RỪNG CÂY HÌNH THÁNH GIÁ
|
THÊM SỨC TẠI PHỐ LU |
VĂN HÓA NHẬT
|
THÁNH LỄ TẠI NHÀ THỜ BỊ ĐỐT
|
ANNA NGỌC VÀ PHAOLÔ THÀNH SƠN MÃN
|
THÁNH LỄ TẠI NHÀ THỜ BỊ IS ĐỐT
|
BẰNG KHEN 12 NĂM PHỤC VỤ XỨ HỌ
|
YÊU ĐẾN ĐẦU BẠC RĂNG LONG, LƯNG CÒNG MÁ TÓP
|
BẰNG KHEN 12 NĂM PHỤC VỤ XỨ HỌ
|
THÊM SỨC TẠI PHỐ LU |
CHÚA NHẬT 33 – LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
MỤC LỤC
1. Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam
2. Hạt lúa
gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26
3. Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
4. Ai muốn
theo tôi phải từ bỏ chính mình
5. Sống
chứng nhân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Không thuộc
về thế gian.
7. Sống
chứng nhân.
8.
"Thà chết vinh còn hơn sống nhục"
9. Để làm
chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22
10. Truyền
đạo.
11. Sống
vì đạo – ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt
12. Con
đường hạt lúa – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
13. Chứng
nhân tình yêu
14. Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
15. Chúa
Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì
16. Can
đảm nói không với tội lỗi – Lc 20, 27-38
17. Tử đạo
hay sống đạo?
18. Suy
niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm.
19. Những
Đấng Bậc Anh Hùng
20. Anh em
làm chứng cho Thầy.
21. Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam
– Lc. 9, 23-26
22. Nhớ Ơn
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
23.
"Đây Bài Ca Ngàn Trùng"
24. Sống
đạo và chết vì đạo
25. Tử
đạo, một chọn lựa của lòng tin
26. Các
thánh Tử Đạo Việt Nam
27. Người
chứng thứ nhất – Ga 12,24-26
28. Làm
chứng
29. Tham
dự vào hy tế của Chúa Giêsu
30. Tỉnh
thức trước cơn bách đạo mới
31. Những
tên lý hình thời đại – PM. Cao Huy Hoàng
NỘI DUNG CÁC BÀI SUY NIỆM
1. Các Thánh Tử Đạo Việt
Mừng
kính các thánh tử đạo Việt Nam ,
chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?
Trước
hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải
qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16
đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải
trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc
bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ
tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị
Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra
tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa,
trong đó 117 vị đã được tôn phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các
ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và
dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời
Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời
nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã
man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời
lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.
Cùng
với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình
thương. Tiên vàn là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để
nói lên sự gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy
được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến
mạng sống vì bạn hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình
yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối
với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập
giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng
làm. Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay
nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ
cho những người đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.
Sau
cùng các thánh tử đạo Việt Nam
là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai
xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên
trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì
lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc
đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ
hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm
sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời
để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh
hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh
thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng
đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình
thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như
các Thánh Tử Đạo Việt Nam
là những bậc cha ông của chúng ta.
2. Hạt
lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26
(Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy,
có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo
thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt
bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ
những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao
nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương
hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương
thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô
ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi
chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối
tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa
tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời
chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho
các anh!..."
Hạt lúa
ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến
nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và
những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành
mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong
khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau
đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi
phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt
lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt
đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ
một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay
lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một
điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không
biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh
em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Một bài
học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng
Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý
nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế
nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như
thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên
vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa
bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi
bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa
Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho
người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã
tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong
lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt
tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập
giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo
bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa
bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn,
từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận
xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng
đổ máu đào làm chứng cho Đức Ki-tô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua
thiệt, bị mất mát, bị diệt vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn
chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ
ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi
miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
* * *
Hôm
nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta
không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì
hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa
bị gieo vào bùn đất như "hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo",
bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin
Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa
Giêsu như lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi
"Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."
3. Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
KHÔNG
ĐI THEO ĐẠO YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU LÀ BỎ ĐẠO
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày
ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ
bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha
về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ
bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị
khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước
qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không
bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông
cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng
nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và
mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường,
đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo
Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường
đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự
là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: "Người ta căn cứ
vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu
thương nhau." (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật
yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán
xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: "Nào những kẻ
Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ
thuở tạo thiên lập địa"; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ
đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ
vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất
mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của
nó" (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập
giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà
đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện
điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán
anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người
khác... là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ
chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế
nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia
cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con
cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm
vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ,
thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ,
với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho
người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ
áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh... là chúng
ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường
lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị
róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là
con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết
quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các
ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên
quốc.
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên
của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.
4. Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang
về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức
khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người
chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: "Ước gì tôi
được gặp Thần Chết!"
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt,
tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: "Ông lão muốn điều gì?" Bác lập cập trả
lời: "Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi".
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn
mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực
không ai có thể phủ nhận được: "Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra
cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày
tận số?" (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng của phận
người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng
kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế gian,
để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống tình
yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà
Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sự chết cho
chúng ta thấy tình yêu Chúa: "Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình
yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em" (1Ga 3,16)
Vâng, ai cũng kính phục một người sẵn lòng chết vì yêu,
dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: "Không có tình thương nào
cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình"
(Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã dành cho chúng ta: Trên cây thập tự,
Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết
cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính
toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: "Ai muốn theo tôi,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn
cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ
cứu được mạng sống ấy" (Lc 9,23-24).
Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm
được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một giá trị không
tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc đời khổ cực được
tràn đầy ánh sáng phục sinh: "Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin
của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu
thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó
sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy
Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy,
anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được
thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người" (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống
đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh
sách người có đạo. Dân có đạo phải "khắc tự" hai bên má, một bên chữ
Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam
trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại
tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài được cho
vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền đất, lại không
phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông bị nhốt trong
ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan
tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó
là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy
đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi. Trước
khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở ngoài đâm
chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một cai
đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy
vọng.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những gì
không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở hoa niềm vui và hy
vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy:
"Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán
dương" (Tv 63,4)
Sống yêu thương có phải là chọn lựa của tôi?
5. Sống chứng nhân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
"Tin đạo chứ không tin người có đạo". Câu nói
này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người
ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm
không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng
không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại
tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế
nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai
đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ
Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước
lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải
làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ
đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác
phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với
giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo
hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố
chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết
tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã
không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã
bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông,
ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc
nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố
giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh
niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ
Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh
nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những
gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá:
họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh
nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và
cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt
Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú
Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng,
ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận
thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy
lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời
này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ
hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà
thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem
kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ
tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung
thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng
ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì
một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận
cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên
trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu
vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng
gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng
chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì
chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn
cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận
thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và
việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con
đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là
ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn
có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai
bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã
tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích
thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không tin người có
đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin
cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể
hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin
giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái
yêu thương. Amen.
6.
Không thuộc về thế gian.
(Trích
trong 'Manna')
Suy
Niệm
"Tâu
bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết
lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước
qua thánh giá.
Ông là
người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong
cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông
không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo
Hội.
Khi
quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước,
chống lại triều đình.
Ông Hy
đã chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút
một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm
hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc
sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người
Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế
gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế
gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã
yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì đó
là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người Kitô hữu
trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không
thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nghĩa là
không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,
nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy
sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng đóng góp được gì cho
bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men không được tách
khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả hai trường hợp,
men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây. Bỏ
một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh, thế
đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm
chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để mua lấy
chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất
mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải
lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực
hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó
riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy
theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa
chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế
gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho
chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động
của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng
con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú
vui trần thế.
Xin cho
chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy
Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm
vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
7. Sống
chứng nhân.
Truyền
thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái
chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng
của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo
Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục,
các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi
gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh
riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi
nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng
chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải
chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo
Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì
đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện
thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam ,
cùng với những người Việt Nam
khác, xây dựng một xã hội Việt Nam
tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao
chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn
cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong
đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi
nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi
cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin
của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng
ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho
chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng
hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta
phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin
Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư,
đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho
siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi
nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức
hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung
quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời
sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ,
sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời
sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương
yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự
sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin,
bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn
nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là
điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng
tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô
đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời
sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống
làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để
cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều
bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều
chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
8.
"Thà chết vinh còn hơn sống nhục"
(Suy
niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày
tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy
thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong
vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam - Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên
Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng satan để chống lại Thiên Chúa.
Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân,
vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại
với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng
từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải
qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ
chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm
tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng
lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian
truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa
xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay
chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130
ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17
đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết
không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả
hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh
đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước
qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột
trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ
đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội
sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu
đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên
vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường
hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi
ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng
tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ
các đồng đạo rằng: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ
nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ
thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời,
không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu
có đau đớn quá thì hãy xin #ức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại
tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt
ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo
đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép
quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá
mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là
chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua".
Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: "Các ông thật
dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong
lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại.
Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song
le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã
thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó
nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi
khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi
khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng
cha Anrê Dũng Lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem
tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại
giam khuyên nhủ cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên
thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha
nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị
bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy,
anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải
bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân
cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì
Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa".
Là con
cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã
quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước
từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn
còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo.
Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã
chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó
những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ
thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng
mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà "quạ đen ban
tặng". Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ
không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các
thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để
bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ
danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
9. Để
làm chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22
(Trích
trong 'Manna')
Suy
Niệm
Các vị
tử đạo Việt Nam
đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh
đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị
giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức
Giêsu (c.22).
Các
ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí
của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha
sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái
chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con
người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì
Đạo là một cách làm chứng.
Làm
chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng
Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm
chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu
của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm
chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh
cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu. Các vị tử đạo đã làm chứng
bằng cái chết.
Chúng
ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm
chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng
với thế gian sa đọa.
Các vị
tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng
an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính
mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có
người bước qua, và cũng có người không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng
đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại
hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và
Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha,
như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng
trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là
giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những
đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng
vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời
nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và
ích kỷ của mình.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Làm
chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng
về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám
dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu
Nguyện
Lạy các
thánh tử đạo Việt Nam ,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy
hiểm.
Sự hy
sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi
sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài
đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu
cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì
ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng
tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam .
Ước gì
máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh
nhiều hoa trái.
10.
Truyền đạo.
Người
Công giáo Việt Nam
thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành
và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt
nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất,
liều mất thì còn.
Các
thánh Tử đạo Việt Nam
là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người
có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho
kẻ khác niềm tin của mình.
Không
có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ
sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam
hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là
chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có
một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống
niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã
thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt
giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa
đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất,
bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế
nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong
chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành
quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người
sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến.
Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca
tụng tán dương.
Khi đọc
truyện các thánh Tử đạo Việt Nam
chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại,
nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục
sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ
mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời
mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với
chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một
vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại,
còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo
thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng
nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những
người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết
cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã
chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại
càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người
này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày
nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một
linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước
đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo
chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân
chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết
vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa
hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin
Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực
quyền tự do và bình đẳng của người da đen... trên đất nước được mệnh danh là
dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người
da trắng mà thôi.
Đức
Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn
chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là
vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy
vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như
vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng
liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?
11.
Sống vì đạo – ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt
Chúng
ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu,
hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ
mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn
lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên
bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa
chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền
là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu,
lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví
dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì
thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa
chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị
của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình.
Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có
câu: "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng". Cuộc sống đời này là
quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường
tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những
giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa
chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo.
Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa
là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa
làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi
Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa
chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông.
Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều
mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian
để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi
được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ
bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân
Người.
Yêu mến
Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa.
Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng
chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất.
Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà,
chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh
phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất
mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các
ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau
đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống
cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm
thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh
cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt
đối.
Cuộc
sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm
công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta
phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ,
ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa
chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm
ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau
đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu
chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong.
Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế
phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của
Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là
con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự
sống đích thực.
Chính
những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý
CHIA SẺ
1- Tại
sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các
thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng
chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời
nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống
đạo dễ hơn xưa không?
12. Con
đường hạt lúa – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ga 12,
20-32
Khi đến
Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường
hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang
hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng
đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với
hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ.
Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy
mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách
hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi
lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong
những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng
thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một
nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ
trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà
các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại
mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới
thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không
chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác". Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt
giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu
sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong
phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn
lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam ,
ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam ,
lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm.
Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc
đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức
là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các
gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ "tả đạo" trên má
ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung
thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có
thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có
đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị
tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau
một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các
vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm.
Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin
Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại
Việt Nam
đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã
bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần
nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác".
Nhìn
lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong
đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu
bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa
không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền
nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày
nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta
biế#7871;t chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung
thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban
cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các
Thánh Tử đạo Việt Nam ,
xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi
hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý
CHIA SẺ
1- Khi
mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát
triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy
tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam .
3- Muốn
đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
13.
Chứng nhân tình yêu
(Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thánh
lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị
đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ
truyền giáo tại Việt Nam .
Có điều
máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi
chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì
phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ
những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính
trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm
chứng cho tình yêu.
Tình
yêu Thiên Chúa.
Các
thánh Tử Đạo Việt Nam
có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi
cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa,
các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài
mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình
yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống
yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng
chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân
xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành
mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả
vì tình yêu Chúa.
Tình
yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các
ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện
lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên
thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,
trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách
được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu,
Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình
yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã
hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu
với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Tình
yêu cuộc sống.
Các
ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường
nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với
những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc
sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc
sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh
cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với
các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính
mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình
yêu nhân loại.
Cái
chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài
không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn
Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình
yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn
Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu
chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý
hình.
Tình
yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người,
mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết
đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông
hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn
phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động
lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng
cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh
hiện nay, ta không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương
các thánh Việt Nam
làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống
cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy
sống vì đạo.
Lạy các
thánh Tử Đạo Việt Nam , xin
chúc lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam . Amen.
14. Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
SỐNG
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay
Giáo Hội Việt Nam hân hoan
và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân
hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam , không gì vui mừng và hãnh
diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn
cầu.
- Hân
hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam . Với 117 vị
Thánh. Giáo Hội Việt Nam
được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân
hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại
tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì
trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết
chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng
sống vì đức tin.
Có
những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm
trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền,
mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ
mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có
những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình,
nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức
Giêsu Kitô.
Có
những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương
lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước
từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là
người Công Giáo Việt Nam .
Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng
trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh
dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao
đẹp, chết anh dũng.
Làm sao
ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo,
bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy
vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh
hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày
nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng
để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó
khăn tiêu biểu.
Khó
khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng
tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho
bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày
càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có
nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ
người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản
thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì
càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ
không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị
đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc
Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia
đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều
không dễ.
Khó khăn
thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành
một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối
toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền,
nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng
gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang
làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng
trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm,
muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo
khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn
còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân
chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả
thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với
Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta
đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến
lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một
lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn
đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì
đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như
thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì
đạo.
Lạy các
Thánh Tử Đạo Việt Nam ,
xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc
Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để
làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
15.
Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì
(Mt 10,
17-22)
Qua
những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái
độ phải có khi đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và
nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách
hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp
của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả
Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và
người đồ đệ như sau:
"Nếu
thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước
các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về
nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách
các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy
dạy bảo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc
chắn họ sẽ bắt bớ các con".
Người
đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ
đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những
bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu
đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm
theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo
Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại
Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự
nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa
Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ
của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong
đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã
kêu gọi "đừng sợ" đến ba lần:
-
"Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ,
vì sự thật luôn là sự thật".
Trung
thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả
bằng chính mạng sống mình.
- Lần
thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm
hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được
linh hồn".
Lý do
sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích
thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị
thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu
người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần
thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn
chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ
ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa
chăm sóc cho hay sao".
Đó là
ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình
được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều
hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai
nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt
Cha Thầy ở trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ
đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm
nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô
qua mọi thời đại.
Lạy
Chúa,
Xin
giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con,
để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam ,
xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung
thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
16. Can
đảm nói không với tội lỗi – Lc 20, 27-38
(Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trong
thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam , một trong những thử thách mà
các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó
thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không
bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được
thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng
bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói
không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà
các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những
hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không
bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có
những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có
cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn
không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không
bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói
không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy
hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ
dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp
để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với
rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu
phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu
sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du
phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới
chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy,
các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù
phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói
không với tội lỗi
Ngày
hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo
hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói
không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng
chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ,
những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi
lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi
gương các anh hùng tử đạo Việt Nam ,
chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu,
với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn
nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước.
Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ
trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua
những mức thấp trước.
Tương
tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc
đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta
phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện
xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta
luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ,
cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng
đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên
thiên quốc.
17. Tử
đạo hay sống đạo?
Nếu như
anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng
ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh
thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng
kính các thánh Tử Đạo Việt Nam ,
chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta
đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực
vậy, Giáo Hội Việt Nam
đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào
hùng và dũng cảm.
Bên Âu
Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội
còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều
Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt
bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường.
Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang
toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ
Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố
hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế
quốc La mã.
Nếu so
sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống
với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất
nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới
những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này,
biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng
thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người
đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng
lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế
nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội
Việt Nam
đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là
trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.
Tuy
nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các
ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu
mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn
khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam .
Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn
bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi
cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử
đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự
hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa,
hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời
Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Không
ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hành
động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin
yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể
trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo,
bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh
nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ,
chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì
một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng
thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ
đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống
như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn
nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế,
chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng
ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc
sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái
nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ
Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để
làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập
sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi
hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa,
mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một
giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy
sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin
bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của
chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.
18. Suy
niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm.
Ngày 24
tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã
xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của
Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào
ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các
thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người.
Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những
con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời
sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc
thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính,
từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên
đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo
để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy
gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt
heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ
sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng
là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con
người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử
đạo Việt Nam
cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những
người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành;
tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con
người và những người thân.
Cái
chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng
người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho
nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh
hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi
cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi
các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và
chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời
nói nhiều.
Không
có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc
thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh
nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa
yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta.
Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với
chúng ta nữa?
Không
có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu
Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng
vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của
Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa
được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có
thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. "Không ai có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô". Không ai,
cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm
điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin
vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư
thái bất chấp tất cả. "Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là
Chúa". "Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai,
tôi còn kinh khiếp chi ai"! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo
trung thành với Ngài, cho dù "kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì".
Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi
chúng ta.
Vác
thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức
Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: "ai muốn theo Ta, phải bỏ mình,
vác thập giá hằng ngày mà theo Ta". Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống
liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có
hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình
trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
"Được
lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?" Điều quan
trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn
thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo.
Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là
những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu
hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ:
1. Tại
sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có
người nói: "sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi". Bạn có đồng ý
không? Tại sao?
3. Để
giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam
và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo
Việt Nam !
19.
Những Đấng Bậc Anh Hùng
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Không
kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được
phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời
mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu,
Đấng yêu thương con người dầu phải chết.
Họ là
ai?
Họ là
những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người
vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh
sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân
con Việt Nam
hiện nay. Họ là những người "dường như" không sợ chết. Họ chấp nhận
gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng
chấp nhận cái chết.
Họ là
ai? Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những
người không còn bi#7871;t trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ
làm dâu? Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ
không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần
nương nhờ nơi họ? Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người
thân dành cho họ, mà "ngoan cố" không chịu bỏ đạo để phải chết?
Không!
Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương
chồng. Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng
báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những
"anh hùng" sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những
người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng "tình
người" chứ không phải là những người "vô cảm". Họ chết vì người
ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận
cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao
họ kiên cường và anh dũng như vậy?
Họ là
những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi
những con người yếu đuối mỏng manh.
Ai
không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những
bậc tử đạo "dường như" không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn,
một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả
mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên
tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống
mình.
Qua các
bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải "con người" anh
hùng, nhưng chính "Thiên Chúa" đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi
những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những "bức tường
bằng sắt, như những bức vách bằng đồng" và kiên vững không gì khuất phục
được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể
nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ.
Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa hiện diện
đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.
Sống
cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng
Chúng
ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để
"con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh". Xin cho chúng ta có
tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì
Thiên Chúa.
Ngày
nay người ta không còn nhiều dịp để "tử đạo" như ngày xưa, nhưng ngày
nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức
quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan
khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn
dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người
ta vẫn phải đổ máu "vô hình", vẫn phải hy sinh, phải chết "chính
con người của mình" thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ:
(Nên
hát "Đây bài ca ngàn trùng" trước khi chia sẻ)
1.
"Ngày nay tử đạo không đổ máu", bạn hiểu sao về câu này?
2. Với
bạn, đâu là khó khăn nhất của đời sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)?
3. Bạn
biết gì về các thánh hoặc chân phước tử đạo Việt Nam ? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm
nào đó mà bạn thán phục của một trong các vị mà bạn biết).
20. Anh
em làm chứng cho Thầy.
(Trích
trong 'Manna')
Suy
Niệm
Trong
số 117 vị Tử Đạo Việt Nam ,
được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà
Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước
khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân
mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc
chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó
là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà
Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân
bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép
phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến
thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an
ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng
đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng
chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc
đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho
chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu
đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự
yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn
ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời
mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh
Thần ở với bà.
Hội
Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa
trước mặt người đời.
Sống
đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại
đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi
ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức
Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi
chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc
sống.
Càng có
tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là
những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng
ta cũng phải đối diện.
Ước gì
chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước
gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên
quê hương.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Các vị
tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời
đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng
ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý
bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải
sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu
Nguyện
Lạy Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam ,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy
hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa
mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ
nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các
ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng
Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục
vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam .
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền
giáo sinh nhiều hoa trái.
21. Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam
– Lc. 9, 23-26
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tử đạo,
là từ ngữ dịch của chữ martuV, marturew (martus, martureô), có nghĩa là chứng
nhân, làm chứng. Các vị tử đạo là những chứng nhân, những người đã dùng chính
mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong
cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự
thật; nhưng lời chứng đáng tin nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống
của mình làm bảo đảm.
I. Hiện
hữu một Thiên Chúa tình yêu
Các vị
tử đạo làm chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ
đạo nếu không họ sẽ bị tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo
không có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết như các ngài đã
biết. Không chắc rằng những người có quyền thế này không tin có một Đấng tối
cao vượt trên tất cả mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những
người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là những người không tốt,
cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc
một tổ chức gây phương hại đến sự tồn vong của đất nước.
Khi
trung thành với chính mình, trung thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa
mà các ngài tôn thờ, các vị tử đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt
bớ các ngài thấy rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực
tại nào đó mà các ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các
ngài đã cảm nghiệm, đã biết một cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì
nếu không như vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả
kể cả những người thân yêu vì Đấng đó!
Đành
rằng có nhiều người chết vì ý thức hệ, nhưng những người chết vì đạo là những
người chết cho tình yêu, không thù hận những người giết hại mình, ngược lại,
các ngài là những kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả
những kẻ hãm hại mình. Chính tương quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có
cách cư xử khác với những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các
vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn
sàng đánh đổi tất cả để được chia sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi
các ngài bước lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình
yêu.
II.
Niềm vui và bình an của các chứng nhân anh dũng
Các
chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng sống để sống trung thực với chính mình, và
qua đó cho con người của mọi thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và
đặc biệt, đã làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là người, ai không
sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ chết, ai không muốn được sống gần những
người thân yêu của mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó,
các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi các ngài, người ta
còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà những người ghét các ngài không thể làm
mất được.
Đứng
trước các ngài, những người quyền thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua
cuộc. Trước một phụ nữ chân yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan
quyền với những tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy
một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà thế gian không thể thắng được. Người ta có thể
lấy mạng sống của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết
lại là những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và
ngay cả giết người, là dấu chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa
những đau đớn của thân xác mà con người không thể tránh được, người ta vẫn nhận
ra nơi các chứng nhân tử đạo một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình.
Ngay lúc chết, các chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên
Yêsu, điều này cho thấy tình yêu của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng
mà vì Ngài mà các chứng nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng
mất tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài
chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy
có niềm tin niềm vui và hy vọng tràn ngập lòng các ngài.
III.
Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người
Ngày
nay không còn nhiều những cơ hội thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng
con người của mọi thời đại đều phải đối diện với những cám dỗ hướng về những
thực tại trần thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn
quyền lợi và ham muốn thể xác. Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi
phạm quyền lợi và nhân phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa
mãn xu hướng ích kỷ của mình.
Ngày
nay, thân xác và những khuynh chiều của thân xác vẫn luôn hiện diện với con
người: bao nhiêu người đã chọn vật chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao
nhiêu người đã chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù chà đạp
nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được mời gọi để vươn lên từng ngày: con
người được mời gọi tôn trọng phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con
người được mời gọi tôn trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả qua việc tôn
trọng công bình; con người được mời gọi sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu
thương tha nhân như chính mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức
Yêsu đã yêu thương.
Vượt
qua chính mình với những khuynh chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng.
Con người phải chết mỗi ngày cho những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như
vậy, con người cũng trở thành chứng nhân "tử đạo": làm chứng có
một đời sống mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình
mau qua này. Con người được mời gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng
những hành vi yêu thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao
cho xứng với các bậc cha anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa
tình yêu.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ
1. Bạn
có tự hào vì là người Việt Nam
không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là
người Việt Nam .
Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).
2. Bạn
có tự hào về các bậc cha anh tử đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?
22. Nhớ
Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy
niệm của Nguyễn Minh Triệu)
Hôm nay
Giáo Hội Việt Nam long trọng
mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam ,
những người anh hùng trong trái tim của mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là
một dịp để chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam , và cũng là
một cơ hội để chúng ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các
ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh
tử đạo Việt nam để lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam
lãnh nhận được một kho tàng vô giá.
Trước
hết, đời sống và cái chết của các vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho
đức tin của chúng ta. Trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội
bị ảnh hưởng nặng nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của
chúng ta không ngừng bị đặt lại, chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của
mình. Trong kho tàng của Giáo hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho
niềm tin của mình. Tuy nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo,
chúng ta có một lời chứng không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử
đạo, các ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống
vốn là điều quý giá nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ
nó? Ắt hẳn các vị ấy đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng
để các vị dám từ bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa,
các ngài đã đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo
của chúng ta có tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các
ngài có thể chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự
bản chất có nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức
Giê-su, đức tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp
chúng ta vững tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch
nhất cho mọi chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các
Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu
gương sống động về đời sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu
thương, yêu thương Thiên Chúa và yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa
nên các ngài đã chọn cái chết trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn.
Các ngài không chỉ yêu thương những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà
còn yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh
nhận cái chết vì các ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực
chính trị, trước đau khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự
do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân
phúc, nhưng để đón nhận ân phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với
mọi ràng buộc của thế gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương,
tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người.
Như hạt
giống gieo vào lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo
đã chấp nhật chết đi, máu các ngài đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ
sinh hoa trái. Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không
chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới chúng ta là con cháu các
ngài. Là những hậu duệ chúng ta chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để
lại. Nhờ máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu
phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo
truyền thống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam
vẫn giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người,
vẫn còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam
đang được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến
cuộc đời mình cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh
hùng tử đạo đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng
đại của các ngài, chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm
nay.
23.
"Đây Bài Ca Ngàn Trùng"
(Suy
niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay
lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam .
Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng:
"Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng.
Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng,
cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi
Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió
ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai
nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với
sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh
cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến
thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe
doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã
dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các
ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc
đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi
hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống
triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các
ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ
lên các ngài.
Các
ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các
ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người
ta.
Nhìn
vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc
sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác
ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người
con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức,
luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp
trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn
thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những
người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ
án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức
thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu
cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp
trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả
thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người
mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm
Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình:
"Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ
đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi
chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng
dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất
sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như
vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của
mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục
để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo
là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng
kính các thánh tử đạo Việt Nam ,
xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca
ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người.
Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các
thánh Tử đạo Việt Nam
dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
24.
Sống đạo và chết vì đạo
Theo
truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được
phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt
chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã
có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà
mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.
Truyền
thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở
chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh
hùng khác của nhân loại.
Thật
vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với
vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những
con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại
luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là "Yêu thương kẻ thù và cầu
nguyện cho những kẻ ngược đãi mình". Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì
đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế,
nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù
những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì
người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một
anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận
các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin
hay Giáo Hội.
Nói
cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải
chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của
sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa
là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng
có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết
vì lòng yêu mến.
Các
thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài
đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết
cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ
và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn
tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban
phúc tử đạo cho các ngài.
Vua
quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả
đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị
tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi,
nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn
tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị
nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái
lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ
quốc.
Thật
vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối
hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài
đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc.
Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người
Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh
giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi
gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó
đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã
hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu
nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử
đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc
một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
25. Tử
đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm
nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại
Việt Nam .
Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong
mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ
Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên
tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và
lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình
chữ "S" thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn
hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm
chứng cho Tin mừng đó.
Thật
vậy, "Tử Đạo" theo nguyên ngữ là "Martyr" có nghĩa là
"làm chứng". Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn
sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc
chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng
là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi
vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng
ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời
sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt:
"sống gởi, thác về". Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên
mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô:
"Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
1. Chọn
lựa của dân Do thái:
Tuy
nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã
phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực
tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng
cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân
Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc,
cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ:
"Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh
phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ". Khi dân Do thái chọn lựa "yêu mến
Đức Chúa,... và gắn bó với Người", thì không phải vì trước mắt họ nhận
được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin
tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách
nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban
cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn
lựa của cha ông chúng ta:
"Trung
thành với Thiên Chúa" cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ
những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên
ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì
có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức
lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có
nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh
giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua
thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin
Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước
mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói:
"Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ
chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển."
Đúng
đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng
của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh:
"Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được". Còn Thánh Têphanô
Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn
lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước
qua Thánh giá: "Tôi đã suố#7889;t đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay
tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí
hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!". Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp
bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những
chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng,
mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác,
mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh
Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng
ta: "Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên
quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe
loan báo Tin mừng". Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi
chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng
bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được
mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì
quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được
cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà
bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa
dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai
chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô
hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn
lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ
các thánh Tử Đạo tại Việt Nam
hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của
mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi
ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì
để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể
không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ,
cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực,
hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một
giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi
Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì,
nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh
Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ
đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta
như lời hứa của Đức Giêsu: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở
đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó". Amen.
26. Các
thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ kính
các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao
tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ "Không có gì quí hơn mạng
sống". Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm
cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi
đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ
họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức
ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt
người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên
không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy
nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không
nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao
hơn nhiều. Thí dụ:
- Trong
trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa
con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng
nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn
đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay
như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo
vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản
thân.
- Và
các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả
những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng
các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể
thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan
một câu là "Tôi chịu bỏ đạo" thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản
hơn chỉ cần thưa "vâng" khi quan hỏi "có chịu bỏ đạo
không?", hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái
gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi.
Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của
các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều
thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn
tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng.
Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo
uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì
không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý
tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để
trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một
trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất
là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác
hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người
ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên
ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra
những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục
khác thường... kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống
đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh
Tử Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn
phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều
thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài:
Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và
nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là
các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người
ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa,
linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế
ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không
làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị
thiệt thòi...
Và điều
thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho
chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những
nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ
chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên
là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên
nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi
hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh
vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: "Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt
với các bạn", rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại,
nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận "Các bạn có thể thành công suốt cả
cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người
ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là
lúc chúng ta đều y như nhau". Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó
nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người
ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết
khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí
nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
27.
Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một
thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa
mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan
này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông
già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt
thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ
gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và
đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận
hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại
và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không
ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng
phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự
can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê
được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám
cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi
người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách
thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha
Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống
để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong
cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ
mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một
người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi
ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là
nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút
nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ
hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy
thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải
thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành
quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt
đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống
tàu buôn đưa về Macao
chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn
đời lưu danh. (theo "Người chứng thứ nhất" của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị
em thân mến,
Mỗi lần
nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm
giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những
cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính
quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn
trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử
hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế
giới.
Ngày
nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho
công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người
nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo
con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong
Tông Thư "Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba", Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này.
Vì "trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, - thường là âm thầm, họ
như thể là "những chiến sĩ vô danh" – vì đại cuộc của Thiên Chúa.
Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy
về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám
mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em" (số
37).
Tại đất
nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận
kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế
và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng
Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để
làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm
1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo
dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua
Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn
bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu
đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay,
chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng
biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền
lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng
trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình
yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến
nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ
xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn
nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải
chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các
môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét
anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính
tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên
môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy
sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều
hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị
Giáo Phụ Tertulianô đã nói: "Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát
sinh các Kitô hữu".
Thưa
anh chị em,
Hội
Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa
trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy
sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước
thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng
ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật
gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối
diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị
Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng
bào trên quê hương Việt Nam
chúng ta.
28. Làm
chứng
Hôm nay
Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam .
Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui
mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta
cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm,
lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm
này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để
chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong
suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như
thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước
nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản
của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có
117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn
hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các
ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu
các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung
thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị
tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết
rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến,
các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết
của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo
Chúa. Đúng thế, danh từ "Tử đạo" có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng
đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình
khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống
mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các
ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các
ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo
của các ngài.
Người
ta thường nói: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hay "uống nước nhớ
nguồn". Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một
di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như
ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã
đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà
đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại.
Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa
đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo
và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo
nói gì với chúng ta?
Trước
hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son
của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm
hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được.
Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng
mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ
đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin
nguyên vẹn.
Đàng
khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ "trung" lên
trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ
quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa,
trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán
lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ
hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân.
Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ
chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn
đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải
chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì,
bá đao... Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ
lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị
tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy
cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống
để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban
xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức
chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái
phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta
hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng
ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn,
nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là
có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc
đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là
sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo,
những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn,
quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những
người chung quanh.
29.
Tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu
(Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa
Giêsu tiếp tục hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội cho muôn người.
Cách đây
hơn 2.000 năm, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau
thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại.
Thế
nhưng, trong những thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội
lỗi nhân loại tiếp tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ ngày càng
khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu quả đau thương và cái chết đời đời cho vô
vàn người gây ra tội lỗi.
Thiên
Chúa không nỡ để cho bao người phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên
Chúa Giêsu vẫn còn phải tiếp tục chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế
gian.
Như
thế, cuộc khổ nạn hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu không chấm
dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách
đây 2.000 năm, mà còn được tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn
người qua suốt dòng lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều nầy:
"Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giêsu) kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài
lại đến."
Chúa
Giêsu mời các thánh tử đạo tham dự vào hiến tế của Ngài.
Chính vì
công cuộc khổ nạn và hy tế của Chúa Giêsu cần phải được tiếp tục cho đến tận
thế để đền tội cho nhiều người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên
Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác
thập giá, cùng chịu khổ nạn với Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: "Ai
muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo." (Mt
16, 24)
Thế là
hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa
Giêsu, khởi đầu là máu của các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh
Gia-cô-bê tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các
tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế
Rô-ma cho đến máu của các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia,
nhiều dân nước trên khắp thế giới trong suốt hơn 2.000 năm qua.
Trên
quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị
trảm quyết cho đến khi vua Tự Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải
trải qua cơn bách hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp
lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với
Chúa Giêsu, khốc liệt nhất là trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng
(1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân
(1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng
ta.
Chúa
Giêsu mời chúng ta tham dự vào hiến tế của Ngài.
Từ ngày
lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu
(giáo lý công giáo số 1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của
Ngài (sđd số 1268). Vì là "Thân Thể của Chúa Giêsu, chúng ta phải tham dự
vào hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của toàn thân." (sđd số 1368)
Thế nên
mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự
vào hiến tế của Chúa Ki-tô là Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt
Nam là những bậc tổ tiên của chúng ta.
Hôm
nay, chúng ta không còn phải gánh chịu những cực hình, những đau thương và mất
mát lớn lao như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được
mời gọi tham dự vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu bằng cách chấp nhận vác thập
giá với Chúa Giêsu qua những việc bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời
giờ, công sức, tiền bạc... để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần đến
bàn tay, con tim và khối óc của chúng ta.
Có như
thế, chúng ta mới xứng đáng là con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam .
Có như
thế, chúng ta mới thật sự là chi thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp
tục hiến tế đời mình cho đến ngày tận thế để đền tội muôn dân.
30.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới
(Suy
niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Là
người Công Giáo Việt Nam ,
chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam .
Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm
chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời
nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của
Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm
tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình
yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn
và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta
đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên
tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng
nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm
ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là
nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi
con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối
không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất
thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã
không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau,
nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và
ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết
để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: "từ bỏ
chính mình": vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về
Thiên Chúa; "vác thập giá mình": chấp nhận tất cả những thương khó
trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện,
cho mình và cho mọi người.
Đối với
các Thánh Tử Đạo Việt Nam ,
bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên
Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của
họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng
nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo
hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra,
mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi
gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo
gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam ,
các tín hữu Việt Nam
đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục.
Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý
thức hệ... nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng
trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên
tai, dịch nạn..
Tuy
nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam , cũng là lúc mà mỗi chúng ta
phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.
Ở đấng
bậc nào trong Giáo Hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối
diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để
ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày
xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không
bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho
tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn
kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng
ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền
bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn
nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc
tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc
Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối
tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của
ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả
thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm
chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng
ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm
mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của
cuộc bách đạo mới.
Tỉnh
thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục
tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với
Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người.
Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng
khắp nơi trên thế giới.
Mục
tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài
người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả
ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem
như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà
thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng
vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện
của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân,
vô vọng tưởng một đời sau... để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn
một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn
niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận
lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và
các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện
của Thiên Chúa là một bức họa không hơn.
- Việc
đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự
họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và
các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm
cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa,
và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy
hiểm vô cùng.
- Tâm
hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học
con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách
về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới
ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự
khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương
quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể
chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế
nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có
thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không
cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô
khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở
các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu
sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt
phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn
một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất
giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến
các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín
hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn
nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng
kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình,
tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã
gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông
với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có
niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa
Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên
Chúa.
Mừng
kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách
sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới,
nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam . Có thể chúng ta đang nằm gọn
trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề
hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê
hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được
diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu
là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một
Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên
Chúa.
Thiên
Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa
Giêsu nói: "Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ
thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên
thần" (Lc 9,26)
Mừng Lễ
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ,
thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng
vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm
chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng
thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết "không bước
qua Thập Giá" và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy
Chúa, Giáo Hội lữ hành, và đặc biệt Giáo Hội Việt Nam chúng con đang gặp những
thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi
kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa
Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng
cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy
Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa
ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy
sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và
tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một
giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng
con.
31.
Những tên lý hình thời đại – PM. Cao Huy Hoàng
Mừng
kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tự hào
về Đức Tin kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất
nước của các Thánh Tử Đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các
Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi
chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là
Tử Đạo hằng ngày.
Nếu cha
ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng
bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn
nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù...thì thời chúng
ta, "những tên lý hình thời đại" với cách bức bách Đức Tin của ta còn
kinh khủng hơn nữa: làm cho con người không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá
của Ngài.
Những
tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những
người chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của
các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc
tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có Thiên Chúa hay là để cho người
không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của họ?
Tư
tưởng "Tôn giáo là liều thuốc phiện" vẫn đã thấm trong máu thịt của
họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người gần đất
xa trời, chờ phút "qui tiên", họ cũng chẳng chấp nhận một cõi nào
linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì
chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có linh hồn bất tử. Một
cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ nào hơn là theo cái chuẩn mực mà
mình tự đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất
cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Thời
đại này, họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta và yêu cầu chúng ta bước qua
để chứng minh cho họ là chúng ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín
hữu bề bộn những chủ thuyết vật chất, và như thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo
hằng ngày, đã bắt đầu qua việc không đồng thuận với những chủ trương không
Thiên Chúa:
- Các
em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con
người bởi khỉ, bài học không có Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác
sinh...như "Con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho
tao nói".
- Các
em thanh niên nam nữ vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên
được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử
– nhưng sinh con thật – giết người thật.
- Các
gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực
mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương
quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con
người từ trong trứng nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá
trị hôn nhân thời nay đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là
hưởng thụ...tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên
một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ sau, con
chung, con riêng, con bỏ, con nuôi... hỗn độn.... Biết như thế, vì bảo vệ Đức
Tin Công Giáo, các gia đình công giáo phải tử đạo khi dứt khoát không bị cuốn
vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi
có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí
tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng
người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết
hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng
ngày.
- Người
ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng,
hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh
máy nóng ...để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng...
nhưng không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua,
và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình...
- Giữa
những băng hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ
của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương
mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những
trào lưu suy đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong
giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng
đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí
mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các Thánh Tử Đạo, cùng với
Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi trên đất nước.
Chúng
ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu
Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới
đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý
hình thời đại: Trong ta
Truyện
rất ngắn "Lòi Cái Tôi Ra" của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa
cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh
phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt
cây cho nhà giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
- Không
phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt
bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái
gì?
"
... Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10)
Chiến
đấu với những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng
chiến đấu và chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải
khiêm tốn mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã
không bước qua thập giá của những tên lý hình thời đại ngoài ta, nhưng ngược
lại, vì cái tôi, mà ta đã chặt và quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và
quăng đi, thì còn đâu mà bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người
ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và
cũng không hay biết!
Sự nhàn
hạ, thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ... đã "lấn sân" tâm
linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm giác khổ đau
của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng
quen rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh vọng, của
quyền lực, của sự an thân, an vị, an nhàn, và ... rồi an nghĩ trong trại giam
ấy tới ngàn thu.
Bỗng
dưng, chính ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và
xử trảm mọi người khi cách sống "không Kitô", "không Thập
Giá" trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến nhiều người.
Vâng,
không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta
mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến
Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết
tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt
qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp
chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng ngày, giúp chúng ta trung thành với Đức Tin
Công Giáo.
Xin
chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm
Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng
Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di
tán tại Mỹ-Tho.
"Bị
điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn,
bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: "Trong nhà tôi không có
đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi
chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi
không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu
mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc". Không tìm ra chứng
cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm "quá
khóa", tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không
tuân.
Quan
bảo: "Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội".
Ông
Trùm đáp: "Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc
giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá
cũng vậy".
Lạy
Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài,
để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc đời chúng con. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét