DANG HOA THANH TAM |
LEGIO THUONG HA |
LEGIO BAO HA |
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Am. 7, 12-15; Ep. 1,
3-14; Mc. 6, 7-13
MỤC LỤC
1. Phục vụ người
nghèo
2. Tông đồ
3. Tông đồ
4. Hành trang người môn đệ
- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Bài Sai – Lm Giuse Trần
Việt Hùng
6. Sống thanh thoát – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Sứ mạng loan báo Tin
Mừng
8. Không bánh mì, cũng
chẳng tiền túi
9. Những lời căn dặn cho
việc thi hành sứ vụ
10. Thiên Chúa nói qua
trung gian
11. Lời dặn dò cần thiết –
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
12. Suy niệm của Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi
13. Loan báo Tin Mừng
14. Chúa sai các tông đồ
đi từng hai - Noel Quesson
15. Ngài gọi và sai đi
16. Lên đường thi hành sứ
vụ với Chúa Giêsu
17. Chân dung của Sứ giả
Tin Mừng
18. Rao giảng
19. Chúa Kitô
20. Rao giảng
21. Hoạt động tông đồ
22. Hãy đi rao giảng
23. Người sai họ đi
24. Trách nhiệm
25. Đức Kitô cần chúng ta
26. Người bắt đầu sai
đi
27. Đức Giêsu sai nhóm
mười hai đi
28. Chú giải của Noel
Quesson
1. Phục vụ người nghèo
Như chúng ta đã biết:
thánh Phanxicô Assisi, sinh trong một gia đình giàu có. Thuở niên thiếu, người
là một cậu bé lêu lỏng hoang phí. Thế rồi vào năm 1202, thành phố Assisi và Perugia
bỗng trở nên thù địch nhau. Phanxicô gia nhập quân đội Assisi và lên đường chiến đấu. Chàng bị bắt
làm tù binh. Sau đó bị xiềng và giam trong hầm ngục dơ bẩn suốt một năm. Khi
được trả tự do, phải mất một thời gian dài, sức khoẻ chàng mới được khôi phục.
Chính biến cố này đã thay đổi cuộc đời chàng. Chàng dẹp bỏ những bộ quần áo đắt
tiền và khoác lên người bộ quần áo công nhân nghèo khổ. Chàng từ giã gia đình
để sống đời ẩn sĩ khổ hạnh. Chàng đặc biệt lưu tâm tới những kẻ bị xã hội ruồng
bỏ. Sở dĩ tình thương ấy lớn mạnh trong tâm hồn chàng là do mối xúc cảm sâu xa
trước hai lời giáo huấn trong Kinh Thánh.
Lời giáo huấn thứ nhất nằm
trong sách Sáng Thế Ký, đó là mọi người đều được dựng nên theo hình ảnh Chúa.
Giáo huấn thứ hai nằm trong sách Phúc Âm, đó là sự gì chúng ta làm cho một kẻ
bé nhỏ nhất là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy. Chàng đã xác tín và thực thi
đúng với những lời giáo huấn kể trên. Lần kia, đang lúc đi đường, Phanxicô gặp
một người cùi. Mặc dù rất ghê tởm, nhưng Phanxicô xấn tiến lại ôm hôn con người
bất hạnh đó.
Hơn thế nữa, chính đoạn
Tin Mừng hôm nay, ngài được nghe đọc trong một thánh lễ đã thay đổi toàn bộ nếp
sống của ngài. Ngài từ giã nếp sống ẩn sĩ, dùng đức khó nghèo làm hành trang
lên đường để rao giảng Tin Mừng. Nếp sống này chẳng bao lâu đã lôi cuốn được
nhiều thanh niên. Và những tu sĩ đầu tiên của dòng Phanxicô này ra đi khắp nơi,
chăm sóc các bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Họ lấy trời làm nhà và ăn
uống bất cứ thứ gì người ta bố thí cho. Đức khó nghèo biến họ trở nên một với
những kẻ nghèo khó. Và đó cũng chính là nếp sống mà Chúa Giêsu đã chọn.
Thánh Phanxiô kêu gọi mọi
người giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoàn cảnh của mình, và nhường cho kẻ khác trách
nhiệm động viên quần chúng và chính quyền tấn công vào cội rễ phát sinh ra sự
nghèo khổ. Điều đó dẫn chúng ta đến một kết luận thật quan trọng. Đó là ngày
nay hơn bao giờ hết, xã hội đang cần những loại chứng từ phục vụ người nghèo
như Chúa Giêsu, như thánh Phanxicô, như Mẹ Têrêsa...
Phải, thế giới đang rất
cần những người biết giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoành cảnh riêng của mình. Lời
giáo huấn của Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay thật rõ ràng. Tất cả chúng
ta đều được mời gọi rao giảng Phúc Âm. Và chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm
bằng cách biểu lộ tình yêu và sự quan tâm đối với kẻ khác, nhất là những kẻ
nghèo túng và khổ đau.
Và để kết luận, chúng ta
hãy nhớ lại kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi: Vì chính khi hiến thân là
khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi
thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
2. Tông đồ.
Có một câu chuyện tưởng
tượng kể lại:
Sau khi hoàn tất sứ mạng
trần gian, Chúa Giêsu trở về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp
Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của
Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12
tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ
cõi trái đất. Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn
toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính
chương trình nào khác nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một
chương trình nào khác, Ta tin tưởng ở họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn
toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, khi Ngài về
trời, Ngài đã để lại một nhóm tông đồ ít ỏi xem ra không đủ khả năng để chu
toàn sứ mạng đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn thế nữa, ngay cả sau khi
Chúa đã sống lại, đức tin của các ông vẫn còn chập chững và chao đảo. Chẳng hạn
lần kia Chúa Giêsu gặp gỡ họ trên bờ biển Tibêria, sau khi nghe theo lời Chúa
truyền, các ông đã được một mẻ lưới đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có than hồng, với
cá đang nướng và bánh. Các ông được Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi các con. Tuy
nhiên các ông vẫn còn nghi ngờ, chưa nhận ra ngay là Chúa. Và sách Tông Đồ Công
Vụ còn cho chúng ta thấy thái độ sợ sệt và khép kín của các ông sau khi Chúa đã
về trời. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó
trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình Chúa muốn thực hiện. Đó là chương trình
biến trần gian trở thành Nước Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta
còn thấy được một hình ảnh khác hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, các ông đã can
đảm ra khỏi những gian phòng đóng kín, nơi các ông đã từng sợ hãi và trốn
tránh, để lên đường rao giảng Tin Mừng Đức Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp mọi
cấm đoán, mọi đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng chấp nhận cái chết để nêu cao
niềm tin. Tất cả các tông đồ, ngoại trừ một mình Gioan, đều đã lấy máu đào để
minh chứng lời mình rao giảng.
Nước Trời từ một hạt cải
nhỏ bé, đã trở thành một cây to cho chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế kỷ trôi
qua, có biết bao nhiêu người, thuộc đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp ứng lời
mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt chúng
ta. Đúng thế, có lẽ lúc này Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra một câu
hỏi để chúng ta có được một thái độ dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này: Còn con,
con có muốn trở nên tông đồ, cộng tác với Ta bằng lời nói cũng như bằng chính
việc làm và cuộc sống của mình, để đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh
hay không? Thế nhưng, trước câu hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế nào và
chúng ta sẽ làm gì để đáp trả tiếng Chúa.
3. Tông đồ.
Một trong những ưu tư lớn
trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với
mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín
thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn
đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông,
bằng cách để cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài
làm. Và cắt nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai
các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn
dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và
đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp
bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào
tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Lầm lỗi nặng nề nhất của
người tông đồ hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng
của mình mà quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa,
chúng ta không thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô
trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy,
một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được
Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng
ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi
và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng
ta.
Vì thế, sau khi công bố
tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh
sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công
việc của các con mà ngợi khen Cha các con là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu
của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn mọi người
đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới việc
tông đồ, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng đó là
bổn phận của giới tu hành, chứ không phải là bổn phận của họ, những người giáo
dân sống giữa lòng đời. Đây là một quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái Giáo
Hội, chúng ta đều có bổn phận làm cho Giáo Hội được phát triển, được rộng mở,
tùy theo hoàn cảnh và đấng bậc của mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại
một mẩu chuyện cảm động như sau: Ngày kia có một thiếu phụ cùng tám đứa con đến
gõ cửa xin gạo. Mẹ đích thân trao cho bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi chia làm
hai phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì bà trả lời: Tôi dành một phần cho gia
đình Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ nhất cũng
có thể thực thi tinh thần chia sẻ huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể làm việc
tông đồ, làm sáng danh Chúa bằng chính đời sống của họ.
4. Hành trang người môn đệ
- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ai đi xa cũng phải chuẩn
bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan
trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các
môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến
khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu
đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang
cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn
đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn
đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã
có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để
các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người.
Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật
thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính
trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm
này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy
giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức
Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì
thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn
đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: "không được
mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền
giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo", Đức Giêsu muốn các
ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền
của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ
tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì
thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình
cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người
môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp
người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô,
là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức
con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ
phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì
của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là
mang theo tất cả.
Hành trang của người môn
đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng
hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ
mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần
có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn
nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng
sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi
người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên
đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu.
Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn
đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người
đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những
người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội
bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim
biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng
thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn
sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón
nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng
hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là
môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai
chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích
cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm
sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn
việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho
Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị
em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình
yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến.
Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của
Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Chúa sai bạn đi làm
tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2- Mỗi khi đi làm việc
tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của
bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
3- Theo bạn, đâu là phương
thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
4- Đâu là những hành trang
cần thiết của người môn đệ của Chúa?
5. Bài Sai – Lm Giuse Trần
Việt Hùng
Tiên tri Amos xuất hiện
khoảng năm 760 trước Công Nguyên dưới thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742)
và Vua Phương Bắc Jeroboam II (786-746).
Tiên tri Amos làm việc nơi
đồng áng và chăn nuôi súc vật. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao
giảng sám hối tại trung tâm miền Bắc Bethel và Samaria . Quan niệm thần học tập trung việc
cảnh cáo dân Do-thái rằng Thiên Chúa sẽ trừng phạt và phá hủy dân Israel bởi vì
tội lỗi của họ. Amos kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời sống theo
giới răn của Chúa.
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay
tường thuật việc Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa
ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân
thành và đi làm nhân chứng với hai bàn tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng
mạc chuẩn bị các tâm hồn đón nhận ơn Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự
quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm
thường, họ không có nhiều tài năng chuyên môn, không có của cải và không có chỗ
đứng trong xã hội. Chúa chọn những người bình thường để làm những việc phi
thường cho Nước Chúa.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu
sai các tông đồ ra đi loan truyền sứ mệnh quan trọng nhưng không ban cho các
phương tiện, tiền bạc hay của cải. Ngày nay trong công tác mục vụ, chúng ta
thường chuẩn bị rất kỹ càng, nào là tiền mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống,
bản đồ, áo trong áo ngoài, máy móc đủ loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải
ở qua đêm, chúng ta còn cần nhiều thứ lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những
nhu cầu vật chất như chỗ ăn chỗ ở, cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu.
Đôi khi chúng ta lại quá lo lắng cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời
thường. Theo thông lệ một số các đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn
phải chuẩn bị đón tiếp long trọng và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu
đi tinh thần nghèo khó và sự phó thác.
Mỗi năm kết khóa, mùa Hè
là mùa ra trường. Các ứng sinh lãnh nhận những mảnh bằng tốt nghiệp đã bắt đầu
bước vào đời. Những vốn liếng thu lượm qua việc trau dồi học hỏi trên ghế nhà
trường nay đem ra áp dụng theo những sở trường và khả năng. Trong sứ mệnh dâng
hiến, mỗi năm Giáo Hội đón nhận nhiều tu sĩ nam nữ khấn dòng, khấn tạm hoặc
vĩnh khấn, các chủng sinh lãnh nhận chức đọc sách, giúp lễ, phó tế và các tân
chức linh mục. Mỗi tu sĩ hay tân chức sẽ lãnh nhận những bài sai từ bề trên để
ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các sứ giả phúc âm không được tự chọn cho
mình nơi chỗ, nhưng được sai đến bất cứ nơi nào để phục vụ Giáo Hội và tha
nhân.
Tháng Sáu vừa qua, tôi rất
hân hạnh được tham dự thánh lễ truyền chức linh mục tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp,
Địa phận Long Xuyên. Lễ phong chức cho 18 tân linh mục rất là hoành tráng. Với
trên hai trăm linh mục trong Giáo phận có mặt và có thêm nhiều vị từ khắp nơi
đổ về. Với sự hiện diện trên mười ngàn Giáo dân vui mừng hân hoan tụ về tham dự
nghi lễ phong chức linh mục. Ngay sau thánh lễ truyền chức, một vị linh mục đại
diện đã công bố Bài Sai của Đức Giám Mục Địa Phận cho từng tân linh mục. Một sự
chọn lựa cắt đặt các tân chức vào các sứ vụ tùy theo khả năng thích hợp của mỗi
tân linh mục.
Chúng ta biết rằng lãnh
nhận thiên chức linh mục không phải riêng cho mình, nhưng cho Giáo Hội và chung
cho mọi người. Các tân chức nhận những Bài Sai khác nhau như về trụ sở Tòa Giám
Mục, các Giáo Xứ và có những Bài Sai về nơi truyền giáo vùng sâu vùng xa. Niềm
vui trào dâng khi nhận lãnh thiên chức cao cả. Khi nghe rao báo Bài Sai, các
tân chức cũng có những cảm tình vui buồn lẫn lộn. Có những bà mẹ nhảy cẫng vui
mừng vì con mình được về giáo xứ giầu có ổn định. Có những gia đình vỗ tay hãnh
diện vì tân linh mục nhà mình được về xứ lớn ở trung tâm thành phố. Có những vẻ
mặt không được vui lắm khi nghe Bài Sai sẽ đi phục vụ ở những nơi khai hoang
truyền giáo. Thật vậy, được sai đi nơi đâu, cũng là để phục vụ tha nhân. Chúa
Kitô vẫn luôn là trung tâm điểm của đời sống mục vụ và phục vụ.
Câu truyện vào thời chiến,
có một sự kiện xảy ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một
tượng Chúa Giêsu bị trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp
linh mục lau dọn và thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm
thấy mọi phần của tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị
với linh mục là đưa tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh
mục bổn sở từ chối. Ngài nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu
một cánh tay. Chúng ta hãy viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi
bạn, cho tôi mượn cánh tay của bạn.
Trong cách này, mỗi tu sĩ
nam nữ, các thiện nguyện viên hay các linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra
những nhu cầu trong sứ mệnh phục vụ của mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối
dài của Chúa Giêsu để xây dựng lại những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng,
Chúa cần những đôi chân của chúng ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa
muốn những đôi tai của chúng ta để nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha
nhân. Chúa dùng miệng lưỡi của chúng ta để nói những lời thân thương, khuyến
khích, ủi an và nâng đỡ những kẻ đau buồn, khổ sở và thất vọng.
Trong thơ gởi cho tín hữu
Ephêsô, thánh Phaolô đã viết rằng: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả
khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh
thiện, nhờ tình thương của Người (Eph 1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn
niềm tin nơi Đức Kitô. Chúa đã chọn và gọi Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi
ông từ một người bách hại các Kitô hữu trở nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa
Giêsu Kitô. Phaolô đã được sai đi rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Tông đồ
Phaolô đã không ngại gian khó rong ruổi khắp các thành thị và làng mạc để loan
báo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
Giáo Hội luôn kêu gọi
chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi dâng hiến. Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng
đại đáp lại tiếng Chúa trong ơn gọi tu trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức
mình, của cải và khả năng để xây dựng và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta
không thể đổ dồn trách nhiệm cho môt thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng
ta đều có bổn phận và trách nhiệm sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng
tác của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là sự
chỉ trích, gây chia rẽ, đàm tiếu hoặc phá đổ. Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo
còn bao la bát ngát, xin Chúa sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con cảm
tạ Danh Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.
6. Sống thanh thoát – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền
Muốn đất nước phát triển:
"Hãy loại trừ tham nhũng", đó là vấn đề được bàn luận sôi nổi nhất
nơi các kỳ họp quốc hội Việt Nam .
Tham nhũng là gì? Tham
nhũng không đơn thuần là lấy của công thành của riêng. Tham nhũng không dừng
lại ở việc lợi dụng chức quyền để vun quén cho bản thân mà còn cho cả dòng họ.
Đúng như cha ông ta đã nói: "Một người làm quan cả họ được nhờ". Điều
tệ hại của tham nhũng đó là lòng tham đã ăn sâu vào xương tủy những người làm
quan. Lòng tham khiến họ không còn chí công vô tư khi thi hành chức vụ. Lòng
tham khiến họ không thể sống thanh liêm chính trực. Lòng tham dẫn họ đi sâu vào
tội ác và dối trá. Nếu xã hội không còn những người thanh liêm thì làm sao
tránh khỏi ăn bẩn, ăn chận của người thấp cổ bé miệng và đói nghèo. Nếu xã hội
không còn những con người chí công vô tư thì làm sao có công lý và tình thương
trong xã hội hôm nay. Tất cả chỉ là dối trả và phỉnh lừa lẫn nhau.
Lời Chúa hôm nay gợi lên
một hình ảnh thật đẹp về những sứ giả tin mừng. Họ là những người được tuyển
chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù
hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương
cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát.
Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người
chấp nhận cuộc sống nổi trôi "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Sứ
mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến
của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và
tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ bỏ quên đồng loại. Nếu họ quá chú
trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí
sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay
vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản
thân.
Người ta kể rằng: có một
đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng
vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực
sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô
cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn
cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai
này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi
mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh
lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất
thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố
gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò
lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ
cầu nguyện, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản,
người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến
thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con
người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên
trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to
lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con.
Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là
lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một
"cái áo rách".
Chuyện có vẻ hoang đường
nhưng lại là thật. Ma quỷ thường cám dỗ từng bước. Ma quỷ thường gợi lên những
điều hay, điều tốt để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà
đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa.
Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước
khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh
không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại
của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một "chiếc áo rách".
Thực vậy, vì tiền bạc, mà
người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền mà "nhân chi sơ tính
bổn thiện" đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó
là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả
chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh
cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai
lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận
định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật
chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với
lừa đảo, gian trá của thế gian.
Con người luôn hướng về sự
thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính
là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma
quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh
chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm
việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình
lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết
sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì "Phúc cho ai có tinh thần
nghèo khó, vì nước trời là của họ". Amen.
7. Sứ mạng loan báo Tin
Mừng
(Suy niệm của Lm. Giuse
Nguyễn Thành Long)
Sau khoá huấn luyện
"trung cấp" 2 năm về "kỹ năng" loan báo Tin Mừng, hôm nay
Chúa Giêsu đặc phái các môn sinh của mình lên đường thực tập sứ vụ trước khi
cấp "chứng chỉ tốt nghiệp ra trường" cho các ông. Ngay trước lúc lên
đường, Chúa Giêsu đã không quên ân cần dặn dò các môn sinh cách thức để việc
loan báo Tin Mừng mang lại hiệu quả như ý. Tựu trung lời dặn dò đó chứa đựng 3
bí quyết, như là "kim chỉ nam" cho các nhà truyền giáo mọi thời mọi
nơi.
1. Loan báo Tin Mừng - sứ
mạng phải được thực hiện trong chiều kích cộng đoàn
Cá nhân chủ nghĩa không có
chổ đứng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Bởi chưng, Chúa Giêsu không sai các
môn đệ đi từng người một, lẻ loi, đơn độc, để rồi các ông cứ mãi hát khúc hát
"Cô đơn một cõi đi về". Ngài sai họ đi là sai từng hai người một,
cùng với các Tông đồ khác tạo thành nhóm, thành cộng đoàn. Qua đó, các ông được
huấn luyện tinh thần làm việc chung, làm việc với người khác. Tinh thần làm
việc chung, việc nhóm mới có khả năng tạo nên sức mạnh kỳ diệu (các giải thưởng
Nobel trong những năm gần đây chứng minh điều này. Hầu hết đó là những công
trình của một tập thể, một nhóm). Hơn nữa, trên phương diện chứng tá, chứng của
hai người trở lên bao giờ cũng có giá trị hơn. Giá trị còn là vì cộng đoàn tính
nói lên tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ. Cộng đoàn tính còn
là lời chứng sống động về tình huynh đệ yêu thương mà họ rao giảng. Bởi thế, ta
không ngạc nhiên khi thấy các vị thừa sai thường được phái đi từ 2 hoặc 3 người
đến một giáo điểm hay một vùng miền nào đó để làm việc Tông đồ truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu khi được
Chúa Cha sai đến trần gian, Ngài không đi một mình, nhưng có Chúa Thánh thần
cùng đồng hành và cùng hoạt động với Ngài.
2. Loan báo Tin Mừng - sứ
mạng cần được thực hiện với tinh thần siêu thoát
Siêu thoát khỏi những dính
bén với của cải vật chất, tiền bạc để sẵn sàng lên đường, sẵn sàng đi đến bất
cứ nơi đâu một cách nhanh nhẹn và vui tươi. Siêu thoát với mọi thực tại đời này
để toàn tâm, toàn ý cho sứ mạng được giao phó. Thái độ siêu thoát cũng là dấu
chứng nói cho người khác biết lòng tin tưởng phó thác của người môn đệ vào sự
quan phòng của Chúa. Chúa Quan Phòng phải là người bạn đường của người loan báo
Tin Mừng. Nếu gạt Chúa Quan Phòng sang một bên, người tông đồ chỉ còn loay hoay
vun vén, "đào hang", "xây tổ" cho riêng mình.
Chúa Giêsu đã nêu gương
cho các môn đệ của Ngài về tinh thần siêu thoát và tín thác. Khi đến trong trần
gian, Ngài không mang theo gì ngoại trừ tình yêu của Chúa Cha. Khi sống trong
trần gian, cũng như khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài hoàn toàn sống phó thác vào
sự quan phòng của Chúa Cha. Chính Ngài đã bộc bạch: "Chim có tổ, cáo có hang;
còn Con Người không có chổ tựa đầu" (Lc 9,58).
3. Loan báo Tin Mừng - sứ
mạng phải được thực hiện với năng quyền của chính Chúa
Lệnh truyền và sứ điệp
loan báo Tin Mừng không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Do đó, để có
thể chu toàn sứ mạng, cần đón nhận năng quyền Thiên Chúa ban. Đó là năng quyền
rao giảng: công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô. Đó là năng quyền chữa lành và
thánh hoá nhằm cải thiện đời sống và phong hoá trần gian. Đó còn là năng quyền
trừ quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
Kinh nghiệm của các Tông
đồ ngày hôm nay cũng cho thấy Thiên Chúa luôn dẫn dắt chúng ta đi: "Ơn ta
đã đủ cho ngươi". Đức Tổng Giám mục Vacchelli, Tổng Thư ký Hội đồng Giám
mục Ý quốc, khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Trợ lý Tổng Trưởng của Thánh Bộ
Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc và Chủ tịch Hiệp hội Giáo hoàng Truyền giáo,
ngài cho hay: "Gia nhập vào Thánh Bộ là chịu trách nhiệm trực tiếp với
1.100 giáo phận trên toàn cầu, 2.000 giám mục và vô số các giáo sĩ, nam nữ tu
sĩ. Và trên hết vấn đề chính không chỉ là nghèo đói, nhưng là xây dựng một đời
sống theo đường lối Kitô giáo. Vì thế, phạm vi rộng hơn nhiều".
Đối mặt với lượng công
việc đồ sộ như vậy, ngài vẫn tràn trề hy vọng nói: "Khi anh làm việc cho
Thiên Chúa, Người luôn đi trước anh, thu xếp tính hèn yếu của anh bằng ân huệ
của Người". Nếu ý thức được như thế, các vị thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ
bớt lo khi thấy trách nhiệm năng nề, đồng thời sẽ bớt tự mãn kiêu căng khi làm
được việc này việc nọ.
