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài ; và từ nay sự hiệp nhất sẽ phát
xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.
44. + Bài
đọc 2 : Ep
5,21-32.
1-
Bài đọc hai chỉ là đề tài phụ nhưng nói lên mối dây chặt chẽ giữa
các tín hữu với Chúa Kitô. Chắc chắn thánh Phaolô biết đề tài Kinh Thánh về lễ
cưới giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và một cách tự nhiên, ngài nói sang hôn lễ
giữa Đức Kitô và Hội thánh để nhấn mạnh rằng chính nơi Đức Kitô mà tình yêu
Thiên Chúa đối với dân Ngài đã đến mức viên mãn.
45. Theo đó, giáo huấn của thánh Phaolô
về đạo vợ chồng có 2 điểm :
a) Vợ phải phục tùng chồng như Hội
thánh tùng phục Đức Kitô.
b) Chồng phải yêu thương vợ như Đức
Kitô thương yêu Hội thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
2-
Kiểu nói của thánh Tông đồ Dân ngoại có thể gây ngỡ ngàng cho người
nghe, nhưng sẽ không gây khó chịu và có thể chấp nhận được khi qui chiếu
về Tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh.
46. +. Bài Tin mừng : Ga 6,60-69.
1-
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống với lời khẳng định quyết liệt của
Đức Giêsu :”Thịt Ta thật
là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55), sự cứng lòng tin của người Do thái lây
sang cả nhóm các môn đệ. Họ cảm thấy chướng tai vì những lời quá táo bạo, đảo
lộn hết cả mọi quan niệm của họ từ trước đến giờ.
2-
Bị đặt trước giờ phút phải lựa chọn : tin hay không tin, theo hay
rời bỏ ? Nhiều người Do thái không tin và cùng với một số môn đệ cũng rời bỏ
Ngài. Nhưng Đức Giêsu không rút lại điều gì trong lời khẳng định của Ngài.
3-
Nhưng một câu hỏi được đặt ra một cách đột ngột cho các Tông đồ :”Cả
các con nữa, các con cũng
muốn bỏ đi hay sao”(Ga 6,67) ?
Thánh Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin một cách tuyệt vời
:”Lạy Thấy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự
sống đời đời”(Ga 6,68).
47. C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
48. Bỏ Ngài con
biết theo ai ?
1-
Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và
bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách
riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.
I.
CÂU CHUYỆN LỰA CHỌN.
1. Dân Do thái chọn Thiên Chúa.
2-
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết : vào khoảng năm 1200
trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự
hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy
phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập
toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan
án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông nói với họ:”Hôm nay,
các ngươi hãy tùy ý chọn
lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải,
chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi
thưa với ông Giosuêâ â:”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn
thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.
3-
Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã
cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ
do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa
dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc
dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại
để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà
thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn
đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký
kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không ? Lịch sử dân Do thái đã
trả lời cho câu trả lời này.
2. Lựa chọn và tin theo Đức Giêsu.
a) Thái độ của dân Do thái.
4-
Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy
các thính giả có những phản ứng như sau :
-
Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với
Ngài:”Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông ? Ông làm gì nào”
(Ga 6,30).
-
Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài :”Thưa
Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy”(Ga 6,34).
-
Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca :”Ông ấy lại
không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết !
Làm sao bây giờ ông ấy dám nói : Ta từ trời xuống”(Ga 6,40-42) ?
-
Khi Ngài phán:”Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này
người Do thái mới la lối rùm beng lên:”Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn
thịt mình được”(Ga 6,52).
49. Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta
thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ
Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).
50. b) Thái độ của các môn đệ.
1-
Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu :”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là
của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã
phản ứng như những người Do thái khác:”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe
nổi”(Ga 6,60) ? Khi nghe Đức
Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút
lui, từ giã Ngài:”Từ bấy giờ, có nhiềumôn đệ rút lui, không còn theo Ngài
nữa”(Ga 6,66). Họ đã theo
Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới
cùng.
51. c) Thái độ của Nhóm Mười Hai.
1-
Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai,
những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào
trước câu hỏi của Đức Giêsu:”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”?
Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ:”Lạy Thầy, chúng
con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và
chúng con biết rằng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6 , 70).
2-
Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên
xưng rất trọn vẹn và đầy đủ , Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó,
những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống
này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.
52. II. LỰA CHỌN VÀ TIN THEO.
1. Nói về sự lựa chọn.
1-
Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là
thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không
bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do
lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì
thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như
ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.
2-
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh
ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác
thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá
cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ
hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
53. Nói đến lựa chọn là giả thiết phải
có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm
một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc.
Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì
phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa
chọn ấy.
54. Truyện : thần Hercule.
1-
Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần
đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với
ông. Một người nói :
-
Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ
dàng.
55. Người thứ hai nói :
-
Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn,
nhưng đưa tới hạnh phúc.
56. Hercule đã chọn con đường khó khăn
và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.
1-
Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều,
phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn
ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều . Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ
thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy :
-
Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,
-
Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là ?
-
Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,
-
Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.
2. Chúng ta chọn Đức Giêsu.
2-
Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng :
Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời
người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến
trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là
: Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự
lựa chọn.
3-
Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn
Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị
thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa
thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên :”Không ai có thể
làm tôi hai chủ... Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền
của được”(Mt 6, 24).
4-
Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài,
ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói:”Ai
thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói:”Thầy là đường, là sự thật và
là sự sống”(Ga 14,6).
5-
Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo,
thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !
57. Vị thần đó là
ai ?
58. Đó là Đức
Giêsu Kitô.
1-
Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần
thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm
bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được
sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng
ta. Đây là một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của
ta.
3. Chúng ta tin theo
Đức Giêsu.
2-
Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa
của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa
chúng ta phải có đức tin.
Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết
giaBlaise Pascal:”Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu
nguyện”.
3-
Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là
“khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận“ để
“tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất
nhiều lần.
4-
Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng
chạm ! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng.
“Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn
thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của
mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà
không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là
cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người
không chấp nhận được mầu nhiệm này.
5-
Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu
chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các
môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút
chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ
bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm
những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú
tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu,
chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm:”Lạy
Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin
Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.
59. III. TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.
1-
Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi
và những việc làm của chúng không ? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả
quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con
và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong
mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của
mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các
việc của của chúng.
2-
Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn
cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp
lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày,
mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn
duy nhất : chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.
3-
Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết
định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một
trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon
xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này
không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải
chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ :
-
Một nhà hai chủ không hoà,
-
Hai vua một nuớc ắt là không yên.
4-
Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn
lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường
cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và
cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 :”Đức
Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội
thánh,...ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không
nhăn nheo..., nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.
5-
Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một
nghịch ly ùvì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát ? Người ta thuật lại câu chuyện
của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp
quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng :”Ta cho các ngươi sự đói khát,
lạnh lẽo, thương tích và chết trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy
theo ta”. Kết quả : chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.
6-
Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại
tướng ấy ? Có kỳ lạ không ? Có vô lý không ? Có điên khùng không ? Và chúng ta
nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu:”Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất,
còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được”(Mt 10,39) ?
7-
Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi :
Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục
nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài
thánh ca rất ý nghĩa như sau :
8-
“Bỏ Ngài con biết theo ai”
-
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ
trong khung trời lộng gió.
-
Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim
ngàn khơi.
-
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao
đao trên biển cả mênh mông.
-
Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái
biết trôi về đâu ?
-
Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương
lai khuất mờ.
-
Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành
trình cô đơn, buồn bã.
60. Bước đi không
Ngài, đời con buồn tênh.
1-
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta
tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung
trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc
hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền
đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi
chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)
2-
Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự
hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như một sự điên rồ, nhưng như
thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói
đúng :”Khôn thế gian làm quan
địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !
61. Truyện : vua Charles V.
1-
Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho
hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều
thiên), Vua nói :
-
Con chọn cái nào ?
62. Ngần ngừ một
lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
63. Vua cha hỏi :
-
Sao con lại chọn thanh kiếm ?
64. Hoàng tử cầm
thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp :
-
Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện
kia.
2-
Chúng ta đã quen với khẩu hiệu :”Per crucem ad
lucem” : qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con
đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem
đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ øthanh kiếm đau khổ
để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước
triều thiên
-
Xả thân nếu muốn theo Thầy,
-
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.
i. (Mt 16,24)
65.
HÃY LÀM ĐIỀU BẠN CÓ THỂ
|
66.
Gm. Arthur Tone
|
67.
68. John là một người thanh niên, chàng lần lần
rời xa Giáo Hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế
chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng thêm:
Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên
đường. Mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc”.
John hỏi: “Cái gì đó, mẹ?”.
69. “Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh
Kính Mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào”. Một chút do dự,
John đã hứa.
70. Trải qua năm, tháng. Những bức thơ của John
thưa dần. Một ngày kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị thương
nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong
bức thơ đầu về nhà, chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy.
Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ”.
71. Mỗi vị linh mục đều đã nghe những câu chuyện
như thế. Nó làm tôi nghĩ ngay: Dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao xa. Nếu
họ giữ một liên hệ nào đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính Mừng một ngày, có hy
vọng và có cơ may linh hồn ấy sẽ dần tìm đường trở về với Chúa.
72. Như rất nhiều người Công giáo ngày nay, John
đã bắt chước những người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: Họ không đến với Chúa
nữa. Những môn đệ ấy từ chối tin rằng Đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng
Ngài cho họ ăn, Máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã thấy với 5 cái bánh, Đức
Giêsu đã làm cho 5.000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.
73. Hầu hết những lý do người Công giáo xa lìa
Giáo Hội có liên quan tới điều này. Thí dụ: “Thánh Lễ không liên hệ đến tôi”.
Họ muốn nói Thánh Lễ không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì
thay vào đó? Không làm gì cả. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường
không đọc lấy một kinh, điều đó không lạ. Họ phải nói điều các Tông đồ đã nói
với Chúa Giêsu: “Chúng con biết theo ai?”. Điều này áp dụng đặc biệt cho
người Công giáo kết hôn ngoài Giáo Hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu
hết mọi nơi, họ chẳng làm gì cả.
74. Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái
gì họ có thể làm được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
75. Đây là mấy đề nghị: Hãy đọc kinh “Lạy Cha”,
kinh “Kính Mừng”. Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: “Lạy Chúa,
xin giúp con làm mọi cái con có thể, để làm vui lòng Chúa”.
76. Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về
tôn giáo. Chính bạn phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí
cho người nghèo, người túng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể
giữ được.
77. Rất thường xảy ra là một người Công giáo,
khi họ nghĩ họ không thể giữ một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất
cả mọi giới răn của Chúa qua một bên.
78. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được,
nhất là cố gắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa Nhật. Nếu bạn không thể rước
lễ, bạn hãy rước lễ thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng
bạn muốn rước Người vào trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng bạn hối hận vì
tội lỗi của bạn, bạn ước ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón
tiếp Người.
79. John trong câu chuyện chỉ làm một việc rất
nhỏ là đọc mỗi ngày một kinh Kính Mừng. Chúa đã thưởng anh. Bạn hãy làm những
gì bạn có thể làm được. Chúa sẽ thưởng bạn.
80. Xin Chúa chúc lành bạn.
|
81. LỜI CHÚA LÀ THẦN TRÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG
|
82. Noel Quesson
|
83. Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông
trại bên Hòa Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:
-
Chẳng
bao giờ tôi tin điều gì tôi không hiểu.
84. Ông chủ nông trại nói:
-
Điều
này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy đống cỏ không? Ngựa
của tôi ăn cỏ, lớn lên lông nó mọc khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có
len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao
không nào?
85. Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến
mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong
thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ
đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta
vẫn tin. Chúng ta tin có vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành
phần khí hợp lại…
86. Từ lãnh vực tự nhiên bước sang siêu nhiên
cũng vậy. Không ai hiểu được các mầu nhiệm trong đạo. Chúng ta tin là vì Chúa
dạy, vì Chúa thấu suốt mọi sự và cũng vì yêu thương ta, Chúa đã tỏ bày cho
chúng ta. Đó là căn bản của mọi niềm tin.
87. Mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm mà Chúa
Giêsu đích thân dạy dỗ. Thánh Gioan đã nghe và tường thuật cho chúng ta khá
đầy đủ. Nhưng chính Gioan cũng như đa số người nghe Chúa, không ai hiểu hết
được. Họ đã chia ra làm hai phe. Một phe tỏ ra khó chịu, cho rằng những lời
này làm chói tai, họ đã bỏ đi. Một phe thiểu số còn lại cũng không hiểu gì mấy,
nhưng vẫn tin vào Chúa vì tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng
sống. Chúa biết trình độ hiểu biết hữu hạn của con người, kể cả những nhà
hiền triết Đông Tây, nên Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, tin vào Lời Ngài.
88. Thầy nhiều người bỏ đi, Chúa buồn lắm, nhưng
Chúa không rút lại lời đã khẳng định. Chúa cũng không níu kéo họ, vì lòng tin
phải được biểu lộ hoàn toàn tự do. Niềm tin đòi hỏi ta vượt trên ánh sáng
khoa học. Không phải chỉ học hỏi về lòng tin mà là dấn thân, là thực hành
trong cầu nguyện, trong việc đón nhận lời mạc khải từ Thiên Chúa. Lắng nghe
Lời Chúa và làm theo Lời Chúa dạy, từ đó sẽ có lòng tin, một lòng tin chính
Chúa ban tặng cho. Lòng tin vào Thánh Thể, có thể nói được là lòng tin trung
tâm của đời sống Kitô hữu đến nỗi người ta thường gọi người giữ đạo là những
người có đi lễ. Lòng tin vào Thánh Thể gồm hai khía cạnh rõ rệt: thứ nhất là
ăn bánh sự sống; thứ hai là chia sẻ sự sống Đức Kitô, Ngài là tình yêu hiện
thực.
89. Lòng tin như thế, nhất thiết phải xây dựng
trên Lời Chúa, phải tiếp nhận Lời Chúa với lòng mến yêu tôn kính. Vì “Lời
Chúa là Thần Trí và là Sự Sống”. Đó là một tâm tình cần phải có khi đọc Tin
Mừng. Chúa Giêsu thường được kể là một vĩ nhân, một học giả, một ngôn sứ, một
nhà giải phóng… Nhưng còn hơn thế nữa, Chúa là Thiên Chúa yêu thương.
90. Lạy Chúa, bỏ Ngài, chúng con biết theo ai?
Vì Ngài có những lời hằng sống. Chúng con tin nhận Ngài là Đức Kitô Con Thiên
Chúa. Xin thêm lòng tin cho chúng con và giúp chúng con chia sẻ tình thương
Chúa cho mọi người trong cuộc sống bác ái hôm nay.
|
91. THẦN KHÍ TỐI QUAN TRỌNG
|
92. Chú giải của William Barclay
|
93. Chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy các
môn đệ cho rằng bài giảng của Chúa Giêsu thật khó lãnh hội. Từ Hy Lạp skleros
không có nghĩa là khó hiểu, nhưng có nghĩa là khó chấp nhận. Các môn đệ biết
rất rõ Chúa Giêsu tự xưng là sự sống từ Thiên Chúa đến trần gian. Chẳng có ai
có thể sống hoặc đối diện với cõi đời đời nếu không tin nhận và tùng phục
Ngài.
94. Đến đây chúng ta gặp một chân lý nổi bật
trong mọi thời đại. Nhiều khi người ta khước từ Chúa Kitô vì không đáp ứng
nổi tiêu chuẩn đạo đức mà Ngài đòi hỏi, chứ chẳng phải vì không biết Ngài.
Khi thành thật suy nghĩ về vấn đề này, chúng ta bắt buộc nhìn nhận lại tâm
điểm của mọi tôn giáo đều phải có mầu nhiệm, lý do đơn giản vì trung tâm của
mọi tôn giáo đều có Thiên Chúa. Tâm trí loài người chẳng bao giờ hiểu được
đầy đủ trọn vẹn về Thiên Chúa. Bất cứ một nhà tư tưởng chân chính nào cũng
phải chấp nhận mầu nhiệm.
95. Chỗ khó thật sự của Kitô giáo gồm hai phương
diện: Một là đòi hỏi tùng phục Chúa Kitô, nhận Ngài có quyền uy tối hậu, hai
là đòi hỏi tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Các môn đệ vốn hiểu rất rõ Chúa Giêsu
tự xưng chính Ngài là sự sống, là thần trí của Thiên Chúa xuống thế gian. Cái
khó của họ là chấp nhận điều đó là đúng, với tất cả những gì tiềm ẩn trong
đó. Đến nay có nhiều người chấp nhận giáo lý, nhưng có những người lại không
theo nổi tiêu chuẩn sống của Ngài.
96. Cho nên Chúa Giêsu tiếp tục –không nhằm cố
gắng chứng minh cho lời tự xưng của Ngài- mà Ngài nói rõ sẽ có ngày các biến cố
xảy ra chứng minh điều đó. Ngài nói: “Các ngươi thấy khó tin Ta là bánh, là
phần thiết yếu cho sự sống, từ trời xuống. Rồi các ngươi không còn thấy khó
tin nữa, khi chứng kiến Ta trở lên trời”.
97. Đây là lời báo trước sự thăng thiên. Điều đó
có nghĩa là Phục Sinh bảo đảm cho tất cả các lời tuyên bố của Ngài. Chúa
Giêsu không phải là một người sống cao quý và chết dũng cảm cho một chính
nghĩa bị thất bại. Ngài là Đấng mà những lời tự xưng được ứng nghiệm bởi sự
kiện Ngài chết rồi sống lại. Chúa Giêsu tiếp tục dạy rằng điều tối quan trọng
là quyền ban sự sống của Thần Khí, xác thịt chẳng ích gì cả. Thật đơn giản để
hiểu phần nào ý nghĩa của nó – điều quan trọng hơn hết, đó là tinh thần ở
trong mọi hành động. Giá trị của bất cứ vật gì là tùy ở mục đích của nó. Nếu
chỉ ăn để mà ăn thì chúng ta trở thành kẻ tham ăn, như thế có hại hơn là lợi.
Nếu chúng ta ăn để bảo tồn sự sống, để làm việc tốt hơn, để giúp thân thể
thích ứng với đỉnh cao nhất của nó thì thức ăn mới có ý nghĩa đích thực. Nếu
một người dành thì giờ để chơi thể thao chỉ vì thể thao mà thôi, thì trong
phạm vi nào đó anh ta đã phí thời giờ của mình. Nhưng nếu người ấy chơi thể
thao để thân thể tráng kiện, nhờ đó, có thể phục vụ Thiên Chúa và loài người
đắc lực hơn thì thể thao lại trở thành quan trọng. Mọi điều liên hệ đến xác
thịt có giá trị hay không tùy thuộc vào tinh thần nó được thực hiện.
98. Chúa Giêsu tiếp: “Lời Ta là Thần Khí và là
sự sống”. Chỉ một mình Chúa Kitô cho chúng ta biết sự sống là gì, đặt trong
chúng ta phần tinh thần hướng dẫn cuộc đời và ban cho chúng ta năng lực để
sống cuộc đời ấy. Sự sống có giá trị hay không là tùy chủ đích, mục tiêu nó
nhắm tới. Chỉ một mình Chúa Kitô định cho chúng ta mục địch, chủ đích thực
của đời sống, và cũng chỉ một mình Ngài ban cho chúng ta năng lực để thực
hiện mục đích ấy, chống lại những nghịch cảnh bên ngoài.
99. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ nhiều người không
chỉ khước từ suông lời đề nghị của Ngài, mà còn chối bỏ với lòng đố kỵ, thù
ghét nữa. Không ai có thể tin nhận Chúa Giêsu trừ phi được Thánh Thần tác động.
Nhưng con người cũng có thể chống lại Thánh Thần cho đến ngày cuối cùng. Một
người như thế không phải bị Thiên Chúa loại ra, nhưng chính người ấy đã tự
loại mình ra.
100.
NHỮNG
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CHÚA KITÔ (Ga 6,66-71)
101.
Đoạn
này được viết theo linh tính về thảm họa sắp xảy ra, vì đây là phần bắt đầu
của giai đoạn cuối cùng. Nhiều người kéo đến theo Chúa Giêsu, lúc Ngài dự lễ
Vượt Qua tại Giêrusalem. Họ đã thấy các phép lạ Ngài làm và tin danh Ngài, số
người kéo đến xin các môn đệ làm phép rửa thì đông, không kể xiết (2,23;
4,1-3). Tại Samari, nhiều việc lớn đã xảy ra (4,1.39.45). Tại Galilê, mới
ngày hôm trước dân chúng hãy còn kéo theo Ngài rất đông (6,2), nhưng bây giờ
giọng văn mô tả đã thay đổi. Từ nay trở đi, sự oán ghét ngày càng chồng chất
cho đến khi đạt đến tột đỉnh là thập giá. Gioan đã hé mở màn cuối của thảm
kịch. Chính trong những hoàn cảnh này, người ta mới thấy rõ lòng người và
hiểu được bộ mặt thật của họ. Và trong những hoàn cảnh như thế, đã có ba thái
độ khác nhau đối với Chúa Giêsu.
1. Có sự bỏ cuộc. Nhiều người quay lưng lại,
không đi theo Ngài nữa. Họ bỏ đi vì nhiều lý do. Một số người trong đám đông
họ đã thấy rõ Chúa Giêsu đi về đâu. Không thể thách thức giới caầm quyền như
Ngài đã làm mà tránh khỏi hậu hoạn. Chúa Giêsu đang đi vào thảm họa và họ đã
rút lui kịp thời, họ là hạng người tùy thời. Người ta bảo muốn thử một đạo
quân, hãy xem cách đạo quân ấy đánh giặc khi mọi người đều mỏi mệt. Nếu sự
nghiệp Chúa Giêsu cứ đi lên, chắc những người kia chưa quay lưng, nhưng ngay
khi nhìn thấy bóng thập giá, họ liền bỏ Ngài. Có một số người khác bỏ Chúa vì
trốn tránh thách thức của Ngài. Quan điểm cơ bản của họ là theo Chúa để được
một cái gì đó, nên khi phải chịu khổ vì Ngài, phải mất một chút gì đó cho
Ngài là họ bỏ đi ngay.
102.
Nếu
theo Ngài mà thơ mộng, huy hoàng, chắc họ bám sát Ngài, nhưng khi đường đi
trở thành khó khăn, theo Ngài đòi hỏi một điều khó làm thì họ bỏ Ngài. Việc
họ tìm thầy học đạo hoàn toàn do những động lực ích kỷ. Thật ra chẳng có ai
ban cho chúng ta nhiều hơn Chúa Giêsu. Nhưng nếu chúng ta chỉ đến với Ngài
nhằm mục đích thu vào chứ chẳng cho ra, chắc chắn chúng ta phải trở lui.
Những ai muốn theo Chúa Giêsu phải nhớ đường theo Ngài là thập giá.
2. Có sự suy thoái. Chúng ta thấy điều này nơi
Giuđa rõ hơn hết. Chúa Giêsu đã thấy ông là người có thể dùng cho chủ đích
của Ngài. Nhưng thay vì trở thành anh hùng, Giuđa lại trở nên tên vô lại, và
đáng lẽ là thánh nhưng lại là một tên ô nhục. Câu chuyện của họa sĩ vẽ bức
tranh Bữa Tiệc Ly là một kinh nghiệm đáng sợ. Đó là một bức tranh khổng lồ,
đòi hỏi họa sĩ phải mất nhiều năm để vẽ. Tìm một người mẫu để vẽ Chúa Giêsu,
ông gặp một thanh niên có gương mặt đẹp đẽ, thuần khiết và siêu thoát, ông
thuê chàng làm người mẫu. Bức tranh cứ được bổ túc, ông vẽ hết môn đệ này đến
môn đệ nọ, một ngày kia, ông cần một người để vẽ Giuđa, mà ông có ý để vẽ sau
cùng. Ông đi ra, tìm trong số người hèn hạ nhất trong thành phố, đến cả nơi
hang ổ những kẻ xấu xa nhất. Cuối cùng ông gặp được một người, bộ mặt in hằn
dấu vết một kẻ trụy lạc vô cùng xấu xa. Ông thuê người này là mẫu. Khi bức
tranh hoàn tất, người mẫu nói với họa sĩ: “Trước đây đã có lần ông vẽ tôi
rồi”. Họa sĩ đáp: “Chắc chắn là không”. Người nọ bảo: “Ồ có mà, lần trước ông
đã vẽ tôi, ông dùng tôi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu”. Năm tháng đã tạo nên sự suy
thoái khủng khiếp. Thời gian thật bạo tàn, nó có thể cướp đi những lý tưởng,
những hăng say, những mơ ước và sự trung thành của chúng ta, có thể để lại
nơi chúng ta một đời sống ngày càng nhỏ nhoi thay vì càng cao đẹp. Nó có thể
lưu lại cho chúng ta một tấm lòng đã chai lỳ thay vì được rộng mở trong tình
thương của Chúa Giêsu. Cuộc đời có thể làm mất đi vẻ đẹp đáng yêu của chúng
ta. Nguyện xin Chúa cứu chúng ta ra khỏi tình trạng đó.
3. Có sự quyết định. Đây là cách Gioan viết lại
lời xưng nhận quan trọng của Phêrô tại Xêdarê Philipphê (Mc 8,27; Mt 16,13;
Lc 9,18). Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung
thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản là chẳng còn có ai
đang cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông, chỉ có Ngài mới có lời đem
lại sự sống đời đời.
103.
Lòng
trung thành của Phêrô căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Có
nhiều điều Phêrô không hiểu, ông cũng bối rối, lạc lõng như bất cứ ai khác.
Nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵn sàng hy sinh tính mạng. Nói
cho cùng, Kitô hữu không phải là một triết lý mà chúng ta chấp nhận hoặc một
lý thuyết buộc chúng ta phải trung thành. Nó là sự đáp ứng cá nhân với Chúa
Giêsu Kitô. Đó là lòng trung thành và tình yêu mà một người hiến dâng, vì tấm
lòng người ấy không cho phép người ấy làm gì khác hơn nữa.
|
104.
|
105.
ĐỨC TIN
VÀ SỰ TỪ KHƯỚC
NƠI CÁC MÔN ĐỆ |
106.
Chú
giải mục vụ của Alain Marchabour
|
107.
Phản
ứng:
108.
Nhiều
môn đệ liền nói: không thể tiếp tục nghe Người (c. 60).
109.
Nhiều
môn đệ rút lui và không còn đi với Người nữa (c. 66).
110.
Chúa
Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: Anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?
111.
Thưa
Thầy, chúng con biết đến với ai?
112.
Thầy có
những lời đem lại sự sống đời đời.
113.
Phần
chúng con, chúng con tin và nhận biết.
114.
Thầy là
Đấng Thánh, vị Thánh của Thiên Chúa.
115.
Chúa
Giêsu đáp: Thế mà một người trong anh em lại là quỷ.
116.
Trong
tiểu đoạn này xuất hiện những kết quả thảm khốc, từ bài diễn từ của Chúa
Giêsu: không phải là những người Do Thái xa rời Chúa Giêsu nữa, mà là các môn
đệ chính hiệu; và có đến hai lần, có “nhiều” môn đệ không đi theo Chúa Giêsu
nữa. Một cuộc khủng hoảng như thế trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và các
môn đệ được cả bốn sách Tin Mừng nhắc đến. Các sách Nhất Lãm đặt cuộc khủng
hoảng này vào lúc Phêrô tuyên xưng đức tin ở Xêdarê (Mc 8, 27-33). Trên thực
tế cả hai cảnh huống đều có điểm chung với nhau. Gioan, vẫn theo thói quen,
trình bày cảnh huống cách thoải mái hơn. Trong khi sử dụng từ “môn đệ”, thánh
sử muốn nhắc đến hoàn cảnh khủng hoảng tại cộng đoàn của ông. Tuy nhiên ông
cũng tạo điều kiện cho mỗi độc giả, một khi được mời gọi trở thành môn đệ,
nên lượng định những yêu sách của đức tin và vị trí trung tâm của Thánh Thể
trong thời điểm của Giáo Hội.
117.
Việc
nhấn mạnh vào thực Thánh Thể được nhắc đến trong tiểu đoạn 53-59 không nên
hiểu theo cách giải thích phù phép của bí tích: “Thần Khí mới làm cho sống,
chứ xác thịt chẳng có ích gì” (c. 63). Sự hiệp thông do bí tích có mục tiêu
cuối cùng đưa đến sự hiệp thông với Chúa Giêsu.
118.
Trong
sự thử thách vì lẽ phải khiến nhiều người bỏ đi, Chúa Giêsu yêu cầu những kẻ
thân cận nhất của Người thực hiện lại việc lựa chọn của mình ông Simon Phêrô,
người phát ngôn của nhóm Mười Hai, công bố sự gắn bó của mình bằng đại từ ở
ngôi thứ nhất số nhiều: “Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai? – Cùng với các
đồng nghiệp của mình, ông ở lại bởi vì Chúa Giêsu có “những lời đem lại sự
sống đời đời”. Nhờ ông, nhóm Mười Hai long trọng tuyên xưng đức tin của mình,
qua một tước hiệu chưa được nói đến: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, có nghĩa là
Đấng chiếm hữu chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thế nhưng bài trần thuật
lại kết thúc bằng việc nhắc đến kẻ phản bội. Như vậy, chương 6 quan trọng này
chấm dứt bằng một báo hiệu bi thảm, để hiểu rằng không bao giờ chiếm hữu được
sự trung thành, cũng như sự trung thành có thể ngã nhào trong sự phản bội.
|
119.
BÁNH
HẰNG SỐNG
|
120.
Chú
giải của Noel Quesson
|
121.
Đức
Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca -phác-na-um: “Ai ăn thịt Tôi
và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời... Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người
liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
122.
Chúng
ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống". Chúng ta sẽ tìm
hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một
nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:
123.
Đó là
sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
124.
Nhưng
cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố "Mười
Hai".
125.
Ở đây
chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh
sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị
tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã
đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là "môn đệ". Nhưng
các "môn đệ" này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức
Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa
số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ
nhoi còn lại.
126.
Tin
Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định
giúp ta hiểu về "bánh" của Người, "Bánh đích thực". Bởi
vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề
này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những
con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để "nhận lấy mà ăn
bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt
và máu của Người". Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó:
"ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn... ôi, nếu Giáo Hội có
lập trường như lập trường của tôi".
127.
Thực ra
chính "đức tin" là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là
một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại
điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.
128.
Nhưng
Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.
129.
Các bạn
thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước,
Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. "Đức tin"
khó khăn biết bao! Vì đức tin là "khước từ cách hiểu biết thông thường,
nhờ giác quan và lý trí, lý luận" để "tin vào một người khác"
đó là "tin mà không thấy", như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
130.
Người
bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được
ư?".
131.
Vâng
lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp
là động từ "Scandahzô" Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó
làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng
ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo
huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn
"biết" gì thêâm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy
đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn
cho ta thấy chướng. "Đức tin" không phải là một bài học được lặp đi
lặp lại, "nhưng" là một dấn thân trong cuộc sống". Đức tin là
một "thực hành có hiệu quả". Đức tin là một sự "thúc hối"
phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học,
để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng
những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin" thực sự, không phải là
đọc kinh Tin kính hay một "công thức" nào hay nhất do bộ óc văn
minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm
của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói "Người Kitô hữu
là người đi dự lễ", thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào
cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa
Giêsu. Đức tin đó là một "quyết định". Quyết định này bao gồm hai
khía cạnh:
132.
1 “Ăn
bánh hằng sống”.
3.
"Sống
đời mình bằng yêu thương hữu ích".
133.
Thế khi
anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
134.
Làm sao
người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không
chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay
là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho
chúng ta một "mầu nhiệm" khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn
dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa.
"Thần Khí" trở thành xác phàm.
135.
Đây
thực là một mầu nhiệm "thần linh" (không ai đã thấy Chúa) và vì thế
con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng
"hữu thể thần linh của Người". Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước
kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này.
Câu nói của Người hầu như chưa dứt: "Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên
nơi mà Người đã ở trước thì sao?".
136.
Vâng,
xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện
tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi.
Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã
lãnh nhận từ Chúa Cha. "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi
sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như
vậy".
137.
Thực sự
chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như
động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì?
138.
Vậy thì
“sự sống" của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con
người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không
thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này
thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
139.
Thần
khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì
140.
Lạy
Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ
cho con vấp phạm và nghi ngờ.
141.
Những
lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có
những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào
không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
142.
Hơn mọi
lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của
Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao
có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người
vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội,
là giải phóng... tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của
Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi
là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một
phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán
nhận ra "ngang qua xác thể" nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí
và Sự sống.
143.
Người
nói: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa
Cha không ban ơn ấy cho".
144.
Chúng
ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình
trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.
145.
Ba nhân
vật ngồi chung quanh một “cái bàn" và chỉ dùng một "chén". Tam
vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba
ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy
nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia
bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của
Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ
dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng
xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía
trước bàn, để ngắm nhìn "hình" này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được
ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta,
được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người
không thể ép buộc ai.
146.
Từ lúc
đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi
Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?".
147.
Dường
như Chúa nói': "Tôi không giữ anh em, anh em được tự do”. Trong cuộc
xung đột đang xảy ra giữa những "môn đệ ra đi" và những người ở lại
với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn... chúng ta
hãy nhớ lời của Chúa: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?
“ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con,
chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
148.
Đây là
những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: "Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến
với ai bây giờ". Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với
họ, Đức Giêsu là Đấng "không ai có thể thay thế được". Tuy nhiên
chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể
soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống
là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó "bước đi trên mặt nước hồ
đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố" (Ga 6,16-21). Thân thể này không
có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại
sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng
ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!
|
149.
THẦY CÓ
NHỮNG LỜI BAN
SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI |
150.
Chú
giải của Fiches Dominicales
|
151.
VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Khi mọi người đã bỏ đi, Đức Giêsu lại đặt
một câu hỏi hết sức quyết liệt
152.
Ở
Capharnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai.
Sau “người Do thái" là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt “nhiều môn
đệ" của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong
thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói: “Lời này chướng tai quá, ai mà
tiếp tục nghe nổi?”.
153.
Không
làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người
nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn
mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha.
Ngài nói với họ: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được
ư? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”.
154.
Lần này
thì quá lắm rồi! Tác giả Tin Mừng viết tiếp: “Từ lúc đó rất nhiều môn đệ rút
lui, không còn đi với Người nữa”.
-
Chính
lúc đó, lúc mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang “nhóm mười
hai” (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên.
Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát: hoặc bỏ đi hoặc ở
lại và theo Ngài cho tới Lễ Vượt Qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền
Cêsarê Philipphê (Mt 16,15; Mc 6,14-15; Lc 9,7-8): “Cả anh em nữa, anh em
cũng muốn bỏ đi sao? "
2. Và lời tuyên xưng đức tin của Simon Phêrô:
155.
Simon-Phêrô
nhân danh “nhóm mười hai" (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự
gắn bó của các ông với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi với
ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con
tin và biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
156.
+ Thánh
Phêrô bắt đầu: “Chúng con biết đi với ai?”. Tác giả Tin Mừng đặt trên môi
Phêrô động từ “đi" là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự “rất nhiều
môn đệ" bỏ rơi Thầy.
157.
Rõ
ràng, ngược lại với đám đông môn đệ đó, “nhóm mười hai” đã dấn thân theo
Thầy.
158.
+ Chính
việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin
không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức
Giêsu: “Thầy có…Thầy là”. X. Léon-Dufour chú giải: Lời tuyên xưng đức tin của
“Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa mạc khải: Lời Ngài là “sự sống đời
đời". Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà
các môn đệ khác xét là không thể nhận được. Chắc chắn, theo tình hình câu
chuyện được kể lại trong Tin Mừng, ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn
những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất, đó là sứ
điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. ("Lecture de Evangile selon
Jean", tập 2, Seuil, tr. 1 88)
159.
Và
trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa
từng có: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa", nghĩa là Đấng mang trong
chính mình một cái gì thánh thiện của chính Thiên Chúa.
160.
X
Léon-dufour đặt câu hỏi: “Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì? Đây là
một tên gọi hãn hữu, khó giải thích. Phêrô không dừng lại một tên nào mà Đức
Giêsu đà sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh trường sinh, Đấng
Thiên sai, Con Người); thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền
thống nào về sự mong đợi Đấng Cứu Thế trong đạo Do thái... Điều đặc biệt ở
đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách của riêng ông. Phải chăng
ông lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu
“Đấng Thánh của Ngài", theo bản dịch Bảy mươi? (xem Tông đồ công vụ
2,27). Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người
cầu nguyện; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức
Giêsu với Thiên Chúa? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha
(5, 19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh
hiến" (10,6; 17,19). Danh hiệu “Đấng Thánh Của Thiên Chúa" cao vượt
hơn danh hiệu "Thiên Sai” rất nhiều và thích hợp với danh hiệu “Con
Thiên Chúa" mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mátthêu 16, 16" (Sách
đã dẫn, tr. 189)
-
Trong
cơn khủng hoảng Giáo hội hiện phải đương đầu, các Kitô hữu ngày nay cũng đang
đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài:
câu hỏi về căn tính con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của
Giáo Hội. Dựa trên đức tin của Simon-Phêrô và nhóm Mười Hai, chúng ta có
cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà thế
giới đang mong đợi không?
161.
BÀI ĐỌC
THÊM
1.
Đức
tin: một cuộc mạo hiểm
162.
(H.Vulliez,
"Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDE3, tr.141-142)
163.
“Cuộc
khủng hoảng rất trầm trọng. Nó lan tới cả những người thân cận với Đức Giêsu.
Đây là một khủng hoảng về niềm tin đưa đến mọi đổ vỡ. “Diễn từ bánh trường
sinh”, một trong những đỉnh cao của sứ điệp, mang dáng dấp một thất bại thảm
não. Đủ rồi! không hiểu biết, thất vọng, bối rối vọng lên từ những tiếng xầm
xì... Trước đám người lạc hướng hoặc thù nghịch này, sao Đức Giêsu không bớt
giọng một chút? Ngài có thể nắm họ trong tay nếu làm họ cảm động. Nhưng không
thế! Không có một nhượng bộ nào! Không có một dễ dãi nào để người ta dễ tin
vào chân lý hơn.
164.
Đức
Giêsu thậm chí đã sẵn sàng để nhìn cảnh các tông đồ bỏ đi Đối với Ngài, trung
tín với Chúa Cha, với Lời, nguồn mạch của tất cả hiện hữu, là trên hết. Chính
Ngài là Ngôi Lời trở thành xác thể; là Lời Thiên Chúa hiện thân trong xác
phàm. Rõ ràng chính đó mới là điều không thể chấp nhận được.
165.
“Còn
anh em, anh em có muốn bỏ đi không?" Bỏ đi, không ở lại là một tình
huống rất có thể xảy ra, ngay cả đối với những người bạn thân nhất. Ngài còn
đưa ra câu hỏi lấp lửng như thế chất vấn thính giả của mình: “Thế thì khi anh
em thấy Con người lên nơi ở trước kia thì sao?"
166.
Nicôđêmô
đã không còn chỗ bám víu để rồi cuối cùng hiểu được ông phải “sinh lại"
cách nào. Ông đã tin. Chỉ có Đức tin mới soi sáng cho chúng ta hiểu xa hơn
những gì từ ngữ nói lên, những gì chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu, những gì
chúng ta tưởng tượng, kể cả những gì chúng ta tin rằng mình đã tin. Xa hơn?
'Người ta ngừng bước... hãy đi xa hơn. Người ta ngừng bước khi không còn lắng
tai nghe... hãy vượt xa hơn. Người ta bám lấy những ý kiến riêng, kể cả những
thành kiến riêng. Người ta từ chối không chịu nhúc nhích, không chịu để mình
bị thúc ép.
167.
Tin,
chính là nhận ra ánh sáng le lói bên kia những từ ngữ, bên kia những nghi lễ.
Tin cũng còn là ‘cảm’ Lời và được nuôi dưỡng bằng Lời.
2.
Tin vào
Đấng Thiên Chúa sai đến và bước theo Ngài
168.
(J.
Guillet. trong "Đức Giêsu trong niềm tin của những môn đệ đầu
tiên", Desclée de Brouwer. 1995, tr.82-84).
169.
“Giữa
sự tuyên xưng đức tin tại Capharnaum và tại Cêsarê có những điểm giống nhau
lạ lùng, tuy nhiên giống về hoàn cảnh và nội dung hơn là ngôn từ (...) Đó là
lúc khủng hoảng, là giây phút chọn lựa (...)
170.
Chịu
ảnh hưởng của Maccô nên ngay khi bắt đầu câu chuyện, các tác giả Tin Mừng
nhất lãm đã cho thấy một câu hỏi nổi cộm về nhân vật Giêsu. Đứng trước uy thế
phát xuất từ lời Người nói, sức mạnh từ các phép lạ Người làm, và nhất là lời
Người khẳng định mình là Bánh Hằng Sống, mọi người thắc mắc hỏi nhau: Đức
Giêsu là ai? Câu hỏi này có liên quan trực tiếp đến số phận của dân Do thái
và số phận của chính Đức Giêsu, bởi vì sự chúc phúc mà Abraham lãnh nhận đã
gắn liền số phận của Israel với số phận của tất cả mọi dân tộc. Đó là vấn đề
phần rỗi của cả nhân loại. Trung tâm của vấn đề trọng đại và lớn rộng này là
nhân vật Giêsu và sự đón tiếp Người. Đây cũng là vấn đề đức tin: dưới ánh
sáng của Thiên Chúa, các tác giả Tin Mừng nhất lãm trình bày làm thế nào
Phêrô là người đầu tiên đã biết trả lời cho Đức Giêsu và nhờ đó dẫn Giáo Hội
vào con đường cứu rỗi.
171.
Nơi
Gioan. với cách trình bày khác, câu trả lời của Phêrô chứa đựng cùng một nội
dung và phát xuất từ cùng một niềm tin: Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa,
Thầy từ Thiên Chúa mà đến, Thầy thuộc về một thế giới mà loài thụ tạo không
thể tiếp được thế giới của mọi ước vọng, thế giới của Thiên Chúa Cực Thánh.
Tất cả mọi hình thức đức tin đều giống nhau về điểm này. Nhưng theo cách
riêng của mình, Tin Mừng Gioan đã đem đến cho lời tuyên xưng đức tin này một
tầm mức hết sức quan trọng. Lời tuyên xưng đó được đặt vào một bối cảnh hết
sức rộng lớn. Bối cảnh đó là số phận dân Israel và lịch sử của họ. Suốt
chương VI, rất nhiều chi tiết cho thấy những diễn tiến từ lúc Đức Giêsu sang
bờ bên kia biển hồ Galilê (6, 1) cho đến lúc Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức
Giêsu khen ông đều diễn ra song hành với những biến cố lớn của sách Xuất hành
diễn tả sự ra đời của dân tộc Israel.
172.
Những
điểm tương cận đó mang một ý định rõ rệt. Đàng sau những trùng hợp này, Gioan
lưu ý đến mối liên hệ sâu xa giữa biến cố Xuất Hành, giải phóng dân riêng,
vượt biển Đỏ, băng qua sa mạc, và kinh nghiệm mà Đức Giêsu muốn các môn đệ
Người trải qua. Theo Môsê ngày xưa và theo Đức Giêsu hôm nay tự căn bản, tiến
trình cũng là một. Giữa những đồng bào thù nghịch và trong một tương lai đen
tối, vấn đề là nhận ra, nơi con Người mà bề ngoài như bất lực kia, sự hiện
diện của Thiên Chúa và quyền năng Người, cũng như nhận ra sự đảm bảo một
tương lai hạnh phúc. Vấn đề cũng là bước theo Người, và sống niềm tin như
Abraham xưa kia và Đức Giêsu Kitô ngày nay.
3.
Trở
thành môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.
173.
(Thư
Hội Đồng Giám Mục gởi cho người công giáo Nước Pháp, Cerf, tr. 19-21)
174.
"Vào
cuối thế kỷ XX này, người công giáo Pháp ý thức rằng mình đang phải đối đầu
với một tình thế nghiêm trọng. Triệu chứng của tình thế này thì nhiều và đôi
khi đáng ngại. Dĩ nhiên, không được quá thổi phồng cơn khủng hoảng hiện nay:
báo cáo của Hội đồng Giám mục về "trình bày đức tin cho thế giới hôm
nay" cho thấy ngay giữa những khó khăn, nhiều tín hữu đã đương đầu với
thử thách đức tin. Họ là những người đã tìm thấy nơi Giáo hội những lý do để
tin, để đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống, và để dấn thân lãnh nhận
trách nhiệm trong đời sống xã hội.
175.
Nhưng
không phải vì thế mà chúng ta bưng bít những dấu hiệu đáng lo, đó là số người
đi lễ nhà thờ giảm sút, ký ức Kitô giáo phần nào mất đi, và sự phục hồi khó
khăn. Ngày nay, trong xã hội chúng ta, chính chỗ đứng và tương lai của đức
tin bị đặt thành vấn đề.
176.
Chính
trong bối cảnh xã hội này, từ Tin Mừng, chúng ta có thể chọn lựa những gì phù
hợp để giúp thế giới phát triển, nhưng cũng không quên Tin Mừng có thể phản
bác lại trật tự của thế giới và xã hội khi trật tự này trở nên vô nhân.
177.
Tóm
lại, chúng tôi nghĩ rằng thời buổi hiện tại không bất lợi cho việc loan báo
tin Mừng hơn những thời kỳ trước đây. Trái lại, tình thế nghiêm trọng hiện
nay càng thúc đẩy chúng ta trở về nguồn của đức tin cũng như thúc đẩy chúng
ta trở nên những môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô một
cách cương quyết hơn và dứt khoát hơn".
|
178.
QUYẾT
ĐỊNH CỦA ĐỨC TIN
|
179.
Chú
giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
|
180.
CÂU HỎI
GỢI Ý
1.
Giai thoại
này có tầm quan trong thế nào trong đời Chúa Giêsu và trong viễn tượng thần
học của Gioan?
2.
Câu 62
ám chỉ cái gì bí mật?
3.
Nếu
"xác thịt không ích gì”, thì xác thịt của Con Người mà ta phải ăn để
được sự sống vĩnh cửu có ích gì không? Phải chăng có mâu thuẫn?
1. Diễn từ về Bánh sự sống là nguồn gốc của một
cuộc khủng hoảng sứ vụ tại Galilê.
181.
Các Tin
Mừng Nhất lãm cũng nhận rằng một khủng hoảng như thế đã được khai mào trong
quê hương Chúa Giêsu ngay giữa bà con Người, sau khi Người giảng dạy trong
các hội đường của họ (Mt 13-54; Mc 6,1; Lc 4,15). Ở đó cũng vậy, bác luận căn
bản phát xuất từ chỗ người ta biết quá rõ nguồn gốc của Người (6,42).
182.
Gioan
đã mô tả khủng hoảng này cho đến cao điểm của nó. Ông thấy trong đó không
phải chỉ là một sự chống đối thoáng qua. Luôn luôn cái trước trình thuật, ông
rút ra từ hoàn cảnh đang mô tả những triệu chứng của sự chối từ quyết liệt,
của sự bội phản Giuđa và của âm mưu người Do thái. Con Người đến loan báo
thời đại cánh chung, nên thái độ người ta đối với Người mang một giá trị vĩnh
cửu. Ngay từ giai đoạn hôm nay, các lập trường đã có tính cách quyết định và
Tin Mừng, một cách nào đó, có thể trực tiếp nhảy qua chương 13, qua chứng từ
về "Giờ"nhưng chương ở giữa 7 - 12. chỉ đề cập đến những giờ cuối
cùng của cuộc đời Chúa Giêsu là Chúa Giêsu quá biết rõ là việc mặc khải của
mình cho người Do thái hầu như sẽ vô ích (9,4; 11,9; 12.35). Căn cứ vào những
điều đã nhận xét, Người có thể lên án người Do thái ngay bây giờ (8,26.50).
Sở dĩ Người không làm chuyện đó và vẫn tiếp tục công việc mặc khải, ấy chỉ vì
ngày giờ của Người đã được ấn định bởi Chúa Cha. Dân cứng tin sẽ chỉ bị phán
xét khi nào giờ của Người đến (12,31). Trên nguyên tắc, bản án đã được tuyên
bố rồi, song chưa có uy lực quyết tụng (9,39). Việc mặc khải của Con Người,
đáng lẽ phải là một sự trao ban sự sống vĩnh cữu, thì thực tế lại trở nên một
phán quyết truất hữu, không xâm nhập được vào tận đầu óc của người Do thái
luôn khép kín trước mặc khải thần linh và cánh chung đó. Thế mà sự từ chối
mặc khải cánh chung tất yếu bao hàm một phán quyết cánh chung. Do đấy, nảy
sinh một sự mâu thuẫn: một đàng, đây là cơ may cuối cùng của người Do thái,
đàng khác hạn kỳ để chọn lựa sẽ chỉ hết vào Giờ Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu chẳng cần phải nghe những gì
người Do thái và các môn đồ giả nói mới biết (x. 5,6) họ không đồng ý với
Người. Phải chăng việc ám chỉ đến cái chết của Người và đến ý nghĩa cứu chuộc
của cái chết ấy làm cho họ vấp phạm?
183.
Đúng!
Sau này cũng vậy, mặc dù đã được báo trước (16,1), họ vẫn coi cái chết của
Người là một cớ vấp phạm (Mc 14,27; Mt 26,31). Chúa Giêsu đã làm gì với mức
độ phát triển của đức tin họ như thế? Người có tìm cách trấn an họ bằng cách
giải thích sao cho vấn đề trở nên dễ chấp nhận hơn chăng? Chắc chắn đó không
phải là thói quen hành động của Chúa Giêsu trong Tin mừng thứ tư. Trái lại,
đứng trước thính giả không hiểu lời Người, Chúa Giêsu thường phản ứng bằng
cách ám chỉ đến một mặc khải quan trọng hơn là mặc khải về tận cùng của cuộc
sống bản thân. Trước đó, trong diễn từ về bánh, người ta cũng đã tìm được một
ám chỉ về cái chết của Người (6,51) và chính lời ám chỉ này đã gây nên cuộc
bàn cãi dẳng dai giữa người Do thái. Lời ám chỉ thứ hai chỉ là để xác nhận
lời ám chỉ thứ nhất. Không rút lời lại, cũng chẳng nhượng bộ trước bác luận
của họ, Chúa Giêsu đưa ra một ám chỉ mới liên quan đến một giai thoại cuối
đời Người: Thăng thiên. Và lời ám chỉ này nặc khải yếu tố thần linh mà ta
phải giả thiết là có nếu muốn hiểu ý nghĩa cứu sống của cái chết Chúa Giêsu.
Như thế, hai khía cạnh của Giờ được đưa ra ánh sáng: khía cạnh mặc khải cũng
như khía cạnh cứu chuộc (3, 13-15). Và đồng thời cái lý do cuối cùng của việc
"từ trời xuống" cũng được giải bày minh bạch trong chương 6 Gioan.
Bởi vì việc lên trời mang lại mặc khải hoàn toàn về Con người xuống thế là về
nguồn gốc thần linh của Người: vào lúc đó Chúa Giêsu mới đảm nhận chức vụ Con
Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của người mới hoàn toàn tỏ lộ. Vì Người
lại lên nơi đã ở từ trước. Như vậy Thăng Thiên vừa là mặc khải về Con Người
(1,51; 3,13; 6,62) vừa là mặc khải về Con (20, 17). Đối với Phaolô cũng vậy:
giây phút cuối đời Chúa Giêsu, hay đúng hơn sự Phục sinh của Người, là lúc mà
Chúa Giêsu trở nên hay lại trở nên thực sự chính Người: bấy giờ Người trở nên
Chúa, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4) thu hồi lại những ưu phẩm của thần
tính Người (Pl 2,6-11) Sự cứu rỗi là nhận biết Chúa Giêsu ấy (2Cr 5,16). Việc
giải thích các câu 53-63 như vậy thật rất chặt chẽ.
184.
Một vài
nhà chú giải đã tìm cách giải thích các câu này theo một đường hướng khác
bằng cách xem mấy chữ "Và khi các ngươi thấy Con Người lên nơi Người đã
ở trước" như một lời tiên báo việc đóng đinh trên thập giá (Cyrille,
Maldonat, Tolet, Schanz) vì xét rằng, đối với Gioan. Giờ của Chúa Giêsu là
giờ Người bị nâng cao trên thập giá và được vinh hiển. Nhưng ở đây, lối giải
thích này ít xác đáng vì hai lý do:
185.
1/ Động
từ amabainein "lên" không bao giờ tương đương với động từ
hupsôthênai "giương cao" trong Tin mừng thứ tư cả (3,14; 12,32-34)
186.
2/ Việc
gương cao trên thập giá không đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Người đã ở trước. Vì
thế, hình như bắt buộc phải hiểu nghĩa Thăng thiên.
187.
Ý kiến
này được đa số chấp nhận. Người ta cỏn có thể tranh luận về cách thức bổ túc
câu này, là câu chưa chấm dứt và do đó có vẻ tối nghĩa, có lẽ do chủ ý. Nhưng
dầu sao, chính mầu nhiệm Thăng Thiên sẽ đưa ra giải đáp đúng nhất cho các khó
khăn.
3. “Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không
ích gì" (c 63)
188.
Phải
chăng những lời này muốt bảo: chỉ có Thần khí mới ban sự sống còn xác thịt
của Con Người thì không có ích chi? Thế tại sao lại nhấn mạnh đến việc cần
thiết phải ăn thịt ấy trong diễn từ về bánh? Câu này thật là một skandalon,
một chướng ngại cho nhiều nhà chú giải.
189.
Người
ta năng gặp cách chú giải câu đó như sau: "Xác thịt không ích gì"
có nghĩa là xác thịt vật chất của Chúa Giêsu sẽ chẳng có một công hiệu cứu
rỗi nào nếu không có "thần khí tác sinh"; điều này giả thiết sự
sống lại của Chúa Giêsu, việc Người vượt qua tình trạng vinh hiển và thiêng
liêng, và việc Thần khí can thiệp trên các yếu tố được thánh thể hóa để làm
thành thịt và máu của Đấng Sống lại. Nhưng lối giải thích này không lưu ý đến
sự mạch lạc toàn bộ của diễn từ. Thật vậy từ c.53 đến 56, Chúa Giêsu nói về
thịt Người hoặc thịt của Con Người một cách rất minh nhiên và quả quyết không
chút dè dặt rằng đó thật là một của ăn (c.55) cung cấp sự sống vĩnh cửu (c
54). Người ta khó mà hiểu làm sao nơt c.63a, Người nhắc lại cùng một thực tại
ấy khi nói về thịt mà chẳng xác định là thịt Người, và liều mình tương đối
hóa lời tuyên bố của Người trước đó mấy câu. Sau hết, ngay tiếp theo c.63a
Người bảo: "Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống''. Câu
này cho thấy rõ ràng quyền lực Chúa Giêsu đang có khi Người tuyên bố nó ra.
hình như không chắc là ở đây Người bảo thịt Người chẳng lợi ích gì cả, vì như
thế thì không còn mạch lạc giữa lời nầy với các lời trước.
190.
Thật
ra, hợp lý hơn khi giả thiết rằng trong c.63, không còn vấn đề thịt Chúa
Giêsu, thịt được hy tế cho chúng ta, dấu chỉ hữu hiệu của tình thương Người
và lương thực nuôi sống chúng ta nữa, nhưng là xác thịt nói chung, là nhân
tính chúng ta, nhân tính bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón
nhận ơn cứu rỗi và chân lý do Chúa Giêsu mang đến (x. Mt 16;17). Bản văn
không bàn tới sự đối nghịch giữa "Thịt Ta -Thần Khí", nhưng tới sự
đối nghịch, theo quan niệm sêmita, giữa Thần khí - xác thịt là ngày nay ta
đến tả dưới hai ý niệm nhân loại thần linh (x. 3,6). Các người Do thái bực
tức trước những lời nói của Chúa Giêsu. Vì, noi theo người đại tiện nổi tiếng
của họ là Nicôđêmô, họ chỉ xét mọi sự dưới khía cạnh phàm trần mà không để ý
gì đến những khả hữu tính thần linh. Khi phê phán những lời của Chúa Giêsu
trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng cũng như trong lối giải thích của Gioan
trên những nền tảng nhân loại, thì những lời nói ấy hiển nhiên là phi lý. Nhưng
đọc những lời nói đến sự sống vĩnh cửu trong một viễn tượng nhân loại thì lại
còn phi lý hơn.
191.
CHÚ
GIẢI CHI TIẾT
192.
"Nhiều
môn đồ nói ..."
193.
Tiếng
Hy lạp pelloi có thể hiểu là ‘nhiều' hay ‘khá nhiều’, nghĩa đầu mạnh hơn
nghĩa sau; ở đây cũng như ở chỗ khác, không thể nào xác định được. Cũng chẳng
rõ là số "môn đồ'' ấy có bao hàm nhóm Mười hai hay không. Tuy nhiên, dựa
vào việc Phêrô xem ra nhân danh nhóm Mười hai để minh định lập trường, nên có
lẽ không được liệt nhóm Mười hai vào số các môn đồ lẩm bẩm kêu ca Chúa Giêsu,
ngoại trừ Giuđa, vì Chúa Giêsu đã gọi y là "quỷ sứ" (6,70).
194.
"Lời
chi mà sống sượng thế"
195.
Không
phải là khó hiểu, nhưng đúng hơn là khó nuốt, khó chấp nhận.
196.
"Vì
chưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết kẻ sẽ nộp Người là ai"
197.
Không
chắc Gioan muốn nói với độc giả là Chúa Giêsu đã biết sự bội phản tương lai
của Giuđa ngay khi Người gọi ông làm sứ đồ. Tiếng từ đầu không buộc phải hiểu
như vậy; hơn nữa một sự hiểu biết như thế của Chúa Giêsu sẽ khiến việc chọn
Giuđa thành khó giải thích, đó là chưa kể nó không mấy phù hợp với bản tính
nhân loại thực sự của Chúa Giêsu. Nếu cho rằng Chúa Giêsu chỉ khám phá ra là
Giuđa không đáng tin cậy sau khi đã sống thân mật với ông một thời gian, thì
tiếng ngay từ đầu mới có thể biện minh được.
198.
"Từ
đó"
199.
Thành
ngữ ektoutou, ngoài nghĩa thời gian, còn có thể có nghĩa nguyên nhân (như
trong các chỉ cảo): Gioan muốn bảo rằng sự đào ngũ đông đảo mà ông đang đề
cập có nguyên nhân trực tiếp là giáo thuyết mà Chúa Giêsu vừa đề ra.
200.
"Ngài
có những lời đem đến sự sống đời đời"
201.
Nói cho
đúng, phải dịch câu này như sau: "Ngài có nhiều lời ban sự sống đời
đời" (TOB). Nhưng ở đây, như thường thấy trong Gioan, việc thiếu quán từ
có lẽ là do ảnh hưởng của căn ngữ sêmita. Do đó, cách dịch của BJ có thể bào
chữa được.
202.
KẾT
LUẬN
203.
Các lập
trường đã chọn lựa xong, các phe nhóm đã phân chia rõ ràng. Giuđa và người do
thái có thể chuẩn bị vụ án Chúa Giêsu. Thật ra, chính Con người sắp xử án dân
bị loại bỏ của Thiên Chúa, giữa niềm vui của ngày lễ Lều Trại và lễ Đền thờ
là hai đại lễ của dân "được tập họp" của Thiên Chúa (Ga 7-10).
204.
Ý HƯỚNG
BÀI GIẢNG
1. Phần kết luận của diễn từ về bánh sự sống
dẫn đưa chúng ta tới cao điểm của cơn khủng hoảng từ đó phát sinh cuộc Khổ
nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã hỏi một số lời bắt người ta phải chọn lựa: hoặc
tin vào Người, hoặc từ chối không tin.
2. Sở dĩ một số môn đồ kêu ca khó chịu và từ
chối tin, là vì họ có một cách thức hiểu lời Chúa Giêsu. Hoặc họ từ chối,
hoặc đối với một vài kẻ, chưa đến giờ tin, tất cả là vì họ không hiểu lời
Chúa Giêsu trong Thần khí. Họ chẳng chịu vượt qua sự hiểu biết vật chất và
xác thịt về những lời của Người. Tại sao vậy? Vì tâm hồn họ không ở trong
tình trạng đón tiếp. Tâm trí họ đóng kín trước điều mới mẻ. Họ giam mình
trong thế giới vật chất mà họ coi là dễ chấp nhận hơn. Điều Chúa Giêsu nói
không thể nào có được xét theo con người, thành thử họ loại bỏ. Điều bất hạnh
cho họ nằm trong câu hỏi: Điều gì không thể được đối với Thiên Chúa? Ở đây,
họ tỏ ra thiển cận, chỉ muốn phê phán điều có thể và không có thể; họ chẳng
có ý định đi tìm quan điểm mà từ đó một số tâm hồn đơn sơ tự nhiên thấy được
lối vào trong cái vô biên của thực tại, thực tại Thiên Chúa. Chúng ta đang
đứng trước một trường hợp điển hình của sự tự mãn ngoan cố và hẹp hòi của trí
tuệ con người chỉ muốn phủ nhận cái bên kia những chân trời của nó. Các sứ đồ
dã có được phản xạ cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thần khí trợ
giúp, họ đã vượt thắng được sự khó hiểu bằng cách trung thành với Chúa Giêsu
chỉ Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa".
3. "Nhưng trong các ngươi, có những kẻ
không tin". Hãy tự vấn xem câu này có liên can đến chúng ta, là những
tín hữu của thế kỷ XX không? Việc đọc và nghe lời Chúa Giêsu làm chúng ta đặt
lại vấn đề. Chúng ta có cho những lời ấy là quan trọng, có thực sự muốn lao
công vì "lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời" (6,27), có
muốn tiếp nhận lương thực ấy bằng cách ăn uống Thịt Máu của con Người và
thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Người không? Nếu không, chúng ta hãy thành
thật thú nhận: "Lời chi mà sống sượng thế ”. Ai nghe được (c 60) và hãy
rút ra những hậu quả. Chúng ta đừng hy vọng đánh tráo: "Bởi chưng ngay
từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Người.
Và Người nói: Vì thế Ta đã bảo các ngươi: không ai có thể đến với Ta trừ phi
là đã được Cha ban cho". Lúc chúng ta quyết định, thì Chúa Giêsu nhắc
lại rằng rốt cuộc đức tin của chúng ta không thể căn cứ vào những nhận xét,
những suy diễn hoặc những cảnh tượng chủ quan, những căn cứ vào mặc khải mà
Thiên Chúa ban cho chúng ta về nhân cách đích thực của Chúa Giêsu và về tương
quan giữa ta với Người.
4. Thánh Thể là bí tích và là chiến thắng của
sự bé nhỏ Tin Mừng: trong Thánh Thể chúng ta là con và lại được trở thành con
cái Thiên Chúa. Vì để tin rằng Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình bánh,
thì phải có một tâm hồn của trẻ nhỏ, cởi mở đón nhận những điều diệu kỳ của
Thiên Chúa. Hãy nhớ lại câu nói rất mạnh của thánh Tôma: "Chúng ta luôn
luôn như là đứa bé trong lòng mẹ trên trần gian này". Chúng ta đang ở
vào thời gian con nhộng. Trong thế giới bên kia, con bướm sẽ ra khỏi bóng tối
của nó và sẽ triển nở trong ánh sáng chan hòa.
|
205.
DỨT
KHOÁT THEO CHÚA
|
206.
SƯU TẦM
|
207.
Sau khi
rao giảng về Bí tích Thánh thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã
lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa
bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường
dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
-
Còn
chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
208.
Và như
thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên
cùng Chúa:
-
Lạy
Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban
sự sống đời đời.
209.
Hẳn
chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa
Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
-
Người
ta bảo con người là ai?
210.
Các ông
đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
-
Người
thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào
đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
211.
Có lẽ
lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các
ông phải bày tỏ lập trường:
-
Còn các
con, các con bảo Thầy là ai?
212.
Và
Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
-
Thầy là
Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
213.
Xuyên
qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn
bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
-
Ai yêu
thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn
đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ
kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta,
phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
214.
Sở dĩ
như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa
với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ
không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
215.
Cựu ước
có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi
tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
-
Hôm nay
các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các
thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ
phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
216.
Bấy giờ
dân chúng trả lời rằng:
-
Không
hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức
Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai
Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi
suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê
vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
217.
Có lẽ
giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái
thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì
mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời
chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường
xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa
muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại
vừa muốn phạm tội.
218.
Chúng
ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa
tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông
trả lời:
-
Con
muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để
khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.
219.
Hãy có
một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả
tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn
giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó
là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.
221.
Một số
người khi nghe ai nói về một điều gì khó tin thì nói: “Khi nào tôi thấy, tôi
mới tin”. Nhưng xét theo lý luận, thì câu đó không hợp lý. Bởi vì, nếu một
người xem thấy sự việc, thì người ấy đã biết rồi. Đối tượng của lòng tin
tưởng là những gì không có trước mặt mình.
222.
Trong
Tin Mừng, chúng ta cũng thấy trường hợp tương tự như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu
nói với các môn đệ: “Nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì
sao?” có nghĩa là “Phải chăng các con chỉ tin khi thấy bằng chứng rõ ràng xác
minh Ta là Đấng nào?” Chúa Giêsu biết một số môn đệ của Người đi theo Người
chỉ vì những niềm an ủi mà họ nhận được, nhưng thiếu một đức tin chân thành
vào Người.
223.
Qua lời
tuyên bố về bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã tách biệt những người đi theo
Người cách giả dối ra khỏi đoàn môn đệ chân thành. Vì thế, chúng ta cần nhớ
rằng đức tin đích thật được tỏ lộ khi dường như không có một lý lẽ gì giúp
cho chúng ta tin.
224.
Điều
này cũng là tiêu chuẩn cho đức tin của chúng ta. Khi thuận lợi, chúng ta dễ
dàng ca tụng, cám ơn Chúa. Nhưng chúng ta phản ứng thế nào và nói những gì,
khi chúng ta gặp nhiều khó khăn và đau khổ trong cuộc sống, và dường như tình
yêu và sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn nữa?
225.
Lạy
Chúa Giêsu, con tìm kiếm chính Chúa chứ không phải những ơn huệ của Chúa. Xin
giúp con tha thiết yêu mến Chúa chứ không phải lo tìm những an ủi và phần
thưởng.
|
226.
BÁNH
THÁNH THỂ
|
227.
SƯU TẦM
|
228.
Ba bài
Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh
ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được
thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna
mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của
ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được
sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ
đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói,
nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh
hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.
229.
Bài Tin
Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ
nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm.
Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người
Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau
như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải
thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ
mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như
vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ,
mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan
rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân
tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ
ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ
Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời
ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời
tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào
sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.
230.
Như
vậy, qua bài giảng về bánh hằng sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì
thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi.
Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố
của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm
an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào
lời Ngài.
231.
Nhìn về
chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành
rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải
đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn
đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa
vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để
mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp
hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:
232.
Thời vua
Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất
sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng
đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công
giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa
tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn
quyền mời Ma - ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên
chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng
nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công
giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có
phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người
Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ
để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”.
Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục
cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa
Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh
gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói:
“Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại
ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề
trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh
nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày
hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma - ranh đã đổ máu vì đức
tin Công giáo.
233.
Trong
những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh
dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh
Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới
ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta
cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình
thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không
được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì
thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.
234.
Trong
cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị
bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những
thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin
Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua
những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.
|
235.
THEO
CHÚA
|
236.
SƯU TẦM
|
237.
Bài Tin
mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm mười hai
nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giả thích thêm. Suốt
cuộc nói chuyện, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với
Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà
nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái
khác: Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe cho nổi. Họ lẩm bẩm với nhau như
thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích
cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài.
Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong
vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Ngài từ muôn thưở.
238.
Khi
nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Không
những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều
người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm
mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng
của họ thế nào? Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ
không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có
những lời ban sự sống đời đời. Như vậy Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên
lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: Ngài là con Thiên Chúa.
239.
Còn
chúng ta thì sao? Đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích
thân chọn lựa Chúa. Là Kitô hữu, tức là chấp nhận đi theo Chúa, Đấng không
những ban cho chúng ta sự sống đời này, mà còn ban cho chúng ta sự sống đời
đời nữa.
240.
Trong
cuộc sống thường ngày, chúng ta phải có niềm tin. Chẳng hạn đau bệnh, chúng
ta tìm đến thày thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của
ông ta…Là Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà còn
phải có đức tin nữa. Vậy làm sao có được đức tin? Pascal nói: Muốn có đức
tin, bạn phải quì gối xuống và cầu nguyện.
241.
Mẹ
Têrêsa cũng nói như thế. Người ta kể lại rằng: lần kia mẹ nói với một phóng
viên báo chí: tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin. Người ấy hỏi: tôi phải làm gì
để có được đức tin? Mẹ đáp: ông hãy cầu nguyện. Người ấy nói: tôi không thể
cầu nguyện. Mẹ bảo: tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, hãy cố gắng mỉm cười
với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ
cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống.
242.
Chúng
ta nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng
khác nơi con người, đức tin cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được
nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gian. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ
chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là
chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị
tha và yêu thương cũng là cách nuôi dưỡng đức tin như lời mẹ Têrêsa đã khuyên
trên đây: Mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm
được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế, phương
chi là những lời nói, những việc làm còn có giá trị hơn biết bao.
|
243.
CHỌN
LỰA
|
244.
SƯU TẦM
|
245.
Cả
chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
246.
Câu hỏi
Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập
trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn
đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng
liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo
lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng
ta sự sống đời đời.
247.
Với lời
tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành
trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn
hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách
quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và
những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
248.
Sự
tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới
vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn
cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa:
Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta
sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái
ngược với niềm tin tưởng ấy.
249.
Đúng
thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc…Thế mà cả chục
năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật
cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân,
vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình
không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
250.
Hơn thế
nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
251.
Chúng
ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc.
Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh
lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường
ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong
nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta
lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc
ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
252.
Thế
nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh
lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ.
Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối
dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người
chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết,
nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta
sống sao để làm chứng nhân.
253.
Hãy góp
nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén
rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu
hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa
lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
|
255.
MỘT
QUYẾT ĐỊNH QUAN TRỌNG
CHO THỜI KHÓA BIỂU |
256.
SƯU TẦM
|
257.
Những
quyết định hằng ngày là một phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì
và khi nào thì đi ngủ. Với những vấn đề này, những quyết định của chúng ta
thì thường thay đổi nhưng có một số quyết định mà bản tính của chúng kéo dài
mãi đến đời đời. Những chọn lựa căn bản mà chúng ta đã làm bằng chính ý chí
tự do của chúng ta, một thí dụ tuyệt hảo cho vấn đề này đó là quyết định kết
hôn. Hôn nhân là một Giao Ước vĩnh viễn, một quan hệ tình yêu và trung thành
giữa một người nam và một người nữ, để họ trở nên một.
258.
Thiên
Chúa đã mời gọi dân của Người trong Cựu Ước trở thành bạn tình của Người,
bằng một Giao Ước mang hình thức của hôn nhân thiêng liêng. Giosuê là một
người lãnh đạo của dân Thiên Chúa sau cái chết của Môisê, đã hiểu được tầm
quan trọng của Giao Ước này. Ông đã thách thức dân chúng: “Nếu các ngươi
không hài lòng phục vụ Chúa thì hãy quyết định trong ngày hôm nay, các người
sẽ phục vụ ai, còn tôi và người nhà của tôi sẽ phục vụ Thiên Chúa” Giosuê đã
làm một quyết định với chính mình.
259.
Những
thế kỷ sau, Chúa Giêsu đã đối đầu với những kẻ đã nghe người rao giảng. Người
thách thức họ làm một quyết định về chính Người. Ngài đã tuyên bố một giáo lý
mà họ có thể hiểu một cách rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để
cho thế gian được sống. Những ai đã ăn Thịt của Ta và uống Máu Ta sẽ được
sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại ngày sau hết”. Họ hiểu điều Chúa Giêsu
nói nhưng họ đã chối bỏ: “Những lời này nghe chói tai quá, ai mà nghe cho
được”.
260.
Họ đã
hiểu một cách chính xác những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Khi họ từ bỏ và quay
lưng với Ngài để bỏ đi, Ngài đã để cho họ đi. Đó là một ngày quyết định.
Không thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu mà cùng lúc đó lại chối bỏ lời
hứa của Ngài về bí tích Thánh Thể. Tiếp đó, Chúa Giêsu đã thách thức những
người thân cận nhất của Ngài với nhóm 12: “Các ngươi có muốn rời bỏ Ta luôn
không?” Phêrô đã tuyên xưng lòng trung thành mà lời đó đã được lặp lại qua
muôn thế hệ bởi những người nam và những người nữ sống theo đức tin: “Lạy
Chúa, bỏ Ngài con biết theo ai? Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời đời.
Chúng con tin rằng Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
261.
Lời
tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô thì không hề bị cưỡng bách, ngài đã nhận
được ân sủng mà ân sủng đó không giống như là một đề nghị kết hôn. Ân sủng
này Ngài được tự do đáp trả. Ngài đã làm một quyết định nối kết thân mật
chính Ngài với Đức Kitô, mặc dù sau đó ngài đã bị sa ngã, nhưng ngài luôn
luôn trung thành đức tin với Đức Kitô. Thật vậy, ngài nói rằng, ngài muốn
bước vào mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn trung thành với Đức Kitô.
262.
Chúng
ta có cùng ân sủng, điều đó có nghĩa là chúng ta cũng có cùng thách đố, có
cũng những quyết định phải làm. Đức Kitô làm cho đức tin vào Thánh Thể của
chúng ta như là một thử thách tuyệt đối của đức tin vào chính Người. Nhận
biết Thánh Thể là một bí tích của Giao Ước mới đời đời. Sẵn sàng yêu mến bí
tích Thánh Thể và cử hành bí tích này tại trung tâm điểm cuộc sống của chúng
ta, là thi hành mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn, làm cho Đức Kitô và
chúng ta là hai trở nên một xác thịt.
263.
Vì sao
chúng ta tin vào bí tích Thánh Thể? Vì sao chúng ta lại thấy bí tích này một
bí tích tuyệt diệu? Vì sao Thánh Lễ là diễn tả cao nhất của sự thờ phượng
Công giáo? Bởi vì Đức Kitô là Lời có sự sống đời đời mà chúng ta tin rằng
Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
|
265.
LỜI BAN
SỰ SỐNG
|
266.
SƯU TẦM
|
267.
Đọc lại
Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành và nuôi dưỡng phần
xác, nhưng quan tâm chính của Ngài là nuôi dưỡng và chữa lành tâm hồn họ. Đó
chính là điều mà Phêrô đã gọi một cách thật thích đáng: Lời đem lại sự sống
đời đời. Lời của Ngài thật sự đem lại sự sống. Chúng ta sẽ đưa ra một vài thí
dụ về những lời Ngài đã nói.
268.
Con hãy
đi bình an, tội con đã được tha. Với lời này, Ngài trả lại tự do cho bệnh
nhân. Thày đây, anh em đừng sợ. Với lời này, Ngài trán an nỗi sợ hãi của các
tông đồ khi họ nghĩ rằng mình sáp chết đuối. Ai uống nước tôi cho sẽ không
bao giờ khát. Với lời này, Ngài làm dịu đi cơn khát trong tâm hồn mỗi người
chúng ta. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Với lời này, Ngài làm cho tâm
hồn chúng ta được no thỏa. Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ không còn
bức đi trong bóng tối, nhưng sẽ luôn có ánh sáng sự sống. Với lời này, ánh
sáng của Ngài không những không có bóng tốt, mà còn không có cả sự chết, bởi
vì chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Tôi là mục tử tốt lành, tôi biết chiên
tôi và chúng biết tôi, tôi cho chúng sự sống đời đời. Với lời này, Ngài
khuyến khích chúng ta bước theo Ngài để tiến tới đồng cỏ Nước trời. Tôi là sự
sống lại và là sự sống, ai tin tôi sẽ không chết muôn đời. Với lời này, Ngài
an ủi chúng ta khi gặp phải những khổ đau buồn phiền. Anh em đừng sợ hãi,
Thày đi để dọn chỗ cho anh em. Với lời này Ngài khích lệ chúng ta khi gặp
phải những băn khoan lo lắng trên đường đời.
269.
Có lần
các nhà lãnh đạo tôn giáo sai các vệ binh trong đền thờ đến bắt Ngài, nhưng
họ không bao giờ đặt tay lên Ngài được. Trái lại, họ say mê giáo huấn của
Ngài. Họ thừa nhận rằng lời Ngài giảng dạy thật lạ lùng, họ trở về với các
ông chủ của họ và nói: Không có ai giảng dạy giống như Ngài. Quả thật, Chúa
Giêsu có lời đem lại sự sống đời đời. Và những lời của Ngài được gìn giữ cho
chúng ta trong Tin mừng.
270.
Anh em
cũng muốn bỏ đi sao? Giờ đây, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta như
thế. Không phải Ngài lìa bỏ chúng ta, nhưng chúng ta có thể lìa bỏ Ngài. Và
qua dòng thời gian, nhiều người đã làm như thế. Chúng ta cần tuyên xưng lại
lời tuyên xưng đang của thánh Phêrô: Bỏ Thày chúng con biết theo ai. Thày mới
có lời đem lại sự sống đời đời.
271.
Liệu
chúng ta đã thực sự tuyên xưng và sống lời tuyên xưng của mình như vậy hay
chưa?
|
273.
NÃO
TRẠNG CHÚNG TA THẾ NÀO?
|
274.
SƯU TẦM
|
275.
Đoạn
kết diễn từ của Chúa về Bánh ban sự sống dẫn ta tới đỉnh cuộc khủng hoảng, mà
từ đó, sự Thương khó Đức Kitô sau này sẽ diễn ra. Chúa đã phán ra tất cả
những lời buộc chúng ta phải chọn lựa, hoặc tin vào Người hoặc từ chối theo
Người. Đoạn Phúc âm rất phong phú này đưa ta đến hai suy tư (trong các suy tư
khác):
1)
Tiếng
xầm xì của một số môn đệ, sự vấp phạm, sự từ chối không tin của họ, được giải
thích ở đây qua lý do cách thức họ hiểu Lời Chúa Giêsu. Dầu là họ từ chối
không tin hay là đối với một số người ‘giờ’ chưa đến, họ cũng là những kẻ
không hiểu được Lời Chúa trong Thánh Linh. Họ không vượt quá lên được một sự
hiểu biết vật chất và xác thịt về các Lời đó. Tại sao? Tại vì lòng họ chưa ở
trong tình trạng sẵn sàng đón nhận. Trí óc họ đóng cửa lại trước những gì mới
lạ. Họ tự giam mình trong thế giới các sự việc ‘có thể’ đối với họ. Điều mà
Chúa Giêsu nói đối với họ là ‘không có thể được’, nên họ gạt bỏ. Điều bất
hạnh cho họ nằm ở trong một câu hỏi: có gì là ‘không thể được’ đối với TC? Ở
đây, họ tỏ ra thiển cận, tự mình xét đoán lấy việc có thể hay không có thể.
Họ không có được ý kiến phải tìm hiểu quan điểm người khác, những người thật
đơn sơ thôi, song tức khắc đã nhận ra lối thoát đưa tới miền vô biên của thực
tại, thực tại của TC. Nơi họ, chúng ta tìm thấy 1 trường hợp điển hình của óc
tự mãn ngoan cố, hẹp hòi, xuất phát từ chối không muốn biết đến ‘ bên kia’
của chân trời thấy được. Các Tông đồ may mắn có thứ phản ứng đã cứu thoát họ.
Được ân sủng bên trong của Thánh Linh hỗ trợ, họ khắc phục mọi khó khăn về
hiểu biết bằng đức tin trung kiên của họ đối với Chúa Giêsu, bởi lẽ CGS là
‘Đấng Thánh của TC’.
276.
2) Thái độ của phần đông các môn đệ đã
bỏ Chúa, gợi lên cho chúng ta một vấn đề. Người ta đã nói rất nhiều đến não
trạng ‘giảm thiểu’ về việc cắt nghĩa Thánh kinh hay kinh Tin Kính của Giáo
hội. Nhất là sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể lại là đối tượng của
nhieêù suy diễn đưa tới sự từ chối không nhận sự hiện diện đích thực của Chúa
Giêsu. Trong các loại suy diễn ấy, người ta gặp lại đúng cái não trạng của
các môn đệ đã bỏ Chúa, vì họ cho rằng những điều Chúa nóùi là không thể nào
quan niệm được. Não trạng ấy khổ sở vì sự bất lục không ra khỏi được những
vùng của những cái gọi là có thể đối với con người, để tiến vào những vùng
cao trọng hơn của những cái gọi là có thể đối với TC. Do đó, có những nỗ lực
hăng say để ‘giảm thiểu’ sự hiện diện của Đức Kitô trong phép Thánh Thể thành
một thứ gì mù mờ bao bọc bằng uy tín của các đại danh từ triết học. Phần
chúng ta, chúng ta thử ở lại bình tĩnh và cương quyết trong đức tin của chúng
ta. Điều cần thiết là chúng ta phải biết tìm cách soi sáng đức tin ấy và phát
biểu nó ra bằng thứ ngôn ngữ hiện đại. Nhưng sự thể là cuối cùng, chúng ta
phải đi tới cho chấp nhận giáo huấn rất cương nghị của GH và chúng ta chỉ có
thể thực hiện điều này nếu chúng ta đón nhận giáo huấn ấy ‘trong Thánh Linh’,
ở trình độ mà quan niệm nhân sinh cho là ‘không thể được’...
|
277.
TỰ DO
LỰA CHỌN
|
278.
SƯU TẦM
|
279.
Trong
những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện nhiều giáo phái. Một trong những
điều gây xáo trộn nhiều nhất của các giáo phái là ảnh hưởng chúng gây ra cho
những người đi theo chúng. Các thủ lãnh luôn là những kẻ có tham vọng khống
chế người khác. Và các thành viên thường là những người sợ hãi, dao động và
nhu nhược, dễ làm mồi cho những lãnh tụ như thế.
280.
Có một
sự khác biệt lớn giữa cách giao tiếp của Đức Kitô và của các thủ lãnh giáo
phái. Thực vậy, trong các giáo phái chúng ta thấy có sự tôn vinh cá nhân lãnh
tụ. Còn Đức Kitô không bao giờ tìm kiếm vinh quang cho chính mình. Ngài quy
hướng mọi việc về Chúa Cha, bởi vì Ngài đến để thi hành thánh ý Cha Ngài.
Ngài làm cho mình trở thành tôi tớ của mọi người. Các tiên tri giả thường hứa
hẹn cho các môn đệ một thiên đàng trần gian dưới một hình thức nào đó. Điều
này trở thành một cách chiêu dụ. Đức Kitô không hứa hẹn như thế cho các môn
đệ. Trái lại, Ngài nói với họ rằng họ phải vác thập giá và chịu bách hại khi
bước theo Ngài.
281.
Khi các
lãnh tụ giáo phái nhìn thấy con tàu đang chìm, họ thường cố gắng bảo đảm rằng
phi hành đoàn sẽ chết theo tàu. Trong khi đó, Đức Kitô, vị mục tử nhân lành,
đã hiến mạng sống mình để cứu đoàn chiên.
282.
Bằng
việc kết hợp chiêu dụ với truyền thụ, những thành viên mới của giáo phái
không khác gì những con ruồi bị mắc vào lưới nhện. Tự do của họ hoàn toàn bị
lấy mất. Nhưng tự do lại là điều cao quí nhất mà chúng ta có được. Điều duy
nhất có giá trị đạo đức và giúp chúng ta trưởng thành phải được thực hiện một
cách tự do. Đức Kitô không cưỡng bách một ai đi theo Ngài. Chúng ta có một
thí dụ rõ ràng về điều đó trong Tin mừng hôm nay.
283.
Thập
giá bắt đầu phủ bóng lên Ngài. Các môn đệ của Ngài phải đối diện trước một
quyết định: Ở lại với Ngài hay lìa bỏ Ngài. Có những người ở lại với Ngài khi
nào việc giảng dạy của Ngài còn tiến triển, nhưng ngay khi thấy bóng dáng của
thập giá, họ liền lìa bỏ Ngài. Có những người đến với Ngài để được Ngài ban
cho một ơn huệ nào đó, nhưng khi phải chịu đau khổ với Ngài và hiến thân cho
người khác, họ liền bỏ đi. Dù khó tin, nhưng một trong nhóm mười hai đã âm
thầm nuôi ý định phản bội Ngài.
284.
Thế
nhưng, có một số người còn ở lại với Chúa Giêsu, Phêrộ đã nói thay cho họ.
Quyết định ở lại của ông dựa trên lòng trung tín của bản thân ông đối với Đức
Kitô. Kế đến dựa trên giáo huấn của Ngài. Mặc dù có nhiều điều ông chưa hiểu,
nhưng ông biết rằng Đức Kitô có những lời đem lại sự sống đời đời.
285.
Nếu
chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta được tự do, không phải khi chúng ta làm
bất cứ điều gì chúng ta thích, nhưng khi chúng ta làm điều phải. Bấy giờ,
chúng ta giống như một dụng cụ được dùng đúng vai trò, đúng công việc mà mình
phải thực hiện.
|
286.
HÃY TIN
TƯỞNG
|
287.
JKN
|
288.
Câu hỏi
gợi ý:
1.
Câu Đức
Giêsu nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" có
lạ tai không? Câu nói trên cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hay theo nghĩa
vật chất? Sau khi câu nói câu ấy, Đức Giêsu có nói câu nào để hướng dẫn người
nghe phải hiểu theo nghĩa tâm linh không? Ngài nói gì?
2.
Nếu bạn
là các môn đệ Ngài hồi ấy, khi nghe lời ấy, bạn sẽ phản ứng thế nào? bỏ Ngài
và rút lui, hay theo Ngài tới cùng như Phêrô?
3.
Trước
hai phản ứng khác nhau của các môn đệ, ta rút ra bài học gì? Có nên tin vào
lý trí của mình hơn tin vào Thầy mình, hay vào Thánh Thần chăng?
289.
Suy tư
gợi ý:
1. «Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?»
290.
Khi
nghe Đức Giêsu nói: «Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời»,
chẳng những người Do-thái nghe không lọt tai, mà ngay cả các môn đệ cũng có
những người không chấp nhận được. Họ đã hiểu câu Ngài nói theo nghĩa vật
chất, theo mặt chữ, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh, theo Thần Khí.
Thế là «nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa». Ngài đã để mặc họ
bỏ Ngài, vì thấy họ không thích hợp với công việc của Ngài, vốn mang nhiều
tính chất «thần khí» hay tâm linh.
a.
«Ai có
tai thì nghe!» hay «ai hiểu được thì hiểu!»
291.
Trong
Tin Mừng có nhiều trường hợp tương tự như trường hợp này. Nhiều lần, Đức
Giêsu nói xong, người ta không hiểu, Ngài chẳng những không giải thích thêm,
lại còn nói: «Ai có tai thì nghe» (nghĩa là ai hiểu được thì hiểu) (Mt 11,15;
13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8). Vì chân lý không phải là ai cũng có
thể hiểu và sẵn sàng đón nhận, như Ngài đã nói: «Thế là đối với họ, lời sấm
của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu,
có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra chai đá» (Mt 13,14).
Một hình thức của chai đá tâm trí là chỉ hiểu được lời Chúa theo nghĩa vật
chất mà không thể hiểu theo nghĩa tâm linh, chỉ biết chấp vào lời mà không
chịu hiểu ý, nhất là khi lời đó diễn tả những chân lý thâm sâu về Thiên Chúa
và đời sống tâm linh.
292.
b. Đừng hiểu theo nghĩa vật chất, mà
theo nghĩa tâm linh
293.
Khi
thấy có những môn đệ không chấp nhận vì hiểu sai, Ngài đã soi sáng thêm:
«Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy
Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?» Ngài gợi ý cho họ thấy hai cách
hiện hữu của Ngài: cách hiện tại là hiện hữu trong xác thịt, còn cách hiện
hữu trước kia là hiện hữu trong thần khí. Nhắc tới hai cách hiện hữu ấy, Ngài
gợi ý cho các ông hiểu rằng: lời của Ngài cần hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ
không thể hiểu theo nghĩa thể chất. Câu nói kế tiếp của Ngài lại càng khai
sáng vấn đề hơn: «Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.
Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống». Lời Ngài nói là thần khí
chứ không phải xác thịt, nên phải hiểu theo nghĩa tâm linh chứ không phải
nghĩa thể chất. Hiểu theo nghĩa thể chất thì những từ «thịt» và «máu» Ngài
vừa nói chính là thịt và máu vật chất, tức xác thịt. Ngài đã loại bỏ cách
hiểu này: «Xác thịt chẳng có ích gì». Ngài đề cao cách hiểu theo nghĩa tâm
linh qua câu: «Thần khí mới làm cho sống».
294.
Thánh
Phaolô cũng so sánh hai cách hiểu ấy: «Giao Ước Mới không phải là Giao Ước
căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn
Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6). Chữ viết là vật chất, ai chỉ biết hiểu
lời Chúa theo nghĩa vật chất của chữ viết, thì cách hiểu ấy sẽ giết chết tâm
linh của người ấy. Lời Chúa cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, nghĩa là «dựa
vào Thần Khí», cách hiểu này mới «ban sự sống». Sự sống ở đây là sự sống tâm
linh chứ không phải thể chất. Về vấn đề giữ luật, thậm chí luật cắt bì là một
luật hết sức quan trọng trong Cựu Ước, thánh Phaolô chủ trương phải giữ theo
tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết: «Phép cắt bì chính hiệu
là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo
chữ viết của Lề Luật» (Rm 2,29). Vậy, khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt sách Khải
Huyền, những chân lý thâm sâu cần được hiểu theo nghĩa tâm linh. Hiểu theo
nghĩa vật chất nhiều khi dẫn tới sự phi lý và không đem lại «sự sống» hay lợi
ích thực tế.
2. Hai phản ứng khác nhau của các môn đệ
295.
Khi
nghe Đức Giêsu nói câu khó hiểu, thậm chí có vẻ phi lý và chướng tai ấy, tôi
nghĩ, chắc hẳn ngay lúc ấy chẳng ai trong các môn đệ đủ trình độ để hiểu được
ý nghĩa lời của Ngài. Nhưng các môn đệ đã phản ứng theo hai cách: một số rút
lui và số còn lại vẫn trung thành theo Ngài.
a.
Đừng
quá cố chấp vào những hiểu biết mình đang có:
296.
Những
môn đệ từ bỏ Ngài, không chịu làm môn đệ Ngài nữa, là vì họ nghe Ngài nói
điều mà họ thấy là phi lý không thể chấp nhận được. Họ hoàn toàn có lý của
họ. Nhưng phải nói họ là những người đã bị chai đá về mặt lý trí. Hễ điều gì
họ đã cho là đúng, mà có ai nói ngược lại, nói những điều không lọt tai họ,
thì họ tiên thiên cho là sai, và không thèm nghe, suy nghĩ hay tìm hiểu thêm.
Những người này sẽ không bao giờ tiếp nhận được những kiến thức mới, những
khám phá mới về chân lý. Vì chân lý thì vô tận, con người khám phá không
ngừng và không bao giờ hết. Những khám phá mới nhiều khi phủ nhận hoặc vượt
qua những khám phá cũ. Chẳng hạn nếu các em học sinh cấp I cứ chấp cứng vào
kiến thức mà các em thu thập được ở trường lớp là: không được lấy số lớn trừ
số nhỏ vì đó là một sự phi lý, thì các em sẽ cho các thầy dạy cấp II là dạy
bậy. Vì ở cấp II, việc lấy số nhỏ trừ số lớn để ra một số âm là chuyện bình
thường. Hay ở cấp II và III, việc đặt số âm trong một căn hiệu là phi lý,
nhưng ở đại học, khi học về số ảo, thì một số âm vẫn luôn luôn có căn số.
297.
Đức Phật
có đưa ra một minh họa về vấn đề này: Một người có duy nhất một đứa con mà
ông rất thương yêu. Khi ông đi vắng để đứa con ở nhà thì kẻ cướp đến đốt làng
cướp bóc và bắt con ông đi. Khi về, ông thấy thi hài một đứa bé cháy đen bên
căn nhà mình. Ông tin ngay là con mình và chôn cất trong sự thương tiếc. Mấy
tháng sau, con ông tìm cách thoát được bọn cướp, tìm về đến nhà lúc nửa đêm
và gõ cửa xin vào. Nhưng ông không chịu ra mở cửa vì cứ nhất định là con ông
đã chết rồi, và cho rằng đứa gõ cửa là một thằng mất dạy nào đó trêu chọc
ông. Rồi ông nhất quyết không nhận nó là con, bất chấp những bằng chứng hợp
lý trước mắt.
298.
Người
ta nói: «Khoa học là mồ chôn những giả thuyết», vì giả thuyết mới phủ nhận
giả thuyết cũ. Sự vật thì không thay đổi, nhưng khi ta biết 10 điều, ta nghĩ
về sự vật thế này. Khi biết 100 điều, ta lại nghĩ thế khác. Khi biết 1000
điều, ta lại nghĩ hoàn toàn khác nữa. Ta nên tiếp tục nghĩ rằng khi biết
2000, 3000… điều, ta cũng sẽ tiếp tục nghĩ khác. Vậy trong đời sống tâm linh,
hãy luôn luôn tỉnh thức để đón nhận những đổi mới của Thánh Thần trong cả
cách nhìn về Thiên Chúa và về những chân lý cao sâu. Các tư tế và kinh sư
Do-thái chính vì chấp vào những hiểu biết dựa trên Kinh Thánh và thần học của
họ mà đã lên án và giết Đức Giêsu!
299.
b. Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn của
Thánh Thần:
300.
Còn
những môn đệ khác mà điển hình là Phêrô, tuy cũng thấy phi lý và chói tai,
nhưng nghĩ rằng mình chưa hiểu được hết ý của Ngài. Qua những sự kiện thấy
được nơi Đức Giêsu, họ tin Ngài là người nắm được những chân lý cao siêu, là
«Đấng Thánh của Thiên Chúa». Vì thế, dù Ngài nói điều gì nghe không lọt tai,
họ vẫn tạm chấp nhận để tiếp tục theo Ngài, mong có cơ hội sau này hiểu được
điều ấy. Và đương nhiên sau này họ đều hiểu. Đó là thái độ khiêm nhường nhưng
rất hợp lý: cho rằng khả năng hiểu biết mình còn non kém thì đúng hơn là cho
rằng Thầy mình nói sai.
301.
Tất cả
những hiểu biết của nhân loại - kể cả của Giáo Hội - đều là những hiểu biết
tương đối, phù hợp với số lượng những khám phá của họ. Khi khám phá ra nhiều
sự kiện hơn nữa, ắt nhiên mọi người sẽ phải thay đổi quan niệm hay hiểu biết
của mình. Trong đời sống tôn giáo hay tâm linh, điều quan trọng là chúng ta
phải sẵn sàng đổi mới quan niệm và sẵn sàng từ bỏ những kiến thức cũ của mình
thì mới theo kịp Thánh Thần. Ngài là Đấng luôn luôn «đổi mới mặt đất này» (Tv
104,30) và sẽ dẫn chúng ta «tới sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13). Nên nhớ cách
hành động của Thiên Chúa là: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm
cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi, thì sẽ tan
biến đi» (Dt 8,13). Nếu ta cứ chấp vào giao ước cũ, làm sao ta đón nhận được
giao ước mới? Nên nhớ, chỉ một mình Thiên Chúa là không thay đổi, còn mọi
hiểu biết của con người về Thiên Chúa thì phải thay đổi theo trình độ trí thức
và tâm linh con người. Cứ chấp vào hiểu biết cũ làm sao đón nhận những hiểu
biết mới?
302.
Cầu
Nguyện
303.
Lạy
Cha, Thánh Thần của Cha luôn luôn đổi mới mọi sự trong thế gian này. Xin cho
chúng con biết thích ứng với Thánh Thần, sẵn sàng từ bỏ quan niệm cũ, cách hiểu
biết cũ để theo quan niệm và cách hiểu biết mới mà Thánh Thần hướng dẫn. Đừng
để chúng con đi vào bánh xe đã đổ của các kinh sư Do-thái: cứ chấp vào hiểu
biết cũ nên không theo kịp cái mới của Thánh Thần, để cuối cùng bị đào thải
về mặt tôn giáo. Amen.
|
305.
|
306.
CẦN TIN
LỜI CHÚA ĐỂ TIN THÁNH THỂ
|
307.
LM ĐAN
VINH
|
I.
HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga 6,54a.60-69
308.
(54a)
Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố : “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì
được sống muôn đời”, (60) nhiều môn đệ của Người liền nói :
“Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” (61) Nhưng Đức Giêsu
tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người
bảo các ông : “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được
ư ? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia
thì sao ? (63) Thần Khí mới lam cho sống, chứ xác thịt chẳng
có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống.
(64) Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ
đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp
Người”. (65) Người nói tiếp : “Vì thế, Thầy đã bảo anh em :
Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. (66)
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa.
(67) Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm 12 : “Cả anh em nữa, anh em cũng
muốn bỏ đi hay sao ?” (68) Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Thưa
Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những
Lời đem lại sự sống đời đời. (69) Phần chúng con, chúng con
đã tin và nhận biết rằng : Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa”.
2.
Ý
CHÍNH :
309.
Sau khi
nghe Đức Giêsu giảng về Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể
mà Người sẽ ban, thì thính giả chia thành hai phe : Một số khá
đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho rằng lời ấy chói
tai, không thể chấp nhận được và đã bỏ không còn theo Người nữa (c.
66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi thì Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm
tuyên xưng đức tin : “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy
mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
3.
CHÚ
THÍCH :
-
C
54a.60 : + Ai ăn Thịt Tôi và
uống Máu Tôi thì được sống muôn đời : “Thịt
và Máu” Đức Giêsu là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa
tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giêsu nói đây
chính là Thánh Thể của Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục
sinh, như một hy lễ đền tội để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người : Môn đệ là những người nhận Đức
Giêsu làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực hành Lời Chúa, tích cực cộng
tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ. Đức Giêsu có hai nhóm môn đệ là
nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1) và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời này chướng tai quá ! Ai
mà nghe nổi ?” : Khi nghe
Đức Giêsu nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các
môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không
ai xẻ thịt mình ra cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người
khác uống ! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu huyết, vì máu
được coi là sinh khí tụ lại, chỉ được dành riêng cho Đức Chúa là
chủ tể của sự sống. Luật Mô-sê qui định : “Các ngươi không được ăn
máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác
thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv
17,14).
-
C 61-62
: + Điều đó, anh em lấy làm
chướng, không chấp nhận được ư ? : Ba
điều người Do Thái và môn đệ xầm xì không chấp nhận : Một là Đức
Giêsu tự nhận mình là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã
ăn Man-na mà vẫn phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình
từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga
6,42). Ba là Người khẳng định : “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi
thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn
thịt các con vật chết ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con Người
lên nơi đã ở trước kia thì sao ? : Đức
Giêsu cho các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và
tin lời Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi
chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), đúng
như thị kiến về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn
Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).
-
C
63-64) : + Thần khí : Là một từ ngữ mang nhiều ý
nghĩa như sau : Một là gió : Có đặc tính vô hình (x Ga
3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình hủy
diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở : Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức
mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người
sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3).
Ba là linh hồn : Bao lâu Thần khí còn ở với
con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động, Thần Khí
ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết là khi con
người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6 ; Lc
23,46). Bốn là một đặc
tình của Thiên Chúa : “Thiên
Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24) nên người ta phải thờ phượng Thiên
Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí mới làm cho sống,
chứ xác thịt chẳng có ích gì ! : Việc
tạo dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau : “Đức
Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào
lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác
thịt chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên
Chúa phú ban thần khí gọi là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm
cho con người sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí
xuất ra khỏi thân xác, và thân xác ấy trở thành xác chết, nên chẳng
còn ích gì ! + Lời Thầy
nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống : Lời Chúa chính là Thần Khí
thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mặc khải các
mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho loài người (x. Xh
20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St 15,13-16). Lời
Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68), nếu họ biết
lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38), tuân giữ
(x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã
biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người :Ngay từ đầu,
Đức Giêsu đã có cái nhìn tiên tri và thấy trước sự bất tín của
Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng Gio-an viết như sau : “Người biết ai
sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga
13,11).
-
C 65-66
: + Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho : Đức tin là một ơn do Thiên Chúa
ban cho loài người, để họ tin Đức Giêsu là “Đấng Ki-tô, Con Thiên
Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy
để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút
lui, không còn đi với Người nữa : Lý
do nhiều môn đệ bỏ Đức Giêsu là do họ không tin Người là Đấng Thiên
Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh Trường Sinh từ trời mà
đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố Người sẽ lấy Thịt
mình mà cho họ ăn (x. Ga 6,52). +
Nhóm Mười Hai : Đức Giêsu
đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13)
Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông
và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai này tượng trưng cho
mười hai chi tộc Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ
được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x.
Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt 19,29), được Người
ban “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết
các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi rao
giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
-
C 67-69
: + Cả anh em nữa, anh em
cũng muốn bỏ đi hay sao ? : Trước
mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai phải
tỏ thái độ dứt khoát : Tin hay không tin, thể hiện qua việc tự do
chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi. +
Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Bỏ
Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem
lại sự sống đời đời” : Dù
chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm
12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời Thầy là
sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận (x.
Ga 5,24). + “Chính Thầy là
Đấng Thánh của Thiên Chúa” : Trước
đó, Si-mon đã tuyên xưng : “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giêsu là “Đấng
Thánh của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền
tin đã cho Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giêsu : “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ
là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
4.
CÂU
HỎI : 1) Tại sao dân Do thái và một số khá đông môn đệ đã bỏ không
đi theo Đức Giêsu nữa ? 2) Môn đệ là những ai và Đức Giêsu có bao
nhiêu môn đệ ? Tông đồ là ai và khác với môn đệ thế nào ? 3) Người
Do thái và các môn đệ lấy làm gai chướng không chấp nhận ba điều
nào của Đức Giêsu ? 4) Đức Giêsu đưa ra bằng chứng nào cho thấy
Người có quyền nói ra những điều mầu nhiệm ấy ? 5) Trong Kinh
thánh, thần khí mang bốn ý nghĩa nào ? 6) Đức Giêsu đã nói gì về
thần khí và xác thịt nơi mỗi con người ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại
nói Lời Người chính là Thần khí và là Sự sống ? 8) Đức Giêsu
biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là người không tin và sẽ phản nộp
Người ? 9) Đức Giêsu chó biết đức Tin phát xuất từ đâu ? Ta phải
làm gì để giúp người khác tin vào các mầu nhiệm được mặc khải ?
10) Lý do nào khiến nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo Đức Giêsu ? 11)
Nhóm 12 Tông đồ do Đức Giêsu tuyển chọn từ Nhóm nào ? Nhóm Tông đồ
được Người hứa ban các quyền lợi nào và phải chu toàn sứ mệnh gì
? 12) Si-mon Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai trả lời thế nào khi được
Đức Giêsu hòi có muốn bỏ đi hay không ? Ý nghĩa của câu trả lời đó
thế nào ? 13) Si-mon đã tuyên xưng Đức Giêsu là ai ?
II.
SỐNG
LỜI CHÚA
1.
LỜI
CHÚA : Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga
6,68) :
2. CÂU CHUYỆN : CHỌN TIN THEO CHÚA :
310.
Bài
đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật mang nhiều ý
nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái
đã được Mô-sê dẫn đi ngang qua sa mạc trong 40 năm và đã đến được bờ
sông Giô-đan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã
hứa ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Mô-sê
trao quyền cho Gio-su-ê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm Hứa Địa
Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chiếm được miền
đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en và
các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân được tự do chọn
lựa : Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo
các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề
Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký
với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai... Bấy giờ toàn dân thưa
lại rằng : “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ
các thần khác ! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã
đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà
nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn
giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà
chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi
dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).
3. SUY NIỆM :
1)
Tự do
“tin hay không tin” vào Đức Giêsu :
311.
Như dân
Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng được tự do lựa chọn
tin hay không tin vào Đức Giêsu. Trước khi chịu phép Thánh Tẩy, các dự
tòng đều phải công khai tuyên bố từ bỏ ma quỉ tội lỗi và tuyên xưng đức
tin vào các chân lý trong kinh tin kính như Hội Thánh dạy, trước khi được
chủ sự đổ nước trên đầu hoặc dìm mình trong giếng nước rửa tội để
được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.
312.
2) Cần
xác tín vào Đức Giêsu :
313.
Trong
đời sống thường ngày, cũng như dân Ít-ra-en xưa, các tín hữu chúng
ta hôm nay cần khẳng định đức tin qua câu này : “Không thể có chuyện
chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự
chọn lựa này đòi chúng ta không ngừng hồi tâm sám hối tội lỗi.
314.
3) Cần
dứt khóat tin theo Đức Giêsu :
315.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai Tông đồ phải dứt
khoát lập trường trước lời tuyên bố của Đức Giêsu về bí tích Thánh Thể :
“Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống !”. Tông đồ
Phê-rô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin : “Bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời
đời”.
316.
4) Đức
tin dựa trên Lời Chúa :
317.
Tông đồ
Phê-rô tuyên xưng đức tin không
phải do đã hiểu được bí tích Thánh Thể, nhưng vì đã tin “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, Đấng đã từng
nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê, đã đi trên mặt biển và phán một
lời dẹp yên sóng gió, đã từng xua trừ ma quỷ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân và
phục sinh kẻ chết… Chính nhờ lòng tin này mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai
đã chấp nhận tin cả những Lời
xem ra khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về
bí tích Thánh Thể :“Ai ăn thịt
và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời”.
318.
5) Cần
làm gì để gia tăng đức tin vào bí tích Thánh Thể ? :
319.
Đây là
mầu nhiệm đức tin, vượt trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để đạt
tới đức tin vào bí tích này, các tín hữu cần làm ba việc như sau :
320.
Một là
phải thành tâm lắng nghe Lời
Chúa như thánh Phaolô dạy : “Có
đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm
10,17). Do đó, nếu muốn tin vào bí tích Thánh Thể, ta cần năng nghe Lời Chúa
dạy mỗi khi tham dự thánh lễ, dự giờ chầu Thánh Thề hoặc các lớp giáo lý hay
các buổi học sống Lời Chúa và sau đó “suy
niệm trong lòng” noi gương Đức
Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).
321.
Hai là
phải năng lặp lại lời cầu
nguyện của Tông đồ Phê-rô trong
Tin mừng hôm nay : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần
chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng : Chính Thầy là Đấng
Thánh của Thiên Chúa” (Ga
6,68-69).
322.
Ba là
phải noi gương người cha có con bị quỷ ám trong Tin Mừng Mác-cô để cầu xin
Đức Giêsu : "Lạy Chúa con tin, nhưng xin hãy trợ giúp lòng tin
yếu kém của con” (x Mc 9,24).
4.
THẢO
LUẬN : 1) Người ta thường bị khủng
hoảng đức tin là do những nguyên nhân nào ? 2) Một tín hữu bị khủng
hoảng về đức Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ và hành vi nào ? 3)
Chúng ta phải làm gì để giúp một người đang bị khủng hoảng đức
Tin sớm lấy lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh ?
5.
NGUYỆN
CẦU :
323.
LẠY
CHÚA GIÊSU. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác lâu ngày chưa được nhậm
lời, con thường nản lòng thất vọng rồi bỏ dự lễ và không còn tin
tưởng cầu xin Chúa nữa. Con lại chạy theo những lời mách bảo đề
đến với các thầy bùa thầy bói, đồng cốt và làm những điều mê tín
khác... Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ
vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa
cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ lo tìm kiếm của ăn phần xác,
và dửng dưng những việc phần hồn. Xin giúp con biết “trước tiên tìm
kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác
Chúa sẽ ban cho sau”
324.
X.
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
|
325.
LỜI BAN
SỰ SÔNG
|
326.
Linh
Mục Inhaxiô Trần Ngà
|
327.
Bảo
rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự
sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta
có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
328.
Bảo
rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì
cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.
329.
Thế
nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có
những lời đem lại sự sống đời đời” là
những lời khó thuyết phục, vì
lời nói thoảng bay trong gió rồi mất hút trong không gian, chứ có phải là
lương thực, là thuốc men đâu mà đem lại sự sống đời đời.
330.
Tuy
nhiên, Lời Thiên Chúa thực sự là những Lời quyền năng, có sức sáng tạo và
mang lại sự sống cho muôn vật muôn loài.
331.
Thiên
Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
332.
Từ
nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời để tác
thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của
các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa tác
thành.
333.
Sáng
thế ký chương I viết:
334.
Thiên
Chúa phán: "Nước phải sinh
ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, ... liền có như vậy.”
335.
Thiên
Chúa phán: "Đất phải sinh
ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo
loại." Liền có như vậy.
336.
Thiên
Chúa phán: "Chúng ta hãy
làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta..." Và
từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống.
(Sáng Thế 1, 20.24.26)
337.
Lời
Chúa có sức mạnh vạn năng
338.
Khi
xuống thế làm người, Chúa Giê-su cũng đã dùng lời quyền năng của Người mà
trục xuất ma quỷ ra khỏi những người bị ám hại (Mc 5,8), khiến cho bão tố dữ
dội phải lặng yên (Mác cô 4, 39)…
339.
Lời
Chúa hồi sinh kẻ chết
340.
Chúa
Giê-su cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những người
đã chết.
341.
Hôm ấy,
khi Chúa Giê-su thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở
thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng
thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban
lại sự sống cho người thanh niên: "Hỡi
thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy" (Lc 7,14), lập tức người chết được
hồi sinh.
342.
Rồi đến
lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giê-su cũng
chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. Chúa truyền phán:
"La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết
đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
343.
Thế thì
rõ ràng là Chúa Giê-su có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông
ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên
quốc.
344.
Khi
giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su khẳng định Người chính là Bánh
hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến
dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và lần lượt bỏ đi. Dầu vậy,
thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: "Thưa
Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự
sống đời đời." (Gioan 6,
68)
345.
Nếu hôm
nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy
nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giê-su tặng ban miễn phí
những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
346.
Vậy thì
cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin : "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng
con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
347.
Cùng
với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta
hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc
sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy
và sự sống vĩnh cửu mai sau.
|
348.
TÌNH
ĐỜI THAY TRẮNG ĐỔI ĐEN
|
349.
Lm.Jos
Tạ Duy Tuyền
|
350.
Con
người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho
nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng: “Còn tiền còn bạc còn đầy tớ.
Hết tiền hết bạc hết ông tôi”. Người ta gắn bó với nhau thường là vì
tình, vì tiền và quyền lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ
liền thay lòng đổi dạ để rồi “gió chiều nào xuôi theo chiều đó” để được an
toàn bản thân. Xem ra tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi
quan hệ đều được liên kết với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi
hành với nhau. Tình đời thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện ‘ông ăn
chả bà ăn nem”. Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín
nhiệm nơi nhau và hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để
khỏi bị thiệt hại bản thân.
351.
Lịch sử
cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự bất trung, phản bội
của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên rồi lại ngã qụy.
Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng rồi họ lại
tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ, chăm sóc họ bằng
tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân huệ của Thiên
Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho
họ.
352.
Lời
Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy thất trung của dân
tộc được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang. Hôm nay họ tuyên
hứa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi lời hứa lại đi
vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa đối với họ như
là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện vọng là họ lại
tìm kiếm nơi các thần ngoại bang khác. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng tín
trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương,
yêu thương trọn đời.
353.
Hôm
nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay
chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ
chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải
tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua
đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó
thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là
Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng
muốn bỏ Thầy đi sao?”. Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12
vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã
mạnh dạn thưa lên rằng: “bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới
có lời ban lại sự sống đời đời’. Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin
vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy
mới mang lại sự sống đời đời.
354.
Người
xưa thường nói: “Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù”. Chúa Giêsu biết rõ
một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ
bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu
thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của
Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của
mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Cho dù con cái có bỏ cha mẹ, nhưng tình
cha mẹ mãi mãi theo con. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với
tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong
tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường
phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu
thương cho đến cùng.
355.
Ngày
hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”.
Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế
giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân
loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều
chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị
cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng
tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo
thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng
ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội
để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
356.
Nguyện
xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng
con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần
thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: “Bỏ Ngài chúng con
biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời”. Amen
|
https://maps.google.com.eg/url?q=http://yduoccantho.net//
Trả lờiXóahttps://maps.google.com.et/url?q=http://yduoccantho.net//
https://maps.google.com.fj/url?q=http://yduoccantho.net//