CÁC TÂN HỒNG Y |
LM. GIUSE NGUYỄN QUỐC HÙNG 3/7/1971 - 4/7/2018 RIP. |
MÙA ĐÀO TẠO HUYNH TRƯỞNG |
MÙA HE, - MÙA ĐÀO TẠO HUYNH TRƯỞNG |
CÁO PHÓ
Trong niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô tử nạn và phục sinh,
Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội trân trọng báo tin:
LINH MỤC GIUSE NGUYỄN QUỐC HÙNG
Sinh ngày:
03/01/1971 tại Hà Nội
Thụ phong
linh mục ngày: 22/12/2003
Đã được Chúa
gọi về lúc 15h15 thứ Tư ngày 04 tháng 7 năm 2018
sau một cơn
đột quỵ trong khi tham dự khóa thường huấn cho các linh mục Đại Chủng viện.
Linh cữu
ngài sẽ được quàn tại hội trường Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội (40 Phố Nhà
Chung).
Giờ viếng bắt
đầu từ 8h00 sáng thứ Sáu ngày 6/7/2018 và Thánh lễ an táng sẽ được cử hành tại
Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội lúc 8h00 sáng thứ Bảy ngày 7/7/2018.
Kính
xin quí Đức Cha, quí cha, quí tu sĩ nam nữ, và anh chị em cầu nguyện cho linh hồn
cha Giuse sớm hưởng Nhan Thánh Chúa.
VP Tòa TGM
Hà Nội
Xin các
cha trong TGP Hà Nội dâng 3 Thánh lễ cầu nguyện cho ngài.
Xin miễn
vòng hoa và phúng điếu !
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN -
B
Lời Chúa: Ed 2, 2-5; 2Cr
12, 7-10; Mc 6, 1-6
MỤC LỤC
1. Tiên
tri ở quê hương mình
2. Thân
phận người sứ giả
3. Không
làm được phép lạ
4. Thiên
Chúa luôn làm việc
5. Bụt
nhà không thiêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Cao ngạo
là đánh mất tất cả
7. Ơn gọi
làm ngôn sứ
8. Thèm
khát
9. Đừng để
lỡ cơ hội – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Những
điều nghịch lý – Jean Yves Garneau
11. Đánh
giá theo lý lịch
12. Đừng
thèm khát – Gm. Arthur Tone
13. Suy
niệm của Noel Quesson
14. Trân
trọng con người vì phẩm chất của họ
15. Lắng
nghe Lời Chúa
16. Ngạc
nhiên
17. Thiên
kiến
18. Đức
tin
19. Thành
kiến
20. Chối
bỏ
21. Chối
bỏ
22. Phép
lạ
23. Đừng
để lỡ cơ hội gặp Chúa
24. Sức mạnh
trong yếu đuối
25. Người
đã không thể
26. Đức
Giêsu về thăm Nadarét
27. Chú
giải của Noel Quesson
1. Tiên
tri ở quê hương mình
Qua đoạn Tin
Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên tri như
những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên Chúa. Thế nhưng Ngài đã phải đụng
đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ đồng hương với Ngài. Theo tập tục
thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng
vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng
Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng
được rao giảng tại đây. Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt
trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ
ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những
khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để
chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để
trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về
Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích
với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời
kêu gọi của thực tế trước mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải
đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng
làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với
họ. Phúc Âm còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một
phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài
đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Thái độ của
dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta
có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo, để rồi
quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố đang xảy
ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm nay
không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu độ,
cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể hiện
qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính lòng cuộc
đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng ta có thực
sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn có để thực
sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện của thực
tế hôm nay.
2. Thân
phận người sứ giả.
Sứ giả là
người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người
nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là
vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa và những ý định của
Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công khai, Ngài đã bị chống đối
và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng gia
nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Phải chăng
đó cũng chính là sái số phận của người sứ giả, của người tông đồ, vì Chúa Giêsu
cũng đã bảo: Môn đệ không trọng hơn Thầy, người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta
cũng sẽ bắt bớ các con. Thực vậy, ngày hôm nay, Chúa Giêsu trở về Nadarét để
rao giảng Tin Mừng, nhưng Ngài đã bị chính những người đồng hương chống đối, rồi
trên khắp nẻo đường xứ Palestina, Ngài đã loan truyền Phúc Âm, đã chữa lành những
tật bệnh đem lại mọi lợi ích cho con người, thế nhưng họ đã dám cho Ngài lấy
quyền phép ma quỷ mà làm những việc đó. Ngài mạc khải Thiên Chúa là Cha và mình
là Con, thì họ cho Ngài là kẻ phạm thượng, bị quỷ ám và điên khùng. Ngài đến
đem bình an, chân lý và thiết lập nước Thiên Chúa thì bị mang tiếng là xách động
là phản loạn. Họ bắt bớ và kết án Ngài tử hình trên thập giá. Sau cùng Ngài đã
bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.
Thân phận của
người sứ giả là như thế và Chúa Giêsu cũng đã xác định cho các tông đồ: Các con
sẽ phải đau khổ, khóc lóc, sẽ bị bắt bớ và điệu ra toà. Và như chúng ta thấy:
Cuộc đời người sứ giả của Thiên Chúa phải gắn liền với thập giá và khổ đau, vì
nơi thập giá, ơn cứu độ được biểu hiện qua sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Bởi
vì đau khổ là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá tới
phục sinh và là điểm tựa cho người sứ giả để can đảm loan truyền lời Chúa.
Họ không sợ
hãi vì có sức mạnh thần linh yểm trợ. Nơi thập giá, sức mạnh của Thiên Chúa thể
hiện và sự yếu đuối của con người gặp được sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên
Chúa. Thập giá giải hoà con người với Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ. Số phận
của người môn đệ phải đồng hoá với số phận của Thầy chí thánh, bởi vì chính
Chúa cũng đã ra điều kiện: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng
ngày mà theo Ta.
Người môn đệ
không phải chỉ chết cho mình mà còn chết cho người khác. Đúng thế, thập giá họ
vác chính là dấu chỉ họ chết cho thế gian. Họ sung sướng và hãnh diện vì được
chịu khổ đau như thánh Phaolô đã viết: Phần tôi chẳng bao giờ tôi dám vênh
vang, ngại trừ nơi thập giá Đức Kitô, Đấng đã đóng đinh thế gian cho tôi và tôi
cho thế gian. Trong những giờ phút đen tối, họ nhìn vào thập giá Đức Kitô và
tìm thấy ở đó một lý tưởng, một sức mạnh, một kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
mình.
Trước những
hy sinh gian khổ chúng ta đã có thái độ nào: sẵn sàng chấp nhận chịu đóng đinh
với Đức Kitô nghĩa là dám hy sinh, từ bỏ ý riêng để phục vụ ý Chúa hay không? Đức
Kitô có phải là nguyên lý cứu độ hay đã trở nên cớ cho chúng ta vấp phạm.
3. Không
làm được phép lạ.
Suy Niệm
Đức Giêsu giảng
dạy ở hội đường tại quê nhà. Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên trước
sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân
thành tìm kiếm họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.
Tiếc thay
người làng Nagiaréth đã không đủ vô tư. Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài, và họ
không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
"Ông ta
không phải là bác thợ sao?"
Một bác thợ
sống bằng đôi tay như bao người. Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn,
sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị
ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt: Bà Maria và các anh em, chị em của ông, tất
cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường, như những người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ
và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin
Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng
bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Không chắc
chúng ta đã khá hơn người làng Nagiaréth.
Hôm nay
chúng ta vẫn có thể bị đóng khung trong một cái nhìn nào đó về Đức Kitô, khiến
chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người
chúng ta rất quen, sống sát bên ta, nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi
biết về họ là đúng, nhưng không đủ.
Mỗi người là
một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra
khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng để gặp được mầu nhiệm tha nhân, để thấy
người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Chúng ta thường
nói đến một Thiên Chúa toàn năng, nghĩa là Đấng làm được mọi sự. Nhưng Đức
Giêsu tại Nagiaréth lại cho ta thấy hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay
trước sự cứng lòng của con người.
Đức Giêsu đã
không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay
con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, có thể dùng chính tự do Ngài ban để
khước từ Ngài.
Phép lạ là
quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ
không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
Có bao điều
lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta, mà Ngài không làm được, vì không được
làm.
Nên thánh là
để cho Ngài yêu thương ta, để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta. Lúc đó đời
ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa, và nhờ Ngài, ta có thể làm được những
kỳ công.
Gợi Ý Chia Sẻ
Quá khứ của
một người có thể làm chúng ta không thấy sự thật về người đó. Bạn có khi nào giống
như người Nagiaréth không?
Có khi nào bạn
thấy Thiên Chúa bị bó tay, chỉ vì bạn khăng khăng từ khước không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu,
Dân làng
Nagiaréth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ
đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã
không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc
chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu
đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như
Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức
tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc
sống.
4. Thiên
Chúa luôn làm việc
(Suy niệm của
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
"Cha Ta
hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc" (Ga.5, 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với
người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày
nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con
người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này
người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần
Thiên Chúa.
I. Vẫn có một
tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường
được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy,
cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên
tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân
chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện
diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử
Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra
các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người
thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để
dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3, 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để
giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm
phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là
người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà
nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng
"nói nhân danh Thiên Chúa cho dân" vì vị tiên tri biết rằng, mình có
loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy,
rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều
này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel
hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa
qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình,
cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa
họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng
nghe Thiên Chúa hay không.
II. Dầu vậy
Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được
dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16, 14). Với người Do
Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm
mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê,
thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những
điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã
làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho
kể điếc được nghe người câm nói được kể què được đi. Ngài là một tiên tri, và
là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên
tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại
sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: "Ngài có phải là Đấng phải đến
không?" Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng
Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống
trị của người Roma (Ga. 6, 15).
Không có
tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá
khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp
hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân
chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng
nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị
khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những
dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, "Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ
bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật". Thiên Chúa vẫn
luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con
người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho
con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất
cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa.
Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.
III. Ơn Ta đủ
cho con
Trước biến cố
ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy
nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng,
Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại,
Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể
cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. "Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự
như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,
Chúa tôi". Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên
Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân
Phaolô, "cái dằm" đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa
dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với
Thiên Chúa. "Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi,
nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con". Thiên Chúa không cất "cái dằm"
khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: "Ơn Ta đủ
cho con".
Nhiều người
cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm
xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm
"cái dằm" đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần.
Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với
Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? "Ơn Ta đủ cho
con". Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều
kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì
Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi
người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng
nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi
ý chia sẻ
1. Xin bạn kể
một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được.
2. Với kinh
nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?
5. Bụt nhà
không thiêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong truyện
cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy
để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi
tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một
vị lão tăng bảo ông rằng:
- Được gặp
Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.
Dương phủ hỏi:
Phật ở đâu?
Lão tăng bảo
rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược, là
chính Đức Phật đó.
Dương phủ
nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối,
ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền
vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như
hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới
hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha
ông ta vẫn nói:
"Tu đâu
cho bằng tu nhà –
Thờ cha kính
mẹ mới là đạo con".
Thế nhưng,
thói đời thì vẫn thường: "Bụt nhà không thiêng" hay "Gần Chùa, gọi
Bụt bằng anh".
Người ta xem
thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp
mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem
thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta.
Có nhiều người
ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng
đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi
hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại
suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm
nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra
đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ
chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: "khôn nhà dại chợ",
hay "làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát".
Đó cũng là
thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì
họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang
chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra
thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu
loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng
họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi
đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân
Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác
thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở
cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ
chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp
họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa
là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan
đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa "Không một
tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình".
Đó là cách
cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau
theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia
tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về
nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến
những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì "Yêu ai thì nói quá ưa –
Ghét ai nói thiếu nói thừa như không". Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái
nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá
là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh
nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.
Phải chăng Lời
Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao
chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn
nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan,
thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến làm đau lòng nhau?
Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có
thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và
giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết
đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua
trong sự tiếc nuối xót xa..., vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người
thân yêu mà nay đã không còn. Amen.
6. Cao ngạo
là đánh mất tất cả
(Suy niệm của
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Cao ngạo khiến
con người đánh mất Thiên Chúa, đánh mất đồng loại và đánh mất chính mình.
Sự cao ngạo
không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên Chúa. Đó là một nguyên tắc đã
trở thành kinh nghiệm ngàn đời, không phải của riêng ai, nhưng là của cả nhân
loại.
Cao ngạo làm
người ta xa Chúa đã vậy, nó còn có thể giết chết sự sống con người. Tất nhiên
không phải sự sống thể lý, nhưng là những giá trị thánh thiêng, những giá trị
làm nên sự quý báu, làm nên ý nghĩa của cuộc đời, của mỗi người nói riêng và cả
nhân loại nói chung. Chẳng hạn:
* Niềm tin
(chưa phải là đức tin của người Kitô giáo). Đó có thể là lòng tin tưởng giữa
người với người bị đánh mất. Đó cũng có thể là lòng tin giữa con người với đấng
thượng đế nào đó mà con người đặt niềm tin vào, nay bị đánh mất bởi cao ngạo.
* Hay như đức
tin của những anh chị em Kitô giáo. Đó là lòng tín thác tuyệt đối mà họ đặt nơi
Thiên Chúa vô biên, Đấng luôn yêu thương và quang phòng săn sóc mọi loài, mọi
người. Đức tin làm nên giá trị vĩnh cửu của đời người. Nhưng vì cao ngạo, con
người có thể hoàn toàn đánh mất đức tin.
* Hay chí ít
là những giá trị thường hằng của đời sống như: tình yêu, lòng khoan dung, sự
tha thứ, thái độ siêu thoát đối với của cải, lòng tự chủ đối với bản năng quyền
lực... cũng bị đánh mất do cao ngạo.
Đó là những
giá trị làm nên những mối tương quan tương quan sâu đậm trong mỗi tâm hồn con
người. Để gìn giữ những giá trị vô cùng ấy, ta cần loại trừ mọi thứ cao ngạo
trong đời mình. Bởi mối nguy hiểm do cao ngạo là mối nguy hiểm lớn. Nó làm ta
đánh mất Thiên Chúa, đánh mất cả đồng loại quanh ta.
Sự mất mát
do cao ngạo, dù đã quá lớn, nó vẫn chưa dừng. Nó biến ta thành kẻ trơ trụi. Trơ
trụi đến mức trần trụi: ta chỉ quay quắt với chính mình, cố thủ trong pháo đài
của riêng mình. Những danh từ như lòng tin tưởng, bạn bè, người thân... chỉ còn
là những khái niệm mơ hồ, xa xăm. Con người có bao giờ thành người trọn vẹn khi
tự mình che chắn, bao bọc lấy mình. Vì không là người trọn vẹn, do đó, cao ngạo
xô ta đánh mất chính mình.
Từ thuở tạo
thiên lập địa, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người
cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi. Được
làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc
tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, lại dám nuôi một giấc mộng tầm
cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình phải phát xuất từ đó. Tổ tông
không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng và tội lỗi.
Bởi cao ngạo
quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn không kém: mất Thiên Chúa.
Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng
loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: "Đây
xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi". Nhưng sau khi phạm tội, tình nghĩa
thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: "Người đàn bà
Chúa ban cho con đã hại con". Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính
mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi nhục.
Và hôm nay,
một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể
là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất
tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: "Bởi đâu ông này
được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những
sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê,
Giuse, Giuđa và Simon sao?". Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay
vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả.
"Người đã không làm phép lạ nào được". Có Thiên Chúa ở với mình,
nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những
không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người "qua các làng chung
quanh mà giảng dạy". Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những
người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như
một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận
bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy, đã
làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ,
vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của
lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì
cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu,
đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp
ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dấu vết thất
bại ấy, đã để lại một tấm gương ngàn đời cho muôn thế hệ. Vậy mà bài học trong
tội tổ tông và bài học từ những trang Tin Mừng, lắm khi cả tôi và bạn vẫn chưa
thuộc. Sự cao ngạo của ta đã nhiều lần làm gãy đổ tương quan giữa ta với Thiên
Chúa, giữa ta với nhau, và với chính ta. Có một cách để chữa trị lòng cao ngạo
đó chính là tình thương. Sự cao ngạo của những người đồng hương của Chúa Giêsu,
trước hết là một lối mòn của những kẻ không biết yêu thương. Chúng ta hãy dành
tặng nhau lòng yêu thương. Có yêu, ta sẽ không còn đố kỵ, không còn kỳ thị,
không còn chấp nhất, không còn định kiến, không thiển cận và cũng hết hẹp hòi.
Tất cả những điều đó (đố kỵ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, thiển cận, hẹp
hòi...) là con đẻ của cao ngạo. Bởi đó, tình thương sẽ giúp ta dẹp bỏ thói cao
ngạo. Mọi người hãy yêu thương. Chỉ có tình yêu thương mới là giải pháp trọng vẹn
hòng chữa trị cao ngạo.
7. Ơn gọi
làm ngôn sứ
(Suy niệm của
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
"Không
một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình" (Mc 6,4).
Theo Điển Ngữ
Đức Tin của Linh mục Hồng Phúc, danh từ tiên tri hay ngôn sứ có nguồn gốc từ tiếng
Hy lạp là chữ prophẻte, có nghĩa là nói nhân danh người khác. Tiên tri là người
được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để
truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài. Họ chuyển đến cho dân những đòi hỏi có trong
sách luật, lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần
Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày, sầu khổ, hoạn nạn, truân
chuyên, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một niềm hy vọng hay
niềm vui của sự cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã loan báo về
lòng thương xót cảm thông của Giavê đối với nỗi khổ của dân, và Ngài sẽ ra tay
cứu thoát họ.
Thế nhưng
không ít lần các tiên tri cũng vạch cho dân biết các nỗi thống khổ là do họ đã
bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc,
và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới
cuộc đời.
Kết quả của
lời cảnh báo thường sẽ là: "hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe" (Ez
2:5). Thậm chí, lắm khi mạng sống của vị ngôn sứ còn bị đe doạ, nhất là khi phải
nói lời Chúa cho những vị có quyền lực trong dân.
Ai lại không
biết trong một quốc gia phong kiến, vua là trên hết. Mọi uy quyền sức mạnh đều
nằm trong tay vua. Đụng đến vua thì chẳng khác chi tự đưa mình vào hang cọp. Thế
mà để chu toàn sứ mạng, các tiên tri đã không quản liều mình.
Thánh Kinh
có ghi lại hình ảnh của một tiên tri Nathan đầy khôn ngoan, dám tố cáo tội ngoại
tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay hình ảnh can đảm của tiên tri
Elia, dám nói thẳng với hai vợ chồng vua Akhab việc họ đã giết Nabot và chiếm
đoạt tài sản của ông cách bất công, nên Thiên Chúa sẽ giáng phạt tội ác của họ;
hoặc dưới triều vua Yosya, tiên tri Sophonia đã trách cứ các tư tế và chỉ trích
thói tục ngoại lai khi tôn sùng các thần giả.
Trước lời
loan báo, cảnh tỉnh của tiên tri, "hoặc là họ nghe, hoặc là họ không
nghe"- một là người ta sẽ lùi bước trước điều gian ác để sám hối canh tân
hoặc chính các tiên tri sẽ phải chuốc hoạ khổ đau, như trường hợp của ngôn sứ
Gioan Tiền hô khi dám lên tiếng phản đối hành động loạn luân của Hêrôđê.
Các tiên tri
của Chúa không những dám đánh mất sự sống thân xác khi đụng đến những kẻ có thế
lực và quyền hành trong dân, các ngài còn dám hy sinh cả an toàn tình cảm khi
lên tiếng cảnh cáo răn đe dân chúng. Như tiên tri Giêrêmia, Amos, Giôna, Nahum,
Mica, những vị dám lên án dân Do thái, dám thoá mạ bọn nhà giàu cướp bóc người
nghèo, những kẻ cho vay vô lương tâm, những con buôn gian lận, những gia đình
chia rẻ, các tư tế tham lam, hay các quan án hối lộ.
Giữa một xã
hội vô luân, giữa một dân tộc bị tục hoá, giữa những con người đang chạy theo
những điều vô đạo, vô phép, mà một mình dám đứng lên để mở ra một hướng đi mới,
dạy dỗ một giáo lý mới nhân danh Chúa, tất khó tránh khỏi cảnh kẻ chê người
ghét, kẻ phản đối người hận thù.
Đức Giêsu, vị
tiên tri tối cao, cũng không được miễn trừ. Phúc âm nói rõ: khi trở về quê nhà
Nazaret, Ngài vào hội đường để giảng dạy. Ngài rao truyền một giáo lý yêu
thương "họ không nghe." Hơn nữa họ còn "vấp phạm vì Người"
(Mc 6:3b).
Tất nhiên sự
vấp phạm này không chỉ là thái độ thiếu kính trọng đối với "anh thợ mộc
con bà Maria" của những người hàng xóm, nhưng còn cả hành vi phủ nhận
không tin của bà con thân cận (Ga 7:5). Chính Chúa Giêsu đã phải thốt lên:
"Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ nơi quê quán, bà con, họ hàng nhà
mình" (Mc 6:4).
Thế nhưng,
dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn
không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc đám đông không tin phục
thì Ngài đi đến với "một vài bệnh nhân;" khi thành này từ khước Tin Mừng
thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho "các làng chung quanh." Đây phải
là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời gọi rao
truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Nói đến ngôn
sứ xin đừng chỉ liên tưởng đến các vị tiên tri trong Cựu ước hay những đấng
"bạo mồm bạo miệng" dám lên tiếng hăm doạ, kết án những kẻ sống đời
nghịch luân, nghịch thường. Song, ngôn sứ chính là "tất cả những người
Kitô hữu, nhờ phép rửa tội, được hiệp thân với Đức Kitô, kết thành dân của Chúa
và do đó, họ tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn, và vương
giả của Đức Kitô. Theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi thực hành sứ mạng
mà Thiên Chúa giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới" (Giáo Luật số
204).
Như thế, ẩn
sâu trong bản chất Kitô hữu của tôi là cả một chức năng ngôn sứ. Với chức năng
đó, đời sống tôi phải đi đôi với việc loan báo chân lý, bảo vệ luân lý, bênh vực
nhân lý nhân danh Thiên Chúa Hằng sống.
Nhưng thử hỏi
mấy ai sẽ nghe lời tôi khi đời tôi là một phản chứng. Làm sao người ta nhận ra
chân lý khi mà tôi cứ mãi sống trong gian dối, lọc lừa, tham lam. Ai có thể
nghe tôi dạy dỗ về luân lý khi mà đời tôi đầy dẫy những thứ vô luân, rối vợ rối
chồng, nghiện ngập đam mê. Và ai có thể đồng tình với tôi để bênh vực nhân phẩm
đang khi tôi xúc phạm nhân phẩm, huỷ diệt thai nhi, cắt đứt tình người.
Như vậy, để
đóng trọn vai trò ngôn sứ, đời tôi phải là một nỗ lực chứng tá liên lỉ. Nhưng
tôi tự hỏi: ngay như cuộc đời toàn hảo của Chúa Cứu Thế cũng không được mọi người
chấp nhận và bước theo, huống hồ là cuộc đời chứng tá của mình?
Nhưng tính
chất cần có của đời ngôn sứ vẫn là không ngã lòng bỏ cuộc. Dù với khó khăn trắc
trở của môi trường hay của lòng người, tôi vẫn cứ tiến tới. Trong niềm tin như
Thánh Phaolô, tôi dám nói: "Ơn Chúa luôn đủ cho tôi. Vì chính trong sự yếu
hèn của tôi mà quyền năng Thiên Chúa được tỏ bày" (2 Cr 12,9).
8. Thèm
khát.
Có một lực
sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương vàng.
Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục anh. Điều đó
đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh này, ban đêm đã hì hục trong
bóng tối để đào bới với hy vọng phá đổ tượng đài ấy. Trong lúc anh này đang cố
gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng
dưng đổ nhào xuống trên đầu và đè chết anh lực sĩ thèm khát này.
Đó là một
câu chuyện tiêu biểu cho tính thèm khát, một tính xấu đã từng thâm nhập vào tâm
hồn nhiều người. Tính xấu này cũng đã có mặt qua đoạn Tin mừng hôm nay. Nhiều
người bà con lối xóm tại Nagiarét, nơi Đức Kitô sinh trưởng đã tỏ ra bực bội tức
tối vì Ngài được tôn kính và ca tụng do những lời Ngài nói và những việc lạ
lùng Ngài làm. Họ từ chối không muốn nghe lời Ngài, không muốn tin vào Ngài,
không muốn bước theo Ngài. Kết quả là Chúa Giêsu đã không làm được phép lạ nào ở
chính quê hương bản quán của Ngài, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Thèm khát và
ghen tị thì rất gần gũi nhau... Thèm khát thì liên hệ tới cái người khác có.
Còn ghen tị thì liên hệ tới sự chú ý và tình cảm người khác được. Phải chăng
tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu sang hơn tôi, có
nhà cao cửa rộng hơn tôi. Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được tôn trọng và được
kính nể hơn tôi. Chúng ta cần phải lưu ý: nếu chỉ mơ ước có được một cái gì đó
mà người khác đã có thì chưa phải là thèm khát. Mơ ước đó chỉ trở thành thèm
khát khi thiếu những cái đó, sẽ làm cho chúng ta buồn phiền, bất mãn và khốn khổ.
Chúa đã qui
định hai giới răn để kìm hãm lòng thèm khát của chúng ta. Điều răn thứ chín quy
định: chớ muốn vợ chồng người và điều răn thứ mười: chớ tham của người. Và như
thế, thèm khát là ham muốn một cách trái phép. Hầu hết các tội lỗi đều do sự
ham muốn này gây nên, chẳng hạn: vì ham muốn tài sản của người khác mà mới nảy
sinh những tội như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian.
Sự ghen tị
cũng vậy, vì nó mà nảy sinh ra nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian và những hành động
mờ ám khác nữa. Sự ghen tị xấu xa nhất đã đem cái chết cho Đức Kitô Đấng cứu độ
chúng ta.
Bài Tin mừng
hôm nay còn cho chúng ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ
có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị. Khi người
khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa
cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết
xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không? Chúa Giêsu đã cầu
nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ
chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta,
cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
9. Đừng để
lỡ cơ hội – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Truyện cổ
tích Trung Quốc kể về sự tích "Con Thỏ Ngọc" trên mặt trăng như sau:
Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra
sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày
già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh.
Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó
sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để
xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo.
Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi
dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ
trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông
vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa
cho khô. Ông lão rên rỉ: "Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn
không? Nếu không tôi chết mất". Thỏ vội vàng thưa: "Thưa ông, mùa
đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên
trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ". Thỏ chất thêm củi cho lửa
cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ
đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan
cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn
cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt
nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần.
Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây chỉ là một
câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy
nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông
tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng
hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ
trở lại nữa.
Tương tự như
thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng
Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ
không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người
rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin
Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không
làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người
sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày
chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp
đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh;
khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước
những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của
thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn
năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua
các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những
người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết
đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ
ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật
nguy hiểm cho linh hồn ta.
Để nhận biết
Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như
ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những
biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp
Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một
trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng
nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa,
dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù
khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa,
xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1) Có khi
nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
2) Bạn đánh
giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những
hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?
3) Bạn cần
chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
10. Những
điều nghịch lý – Jean Yves Garneau.
Những điều
nghịch lý: đó là những ý kiến hoặc thực tại ngược với những gì vẫn được người
ta chấp nhận hoặc ngược với những gì phải có theo lẽ bình thường.
Trong những
đoạn Kinh Thánh của Chúa nhật hôm nay ta có thể rút ra hai điều nghịch lý: Điều
thứ nhất trích từ Tin Mừng; điều thứ hai từ thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn
Corintô. Chúng ta hãy bắt đầu với điều nghịch lý của Tin Mừng.
Bị người nhà
của Ngài chối bỏ.
Sau một chuyến
đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu trở về quên hương. Người ta chỉ nghe toàn tiếng
vang thuận lợi về Ngài.
Ngài rao giảng
như không bao giờ đã có ai rao giảng. Ngài làm phép lạ, Ngài chữa lành bệnh
nhân. Vậy nên, nơi hội đường trong ngày Ngài trở về cứ tưởng người ta sẽ đón rước
Ngài một cách long trọng. Thế mà không. Con cái của quê hương không được đón tiếp
niềm nở. Người ta khó lòng tưởng tượng tượng đứa con trai bác thợ mộc và của bà
Maria lại có thể là người đã được ca tụng như thế, liệu ông ta có làm được những
gì mà người ta nói rằng ông ta đã làm ở nơi khác chăng? Thánh Marcô viết:
"Và họ lấy làm chướng tai gai mắt về Ngài".
Khi đọc bản
văn Tin Mừng hôm nay liền nghĩ đến điều này, là rất thường người ta phải khó nhọc
lắm mới có thể bắt chúng ta nhìn nhận tài năng –không phải của con cái hoặc những
thành viên trong gia đình chúng ta- nhưng là của những người lối xóm, những người
đồng hương với chúng ta. Sự nhỏ nhen này không phải là không có hậu quả tiêu cực,
bởi vì chúng làm tổn thương người khác và ngăn cản những dự định tốt.
Khi đọc bài
Tin Mừng này tôi cũng nghĩ đến cách mà chúng ta đón nhận (hoặc không đón nhận)
và lắng nghe (hoặc không lắng nghe) những kẻ rất gần chúng ta, là chứng nhân của
Thiên Chúa: Đứa bé này đặt câu hỏi cho chúng ta do bởi sự sốt sắng của nó; Người
hàng xóm này nói về tôn giáo cho chúng ta, người thiếu niên này chống lại cái
mà nó gọi là những giá trị giả tạo của chúng ta. Vị linh mục này, nhân danh
Chúa Kitô, đặt lại vấn đề về những lối hành động và suy tư của chúng ta. Bởi vì
chúng ta quen biết tất cả những người này (có lẽ quá!) bởi vì chúng ta biết những
tật xấu và những yếu điểm của họ, nên chúng ta có khuynh hướng hạ giá chứng tá
của họ.
"Một
ngôn sứ chỉ bị chối bỏ nơi quê hương, bởi bà con và gia đình mình mà
thôi". Đó là điều khiến Chúa Giêsu đã nhận xét. Điều mà chúng ta thường thấy
xẩy ra! Nếu chúng ta thuộc về số những kẻ không có quyền lên tiếng với bà con của
mình, và không được đón tiếp ân cần trong chính nhà của mình, nơi giáo xứ, môi
trường của mình... ta hãy cứ tỏ ra bình thản. Ta hãy tự nhủ rằng Chúa Giêsu đã
bị đối xử như thế và môn đệ không thể hơn Thầy được.
Sức mạnh
trong nỗi yếu đuối.
Nghịch lý thứ
hai chính thánh Phaolô trình bày cho chúng ta khi người đặt trong miệng Thiên
Chúa Lời này: "Quyền uy của Ta tỏ hiện tột mức trong sự yếu hèn". Con
người càng mạnh, càng tự hào và tự tin, càng cậy dựa vào những khả năng của
mình thì quyền uy của Thiên Chúa càng ít được thể hiện nơi họ. Trái lại họ càng
khiêm tốn, bé nhỏ, ý thức giới hạn của mình và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên
Chúa, lúc đó quyền năng của Thiên Chúa càng có thể được tỏ hiện nơi họ.
Nghịch lý thực
sự, ngược với những gì chúng ta nghe nói mỗi ngày và những gì nhiều lần chính
chúng ta tưởng nữa. Phải thông thái, giàu có, thống trị kẻ khác... mới thành
công được ở đời. Đó là triết lý thông thường! Ngược hẳn với những gì Thiên Chúa
nghĩ. Thiên Chúa ưa thích làm những điều lớn lao qua những kẻ bé mọn, nghèo
nàn, yếu đuối, khiêm tốn, những kẻ không tôn mình lên, những kẻ xác tín rằng nếu
mình có làm được điều gì lớn lao, thì đó không phải là nhờ sự cao cả của mình
nhưng nhờ sự cao cả của Thiên Chúa được mặc khải nơi mình.
Đức Maria, một
phụ nữ mà người ta không để ý đến. Nhưng có biết bao nhiêu điều tuyệt diệu
Thiên Chúa đã làm nơi người và nhờ người! Thánh Phaolô, một con người kiêu hãnh
và tự mãn đã bị thử thách và tổn thương nhiều nơi thân xác và đã trở thành một
người khiêm tốn. Cũng nơi người và nhờ người nữa, Thiên Chúa đã làm những điều
cao cả.
Bao giờ cũng
thế. Những kẻ ốm đau, Thiên Chúa ưa thích làm việc qua họ. Những kẻ coi như
không ra gì, lại chính là những kẻ Ngài rất thường chọn để thực hiện những dự
tính đẹp đẽ nhất của Ngài.
Ta hãy kết
thúc những suy tư này bằng một cái nhìn về bản thân chúng ta. Nếu chúng ta có
khổ vì những yếu đuối, nhựng rụt rè, những nỗi lo sợ, những nỗi bất lực của
chúng ta, chúng ta cũng đừng ngã lòng. Trái lại chúng ta hãy phục vụ Chúa hết
mình và xin Ngài thực hiện cho chúng ta những gì mà biết bao lần Ngài đã thực
hiện cho những người khác. Xin Ngài biểu lộ quyền năng của Ngài nơi nỗi yếu hèn
của chúng ta.
11. Đánh
giá theo lý lịch.
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Năm 1958,
sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao
sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền
văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho
Giáo Hội.
Cơ Mật Viện
đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một
gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo,
đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị
tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và
vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài
đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một "siêu sao"của thời
đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
Đừng đánh
giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức
Giêsu Nagiarét: "Nagiarét mà có cái chi hay!". Thế mà con người làng
Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa
Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc
thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh
và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ
hỏi nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây
nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?".
"Ông ta là ai?". "Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng,
con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê,
Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta
sao?". Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ
không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng
nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là "chú thợ mộc trong làng".
Đấng Thiên
Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi "trâm anh thế phiệt", phải
là một "trang anh hùng xuất chúng" đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn
ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến
nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành "chướng ngại cho họ tin
vào Ngài". Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp
ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng
thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên
Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt,
không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống
đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng
trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với
Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của "chủ nghĩa
lý lịch". "Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình,
giữa họ hàng và trong nhà mình". "Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại
địa phương mình". Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu:
"Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài" (Ga
1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng
thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa
sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận
Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một
kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như
chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.
Người đồng
hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng
hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh
Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ
chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời
kinh, các bải giảng. Người ta nói: "quen quá hoá nhàm". Chúng ta chẳng
còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa
trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người
khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là "một
chú thợ mộc làng Nagiarét", một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không
hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có
khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú... nhưng chẳng thấy gì hơn. "Bụt nhà
không thiêng" vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô
hữu.
Tin Mừng hôm
nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức
Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa
Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến
chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét.
Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay
chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người
Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của
chúng ta có dám tin như thế không.
Ở đây, niềm
tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm
thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của
Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ.
Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của
tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết
thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng
của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con
người.
Cảm tạ Chúa
đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên
Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với
Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.
12. Đừng
thèm khát – Gm. Arthur Tone.
Những người
cổ Hy lạp thích thể thao, nhất là những cuộc thi chạy lẹ, thi sức mạnh và dai sức.
Những cuộc tranh tài Olypic ngày nay phát sinh từ những ngày đó. Trong một cuộc
tranh tài cổ xưa, một lực sĩ đoạt chức vô địch. Các bạn hâm mộ ông đã dựng một
tượng đài để tỏ lòng khâm phục. Điều đó làm cho một lực sĩ bạn thèm khát. Anh
này, ban đêm trong bóng tối, gắng sức phá đổ tượng đài ấy. Anh tìm cách xô đẩy
bức tượng được vài phân, bức tượng lắc lư vài cái trên đế, rồi đổ nhào trên đầu
và đè chết anh lực sĩ.
Đó là câu
chuyện thèm khát. Tính xấu này đã xâm nhập tâm hồn nhiều người. Chúng ta thấy
tính xấu này trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trong làng xóm, nơi Đức
Giêsu sinh trưởng, đã buồn bực vì Người được tôn kính và ca tụng. Do lời nói và
việc làm lạ lùng của Người. Họ từ chối nghe lời người, từ chối tin vào Người, từ
chối theo Người, kết quả là Đức Giêsu, không thể làm phép lạ ở đó.
Thèm khát và
ghen tỵ gần gũi nhau. Thèm khát liên hệ tới cái người khác có. Ghen tỵ liên hệ
tới sự chú ý và cảm tình người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp
hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu hơn tôi, có xe láng hơn tôi, có nhà đủ tiện
nghi hơn tôi? Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được để ý và kính nể. Chỉ mơ ước
có một cái gì mà người khác đã có, không phải là thèm khát. Nó chỉ trở thành
thèm khát khi thiếu những cái đó làm bạn buồn, bất mãn và khốn khổ.
Chúa cho
chúng ta 2 giới răn đối lập lòng thèm khát. Giới răn thứ 9: "Ngươi chớ ham
muốn vợ người khác". Và giới răn thứ 10: "Ngươi đừng ham muốn của cải
người khác".
Thèm khát là
ý muốn trái phép: ham muốn một người không phải là vợ (chồng) của bạn một cách
trái phép là nguyên cớ của hàng triệu vụ ly dị trên đất Mỹ năm 1997. Tính thèm
khát gây nên bao đau thương, bao đổ vỡ.
Hầu hết tội
ác đều do sự ham muốn tài sản của người khác cách trái phép gây nên.
Sự ghen tỵ xấu
xa lớn nhất đã đem đến cái chết cho Đấng đáng yêu mến của thời đại. Chúa chúng
ta, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng hôm nay kể lại lòng ghen
tỵ đã làm mù quáng những kẻ có thể tin theo Đức Kitô.
Chúng ta có
thái độ gì đối với lòng ghen tỵ? Khi một người thành công, phát đạt, được kính
nể? Chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho họ. Nếu bạn bị người ta ghen tỵ. Bạn hãy xin
Chúa giúp cho họ chế ngự được lỗi lầm của họ. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ
chống đối Người. Đức Kitô sẵn sàng giúp đỡ vì Người đã từng chịu những kẻ ghen
ghét hành hạ. Xin Người giúp bạn vượt thắng tính xấu này nơi bạn và nơi người
khác.
Xin Chúa
chúc lành bạn.
13. Suy
niệm của Noel Quesson.
CHÚA NGẠC
NHIÊN VÌ HỌ THIẾU LÒNG TIN
Thánh Antôn,
người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về Bài
Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
- Thưa cha,
chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh nhân
trả lời:
- Tin Mừng
đã dạy: "Ai tát vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó."
Họ thưa:
- Chuyện này
khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh Antôn
nói:
- Nếu không,
ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
Nhóm giáo
dân thưa:
- Việc này vẫn
quá khó, không thể để yên những người xúc phạm đến mình được.
Thánh Antôn
nghe xong, quay bảo người môn đệ:
- Con hãy đi
nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện cho họ.
Là nhà giảng
thuyết, là nhà truyền giáo, thế nào cũng có lần gặp thất bại trong việc rao giảng
Tin Mừng. Ngay Chúa Giêsu, nhà giảng thuyết đại tài mà cũng đã từng thất bại
trước nhóm bà con xóm làng quen thuộc.
Tin Mừng hôm
nay cho chúng ta biết từ Capharnaum Chúa trở về thăm quê nhà, giảng trong hội
đường. Tại Capharnaum, Chúa đã làm nhiều phép lạ. Có nhiều phép lạ nghĩa là có
nhiều người tin Chúa, người ta lũ lượt theo Chúa đến quên ăn quên ngủ. Việc này
gây xôn xao khắp miền Galilê, và chắc chắn những người đồng hương của Chúa cũng
đã nghe biết. Bây giờ Chúa trở về quê nhà với nhóm môn đệ, có lẽ ai cũng tưởng
người anh em đồng hương hân hoan đón nhận. Nhưng tình hình biến chuyển khác hẳn.
Khi nghe Chúa đọc và giải nghĩa Thánh kinh ở Hội đường, họ cũng nhận là có những
điều hay, nhưng nghĩ tới gốc gác tầm thường của Chúa, họ cho Ngài là một người
không đáng tin. Bởi không tin nên họ cũng không nhận được phép lạ nào.
Có thể nói
Chúa thất bại nơi quê hương. Cũng vậy, Giáo Hội nhiều lúc đã thất bại. Có người
nói: "Tôi tin Đức Kitô, nhưng không tin Giáo Hội". Thực ra Giáo Hội lại
chính là khía cạnh nhân tính của Đức Kitô. Giáo Hội gồm những con người: các
giám mục, linh mục, giáo dân. Những con người đó chẳng những quá quen thuộc mà
có khi còn bất toàn nữa. Nhiều người thời nay đã vấp ngã vì Giáo Hội, cũng như
những người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối, không tin nhận Ngài. Đoạn Tin
Mừng kết thúc bằng những lời than phiền: "Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ thiếu
lòng tin". Thực ra, Chúa đâu có ngạc nhiên vì Chúa đã dựng nên con người
có tự do. Chúa quá rõ tâm địa những con người đó, có ngày họ sẽ nổi lên chống lại
Chúa, sẽ làm theo ý họ chứ không theo ý Chúa. Nhưng một khi đã cho con người tự
do thì Chúa không rút lại, Chúa tôn trọng tự do của con người dù chúng làm cho
Chúa buồn lòng. Chính vì vậy, chúng ta thấy ân huệ đức tin thật là cao quí.
Lạy Chúa,
chúng con tin Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con. Xin ban ơn đức
tin cho những người đã được nghe biết Tin Mừng để họ đón nhận Chúa và được Ngài
cứu độ. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
14. Trân
trọng con người vì phẩm chất của họ.
(Suy niệm của
Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Tagore
(1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel về văn chương năm
1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc còn niên
thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi đăng trên tờ báo do thân phụ
của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những bài thơ gửi đến ký tên con
mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào sọt rác vì cho rằng con
mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca.
Khi hiểu rõ
sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi đăng báo, không ký tên thật
của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại cho toà báo.
Lần nầy,
thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay
lên báo mà không hề hay biết đó là những bài thơ của con trai mình, những bài thơ
mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
Đúng là:
"Bụt nhà không thiêng", hay nói như Chúa Giêsu: "Ngôn sứ có bị rẻ
rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc,
và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
Ngay cả Chúa
Giêsu cũng phải chịu cùng một số phận đó.
Mặc dù danh
tiếng Chúa Giêsu đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ
việc chữa lành nhiều người bệnh tật và nhờ những phép lạ Người làm, thế nhưng
khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa
Giêsu, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản
thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ
không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào
bàn tán với nhau: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em
của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải
là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người" (Mc 6,3).
Bấy giờ Chúa
Giêsu nêu lên một nhận định có phần chua xót: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì
cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong
gia đình mình mà thôi."
Thế là Chúa
Giêsu chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương.
Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay,
vì đánh giá Chúa Giêsu theo lớp vỏ bên ngoài, dân làng Na-da-rét đánh mất dịp
may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giêsu ưu ái dành cho họ.
Việc đánh
giá Chúa Giêsu dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người
đã chứng tỏ cho thấy dân thành Na-da-rét đề cao giá trị vật chất mà xem nhẹ giá
trị tinh thần.
Có giai thoại
kể rằng một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân
nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya. Y tháo gỡ miếng giấy ghi giá bán của những
mặt hàng có giá trị cao, đem dán vào những mặt hàng rẻ mạt, rồi gỡ miếng giấy
ghi giá bán những mặt hàng rẻ mạt gắn vào những món hàng quý báu. Thế là các
món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng
cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận
ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại (ý
tưởng của Frère Phong trong cuốn "mắm muối cho bữa ăn hằng ngày")
Ngày nay,
các giá trị của đời sống con người cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến
nhiều người đua đòi chạy theo những điều phù phiếm mà rời xa những giá trị tinh
thần và văn hoá cao đẹp.
Vì đề cao
giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc
hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng
có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao
giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến
thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù
phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao
giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa
theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp
bên trong.
Trước thực
trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: "Giá trị con người
không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người"
Nguyện xin
Chúa Giêsu giúp chúng ta đừng theo vết dân thành Na-da-rét ngày xưa, đánh giá
con người theo hình tướng bên ngoài, nhưng biết tôn trọng con người vì phẩm chất
cao quý của họ và vì họ là chi thể của Chúa Giêsu và là hiện thân của Thiên
Chúa.
Và xin cho
nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi
suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
15. Lắng
nghe Lời Chúa.
Trước thái độ
cứng lòng của dân làng Nagiarét, chúng ta cùng tìm hiểu và chia sẻ về việc lắng
nghe lời Chúa.
Giữa giòng đời
huyên náo và quay cuồng, đôi lúc chúng ta cảm thấy vọng lên từ thẳm sâu cõi
lòng lời thì thầm sau đây:
- Hãy dừng lại.
Đừng chạy nữa và đừng nói nữa. Hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào. Vì lòng
yêu mến Chúa, hãy dành lấy một khoảnh khắc thinh lặng. Hãy lắng nghe tiếng nói
từ trời cao, vang lên trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Thực vậy,
hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào của thế gian, vì chúng chỉ nói với chúng
ta những điều điên cuồng và dối trá, để rồi sẽ dẫn chúng ta tới chỗ diệt vong.
Thật là dại
dột, nếu để cho cuộc đời vùi dập chúng ta như cánh hoa bị giòng nước cuốn trôi,
vì nguy hiểm đang chờ sẵn. Hãy đề cao cảnh giác và hãy nhớ rằng tất cả những gì
tốt đẹp đều xuất phát từ trời cao, đều do Chúa Cha, cội nguồn mọi ánh sáng, đổ
xuống.
Chính Ngài
đã ban cho chúng ta đời sống ơn sủng là như tấm áo cưới để được đón nhận vào
quê hương nước trời. Chỉ mình Ngài mới có thể trao ban cho chúng ta một cuộc sống
không bao giờ tàn úa.
Trong khi
con người thì thay đổi và chóng qua như một làn khói tỏa, như một áng mây bay,
thì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng trung thành, trước sau như một. Trời và đất
sẽ qua đi nhưng lời Chúa sẽ chẳng bao giờ qua đi. Ngài không bao giờ quên mất
niềm hạnh phúc vĩnh cửu, như là phần thưởng Ngài hứa ban cho những kẻ yêu mến
và phụng thờ Ngài.
Ngay từ thuở
đời đời, Ngài đã tạo dựng chúng ta, chọn lựa chúng ta và yêu thương chúng ta, mặc
dù chúng ta chẳng có công trạng gì. Bởi đó hãy cảm tạ Ngài không ngớt.
Lời ban sự sống,
đó là Tin Mừng, mà chúng ta được nghe ít nữa là trong ngày Chúa nhật. Vậy thì
chúng ta đã đón nhận lời Chúa như thế nào? Chăm chú lắng nghe? Hay qua lần chiếu
lượt, như một bổn phận phải làm cho xong.
Lời đem chân
lý đó là Kinh Thánh. Có bao giờ chúng ta mở ra để đọc và suy nghĩ, hay là chúng
ta sẽ thầm bảo rằng: làm gì có thời giờ cho những công việc phù phiếm ấy.
Mỗi ngày
chúng ta có biết bao nhiêu thời giờ để làm lụng, để ăn uống, để ngủ nghỉ, để giải
trí, để cắm đầu vào những cuốn chuyện nhảm nhí như thuốc độc giết hại tâm hồn.
Nhưng lại không có lấy một chút hứng thú cho những việc đạo đức, cho những sự
thiêng liêng.
Hãy cầu xin
với Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn mỗi người, cho chúng ta biết yêu
thích lắng nghe lời Chúa, để rồi sẽ ghi nhớ trong cõi lòng của mình, như lời
thánh Phaolô khuyên nhủ:
- Hãy mau
nghe nhưng chậm nói.
Đúng thế,
hãy yêu thích lắng nghe lời Chúa, và lời Chúa sẽ dần dần uốn nắn sửa đổi chúng
ta. Lời Chúa là ánh sáng đánh tan sương mù vây bủa cuộc đời. Lời Chúa là tiêu
chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động. Lời Chúa sẽ đánh động tâm can và là một thứ
khí giới bảo đảm cho chúng ta trước mọi cơn cám dỗ của thù địch.
Hãy mau nghe
nhưng chậm nói, vì nói nhiều thì thường là nói bậy. Ai kiểm soát được lời nói của
mình thì đã xóa bỏ được rất nhiều tội lỗi và sai phạm.
Ước chi lời
Chúa được lắng nghe, sẽ đọng lại nơi tâm hồn và trở nên khuôn mẫu cho đời sống
người Kitô hữu chúng ta.
16. Ngạc
nhiên.
Người ta thường
nói "không nơi đâu đẹp bằng quê hương", "ta về ta tắm ao ta, dù
trong dù đục ao nhà vẫn hơn". Khi nói những điều đó là người ta muốn minh
chứng rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn
nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê
hương, còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là tình cảm của những
người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa
Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là "không một ngôn sứ nào được chấp nhận
tại quê hương mình". Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: "Bụt
nhà không thiêng". Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản
thân Ngài tại quê hương Nagiarét của Ngài.
Ngài trở về
quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp nơi. Hôm ấy đúng vào ngày
Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh và nghe diễn giảng. Chúa
Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa. Hôm nay, sau bài đọc, như luật cho
phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân chúng không nhận ra Ngài là ai và
họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm Ngài, hiểu lệch lạc về con người của
Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy quyền, như bậc thầy nói với học trò,
như một người muốn gây dựng cho mọi người lòng tín nhiệm nhau để tiến tới tin
nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa là trước
những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét ngạc nhiên, vì họ thấy
Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao
siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và bác Giuse thợ mộc,
bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao có thể đảm nhận chương trình
đại sự của Thiên Chúa được? Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim
cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu
tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau
khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó
là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân
lý của Ngài.
Nói rõ hơn,
dân làng Nagiarét đã ngạc nhiên về Chúa Giêsu khi thấy Ngài giảng dạy một cách
khôn ngoan, thông thái và có thẩm quyền, nghĩa là họ vừa thán phục vừa kinh ngạc.
Nhưng vì biết quá rõ về Chúa: thợ mộc, con thợ mộc, từ thán phục kinh ngạc họ
chuyển sang thái độ bỡ ngỡ, nghĩa là kinh ngạc nhưng nghi ngờ. Càng nghĩ đến
thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên
họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn
sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn lần không, và họ đã bị vấp phạm, có
nghĩa là bị xúc động mạnh vì bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người
như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được
phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi.
Dân làng
Nagiarét ngạc nhiên về Chúa, và Chúa cũng ngạc nhiên về họ, Ngài ngạc nhiên vì
họ cứng lòng tin, kiêu căng và cố chấp. Chính thái độ kiêu căng, cứng lòng đó
đã làm tê liệt năng lực làm phép lạ của Chúa như Tin Mừng đã quả quyết:
"Ngài không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ cứng lòng tin".
Chúa Giêsu
ngạc nhiên vì dân làng Nagiarét cứng lòng tin, ngày nay chắc Ngài vẫn còn phải
ngạc nhiên hơn nữa vì sự cứng lòng tin của nhiều người Công giáo, vì dù sao người
Công giáo cũng phải biết Chúa rõ hơn dân làng Nagiarét. Dân làng Nagiarét tưởng
rằng họ biết rõ Chúa, nhưng kỳ thực họ biết rất hời hợt, thiển cận, chẳng hạn:
ngay nơi sinh của Chúa họ cũng không biết, họ cứ tưởng Ngài sinh ra và lớn lên ở
chính Nagiarét, một làng nhỏ bé, nghèo nàn. Nhiều người Công giáo cũng thế, đi
đạo vì truyền thống gia đình, vì sinh ra trong gia đình Công giáo, giữ đạo vì
thói quen, cho nên tưởng rằng biết Chúa, biết đạo lý, nhưng kỳ thực không biết
gì hay biết không được bao nhiêu. Thế nên, mỗi người cần suy nghĩ: Chúa có ngạc
nhiên về đức tin non yếu của chúng ta, về sự hiểu biết Chúa quá ít, hiểu biết về
Kinh Thánh, giáo lý quá ít, và nhất là có phải Chúa rất ngạc nhiên về cách sống
của chúng ta không?
Đàng khác,
bài Tin Mừng hôm nay còn đặt ra cho chúng ta một điều nữa cần suy nghĩ, đó là từ
chối hay đón nhận Chúa là thái độ hoàn toàn tự do của con người. Người ta có
quyền chối bỏ cũng như có quyền chấp nhận. Thiên Chúa không áp đặt ai hay cố
tình đưa ai vào một thế triệt buộc nào đó. Nhưng thời nào cái quyền tự do kia
cũng là con dao hai lưỡi khiến phải đề phòng, người khôn ngoan bao giờ cũng dè
dặt.
Giả như
chúng ta thử đặt mình vào số những người có mặt trong hội đường Nagiarét hôm ấy
để nghe Chúa, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta có quyền trách dân làng
Nagiarét quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng.
Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ
may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng
ta.
Nói rõ hơn,
thái độ từ khước Chúa Giêsu một cách hấp tấp, hồ đồ, chỉ vì thành kiến của dân
làng nagiarét. Thái độ đó nhắc nhở chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán
đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh
giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến,
vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm
và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt
đẹp hơn. Chúng ta hãy nhớ: người hay phán đoán, nhất là phán đoán hồ đồ, không
sống được với ai, không chơi được với ai, và cũng không ai dám chơi với họ, họ
bị mất niềm tin nơi mọi người.
17. Thiên
kiến.
Cổ học tinh
hoa có thuật chuyện "Mất búa", đại khái như sau: Một người thợ mộc
làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần
đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó
đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp
búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái
búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ
thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia
giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng
là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.
Câu chuyện
trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một
người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng
chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì
đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta
thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh
là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến thường
không chính xác.
Thiên kiến
có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu
hiểu biết nên phán đoán thiếu chính xác.
Thiên kiến
cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi. Tục ngữ có câu: "Ếch ngồi đáy giếng coi
trời bằng vung". Con ếch ngồi dưới đáy giếng chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa
bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có thế. Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi
cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong đầu óc của mình cả.
Thiên kiến
thường do sự thiếu khiêm tốn. Sự thật mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết
tất cả sự thật. Người khiêm tốn là người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng
đi tìm sự thật. Chỉ những người thiếu khiêm tốn mới hay huênh hoang tự đắc và
chủ quan.
Thiên kiến
thường dẫn đến những hậu quả tai hại. Vì thiên kiến, vua quan triều Nguyễn đã
không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn Trường Tộ. Nên đã để đất nước
chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến
nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối
thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân từ đầu thế kỷ 20.
Nếu trong đời
sống xã hội thiên kiến đã đưa đến những hậu quả tai hại, thì trong đời sống
thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt hại không kém.
Người dân
làng Nagiarét mang nặng thiên kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một
anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân
trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của
Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều
khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một
Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai
phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức
Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Tướng mạo
không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không
tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ
mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê
Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận
ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi
thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.
Rất nhiều
khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với anh em. Thiên kiến đối với
Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh
thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất
là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý
Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời đem
lại hạnh phúc cho ta.
18. Đức
tin.
Nghe Chúa
Giêsu giảng dạy, dân làng Nagiarét đã bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài. Hơn nữa, họ
còn ngạc nhiên về những phép lạ Ngài làm để rồi đưa ra câu hỏi:
- Bởi đâu
Ngài được như thế?
Dầu vậy họ vẫn
không tin và Phúc âm còn ghi lại: Họ đã vấp phạm đến Ngài. Sự kiện cứng lòng
này đã khiến cho Chúa Giêsu phải sửng sốt. Vậy đâu là lý do tạo nên tình trạng
đáng buồn ấy? Để trả lời cho câu hỏi trên, trước hết chúng ta phải xác định xem
trong thực tế, chúng ta được đức tin như thế nào?
Phần đông
các tôn giáo đều tin vào một Đấng tối cao và quan niệm đạo là một sự cố gắng của
con người, để tìm tòi và vươn lên tới thế giới thiêng liêng.
Sở dĩ như vậy
là vì sống trong một thế giới hữu hạn và đầy khuyết điểm, tự nhiên con người
mong ước một thế giới vô biên và hoàn hảo.
Cảm thấy
mình yếu đuối và tội lỗi, con người cố tìm một lối thoát, bằng cách tin vào một
Đấng linh thiêng có thể cứu mình thoát khỏi vòng tội lỗi và đưa tới quê hương hạnh
phúc.
Như thế là
con người đã cậy dựa vào sức riêng của mình mình để tìm kiếm một Đấng siêu việt
và một thế giới hạnh phúc.
Trong khi
đó, quan điểm của Kitô giáo thì trái ngược hẳn.
Thực vậy,
trong mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người, sự bắt đầu không phải là từ
phía con người, nhưng là từ phía Thiên Chúa. Con người không thể tự mình vươn tới
Thiên Chúa, nhưng chính là Thiên Chúa đã cúi xuông đến tận con người.
Kitô giáo
không từ dưới mà đi lên, như các tôn giáo khác, nhưng đã từ trên đi xuống...
Chính Thiên Chúa đã can thiệp vào đời sống con người, tỏ lộ cho con người biết
ý định và chương trình cứu độ của Ngài. Nếu con người có thể đáp lại và tìm đến
với Thiên Chúa, là vì chính Thiên Chúa đã tự ý lên tiếng kêu gọi và tìm đến với
họ trước.
Do đó, muốn
tìm thấy Thiên Chúa, con người không được dựa vào sức riêng của mình, nhưng phải
dựa vào Chúa.
Như vậy đức
tin là một ơn Chúa ban, vì đức tin trước khi là sự chấp nhận của con người thì
đã là một lời kêu mời của Thiên Chúa. Nếu Ngài không kêu mời, con người chẳng
biết gì như lời Đức Kitô đã nói:
- Không ai đến
được với Ta mà không được Chúa Cha lôi kéo và không ai đến được với Chúa Cha mà
không qua Ta.
Như thế, đức
tin là việc Chúa kêu gọi trước và con người đáp trả lại sau.
Vậy tại sao
những người Nagiarét nghe Chúa giảng và nhìn Chúa làm phép lạ mà vẫn không tin?
Như trên
chúng ta đã nói:
- Đức tin là
một ơn Chúa ban.
Dầu vậy cũng
đừng vội kết luận:
- Người
không tin là vì không được Chúa ban.
Sở dĩ như thế
vì đức tin còn là một sự cộng tác của chúng ta vào ơn Chúa, còn là sự chấp nhận
và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Như vậy phải kết luận rằng:
- Những kẻ
nghe lời Chúa giảng và chứng kiến những phép lạ Chúa làm mà không tin, vì họ
không chấp nhận. Sở dĩ họ không chấp nhận vì họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn
giáo trong những thành kiến hẹp hòi của họ.
Chẳng hạn vì
tinh thần tôn giáo từ ngàn xưa, họ không thế nào chấp nhận Đức Kitô là hiện
thân của nước trời, là phản ảnh của sự khôn ngoan Thiên Chúa.
Chẳng hạn vì
thành kiến về Thiên Chúa và đường lối của Ngài, họ không thể chấp nhận sự hiện
diện của Thiên Chúa nơi một con người đơn giản, khiêm tốn và nghèo khó, là Đức
Kitô.
Họ mang sẵn
trong đầu óc những ý nghĩ về Thiên Chúa, cho nên thay vì đón nhận sự tỏ lộ, sự
mạc khải của Ngài, thì họ lại bắt Ngài phải trở nên giống những điều họ mường
tượng.
Chính vì thế
khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha là Đức Kitô ở trước mặt, họ đã không thể nhận
ra.
Chúng ta
cũng vậy, chúng ta thường mang nhiều thành kiến về những phương tiện chúng ta
tưởng rằng Chúa dùng để đến với chúng ta và đưa chúng ta về với Ngài.
Do đó, biết
bao nhiêu ơn sủng đã bị đóng lại, biết bao nhiêu ân huệ đã trở thành vô ích chỉ
vì chúng ta thiếu sẵn sàng đón nhận cái bất ngờ của Thiên Chúa.
Đường lối của
Thiên Chúa thì khác với đường lối của chúng ta. Thế nhưng, đường lối ấy sẽ kéo
chúng ta tới nguồn ơn cứu độ và tới hạnh phúc vĩnh cửu.
19. Thành
kiến.
Ông ta là ai
vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải
là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là
những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống
và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?
Phải, đúng lắm.
Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà Maria, đã sinh sống và làm nghề
thợ mộc ở Nagiarét 30 năm trời.Nhưng tại sao những người đồng hương lại ngạc
nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu nay họ đã nghe dư luận đồn thổi
về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân
chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia... Đó là
những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài về Nagiarét,
quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài không tin và không thể
tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những
điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên sai, Đấng
cứu tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm?
Dân làng
Nagiarét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá biết: thân thế tầm thường,
gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá gì. Biết rõ quá như thế thì
làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng cứu thế, là Đấng giải thoát cho
dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong
xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu
chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và
yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác. Trước thái độ ít cởi mở
và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa không làm phép lạ được. Không phải
vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh,
nhưng chính vì họ không tin.
Dân làng
Nagiarét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà không thiêng, như có lần
Chúa đã nói: "Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi quê hương mình",
hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: "Ngôn sứ có bị rẻ
rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc,
và trong gia đình mình mà thôi". Tại sao dân làng Nagiarét không tin? Họ
không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định
kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng
lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa Giêsu là
hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ Đấng cứu thế
lại là một người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái đương thời,
Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu
thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với sự toan
tính của loài người.
Qua đó chúng
ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất
tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm
làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc,
thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai
đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng
buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: "Yêu nhau yêu cả
đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng". Lòng chúng ta có khuynh hướng
mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng
ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về
đàng đó liền.
Thành kiến
là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi.
Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế,
chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá
một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Câu nói:
"Trông mặt mà bắt hình dong" không phải là nguyên tắc chính xác, nên
chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: "Đừng có xem mặt mà bắt hình
dong". Khổng Tử cũng xác nhận: "Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người
tôi ghét chưa chắc đã xấu". Phong dao cũng có câu: "Người xấu duyên lặn
vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài". Lặn vào thì còn lại,
bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: "Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn","Xanh vỏ mà đỏ lòng". Cho nên, đánh giá một
người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại,
thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã
không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có
thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng
đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và
không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả
những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về
những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét
chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở
hơn.
20. Chối
bỏ.
Đức Giêsu trở
về quê hương, với những người dân mà Người đã lớn lên ở giữa họ. Bỗng chốc, họ
thấy rõ ràng Người đã thay đổi. Khi rời bỏ Nagiarét, Người đã tìm thấy ơn gọi
thật của Người (việc Người làm), và tặng vật của Người (sự giáo huấn và chữa
lành bệnh) đã nở rộ. Giờ đây Người nổi tiếng là một thầy dạy và một người hay
làm phép lạ.
Thông thường,
người ta phải đi xa nhà và xa quê hương mình để được triển nở. Ở nhà người ta cảm
thấy gò bó, vướng víu vì thiếu cơ hội, sự thách đố và thừa nhận.
Khi trở lại
quê nhà, những người ở quê nhà không sẵn sàng chấp nhận điều đó. Họ muốn nhìn một
người đi xa trở về như kẻ đã bỏ họ; họ cảm thấy yên tâm và chấp nhận người ấy.
Người ấy không còn là một thách thức đối với họ.
Nếu người đi
xa trở về ở tình trạng sa sút càng tốt. Thế là họ cảm thấy xót xa cho người ấy.
Nhưng nếu người ấy trở về và trở thành một con người đã thay đổi, có lẽ họ cảm
thấy bực bội và chối bỏ người ấy. Chính họ bị kẹt cứng trong những lề thói xưa
cũ. Vì thế họ cảm thấy bực bội với một người trở về mà bản thân đã làm được một
điều gì. Họ cố gắng cắt gọt người ấy theo kích thước riêng của họ.
Dẫu sao, Đức
Giêsu đã trở về, và một cách thân tình muốn chia sẻ quà tặng của Người cho những
người dân ở quê nhà. Nhưng thay vì Người được đón tiếp nồng hậu. Người thấy dân
giám sát, dò xét và theo dõi Người.
Ngay khi Người
bắt đầu giảng dạy trong hội đường họ có thể thấy Người có một món quà đặc biệt
– món quà của sự khôn ngoan. Lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ rất đỗi ngạc
nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã
ban tặng họ, họ lại hỏi: "Bởi đâu ông ta được như thế?" Đó cũng là
câu hỏi mà nhiều cha mẹ hỏi khi nghe con mình biểu lộ một điều làm họ ngạc
nhiên. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng
ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?
Người dân
Nagiarét nhớ lại nguồn gốc khiêm hạ của Đức Giêsu. Vậy thì, Người là ai ngoài một
bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ đã nói:
"Ông ấy nghĩ mình là ai?" Họ cảm thấy họ đã nắm rõ về Người. Họ đã đặt
ra những giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành
và phát triển.
Họ đã từ chối
tin Người. Họ đã từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ
làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ
cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một
câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình chấp
nhận. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người
gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không
đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta
không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất
công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được
hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ.
Bị chối bỏ
là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối
bỏ. Đức Giêsu đã ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ
nhưng chính Người cũng chịu bó tay. Bạn không thể giúp đỡ những người làm ngược
lại ý nuốn của họ. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận.
Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.
Chúng ta đều
có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta đã muốn giúp đỡ một người nào đó
nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và
vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: "Thế
đấy! Đừng hòng tôi giúp cho". Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa.
Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã
không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé
còn có thể làm được ở Nagiarét. Người đã chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người
quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.
21. Chối
bỏ.
Một gánh xiếc
đi lưu diễn đóng trại bên ngoài một ngôi làng. Một buổi tối nọ, không lâu trước
giờ trình diễn, ngọn lửa bùng lên trong một chiếc lều. Ông giám đốc gánh xiếc
sai một anh hề, lúc đó đã mặc trang phục cho buổi diễn đi vào làng kế cận để
xin được giúp đỡ. Nếu ngọn lửa lan tràn qua cánh đồng chỉ còn những gốc rạ khô
thì ngôi làng có nguy cơ bị hỏa hoạn.
Anh hề vội
vã chạy vào làng. Anh xin người ta ra ngoài làng càng nhanh càng tốt để giúp đỡ
dập tắt đám cháy. Nhưng không ai cho rằng anh nói nghiêm túc. Người ta nghĩ đó
là một màn quảng cáo khéo léo của giám đốc gánh xiếc. Anh càng cố làm cho họ biết
rằng thật sự có hỏa hoạn, thì họ càng cười anh. Sau cùng lửa đã lan đến ngôi
làng và thiêu rụi.
Lý do chính
mà dân làng không nghe lời cảnh báo là vì họ nhìn người đưa tin chỉ như một anh
hề. Điều này làm cho họ hầu như không thể xem xét sự thật trong lời nói anh ta
nói với họ.
Có một điều
tương tự đã xảy ra với Đức Giêsu khi Người trở về quê hương Nagiarét. Người ta
từ chối nghe lời Người. Họ biết rất nhiều về Người. Sứ điệp không gặp may vì
người ta đã chối bỏ sứ giả. Thật vậy, họ cố gạt bỏ Người.
Người đã nói
sự thật nào cho những người đồng hương để họ thấy đó như một lời đe dọa đến nỗi
họ muốn giết chết Người? Người cho họ biết họ là dân được Thiên Chúa chọn. Thế
nên người ta phải thấy họ có ít đức tin. Tuy nhiên Người nói với họ Người thấy
dân ngoại còn có nhiều đức tin hơn họ. Người tiếp tục gợi ý dân ngoại sẽ chiếm
chỗ của họ trong Nước Trời. Vì thế, họ muốn giết Người.
Một trong những
dấu chỉ Thiên Chúa chăm sóc dân Người là Người hứa gởi đến cho họ những ngôn sứ
để kêu gọi họ trở về với chính họ. Cho dù lời của các ngôn sứ thường là lời phê
phán, lời ấy là lời biểu lộ tình yêu.
Thiên Chúa
cũng làm thế đối với chúng ta. Người không bỏ mặc chúng ta trong bóng tối sai lầm
hoặc làm điều sai trái. Người gởi các ngôn sứ đến với chúng ta, phần lớn ở gần
chúng ta. Có thể là ai khác? Nhưng chúng ta cũng có thể chối bỏ các ngôn sứ, đặc
biệt khi ngôn sứ mang đến một sứ điệp mà chúng ta không thích nghe. Sự thật mất
lòng.
"Bạn
làm việc quá vất vả. Bạn bỏ bê gia đình quá nhiều. Bạn không quan tâm đến đời sống
trong gia đình và con cái bạn... Bạn làm hư hỏng con cái bạn... Bạn quá chú trọng
về vật chất... Bạn uống rượu nhiều quá... Bạn có quá nhiều thành kiến... Bạn
luôn đề cao bạn nhất... Bạn thờ phượng Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng..."
Nếu có ai
nói với chúng ta một hoặc nhiều sự việc ấy, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng
ta không tấn công ông hay bà ngôn sứ đó hay sao? Sự thật là ít ai trong chúng
ta ham thích sự thật. Chúng ta phải cầu nguyện để có can đảm lắng nghe sự thật
cho dù có thể đau đớn và đến như cơn gió làm tan đi lòng kiêu ngạo của chúng
ta. Sự thật như lời Đức Giêsu nói sẽ giải phóng chúng ta.
Người nào vì
yêu thương chúng ta nói với chúng ta sự thật, biết rằng nói ra sẽ làm chúng ta
mất lòng và đánh mất tình bạn, người ấy là một người bạn chân thành.
Chúng ta
cũng phải cầu nguyện để có can đảm nói ra sự thật với người khác. Kéo một người
về với chính lộ là một việc cao cả. Nhưng có một cách để làm việc đó. Đó là làm
với tình yêu thương và sự quan tâm. Bí quyết là đồng thời phải có lòng trung thực
và nhân hậu.
22. Phép
lạ.
Bài Tin mừng
hôm nay đề cập về phép lạ: Ở quê hương Nagiarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép
lạ bởi vì dân Nagiarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép
lạ là gì? Và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?
Điều chúng
ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác
nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn
bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày
nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng
được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã
coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác,
phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những qui
luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có qui luật là
một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một
người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa
chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo qui luật tự nhiên nữa, nên được coi
là phép lạ.
Sau khi đã
hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem
có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn
nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta
nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô
tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần
có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần
thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với
chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên
Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này
là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép
lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài qui luật tự nhiên. Qui luật tự nhiên ấy
ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập
những qui luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận
hành theo đúng qui luật tự nhiên mà Người đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi
nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những
qui luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do
quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là đức tin. Phép lạ xảy ra để
đáp ứng một lòng tin mạnh mẽ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến
càng tin mạnh mẽ vững vàng hơn.
Trong các
sách Tin mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn
trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi "Con có tin
không?" Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối
với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thỏa thích hiếu kỳ
thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng
thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức
Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo nàn, tầm thường, nhưng mặt khác khi
nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức
Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng
không chịu làm phép lạ chỉ để thỏa mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người
rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người
rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải
chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân
tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không
phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là đức tin:
phép lạ xảy ra là vì đức tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẽ của con người, hoặc
để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
- Ở Lộ Đức, ở
Fatima, ở La Salette v.v... khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người
xôn xao thì Giáo hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian
dài rồi thì Giáo hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo hội cẩn thận như vậy là
để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận
như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì đức tin của chúng ta
không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong
sáng.
- Rồi trong
cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố
gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn.
Nói cụ thể: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin
vào Chúa... chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho
tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng... Những điều đó nếu thấy cần
thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta.
Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì
chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu,
nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu, bệnh tật, buồn khổ... chúng
ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.
23. Đừng
để lỡ cơ hội gặp Chúa
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đức Giêsu trở
về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường
nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và
các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh
xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế.
Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu
hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân
chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ
cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái
Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu
đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên
thì thầm với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn
ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?".
Họ chẳng biết
sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy:
"Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và
Simon". Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở
Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy
ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn,
lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục
đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói
năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở
về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp
phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia,
và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi
Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức
Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như
thế ? Thân nhân bảo Ngài "mất trí". Kinh sư chụp mũ Ngài "nhờ tướng
quỷ mà trừ quỷ". Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói,
hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi:
"Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh". Chẳng thấy ai huấn luyện
Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước
mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời.
Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn
quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại,
bắt cuồng phong lặng yên...
Dân làng biết
Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa
biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết
Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống
với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng
Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với
đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con
người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của "chủ nghĩa lý lịch".
Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến
hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi".
Còn Đức
Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ:
"Không ai là tiên tri cho xứ sở mình". Một câu chuyện quen thuộc
nhưng đáng buồn "Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận". Đức
Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng
đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến,
chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng,
những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những
điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm
ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc,
nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất,
như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài
nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng
thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng
suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân
tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên
Chúa siêu việt.
Chuyện ngày
xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói
của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa
vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị,
có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn
ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho
rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các
ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc
đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức
quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình
thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu
sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một
đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành
đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của
người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn
nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần
linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng
Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ
chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng
có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi
Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ
nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ
trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày
chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp
đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh;
khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước
những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của
thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn
năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua
các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những
người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết
đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ
ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật
nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức
tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta
nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp
Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một
trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng
nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa,
dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn
mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa
Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với
con.
Lạy Chúa
Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền
phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới
và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi
Chúa muôn đời. Amen.
24. Sức mạnh
trong yếu đuối.
Trong cuốn
sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên Trong Của Môn Tennis)
Timothy Gallwey đã tả lại cái cảnh vào một đêm tối mùa đông khi ông đang lái xe
trên con đường vắng lặng từ tiểu bang Maine đến tiểu bang New Hampshire
Bất chợt,
chiếc xe Volkswagen ông đang lái gặp phải chỗ đường đóng đá nên đã trượt đi đâm
vào đống tuyết ở bên lề đường. Cùng một lúc thì chiếc xe cũng bị chết máy.
Gallwey đã cố gắng tìm đủ mọi cách để nổ máy xe lại nhưng không có kết quả gì.
Lúc đó, khí
trời lạnh buốt tới âm 20 độ và ông chỉ có một chiếc áo lạnh thể thao đang mặc
trên mình.
Gallwey mới
chỉ có ra khỏi một thành phố độ khoảng chừng 20 phút. Trong 20 phút qua, ông
không nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe nào cả. Ông cố gắng tìm xem có nhà nào ở
ngoài đồng vắng hay có cột điện thoại nào không, nhưng ông không nhìn thấy một
cái gì hết. Ông cũng không biết ông còn cách xa thành phố kế tiếp bao xa.
Gallwey liền
xuống xe và chạy đi tìm người giúp. Khí lạnh đã xâm nhập vào cả người ông và dần
dần ông cảm thấy đuối sức và ông không còn có thể nào chạy được nữa nhưng phải bước
đi.
Sau khi đi bộ
được hai phút thì hai cái tai lạnh ngắt và ông tưởng rằng chúng sẽ rơi xuống bất
cứ lúc nào. Lại một lần nữa, ông lại bắt đầu chạy, nhưng khí lạnh lại làm cho
ông kiệt sức và ông lại phải bước bộ.
Bất chợt,
trong tâm trí ông, ông tưởng tượng ra thân xác của ông sẽ nằm trên con đường
này và nó bị đóng đá và bị tuyết bao phủ. Nghĩ đến đây, ông rùng mình lo sợ.
Sau đó một
vài phút, Gallwey la lớn lên: "OK, nếu sự việc đã định, thì tôi xin sẵn
sàng." Sau đó, Gallwey không còn lo ngại gì đến số mạng của ông nữa, và
ông lại bắt đầu chạy tiếp.
Sau một vài
phút chạy bộ, nhìn lên bầu trời, Gallwey cảm thấy ngạc nhiên về vẻ đẹp của những
ngôi sao lấp lánh và những cánh đồng xung quanh ông đều bao phủ tuyết trắng.
Ngoài sức tưởng
tượng của ông, Gallwey đã chạy được 40 phút mà không cần nghỉ ngơi. Bất chợt,
ông dừng lại bởi vì đằng xa xa, ông nhận ra một ánh đèn phát ra từ một nhà nông
trại. Diệu kỳ thay, ông đã qua khỏi cơn thử thách đầy gian nguy này.
Sau cái kinh
nghiệm khủng khiếp đó, Gallwey đã tự hỏi mình rằng đâu là nguồn gốc của sức mạnh
đã giúp ông để có thể chạy được một quãng đường dài như thế. Rồi, ông nhớ lại rằng
chính ông đã biết tự phó mặc đời mình theo thiên mệnh và qua đó, ông đã lãnh nhận
được một sức mạnh giúp ông chạy một lèo 40 phút như thế.
Khi biết phó
mặc sự sống của mình, Gallwey đã để cho một sự sống thần linh chiếm đoạt con
người của ông. Phó mình trong tay Chúa định đoạt về mình, ông mở ra một lối cho
một sức mạnh thần linh mà ông không bao giờ hay biết.
Kinh nghiệm
của Gallwey giúp chúng ta hiểu được những điều bí nhiệm của Thánh Phaolô trong
bài đọc thứ hai hôm nay.
Thiên Chúa
nói với Phaolô, "Sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối." Và
Thánh nhân đã chân nhận, "Vì thế, tôi vui thỏa trong sự yếu hèn của tôi...
khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ." Nhưng, Thánh Phaolô muốn nói
gì, "khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ"?
Ngài có ý muốn
nói rằng khi ngài nhận ra sự yếu đuối của mình, ngài biết cậy trông vào Chúa để
xin trợ giúp. Khi nhận ra con người yếu đuối của mình, ngài biết mở mình ra và
để cho ơn Chúa xuống và tăng sức cho ngài.
Nói một cách
khác là nếu Thánh Phaolô đã không bao giờ cảm nghiệm được con người yếu đuối của
mình thì ngài sẽ không bao giờ biết giơ tay ra để xin cứu giúp. Và ngài sẽ
không bao giờ khám phá ra được sức mạnh tuyệt vời mà con người có thể khám phá:
đó là Thiên Chúa.
Chỉ có những
lúc như thế, con người mới nhận ra lý do tại sao Ngôi Hai lại xuống thế làm người.
Ngài đến bởi vì Ngài biết rằng con người chúng ta bất toàn và cần sự trợ giúp của
Ngài.
Vì thế, khi
những gian nan thử thách đến trong cuộc sống, và chắc chắn chúng sẽ đến, chúng
ta hãy vững tin và đừng thất vọng. Bởi vì chính những lúc đó, chúng ta sẽ khám
phá ra được sự cần thiết của Chúa. Chúng ta sẽ biết mở lòng ra, việc mà chúng
ta không bao giờ làm từ trước đến nay. Có như vậy, Thiên Chúa mới ngự vào tâm hồn
chúng ta, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được sứ mạnh của Ngài.
Đó chính là
ý nghĩa sâu xa của lời Thánh Phaolô. Đó là Tin Mừng qua bài đọc hôm nay. Đó là
mầu nhiệm mà chúng ta đang cùng nhau cử hành nơi đây.
25. Người
đã không thể
(Giải thích
bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Mc 6:1-6: 1Đức
Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2Đến
ngày sabbát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi
ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan
như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?
3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê,
Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với
chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ
có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân
thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." 5 Người đã không thể làm được phép
lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người
lấy làm lạ vì họ không tin.
Câu chuyện xảy
ra ở nguyên quán của Chúa Giêsu (6:1-6a) kết thúc đoạn khá dài nói về những việc
quyền năng Người đã làm ở Galilêa (3:7-6:6a). Ở nguyên quán dân chúng đã khước
từ Người, nên Người đã không làm phép lạ tại đó. Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa
Giêsu về quê quán với các môn đệ (6:1-2a); 2- Phản ứng của dân chúng tại đó
(6:2b-3); 3- Thái độ của Người trước phản ứng của dân chúng (6:4-6a).
Về lại
nguyên quán Nazaréth là sáng kiến riêng tư của Chúa Giêsu. Người "ra khỏi
đó", nghĩa là tách mình khỏi những hoạt động trước đó (4:1-5:43), và tìm đến
những người bà con thân thuộc trước đây đã đến tìm Người, và Người đã để họ đứng
bên ngoài (3:21.31-35). Như các lần trước, các môn đệ luôn đi với Người để chứng
kiến và học hỏi những điều sẽ xảy ra (c. 1). Như lúc khởi đầu, Người vào hội đường
ngày sabbát để giảng dạy (cc. 2; 1:21-22.27b; 11:18). Phản ứng đầu tiên của dân
chúng trong cả hai trình thuật là họ đầy kinh ngạc bởi giáo huấn của Người. Tuy
nhiên, điểm khác biệt giữa chúng là trong khi dân chúng ở buổi khởi đầu nhận ra
quyền năng của Người trổi vượt mà họ không tìm thấy nơi các biệt phái, dân
chúng ở nguyên quán của Người lại đặt vấn đề về bản chất và nguồn gốc của giáo
huấn và những việc quyền năng của Người, dựa trên quan hệ dòng tộc trần thế của
Người. Họ chỉ biết "Người nầy" là con của bà Maria, anh em của
Giacôbê, .... Chừng ấy thôi và không biết gì hơn (cc. 2b-3). Chính sự giới hạn
trong nhận thức về Người bằng đức tin đã đóng lòng họ lại trước con người và sứ
mạng của Người (x. 7:15). Cũng với một thái độ ấy các thành phần trong hội đồng
do thái đã hỏi Chúa Giêsu sau nầy: "Ông lấy quyền nào mà làm việc đó? hay
ai đã ban cho ông quyền để làm việc đó?" (11:28; 3:22-23). Như thế,
"họ vấp ngã về Người" nghĩa là họ không nhận ra quyền năng Thiên Chúa
nơi giáo huấn và công việc Người; nên họ cũng không tin Người là Đấng được
Thiên Chúa gởi đến.
Trước phản ứng
thiếu lòng tin của dân chúng ở quê quán Người, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu
không thể làm phép lạ nào cả (c. 5). Điều nầy xem ra trái nghịch với những điều
quyền năng của Người vừa được tường thuật trong đoạn trước (4:1-5:43). Người có
thể làm được tất cả nếu Người muốn (x. 1:40; 8:4; 9:22; 15:31). Tuy nhiên, có một
điều Người không thể làm là áp đặt lòng tin của những người không muốn tin vào
Người. Phép lạ chỉ được thực hiện để dẫn đến lòng tin; nên nếu không có đức
tin, Người không thể làm phép lạ (x. 4:40; 5:34; 5:36). Thái độ của dân chúng ở
nguyên quán của Chúa Giêsu tương tự thái độ của những người ở vùng Gêrasa
(5:17).
Sau một loạt
tường thuật những giáo huấn và những việc quyền năng Chúa Giêsu đã làm, sự
không thành công ngay tại quê quán tạo nên một tương phản và gây ấn tượng mạnh,
ngay cả cho Người, là rất khó chinh phục con người cho Thiên Chúa.
26. Đức
Giêsu về thăm Nadarét
(Giải thích
và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Ngay từ đầu
Tin Mừng, tác giả Máccô cho thấy Đức Giêsu hành động với uy quyền trước toàn
dân (1,16–3,12). Nhưng sau đó, những trở ngại đã xuất hiện: thân nhân Người đi
bắt Người về, vì cho rằng Người đã mất trí (3,21); các kinh sư thì nói rằng Người
bị quỷ vương Bêendêbun ám và dùng quyền của nó mà trừ quỷ (3,22); bằng kiểu diễn
tả bóng bảy, Người đã nói đến sự cứng lòng của dân Israel (4,11-12); trận bão
trên biển không nhận chìm được con thuyền của Người, là một hình ảnh cho hiểu
là sứ vụ của Người sẽ gặp nhiều khó khăn (4,35t), nhưng vẫn đứng vững; yêu cầu
của dân Ghêrasa cũng ở trong chiều hướng ấy (5,17). Bài tường thuật chuyến về
thăm Nadarét cũng nói đến thái độ không tin của người dân Nadarét, khiến họ
không chấp nhận Đức Giêsu (6,1-6). Như thế, truyện này tóm tắt một vài đề tài đã
được triển khai trong các phân đoạn trước: tư cách môn đệ và lòng tin, Đức
Giêsu là thầy và là vị làm phép lạ, sự hiểu lầm và sự loại trừ Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này
có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu
về quê và giảng dạy ngày sa-bát (cc.1-2a);
2) Các thính
giả vấp phạm về Người (cc. 2b-3);
3) Sự cứng
lòng tin: đánh giá và kết quả (cc. 4-6a);
4) Đức Giêsu
tiếp tục ra đi (c. 6b).
3.- Vài điểm
chú giải
- quê quán của
Người (1): Đây là Nadarét thuộc miền Galilê (1,9), cách hồ Ghênêsarét khoảng 30
cs về phía tây. Vào thời đó, Nadarét chỉ là một làng nhỏ, không quan trọng gì
(x. Ga 1,46). Trong Cựu Ước, làng này không bao giờ được nói đến. Vì làng ở độ
cao 300-400m trên mặt biển, người ta có thể nhận ra làng từ xa.
- có các môn
đệ đi theo (1): Khi nói đến các môn đệ, tác giả Máccô luôn luôn đưa vào đề tài
"đi theo" (sequela) (x. 2,15; 10,32; 15,41).
- bắt đầu giảng
dạy (2) : Ta nhớ lại đoạn 1,21-28 giới thiệu Đức Giêsu là thầy và là người chữa
bệnh. Phản ứng đầu tiên trước sự khôn ngoan và những việc lẫy lừng của Người là
sự ngạc nhiên. Từ đó, câu hỏi đặt ra "Bởi đâu ông ta được như thế ?"
mang tính mỉa mai: trong khi những người đồng hương gắng tìm cho ra danh tánh của
con người Giêsu, thì quyền lực của Người lại bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
- nhiều người
nghe rất đỗi ngạc nhiên (2): Phản ứng này thường xảy ra trước lời giảng dạy
(1,22; 11,18), một phép lạ (7,37) hoặc một câu nói lạ lùng của Đức Giêsu
(10,26). Tác giả nhắc đến phản ứng này với nhận định về sự khôn ngoan của Đức
Giêsu để cho thấy Người vừa ban một mạc khải, nhưng dân chúng không tin.
- bác thợ
(3) : Từ Hy Lạp tektôn (La-tinh faber) có lẽ phản ánh từ A-ram naggârâ có thể
là một người thợ đóng đồ mộc hoặc là một người thợ xây dựng. Những người thợ ấy
thường đi đây đó. Phải chăng Đức Giêsu cũng đã đi đây đó, ít sống tại Nadarét?
Bản văn dùng mạo tự xác định ho cho hiểu rằng dân Nadarét đã quen gọi Đức Giêsu
như thế.
- con bà
Maria (3): Phải chăng câu này cho phép giả thiết là Giuse đã qua đời? Trong ngữ
cảnh ở đây, không có gì bảo đảm là kiểu gọi này có ý nói là Giuse đã chết cả.
Chúng ta ghi nhận là trong TM Máccô, Giuse không bao giờ được nêu tên. Dù sao,
"con bà Maria" đã trở thành tên gọi của Đức Giêsu. Hoặc tên này được
dùng để sỉ nhục, bởi vì người Do Thái được gọi bằng tên của người cha, hoặc để
mỉa mai vì muốn ám chỉ đến một cuộc chào đời bất hợp pháp (con hoang). Nếu trường
hợp sau là đúng, thì lời sỉ nhục này lại là một khẳng định về cuộc sinh hạ
trinh khiết. Để ủng hộ cho cách giải thích này, người ta nêu ra câu hỏi của dân
Nadarét về nguồn gốc của Đức Giêsu và sự kiện Mc tránh nhắc đến người cha.
- ngôn sứ có
bị rẻ rúng (4): Có lẽ đây là một câu tục ngữ phát xuất từ Do Thái giáo nhằm diễn
tả kinh nghiệm của các nhà du thuyết Do Thái. Ta có những câu Hy Lạp tương tự:
"Các triết gia khó sống tại quê hương" (Điônê Crisostômô; x.
Epittêtô...). Nhưng ở đây Mc mở rộng câu ngạn ngữ mà áp dụng cho cả gia đình
dòng họ; như thế là nối dài chiều hướng của sự cố được kể ở 3,20t.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Đức Giêsu
về quê và giảng dạy ngày sa-bát (1-2a)
Đức Giêsu đã
rời nhà và vùng ông Gia-ia ở để về quê, tức là Nadarét. Nhân dịp cử hành phụng
tự tại hội đường vào ngày sa-bát, Người đã giảng một bài. Đó là việc Người vẫn
thường làm (x. 1,21.39).
* Các thính
giả vấp phạm về Người (2b-3)
Phản ứng của
các thính giả chứng tỏ Đức Giêsu vừa ban một mạc khải. Họ đã nêu ra năm câu hỏi:
ba câu liên hệ đến hoạt động của Đức Giêsu (bản thân; giáo lý; các phép lạ) và
hai câu liên hệ đến gia đình dòng họ của Người. Chỉ đức tin mới nhận biết nguồn
gốc đích thực của Đức Giêsu. Người là Con Thiên Chúa. Đối với những người đồng
hương, sự hiểu biết về môi trường sinh sống của Đức Giêsu là biến thành một trở
ngại không thể vượt qua. Họ từ khước Đức Giêsu và không chấp nhận giáo huấn của
Người. Sự vấp phạm đó chính là sự cứng lòng tin của họ.
* Sự cứng
lòng tin: đánh giá và kết quả (4-6a)
Đức Giêsu
xác định lập trường bằng một câu ngạn ngữ. Câu này vừa giúp Người biện minh cho
mình vừa giảm nhẹ tầm mức của các sự kiện. Các môn đệ (theo Mc, các ông lúc nào
cũng đi theo Người) phải học lấy bài học kinh nghiệm này: không bao giờ được để
cho nỗi thất vọng vì bị từ khước đánh ngã mình. Con Thiên Chúa bị mọi người kể
cả gia đình, hiểu lầm, và bị bỏ cô đơn trong thế gian này. Sự kiện Người không
thể làm được phép lạ nào ở quê hương cho thấy tương quan giữa phép lạ và đức
tin. Điều này không có nghĩa là quyền lực của Đức Giêsu bị hạn chế nhưng có
nghĩa là khi ơn cứu độ được ban tặng trong phép lạ bị từ chối, thì không thể xảy
ra phép lạ được. Nếu Đức Giêsu làm khác là Người không trung thành với sứ mạng
của Người. Lời ghi thêm "Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa
lành họ" nhằm làm giảm nhẹ nét tiêu cực nơi những gì được nói trước. Nhưng
c. 6a kết luận vẫn ghi nhận sự cứng lòng tin và sự ngạc nhiên của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu
tiếp tục ra đi (6b)
Tuy nhiên,
thất bại này vẫn không làm Đức Giêsu chán nản chùn bước. Người tiếp tục ra đi
như Người đã nói với các môn đệ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng
xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó" (1,38).
+ Kết luận
Đức Giêsu trở
lại quê hương Nadarét. Người vào hội đường để giảng dạy, tức là thi hành sứ mạng
ngôn sứ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù đã biết các phép lạ Đức Giêsu làm và nay
vừa nghe Người giảng, dân làng Nadarét lại chỉ coi Người như là "bác thợ,
con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn" (c. 3a)
mà thôi. TM Mc cho thấy liên hệ huyết thống cũng như tình đồng hương không giúp
người ta nhận biết Đức Giêsu trong chân tính của Người. Muốn khám phá ra mầu
nhiệm Đức Giêsu, người ta phải để cho chính Người dẫn dắt và giáo huấn ngày qua
ngày.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Vấn đề trọng
tâm của bản văn là đức tin. Đức tin giúp con người có sự khiêm tốn và sẵn sàng
lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa và của các vị sứ giả của Người. Cũng chính đức
tin giúp người ta nhận biết các việc kỳ diệu Thiên Chúa đã và vẫn đang làm
trong thế giới, để ban ơn cứu độ cho mọi người. Tại nơi nào con người khép kín
lại với Thiên Chúa, khi Người đang ngỏ với họ trong phép lạ, thì phép lạ trở
thành chuyện phi lý. Cũng như quyền lực của Người là ơn cứu độ cho chúng ta,
thì sự cứng lòng tin của chúng ta là sự bất lực của Người. Điều đó đã được chứng
thực tại cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với dân làng Nadarét: họ đã ngạc nhiên về những
gì Đức Giêsu nói, và thế là để vuột mất ý nghĩa của các lời Người loan báo.
2. Sự từ khước
ở Nadarét vẫn tồn tại. Con người hôm nay, những người Nadarét mới, vẫn đang thấy
Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và vấp ngã. Do sự từ khước của con người hôm
nay, hoạt động cứu thế của Thiên Chúa như bị tắc nghẽn. Bị giam hãm trong các định
kiến, họ không hiểu được cốt lõi tinh túy của sứ điệp, cũng không tạo cơ hội
cho các việc kỳ diệu có thể xảy ra hay cho ơn Chúa có thể đến được với chính họ
và người khác. Từ đây, chúng ta có thể đi đến một nhận định: cộng đoàn Kitô hữu
có hai trách nhiệm, bởi vì phải vừa biết nhận ra các ngôn sứ được Thiên Chúa
cho xuất hiện giữa các thành viên của mình, vừa phải hỗ và làm gia tăng ơn Chúa
mà sự hiện diện của họ mang lại. Ý thức này đòi hỏi cộng đoàn phải trở thành một
tập thể sẵn sàng, trong tư thế cầu nguyện, có cái nhìn khôn ngoan, để nhận ra
các dấu chỉ của Thiên Chúa. Tất cả các điều này không đơn giản: trong đời sống
mỗi ngày, chúng ta ghi nhận rằng cộng đoàn chúng ta đang bước đi giữa hai đe dọa:
một bên, cộng đoàn có thể rơi vào một thứ hứng khởi dễ dãi mà chạy theo bất cứ
một chủ trương đổi mới nào, để rồi cuối cùng bị lạc hướng và bị phân tán; một
bên, cộng đoàn dễ bị thu hút bởi xu hướng bất động và sự cứng ngắc do bám vào một
vài điều xác tín nào đó.
3. Người môn
đệ của Đức Giêsu không được nản chí khi gặp thất bại hay chống đối. Nhiệm vụ của
họ là cứ ra đi để rao giảng Lời Chúa, để làm chứng, không nên bận tâm (và nặng
lòng) với kết quả. Họ cần phải nhìn vào Thầy Giêsu mà dấn thân. Như Đức Giêsu,
họ cứ quảng đại làm việc, "lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện"
(2 Tm 4,2). Niềm vui họ sẽ nhận được khơng phải do kết quả kiểm chứng được,
nhưng là do biết rằng họ đã kiên trì thực hiện những điều Thiên Chúa muốn.
4. Thành kiến
là một tật xấu nằm sâu trong tâm khảm con người. Chính tật xấu này làm cho khả
năng đón nhận và loan truyền Lời Chúa bị giới hạn lại. Các Kitô hữu cần học lấy
bài học của thánh Phaolô: "vui khi thấy điều chân thật" (1 Cr 13,6).
Đấy là khả năng nhận ra sự thiện hảo tại bất cứ nơi nào nó xuất hiện, và sẵn
sàng nêu lên.
27. Chú giải
của Noel Quesson.
Đức Giêsu ra
khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo. Bấy giờ Chúa Giêsu trở về
Nagiarét, làng quê, xứ sở của Người.
Sinh tại
Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu và niên
thiếu tại Nagiarét, nơi xa xôi cách trở giao thông. Ở đó có lẽ chỉ có khoảng
150 gia đình. Người ta sống rất đơn giản, trồng ô liu và nho, cùng với một ít
lúa đại mạch và lúa mì. Mỗi gia đình có một vài con dê. Hằng ngày, mỗi người tự
làm bánh mì cho mình tại nhà. Ngày thứ bảy, tất cả đều đến hội đường để cầu
nguyện. Nơi Đức Giêsu, tất cả đều phản ảnh gốc gác của Người, là một nông dân,
một người sống bằng đất đai một người "của quê hương".
Tin Mừng
hoàn toàn mô tả cuộc sống đồng quê, một tường thuật do những người "nông
dân" ghi lại, nói về một "nông dân" sống gia những người
"nông dân" và đã diễn tả ý nghĩ của mình bằng nhượng ẩn dụ của
"nông dân". Như vậy đâu là đặc tính của một người thợ mộc trong kiểu
sống này? Làm bàn ghế, giường, cửa? Tại sao vậy? Mỗi người tự làm những thứ ấy.
Người ta ngồi ăn dưới đất, ngủ trên chiếu trải dưới đất. Anh thợ mộc Giêsu, một
nông dân trong số những nông dân khác; có thể có một vài sự khéo léo đặc biệt học
nơi ông Giuse, một người "sửa chữa" tầm thường, có thể làm hay chữa
những cái ách hay những chiếc cày bằng gỗ. Giêsu, một con người không có gì
khác biệt với người khác. Tôi hãy suy niệm về điều này.
Đến ngày
Sabát, Người vào giảng dạy trong hội trường.
Về điểm này
cũng thế, Đức Giêsu cũng như mọi người. Chúng ta đừng lầm lẫn. Đức Giêsu không
phải là người cử hành nghi lễ. Người không đóng vai trò tư tế. Người chỉ là một
trong những tín hữu đi dự lễ. Trong dân Israel bất cứ một người nam trưởng
thành nào, kể từ tuổi thành nhân (12 tuổi) đã là "tư tế", thuộc về
"dòng giống tư tế", đều có quyền đọc Thánh Kinh và chú giải Thánh
Kinh. Đấy là việc Đức Giêsu đã làm ngày hôm đó, khi Người rời chỗ ngồi để lên
"đọc" và "diễn giảng". Thánh Maccô không cho chúng ta biết
đề tài của bài giảng hôm đó là đề tài nào.
Đa số thính
giả rất ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn
ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa
là gì?"
Danh tiếng của
Đức Giêsu đã về đến làng của Người. Nhưng thay vì hãnh diện, những người đồng
hương của Người lại bất bình. Tất cả những điều đó không phù hợp với những gì họ
biết về Người. Họ biết rõ Người hơn ai hết. Họ đã thấy Người lớn lên, họ đã
cùng đi đến trường học với Người. Người không có quyền trở thành "một người
khác" hơn là những gì họ biết về Người.
Chúng ta
cũng vậy, chúng ta cũng tự giới hạn mình trong một hiểu biết nào đó, từ chối tiến
xa hơn, không chịu khám phá những điều mới mẻ. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng
con khỏi sự bảo thủ, khỏi những tư tướng cũ mòn, khỏi sự đóng khung về trí tuệ
và tâm linh. Xin đẩy chúng con ra khỏi những tập quán thích tiện nghi, khỏi thế
giới quá bình lặng của chúng con.
Ông ta không
phải là bác thợ con bà Maria, và anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Gioan,
Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta
sao?
Tin Mừng của
Thánh Maccô rất cụ thể, đến nỗi chúng ta cảm thấy rất gần với Đức Giêsu trong đời
thường. Chúng ta hiểu rất rõ những suy nghĩ tầm thường của những nông dân trong
một xóm nhỏ hẻo lánh miền quê. Đó là cuộc sống thôn dã: Chân trời dường như dừng
lại ở những cánh đồi vây quanh làng. Và người ta kể ra nhiều tên, một danh sách
anh chị em bà con. Theo cách thức của phương Đông, người ta gọi họ là "anh
em", không kể họ bên ngoại, vì truyền thống không dành chỗ đứng cho người
phụ nữ. Người này là ai mà dám phá đổ những tục lệ của chúng ta, hủy bỏ tổ chức
của thế giới nhỏ bé này, nơi đó người ta xác định con người theo một hộ tịch cứng
nhắc, những tương quan xã hội được ấn định một lần thay cho tất cả. Cuối cùng,
mỗi người phải ở tại vị trí của mình, đóng trong vai trò của mình, không được
thay đổi đột ngột.
Và đó là chướng
ngại làm cho họ không tin vào Người.
Ba Tin Mừng
nhất lãm Matthêu, Luca và Maccô đã kể lại cho chúng ta "sự thất bại"
của Đức Giêsu. Người đã sống những biến cố đau thương. Đức Giêsu bị chối từ.
Ngày nay, nhiều người vẫn có cùng một thái độ như người dân Nagiarét lúc bấy giờ.
Nhiều người nói "Tin Chúa", đồng ý; Nhưng tin Giáo Hội, thì không.
Vâng, Giáo Hội, cũng như Chúa, có một khía cạnh con người, rất nhân bản. Các
giám mục, linh mục, Kitô hữu, là những người mà người ta biết quá! Ngày nay
cũng như ngày xưa, nhiều người "bất bình" với Giáo Hội, cũng như người
ta đã bất bình với Đức Giêsu. (Đó là đúng nghĩa chữ Hy Lạp 'éscandali Zonto').
Giáo Hội gây bất bình! Tin Mừng ghi lại, Đức Giêsu cũng đã gây bất bình sâu xa.
Trang Tin Mừng
này là một thử thách nghiêm trọng đối với lý tưởng của chúng ta. Chúng ta phải
chấp nhận sự không hoàn hảo của Giáo Hội. Đó là thực tế của việc nhập thể:
Thiên Chúa ở trong làng, Thiên Chúa ở góc đường, Thiên Chúa tập đọc ở nhà trường,
Thiên Chúa là anh em của một người nào đó.
Đức Giêsu bảo
họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa
đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi".
Đức Giêsu bị
"khinh miệt" nhất trong nhóm thân nhân của Người. Người ta đã hiểu lầm
về Người. Thái độ quá thân quen có thể che khuất đi tính chất thâm sâu của những
liên hệ. Giản lược Đức Giêsu trong nhiều kích nhân loại đó là khinh miệt Người.
Sự gần gũi đích thực với Đức Giêsu không phải là một sự gần gũi thể lý, vật chất.
Và chúng ta cũng có thể quan niệm sai lầm về 'dấu chỉ' như khi nghĩ rằng: chỉ cần
làm những cử chỉ bên ngoài là đương nhiên thuộc về "gia đình" của Đức
Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết, điều làm nên "gia đình" thực sự của
Người, không phải là những liên hệ huyết thống, mà chính là đức tin - "Kẻ
nào làm theo ý Thiên Chúa, đó là anh em Thầy, chị em Thầy và là Mẹ Thầy"
(Mc 3,35). Đức Giêsu đã tự tạo cho mình một gia đình mới: Đó là những người
nghe Chúa và đem ra thực hành.
Người đã
không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân
và chữa lành họ.
Đây là một sự
mạc khải lạ kỳ, làm đảo lộn những khuôn khổ sẵn có của chúng ta. Một sự chữa
lành, dù là bằng cách đặt tay, không thể là một phép lạ được. Đức Giêsu đã chữa
lành nhiều bệnh, nhưng đó không thuộc loại những phép lạ. Như thế, muốn nói lên
điều gì? Phải có đức tin mới có phép lạ thực sự. Một sự chữa lành không đưa đến
việc đón nhận Đức Giêsu trong đức tin, không phải là một phép lạ thật, vì thiếu
ý nghĩa cốt yếu của nó.
Điều này có
thể chứng minh cho chúng ta rằng: Phép lạ không đủ để ban đức tin. Những người ở
Nagiarét nói: Bởi đâu tay ông làm được những phép lạ phi thường trong những
làng lân cận?" - Hoạt động của Đức Giêsu không rõ ràng, cả những phép lạ
vĩ đại nhất cũng không đủ để làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm của bản thân Người.
Và chúng ta tiếp tục xin Chúa can thiệp để chứng minh "Người là ai".
Tuy nhiên, chúng ta đã được khuyến cáo: "Người ta có thể nhìn mà không thấy,
nghe mà không hiểu" (Mc 4,12) và "mặc dù Đức Giêsu đã làm những dấu lạ
rất lớn trước mắt họ, họ đã không tin Người" (Ga 12,37) Điều đó cho chúng
ta hiểu, tại sao một số Kitô hữu nghi ngờ những phép lạ, và Giáo Hội phải thận
trọng thế nào, khác với những hạng người "buôn thần b án thánh".
Người lấy
làm lạ vì họ không chịu tin.
Sự khước từ
đức tin dường như là một đặc điểm trong suốt giai đoạn hai của tác vụ Đức
Giêsu. Giờ đây Đức Giêsu đối diện với hiện tượng không tin. Đôi khi chúng ta
cũng có cảm tưởng rằng đó là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới ngày nay,
như thể chỉ có những thời đại trước mới là thời đại của đức tin. Vẫn thường xảy
ra là người ta lên án Giáo Hội: "Người ta không còn dạy tôn giáo nữa, người
ta không dạy giáo lý nữa". Vì thế khi Đức Giêsu đích thân giảng dạy trong
làng của Người, là nơi thanh sạch và dành riêng cho Người cư ngụ, thế mà Người
cũng không khơi dậy được đức tin. Ngày nay, biết bao bậc cha mẹ đứng trước một
hiện tướng như thế, trước con cái của họ. Chính Đức Giêsu, dù là Đấng chí thánh
cũng đã gặp những người không tin trong thân nhân của Người. Sự bất lực của Đức
Giêsu trước thái độ không tin của những người đồng hương, biểu lộ sự hoàn toàn
tôn trọng tự do của con người: Đây là hình ảnh biểu lộ thái độ tôn trọng của
Thiên Chúa đối với tự do mà Người đã tạo ra. Sự bất lực bí nhiệm "thần
thiêng" này, phải làm chúng ta suy nghĩ sâu xa: Đức tin của chúng ta có thể
không vững phắc như chúng ta tưởng, Đức tin là một thực tại mỏng giòn và thường
bị đe dọa.
Rồi Đức
Giêsu đi khắp các làng mà giảng dạy.
Ở đây tôi nhận
được bài học quý giá cho những thất bại của tôi. Đứng trước thất bại chua cay
mà Đức Giêsu đã gặp tại Nagiarét, thay vì chịu thua, Người lại lên đường tiếp tục.
Người lấy làm ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ. Thánh Maccô ghi lại vắn tắt
như thế? Thật khó mà đón nhận thất bại, và chân thành rút ra từ đó những hệ quả
tích cực, nếu không chịu ngã thua.
Ba bài đọc
Chúa nhật hôm nay đến với chúng ta về một thứ "linh đạo của thất bại"
Chúa ra lệnh cho ngôn sứ Êgiêkiel (2,15) phải đứng vững đương đầu với một dân tộc
đang khước từ sứ điệp của Người. Còn Thánh Phaolô (2Cr 22,7-10) ngài thú nhận
đã bị một "mũi dằm đâm vào thịt", một thất bại mà Ngài đã không chiến
thắng được. Trước một nỗ lực hoán cải mà không tiến bộ, hay trước một tình huống
đau thương nào đó chúng ta có vượt thắng được sự chán nản không?
https://maps.google.co.di/url?q=http://yduoctravinh.info//
Trả lờiXóahttps://maps.google.co.il/url?q=http://yduoctravinh.info//
https://maps.google.co.jp/url?q=http://yduoctravinh.info//