Qua Bí tích Rửa Tội, đặc
biệt là Bí tích Thêm Sức, người Kitô hữu, cũng là người được sai đi. Được sai
đi cùng với người khác, được sai đi với tính thần siêu thoát và được sai đi với
ơn sức của Chúa. Đối tượng mà chúng ta cần nói cho biết về Chúa, không ở đâu xa
mà ngay trong gia đình, gia tộc và xứ đạo của mình. Họ là những người thân
thích với ta, là bà con lối xóm của ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ
là những người cùng nghề cùng sở làm với ta...
Thế nhưng câu hỏi đặt ra
là khi thực hiện ơn gọi loan báo Tin Mừng, tôi đã nêu cao tinh thần chung, tinh
thần cộng tác với anh chị mình chưa hay vẫn còn cá nhân chủ nghĩa? Tôi đã đề
cao tinh thần siêu thoát chưa, hay còn quá dính bén với những thực tại đời này,
và quá chú trọng đến việc "xây tổ", "đào hang" cho mình? Và
nhất là tôi đã hết lòng giương cao sức mạnh của Chúa chưa, hay chỉ toàn cậy dựa
vào tài cán và sức riêng mình?
8. Không bánh mì, cũng
chẳng tiền túi
(Suy niệm của Lm. Nguyễn
Ngọc Thế)
* Vài hàng sơ lược
- Sau khi bị người đồng
hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu
vẫn thản nhiên và Ngài tiếp tục lên đường đến các làng chung quanh để giảng
dạy. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.
- Đoạn này có thể chia như
sau: (1) 6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các
môn đệ phải trang bị những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản
ứng trước sự đón tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh
của các môn đệ.
- Trong cái nhìn nhất lãm,
thì Luca nêu đoạn 9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn
trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt 10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca
đã lấy lại đoạn phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt:
Luca không đề cập đến việc đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra,
Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì
lại không. Ý nghĩa nằm trong câu: "Người sai các ông đi rao giảng Nước
Thiên Chúa" (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều sự khác biệt.
Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4). Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ:
"Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en" (câu 6). Ý
nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì gần giống như Luca.
* Suy niệm
"Rồi Người đi các
làng chung quanh mà giảng dạy."
Các làng chung quanh ở đây
là các làng nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc
giảng dạy của Giêsu ở đây có ý nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao
giảng sắp tới.
"Người gọi Nhóm Mười
Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ
quỷ."
Nhóm Mười Hai mà Giêsu
thành lập (ss. Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ
mạng thực sự bắt đầu. Sau những ngày được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3,
14), để đi sâu vào tương quan với Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì
giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào "chín chắn", nên Giêsu sai các
ông lên đường. Ngài sai các ông đi từng hai người một. Tại sao lại từng hai
người một? Theo các nhà chú giải thì trước hết liên quan đến việc làm chứng của
người Do-thái. Chỉ có một người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả, hay nói
mạnh hơn là không phải là người làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì
không thế dẫn tới quyết định trong tòa án, mà cần phải có hai người hay ba
người làm chứng: "Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một
người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn
cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới
được cứu xét." (Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh
còn có một số đoạn nhắc đến cặp "hai người", như trong cuộc tranh
luận với người Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã nói: "Trong Lề
Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm
chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho
tôi." (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19: "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở
dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh
Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."
Như vậy, việc làm chứng
của "hai người" còn có ý nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự
thật về chính Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng
Nước Thiên Chúa cho mọi người. Sự thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách
thật rõ ràng và chất lượng hơn, khi có hai người cùng đi chung để rao giảng và
loan báo.
Có lẽ đây là điều quan
trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao
giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô
và Gioan.
Và Giêsu đã ban cho họ
quyền trừ quỷ. Điều này được Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1,
21-28), qua đó quyền năng của Giêsu được "tô đậm", quyền năng giải
phóng con người khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật điều này, vì độc giả
của ông là những người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần nhận ra sự gần gũi của
Thiên Chúa, ngay cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần gũi và quyền năng Thiên
Chúa chính là bảo đảm cho sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm,
các môn đệ ra đi với quyền năng của Giêsu để trừ quỷ.
Thực, trong trận chiến đấu
với thần dữ, thì nếu không mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể
nào chiến thắng được: "Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và
trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên
Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến
đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với
những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời
cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như
thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen
tối." (Ep 6, 10-13) Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần đến.
Với sự sai đi và với quyền
năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng
mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ
trong thế giới.
"Người chỉ thị cho
các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương
thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai
áo."
Lời nhắn nhủ của Giêsu ở
trên được coi như là chỉ thị, tiếng Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ
điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản
(Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament), thì động từ này xuất hiện 31
lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho
thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm 12 (Mc 6,8).... Ở đây, trong đoạn phúc
âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho
nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó là gì vậy?
"Không được mang gì
đi đường", nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó
là nguyên tắc rất triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người
môn đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những
nhà thuyết giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì
họ không có nhu cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo
mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng
không có túi xin tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc
bụng, đến cả của ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một
thôi chứ không phải là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải từ
bỏ những vật dụng đó?
Không mang lương thực đi
đường, không bánh trái gì cả. Điều này còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ
Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì họ đem theo bánh, trái vải và bình nước.
Như vậy, người loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên
Chúa, và cũng tự do và khiêm nhường đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho
mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà
thì sẵn sàng ngồi lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản dị.
Giản dị hơn nữa, khi chẳng
đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không
vương vấn điều gì, không giữ lại sự gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà
tay cũng rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để
tất cả cho Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên
tiền bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh được biết bao nhiêu phiền
toái tiền bạc có thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ, đỡ
phải mệt mỏi ôm đống tiền trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa,
trong xã hội Đông Phương thời đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ
tránh được sự trấn lột của kẻ cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do
hoàn toàn với tiền bạc, tự do với thế lực của đồng tiền mà người đời thường
nói: "Có tiền mua tiên cũng được."
Vật được mang theo là gậy
và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi nhé!
Tại sao vậy? Cây gậy ở đây
là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp
mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác,
người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mọi người. Không ai
phải sợ sệt người giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin Mừng cũng không cần
phải hãi sợ ai hết: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che
giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết.
Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh
em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. "Anh em đừng sợ những kẻ
giết thân xác mà không giết được linh hồn" (Mt 10, 26-28a) Và người rao
giảng sẽ "không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc CHÚA
làm." (Tv 118,17)
Dép được nhắc ở đây chính
là Sandalion, tiếng Hy-lạp là sanda,lion, có thể mường tượng như giày Sandal có
quai như hiện giờ, là một vật dụng cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi
loan báo Tin Mừng. Sandal được sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó,
và rất cần thiết cho những chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác.
Cũng nên nhớ rằng, ở Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì
thế Sandal thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự
tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có
mang tang tóc, vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn
nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai
đang cần đến Tin Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra,
người loan bao tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ một mà thôi.
"Áo" ở đây dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển chú giải
Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider, thì áo này là một loại áo dài bằng
vải thô hay len, dài có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình dưới,
có cả hai loại tay ngắn và tay dài.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl,
trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú
quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ
có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón mình
đàng hoàng, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác
nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp
đường.
Người loan báo tin mừng của
Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải
mang áo có hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người loan
báo tin mừng, thì cũng thế, không ai phải ganh tị với người loan báo tin mừng
về áo quần cả.
Như vậy, tinh thần của
người loan báo tin mừng là trở nên tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở
thành thứ yếu. Chỉ có Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là
tất cả. Không có gì hơn cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô.
Vâng, nói theo tinh thần của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải
trở nên bình tâm và tự do hoàn toàn, để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao
ước được trở nên nghèo khó như Đức Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn,
nhưng đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho mọi người.
"Người bảo các ông:
"Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra
đi."
Sau các chỉ thị về việc từ
bỏ tất cả những gì không cần thiết để lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm
hai nguyên tắc, khi đi đến với những người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên
quan đến lòng hiếu khách và đón tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng
một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha
thứ cho người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối
không đón tiếp. Về phía khách, ở đây là những người rao giảng tin vui, thì
không được phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có
thể việc rao giảng và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều thời gian, nên không
không được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa "đâm rễ"
vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.
"Còn nơi nào người ta
không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý
phản đối họ."
Nguyên tắc thứ hai ở đây
liên quan đến sự từ chối, không đón tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối
từ người rao giảng và sứ điệp anh ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta.
Sự chối từ đem lại hậu quả. Như trong phản ứng của Giêsu với những người Na-za-réth,
Giêsu nói với các môn đệ mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để tỏ ý phản
đối họ. Thái độ giũ bụi này trong xã hội Do-thái thời đó, được người Do-thái
làm, mỗi lần họ từ đất dân ngoại trở về lại biên giới của đất thánh. Theo
truyền thống của các Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn tẩy
rửa và giũ lại tất cả những gì dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì
trong đoạn phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà
người rao giảng tin mừng để lại, và hy vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ
suy nghĩ lại, tự chất vấn lại thái độ của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng
là chủ của Tin Mừng.
"Các ông đi rao
giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho
nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh."
Nhóm Mười Hai ra đi theo
lời sai đi của Giêsu, và họ đã làm được nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi
rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà
Giêu đã trao, họ đã trừ được nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua
đó nói lên quyền năng của Thiên Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con
người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa
họ khỏi bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo
lời kêu gọi của Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các
môn đệ đã cùng với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ
nhận được sự tự do làm con cái Thiên Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui
sống mà mọi người có thể tìm thấy trong Nước Trời.
9. Những lời căn dặn cho
việc thi hành sứ vụ.
(Suy niệm của Camille
Gagnon)
Hôm nay, xin anh chị em
cho phép tôi giảng một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ
hè. Tôi muốn nói về gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra
sao.
Điều khiến tôi nói về gia
đình này, là Tin Mừng bảo rằng "Lần đầu tiên" Chúa Giêsu sai các môn
đệ, từng hai người một, đi rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước
lúc lên đường. Tôi không biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn
dò này không, nhưng tôi biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân
theo, và họ là làm hỏng kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh
nghiệm cắm trại của gia đình Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.
"Đừng mang theo hành
lý cồng kềnh".
Lời căn dặn đầu tiên của
Chúa Giêsu thật rõ ràng: "Đừng mang theo hành lý cồng kềnh". Vì ông
Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ
cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ,
v.v... Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất
cứ món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận
rộn chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm trại,
sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô ích.
Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ
thấy được yếu điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu
không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho cuộc
sống của mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp
đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện
nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh
thơi để có được những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.
"Đừng đi lăng xăng
khắp nơi!".
Lời căn dặn thứ hai là
đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành
công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp
gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế
và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước,
mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần,
bà đã "quen biết" nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên,
Chúa Giêsu đã nói: "Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho
đến lúc ra đi!". Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào
đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào
đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ
có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại,
đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu
bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào
nếu không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi
này đến nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc
gì cả.
Bọn trẻ nhà Tremblay trở
về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với
chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai
ngày đẹp trời nhất, v.v... Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng
chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ
lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn dặn
cuối cùng là: "Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ
đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ
chỉ ngăn cản các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi".
Tóm lại sứ vụ của các môn
đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần
những lời căn dặn này sao: "Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng lại
để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để bắt
đầu lại cách tốt hơn".
10. Thiên Chúa nói qua
trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa luôn làm việc.
Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người
đặc biệt để nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều
phải là người đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.
I. Amos đã được sai để nói
nhân danh Thiên Chúa cho dân Ngài
Con người là tạo vật được
yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người
sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách
đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên
tri Amos cho thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri "chuyên
nghiệp", nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri.
Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa
gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.
Tiên tri Amos đã được Chúa
sai tới nói với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah
đuổi: "hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri,
mà kiếm cơm ở đó". Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy
chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh
Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để
nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng
Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân
chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân
không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao
giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc không
đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ
xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel
đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.
Tiên tri, là người của
Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ
nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết
sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà tiên tri "chuyên nghiệp",
kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng
dân chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri "thật"
trong lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều
người cho là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng
theo Chúa bất chấp những gì xảy tới cho mình.
II. Đừng mang theo gì cả
trừ cây gậy
Sau khi nhận phép rửa tại
sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày
trong hoang địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao
giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói,
không sợ vất vả, không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức
Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính
Ngài đang là Lời cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.
Đức Giêsu cũng sai các
tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương
lai. Ngài ban cho các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một,
dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người
tông đồ rất đơn giản: không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không
hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.
Người tông đồ của Chúa
không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng
diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho
tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả,
kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của
Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ
không đủ điều kiện để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận
họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.
III. Người được sai cũng
là quà tặng của Thiên Chúa cho con người
Thiên Chúa tạo dựng con
người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm,
Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn
vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện
chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con
người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn
thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc
về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền
bạc, Ngài không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người
nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi
ngày.
Thiên Chúa muốn ban tất cả
cho con người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban
cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con
người nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức
Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức
Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa
sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn
tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho con người.
Đức Giêsu Kitô là điều gì
vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức
Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta
hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có
nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng
là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng
tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người,
hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô
cùng, đến độ mình có thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có nghĩ rằng bạn là
người được Thiên Chúa sai để làm điều gì chăng? Nếu có xin chia sẻ.
2. Theo bạn, Đức Giêsu
được sai tới để làm gì? Ngài có làm trọn sứ mạng của Ngài không?
11. Lời dặn dò cần thiết –
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười
Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách
cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm.
Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ "gọi,
sai đi" diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên
đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông
đồ. M. Quesnel ví những lời đó như "một loại thủ bản, một cẩm nang cho một
nhà truyền giáo hoàn hảo" ("Comment lire un évangile?", Seuil,
trang 103).
1. Hành trang người tông
đồ
a. Hành trang đi đường:
cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải
là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để
có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Các môn đệ được tham dự
vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương
đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu
trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo
Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố
Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống,
xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn
lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh
em".
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc
lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của
lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các
ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một
chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như
thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do
tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
b. Phương tiện sinh sống:
không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người
được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không "mọc rễ"
bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
c. Tương lai bấp bênh.
Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường
đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị
xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi.
Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà
cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng
cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị
cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công
tạm bợ...và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm
bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ
luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám
lên đường tìm kiếm.
2. Phương thức hoạt
động:"từng hai người một"
Khi sai đi "từng hai
người một ", Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích
lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ
ngã, người này đỡ người kia dậy" (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng
đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của
Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người
khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các
nhà truyền giáo thường lên đường với nhau "từng hai người một": Phêrô
đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv
15,22)... Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một
bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn
trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người
môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
3. Tinh thần tông đồ là ra
đi
Trao "Sứ vụ" cho
các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông "phải giảng điều gì". Ngài
chỉ căn dặn các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Chúa Giêsu, ra
đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Suốt mấy năm ra mặt với
đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn
ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội
đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi
cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi
"mệt mỏi vì đường sá", một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với
người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh
đông đảo quá thì "Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin
ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà
giảng dạy dân chúng" (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình
liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,
rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội
đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum...
Ngài ngang qua đồng lúa ... Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh
đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi
hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn
ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một
đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những
hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi
đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn
người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra
bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài
cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa
Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn
cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: "Sáng
đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố
giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem
Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa" (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa
Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường
trên thế giới Ngài đang sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang
cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ
toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê,
rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải
đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường "công lý" của loài
người.
Bị kết án thập hình. Hai
tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32
-15,47). "Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại" (Mt
27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ
ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài
cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi
loan báo Tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng,
"Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha" (Mc 16,19) và luôn đồng hành
cùng Giáo hội "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". (Mt
28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ
và "thiết lập Nhóm Mười Hai" để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo
hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi
đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui
và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ
phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang
có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là.
Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì
ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người
ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra
đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng
con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa
vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
12. Suy niệm của Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi
Nếu các ngôn sứ là những
người nói thay cho Thiên Chúa trong thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn
sứ của Chúa Kitô và được Người sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ
Lời Chúa Chúa Nhật trước đã nói với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu
Ước, đồng thời cũng giới thiệu cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Kitô.
Bài Tin Mừng hôm nay là những lời Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ trước khi sai
họ lên đường thực tập việc rao giảng.
1. Ông A-mốt, một nông dân
được kêu gọi làm ngôn sứ (bài đọc Cựu Ước – A-mốt 7,12-15)
Câu truyện ngôn sứ A-mốt
bị tư tế A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi, cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra
một ngôn sứ đích thực. Vốn là một nông dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn
nuôi và trồng cây, ông A-mốt không hề nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi
ông làm công việc của một vị ngôn sứ. Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở
miền bắc vương quốc Ít-ra-en, dưới thời Gia-róp-am II (783-743 trước công
nguyên). Với tính tình chất phác của người nông dân, lời giảng của ông giản dị,
dễ hiểu, nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo
tội ác của mọi giới trong Ít-ra-en đã khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và
không muốn thấy ông hiện diện tại miền đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế
đền thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là
"thầy chiêm", danh từ ám chỉ người phục vụ các thần ngoại chứ không
phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ ngôn sứ của A-mốt là một
"nghề" để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn hiệu "Bết-Ên,
thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều" để dọa nạt A-mốt.
Trả lời cho vị tư tế, ông
A-mốt đơn giản cho biết: ông không phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không
muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những
gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là "đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân
Chúa".
Thực thế, ngôn sứ là người
đáp lại lời gọi của Chúa để thi hành một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp
hay một địa vị xã hội để vênh vang lên mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh
mục, tu sĩ, ngay cả những người chọn sống bậc gia đình hay độc thân đều là
những người sống ơn gọi. Còn bác sĩ, luật sư, kỹ sư... là những người chọn một
nghề nghiệp. Ơn gọi là để phục vụ, còn nghề nghiệp thì mục đích chính là để
kiếm tiền và nếu hành nghề với lý tưởng phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu
vậy thì ngoài các linh mục tu sĩ là những người chọn việc phục vụ, ta là những
anh chị em giáo dân cũng vẫn có thể phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp
để sinh sống. Khi ta thi hành nghề nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề
nghiệp để không những kiếm sống, mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề
nghiệp của ta tức là ta đang làm công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng
chính công việc của ta, bằng cách giao tiếp với những người liên hệ trong đức
ái Kitô, trong đức công bằng và bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài
năng trong lãnh vực nghề nghiệp để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích,
chú tâm tới những người cần giúp đỡ về mọi phương diện... Đó là ta đang cùng
một lúc vừa thi hành nghề nghiệp, vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực
tiễn nhất để chu toàn tác vụ ngôn sứ của ta.
2. Tinh thần tông đồ (bài
Tin Mừng – Mác-cô 6:7-13)
Trước khi sai các Tông đồ
ra đi rao giảng, Chúa Giêsu đã phải huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các
ông có cơ hội "học việc" với Chúa khi các ông theo Người đi khắp nơi,
các ông vẫn cần một thời gian "thử việc" sau khi nghe những lời căn
dặn quan trọng của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm nay không phải là một
bản đề cương chi tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ ràng, nhưng là những lời
đơn sơ nhắm nói lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là điều các ông cần phải
có. Nên nhớ đây không phải là một "nghề nghiệp" cần phải có bản
"mô tả công việc" như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một "ơn
gọi phục vụ" Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.
Trước hết Chúa sai họ đi
từng hai người một, để họ không lẻ loi, nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi
gặp những gian nan thử thách. Tiếp đến, Chúa "ban quyền" cho các ông,
không phải để dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ hay áp bức người khác, nhưng là
để sử dụng mà giải thoát người khác khỏi quyền lực của ác thần, bệnh tật thể xác
cũng như tinh thần.
Những lời căn dặn của Chúa
Giêsu nhắm đến tinh thần tông đồ và cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn
cảnh rao giảng. Nói đến tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần
tự do, không vướng mắc vào tiền bạc, của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng
ở đời. Người tông đồ "không được mang gì đi đường" và chỉ độc nhất có
"cây gậy và đôi dép" làm hành trang! Không mang theo gì cả, ngoài lý
tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng nề sẽ làm tổn thương
đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy dựa vào tình yêu cũng
như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của Chúa giúp họ bền bỉ và
can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.
Về cách giao tiếp và ứng
phó với hoàn cảnh, người tông đồ phải luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết
nhất. "Khi anh em đã vào nhà nào" là cách nói ám chỉ người tông đồ đã
được người ta tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì người tông đồ cứ tác vụ mình
mà thi hành, "ở lại đó" mà rao giảng, mà phục vụ, mà làm khí cụ bình
an của Chúa, chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do đích thực, đừng vướng
mắc bất cứ gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ thẳng thắn khi được
tiếp nhận, nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không được đón tiếp niềm
nở hay thậm chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng nguyền rủa những
người xử tệ với họ, nhưng chỉ thẳng thắn "cảnh cáo" những kẻ ấy đã
không tiếp nhận Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.
Lời dặn dò của Chúa Giêsu
chẳng cần văn hoa hoặc đao to búa lớn, nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần
thiết nhất và thực tế nhất. Tinh thần tự do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là
hành trang của bất cứ ai muốn đáp lời Chúa ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho
những giá trị Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy người giáo dân chúng tôi làm thế
nào để áp dụng tinh thần tự do và thẳng thắn ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ
sống như một người Công giáo không để cho tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm
chủ mình. Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành thực trong những giao tiếp, đối xử
với những người chung quanh, lúc nào cũng cố gắng thực thi lời dạy "hãy
yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con" của Chúa. Như thế là ta
đang làm ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng nhân cho Tin Mừng của Người rồi.
Thánh sử Mác-cô kể rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng đã gặt hái
được những thành quả tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái được những
hoa trái tông đồ ấy không phải là điều không thể đối với ta, những Kitô hữu hôm
nay.
3. Trong Đức Kitô, Thiên
Chúa đã chọn ta làm nghĩa tử (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 1:3-14)
Được Thiên Chúa chọn và
gọi làm ngôn sứ là một ân sủng lớn lao. Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử
còn là một ân sủng lớn lao hơn nữa. Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm
nghiệm ân sủng cao sâu đó, nên mở đầu thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành
một đoạn hết sức tuyệt vời để dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc
tụng Chúa, vì trong Đức Kitô, Chúa đã thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng
lớn lao mà ngài gọi là "kế hoạch yêu thương". Kế hoạch này được thực
hiện đều là nhờ Chúa Kitô. Vậy trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa làm
gì cho ta? Thánh Phao-lô kể ra những việc sau đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và
muốn ta nên tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4); b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta
làm nghĩa tử nhờ Đức Kitô (1:5); c) Thiên Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra
(1:7); d) Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Kitô
(1:11); e) Thiên Chúa đã cho ta được diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f)
Thiên Chúa ban Thánh Thần làm bảo chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả
những điều này đều là những điều Thiên Chúa đã "tiền định", tức là đã
có kế hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời
này chỉ là những may rủi hay trùng hợp, chứ không thể là "Chúa định"!
Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền định điều tốt thôi, đó là sắp
đặt "kế hoạch yêu thương" để mong ta đáp lại, cộng tác và sau hết
được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền định để cứu độ ta,
Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ không tiền định một
cách độc đoán đến độ "bắt" ta "phải" lên thiên đàng đâu!
Có khi nào trong đời Kitô
hữu, ta biết dừng lại một chút để suy nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên
Chúa và dâng lời chúc tụng Người như thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái
điệp khúc "ta là con cái Chúa và được Người cứu độ" đã trở thành quá
quen thuộc đến độ ta không còn để ý tới ý nghĩa sâu xa của nó nữa, nhất là ta
quên rằng đó là một kế hoạch của tình yêu? "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì
Thầy cũng sai anh em" (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha đã sai Đức Kitô đi
thực hiện kế hoạch yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Kitô sai ta đi làm ngôn sứ
và chứng nhân cho kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống yêu thương của ta.
4) Sống Lời Chúa
Chúa Giêsu kêu gọi các
thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng
Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh
của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu
thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Kitô,
ta cố gắng sống cuộc đời Kitô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời
nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh
chị em.
Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là
người được sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là
tông đồ của Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với
tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con
Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các
tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ
tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường
niên).
13. Loan báo Tin Mừng.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Lịch sử truyền giáo ở Việt
Nam
ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la
Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục
này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ
trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức
Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung
Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là
người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm
vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các
nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến
miền Bắc Việt Nam ,
lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin.
Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can
thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều
gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói:
"Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc". Vừa được trả tự do, ngài
tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây
theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: "Tôi
tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc
Việt và tới Trung Quốc!".
Thưa anh chị em, cuộc đời
truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà
truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của
mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại
bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên
những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ
khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh
mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần
những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã
trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ
quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa
Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười
Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời:
"Không được mang gì khi đi đường". Không bánh trái, không bao bì,
không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ
nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy
nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường
với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ
phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha
nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc
đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính
Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi
không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho
các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở
lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo,
đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp
thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng
hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm
nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không
phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế
giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi
giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng
cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong
thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là
người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống
để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi
con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì
phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại
trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải,
phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ
quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là
một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh
tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng
tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến
bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải
quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết
thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm
nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai
chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính
vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn
là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín
thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng
Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu
tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta
ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng
này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và
của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng
đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.
14. Chúa sai các tông đồ
đi từng hai - Noel Quesson.
Gandhi là vị cứu tinh của
Ấn Độ, ông rất cảm phục Đức Kitô. Ông đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy "bài
giảng trên núi" của Chúa làm phương châm hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu
cụ thể hơn về Giáo Hội, ông đi tới một nhà thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ,
một người chực việc tiến lại bảo ông: "Nếu những người Công Giáo sống đúng
theo Tin Mừng Đức Kitô thì dân tộc của tôi bớt khổ". Ông Gandhi mới có ý
nghĩ đó. Nhiều người chúng ta cũng lấy làm tiếc vì không được chính Chúa Giêsu
đích thân điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và thấy rằng trong các cộng đoàn nhỏ,
có nhiều người ở cấp điều hành đã làm người ta hiểu sai về Tin Mừng ở Đức Kitô.
Nhưng biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Chúa phải chịu chi
phối do không gian và thời gian. Muốn thiết lập một Giáo Hội trường tồn trong
lịch sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa vào tay con người trần thế. Ngay từ khi
bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa đã huấn luyện các môn đệ để các ông tiếp tục
sứ mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay đây, Chúa trao sứ mệnh tiếp tục công việc
Chúa làm nơi trần gian cho mỗi người chúng ta. Mọi Thánh Lễ chúng ta tham dự,
đều kết thúc bằng lệnh truyền sai đi: Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi
bình an.
Theo lệnh Chúa, các Tông
đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao
giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông
làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi từng
hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng
nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng
có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng
đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của
Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu
mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ
sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng
đoàn tín hữu đầu tiên: "Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!". Và đó
cũng là định hướng của chính Đức Kitô: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết
các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau". Cuộc sống yêu
thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao
giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con biết dùng cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng
đoàn và trong môi trường sống của chúng con.
15. Ngài gọi và sai đi.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đức Giêsu là người làm nên
Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với
Ngài (x. Mc 3,14), họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi phải là
người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Đức Giêsu sai họ lên
đường. Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền
chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang lên đường của các ông. Mọi hành
trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi
đi đường.
Đức Giêsu cấm các ông
không được mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc... Không lương thực đi đường
nên có thể bị đói. Không bao bị nên không thể để dành. Không tiền bạc nên không
thể mua sắm. Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa
và của con người.
Ra đi mà không có một chút
bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và
thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của
Thầy: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn
rao giảng ở đó nữa" (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính
thiết yếu của người tông đồ. Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về
Nước Thiên Chúa đang đến. Đó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai
ưa. Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi những đòi
buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân, cũng không
mỵ dân để vuốt ve dư luận. Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón một cách
nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục
vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm
niềm vui của các môn đệ. Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng. Những
người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh. Họ đem đến cho con người niềm
vui, sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn sai
ta đến trong thế giới. Đi từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau. Chúng
ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy
dựa vào Chúa. Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng chán
chường, bệnh hoài nghi khép kín... Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm
nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lên đường là ra đi, nhưng
cũng là ở lại môi trường mình đang sống. Bạn thấy làm chứng cho Chúa tại nơi
bạn học hành, làm việc, có khó không? Đâu là những cản trở?
Thế giới hôm nay là thế
giới bị nô lệ dưới nhiều hình thức. Bạn thấy được những hình thức nào? (nô lệ
cho vật chất, tiện nghi, chức vị, xác thịt...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin sai chúng con lên
đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào
những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được
những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết
chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về
Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả
năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô
những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới
thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay
nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
16. Lên đường thi hành sứ
vụ với Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Ignatio
Trần Ngà)
Mười hai môn đệ lên đường
theo lệnh Chúa Giêsu mà chẳng mang theo gì cả: không lương thực, không tiền
bạc, không mang thêm chiếc áo thứ hai, không bao bị, ngoại trừ hai vật dụng tối
cần là cây gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9). Ngoài ra, các môn đệ lại là những người
ít học, khả năng khiêm tốn...
Vậy mà các ngài đã đạt
được những thành quả tuyệt vời: Xua trừ nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh
nhân, kêu gọi người ta ăn năn sám hối! (Mc 6,13).
Nhờ đâu các ngài đạt được
những thành quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng
Thiên Chúa.
Khi sai các môn đệ lên
đường không chút hành trang, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong
hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên
Chúa. Chính Chúa Giêsu hoạt động qua các vị như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của
Chúa Giêsu
Từ ngày lãnh bí tích rửa
tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành liền cây, như
bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ,
tư tế và vương đế của Chúa Giêsu.
Từ đó, Chúa Giêsu muốn rao
giảng qua chúng ta là môi miệng của Người; Chúa Giêsu muốn chăm sóc bệnh nhân
và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Người; Chúa Giêsu muốn tỏ lòng
thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta phải
cùng hoạt động với Chúa Giêsu và để Người sử dụng chúng ta như chi thể của
Người mà tiếp nối sứ mạng loan Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ
mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn
đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn
chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giêsu dù không mang lương
thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được
thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế
nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giêsu sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê
bại
Nhân loại hôm nay đông đảo
gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin
Mừng lúc nầy càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giêsu
vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như các môn
đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giêsu,
chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Người.
Một chi thể không cùng các
chi thể khác tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại hoặc
là một chi thể thừa (như ngón thứ sáu -ngón tay thừa- trên một bàn tay).
Một chi thể tê bại (hoặc
thừa) chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng
ngại cho hoạt động của toàn thân.
Chắc chắn không ai trong
chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến
thân làm khí cụ cho Chúa Kitô.
Khi chúng ta hiến đời mình
để Chúa Giêsu sử dụng như bàn tay của Người, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ
được Người thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
17. Chân dung của Sứ giả
Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ
Duy Tuyền)
Một cuộc đời đẹp là một
cuộc đời dấn thân vì lợi ích cho tha nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn
luôn thanh thoát khỏi những bon chen vật chất, những vinh hoa phù phiếm mau
qua. Đó chính là mẫu người mà xã hội hôm qua cũng như hôm nay đang cần, rất cần
họ để điểm tô cho xã hội thêm phong phú nhờ những cống hiến vô vị lợi và đầy
lòng quảng đại của họ.
Đó cũng chính là chân dung
của các sứ giả Tin mừng. Họ đã để lại cho nhân thế những bước chân thật thanh
thoát, nhẹ nhàng nhưng đầy tình người. Họ là những người được tuyển chọn để cứu
nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế
gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám
dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được
mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc
sống nổi trôi "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Sứ mệnh của họ là đẩy
lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ
không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá
quan tâm đến mình sẽ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn
đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch
đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại
sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một
đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng
vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực
sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô
cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn
cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai
này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có
nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo
anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất
thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố
gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò
lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ
cầu nguyện, tối mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng
ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua,
mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm
ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một
tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to
lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con.
Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là
lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái
áo rách. Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng
bước. Ma qủy thường gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo
chương trình của nó. Adam - Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân
phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương
tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng
tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho
hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một
chiếc áo rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà
người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của
con người ban đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó
là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả
chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh
cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai
lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận
định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật
chất, chúng ta cần có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp
với lừa đảo, gian trá của thế gian. Chúng ta không thể vì tiền mà đánh mất tính
người. Vì tiền mà đánh mất tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ sói để hại
người, hại đời, để làm tôi cho ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ cho trần
gian.
Con người luôn hướng về sự
thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính
là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma
quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh
chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm
việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình
lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết
sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì "Phúc cho ai có tinh thần
nghèo khó, vì nước trời là của họ". Amen.
18. Rao giảng.
Các con hãy đi rao giảng.
Đó là một mệnh lệnh đòi
chúng ta phải ra đi.
Ra đi như các tông đồ, từ
bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có
nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ
gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo
đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận
từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên
ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ
bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô
song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng.
Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì
chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng
ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn
gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người
ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma,
biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người
ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại
mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực
và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả,
vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy
tôn Thiên Chúa...
Nhưng xét cho cùng, vẫn
còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã
hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa
Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do
Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao giảng
như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược
dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta
hãy nhắc lại lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và
đang ở trong tâm hồn những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn
phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng
lời cầu nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt
nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn
bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải
chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám
hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng
gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu
tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện
sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con
của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của
thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người
giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì
bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác,
chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt,
nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được
Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn
nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng
thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng
cách làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng
có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh,
nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng
tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
19. Chúa Kitô.
Chúa Giêsu mở rộng hoạt
động của Người bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. "Nhóm
Mười Hai" là một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được gọi là các tông đồ. Chúa Giêsu
đã tuyển chọn để sai đi rao giảng. Họ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và thúc
giục người ta hoán cải cuộc sống, để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa đang đến
qua con người của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của Tin
Mừng, chúng ta thoáng thấy những qui luật truyền giáo của Hội Thánh tiên khởi.
Hoạt động truyền giáo của Giáo hội được trình bày như là tiếp nối sứ vụ mà Chúa
Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ. Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời nói và
các hoạt động bác ái. Như vậy, Tin Mừng được chứng minh là công trình của Thiên
Chúa nhằm cứu độ những người có lòng tin.
Các giáo phụ luôn luôn
nhắc nhở các tín hữu như sau: "Chúa Kitô tiếp tục hoạt động trong các bí
tích. Khi vị linh mục làm phép Thánh Tẩy, đó là chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng
ta. Khi Đức Giám mục ban phép Thêm sức, đó là chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho
chúng ta. Khi linh mục ban phép Giải tội, đó là chính Chúa Kitô tha tội cho
chúng ta. Các thừa tác viên là những người tiếp nối công trình của Chúa Kitô.
Công việc của các ngài là chính hoạt động cứu độ của Chúa Kitô".
Những thành viên của phong
trào Cursillo đã vẽ một bức tranh Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi một thành
viên của phong trào Cursillo được yêu cầu trở thành tay chân của Chúa Kitô,
tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó mô tả
nhiệm vụ của các thành viên trong phong trào Cursillo, thì điều đó càng đúng
hơn cho các thừa tác viên trong Giáo hội. Họ tiếp tục công việc "rao giảng
lòng thống hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều
người".
Trở thành một thừa tác
viên của Chúa Kitô là một ơn gọi cao quý, nhưng cũng là một ân huệ. Không ai
được tự cho mình có ơn gọi đó. Người ta phải cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn bị
chu đáo cho ơn gọi đó. Nhiều người được gọi nhưng ít kẻ được chọn. Người ta
phải sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, theo sát Chúa Kitô và sống cho Người.
Bất cứ một do dự, một nghi ngờ nào về sự trung tín của Thiên Chúa cũng là một
sự phản bội. Nếu có một sự bất trung nào thì người ta sẽ thấy đó là do lỗi của
chính mình, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm
và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa cho các
bậc làm cha mẹ biết quảng đại dâng hiến con mình trong cuộc sống tận hiến cho
việc phụng sự Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục thánh thiện như
lòng Chúa mong ước.
20. Rao giảng.
Tất cả những người đi tu,
nhất là để làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa kêu
gọi âm thầm trong lòng mỗi người bằng những ước muốn, yêu thích và qua những
biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì hay tới
bàn thờ. Lần thứ hai, Chúa kêu gọi qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề trên hay
Đức Giám mục.
Chúa Giêsu cũng đã hành
động như thế trong việc kêu gọi các tông đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa
kêu gọi họ ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã kêu
gọi từng người một trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới, kẻ
gặp ở giữa đường, người khác đang ngồi thu thuế... Rồi Ngài qui tụ họ lại cho ở
luôn bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các công
việc Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy dân chúng, thấy gương sáng của Ngài. Giờ
đây, muốn sai họ đi truyền giảng Tin Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một lần
nữa như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng:
việc trở thành tông đồ, và linh mục hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng
kiến của cá nhân họ, nhưng là ơn thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các tông đồ
đi truyền giảng, Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Những điều này được coi
là khuôn mẫu, là bộ luật chỉ đạo cho các chiến sĩ truyền giáo. Chúng ta thấy
Chúa không bảo họ phải giảng gì và giảng như thế nào, nhưng phải ăn mặc thế
nào, mang những gì, sinh sống đối xử làm sao với những người mà họ tiếp xúc,
đồng thời dùng quyền năng Chúa ban mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa không dạy
các ông phải rao giảng bằng những bài giảng thuyết tràng giang đại hải hay bằng
những lý luận đanh thép, khôn ngoan, thông thái nhằm thuyết phục mọi người,
nhưng Chúa bảo các ông phải giảng bằng chứng tích, tức là bằng chính đời sống
của họ. Còn những điều các ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn vẹn có hai hay
ba điều: chúc bình an – báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và thúc giục
người ta ăn năn hối cải. Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói ít và làm
nhiều, dĩ nhiên Chúa không cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những giáo huấn
mà họ đã được nghe.
Đối với chúng ta hôm nay,
Chúa cũng kêu gọi và sai chúng ta đi truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi
người chúng ta khi đã lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đều được kêu
gọi và sai đi rao giảng: Có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều bằng việc làm,
tức là bằng đời sống, bằng hành động gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất cả chúng
ta đều phải là chứng nhân của Chúa và của Nước Trời, không ai được chuẩn chước,
cho dù là một bệnh nhân bất toại nằm trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời nói của
các chiến sĩ Phúc âm, của các vị thừa sai, của các linh mục... cũng rất cần
thiết, nhưng với điều kiện là phải đi đôi với bằng chứng đời sống của chính các
ngài, nếu không lời nói của các ngài chỉ là tiếng thanh la não bạt rộn ràng.
Ngược lại, việc rao giảng bằng đời sống, tự nó có năng lực thuyết phục người ta
chấp nhận chân lý mà không cần lời nói, tuy rằng lời giảng vẫn có thể bổ túc
một cách hữu hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe người khác nói: "Lời nói lung
lay, gương bày lôi kéo", lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng
đời sống sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi người
Công giáo là một chứng nhân cho Chúa, cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời sống tốt
lành, thiếu đời sống gương mẫu là chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu làm chứng
nhân và không thi hành đầy đủ sứ mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách rao
giảng, cách làm chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống tốt
đẹp của chúng ta. Nghĩa là làm bất cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy để ý
đối xử với họ thế nào để gây được thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử chỉ
nhỏ nhặt hay những câu nói buông trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ
không tên tuổi, những câu nói giữa trời, những thái độ dường như vô tình ấy
cũng rất có ảnh hưởng và có khi còn ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập có câu:
"Nếu anh không làm được ngôi sao trên trời, anh hãy làm cái đèn trong nhà anh".
Nếu đa số chúng ta không có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ, thì tất cả
chúng ta đều có thể làm tông đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng là một nhiệm vụ
chính Chúa Giêsu đã truyền dạy: "Các con là cái đèn sáng, sự sáng của các
con phải tỏa chiếu trước người ta, để người ta thấy công việc của các con mà
ngợi khen Cha trên trời". Chúng ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh hưởng tốt
và gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ... Vậy nếu một lời nói, một cử
chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến người khác, thì phương chi một hành động,
một công việc và nhất là một nếp sống. Làm gương sáng bằng hành động của chúng
ta có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể nhất là
những việc làm thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia
đã khuyên đứa con cưng của bà như sau: "Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt
con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc.
Con hãy sống thế nào để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà
con lại mỉm cười". Sống thế nào để được như thế? Chỉ có một cách duy nhất
là gieo vào tâm hồn những người chung quanh một tình thương mến, để đến giờ
cuối đó họ phải khóc vì thương tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được
tình người, muốn như vậy cần phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta luôn
ý thức nhiệm vụ tông đồ và cố gắng thực hiện bằng cách làm gương sáng và thể
hiện tình yêu thương để danh Chúa được rạng sáng và nước Chúa được mở rộng.
21. Hoạt động tông đồ.
Rất nhiều lần trong Phúc
âm, Chúa Giêsu đã than thở, đã tâm sự với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà
thợ gặt thì ít...Ta mang lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy
lên.
Vì thế, nỗi lo lắng số một
trong cuộc đời Chúa, đó là huấn luyện các tông đồ, để các ông tiếp nối sứ mạng
của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển chọn
các ông, cắt nghĩa cho các ông được hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban quyền
hành và sai các ông đi truyền giáo. Phần các tông đồ, các ông cũng đã hăng say
đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Với Bí tích Rửa tội, Chúa
cũng đã kêu gọi chúng ta trở nên những tông đồ. Với Bí tích Thêm sức, Chúa cũng
đã sai chúng ta đi vào cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đã
làm được những gì, cho danh Chúa được cả sáng, và nước Chúa được trị đến?
Nhiều người trong chúng ta
đã phủi tay trước nhiệm vụ khẩn thiết ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông đồ truyền
giáo chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục và tu sĩ. Còn họ, đang phải
vật lộn giữa dòng đời, thì còn hơi sức đâu mà nghĩ tới.
Vậy họ đã đưa ra những lý
do nào để biện minh cho thái độ của mình.
Lý do thứ nhất như vừa
trình bày, họ cho rằng hoạt động tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận
của họ.
Nghĩ như vậy là lầm, bởi
vì một khi đã là chi thể của Hội thánh, chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm
về sự sống còn và phát triển của Hội thánh.
Chính vì thế, Đức Thánh
Cha Piô XII đã kêu gọi:
- Hãy liên kết với nhau để
xây dựng lại thế giới.
Hơn thế nữa, Kinh thánh đã
bảo chúng ta:
- Đức tin không có việc
làm thì chỉ là một đức tin đã chết.
Bằng hoạt động, bằng việc
làm, chúng ta sẽ biểu lộ được sức sống của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra,
đó là tôi không có thời giờ và tiền bạc.
Chúng ta nói rằng, chúng
ta yêu mến Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng ta với
một đảng viên, một cán bộ, chúng ta sẽ thấy mình thua xa. Trong một tuần lễ mà
thôi, một đảng viên, một cán bộ đã bỏ ra bao nhiêu thời giờ để hội họp, để thảo
luận, để đi đây đi đó mà phổ biến chính sách đường lối, còn chúng ta thì sao?
Đừng hỏi rằng Chúa đã làm
gì cho tôi, mà hãy tự kiểm điểm xem tôi đã làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng:
mình không có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa quê mùa,
lại vừa dốt nát, làm sao có thể đối đầu với những người học rộng biết nhiều và
trí thức?
Đọc lại Phúc âm chúng ta
thấy các tông đồ là ai? Tôi xin thưa:
- Họ là những ngư phủ đơn
sơ và chất phác, học thì ít mà thiện chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới là
điều cần thiết, như là một câu danh ngôn đã bảo:
- Người ta làm được nhiều
điều tốt đẹp với một trái tim hơn là với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc tông đồ
đâu có phải chỉ là giảng giải, tranh biện hơn thua mà còn bằng lời cầu nguyện,
còn bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của mình nữa.
Trong bàn tay của Chúa,
một dụng cụ tầm thường nhất cũng có thể tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta thường
kêu ca:
- Đạo đức thì suy đồi,
luân thường thì đảo lộn, con người như đã đánh mất niềm tin vào những giá trị
thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
- Chúng ta làm được những
gì để cải tạo xã hội, hay là chúng ta cho rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao
tạo dựng nổi một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng phê
bình chỉ trích, nhưng lại không góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc truyền
giáo, đem ánh sáng Phúc âm đến cho những người chung quanh...
Thiết tưởng, chúng ta nên
ghi nhớ và thực hành lời khuyên sau đây, đó là:
- Thà thắp lên một ngọn
nến còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
22. Hãy đi rao giảng.
Lần đầu tiên sai các môn
đệ đi thực tập rao giảng Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin Mừng hôm
nay chỉ nói đến hai điều: hành trang phải mang theo là những gì và phải xử trí
thế nào trước những thái độ khác nhau của thính giả.
Bình thường, trước khi đi
đâu, nhất là khi đi xa, lâu ngày, một người cẩn thận, bao giờ cũng phải chuẩn
bị, sửa soạn, sắm sửa hành trang. Chẳng hạn: một người tính đi du lịch Đà Lạt
hay Nha Trang, dù chỉ bốn, năm ngày hay một tuần, trước khi đi, người ấy sẽ
chuẩn bị quần áo và những vật dụng cần thiết. Một người mẹ cho con gái đi ở
riêng, trước khi tiễn con lên xe hoa, bà thường sắm sửa cho con đủ thứ áo xống,
vật dụng và căn dặn con đủ cách. Hoặc khi tiễn người con trai đi nghĩa vụ quân
sự, bà cũng lo lắng, sắm sửa, căn dặn con nhiều điều. Trong phạm vi nghề nghiệp
cũng vậy. Làm nghề gì người ta cũng sửa soạn dụng cụ cần thiết: một bác nông
dân đi làm thì phải có cày có cuốc. Trẻ em đi học thì phải có bút mực, sách
vở...
Vậy mà chúng ta thấy,
trước khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu bảo họ: không được mang gì
cả, không mang bị, không mang tiền, không mang hai áo... Tại sao vậy? Bởi vì
Chúa muốn họ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài
vòng cương tỏa của vật chất. Họ sẽ sống một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới
biết bám víu vào Thiên Chúa quan phòng đã sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa muốn
dạy các môn đệ Ngài phải có một tấm lòng sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà con
và chính bản thân, từ bỏ những gì cần thiết... để họ thảnh thơi ra đi, không
bon chen, không dính bén, không vướng víu; và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi
đâu cũng là quê hương. Chúa không muốn các môn đệ Ngài trở thành những hành
khách được trang bị đầy đủ để rồi không còn lo sợ bất trắc. Không, Chúa muốn
các môn đệ Ngài phải biết đặt lòng tin vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài muốn họ
gặp bất trắc để họ biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các môn đệ
từ bỏ, tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng: công
việc rao giảng của họ không dễ dàng: có người chấp nhận, có người không. Vậy họ
phải xử trí thế nào? Chúa bảo: gặp được nhà nào tốt lành, chính đáng, thì ở lại
đó cho đến lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn
lòng hiếu khách. Còn làm khác đi dễ gây hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có lời khuyên
như thế là vì hồi xưa, các nhà truyền giáo không có chỗ ở cố định mà phải nhờ
vả rất nhiều vào các tín hữu để truyền giáo dần dần.
Dĩ nhiên và đương nhiên họ
sẽ không được một số nơi tiếp nhận và còn ngược đãi nữa. Trường hợp đó, Chúa
cho phép ra đi tới một nơi khác, và hãy giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm
bất kính cảu họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân
ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với dân
ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho
những người ấy biết rằng cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai các
môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy
làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất,
được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành
của chúng ta. Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn
mang một sứ điệp, là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là
tác giả viết thư, còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần
gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn
viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị
thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu chúng ta
không sống như thế mà còn sống tệ hơn những người khác thì sao? Chẳng hạn như
vấn đề được nêu lên trên một tờ báo như sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng
theo đạo. Những ngày Chúa nhật hoặc lễ trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ,
rất là nhộn nhịp trong bầu không khí thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một
điều đáng mừng đáng quí. Thế nhưng còn một điều đáng buồn cũng xảy ra thường
ngày trong xóm đạo tôi, đó là thiếu tình thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai
nhà gần nhau, mấy đứa nhỏ chơi với nhau rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó
cãi nhau chí tử. Chẳng hạn: buôn bán, vay mượn tiền bạc của nhau, không biết
quên sót hay thiếu đủ sao đó, rồi cũng đi đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo
động cả khu xóm. Những chuyện như vậy cứ xảy ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một
xóm toàn những người có đạo. Thế mà mọi người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ
đi lễ, đọc kinh, vẫn cứ cãi lộn, chửi nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết
luận: Ước mong xóm đạo tôi ngày càng sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi
lễ, cầu nguyện, nhưng cũng biết sống bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung
quanh.
Có lẽ đó cũng là điều ước
mong của chúng ta. Chúng ta hãy sống đạo ở trong nhà thờ, trong gia đình, ở khu
phố, ở mọi nơi. Sống đạo thực sự như thế là chúng ta cũng đang đóng góp phần
mình vào công cuộc tông đồ của Chúa và Giáo Hội.
23. Người sai họ đi.
Đức Giêsu sai các tông đồ
ra đi. Kitô giáo luôn là thế. Nó không bao giờ giữ lại điều gì cho mình. Nó
luôn bao hàm sự vươn tới những người khác. Nếu không có yếu tố này, không còn
là Kitô giáo nữa. Và điều đó nhiều lần được chứng tỏ bằng sự sẵn sàng hy sinh
của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các tông
đồ ở với Đức Giêsu. Suốt thời gian qua, Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người đã
chọn họ cho một sứ mạng – giúp truyền bá Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến
lúc họ phải góp phần vào công việc ấy. Người sai họ đi từng hai người một để họ
có thể nâng đỡ nhau và học làm việc với những người khác. Người ban cho họ
quyền nói và hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ là sứ
mạng tạm thời, ngắn hạn và giới hạn trong các thị trấn và làng mạc Do thái. Sứ
vụ sau cùng, khi họ được sai đến toàn thế giới, vẫn còn trong tương lai.
Sứ vụ của họ trước tiên là
một sứ vụ tâm linh – rao giảng sự sám hối và nước Thiên Chúa đã đến trong thế
giới. Nhưng sứ vụ ấy cũng liên quan đến việc chữa lành thể chất và tinh thần.
Nó cho thấy Kitô giáo quan tâm đến hạnh phúc tinh thần và vật chất của con
người. Nói cách khác, nó quan tâm đến con người toàn diện.
Họ không mang theo những
vật chất để cho người ta. Trong bất cứ trường hợp nào, họ không thể có được
những thứ ấy. Nếu việc truyền giáo gắn sứ điệp với những quà tặng vật chất luôn
luôn là điều nguy hiểm. Bởi lẽ người ta có thể chấp nhận sứ điệp với những lý
do sai lầm. Sứ điệp của họ phải tự nó tỏa sáng giá trị xứng đáng, và phải được
chấp nhận chủ yếu bởi những lý do tinh thần.
Về những trang bị cá nhân,
họ chỉ được mang những cái hoàn toàn cần thiết – dép và gậy. Về lương thực và
chỗ ở, họ phải trông cậy vào lòng hiếu khách của những người mà họ được sai
đến. Thật vậy, điều đó có nghĩa là trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhưng bằng cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy họ cũng tặng lại một điều gì đó. Sẽ
có một sự chia sẻ. Điều này tốt cho các thừa sai: họ cần dân chúng nơi họ được
sai đến. Và cũng tốt cho dân ở nơi truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của họ, và
cũng để khuyến khích lòng quảng đại của họ.
Các thừa sai phải làm
chứng về đức nghèo khó bằng sự từ bỏ những của cải vật chất. Và họ phải chứng
tỏ sự liên đới với người nghèo bằng cách liên kết trong các cuộc đấu tranh của
họ và chia sẻ sự nghèo khó với họ. Nhiệm vụ chính của họ là rao giảng sứ điệp.
Nhưng họ không thể kiểm soát, điều khiển sự đáp ứng của dân và cũng không nên
làm như thế. Họ phải tôn trọng tự do của người được rao giảng. Và họ phải chờ
đợi có người sẽ khước từ nó.
Nếu sự rao giảng của họ bị
chối bỏ, họ chỉ được phản ứng với một cử chỉ tượng trưng, phủi bụi dính ở chân.
Đây là một hành động có tính tượng trưng cao đối với người Do thái trong thời
đó. Dân chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của hành động đó. Nó có nghĩa là các tông đồ
sẽ đoạn giao với họ hoàn toàn và kể từ đó coi họ như người ngoại giáo. Tuy
nhiên, cũng có nghĩa như một cữ chỉ quan tâm. Mục đích của nó là làm cho họ
nghĩ lại về những điều mà các tông đồ đã đem đến cho họ và những hậu quả của
việc khước từ. Nó cho thấy số phận của những người khước từ quà tặng của Thiên
Chúa.
Đoạn Tin Mừng này rất
thích hợp với chúng ta. Tin Mừng vẫn cần được rao giảng và cần có những người
chấp nhận nó. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn còn thích hợp cho các thừa sai hôm
nay. Dù những điều kiện đã thay đổi, những nguyên tắc căn bản những giữ nguyên.
Những điều kiện ấy thách đố những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và
những người được rao giảng – Nó cho thấy tầm quan trọng của việc cởi mở tâm hồn
để đón nhận lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều gặp
một thách đố lớn là phải trở thành các môn đệ hoạt động, chứ không phải là các
môn đệ thụ động; không chỉ là những người đón nhận mà còn là những người ban
phát. Không phải là cành cây khô hoặc gốc nho chết mà là những cành cây sống và
trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt đã
được kêu gọi bỏ công việc bình thường để đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1). Mười
hai tông đồ cũng thế. Không phải chỉ một số ít chúng ta được kêu gọi rao giảng
Tin Mừng ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm nhân chứng cho
Tin Mừng. Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng cách sống Tin Mừng – bằng cách làm
môn đệ của Đức Kitô trong thực tế cũng như trên danh nghĩa.
24. Trách nhiệm.
Trong một ý nghĩa, niềm
tin vào Thiên Chúa rất phiền nhiễu bởi vì nó gia tăng trách nhiệm của chúng ta.
Nếu không có Thiên Chúa, thì cũng không còn trách nhiệm – chỉ còn sự hỗn mang
và đêm dài vô tận.
Nếu một người nào đến tìm
chúng ta và cầu xin giúp đỡ, chúng ta không thể xua đuổi người ấy với những lời
đạo đức: "Bạn hãy có đức tin, hãy dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa và
Người sẽ giúp đỡ bạn". Trong những trường hợp như thế, bạn nên hành động
như thể không có Thiên Chúa, như thể chỉ có một người trên thế gian này có thể
giúp đỡ, người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự quan
phòng của Thiên Chúa là một chủ yếu của Kitô giáo. Nhưng nó không được viện dẫn
như một cái cớ để không làm việc gì. Chúng ta không nên lùi lại và chờ đợi
Thiên Chúa làm hết. Thiên Chúa sẽ không xuống và đích thân Người làm. Thiên
Chúa hành động qua chúng ta.
Một ngày mùa đông một
người đàn ông đi đến một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành
phố, gió thổi lồng lộng. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa
ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
"Lạy Chúa, tại sao
Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?"
Và Thiên Chúa đáp lại:
"Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi".
Điều này làm người đàn ông
ngạc nhiên, vì thế ông nói "Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều
gì Chúa làm đều có vẻ như không làm".
"Ta cũng đồng ý với
con điều đó" Chúa đáp.
" Nhưng bằng cách nào
Chúa đã làm điều đó?" Người đàn ông hỏi.
"Ta đã làm ra
con" Chúa đáp.
Không có gì sai khi yêu
cầu Thiên Chúa chỉnh đốn lại những điều sai trái và an ủi nỗi khổ đau. Nhưng
chúng ta phải nhớ một điều là Người đã giao phó những nhiệm vụ ấy cho chúng ta.
Chúng ta là những công cụ
của Thiên Chúa. Đó là phẩm giá và cũng là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta
phải xác tín rằng không có tình yêu thương của chúng ta, những người khác sẽ không
hoàn thành những việc mà Thiên Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy điều này rất rõ
trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia sẻ công việc mở
rộng nước Thiên Chúa cho các tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể
tự hỏi: chúng ta có thể làm gì? Chúng ta phải trả lời câu hỏi ấy cho chính
mình. Nhưng ví dụ sau đây chỉ cho chúng ta phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất
nghiệp sống ở Dallas , Texas . Họ rất nghèo và thường đi quanh thành
phố nhặt những lon bia bằng nhôm để bán cho những nơi tái chế. Trong công việc
của họ, họ phải lục lọi trong những thùng đựng rượu vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một
khám phá rất đau buồn trong một thùng bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái
xác của một trẻ sơ sinh. Họ báo cho cảnh sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều
tra nhưng không tìm ra dấu vết của cha mẹ đứa trẻ. Thế là không có ai là người
chôn cất cho đứa bé.
Cặp vợ chồng biết ngay
việc họ phải làm. Chính họ muốn nhìn thấy đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử tế.
Nhưng việc này phải tốn tiền, trong khi họ lại có quá ít. Người vợ đem cầm vật
duy nhất có giá trị, một chiếc nhẫn cưới hột xoàn, để trả các chi phí mai táng.
Nhờ có sự cố gắng của họ,
đứa trẻ đã đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một quan tài màu trắng có phủ hoa.
Nước mắt của cặp vợ chồng cũng thanh khiết như nước mắt của Đức Giêsu trước nấm
mồ của bạn Người, Ladarô.
Để trở nên suối nguồn ánh
sáng trong thế gian, người ta không cần giàu sang hoặc có tiếng tăm. Người ta
chỉ cần có một tấm lòng yêu thương nồng cháy.
25. Đức Kitô cần chúng ta.
Cuộc chiến tranh trên bán
đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ
rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo.
Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy
nhiên, khi cuộc chiến qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra
khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp
vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho
tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về
Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
"Tôi có một ý tưởng
hay hơn", ông nói. "Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và
chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này. "Bạn ơi, hãy cho tôi mượn đôi bàn tay
của bạn". Bằng cách đó, những khách vãng lai sẽ nhìn thấy giờ đây Đức Kitô
không có tay nhưng chính tay chúng ta sẽ nâng đỡ người vấp ngã; không có bàn
chân chính chân chúng ta sẽ đi tìm người lạc mất, không có tai nhưng chính tai
chúng ta sẽ lắng nghe người cô độc, không có lưỡi nhưng chính lưỡi chúng ta sẽ
nói những lời an ủi người cô đơn.
Sự cố nhỏ ấy làm sáng tỏ
sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kéo các tông đồ vào công việc của Người.
Người chia sẻ sứ vụ thánh thiêng của Người cho họ. Người đã cho họ quyền bính
và sức mạnh của Người. Đương nhiên, họ cũng phạm những lỗi lầm, điều này không
làm người ta ngạc nhiên khi hiểu rằng họ là những con người bình thường.
A mốt là một mục đồng bình
thường (Bài đọc 1). Tuy nhiên Thiên Chúa đã sai ông đi rao giảng sứ điệp hối
cải cho dân. Hầu hết các tông đồ là những ngư phủ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã không
ngần ngại chia sẻ công việc Người cho họ. Càng ngạc nhiên hơn khi một ngày kia
Người sẽ giao phó toàn bộ công việc cho họ.
Nhiều người đang nắm quyền
hành thường sợ kéo người khác vào công việc, đặc biệt những người được gọi là
tầm thường. Vì thế, người khác bị loại ra với cảm giác rằng họ không đóng góp
được điều gì. Để cho người khác tham gia là điều tốt. Nó làm cho người ta có
trách nhiệm. Nó cho người ta một cơ hội sử dụng tài năng của mình. Nó xây dựng
một cộng đoàn tinh thần.
Nhưng một đôi khi người ta
không muốn tham gia. Giao việc ấy lại cho các chuyên viên hẳn là dễ dàng hơn.
Ngày nay, người ta thường giao việc cho các chuyên môn. Vì thế, việc chữa bệnh
được giao cho các bác sĩ và y tá. Việc dạy học giao cho các thầy cô giáo. Còn
việc lo cho người nghèo giao cho chính phủ hoặc Hiệp Hội Bác ái Vinh Sơn Phao
Lô.
Dĩ nhiên các chuyên gia
rất cần trong các việc chuyên môn. Nhưng người không chuyên môn cũng có nhiều
việc đóng góp và thường có nhiều nhiệt tình hơn. Người bệnh có thầy thuốc nhưng
cũng cần có tình bè bạn. Người già cần có người chia sẻ thời gian với họ. Người
trẻ cần có người tỏ ra quan tâm đến họ. Đây là công việc mà chúng ta có thể làm
được. Nó không đòi hỏi tài chuyên môn nào mà chỉ cần có một tấm lòng tận tụy.
Kinh Thánh bắt đầu với câu
chuyện Thiên Chúa làm con người trở thành những người cộng tác trong công trình
sáng thế. Và Đức Kitô đã cho các môn đệ tham gia công trình cứu chuộc của
Người. Một trách nhiệm cao cả đã được đặt lên vai chúng ta. Một vinh dự cao quí
cũng đã được trao cho chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm về thế giới này của
Thiên Chúa và về mỗi người khác. Chúng ta là những người quản lý tạo vật và là
người đồng cộng tác với Đức Kitô.
26. Người bắt đầu sai đi
(Giải thích bản văn Tin
Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau khi bị dân chúng ở
Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm
trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26),
mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật
cho Người những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn
đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị
cho họ những gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử
(6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế
nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các
môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai
điều chính: là "ở với Người" và "để sai đi" (3:14). Người
đã nói với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh
cá con người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ
quyền năng của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ
quyền năng và chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không
phải cho tin mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16).
Việc xua trừ ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho
họ để thi hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các
môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là
những thứ cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương
thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để
nuôi sống cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với
người què: "Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là
nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi" (Cvtđ 3:6). Tiếp đến
là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử
chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón
nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem
ra nằm ngoài thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về
nơi chốn và thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa
Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với
Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào
Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của
họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên
Chúa. Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm
theo đó, họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi
không chỉ sám hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm
ngư phủ của con người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai
(3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ
mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn
đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.
27. Đức Giêsu sai nhóm
mười hai đi
(Chú giải và suy niệm của
Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã thiết lập
Nhóm Mười Hai với hai mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi
loan báo Tin Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi được Người chỉ định, Nhóm
Mười Hai ở với Người, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả hoạt động giảng
dạy và tất cả các hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông chu toàn mục
tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người
trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người (x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và
giảng dạy các làng trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi,
để các ông nối tiếp công việc của Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành
hai phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị
cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao
phó sứ mạng (c. 7),
b- Giáo huấn của Đức Giêsu
về hành trang (cc. 8-9),
c- Giáo huấn của Đức Giêsu
về cách xử sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành
sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Hai (7): Đời
tông đồ là một cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều
này được tác giả Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ "Nhóm Mười Hai"
ở 7 điểm quan trọng. Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều
đặn: từ khi Nhóm được thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm
được nhắc đến ở mỗi chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên
loan báo về Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức
Giêsu "thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai đi rao giảng" (3,14). Và xa hơn: "Người thành lập Nhóm Mười
Hai" (3,16).
2) Ở ch. 4: "Khi còn
một mình Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về
các dụ ngôn" (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều
này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.
3) Ở ch. 6: "Đức
Giêsu gọi Nhóm Mười Hai" (6,7). Trong TM Mc, từ ngữ "tông đồ"
chỉ được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc
bảo các môn đệ vài điều: "Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn
làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người" (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu
loan báo Người sẽ chết và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng,
còn nhưng kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt
đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình" (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã
đi vào Giêrusalem: "Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi
thành..., và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai" (11,11). Câu 11 là
như lời dẫn nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn
cảnh, chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại
Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường
xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ
phản bội được nhắc tên cũng là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười
Hai được nêu lên như là những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn
với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai,
Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải là một hệ thống các giáo thuyết hoặc luật
lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón
nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ
giả được đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc
giả đi dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này với Đức Giêsu.
- Quyền trừ quỉ: Mc trình
bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là
rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỉ).
- không được mang gì đi
đường (8): Tình trạng thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách
của công tác và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt
10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn
Mc có khuynh hướng chế giảm hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l'
("không") thành 'l' ("ngoại trừ"). Hay là phải chăng vào
thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài chế giảm như thế?
- bao bị: Từ Hy Lạp pêra
là túi xách để đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.
- được đi dép (9): Mt
10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt
dùng từ hypodêma, vật bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân
không trên các nẻo đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn
là áo trong, mặc sát người.
- giũ bụi chân (11): Khi
có nơi nào không đón tiếp mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành
vi biểu tượng thôi, chứ không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những
con người tại nơi ấy phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc
giũ bụi chân khi trở lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành
thiếu lòng hiếu khách thì không thuộc về Ít-ra-en chân chính.
- Các ông đi rao giảng,
kêu gọi người ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ
làm vọng lại câu tóm về lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ
chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị
cho Nhóm Mười Hai (7-11)
Đức Giêsu đã "gọi lại
với mình" Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn
lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của
Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và
xua trừ ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu
(1,14t; 1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ
mạng đó cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường
xuyên với Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều
Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng như Người, các ông phải truyền đạt với xác tín cao
và vững chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể;
quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận
ra được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các
môn đệ phải loan báo không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá
trị thực sự bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần
thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải
thấy được rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang
theo cả, ngoại trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối
sống của các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và
phải ý thức về sứ mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn
chốn ở có được, chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải
mái hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông
phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ
trọng trong quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra
một việc tách biệt quyết liệt, "giữa chúng ta, không còn liên hệ gì
nữa!". Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp.
* Nhóm Mười Hai thi hành
sứ mạng (12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động
của Nhóm Mười Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt
động của Đức Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không
phải là một chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt
động của các ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai
điều cốt yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên đây,
Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính
mình. Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một
số tiêu chuẩn xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào
mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhiệm vụ của người Kitô
hữu hôm nay cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin
Mừng và giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn
được sứ mạng này; họ cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu ("ở với
Người"; x. 3,14).
2. Người Kitô hữu không
được chỉ giới hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về Triều Đại Thiên Chúa, mà còn
phải nhận ra trong đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động để
đưa lại sự giải thoát và niềm vui.
3. Làm chứng bằng lời nói
là một khía cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết
nếu việc làm chứng bằng lời nói không được phối hợp với việc làm chứng bằng
hành động, bằng chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ
rằng mình là người được sai phái đi, nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa
mình và phải trả lời về cách thực hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi
loan báo Tin Mừng không phải là cơ hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của
riêng mình.
28. Chú giải của Noel
Quesson.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai
lại, và sai đi từng hai người một.
Một trong những việc làm
đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng
tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng
Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành
lập một dân tộc Israel
mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin
Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở "với Người"
(Mc 3,14).
Hôm nay, có thể nói, Đức
Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu
tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội
đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của
Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan
trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm
nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương đầu của
trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy "Đức Giêsu với các môn
đệ", tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các
đối thủ. Vào lúc "kêu gọi" các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức
Giêsu đã "thiết lập Nhóm Mười Hai" để ở với Người và để Người
"sai họ đi". Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương...
tâm thu... máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông thường
cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến khắp nơi
trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp quanh Chúa
vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân chứng sống
động của Chúa.
"Anh hãy đi! Anh em
được sai đi" "Ite, Missa est" chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là
"sự sai đi". Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như
thế không? Tôi có thường sống "với Chúa" trong suy niệm, trong nguyện
cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa "sai đi" vào đời sống thướng
nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai
người một.
Phải có hai người thì
chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều
câu ngạn ngữ để nói về điều này. "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ
ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình" (Gv 4,9).
Quy tắc đầu tiên của việc
tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu,
trước khi bàn tới. "Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!".
Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý
muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa
cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người
anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông
không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao
bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là chúng
ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, "Sứ
vụ" của các ông. Chúa không bảo các ông "phải giảng điều gì".
Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Đức
Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên duy
nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa
phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất
cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi
này khi khẳng định: "Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức
Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ
quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi"
(2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: "Khi tôi
đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu...
nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy... có vậy đức tin của anh em mới
không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên
Chúa" (l Cr 2,1-5).
Vâng, điều Đức Giêsu muốn,
đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn
sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không
ngừng tự "làm nhẹ bớt" để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống thế nào
trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ
mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là
chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một
thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết)
chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của
chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.
Còn nơi nào người ta không
đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản
đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên vi tầm
quan trọng của thái độ khước từ "tiếp nhận" trong diễn từ của Đức
Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá
lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: "Các ông muốn chúng tôi trở
lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái
tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin
các ông hãy đi giảng đạo nơi khác" Những khó khăn của Kitô hữu khi trình
bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay:
"Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước
cho các con". "Chúng ta chớ nên ảo tưởng".
Ngày nay cũng như thời Đức
Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì
thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: "Nếu
người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác". Chịu đựng thái
độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,... điều đó xem ra hết sức bình thường đối với
Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người
được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu
gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều
người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng những gì họ
thấy Đức Giêsu làm khi họ "ở với Người". Nội dung của nỗ lực
"truyền giáo" gồm 3 giai đoạn:
1. Rao giảng lời Chúa, đòi
hỏi một sự thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải.
2. Chiến đấu chống sự dữ,
xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ.
3. Hoạt động giúp người
nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.
Hoán cải
Đó là nội dung thứ nhất
của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao
các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối. Thông thường, con người
không thích "thay đổi" cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà,
Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc
sống mới. Chữ Hy Lạp "mitanoa" dịch ra là "hoán cải", có
nghĩa là "đổi ngược tinh thần". Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi
theo một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều
dễ. Tin Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì?
Một thứ học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật
tự hiện hành? "Các Ngài đã kêu to" "ékèruxan" phải thay đổi
cuộc sống "Metanoôsin".
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã dùng
những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ
mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền
lực của sự dữ trên thế giới. Những "nhà truyền giáo" những người được
Chúa "sai đi" không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài
đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp
không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối
kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi
là 'tội lỗi thế gian'. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào về những thế
lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.
Chữa lành
Lôi kéo con người ra khỏi
những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một
cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức
Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó
mang một hình thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là
"giảng dạy" mà đặc biệt còn là "giải thoát". Ngày nay rao
giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp
với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào?
Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn mang
tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của
Tin Mừng nữa.
Newer
news items:
Older
news items:
TIN - BÀI
NỔI BẬT
TIN - BÀI
MỚI ĐĂNG
KINH NGUYỆN
- SUY NIỆM
THÔNG BÁO -
TIỆN ÍCH
HANOI.TITOCOVN.COM
TRUNG TÂM
SỞ KIỆN
ĐỀN THÁNH
LÊ TÙY
HÌNH ẢNH
VIDEO -
AUDIO
Trang Web chạy tốt nhất
với trình duyệt CHROME, IE-7 (hoặc mới hơn), FIREFOX, SAFARI...
và màn hình có độ phân giải 1024x768 hoặc cao hơn.
Phụ trách: Tòa Tổng Giám
Mục Hà Nội
Địa chỉ: 40 Nhà Chung, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: (84-43) 8254424 — Email: bbttgphanoi@gmail.com
Địa chỉ: 40 Nhà Chung, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: (84-43) 8254424 — Email: bbttgphanoi@gmail.com
Copyright © 2015 Tổng Giáo
Phận Hà Nội. All Rights Reserved.
—
—
|
Tổng Giáo Phận Hà Nội
Thứ Năm 09.07.2015
Font
·
·
·
Các bài suy niệm Chúa nhật XV thường
niên - Năm B
TUESDAY, 07 JULY 2015 06:24 BBT WTGP HN ~ SỐ
LƯỢT XEM: 54
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT
15 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Am. 7, 12-15;
Ep. 1, 3-14; Mc. 6, 7-13
MỤC LỤC
1. Phục vụ người
nghèo
2. Tông đồ
3. Tông đồ
4. Hành trang người môn đệ
- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Bài Sai – Lm Giuse Trần
Việt Hùng
6. Sống thanh thoát – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Sứ mạng loan báo Tin
Mừng
8. Không bánh mì, cũng
chẳng tiền túi
9. Những lời căn dặn cho
việc thi hành sứ vụ
10. Thiên Chúa nói qua
trung gian
11. Lời dặn dò cần thiết –
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
12. Suy niệm của Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi
13. Loan báo Tin Mừng
14. Chúa sai các tông đồ
đi từng hai - Noel Quesson
15. Ngài gọi và sai đi
16. Lên đường thi hành sứ
vụ với Chúa Giêsu
17. Chân dung của Sứ giả
Tin Mừng
18. Rao giảng
19. Chúa Kitô
20. Rao giảng
21. Hoạt động tông đồ
22. Hãy đi rao giảng
23. Người sai họ đi
24. Trách nhiệm
25. Đức Kitô cần chúng ta
26. Người bắt đầu sai
đi
27. Đức Giêsu sai nhóm
mười hai đi
28. Chú giải của Noel
Quesson
1. Phục vụ người nghèo
Như chúng ta đã biết:
thánh Phanxicô Assisi, sinh trong một gia đình giàu có. Thuở niên thiếu, người
là một cậu bé lêu lỏng hoang phí. Thế rồi vào năm 1202, thành phố Assisi và Perugia
bỗng trở nên thù địch nhau. Phanxicô gia nhập quân đội Assisi và lên đường chiến đấu. Chàng bị bắt
làm tù binh. Sau đó bị xiềng và giam trong hầm ngục dơ bẩn suốt một năm. Khi
được trả tự do, phải mất một thời gian dài, sức khoẻ chàng mới được khôi phục.
Chính biến cố này đã thay đổi cuộc đời chàng. Chàng dẹp bỏ những bộ quần áo đắt
tiền và khoác lên người bộ quần áo công nhân nghèo khổ. Chàng từ giã gia đình
để sống đời ẩn sĩ khổ hạnh. Chàng đặc biệt lưu tâm tới những kẻ bị xã hội ruồng
bỏ. Sở dĩ tình thương ấy lớn mạnh trong tâm hồn chàng là do mối xúc cảm sâu xa
trước hai lời giáo huấn trong Kinh Thánh.
Lời giáo huấn thứ nhất nằm
trong sách Sáng Thế Ký, đó là mọi người đều được dựng nên theo hình ảnh Chúa.
Giáo huấn thứ hai nằm trong sách Phúc Âm, đó là sự gì chúng ta làm cho một kẻ
bé nhỏ nhất là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy. Chàng đã xác tín và thực thi
đúng với những lời giáo huấn kể trên. Lần kia, đang lúc đi đường, Phanxicô gặp
một người cùi. Mặc dù rất ghê tởm, nhưng Phanxicô xấn tiến lại ôm hôn con người
bất hạnh đó.
Hơn thế nữa, chính đoạn
Tin Mừng hôm nay, ngài được nghe đọc trong một thánh lễ đã thay đổi toàn bộ nếp
sống của ngài. Ngài từ giã nếp sống ẩn sĩ, dùng đức khó nghèo làm hành trang
lên đường để rao giảng Tin Mừng. Nếp sống này chẳng bao lâu đã lôi cuốn được
nhiều thanh niên. Và những tu sĩ đầu tiên của dòng Phanxicô này ra đi khắp nơi,
chăm sóc các bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Họ lấy trời làm nhà và ăn
uống bất cứ thứ gì người ta bố thí cho. Đức khó nghèo biến họ trở nên một với
những kẻ nghèo khó. Và đó cũng chính là nếp sống mà Chúa Giêsu đã chọn.
Thánh Phanxiô kêu gọi mọi
người giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoàn cảnh của mình, và nhường cho kẻ khác trách
nhiệm động viên quần chúng và chính quyền tấn công vào cội rễ phát sinh ra sự
nghèo khổ. Điều đó dẫn chúng ta đến một kết luận thật quan trọng. Đó là ngày
nay hơn bao giờ hết, xã hội đang cần những loại chứng từ phục vụ người nghèo
như Chúa Giêsu, như thánh Phanxicô, như Mẹ Têrêsa...
Phải, thế giới đang rất
cần những người biết giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoành cảnh riêng của mình. Lời
giáo huấn của Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay thật rõ ràng. Tất cả chúng
ta đều được mời gọi rao giảng Phúc Âm. Và chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm
bằng cách biểu lộ tình yêu và sự quan tâm đối với kẻ khác, nhất là những kẻ
nghèo túng và khổ đau.
Và để kết luận, chúng ta
hãy nhớ lại kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi: Vì chính khi hiến thân là
khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi
thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
2. Tông đồ.
Có một câu chuyện tưởng
tượng kể lại:
Sau khi hoàn tất sứ mạng
trần gian, Chúa Giêsu trở về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp
Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của
Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12
tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ
cõi trái đất. Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn
toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính
chương trình nào khác nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một
chương trình nào khác, Ta tin tưởng ở họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn
toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, khi Ngài về
trời, Ngài đã để lại một nhóm tông đồ ít ỏi xem ra không đủ khả năng để chu
toàn sứ mạng đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn thế nữa, ngay cả sau khi
Chúa đã sống lại, đức tin của các ông vẫn còn chập chững và chao đảo. Chẳng hạn
lần kia Chúa Giêsu gặp gỡ họ trên bờ biển Tibêria, sau khi nghe theo lời Chúa
truyền, các ông đã được một mẻ lưới đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có than hồng, với
cá đang nướng và bánh. Các ông được Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi các con. Tuy
nhiên các ông vẫn còn nghi ngờ, chưa nhận ra ngay là Chúa. Và sách Tông Đồ Công
Vụ còn cho chúng ta thấy thái độ sợ sệt và khép kín của các ông sau khi Chúa đã
về trời. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó
trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình Chúa muốn thực hiện. Đó là chương trình
biến trần gian trở thành Nước Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta
còn thấy được một hình ảnh khác hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, các ông đã can
đảm ra khỏi những gian phòng đóng kín, nơi các ông đã từng sợ hãi và trốn
tránh, để lên đường rao giảng Tin Mừng Đức Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp mọi cấm
đoán, mọi đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng chấp nhận cái chết để nêu cao niềm
tin. Tất cả các tông đồ, ngoại trừ một mình Gioan, đều đã lấy máu đào để minh
chứng lời mình rao giảng.
Nước Trời từ một hạt cải
nhỏ bé, đã trở thành một cây to cho chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế kỷ trôi
qua, có biết bao nhiêu người, thuộc đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp ứng lời
mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt chúng
ta. Đúng thế, có lẽ lúc này Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra một câu
hỏi để chúng ta có được một thái độ dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này: Còn con,
con có muốn trở nên tông đồ, cộng tác với Ta bằng lời nói cũng như bằng chính
việc làm và cuộc sống của mình, để đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh
hay không? Thế nhưng, trước câu hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế nào và
chúng ta sẽ làm gì để đáp trả tiếng Chúa.
3. Tông đồ.
Một trong những ưu tư lớn
trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với
mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín
thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn
đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông,
bằng cách để cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài
làm. Và cắt nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai
các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn
dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và
đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp
bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào
tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Lầm lỗi nặng nề nhất của người
tông đồ hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng của
mình mà quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa, chúng
ta không thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô trồng,
Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy,
một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được
Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng
ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi
và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng
ta.
Vì thế, sau khi công bố
tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh
sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công
việc của các con mà ngợi khen Cha các con là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu
của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn mọi người
đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới việc
tông đồ, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng đó là
bổn phận của giới tu hành, chứ không phải là bổn phận của họ, những người giáo
dân sống giữa lòng đời. Đây là một quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái Giáo
Hội, chúng ta đều có bổn phận làm cho Giáo Hội được phát triển, được rộng mở,
tùy theo hoàn cảnh và đấng bậc của mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại
một mẩu chuyện cảm động như sau: Ngày kia có một thiếu phụ cùng tám đứa con đến
gõ cửa xin gạo. Mẹ đích thân trao cho bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi chia làm
hai phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì bà trả lời: Tôi dành một phần cho gia
đình Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ nhất cũng
có thể thực thi tinh thần chia sẻ huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể làm việc
tông đồ, làm sáng danh Chúa bằng chính đời sống của họ.
4. Hành trang người môn đệ
- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ai đi xa cũng phải chuẩn
bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan
trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các
môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến
khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu
đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang
cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn
đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn
đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã
có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để
các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người.
Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật
thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính
trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm
này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy
giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức
Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì
thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn
đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: "không được
mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền
giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo", Đức Giêsu muốn các
ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền
của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ
tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì
thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình
cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người
môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp
người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô,
là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức
con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ
phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì
của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là
mang theo tất cả.
Hành trang của người môn
đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng
hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ
mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần
có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn
nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng
sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi
người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên
đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu.
Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn
đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người
đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những
người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội
bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim
biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng
thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn
sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón
nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng
hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là
môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai
chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích
cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm
sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn
việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho
Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị
em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình
yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến.
Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của
Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Chúa sai bạn đi làm
tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2- Mỗi khi đi làm việc
tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của
bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
3- Theo bạn, đâu là phương
thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
4- Đâu là những hành trang
cần thiết của người môn đệ của Chúa?
5. Bài Sai – Lm Giuse Trần
Việt Hùng
Tiên tri Amos xuất hiện
khoảng năm 760 trước Công Nguyên dưới thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742)
và Vua Phương Bắc Jeroboam II (786-746).
Tiên tri Amos làm việc nơi
đồng áng và chăn nuôi súc vật. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao
giảng sám hối tại trung tâm miền Bắc Bethel và Samaria . Quan niệm thần học tập trung việc
cảnh cáo dân Do-thái rằng Thiên Chúa sẽ trừng phạt và phá hủy dân Israel bởi vì
tội lỗi của họ. Amos kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời sống theo
giới răn của Chúa.
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay
tường thuật việc Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa
ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân
thành và đi làm nhân chứng với hai bàn tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng
mạc chuẩn bị các tâm hồn đón nhận ơn Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự
quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm
thường, họ không có nhiều tài năng chuyên môn, không có của cải và không có chỗ
đứng trong xã hội. Chúa chọn những người bình thường để làm những việc phi
thường cho Nước Chúa.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu
sai các tông đồ ra đi loan truyền sứ mệnh quan trọng nhưng không ban cho các
phương tiện, tiền bạc hay của cải. Ngày nay trong công tác mục vụ, chúng ta
thường chuẩn bị rất kỹ càng, nào là tiền mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống,
bản đồ, áo trong áo ngoài, máy móc đủ loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải
ở qua đêm, chúng ta còn cần nhiều thứ lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những
nhu cầu vật chất như chỗ ăn chỗ ở, cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu.
Đôi khi chúng ta lại quá lo lắng cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời
thường. Theo thông lệ một số các đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn
phải chuẩn bị đón tiếp long trọng và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu
đi tinh thần nghèo khó và sự phó thác.
Mỗi năm kết khóa, mùa Hè
là mùa ra trường. Các ứng sinh lãnh nhận những mảnh bằng tốt nghiệp đã bắt đầu
bước vào đời. Những vốn liếng thu lượm qua việc trau dồi học hỏi trên ghế nhà
trường nay đem ra áp dụng theo những sở trường và khả năng. Trong sứ mệnh dâng
hiến, mỗi năm Giáo Hội đón nhận nhiều tu sĩ nam nữ khấn dòng, khấn tạm hoặc
vĩnh khấn, các chủng sinh lãnh nhận chức đọc sách, giúp lễ, phó tế và các tân
chức linh mục. Mỗi tu sĩ hay tân chức sẽ lãnh nhận những bài sai từ bề trên để
ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các sứ giả phúc âm không được tự chọn cho
mình nơi chỗ, nhưng được sai đến bất cứ nơi nào để phục vụ Giáo Hội và tha
nhân.
Tháng Sáu vừa qua, tôi rất
hân hạnh được tham dự thánh lễ truyền chức linh mục tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp,
Địa phận Long Xuyên. Lễ phong chức cho 18 tân linh mục rất là hoành tráng. Với
trên hai trăm linh mục trong Giáo phận có mặt và có thêm nhiều vị từ khắp nơi
đổ về. Với sự hiện diện trên mười ngàn Giáo dân vui mừng hân hoan tụ về tham dự
nghi lễ phong chức linh mục. Ngay sau thánh lễ truyền chức, một vị linh mục đại
diện đã công bố Bài Sai của Đức Giám Mục Địa Phận cho từng tân linh mục. Một sự
chọn lựa cắt đặt các tân chức vào các sứ vụ tùy theo khả năng thích hợp của mỗi
tân linh mục.
Chúng ta biết rằng lãnh
nhận thiên chức linh mục không phải riêng cho mình, nhưng cho Giáo Hội và chung
cho mọi người. Các tân chức nhận những Bài Sai khác nhau như về trụ sở Tòa Giám
Mục, các Giáo Xứ và có những Bài Sai về nơi truyền giáo vùng sâu vùng xa. Niềm
vui trào dâng khi nhận lãnh thiên chức cao cả. Khi nghe rao báo Bài Sai, các
tân chức cũng có những cảm tình vui buồn lẫn lộn. Có những bà mẹ nhảy cẫng vui
mừng vì con mình được về giáo xứ giầu có ổn định. Có những gia đình vỗ tay hãnh
diện vì tân linh mục nhà mình được về xứ lớn ở trung tâm thành phố. Có những vẻ
mặt không được vui lắm khi nghe Bài Sai sẽ đi phục vụ ở những nơi khai hoang
truyền giáo. Thật vậy, được sai đi nơi đâu, cũng là để phục vụ tha nhân. Chúa
Kitô vẫn luôn là trung tâm điểm của đời sống mục vụ và phục vụ.
Câu truyện vào thời chiến,
có một sự kiện xảy ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một
tượng Chúa Giêsu bị trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp
linh mục lau dọn và thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm
thấy mọi phần của tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị
với linh mục là đưa tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh
mục bổn sở từ chối. Ngài nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu
một cánh tay. Chúng ta hãy viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi
bạn, cho tôi mượn cánh tay của bạn.
Trong cách này, mỗi tu sĩ
nam nữ, các thiện nguyện viên hay các linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra
những nhu cầu trong sứ mệnh phục vụ của mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối
dài của Chúa Giêsu để xây dựng lại những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng,
Chúa cần những đôi chân của chúng ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa
muốn những đôi tai của chúng ta để nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha
nhân. Chúa dùng miệng lưỡi của chúng ta để nói những lời thân thương, khuyến
khích, ủi an và nâng đỡ những kẻ đau buồn, khổ sở và thất vọng.
Trong thơ gởi cho tín hữu
Ephêsô, thánh Phaolô đã viết rằng: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả
khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh
thiện, nhờ tình thương của Người (Eph 1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn
niềm tin nơi Đức Kitô. Chúa đã chọn và gọi Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi
ông từ một người bách hại các Kitô hữu trở nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa
Giêsu Kitô. Phaolô đã được sai đi rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Tông đồ
Phaolô đã không ngại gian khó rong ruổi khắp các thành thị và làng mạc để loan
báo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
Giáo Hội luôn kêu gọi
chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi dâng hiến. Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng
đại đáp lại tiếng Chúa trong ơn gọi tu trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức
mình, của cải và khả năng để xây dựng và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta
không thể đổ dồn trách nhiệm cho môt thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng
ta đều có bổn phận và trách nhiệm sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng
tác của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là
sự chỉ trích, gây chia rẽ, đàm tiếu hoặc phá đổ. Lạy Chúa, cánh đồng truyền
giáo còn bao la bát ngát, xin Chúa sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con
cảm tạ Danh Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.
6. Sống thanh thoát – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền
Muốn đất nước phát triển:
"Hãy loại trừ tham nhũng", đó là vấn đề được bàn luận sôi nổi nhất
nơi các kỳ họp quốc hội Việt Nam .
Tham nhũng là gì? Tham
nhũng không đơn thuần là lấy của công thành của riêng. Tham nhũng không dừng
lại ở việc lợi dụng chức quyền để vun quén cho bản thân mà còn cho cả dòng họ.
Đúng như cha ông ta đã nói: "Một người làm quan cả họ được nhờ". Điều
tệ hại của tham nhũng đó là lòng tham đã ăn sâu vào xương tủy những người làm
quan. Lòng tham khiến họ không còn chí công vô tư khi thi hành chức vụ. Lòng tham
khiến họ không thể sống thanh liêm chính trực. Lòng tham dẫn họ đi sâu vào tội
ác và dối trá. Nếu xã hội không còn những người thanh liêm thì làm sao tránh
khỏi ăn bẩn, ăn chận của người thấp cổ bé miệng và đói nghèo. Nếu xã hội không
còn những con người chí công vô tư thì làm sao có công lý và tình thương trong
xã hội hôm nay. Tất cả chỉ là dối trả và phỉnh lừa lẫn nhau.
Lời Chúa hôm nay gợi lên
một hình ảnh thật đẹp về những sứ giả tin mừng. Họ là những người được tuyển
chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù
hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương
cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát.
Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người
chấp nhận cuộc sống nổi trôi "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Sứ
mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến
của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và
tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ bỏ quên đồng loại. Nếu họ quá chú
trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí
sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay
vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản
thân.
Người ta kể rằng: có một
đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng
vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực
sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô
cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn
cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai
này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi
mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh
lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất
thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố
gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò
lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ
cầu nguyện, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản,
người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến
thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con
người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên
trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to
lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con.
Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là
lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một
"cái áo rách".
Chuyện có vẻ hoang đường
nhưng lại là thật. Ma quỷ thường cám dỗ từng bước. Ma quỷ thường gợi lên những
điều hay, điều tốt để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà
đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa.
Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước
khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh
không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại
của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một "chiếc áo rách".
Thực vậy, vì tiền bạc, mà
người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền mà "nhân chi sơ tính
bổn thiện" đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó
là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả
chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh
cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai
lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận
định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật
chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với
lừa đảo, gian trá của thế gian.
Con người luôn hướng về sự
thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính
là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma
quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh
chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm
việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình
lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết
sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì "Phúc cho ai có tinh thần
nghèo khó, vì nước trời là của họ". Amen.
7. Sứ mạng loan báo Tin
Mừng
(Suy niệm của Lm. Giuse
Nguyễn Thành Long)
Sau khoá huấn luyện
"trung cấp" 2 năm về "kỹ năng" loan báo Tin Mừng, hôm nay
Chúa Giêsu đặc phái các môn sinh của mình lên đường thực tập sứ vụ trước khi
cấp "chứng chỉ tốt nghiệp ra trường" cho các ông. Ngay trước lúc lên
đường, Chúa Giêsu đã không quên ân cần dặn dò các môn sinh cách thức để việc
loan báo Tin Mừng mang lại hiệu quả như ý. Tựu trung lời dặn dò đó chứa đựng 3
bí quyết, như là "kim chỉ nam" cho các nhà truyền giáo mọi thời mọi
nơi.
1. Loan báo Tin Mừng - sứ
mạng phải được thực hiện trong chiều kích cộng đoàn
Cá nhân chủ nghĩa không có
chổ đứng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Bởi chưng, Chúa Giêsu không sai các
môn đệ đi từng người một, lẻ loi, đơn độc, để rồi các ông cứ mãi hát khúc hát
"Cô đơn một cõi đi về". Ngài sai họ đi là sai từng hai người một,
cùng với các Tông đồ khác tạo thành nhóm, thành cộng đoàn. Qua đó, các ông được
huấn luyện tinh thần làm việc chung, làm việc với người khác. Tinh thần làm
việc chung, việc nhóm mới có khả năng tạo nên sức mạnh kỳ diệu (các giải thưởng
Nobel trong những năm gần đây chứng minh điều này. Hầu hết đó là những công
trình của một tập thể, một nhóm). Hơn nữa, trên phương diện chứng tá, chứng của
hai người trở lên bao giờ cũng có giá trị hơn. Giá trị còn là vì cộng đoàn tính
nói lên tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ. Cộng đoàn tính còn
là lời chứng sống động về tình huynh đệ yêu thương mà họ rao giảng. Bởi thế, ta
không ngạc nhiên khi thấy các vị thừa sai thường được phái đi từ 2 hoặc 3 người
đến một giáo điểm hay một vùng miền nào đó để làm việc Tông đồ truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu khi được
Chúa Cha sai đến trần gian, Ngài không đi một mình, nhưng có Chúa Thánh thần
cùng đồng hành và cùng hoạt động với Ngài.
2. Loan báo Tin Mừng - sứ
mạng cần được thực hiện với tinh thần siêu thoát
Siêu thoát khỏi những dính
bén với của cải vật chất, tiền bạc để sẵn sàng lên đường, sẵn sàng đi đến bất
cứ nơi đâu một cách nhanh nhẹn và vui tươi. Siêu thoát với mọi thực tại đời này
để toàn tâm, toàn ý cho sứ mạng được giao phó. Thái độ siêu thoát cũng là dấu
chứng nói cho người khác biết lòng tin tưởng phó thác của người môn đệ vào sự
quan phòng của Chúa. Chúa Quan Phòng phải là người bạn đường của người loan báo
Tin Mừng. Nếu gạt Chúa Quan Phòng sang một bên, người tông đồ chỉ còn loay hoay
vun vén, "đào hang", "xây tổ" cho riêng mình.
Chúa Giêsu đã nêu gương
cho các môn đệ của Ngài về tinh thần siêu thoát và tín thác. Khi đến trong trần
gian, Ngài không mang theo gì ngoại trừ tình yêu của Chúa Cha. Khi sống trong
trần gian, cũng như khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài hoàn toàn sống phó thác vào
sự quan phòng của Chúa Cha. Chính Ngài đã bộc bạch: "Chim có tổ, cáo có
hang; còn Con Người không có chổ tựa đầu" (Lc 9,58).
3. Loan báo Tin Mừng - sứ
mạng phải được thực hiện với năng quyền của chính Chúa
Lệnh truyền và sứ điệp
loan báo Tin Mừng không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Do đó, để có
thể chu toàn sứ mạng, cần đón nhận năng quyền Thiên Chúa ban. Đó là năng quyền
rao giảng: công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô. Đó là năng quyền chữa lành và
thánh hoá nhằm cải thiện đời sống và phong hoá trần gian. Đó còn là năng quyền
trừ quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
Kinh nghiệm của các Tông
đồ ngày hôm nay cũng cho thấy Thiên Chúa luôn dẫn dắt chúng ta đi: "Ơn ta
đã đủ cho ngươi". Đức Tổng Giám mục Vacchelli, Tổng Thư ký Hội đồng Giám
mục Ý quốc, khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Trợ lý Tổng Trưởng của Thánh Bộ
Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc và Chủ tịch Hiệp hội Giáo hoàng Truyền giáo,
ngài cho hay: "Gia nhập vào Thánh Bộ là chịu trách nhiệm trực tiếp với
1.100 giáo phận trên toàn cầu, 2.000 giám mục và vô số các giáo sĩ, nam nữ tu
sĩ. Và trên hết vấn đề chính không chỉ là nghèo đói, nhưng là xây dựng một đời
sống theo đường lối Kitô giáo. Vì thế, phạm vi rộng hơn nhiều".
Đối mặt với lượng công
việc đồ sộ như vậy, ngài vẫn tràn trề hy vọng nói: "Khi anh làm việc cho
Thiên Chúa, Người luôn đi trước anh, thu xếp tính hèn yếu của anh bằng ân huệ
của Người". Nếu ý thức được như thế, các vị thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ
bớt lo khi thấy trách nhiệm năng nề, đồng thời sẽ bớt tự mãn kiêu căng khi làm
được việc này việc nọ.
Qua Bí tích Rửa Tội, đặc
biệt là Bí tích Thêm Sức, người Kitô hữu, cũng là người được sai đi. Được sai
đi cùng với người khác, được sai đi với tính thần siêu thoát và được sai đi với
ơn sức của Chúa. Đối tượng mà chúng ta cần nói cho biết về Chúa, không ở đâu xa
mà ngay trong gia đình, gia tộc và xứ đạo của mình. Họ là những người thân
thích với ta, là bà con lối xóm của ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ
là những người cùng nghề cùng sở làm với ta...
Thế nhưng câu hỏi đặt ra
là khi thực hiện ơn gọi loan báo Tin Mừng, tôi đã nêu cao tinh thần chung, tinh
thần cộng tác với anh chị mình chưa hay vẫn còn cá nhân chủ nghĩa? Tôi đã đề
cao tinh thần siêu thoát chưa, hay còn quá dính bén với những thực tại đời này,
và quá chú trọng đến việc "xây tổ", "đào hang" cho mình? Và
nhất là tôi đã hết lòng giương cao sức mạnh của Chúa chưa, hay chỉ toàn cậy dựa
vào tài cán và sức riêng mình?
8. Không bánh mì, cũng
chẳng tiền túi
(Suy niệm của Lm. Nguyễn
Ngọc Thế)
* Vài hàng sơ lược
- Sau khi bị người đồng
hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu
vẫn thản nhiên và Ngài tiếp tục lên đường đến các làng chung quanh để giảng
dạy. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.
- Đoạn này có thể chia như
sau: (1) 6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các
môn đệ phải trang bị những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản
ứng trước sự đón tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh
của các môn đệ.
- Trong cái nhìn nhất lãm,
thì Luca nêu đoạn 9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn
trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt 10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca
đã lấy lại đoạn phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt:
Luca không đề cập đến việc đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra,
Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì
lại không. Ý nghĩa nằm trong câu: "Người sai các ông đi rao giảng Nước
Thiên Chúa" (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều sự khác biệt.
Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4). Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ:
"Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en" (câu 6). Ý
nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì gần giống như Luca.
* Suy niệm
"Rồi Người đi các
làng chung quanh mà giảng dạy."
Các làng chung quanh ở đây
là các làng nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc
giảng dạy của Giêsu ở đây có ý nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao
giảng sắp tới.
"Người gọi Nhóm Mười
Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ
quỷ."
Nhóm Mười Hai mà Giêsu
thành lập (ss. Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ
mạng thực sự bắt đầu. Sau những ngày được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3,
14), để đi sâu vào tương quan với Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì
giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào "chín chắn", nên Giêsu sai các
ông lên đường. Ngài sai các ông đi từng hai người một. Tại sao lại từng hai
người một? Theo các nhà chú giải thì trước hết liên quan đến việc làm chứng của
người Do-thái. Chỉ có một người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả, hay nói
mạnh hơn là không phải là người làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì
không thế dẫn tới quyết định trong tòa án, mà cần phải có hai người hay ba
người làm chứng: "Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một
người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn
cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới
được cứu xét." (Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh
còn có một số đoạn nhắc đến cặp "hai người", như trong cuộc tranh
luận với người Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã nói: "Trong Lề
Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm
chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho
tôi." (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19: "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở
dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh
Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."
Như vậy, việc làm chứng
của "hai người" còn có ý nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự
thật về chính Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng
Nước Thiên Chúa cho mọi người. Sự thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách
thật rõ ràng và chất lượng hơn, khi có hai người cùng đi chung để rao giảng và
loan báo.
Có lẽ đây là điều quan
trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao
giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô
và Gioan.
Và Giêsu đã ban cho họ
quyền trừ quỷ. Điều này được Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1,
21-28), qua đó quyền năng của Giêsu được "tô đậm", quyền năng giải
phóng con người khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật điều này, vì độc giả
của ông là những người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần nhận ra sự gần gũi của
Thiên Chúa, ngay cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần gũi và quyền năng Thiên
Chúa chính là bảo đảm cho sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm,
các môn đệ ra đi với quyền năng của Giêsu để trừ quỷ.
Thực, trong trận chiến đấu
với thần dữ, thì nếu không mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể
nào chiến thắng được: "Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và
trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên
Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến
đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với
những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời
cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như
thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen
tối." (Ep 6, 10-13) Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần đến.
Với sự sai đi và với quyền
năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng
mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ
trong thế giới.
"Người chỉ thị cho
các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương
thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai
áo."
Lời nhắn nhủ của Giêsu ở
trên được coi như là chỉ thị, tiếng Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ
điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản
(Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament), thì động từ này xuất hiện 31
lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho
thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm 12 (Mc 6,8).... Ở đây, trong đoạn phúc
âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho
nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó là gì vậy?
"Không được mang gì
đi đường", nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó
là nguyên tắc rất triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người
môn đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những
nhà thuyết giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì
họ không có nhu cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo
mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng
không có túi xin tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc
bụng, đến cả của ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một
thôi chứ không phải là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải từ
bỏ những vật dụng đó?
Không mang lương thực đi
đường, không bánh trái gì cả. Điều này còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ
Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì họ đem theo bánh, trái vải và bình nước.
Như vậy, người loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên
Chúa, và cũng tự do và khiêm nhường đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho
mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà
thì sẵn sàng ngồi lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản dị.
Giản dị hơn nữa, khi chẳng
đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không
vương vấn điều gì, không giữ lại sự gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà
tay cũng rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để
tất cả cho Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên
tiền bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh được biết bao nhiêu phiền
toái tiền bạc có thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ, đỡ
phải mệt mỏi ôm đống tiền trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa,
trong xã hội Đông Phương thời đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ
tránh được sự trấn lột của kẻ cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do
hoàn toàn với tiền bạc, tự do với thế lực của đồng tiền mà người đời thường
nói: "Có tiền mua tiên cũng được."
Vật được mang theo là gậy
và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi nhé!
Tại sao vậy? Cây gậy ở đây
là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp
mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác,
người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mọi người. Không ai
phải sợ sệt người giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin Mừng cũng không cần
phải hãi sợ ai hết: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che
giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết.
Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh
em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. "Anh em đừng sợ những kẻ
giết thân xác mà không giết được linh hồn" (Mt 10, 26-28a) Và người rao
giảng sẽ "không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc CHÚA
làm." (Tv 118,17)
Dép được nhắc ở đây chính
là Sandalion, tiếng Hy-lạp là sanda,lion, có thể mường tượng như giày Sandal có
quai như hiện giờ, là một vật dụng cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi
loan báo Tin Mừng. Sandal được sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó,
và rất cần thiết cho những chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác.
Cũng nên nhớ rằng, ở Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì
thế Sandal thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự
tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có
mang tang tóc, vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn
nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai
đang cần đến Tin Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra,
người loan bao tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ một mà thôi.
"Áo" ở đây dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển chú giải
Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider, thì áo này là một loại áo dài bằng
vải thô hay len, dài có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình dưới,
có cả hai loại tay ngắn và tay dài.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl,
trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú
quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ
có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón mình
đàng hoàng, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác
nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp
đường.
Người loan báo tin mừng
của Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần
phải mang áo có hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người
loan báo tin mừng, thì cũng thế, không ai phải ganh tị với người loan báo tin
mừng về áo quần cả.
Như vậy, tinh thần của
người loan báo tin mừng là trở nên tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở
thành thứ yếu. Chỉ có Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là
tất cả. Không có gì hơn cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô. Vâng,
nói theo tinh thần của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải trở nên
bình tâm và tự do hoàn toàn, để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước
được trở nên nghèo khó như Đức Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng
đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho mọi người.
"Người bảo các ông:
"Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra
đi."
Sau các chỉ thị về việc từ
bỏ tất cả những gì không cần thiết để lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm
hai nguyên tắc, khi đi đến với những người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên
quan đến lòng hiếu khách và đón tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng
một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha
thứ cho người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối
không đón tiếp. Về phía khách, ở đây là những người rao giảng tin vui, thì
không được phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có
thể việc rao giảng và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều thời gian, nên không
không được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa "đâm rễ"
vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.
"Còn nơi nào người ta
không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý
phản đối họ."
Nguyên tắc thứ hai ở đây
liên quan đến sự từ chối, không đón tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối
từ người rao giảng và sứ điệp anh ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta.
Sự chối từ đem lại hậu quả. Như trong phản ứng của Giêsu với những người
Na-za-réth, Giêsu nói với các môn đệ mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để
tỏ ý phản đối họ. Thái độ giũ bụi này trong xã hội Do-thái thời đó, được người
Do-thái làm, mỗi lần họ từ đất dân ngoại trở về lại biên giới của đất thánh.
Theo truyền thống của các Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn
tẩy rửa và giũ lại tất cả những gì dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì
trong đoạn phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà
người rao giảng tin mừng để lại, và hy vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ
suy nghĩ lại, tự chất vấn lại thái độ của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng
là chủ của Tin Mừng.
"Các ông đi rao
giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho
nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh."
Nhóm Mười Hai ra đi theo
lời sai đi của Giêsu, và họ đã làm được nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi
rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà
Giêu đã trao, họ đã trừ được nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua
đó nói lên quyền năng của Thiên Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con
người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa
họ khỏi bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo
lời kêu gọi của Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các
môn đệ đã cùng với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ
nhận được sự tự do làm con cái Thiên Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui
sống mà mọi người có thể tìm thấy trong Nước Trời.
9. Những lời căn dặn cho
việc thi hành sứ vụ.
(Suy niệm của Camille
Gagnon)
Hôm nay, xin anh chị em
cho phép tôi giảng một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ
hè. Tôi muốn nói về gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra
sao.
Điều khiến tôi nói về gia
đình này, là Tin Mừng bảo rằng "Lần đầu tiên" Chúa Giêsu sai các môn
đệ, từng hai người một, đi rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước
lúc lên đường. Tôi không biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn
dò này không, nhưng tôi biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân
theo, và họ là làm hỏng kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh
nghiệm cắm trại của gia đình Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.
"Đừng mang theo hành
lý cồng kềnh".
Lời căn dặn đầu tiên của
Chúa Giêsu thật rõ ràng: "Đừng mang theo hành lý cồng kềnh". Vì ông
Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ
cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ,
v.v... Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất
cứ món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận
rộn chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm trại,
sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô ích.
Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ
thấy được yếu điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu
không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho cuộc
sống của mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp
đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện
nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh
thơi để có được những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.
"Đừng đi lăng xăng
khắp nơi!".
Lời căn dặn thứ hai là
đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành
công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp
gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế
và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước,
mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần,
bà đã "quen biết" nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên,
Chúa Giêsu đã nói: "Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho
đến lúc ra đi!". Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào
đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào
đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ
có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại,
đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu
bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào
nếu không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi
này đến nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc
gì cả.
Bọn trẻ nhà Tremblay trở
về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với
chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai
ngày đẹp trời nhất, v.v... Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng
chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ
lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn dặn
cuối cùng là: "Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ
đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ chỉ
ngăn cản các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi".
Tóm lại sứ vụ của các môn
đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần
những lời căn dặn này sao: "Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng lại
để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để bắt
đầu lại cách tốt hơn".
10. Thiên Chúa nói qua
trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa luôn làm việc.
Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người
đặc biệt để nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều
phải là người đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.
I. Amos đã được sai để nói
nhân danh Thiên Chúa cho dân Ngài
Con người là tạo vật được
yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người
sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách
đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên
tri Amos cho thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri "chuyên
nghiệp", nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri.
Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa
gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.
Tiên tri Amos đã được Chúa
sai tới nói với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah
đuổi: "hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri,
mà kiếm cơm ở đó". Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy
chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh
Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để
nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng
Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân
chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân
không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao
giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc
không đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai
họa sẽ xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel đã trục xuất tiên tri Amos
và không cho ông rao giảng nữa.
Tiên tri, là người của
Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ
nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết
sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà tiên tri "chuyên nghiệp",
kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng dân
chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri "thật" trong
lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều người cho
là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng theo Chúa
bất chấp những gì xảy tới cho mình.
II. Đừng mang theo gì cả
trừ cây gậy
Sau khi nhận phép rửa tại
sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày
trong hoang địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao
giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói,
không sợ vất vả, không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức
Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính
Ngài đang là Lời cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.
Đức Giêsu cũng sai các
tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương
lai. Ngài ban cho các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một,
dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người
tông đồ rất đơn giản: không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không
hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.
Người tông đồ của Chúa
không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng
diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho
tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả,
kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của
Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ
không đủ điều kiện để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận
họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.
III. Người được sai cũng
là quà tặng của Thiên Chúa cho con người
Thiên Chúa tạo dựng con
người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm,
Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn
vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện
chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con
người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn
thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc
về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền
bạc, Ngài không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người
nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi
ngày.
Thiên Chúa muốn ban tất cả
cho con người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban
cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con
người nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức
Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức
Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa
sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn
tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho con người.
Đức Giêsu Kitô là điều gì
vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức
Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta
hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có
nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng
là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng
tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người,
hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô
cùng, đến độ mình có thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có nghĩ rằng bạn là
người được Thiên Chúa sai để làm điều gì chăng? Nếu có xin chia sẻ.
2. Theo bạn, Đức Giêsu được
sai tới để làm gì? Ngài có làm trọn sứ mạng của Ngài không?
11. Lời dặn dò cần thiết –
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười
Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách
cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm.
Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ "gọi,
sai đi" diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên
đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông
đồ. M. Quesnel ví những lời đó như "một loại thủ bản, một cẩm nang cho một
nhà truyền giáo hoàn hảo" ("Comment lire un évangile?", Seuil,
trang 103).
1. Hành trang người tông
đồ
a. Hành trang đi đường:
cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải
là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để
có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Các môn đệ được tham dự
vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương
đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu
trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo
Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố
Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống,
xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn
lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh
em".
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc
lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của
lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các
ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một
chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như
thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do
tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
b. Phương tiện sinh sống:
không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người
được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không "mọc rễ"
bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
c. Tương lai bấp bênh.
Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường
đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối,
bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai
đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà
cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng
cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị
cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công
tạm bợ...và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm
bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ
luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám
lên đường tìm kiếm.
2. Phương thức hoạt
động:"từng hai người một"
Khi sai đi "từng hai
người một ", Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích
lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ
ngã, người này đỡ người kia dậy" (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng
đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của
Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người
khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các
nhà truyền giáo thường lên đường với nhau "từng hai người một": Phêrô
đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv
15,22)... Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một
bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn
trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người
môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
3. Tinh thần tông đồ là ra
đi
Trao "Sứ vụ" cho
các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông "phải giảng điều gì". Ngài
chỉ căn dặn các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Chúa Giêsu,
ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Suốt mấy năm ra mặt với
đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn
ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội
đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi
cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi
"mệt mỏi vì đường sá", một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với
người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh
đông đảo quá thì "Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin
ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà
giảng dạy dân chúng" (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình
liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,
rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội
đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum...
Ngài ngang qua đồng lúa ... Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh
đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi
hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn
ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một
đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những
hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi
đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn
người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra
bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài
cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa
Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn
cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: "Sáng
đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố
giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem
Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa" (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa
Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường
trên thế giới Ngài đang sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang
cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ
toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê,
rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải
đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường "công lý" của loài
người.
Bị kết án thập hình. Hai
tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32
-15,47). "Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại" (Mt
27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ
ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài
cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi
loan báo Tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng,
"Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha" (Mc 16,19) và luôn đồng hành
cùng Giáo hội "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". (Mt
28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ
và "thiết lập Nhóm Mười Hai" để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo
hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi
đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui
và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ
phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang
có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là.
Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì
ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người
ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra
đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng
con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa
vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
12. Suy niệm của Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi
Nếu các ngôn sứ là những
người nói thay cho Thiên Chúa trong thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn
sứ của Chúa Kitô và được Người sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ
Lời Chúa Chúa Nhật trước đã nói với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu
Ước, đồng thời cũng giới thiệu cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Kitô.
Bài Tin Mừng hôm nay là những lời Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ trước khi sai
họ lên đường thực tập việc rao giảng.
1. Ông A-mốt, một nông dân
được kêu gọi làm ngôn sứ (bài đọc Cựu Ước – A-mốt 7,12-15)
Câu truyện ngôn sứ A-mốt
bị tư tế A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi, cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra
một ngôn sứ đích thực. Vốn là một nông dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn
nuôi và trồng cây, ông A-mốt không hề nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi
ông làm công việc của một vị ngôn sứ. Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở
miền bắc vương quốc Ít-ra-en, dưới thời Gia-róp-am II (783-743 trước công nguyên).
Với tính tình chất phác của người nông dân, lời giảng của ông giản dị, dễ hiểu,
nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo tội ác
của mọi giới trong Ít-ra-en đã khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và không
muốn thấy ông hiện diện tại miền đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế đền
thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là
"thầy chiêm", danh từ ám chỉ người phục vụ các thần ngoại chứ không
phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ ngôn sứ của A-mốt là một
"nghề" để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn hiệu "Bết-Ên,
thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều" để dọa nạt A-mốt.
Trả lời cho vị tư tế, ông
A-mốt đơn giản cho biết: ông không phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không
muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những
gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là "đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân
Chúa".
Thực thế, ngôn sứ là người
đáp lại lời gọi của Chúa để thi hành một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp
hay một địa vị xã hội để vênh vang lên mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh
mục, tu sĩ, ngay cả những người chọn sống bậc gia đình hay độc thân đều là
những người sống ơn gọi. Còn bác sĩ, luật sư, kỹ sư... là những người chọn một
nghề nghiệp. Ơn gọi là để phục vụ, còn nghề nghiệp thì mục đích chính là để
kiếm tiền và nếu hành nghề với lý tưởng phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu
vậy thì ngoài các linh mục tu sĩ là những người chọn việc phục vụ, ta là những
anh chị em giáo dân cũng vẫn có thể phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp
để sinh sống. Khi ta thi hành nghề nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề
nghiệp để không những kiếm sống, mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề
nghiệp của ta tức là ta đang làm công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng
chính công việc của ta, bằng cách giao tiếp với những người liên hệ trong đức
ái Kitô, trong đức công bằng và bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài
năng trong lãnh vực nghề nghiệp để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích,
chú tâm tới những người cần giúp đỡ về mọi phương diện... Đó là ta đang cùng
một lúc vừa thi hành nghề nghiệp, vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực
tiễn nhất để chu toàn tác vụ ngôn sứ của ta.
2. Tinh thần tông đồ (bài
Tin Mừng – Mác-cô 6:7-13)
Trước khi sai các Tông đồ
ra đi rao giảng, Chúa Giêsu đã phải huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các
ông có cơ hội "học việc" với Chúa khi các ông theo Người đi khắp nơi,
các ông vẫn cần một thời gian "thử việc" sau khi nghe những lời căn
dặn quan trọng của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm nay không phải là một
bản đề cương chi tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ ràng, nhưng là những lời
đơn sơ nhắm nói lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là điều các ông cần phải
có. Nên nhớ đây không phải là một "nghề nghiệp" cần phải có bản
"mô tả công việc" như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một "ơn
gọi phục vụ" Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.
Trước hết Chúa sai họ đi
từng hai người một, để họ không lẻ loi, nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi
gặp những gian nan thử thách. Tiếp đến, Chúa "ban quyền" cho các ông,
không phải để dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ hay áp bức người khác, nhưng là
để sử dụng mà giải thoát người khác khỏi quyền lực của ác thần, bệnh tật thể
xác cũng như tinh thần.
Những lời căn dặn của Chúa
Giêsu nhắm đến tinh thần tông đồ và cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn
cảnh rao giảng. Nói đến tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần
tự do, không vướng mắc vào tiền bạc, của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng
ở đời. Người tông đồ "không được mang gì đi đường" và chỉ độc nhất có
"cây gậy và đôi dép" làm hành trang! Không mang theo gì cả, ngoài lý
tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng nề sẽ làm tổn thương
đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy dựa vào tình yêu cũng
như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của Chúa giúp họ bền bỉ và
can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.
Về cách giao tiếp và ứng
phó với hoàn cảnh, người tông đồ phải luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết
nhất. "Khi anh em đã vào nhà nào" là cách nói ám chỉ người tông đồ đã
được người ta tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì người tông đồ cứ tác vụ mình
mà thi hành, "ở lại đó" mà rao giảng, mà phục vụ, mà làm khí cụ bình
an của Chúa, chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do đích thực, đừng vướng
mắc bất cứ gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ thẳng thắn khi được
tiếp nhận, nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không được đón tiếp niềm
nở hay thậm chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng nguyền rủa những
người xử tệ với họ, nhưng chỉ thẳng thắn "cảnh cáo" những kẻ ấy đã
không tiếp nhận Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.
Lời dặn dò của Chúa Giêsu
chẳng cần văn hoa hoặc đao to búa lớn, nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần
thiết nhất và thực tế nhất. Tinh thần tự do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là
hành trang của bất cứ ai muốn đáp lời Chúa ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho
những giá trị Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy người giáo dân chúng tôi làm thế
nào để áp dụng tinh thần tự do và thẳng thắn ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ
sống như một người Công giáo không để cho tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm
chủ mình. Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành thực trong những giao tiếp, đối xử
với những người chung quanh, lúc nào cũng cố gắng thực thi lời dạy "hãy
yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con" của Chúa. Như thế là ta
đang làm ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng nhân cho Tin Mừng của Người rồi.
Thánh sử Mác-cô kể rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng đã gặt hái
được những thành quả tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái được những
hoa trái tông đồ ấy không phải là điều không thể đối với ta, những Kitô hữu hôm
nay.
3. Trong Đức Kitô, Thiên
Chúa đã chọn ta làm nghĩa tử (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 1:3-14)
Được Thiên Chúa chọn và
gọi làm ngôn sứ là một ân sủng lớn lao. Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử
còn là một ân sủng lớn lao hơn nữa. Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm
nghiệm ân sủng cao sâu đó, nên mở đầu thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành
một đoạn hết sức tuyệt vời để dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc
tụng Chúa, vì trong Đức Kitô, Chúa đã thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng
lớn lao mà ngài gọi là "kế hoạch yêu thương". Kế hoạch này được thực
hiện đều là nhờ Chúa Kitô. Vậy trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa làm
gì cho ta? Thánh Phao-lô kể ra những việc sau đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và
muốn ta nên tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4); b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta
làm nghĩa tử nhờ Đức Kitô (1:5); c) Thiên Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra
(1:7); d) Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Kitô
(1:11); e) Thiên Chúa đã cho ta được diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f)
Thiên Chúa ban Thánh Thần làm bảo chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả
những điều này đều là những điều Thiên Chúa đã "tiền định", tức là đã
có kế hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời
này chỉ là những may rủi hay trùng hợp, chứ không thể là "Chúa định"!
Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền định điều tốt thôi, đó là sắp
đặt "kế hoạch yêu thương" để mong ta đáp lại, cộng tác và sau hết
được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền định để cứu độ ta,
Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ không tiền định một
cách độc đoán đến độ "bắt" ta "phải" lên thiên đàng đâu!
Có khi nào trong đời Kitô
hữu, ta biết dừng lại một chút để suy nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên
Chúa và dâng lời chúc tụng Người như thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái
điệp khúc "ta là con cái Chúa và được Người cứu độ" đã trở thành quá
quen thuộc đến độ ta không còn để ý tới ý nghĩa sâu xa của nó nữa, nhất là ta
quên rằng đó là một kế hoạch của tình yêu? "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì
Thầy cũng sai anh em" (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha đã sai Đức Kitô đi
thực hiện kế hoạch yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Kitô sai ta đi làm ngôn sứ
và chứng nhân cho kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống yêu thương của ta.
4) Sống Lời Chúa
Chúa Giêsu kêu gọi các
thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng
Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh
của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu
thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Kitô,
ta cố gắng sống cuộc đời Kitô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời
nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh
chị em.
Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là
người được sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là
tông đồ của Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với
tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ
Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho
các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng
nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin,
nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa
Thường niên).
13. Loan báo Tin Mừng.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Lịch sử truyền giáo ở Việt
Nam
ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la
Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục
này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ
trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức
Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung
Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là
người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm
vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các
nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến
miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh
giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban
Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải
trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng.
Ngài nói: "Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc". Vừa được trả tự
do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi
tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ:
"Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu
tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!".
Thưa anh chị em, cuộc đời
truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà
truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của
mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại
bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên
những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ
khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh
mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần
những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã
trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ
quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa
Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm
Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời:
"Không được mang gì khi đi đường". Không bánh trái, không bao bì,
không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ
nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy
nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường
với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ
phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha
nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc
đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính
Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi
không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho
các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở
lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo,
đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp
thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng
hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm
nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không
phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế
giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi
giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng
cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong
thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là
người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống
để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi
con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì
phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại
trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải,
phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ
quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là
một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh
tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng
tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến
bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải
quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết
thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm
nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai
chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính
vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn
là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín
thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng
Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu
tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta
ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng
này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và
của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng
đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.
14. Chúa sai các tông đồ
đi từng hai - Noel Quesson.
Gandhi là vị cứu tinh của
Ấn Độ, ông rất cảm phục Đức Kitô. Ông đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy "bài
giảng trên núi" của Chúa làm phương châm hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu
cụ thể hơn về Giáo Hội, ông đi tới một nhà thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ,
một người chực việc tiến lại bảo ông: "Nếu những người Công Giáo sống đúng
theo Tin Mừng Đức Kitô thì dân tộc của tôi bớt khổ". Ông Gandhi mới có ý
nghĩ đó. Nhiều người chúng ta cũng lấy làm tiếc vì không được chính Chúa Giêsu
đích thân điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và thấy rằng trong các cộng đoàn nhỏ,
có nhiều người ở cấp điều hành đã làm người ta hiểu sai về Tin Mừng ở Đức Kitô.
Nhưng biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Chúa phải chịu chi
phối do không gian và thời gian. Muốn thiết lập một Giáo Hội trường tồn trong
lịch sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa vào tay con người trần thế. Ngay từ khi
bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa đã huấn luyện các môn đệ để các ông tiếp tục
sứ mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay đây, Chúa trao sứ mệnh tiếp tục công việc
Chúa làm nơi trần gian cho mỗi người chúng ta. Mọi Thánh Lễ chúng ta tham dự,
đều kết thúc bằng lệnh truyền sai đi: Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi
bình an.
Theo lệnh Chúa, các Tông
đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao
giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông
làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi từng
hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những
chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao
giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở
nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình
thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết
trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu
mỗi người chỉ sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng
này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: "Coi kìa, họ yêu thương nhau biết
bao!". Và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: "Người ta cứ dấu
này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau".
Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa
là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con biết dùng cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng
đoàn và trong môi trường sống của chúng con.
15. Ngài gọi và sai đi.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đức Giêsu là người làm nên
Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với
Ngài (x. Mc 3,14), họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi phải là
người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Đức Giêsu sai họ lên
đường. Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền
chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang lên đường của các ông. Mọi hành
trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi
đi đường.
Đức Giêsu cấm các ông
không được mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc... Không lương thực đi đường
nên có thể bị đói. Không bao bị nên không thể để dành. Không tiền bạc nên không
thể mua sắm. Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa
và của con người.
Ra đi mà không có một chút
bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và
thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của
Thầy: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn
rao giảng ở đó nữa" (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính
thiết yếu của người tông đồ. Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về
Nước Thiên Chúa đang đến. Đó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai
ưa. Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi những đòi
buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân, cũng không
mỵ dân để vuốt ve dư luận. Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón một cách
nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục
vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm
niềm vui của các môn đệ. Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng. Những
người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh. Họ đem đến cho con người niềm
vui, sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn sai
ta đến trong thế giới. Đi từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau. Chúng
ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy
dựa vào Chúa. Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng chán
chường, bệnh hoài nghi khép kín... Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm
nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lên đường là ra đi, nhưng
cũng là ở lại môi trường mình đang sống. Bạn thấy làm chứng cho Chúa tại nơi
bạn học hành, làm việc, có khó không? Đâu là những cản trở?
Thế giới hôm nay là thế
giới bị nô lệ dưới nhiều hình thức. Bạn thấy được những hình thức nào? (nô lệ
cho vật chất, tiện nghi, chức vị, xác thịt...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin sai chúng con lên
đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay
vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được
những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết
chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về
Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả
năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô
những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới
thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay
nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
16. Lên đường thi hành sứ
vụ với Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Ignatio
Trần Ngà)
Mười hai môn đệ lên đường
theo lệnh Chúa Giêsu mà chẳng mang theo gì cả: không lương thực, không tiền
bạc, không mang thêm chiếc áo thứ hai, không bao bị, ngoại trừ hai vật dụng tối
cần là cây gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9). Ngoài ra, các môn đệ lại là những người
ít học, khả năng khiêm tốn...
Vậy mà các ngài đã đạt
được những thành quả tuyệt vời: Xua trừ nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh
nhân, kêu gọi người ta ăn năn sám hối! (Mc 6,13).
Nhờ đâu các ngài đạt được
những thành quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng
Thiên Chúa.
Khi sai các môn đệ lên
đường không chút hành trang, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong
hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên
Chúa. Chính Chúa Giêsu hoạt động qua các vị như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của
Chúa Giêsu
Từ ngày lãnh bí tích rửa
tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành liền cây, như
bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ,
tư tế và vương đế của Chúa Giêsu.
Từ đó, Chúa Giêsu muốn rao
giảng qua chúng ta là môi miệng của Người; Chúa Giêsu muốn chăm sóc bệnh nhân
và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Người; Chúa Giêsu muốn tỏ lòng
thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta phải
cùng hoạt động với Chúa Giêsu và để Người sử dụng chúng ta như chi thể của
Người mà tiếp nối sứ mạng loan Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ
mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn
đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn
chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giêsu dù không mang lương
thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được
thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế
nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giêsu sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê
bại
Nhân loại hôm nay đông đảo
gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin
Mừng lúc nầy càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giêsu
vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như các môn
đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giêsu,
chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Người.
Một chi thể không cùng các
chi thể khác tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại hoặc
là một chi thể thừa (như ngón thứ sáu -ngón tay thừa- trên một bàn tay).
Một chi thể tê bại (hoặc
thừa) chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng
ngại cho hoạt động của toàn thân.
Chắc chắn không ai trong
chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến
thân làm khí cụ cho Chúa Kitô.
Khi chúng ta hiến đời mình
để Chúa Giêsu sử dụng như bàn tay của Người, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ
được Người thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
17. Chân dung của Sứ giả
Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ
Duy Tuyền)
Một cuộc đời đẹp là một
cuộc đời dấn thân vì lợi ích cho tha nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn
luôn thanh thoát khỏi những bon chen vật chất, những vinh hoa phù phiếm mau
qua. Đó chính là mẫu người mà xã hội hôm qua cũng như hôm nay đang cần, rất cần
họ để điểm tô cho xã hội thêm phong phú nhờ những cống hiến vô vị lợi và đầy
lòng quảng đại của họ.
Đó cũng chính là chân dung
của các sứ giả Tin mừng. Họ đã để lại cho nhân thế những bước chân thật thanh
thoát, nhẹ nhàng nhưng đầy tình người. Họ là những người được tuyển chọn để cứu
nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế
gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám
dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được
mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc
sống nổi trôi "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Sứ mệnh của họ là đẩy
lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ
không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá
quan tâm đến mình sẽ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn
đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch
đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại
sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một
đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng
vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực
sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô
cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn
cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai
này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có
nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo
anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất
thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố
gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò
lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ
cầu nguyện, tối mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng
ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua,
mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày
càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ,
nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to
lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con.
Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là
lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái
áo rách. Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng
bước. Ma qủy thường gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo
chương trình của nó. Adam - Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân
phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương
tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng
tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho
hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một
chiếc áo rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà
người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của
con người ban đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó
là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả
chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh
cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai
lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận
định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật
chất, chúng ta cần có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp
với lừa đảo, gian trá của thế gian. Chúng ta không thể vì tiền mà đánh mất tính
người. Vì tiền mà đánh mất tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ sói để hại
người, hại đời, để làm tôi cho ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ cho trần
gian.
Con người luôn hướng về sự
thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính
là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma
quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh
chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm
việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình
lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết
sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì "Phúc cho ai có tinh thần
nghèo khó, vì nước trời là của họ". Amen.
18. Rao giảng.
Các con hãy đi rao giảng.
Đó là một mệnh lệnh đòi
chúng ta phải ra đi.
Ra đi như các tông đồ, từ
bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có
nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ
gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo
đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận
từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên
ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ
bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô
song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng.
Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì
chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng
ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn
gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người
ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội
Rôma, biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay
người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa
mà lại mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở
quyền lực và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải
là tất cả, vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng
mình suy tôn Thiên Chúa...
Nhưng xét cho cùng, vẫn
còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã
hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa
Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do
Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao
giảng như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo
ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta
hãy nhắc lại lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và
đang ở trong tâm hồn những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn phận
rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng
lời cầu nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt
nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn
bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải
chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám
hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng
gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu
tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện
sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con
của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của
thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người
giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì
bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác,
chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt,
nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được
Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn
nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng
thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng
cách làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng
có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh,
nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng
tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
19. Chúa Kitô.
Chúa Giêsu mở rộng hoạt
động của Người bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. "Nhóm
Mười Hai" là một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được gọi là các tông đồ. Chúa
Giêsu đã tuyển chọn để sai đi rao giảng. Họ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và
thúc giục người ta hoán cải cuộc sống, để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa đang
đến qua con người của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của Tin
Mừng, chúng ta thoáng thấy những qui luật truyền giáo của Hội Thánh tiên khởi.
Hoạt động truyền giáo của Giáo hội được trình bày như là tiếp nối sứ vụ mà Chúa
Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ. Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời nói và
các hoạt động bác ái. Như vậy, Tin Mừng được chứng minh là công trình của Thiên
Chúa nhằm cứu độ những người có lòng tin.
Các giáo phụ luôn luôn
nhắc nhở các tín hữu như sau: "Chúa Kitô tiếp tục hoạt động trong các bí
tích. Khi vị linh mục làm phép Thánh Tẩy, đó là chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng
ta. Khi Đức Giám mục ban phép Thêm sức, đó là chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho
chúng ta. Khi linh mục ban phép Giải tội, đó là chính Chúa Kitô tha tội cho
chúng ta. Các thừa tác viên là những người tiếp nối công trình của Chúa Kitô.
Công việc của các ngài là chính hoạt động cứu độ của Chúa Kitô".
Những thành viên của phong
trào Cursillo đã vẽ một bức tranh Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi một thành
viên của phong trào Cursillo được yêu cầu trở thành tay chân của Chúa Kitô,
tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó mô tả
nhiệm vụ của các thành viên trong phong trào Cursillo, thì điều đó càng đúng
hơn cho các thừa tác viên trong Giáo hội. Họ tiếp tục công việc "rao giảng
lòng thống hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều
người".
Trở thành một thừa tác
viên của Chúa Kitô là một ơn gọi cao quý, nhưng cũng là một ân huệ. Không ai
được tự cho mình có ơn gọi đó. Người ta phải cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn bị
chu đáo cho ơn gọi đó. Nhiều người được gọi nhưng ít kẻ được chọn. Người ta
phải sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, theo sát Chúa Kitô và sống cho Người.
Bất cứ một do dự, một nghi ngờ nào về sự trung tín của Thiên Chúa cũng là một
sự phản bội. Nếu có một sự bất trung nào thì người ta sẽ thấy đó là do lỗi của
chính mình, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm
và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa cho các
bậc làm cha mẹ biết quảng đại dâng hiến con mình trong cuộc sống tận hiến cho
việc phụng sự Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục thánh thiện như
lòng Chúa mong ước.
20. Rao giảng.
Tất cả những người đi tu,
nhất là để làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa kêu
gọi âm thầm trong lòng mỗi người bằng những ước muốn, yêu thích và qua những
biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì hay tới
bàn thờ. Lần thứ hai, Chúa kêu gọi qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề trên hay
Đức Giám mục.
Chúa Giêsu cũng đã hành
động như thế trong việc kêu gọi các tông đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa
kêu gọi họ ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã kêu
gọi từng người một trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới, kẻ
gặp ở giữa đường, người khác đang ngồi thu thuế... Rồi Ngài qui tụ họ lại cho ở
luôn bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các công
việc Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy dân chúng, thấy gương sáng của Ngài. Giờ
đây, muốn sai họ đi truyền giảng Tin Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một lần
nữa như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng:
việc trở thành tông đồ, và linh mục hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng
kiến của cá nhân họ, nhưng là ơn thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các tông đồ
đi truyền giảng, Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Những điều này được coi
là khuôn mẫu, là bộ luật chỉ đạo cho các chiến sĩ truyền giáo. Chúng ta thấy
Chúa không bảo họ phải giảng gì và giảng như thế nào, nhưng phải ăn mặc thế
nào, mang những gì, sinh sống đối xử làm sao với những người mà họ tiếp xúc,
đồng thời dùng quyền năng Chúa ban mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa không dạy
các ông phải rao giảng bằng những bài giảng thuyết tràng giang đại hải hay bằng
những lý luận đanh thép, khôn ngoan, thông thái nhằm thuyết phục mọi người, nhưng
Chúa bảo các ông phải giảng bằng chứng tích, tức là bằng chính đời sống của họ.
Còn những điều các ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn vẹn có hai hay ba
điều: chúc bình an – báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và thúc giục người
ta ăn năn hối cải. Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói ít và làm nhiều,
dĩ nhiên Chúa không cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những giáo huấn mà họ đã
được nghe.
Đối với chúng ta hôm nay,
Chúa cũng kêu gọi và sai chúng ta đi truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi người
chúng ta khi đã lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đều được kêu gọi và
sai đi rao giảng: Có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều bằng việc làm, tức là
bằng đời sống, bằng hành động gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất cả chúng ta đều
phải là chứng nhân của Chúa và của Nước Trời, không ai được chuẩn chước, cho dù
là một bệnh nhân bất toại nằm trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời nói của
các chiến sĩ Phúc âm, của các vị thừa sai, của các linh mục... cũng rất cần
thiết, nhưng với điều kiện là phải đi đôi với bằng chứng đời sống của chính các
ngài, nếu không lời nói của các ngài chỉ là tiếng thanh la não bạt rộn ràng.
Ngược lại, việc rao giảng bằng đời sống, tự nó có năng lực thuyết phục người ta
chấp nhận chân lý mà không cần lời nói, tuy rằng lời giảng vẫn có thể bổ túc
một cách hữu hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe người khác nói: "Lời nói lung
lay, gương bày lôi kéo", lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng
đời sống sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi người
Công giáo là một chứng nhân cho Chúa, cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời sống tốt
lành, thiếu đời sống gương mẫu là chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu làm chứng
nhân và không thi hành đầy đủ sứ mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách rao
giảng, cách làm chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống tốt
đẹp của chúng ta. Nghĩa là làm bất cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy để ý
đối xử với họ thế nào để gây được thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử chỉ
nhỏ nhặt hay những câu nói buông trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ
không tên tuổi, những câu nói giữa trời, những thái độ dường như vô tình ấy
cũng rất có ảnh hưởng và có khi còn ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập có câu:
"Nếu anh không làm được ngôi sao trên trời, anh hãy làm cái đèn trong nhà
anh". Nếu đa số chúng ta không có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ, thì
tất cả chúng ta đều có thể làm tông đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng là một
nhiệm vụ chính Chúa Giêsu đã truyền dạy: "Các con là cái đèn sáng, sự sáng
của các con phải tỏa chiếu trước người ta, để người ta thấy công việc của các
con mà ngợi khen Cha trên trời". Chúng ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh
hưởng tốt và gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ... Vậy nếu một lời
nói, một cử chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến người khác, thì phương chi
một hành động, một công việc và nhất là một nếp sống. Làm gương sáng bằng hành
động của chúng ta có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể nhất là
những việc làm thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia
đã khuyên đứa con cưng của bà như sau: "Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt
con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc.
Con hãy sống thế nào để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà
con lại mỉm cười". Sống thế nào để được như thế? Chỉ có một cách duy nhất
là gieo vào tâm hồn những người chung quanh một tình thương mến, để đến giờ
cuối đó họ phải khóc vì thương tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được
tình người, muốn như vậy cần phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta luôn
ý thức nhiệm vụ tông đồ và cố gắng thực hiện bằng cách làm gương sáng và thể
hiện tình yêu thương để danh Chúa được rạng sáng và nước Chúa được mở rộng.
21. Hoạt động tông đồ.
Rất nhiều lần trong Phúc
âm, Chúa Giêsu đã than thở, đã tâm sự với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà
thợ gặt thì ít...Ta mang lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy
lên.
Vì thế, nỗi lo lắng số một
trong cuộc đời Chúa, đó là huấn luyện các tông đồ, để các ông tiếp nối sứ mạng
của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển chọn
các ông, cắt nghĩa cho các ông được hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban quyền
hành và sai các ông đi truyền giáo. Phần các tông đồ, các ông cũng đã hăng say
đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Với Bí tích Rửa tội, Chúa
cũng đã kêu gọi chúng ta trở nên những tông đồ. Với Bí tích Thêm sức, Chúa cũng
đã sai chúng ta đi vào cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đã
làm được những gì, cho danh Chúa được cả sáng, và nước Chúa được trị đến?
Nhiều người trong chúng ta
đã phủi tay trước nhiệm vụ khẩn thiết ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông đồ truyền
giáo chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục và tu sĩ. Còn họ, đang phải
vật lộn giữa dòng đời, thì còn hơi sức đâu mà nghĩ tới.
Vậy họ đã đưa ra những lý
do nào để biện minh cho thái độ của mình.
Lý do thứ nhất như vừa
trình bày, họ cho rằng hoạt động tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận
của họ.
Nghĩ như vậy là lầm, bởi
vì một khi đã là chi thể của Hội thánh, chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm
về sự sống còn và phát triển của Hội thánh.
Chính vì thế, Đức Thánh
Cha Piô XII đã kêu gọi:
- Hãy liên kết với nhau để
xây dựng lại thế giới.
Hơn thế nữa, Kinh thánh đã
bảo chúng ta:
- Đức tin không có việc
làm thì chỉ là một đức tin đã chết.
Bằng hoạt động, bằng việc
làm, chúng ta sẽ biểu lộ được sức sống của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra,
đó là tôi không có thời giờ và tiền bạc.
Chúng ta nói rằng, chúng
ta yêu mến Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng ta với
một đảng viên, một cán bộ, chúng ta sẽ thấy mình thua xa. Trong một tuần lễ mà
thôi, một đảng viên, một cán bộ đã bỏ ra bao nhiêu thời giờ để hội họp, để thảo
luận, để đi đây đi đó mà phổ biến chính sách đường lối, còn chúng ta thì sao?
Đừng hỏi rằng Chúa đã làm
gì cho tôi, mà hãy tự kiểm điểm xem tôi đã làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng:
mình không có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa quê mùa,
lại vừa dốt nát, làm sao có thể đối đầu với những người học rộng biết nhiều và
trí thức?
Đọc lại Phúc âm chúng ta
thấy các tông đồ là ai? Tôi xin thưa:
- Họ là những ngư phủ đơn
sơ và chất phác, học thì ít mà thiện chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới là
điều cần thiết, như là một câu danh ngôn đã bảo:
- Người ta làm được nhiều
điều tốt đẹp với một trái tim hơn là với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc tông đồ
đâu có phải chỉ là giảng giải, tranh biện hơn thua mà còn bằng lời cầu nguyện,
còn bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của mình nữa.
Trong bàn tay của Chúa,
một dụng cụ tầm thường nhất cũng có thể tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta thường
kêu ca:
- Đạo đức thì suy đồi,
luân thường thì đảo lộn, con người như đã đánh mất niềm tin vào những giá trị
thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
- Chúng ta làm được những
gì để cải tạo xã hội, hay là chúng ta cho rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao
tạo dựng nổi một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng phê
bình chỉ trích, nhưng lại không góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc truyền
giáo, đem ánh sáng Phúc âm đến cho những người chung quanh...
Thiết tưởng, chúng ta nên
ghi nhớ và thực hành lời khuyên sau đây, đó là:
- Thà thắp lên một ngọn
nến còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
22. Hãy đi rao giảng.
Lần đầu tiên sai các môn
đệ đi thực tập rao giảng Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin Mừng hôm
nay chỉ nói đến hai điều: hành trang phải mang theo là những gì và phải xử trí
thế nào trước những thái độ khác nhau của thính giả.
Bình thường, trước khi đi
đâu, nhất là khi đi xa, lâu ngày, một người cẩn thận, bao giờ cũng phải chuẩn
bị, sửa soạn, sắm sửa hành trang. Chẳng hạn: một người tính đi du lịch Đà Lạt
hay Nha Trang, dù chỉ bốn, năm ngày hay một tuần, trước khi đi, người ấy sẽ
chuẩn bị quần áo và những vật dụng cần thiết. Một người mẹ cho con gái đi ở riêng,
trước khi tiễn con lên xe hoa, bà thường sắm sửa cho con đủ thứ áo xống, vật
dụng và căn dặn con đủ cách. Hoặc khi tiễn người con trai đi nghĩa vụ quân sự,
bà cũng lo lắng, sắm sửa, căn dặn con nhiều điều. Trong phạm vi nghề nghiệp
cũng vậy. Làm nghề gì người ta cũng sửa soạn dụng cụ cần thiết: một bác nông
dân đi làm thì phải có cày có cuốc. Trẻ em đi học thì phải có bút mực, sách
vở...
Vậy mà chúng ta thấy,
trước khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu bảo họ: không được mang gì
cả, không mang bị, không mang tiền, không mang hai áo... Tại sao vậy? Bởi vì
Chúa muốn họ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài
vòng cương tỏa của vật chất. Họ sẽ sống một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới
biết bám víu vào Thiên Chúa quan phòng đã sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa muốn
dạy các môn đệ Ngài phải có một tấm lòng sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà con
và chính bản thân, từ bỏ những gì cần thiết... để họ thảnh thơi ra đi, không
bon chen, không dính bén, không vướng víu; và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi
đâu cũng là quê hương. Chúa không muốn các môn đệ Ngài trở thành những hành
khách được trang bị đầy đủ để rồi không còn lo sợ bất trắc. Không, Chúa muốn
các môn đệ Ngài phải biết đặt lòng tin vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài muốn họ
gặp bất trắc để họ biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các môn đệ
từ bỏ, tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng: công
việc rao giảng của họ không dễ dàng: có người chấp nhận, có người không. Vậy họ
phải xử trí thế nào? Chúa bảo: gặp được nhà nào tốt lành, chính đáng, thì ở lại
đó cho đến lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn
lòng hiếu khách. Còn làm khác đi dễ gây hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có lời khuyên
như thế là vì hồi xưa, các nhà truyền giáo không có chỗ ở cố định mà phải nhờ
vả rất nhiều vào các tín hữu để truyền giáo dần dần.
Dĩ nhiên và đương nhiên họ
sẽ không được một số nơi tiếp nhận và còn ngược đãi nữa. Trường hợp đó, Chúa
cho phép ra đi tới một nơi khác, và hãy giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm
bất kính cảu họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân
ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với dân
ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho
những người ấy biết rằng cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai các
môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy
làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất,
được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành
của chúng ta. Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn
mang một sứ điệp, là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là
tác giả viết thư, còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần
gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn
viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị
thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu chúng ta không
sống như thế mà còn sống tệ hơn những người khác thì sao? Chẳng hạn như vấn đề
được nêu lên trên một tờ báo như sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng theo
đạo. Những ngày Chúa nhật hoặc lễ trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ, rất
là nhộn nhịp trong bầu không khí thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một điều
đáng mừng đáng quí. Thế nhưng còn một điều đáng buồn cũng xảy ra thường ngày
trong xóm đạo tôi, đó là thiếu tình thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai nhà
gần nhau, mấy đứa nhỏ chơi với nhau rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó cãi
nhau chí tử. Chẳng hạn: buôn bán, vay mượn tiền bạc của nhau, không biết quên
sót hay thiếu đủ sao đó, rồi cũng đi đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo động cả
khu xóm. Những chuyện như vậy cứ xảy ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một xóm
toàn những người có đạo. Thế mà mọi người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ đi
lễ, đọc kinh, vẫn cứ cãi lộn, chửi nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết
luận: Ước mong xóm đạo tôi ngày càng sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi
lễ, cầu nguyện, nhưng cũng biết sống bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung
quanh.
Có lẽ đó cũng là điều ước
mong của chúng ta. Chúng ta hãy sống đạo ở trong nhà thờ, trong gia đình, ở khu
phố, ở mọi nơi. Sống đạo thực sự như thế là chúng ta cũng đang đóng góp phần
mình vào công cuộc tông đồ của Chúa và Giáo Hội.
23. Người sai họ đi.
Đức Giêsu sai các tông đồ
ra đi. Kitô giáo luôn là thế. Nó không bao giờ giữ lại điều gì cho mình. Nó
luôn bao hàm sự vươn tới những người khác. Nếu không có yếu tố này, không còn
là Kitô giáo nữa. Và điều đó nhiều lần được chứng tỏ bằng sự sẵn sàng hy sinh
của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các tông
đồ ở với Đức Giêsu. Suốt thời gian qua, Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người đã
chọn họ cho một sứ mạng – giúp truyền bá Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến
lúc họ phải góp phần vào công việc ấy. Người sai họ đi từng hai người một để họ
có thể nâng đỡ nhau và học làm việc với những người khác. Người ban cho họ
quyền nói và hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ là sứ
mạng tạm thời, ngắn hạn và giới hạn trong các thị trấn và làng mạc Do thái. Sứ
vụ sau cùng, khi họ được sai đến toàn thế giới, vẫn còn trong tương lai.
Sứ vụ của họ trước tiên là
một sứ vụ tâm linh – rao giảng sự sám hối và nước Thiên Chúa đã đến trong thế
giới. Nhưng sứ vụ ấy cũng liên quan đến việc chữa lành thể chất và tinh thần.
Nó cho thấy Kitô giáo quan tâm đến hạnh phúc tinh thần và vật chất của con
người. Nói cách khác, nó quan tâm đến con người toàn diện.
Họ không mang theo những
vật chất để cho người ta. Trong bất cứ trường hợp nào, họ không thể có được
những thứ ấy. Nếu việc truyền giáo gắn sứ điệp với những quà tặng vật chất luôn
luôn là điều nguy hiểm. Bởi lẽ người ta có thể chấp nhận sứ điệp với những lý
do sai lầm. Sứ điệp của họ phải tự nó tỏa sáng giá trị xứng đáng, và phải được
chấp nhận chủ yếu bởi những lý do tinh thần.
Về những trang bị cá nhân,
họ chỉ được mang những cái hoàn toàn cần thiết – dép và gậy. Về lương thực và
chỗ ở, họ phải trông cậy vào lòng hiếu khách của những người mà họ được sai
đến. Thật vậy, điều đó có nghĩa là trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhưng bằng cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy họ cũng tặng lại một điều gì đó. Sẽ
có một sự chia sẻ. Điều này tốt cho các thừa sai: họ cần dân chúng nơi họ được
sai đến. Và cũng tốt cho dân ở nơi truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của họ, và
cũng để khuyến khích lòng quảng đại của họ.
Các thừa sai phải làm
chứng về đức nghèo khó bằng sự từ bỏ những của cải vật chất. Và họ phải chứng
tỏ sự liên đới với người nghèo bằng cách liên kết trong các cuộc đấu tranh của
họ và chia sẻ sự nghèo khó với họ. Nhiệm vụ chính của họ là rao giảng sứ điệp.
Nhưng họ không thể kiểm soát, điều khiển sự đáp ứng của dân và cũng không nên
làm như thế. Họ phải tôn trọng tự do của người được rao giảng. Và họ phải chờ
đợi có người sẽ khước từ nó.
Nếu sự rao giảng của họ bị
chối bỏ, họ chỉ được phản ứng với một cử chỉ tượng trưng, phủi bụi dính ở chân.
Đây là một hành động có tính tượng trưng cao đối với người Do thái trong thời
đó. Dân chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của hành động đó. Nó có nghĩa là các tông đồ
sẽ đoạn giao với họ hoàn toàn và kể từ đó coi họ như người ngoại giáo. Tuy
nhiên, cũng có nghĩa như một cữ chỉ quan tâm. Mục đích của nó là làm cho họ
nghĩ lại về những điều mà các tông đồ đã đem đến cho họ và những hậu quả của việc
khước từ. Nó cho thấy số phận của những người khước từ quà tặng của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này rất
thích hợp với chúng ta. Tin Mừng vẫn cần được rao giảng và cần có những người
chấp nhận nó. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn còn thích hợp cho các thừa sai hôm
nay. Dù những điều kiện đã thay đổi, những nguyên tắc căn bản những giữ nguyên.
Những điều kiện ấy thách đố những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và
những người được rao giảng – Nó cho thấy tầm quan trọng của việc cởi mở tâm hồn
để đón nhận lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều gặp
một thách đố lớn là phải trở thành các môn đệ hoạt động, chứ không phải là các
môn đệ thụ động; không chỉ là những người đón nhận mà còn là những người ban
phát. Không phải là cành cây khô hoặc gốc nho chết mà là những cành cây sống và
trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt đã
được kêu gọi bỏ công việc bình thường để đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1). Mười
hai tông đồ cũng thế. Không phải chỉ một số ít chúng ta được kêu gọi rao giảng
Tin Mừng ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm nhân chứng cho
Tin Mừng. Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng cách sống Tin Mừng – bằng cách làm
môn đệ của Đức Kitô trong thực tế cũng như trên danh nghĩa.
24. Trách nhiệm.
Trong một ý nghĩa, niềm
tin vào Thiên Chúa rất phiền nhiễu bởi vì nó gia tăng trách nhiệm của chúng ta.
Nếu không có Thiên Chúa, thì cũng không còn trách nhiệm – chỉ còn sự hỗn mang
và đêm dài vô tận.
Nếu một người nào đến tìm
chúng ta và cầu xin giúp đỡ, chúng ta không thể xua đuổi người ấy với những lời
đạo đức: "Bạn hãy có đức tin, hãy dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa và
Người sẽ giúp đỡ bạn". Trong những trường hợp như thế, bạn nên hành động
như thể không có Thiên Chúa, như thể chỉ có một người trên thế gian này có thể
giúp đỡ, người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự quan
phòng của Thiên Chúa là một chủ yếu của Kitô giáo. Nhưng nó không được viện dẫn
như một cái cớ để không làm việc gì. Chúng ta không nên lùi lại và chờ đợi
Thiên Chúa làm hết. Thiên Chúa sẽ không xuống và đích thân Người làm. Thiên
Chúa hành động qua chúng ta.
Một ngày mùa đông một
người đàn ông đi đến một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành
phố, gió thổi lồng lộng. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa
ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
"Lạy Chúa, tại sao
Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?"
Và Thiên Chúa đáp lại:
"Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi".
Điều này làm người đàn ông
ngạc nhiên, vì thế ông nói "Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều
gì Chúa làm đều có vẻ như không làm".
"Ta cũng đồng ý với
con điều đó" Chúa đáp.
" Nhưng bằng cách nào
Chúa đã làm điều đó?" Người đàn ông hỏi.
"Ta đã làm ra
con" Chúa đáp.
Không có gì sai khi yêu
cầu Thiên Chúa chỉnh đốn lại những điều sai trái và an ủi nỗi khổ đau. Nhưng
chúng ta phải nhớ một điều là Người đã giao phó những nhiệm vụ ấy cho chúng ta.
Chúng ta là những công cụ
của Thiên Chúa. Đó là phẩm giá và cũng là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta
phải xác tín rằng không có tình yêu thương của chúng ta, những người khác sẽ
không hoàn thành những việc mà Thiên Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy điều này
rất rõ trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia sẻ công
việc mở rộng nước Thiên Chúa cho các tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể
tự hỏi: chúng ta có thể làm gì? Chúng ta phải trả lời câu hỏi ấy cho chính
mình. Nhưng ví dụ sau đây chỉ cho chúng ta phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất
nghiệp sống ở Dallas , Texas . Họ rất nghèo và thường đi quanh thành
phố nhặt những lon bia bằng nhôm để bán cho những nơi tái chế. Trong công việc
của họ, họ phải lục lọi trong những thùng đựng rượu vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một
khám phá rất đau buồn trong một thùng bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái
xác của một trẻ sơ sinh. Họ báo cho cảnh sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều
tra nhưng không tìm ra dấu vết của cha mẹ đứa trẻ. Thế là không có ai là người
chôn cất cho đứa bé.
Cặp vợ chồng biết ngay
việc họ phải làm. Chính họ muốn nhìn thấy đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử tế.
Nhưng việc này phải tốn tiền, trong khi họ lại có quá ít. Người vợ đem cầm vật
duy nhất có giá trị, một chiếc nhẫn cưới hột xoàn, để trả các chi phí mai táng.
Nhờ có sự cố gắng của họ,
đứa trẻ đã đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một quan tài màu trắng có phủ hoa.
Nước mắt của cặp vợ chồng cũng thanh khiết như nước mắt của Đức Giêsu trước nấm
mồ của bạn Người, Ladarô.
Để trở nên suối nguồn ánh
sáng trong thế gian, người ta không cần giàu sang hoặc có tiếng tăm. Người ta
chỉ cần có một tấm lòng yêu thương nồng cháy.
25. Đức Kitô cần chúng ta.
Cuộc chiến tranh trên bán
đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ
rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo.
Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy
nhiên, khi cuộc chiến qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra
khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp
vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho
tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về
Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
"Tôi có một ý tưởng
hay hơn", ông nói. "Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và
chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này. "Bạn ơi, hãy cho tôi mượn đôi bàn tay
của bạn". Bằng cách đó, những khách vãng lai sẽ nhìn thấy giờ đây Đức Kitô
không có tay nhưng chính tay chúng ta sẽ nâng đỡ người vấp ngã; không có bàn
chân chính chân chúng ta sẽ đi tìm người lạc mất, không có tai nhưng chính tai
chúng ta sẽ lắng nghe người cô độc, không có lưỡi nhưng chính lưỡi chúng ta sẽ
nói những lời an ủi người cô đơn.
Sự cố nhỏ ấy làm sáng tỏ
sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kéo các tông đồ vào công việc của Người.
Người chia sẻ sứ vụ thánh thiêng của Người cho họ. Người đã cho họ quyền bính
và sức mạnh của Người. Đương nhiên, họ cũng phạm những lỗi lầm, điều này không
làm người ta ngạc nhiên khi hiểu rằng họ là những con người bình thường.
A mốt là một mục đồng bình
thường (Bài đọc 1). Tuy nhiên Thiên Chúa đã sai ông đi rao giảng sứ điệp hối
cải cho dân. Hầu hết các tông đồ là những ngư phủ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã không
ngần ngại chia sẻ công việc Người cho họ. Càng ngạc nhiên hơn khi một ngày kia
Người sẽ giao phó toàn bộ công việc cho họ.
Nhiều người đang nắm quyền
hành thường sợ kéo người khác vào công việc, đặc biệt những người được gọi là
tầm thường. Vì thế, người khác bị loại ra với cảm giác rằng họ không đóng góp
được điều gì. Để cho người khác tham gia là điều tốt. Nó làm cho người ta có
trách nhiệm. Nó cho người ta một cơ hội sử dụng tài năng của mình. Nó xây dựng
một cộng đoàn tinh thần.
Nhưng một đôi khi người ta
không muốn tham gia. Giao việc ấy lại cho các chuyên viên hẳn là dễ dàng hơn.
Ngày nay, người ta thường giao việc cho các chuyên môn. Vì thế, việc chữa bệnh
được giao cho các bác sĩ và y tá. Việc dạy học giao cho các thầy cô giáo. Còn
việc lo cho người nghèo giao cho chính phủ hoặc Hiệp Hội Bác ái Vinh Sơn Phao
Lô.
Dĩ nhiên các chuyên gia
rất cần trong các việc chuyên môn. Nhưng người không chuyên môn cũng có nhiều
việc đóng góp và thường có nhiều nhiệt tình hơn. Người bệnh có thầy thuốc nhưng
cũng cần có tình bè bạn. Người già cần có người chia sẻ thời gian với họ. Người
trẻ cần có người tỏ ra quan tâm đến họ. Đây là công việc mà chúng ta có thể làm
được. Nó không đòi hỏi tài chuyên môn nào mà chỉ cần có một tấm lòng tận tụy.
Kinh Thánh bắt đầu với câu
chuyện Thiên Chúa làm con người trở thành những người cộng tác trong công trình
sáng thế. Và Đức Kitô đã cho các môn đệ tham gia công trình cứu chuộc của
Người. Một trách nhiệm cao cả đã được đặt lên vai chúng ta. Một vinh dự cao quí
cũng đã được trao cho chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm về thế giới này của
Thiên Chúa và về mỗi người khác. Chúng ta là những người quản lý tạo vật và là
người đồng cộng tác với Đức Kitô.
26. Người bắt đầu sai đi
(Giải thích bản văn Tin
Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau khi bị dân chúng ở
Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm
trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26),
mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật
cho Người những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn
đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị
cho họ những gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử
(6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế
nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các
môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều
chính: là "ở với Người" và "để sai đi" (3:14). Người đã nói
với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh cá con
người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ quyền năng
của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ quyền năng và
chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không phải cho tin
mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16). Việc xua trừ
ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho họ để thi
hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các
môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là
những thứ cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương
thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để
nuôi sống cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với
người què: "Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là
nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi" (Cvtđ 3:6). Tiếp đến
là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử
chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón
nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem
ra nằm ngoài thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về
nơi chốn và thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa
Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với
Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào
Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của
họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa.
Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó,
họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám
hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm
ngư phủ của con người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai
(3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ
mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn
đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.
27. Đức Giêsu sai nhóm
mười hai đi
(Chú giải và suy niệm của
Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã thiết lập
Nhóm Mười Hai với hai mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi
loan báo Tin Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi được Người chỉ định, Nhóm
Mười Hai ở với Người, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả hoạt động giảng
dạy và tất cả các hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông chu toàn mục
tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người
trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người (x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và
giảng dạy các làng trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi,
để các ông nối tiếp công việc của Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành
hai phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị
cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao
phó sứ mạng (c. 7),
b- Giáo huấn của Đức Giêsu
về hành trang (cc. 8-9),
c- Giáo huấn của Đức Giêsu
về cách xử sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành
sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Hai (7): Đời
tông đồ là một cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều
này được tác giả Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ "Nhóm Mười Hai"
ở 7 điểm quan trọng. Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều
đặn: từ khi Nhóm được thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm
được nhắc đến ở mỗi chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên
loan báo về Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức
Giêsu "thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai đi rao giảng" (3,14). Và xa hơn: "Người thành lập Nhóm Mười
Hai" (3,16).
2) Ở ch. 4: "Khi còn
một mình Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về
các dụ ngôn" (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều
này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.
3) Ở ch. 6: "Đức
Giêsu gọi Nhóm Mười Hai" (6,7). Trong TM Mc, từ ngữ "tông đồ"
chỉ được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc
bảo các môn đệ vài điều: "Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn
làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người" (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu
loan báo Người sẽ chết và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng,
còn nhưng kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt
đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình" (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã
đi vào Giêrusalem: "Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi
thành..., và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai" (11,11). Câu 11 là
như lời dẫn nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn
cảnh, chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại
Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường
xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ
phản bội được nhắc tên cũng là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười
Hai được nêu lên như là những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn
với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai,
Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải là một hệ thống các giáo thuyết hoặc luật
lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón
nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ
giả được đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc
giả đi dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này với Đức Giêsu.
- Quyền trừ quỉ: Mc trình
bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là
rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỉ).
- không được mang gì đi
đường (8): Tình trạng thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách
của công tác và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt
10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn
Mc có khuynh hướng chế giảm hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l'
("không") thành 'l' ("ngoại trừ"). Hay là phải chăng vào
thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài chế giảm như
thế?
- bao bị: Từ Hy Lạp pêra
là túi xách để đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.
- được đi dép (9): Mt
10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt
dùng từ hypodêma, vật bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân
không trên các nẻo đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn
là áo trong, mặc sát người.
- giũ bụi chân (11): Khi
có nơi nào không đón tiếp mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành
vi biểu tượng thôi, chứ không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những
con người tại nơi ấy phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc
giũ bụi chân khi trở lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành
thiếu lòng hiếu khách thì không thuộc về Ít-ra-en chân chính.
- Các ông đi rao giảng,
kêu gọi người ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ
làm vọng lại câu tóm về lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ
chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị
cho Nhóm Mười Hai (7-11)
Đức Giêsu đã "gọi lại
với mình" Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn
lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của
Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và
xua trừ ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu
(1,14t; 1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ
mạng đó cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường
xuyên với Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều
Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng như Người, các ông phải truyền đạt với xác tín cao
và vững chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể;
quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận
ra được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các
môn đệ phải loan báo không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá
trị thực sự bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần
thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải
thấy được rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang
theo cả, ngoại trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối
sống của các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và
phải ý thức về sứ mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn
chốn ở có được, chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải
mái hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông
phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ
trọng trong quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra
một việc tách biệt quyết liệt, "giữa chúng ta, không còn liên hệ gì
nữa!". Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp.
* Nhóm Mười Hai thi hành
sứ mạng (12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động
của Nhóm Mười Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt
động của Đức Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không
phải là một chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt
động của các ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai
điều cốt yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên đây,
Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính
mình. Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một
số tiêu chuẩn xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào
mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhiệm vụ của người Kitô
hữu hôm nay cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin
Mừng và giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn
được sứ mạng này; họ cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu ("ở với
Người"; x. 3,14).
2. Người Kitô hữu không
được chỉ giới hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về Triều Đại Thiên Chúa, mà còn
phải nhận ra trong đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động để
đưa lại sự giải thoát và niềm vui.
3. Làm chứng bằng lời nói
là một khía cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết
nếu việc làm chứng bằng lời nói không được phối hợp với việc làm chứng bằng
hành động, bằng chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ
rằng mình là người được sai phái đi, nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa
mình và phải trả lời về cách thực hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi
loan báo Tin Mừng không phải là cơ hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của
riêng mình.
28. Chú giải của Noel
Quesson.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai
lại, và sai đi từng hai người một.
Một trong những việc làm
đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng
tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng
Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành
lập một dân tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc.
Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở
"với Người" (Mc 3,14).
Hôm nay, có thể nói, Đức
Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu
tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội
đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của
Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan
trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách
nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương đầu của
trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy "Đức Giêsu với các môn
đệ", tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các
đối thủ. Vào lúc "kêu gọi" các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức
Giêsu đã "thiết lập Nhóm Mười Hai" để ở với Người và để Người
"sai họ đi". Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương...
tâm thu... máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông
thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến
khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp
quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân
chứng sống động của Chúa.
"Anh hãy đi! Anh em
được sai đi" "Ite, Missa est" chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là
"sự sai đi". Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như
thế không? Tôi có thường sống "với Chúa" trong suy niệm, trong nguyện
cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa "sai đi" vào đời sống thướng
nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai
người một.
Phải có hai người thì
chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều
câu ngạn ngữ để nói về điều này. "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ
ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình" (Gv 4,9).
Quy tắc đầu tiên của việc
tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu,
trước khi bàn tới. "Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!".
Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý
muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa
cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người
anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông
không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao
bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là chúng
ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, "Sứ
vụ" của các ông. Chúa không bảo các ông "phải giảng điều gì".
Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Đức
Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên duy
nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa
phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất
cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi
này khi khẳng định: "Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức
Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ
quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi"
(2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: "Khi tôi
đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu...
nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy... có vậy đức tin của anh em mới
không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên
Chúa" (l Cr 2,1-5).
Vâng, điều Đức Giêsu muốn,
đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn
sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không
ngừng tự "làm nhẹ bớt" để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống thế nào
trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ
mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là
chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một
thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết)
chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của
chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.
Còn nơi nào người ta không
đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản
đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên vi tầm
quan trọng của thái độ khước từ "tiếp nhận" trong diễn từ của Đức
Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá
lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: "Các ông muốn chúng tôi trở
lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái
tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin
các ông hãy đi giảng đạo nơi khác" Những khó khăn của Kitô hữu khi trình
bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay:
"Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước
cho các con". "Chúng ta chớ nên ảo tưởng".
Ngày nay cũng như thời Đức
Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì
thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: "Nếu
người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác". Chịu đựng thái
độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,... điều đó xem ra hết sức bình thường đối với
Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người
được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu
gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều
người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng những gì họ
thấy Đức Giêsu làm khi họ "ở với Người". Nội dung của nỗ lực
"truyền giáo" gồm 3 giai đoạn:
1. Rao giảng lời Chúa, đòi
hỏi một sự thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải.
2. Chiến đấu chống sự dữ,
xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ.
3. Hoạt động giúp người
nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.
Hoán cải
Đó là nội dung thứ nhất
của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao
các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối. Thông thường, con người
không thích "thay đổi" cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà,
Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc
sống mới. Chữ Hy Lạp "mitanoa" dịch ra là "hoán cải", có
nghĩa là "đổi ngược tinh thần". Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi
theo một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều
dễ. Tin Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì?
Một thứ học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật
tự hiện hành? "Các Ngài đã kêu to" "ékèruxan" phải thay đổi
cuộc sống "Metanoôsin".
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã dùng
những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ
mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền
lực của sự dữ trên thế giới. Những "nhà truyền giáo" những người được
Chúa "sai đi" không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài
đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp
không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối
kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi
là 'tội lỗi thế gian'. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào về những thế
lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.
Chữa lành
Lôi kéo con người ra khỏi
những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một
cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức
Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó
mang một hình thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là
"giảng dạy" mà đặc biệt còn là "giải thoát". Ngày nay rao
giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp
với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào?
Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn mang
tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của
Tin Mừng nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét