LEGIÔ CẢM ĐƯƠNG |
PHONG HẢI |
Đại Hội Giới Trẻ TGP. Hà Nội Lần thứ XIV TẠI GP. VINH |
Đóng cửa Năm Thánh tại Phát Diệm |
Đóng cửa Năm Thánh tại Sài Gòn |
Đóng cửa Năm Thánh tại Phú Cường |
Đóng cửa Năm Thánh Tại Hà Nội |
Đại hội Giới trẻ Giáo tỉnh Hà Nội lần thứ XIV:
Thánh lễ Cao điểm và Bế mạc Đại hội
17.11.2016
Vào lúc 8h30,
sáng thứ 5, 17/11/2016, Đại hội Giới trẻ Giáo tỉnh Hà Nội lần thứ XIV với chủ
đề: "Hãy đi và hãy làm như vậy" (Lc 10, 37) đã khép lại sau thánh lễ
Cao điểm Đại hội cùng với nghi thức trao Thánh Giá và cờ giới trẻ cho giáo phận
Thanh Hóa, đơn vị đăng cai tổ chức Đại hội Giới trẻ Giáo tỉnh Hà Nội lần thứ XV
– 2017.
Thánh lễ được cử hành do
Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội chủ tế,
với sự đồng tế của Đức TGM Leopoldo Girelli - Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam,
Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh - TGM Tổng giáo phận Huế, Giám quản giáo phận
Thanh Hóa cùng quý Đức cha và hơn 300 linh mục đến từ 10 giáo phận miền Bắc.
Hiệp dâng thánh lễ có đông đảo quý Tu sĩ nam nữ và hơn 20.000 bạn trẻ đang tham
dự Đại hội.
Trước đó, vào lúc 7h00, Đức
Hồng Y, quý Đức cha đã gặp gỡ các bạn trẻ tham dự Đại hội. Qua cuộc gặp gỡ, các
vị chủ chăn đã trình bày các đề tài liên quan đến đời sống của người trẻ hiện
nay như, Giới trẻ với việc bảo vệ môi trường, Giới trẻ và tình yêu,
Giới trẻ và mạng xã hội... hầu giúp các bạn trẻ có hành trang sống đạo tốt
hơn.
Khởi đi từ chủ đề Đại hội "Hãy
đi và hãy làm như vậy" (Lc 10, 37), trong bài giảng của thánh lễ,
Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Giáo phận Hải Phòng - Phó Tổng thư ký HĐGM
Việt Nam đã nhắn nhủ các bạn trẻ, ngang qua đời sống của mình giữa xã hội ngày
hôm nay phải can đảm làm chứng cho sự thật và niềm vui bắt nguồn từ Tin Mừng
Tình Yêu. Ngài nói: "Các bạn hãy cảm nhận Thiên Chúa giàu lòng
thương xót đang từng ngày đụng chạm đến trái tim của của các bạn. Hãy để Lòng
Thương Xót của Chúa hiện diện trong đời sống và để Chúa biến đổi căn bản trong
con người của các bạn. Để từ đó chúng ta có những lời nói khác, hành động khác,
không còn là con người cũ nữa, bởi vì chúng ta đã đắm chìm trong Lòng Thương
Xót của Chúa. Mỗi chúng ta đều gặp gỡ Chúa Giêsu và mỗi người được Ngài chạm
tới bằng mỗi cách khác nhau. Nhưng chắc chắn một điều, sau khi Đại hội kết thúc
chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày, chúng ta có chung sứ mạng loan
truyền và sống đời chứng tá Lòng Thương Xót của Chúa".
Nhắn nhủ với các bạn trẻ
lúc cuối thánh lễ, Đức TGM Leopoldo Girelli - Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam
đã mời gọi các bạn trẻ luôn biết hướng đến sự thật, nói sự thật, bảo vệ sự thật
và biết thưởng ngoạn cái đẹp xuất phát từ Thiên Chúa.
Sau phép lành cuối lễ,
trong bầu khí trang nghiêm, sốt sắng, là nghi thức trao Thánh Giá và cờ Đại hội
Giới trẻ cho giáo phận Thanh Hóa, đơn vị đăng cai tổ chức Đại hội Giới trẻ Giáo
tỉnh Hà Nội lần thứ XV sẽ được diễn ra vào năm 2017. Đức cha Phaolô Nguyễn Thái
Hợp, GM giáo phận Vinh, chủ nhà đăng cai Đại hội lần này, đã trao Thánh Giá Đại
hội cho Đức TGM Giuse Nguyễn Chí Linh và các bạn trẻ giáo phận Thanh Hóa. Giây phút đón nhận Thánh Giá thật linh thiêng và xúc
động, để rồi vỡ òa trong niềm vui và hạnh phúc của các bạn trẻ giáo
phận Thanh Hóa, bên cạnh dòng cảm xúc ngậm ngùi luyến lưu của các bạn trẻ giáo
phận Vinh.
Đại hội kết thúc với lời
cảm ơn và tuyên bố bế mạc của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên – Trưởng Ban Tổ
chức Đại hội lần này. "Hãy đi và hãy làm như vậy" (Lc
10, 37) nghĩa là hãy đi ra và thực thi lòng thương xót - âm
hưởng chủ đạo của kỳ Đại hội lần này, là lời thúc bách của Chúa Giêsu đối với
mỗi người trẻ. Ước mong lời mời gọi của Tin Mừng qua tinh thần và chủ đề của
Đại hội Giới trẻ lần này thấm đẫm và sẽ mãi đọng lại trong tâm hồn mỗi người
trẻ và được tỏ bày ra qua chính cuộc sống thường ngày của các bạn. Và đó cũng
là mong ước của các thành viên Ban tổ chức với bao nhiêu nỗ lực, hi sinh sức
người sức của qua công tác chuẩn bị, tổ chức và phục vụ cho Đại hội lần này
được thành công tốt đẹp.
LỄ CHÚA KITÔ VUA – C
Lời Chúa: 2Sm 5, 1-3; Cl. 1, 12-20; Lc. 23, 35-43
MỤC
LỤC
1. Vua tình yêu
2. Kitô Vua
3. Chúa Kitô Vua
– ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
4. Vương quốc
Đức Kitô - ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
5. Xin nhớ đến
tôi
6. Chúa Kitô Vua
Tình Yêu – Radio Veritas Asia
7. Cùng chiến
thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
8. Vua tình yêu
– Lm Giuse Đỗ Vân Lực
9. Chúa Giêsu
Kitô, Vua Vũ Trụ – Lm Trần Đình Nhi
10. Đức Giêsu
Kitô, Vua vũ trụ
11. Lễ Chúa
Giêsu Kitô Vua
12. Chúa Giêsu,
Vua Yêu thương
13. Đấng Kitô
của Thiên Chúa
14. Mở cửa về
hướng tình thương
15. Giêsu –Vua
phục vụ
16. Trên khổ giá
- R. Gutzwiller
17. Đức Kitô Vua
18. Chúa Kitô,
Vua vũ trụ – Veritas
19. Trộm lành
20. Vua vũ trụ
21. Cơn cám dỗ
cuối cùng – Thiên Phúc
22. Đức Giêsu,
vua tình yêu
23. Chú giải của
Lm Fx. Vũ Phan Long
24. Chú giải của
Noel Quesson
1. Vua tình yêu.
Đọc lại Phúc Âm,
chúng ta thấy các thánh sử đã ghi lại những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu
như sau: Ngài vác thập giá, đi đến một nơi gọi là Golgotha, và tại đó, bị đóng
đinh vào thập giá cùng với hai người trộm, mỗi người một bên. Thế nhưng thánh
Gioan đã dừng lại ở một số chi tiết đáng cho chúng ta suy nghĩ về vương quyền
của Đức Kitô. Trước tiên là tấm bảng mà Philatô đã cho viết và được treo trên
thập giá: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái. Ngài nhấn mạnh đến tính cách phổ biến
của tấm bảng ấy, vì được viết bằng tiếng Do Thái, Latinh và Hy Lạp, mà nhiều
người có thể đọc được vì nơi đó gần thành. Danh hiệu này đã được lặp đi lặp lại
như một chủ đề trong suốt cuộc xử án. Philatô hỏi Chúa Giêsu: Ông có phải là
vua dân Do Thái hay không? Vậy ông là vua sao? Các người có muốn ta thả vua dân
Do Thái cho các người không? Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao? Sự
nhấn mạnh của Philatô như thể diễn tả sự châm biếm hay tố giác sự lo âu của
ông? Nhưng chính vì danh hiệu này, mà cuối cùng người Do Thái đạt được bản án:
Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda.
Một nghịch lý lạ
lùng. Đó là một người ngoại giáo đại diện của quyền bính Xêda, lại ban cho Đức
Kitô cái danh hiệu mà các thủ lãnh của dân Ngài thì lại khước từ. Những người
dân thấp cổ bé miệng lại cũng đã tung hô Ngài là vua Israel, khi Ngài long
trọng tiến vào Giêrusalem. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ bánh hoá
nhiều. Vương quyền của Đức Kitô không phải là một vương quyền thuộc thế gian
này. Vì thế, Ngài đã trốn lên núi để tránh đi sự hiểu lầm ấy. Bây giờ, Ngài
không ngại gì nữa. Bị lính tráng đánh đòn, Ngài là một vị vua khiêm nhường và
nghèo nàn, theo lời tiên tri Giacaria: Hỡi thiếu nữ Sion, đừng sợ, này vua
ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con. Đây là một vị vua đội mương miện là một
vòng gai, mặc một cẩm bào là chiếc áo đỏ để rồi bị chế giễu. Philatô có lý: Đây
là vua các ngươi. Điều ông viết là được viết cho muôn đời.
Với chúng ta thì
lại khác, bằng cái chết tủi hổ trên thập giá, Ngài đã trở nên một vị mục tử
nhân lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên của mình. Ngài đã khai mạc vương quốc
mới của tình yêu, một tình yêu tự hiến: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu. Cho đến tận cùng thời gian, các môn đệ của Ngài sẽ làm chứng
về vương quyền mới mẻ ấy. Họ không được phép mơ tưởng, dù đôi khi bị cám dỗ, về
một Giáo Hội quyền lực. Họ chỉ bày tỏ Đức Kitô ra cho thế giới bằng thứ vũ khí
của lòng khoan dung, nhân hậu, tha thứ và yêu thương.
2. Kitô Vua.
Vào thời Chúa
Giêsu, dân Do Thái đang mong chờ một vị vua sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách đô
hộ của đế quốc Lamã. Chính vì thế, sau phép lạ bánh hoá nhiều, họ đã tôn Chúa
Giêsu lên làm vua, nhưng Ngài lại rút lên núi một mình.
Rồi trước câu
hỏi của Philatô: Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu chỉ đáp lại: Ông nói
đúng. Và Ngài đã chết với bản án: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.
Tuy nhiên, nếu
suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: Ngài là một vị Vua, không giống bất kỳ vị vua nào
trên trái đất. Một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội và
không bờ cõi. Một vị vua nghèo túng và khổ đau, một vị vua bị lăng nhục, bị
nguyền rủa. Và đặc biệt, Ngài là một vị vua nhân hậu.
Đoạn Tin Mừng
hôm nay cho thấy, chính vào lúc Ngài hấp hối trên thánh giá giữa những lời sỉ
nhục và thách thức của các thủ lãnh và lính tráng, thì tiếng nói của anh trộm
lành bất ngờ vang lên. Anh ta chấp nhận hình phạt: Chúng ta chịu như thế này
thật là đích đáng vì xứng với việc chúng ta đã làm. Rồi anh tuyên xưng sự vô
tội của Chúa Giêsu: Còn ông này, ông có làm điều gì trái đâu.
Điều lạ lùng hơn
nữa là anh đã tuyên xưng vương quyền của Ngài, khi mà mọi sự dường như đã sụp
đổ: Khi nào Ngài về nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng. Trong cái nhìn của anh,
thì cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một dấu chấm
hết, anh vẫn tin có ngày Ngài sẽ đến trong nước của Ngài và anh hy vọng mình sẽ
được dự phần vào ngày đó.
Và Chúa Giêsu đã
ban một ơn trọng đại vượt quá lòng anh mong ước: Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên
thiên đàng với Ta.
Đức giám mục
Bossuet đã chú giải như sau: Hôm nay, quả là nhanh biết mấy. Ở với Ta, quả thân
tình biết bao. Trên thiên đàng, quả là nơi hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế anh trộm
lành là người đầu tiên được hứa ban ơn cứu độ. Kẻ gian phi lại là người trước
hết được hưởng hoa trái của cái chết trên thập giá.
Tất cả những
việc ấy đều nói lên lòng nhân hậu của Vua Giêsu đối với những kẻ bị gạt ra bên
lề xã hội. Vị vua bị đóng đinh đã bắt đầu cuộc chinh phục của Ngài trên các tâm
hồn. Và sau khi Ngài trút hơi thở cuối cùng, thì viên đội trưởng đã nhìn nhận
Ngài là Con Thiên Chúa và đã đấm ngực ăn năn.
Chúa Giêsu là
một vị vua khác thường, Ngài không thống trị bằng sức mạnh, nhưng Ngài phục vụ
trong yêu thương. Cho đến ngày tận thế, Ngài vẫn thu hút chúng ta đến với Ngài.
Thập giá là nơi vương quyền của Ngài được tỏ lộ mà không sợ bị hiểu lầm. Chúng
ta cần ngắm nhìn Ngài trên thập giá để biết cách chinh phục thế giới. Bởi vì
thế giới hôm nay xúc động trước lòng tha thứ.
Với những hành
động bác ái và yêu thương, cho dù là tầm thường và nhỏ bé, chúng ta vẫn có thể
làm chứng cho Đức Kitô. Mừng lễ Đức Kitô Vua, chúng ta hãy hạ bệ những thần
tượng giả mạo, để cho Ngài chiếm hữu từng khoảng khắc cuộc đời, và ngự trị
trong cõi lòng chúng ta.
3. Chúa Kitô Vua
– ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích từ 'Nút
Vòng Xoay')
Trên báo Tuổi
Trẻ cách đây khá lâu, tôi gặp một chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng,
mang tựa đề "Tôi thích làm vua", truyện kể về một đội kịch khi đã dàn
dựng xong một vở xoay quanh vai chính là một ông vua. Nhưng đến lúc trình diễn,
người thủ vai ông vua đã không có mặt. Đang còn lúng túng thì may sao tác giả
chuyện ngắn lù lù dẫn xác tới. Bằng sức ép của tình thân người ta xếp ngay ông
vào vai ông vua với lời trấn an: "Làm vua dễ lắm! Chỉ cần áo mão cân đai,
trong ngai bệ vệ thị oai xong liền". Tác giả đã làm như thế và buổi diễn
được xem là thành công. Truyện chỉ có thế, nhưng qua mạch kể, dẫn tới kết luận:
làm vua quá dễ và xét cho cùng, làm vua cũng có nghĩa là chẳng phải làm gì cả.
Phụng vụ hôm nay
cũng đặt tín hữu đối diện với một vị vua: Đức Kitô. Nhưng Người là vị Vua thế
nào? Đường lối làm vua của Người có nhàn hạ không?
1. Đức Kitô khởi
đầu sự nghiệp bằng việc tự hiến.
Ngay từ đời đời,
Đức Kitô đã là vua trên cả tạo thành, nhưng vì không muốn cho con người chỉ
thấy nơi Người tự bản tính đã là vua, mà còn muốn tỏ bài cho họ hiểu để
"là vua" Người phải "làm vua" nữa. Vì loài người chúng ta
và để cứu rỗi chúng ta, Người đã trở thành Vua muôn vua.
Dẫu là Vua Trời,
Người đã chấp nhận từ bỏ tất cả để bước xuống với đời sống con người. Sự bước
xuống ấy chẳng phải là một chuyến vi hành như kiểu những ông vua trong truyện
"Nghìn lẻ một đêm", ban ngày thì thét ra lửa, nhưng ban đêm lại cải
trang giả dạng thường dân len lỏi vào những ngõ ngách cuộc sống để nắm bắt tình
hình dân chúng, rồi bước sang ngày mới, lại áo mão nghêng ngang ra dáng đức vua
oai vệ.
Sự bước xuống ấy
cũng chẳng phải là những chuyến du hành như những chuyến đi lại của những ông
vua hiện đại luôn được bao vây bởi những vệ sĩ cận kề hoặc những fan hâm mộ
cuồng nhiệt, có muốn quan sát sự tình cũng khó mà thấy sự thật.
Nhưng sự bước
xuống ấy là một chuyến đồng hành theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này, nghĩa là
Vua Trời đã làm người thực thụ giữa muôn người trần gian để đồng hành với con
người trong cuộc phiêu lưu cứu độ.
Từ trời cao hạ
cố bước xuống với con người, chưa đủ; từ Thiên Chúa tự nguyện bước xuống làm
người vì chúng ta, cũng chưa đủ; từ con người vô danh tiểu tốt lại khiêm nhường
bước xuống làm một tội nhân dẫu chẳng mang tội gì, cũng chưa đủ. Qua Phúc Âm
hôm nay, người ta còn thấy Người bước xuống nữa, từ một tội nhân lại nhận vào
mình cái án của tên tử tội.
2. Đức Kitô xưng
vương bằng việc tận hiến.
Đọc kỹ trang Tin
Mừng hôm nay, người ta sẽ vô cùng sửng sốt, bởi vì hình ảnh vị vua thì quá nhạt
nhòa trong khi hình ảnh của người tử tội lại thật đậm nét, đến nỗi cái chết của
người ấy cũng không thể gọi là một cái chết bình thường nếu không muốn nói là
"cái chết dữ", theo ngôn ngữ Việt Nam. Thay vì triều thiên là một
vòng gai, thay vì long ngai là một Thánh Giá, thay vì xa giá oai phong lẫm liệt
lại chỉ là những tiếng nhục mạ thách thức của đủ mọi thành phần dân chúng. Kỳ
mục ghen ghét nên nhục mạ đã đành, lính tráng liên quan gì mà phải lên tiếng,
đến như anh trộm dữ chết đến nơi rồi mà vẫn không hết cay xè cà cuống độc mồm
độc miệng.
Nhưng người ta
càng sửng sốt hơn nữa khi biết rằng người tử tội ấy là Chúa Kitô, và cái chết
của Người chính là đỉnh cao tận hiến, đi đến cùng trong lựa chọn hiến thân cho
loài người. Nếu sinh thời Người đã nói "Không có tình yêu nào lớn hơn tình
yêu của người hiến thân vì bạn hữu" thì câu nói đó trước hết đã ứng nghiệm
nơi Người. Người chết thay cho nhân loại mà Người hằng yêu mến, Người chết cho
họ được sống. Nhưng chính lúc Người chết lại là lúc Người tỏ mình là Vua như
hàng chữ trên Thánh Giá đã ghi rõ.
Người làm Vua
bằng con đường tận hiến. Như hạt lúa phải thối đi mới sinh nhiều bông hạt; như
cỗ máy phải chấp nhận hao mòn đi mới phát sinh công suất; như bông hoa phải
chịu ngắt đi mới trang hoàng đẹp bàn thờ; và cũng như cây nến phải chấp nhận
hao mòn đi mới có thể đem cho ngày lễ ánh sáng lung linh.
3. Chúa Kitô cai
trị bằng thánh hiến.
Nếu toàn cảnh
Phúc Âm hôm nay là một bầu khí ảm đạm thì câu kết thúc lại là một cảnh hoàn
toàn khác. Từ đỉnh cao Thập Giá, Chúa Kitô hứa Thiên Đàng cho anh trộm lành.
Trong lời hứa, người ta đã thấy tỏ hiện vương quyền trời cao; trong cách hứa,
người ta đã thấy vinh quang rạng ngời vương quốc; và vượt trên tất cả, trong
tương quan của người trao và người nhận lời hứa, là sáng lên dung mạo của vị
Vua bao dung thánh hiến tất cả để đặt vào tình trạnh sống mới.
"Hôm nay,
anh sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta". Trong bảy lời Chúa Giêsu phán ra từ Thập
Giá, đây là lời oai phong nhất, không là lời của người tử tội, mà là lời của
một vị Vua quyền uy trong Vương quốc của Người là Thiên đàng. Đây cũng là lời
đậm màu cứu độ nhất vì anh trộm khi chẳng còn hy vọng nào khác đã biết bám víu
vào Chúa Giêsu, nên anh đã nhận được ơn cứu rỗi, tức là được thánh hiến để sẵn
sàng tháp tùng Người bay thẳng vào chốn Thiên Đàng không cần qua một trạm trung
chuyển nào. Sướng thật. Rõ trộm chuyên nghiệp nên phút cuối cùng còn trộm được
cả Thiên Chúa.
Có lẽ cũng nên
nói một chút về hai chữ "hôm nay" của lời hứa đặc biệt này, một chữ
nhiều gợi ý, nhưng gắn liền với việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá,
nên chữ ấy cũng liên quan đến việc thánh hiến của vì Vua cứu độ. Ngay từ lúc
Chúa Giêsu chịu chết, Vương quốc Thiên Đàng của Người đã tỏ hiện, vương quyền
thánh hiến của Người đã phát huy, để chữ "hôm nay" trở thành chữ hiện
thực muôn đời của tấm lòng vị Vua Cứu Thế.
Qua việc thánh
hiến lòng cậy trông của ông trộm lành, Đức Kitô đã khẳng định đường lối làm vua
của Người mãi mãi. Người thánh hiến trọn vẹn mỗi người và mọi người, như kiểu
nói của thánh Phaolô: "Người thâu họp tất cả trong một đầu mối chính là
Người, để mà dâng lên Chúa Cha".
Tóm lại, Đức
Kitô là một vị Vua rất khác lạ, Người làm tất cả chỉ vì muốn cứu độ muôn người:
Người tự hiến cúi xuống với con người; Người tận hiến mạng sống cho con người,
và Người thánh hiến để con người được sống muôn đời với Người trong vương quốc
vĩnh cửu. Vấn đề còn lại là hãy tôn vương Chúa Kitô ngay trong cuộc sống hôm
nay.
Có lần đến một
xứ đạo vùng Hố Nai dâng Thánh Lễ, tôi không xác định được phương hướng, phải
nhờ một bác tài xế chỉ cho. Bác bảo: tới ngã ba thấy tượng Chúa Kitô giang tay,
hãy đi về phía tay phải, sẽ gặp địa chỉ muốn tìm. Rõ ràng chỉ là một câu nói,
nhưng đầy gợi ý: hãy đi về phía tay phải Chúa Kitô bằng một cuộc sống tốt lành,
người ta sẽ gặp được địa chỉ mong ước, đó là Nước Chúa Kitô, là quê hương hạnh
phúc.
4. Vương quốc
Đức Kitô - ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Nghe bài Tin
Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa
làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.
Ta không hiểu,
vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa
Giêsu đã cho biết: "Nước tôi không thuộc trần gian này" (Ga 18,36).
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô.
Đó là Vương quốc
của lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ
khai. Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa.
Chúa Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài
người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết
hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa
Cha: "Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?" (Lc 2,49).
Lời cuối cùng của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: "Lạy Cha, con phó linh
hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh
ý Cha, cho dù có những lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người
đã sống đến cùng tâm tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn
tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những
người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời.
Đó là Vương quốc
của sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ trói
buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền
bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người khỏi
ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta
khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do.
Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo:
"Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối
đầu" (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày
đầu tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: "Nếu Ông là Con
Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn" (Mt 4,3). "Nếu Ông là Đức
Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin". Rất tự do, Người đã đi
vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy
tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một
triều đại tự do cho con người.
Đó là Vương quốc
của tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi
ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người
quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người,
khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha
tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề
vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một
tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho
Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh
giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên
thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến
thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá,
Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng,
Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.
Vương quốc Đức
Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của
người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do,
dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như
thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu
là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1) Đã bao giờ
bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng,
lạc thú chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?
2) Hình ảnh về
Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong
bạn tâm tình nào?
3) Tuần này bạn
sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh?
5. Xin nhớ đến
tôi.
(Trích từ
'Manna')
Suy Niệm
"Đáng lẽ
tôi đã được rửa tội từ lâu, nhưng vì vấn đề gia đình và làng xóm nên chưa được.
Dù vậy tôi rất ư là kitô hữu."
Đó là lời của
nhạc sĩ Văn Cao trong một cuộc gặp gỡ riêng tư năm 1990. Cụ đã sung sướng khoe
với mọi người như thế, và thẳng thắn nhìn nhận: "Chúng tôi đã được đào
tạo, nhờ đức tin và âm nhạc kitô giáo."
"Chúng
tôi" ở đây muốn ám chỉ giới trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ.
Đức tin đã thấm
vào con người tài hoa ấy, và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ.
"Nếu tôi
không hiểu Halêluia là gì, thì đã chẳng có bài "Làng tôi", cụ bảo
vậy.
Chẳng ai ngờ Văn
Cao lại là con người say mê Giêsu, mà là Giêsu trên thánh giá. Từ năm 1954, cụ
vẫn treo một thánh giá trước mặt.
Giêsu trần trụi,
Giêsu không còn gì. Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn Giêsu?
Bài Tin Mừng
trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá.
Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. "Đây là vua người Do
thái", tấm bảng ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường.
Không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ
nhuốc. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bị treo trên
thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn
cám dỗ buổi đầu. "Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình".
"Hãy xuống khỏi thập giá" (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng
hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài
thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ
chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không
muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta
tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín
thác.
Chính vào lúc
hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của
mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng. "Hôm nay, anh sẽ được
ở với tôi trên Thiên Đàng." Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được
ơn cứu độ nhờ cái chết thập giá của Đức Giêsu.
Mừng lễ Chúa
Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để
Ngài làm vua của vũ trụ lòng mình. Chúng ta muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực
cuộc sống: văn chương, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội... Cần
có đức tin mạnh mẽ mới thấy Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi kéo cả thế giới về
với Ngài bằng trăm ngàn nẻo đường bất ngờ, trong đó có nẻo đường của cụ Văn Cao
và anh trộm lành.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người cho rằng:
"Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng có nhiều tiện nghi vật
chất, thì lòng đạo đức càng sa sút. Nước Chúa như bị thu hẹp lại." Bạn có
đồng ý với nhận xét trên không? Làm sao để tiện nghi vật chất không làm người
ta xa Chúa?
Bạn đã làm gì để
Nước Chúa đến với tập thể bạn đang sống như gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, trường
học, nơi làm việc? Bạn có gặp những khó khăn khi xây dựng Nước Chúa trong môi
trường sống của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vua vũ trụ nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của
hơn tám trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế
giới này sẽ đổi khác.
Chúng con không
phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột
chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải
chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu, có nhiều sự dữ do chính chúng con gây
ra.
Chúng con chỉ
kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần
gian.
Lạy Chúa Giêsu
Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở
trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ
2000 năm.
Chúng con sợ
Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ
người Công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi
Chúa chưa hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
6. Chúa Kitô Vua
Tình Yêu – Radio Veritas Asia
(Trích từ 'Những
Bài Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày')
Giáo hội Kitô
giáo luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.
Lễ Chúa Kitô Vua
chỉ mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi. Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố
thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên
Chúa Cha trong vinh quang. "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao
ban cho Ta". Đó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các
Tông Đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng
Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù
hợp hơn cả. Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa
Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?
Năm phụng vụ
tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với
Ngài. Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử. Kết thúc năm phụng
vụ, Giáo Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích
tột cùng là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
Trong viễn cảnh này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình
chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Ngài đã nhập thể làm người trong một
lịch sử dân tộc, cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người,
và kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan
rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất
cả về cùng Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu Kitô
là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà
hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động.
Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như
một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh,
chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết
lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh
của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối
với con người.
Chúa Giêsu Kitô
là vua khi Người bị treo lên thập giá. Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của
quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: "Đây
là Vua dân Do Thái". Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như
muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối
bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua. Ngài trổi vượt lên trên mọi người không
những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành
động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu
rỗi con người.
Truyện cổ tích
Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng. Muốn đi tìm hoàng tử để
truyền ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là
chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao
nhất. Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình
yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em xung quanh, nhưng những
bằng chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua. Cuối cùng, có một chàng thanh
niên đến trình diện với một bộ đồ cũ rách. Chàng thanh niên này được nhận.
Chàng không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính
là người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:
Số là vì nhà vua
đã cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai
của mình. Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới,
và xa tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo
mới của mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua. Tình yêu nằm
trong con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.
***
Quí vị và các
bạn thân mến,
Chúa Giêsu đã
chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá. Ngài đáng làm vua nêu
gương cho chúng ta sống theo Ngài. Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa
Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong
ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
Đọc lại đoạn Tin
Mừng trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và
vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người
đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa. Anh ta đã khám phá ra
tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ
cho những kẻ xúc phạm đến mình. Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như
một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ
ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này. "Lạy Chúa, khi nào về Nước
Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng".
Chúa Giêsu đã
mạc khải vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy
sinh chính mình. Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho
người mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin
nhận Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.
Xưa cũng như
nay, luôn có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của
Chúa Kitô: Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để
trả thù, để thống trị, để hưởng lợi. Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng
thập giá để bêu xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ
Thiên Chúa dùng để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự.
Chúa Giêsu Kitô là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp
nơi tình yêu thương đó.
Lạy Chúa Kitô
Vua, trước sự xấu xa và ngoan cố của con người. Xin cho chúng con được can đảm
bước vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi
qua. Amen.
7. Cùng chiến
thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm
Ignatio Trần Ngà)
Thiên Chúa mong
muốn loài người đi theo đường lối Ngài để họ được hạnh phúc và được sống muôn
đời. Trong khi đó, ma quỷ luôn tìm mọi cách để lôi kéo con người đi trật đường
lối Thiên Chúa, để con người phải sa đoạ, phải đau khổ và diệt vong.
Ngay từ đầu, ma
quỷ tìm cách lôi kéo tổ tiên loài người là Adam - Evà đi trật đường Thiên Chúa.
Hai ông bà đã sa ngã và toàn thể con cái loài người phải mang họa.
Nay ma quỷ tiếp
tục cám dỗ, lôi kéo Đức Giêsu, một Ađam mới, đi trật đường lối của Thiên Chúa
Cha bằng nhiều chiêu thức khác nhau.
Mặc dầu Chúa
Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Ngài đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế"
(Philipphê 2, 7), do đó, "Ngài đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương
diện cũng như ta..." (Do thái 4, 15). Dựa vào đó, Sa-tan không ngừng cám
dỗ Chúa Giêsu đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu
độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
* * *
Lúc khởi đầu sứ
vụ, Chúa Giêsu bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời
sống công khai. Ngài đã anh dũng chống lại và Ngài đã chiến thắng. Ma quỷ đành
rút lui để chờ dịp khác.
Trong đời rao
giảng, Chúa Giêsu từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên
Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, cơn cám dỗ hết sức
khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa
Giêsu bị giằng co giữa hai chọn lựa quyết liệt: uống chén đắng hay khước từ
chén đắng? Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục và vô
cùng đau thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong
nội tâm đã khiến Chúa Giêsu phải toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng Đức Giêsu đã
chiến thắng: "xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha". (Lc 22, 42)
Nhưng Sa-tan vẫn
chưa chịu lùi bước, lại còn đeo đẳng cám dỗ Chúa Giêsu đến giờ phút cuối cùng.
Người ta gọi đây là những cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu, được thánh Luca
thuật lại trong Tin Mừng hôm nay.
Trước hết, các
thủ lãnh cám dỗ: "hãy xuống khỏi thập giá đi!". Lý do mà các thủ lãnh
đưa ra là: "cứu được người khác, tại sao không tự cứu mình?". Nghe thật
chí lý!
Quân lính cũng
đưa ra cám dỗ tương tự: "hãy xuống khỏi thập giá". Lý do mà quân lính
đưa ra: "Ông là vua dân Do-Thái", tương lai đầy hứa hẹn, lẽ nào lại
chọn cho mình cái chết oan ức và ô nhục thế nầy, hãy tự cứu mình đi!
Ngay cả tên tử
tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu cũng cám dỗ Ngài với lý do: "Ông
không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Phải rồi, mình
đã cứu được bao nhiêu người khác, lẽ nào lại không tự cứu mình? Mình là Vua dân
Do-Thái, lẽ nào ông vua mà lại thảm hại thế nầy ư? Mình là Đấng Kitô được Thiên
Chúa sai đến, lẽ nào Đấng Kitô lại kết thúc cuộc đời cách bi thảm thế nầy sao?
Nhưng Chúa Giêsu
đã không chịu lùi bước trước các cơn cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến đấu oanh liệt
và đã đi đến chiến thắng cuối cùng. Nhờ đó, Ngài mới được tôn vinh là Vua hoàn
vũ, đã sửa lại sự sai trật của tổ tông, mang lại ơn cứu độ cho muôn người.
* * *
Hôm nay chúng ta
cũng đang lâm chiến chống lại Sa-tan và tội lỗi như Chúa Giêsu ngày xưa. Vốn
mang tính xác thịt nặng nề, tự sức mình chúng ta không thể nào chống lại mưu
chước Satan. Phải cậy nhờ Chúa Giêsu thôi. Ngài là người bạn đồng minh đã không
bao giờ thua cuộc và hôm nay vẫn đang sống bên ta và đang cùng ta chiến đấu.
Vì thế, mỗi lần
bị cám dỗ, chúng ta hãy nhớ đến người bạn đồng minh và thưa với Ngài: Lạy Chúa
Giêsu, xin chiến đấu cùng con và giúp con chiến thắng. Nhờ Ngài, chúng ta sẽ
thắng được các cám dỗ và sẽ được thông phần vinh hiển với Ngài trên quê Trời
mai sau.
8. Vua tình yêu
– Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Tình yêu là mức
đo giá trị mọi thực tại. Chiếm được trái tim là chiếm được tất cả! Đó là trung
tâm qui tụ toàn thể tiểu vũ trụ. Từ tiểu vũ trụ sang đại vũ trụ, Đức Giêsu vẫn
là vua, vì Người đã đã chiếm trọn con tim nhân loại. Khi nằm trên thập giá, Đức
Giêsu thấy tất cả những giới hạn vô cùng hẹp hòi của người đời. Tất cả binh
lính đều một giọng như nhau: "Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình
đi!" (Lc 23,37) Các thủ lãnh có vẻ thâm độc hơn: "Hắn đã cứu người
khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người
được tuyển chọn!" (Lc 23,35) Nhưng Đức Kitô vẫn im lặng. Tuy cười nhạo
Chúa, bọn lý hình đã thâm gan tím ruột khi đọc bản án tổng trấn Philatô truyền
viết phía trên đầu tử tội: "Đây là vua người Do thái." (Lc 23,38)
Không cưỡng nổi lệnh truyền đó, nên họ đã tìm cách trả thù. Bao nhiêu căm tức
đã đổ dồn lên con người Đức Giêsu.
Nhưng chẳng có
đau khổ nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình
nhục mạ Chúa: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứ mình đi, và cứu
cả chúng tối với!" (Lc 23,39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu
vẫn im lặng. Dân chúng khi thì a dua (Lc 23,17-25), lúc lại bàng quang:
"Dân chúng thì đứng nhìn." (Lc 23,35) Thái độ bất động của dân chúng
rất phức tạp. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng như bọn binh lính hay người
gian phi thiếu hiểu biết. Thật vậy, "dân chúng theo Người đông lắm."
(Lc 23,26) Ngay trong hàng ngũ quân đội cũng có "viên đại đội trưởng cất
tiếng tôn vinh Thiên Chúa: 'Người này quả thật là công chính.'" (Lc 23,47)
Nếu Người là công chính, tất nhiên bản án tử hình là một bất công lớn lao giáng
xuống người vô tội. Như thế, Đức Giêsu đã chiếm trọn được lòng người, kể cả
những tên lý hình và người gian phi. Một trong hai người gian phi đã thành tâm
thưa với Chúa: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến
tôi!" (Lc 23,41) Giữa lúc cùng khốn đó, trí óc ông vẫn minh mẫn biện hộ
cho Chúa, đối lại với đồng bọn: "Ông này đâu có làm điều gì trái!"
(Lc 23,42) Nghĩa là, chính những người đã từng chống cưỡng lệnh Thiên Chúa, giờ
đây cũng phải tuyên xưng Người là Đấng Công Chính. Chính vì thế, Đức Giêsu đã
mạc khải cho ông tất cả sự thật về Nước Chúa: "Tôi bảo thật anh: hôm nay
anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." (Lc 23,43) Tin Mừng luôn mang tính
"hôm nay" ngay cả khi gặp cảnh cùng khốn nhất. Khác hẳn với những kẻ
lợi dụng tương lai để biện hộ cho những ý đồ thống trị hiện tại, Đức Giêsu luôn
tìm thấy nét hiện thực trong Tin Mừng. Người không muốn trốn thoát hiện tại, dù
hiện tại đau thương nhất, để ẩn mình trong cái vỏ tương lai.
Chính vì thế,
Tin Mừng luôn mang tính hiện sinh, loan báo cho người hôm nay về một Vua Công
Chính, Vua Hòa Bình. Mọi đối kháng đều bị hóa giải trong chính trái tim Người.
Nói khác, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những tên lý hình (x. Lc 23,34) và
người gian phi, như Người đã từng tha thứ cho Maria Mađalêna, phụ nữ
Samaritana, Phêrô v.v. "Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã
đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời." (Cl 1,20) Là
con dân trong Nước Chúa, Kitô hữu không thể không nhớ tới sứ mệnh hòa bình, hòa
giải của mình trong gia đình cũng như xã hội. Sứ mệnh đó chúng ta đã đón nhận
từ ngày tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô trong bí tích thánh tẩy. Quả thực,
"Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh." (Cl
1,18) Trở thành chi thể Đức Kitô, chúng ta chia sẻ cùng sứ mệnh với Người. Chỉ
khi nào thi hành sứ mệnh cao cả đó, chúng ta mới được vinh phúc trở thành con
Thiên Chúa (x. Mt 5,9)
Chính khi thi
hành sứ mệnh đó, chúng ta chia sẻ vương quyền Đức Giêsu. Trong bí tích thánh
tẩy, chúng ta đã được chia sẻ quyền làm vua với Chúa. Sứ mệnh vương giả đó chỉ
được thể hiện trong phục vụ. Phục vụ là đối thoại, lắng nghe, tôn trọng mọi
người. Phục vụ là sẵn sàng coi người khác hơn mình. Người phục vụ không có gì
để tự hào. Trái lại, họ biết mình phục vụ ai và tại sao phải phục vụ. Phục vụ
cho một đối tượng duy nhất là Đức Kitô, hiện thân nơi nhiệm thể là Giáo hội,
tức là dân Chúa. Họ noi gương Đức Giêsu, Đấng đã "sống giữa anh em như một
người phục vụ." (Lc 22,27) Thầy phục vụ cho đến chết. Con đường phục vụ là
con đường ngắn nhất dẫn đến vinh quang Nước Chúa. Mỗi khi phục vụ, họ thấy mình
trở nên giống Chúa Kitô và thể hiện được tất cả nét dịu hiền và đầy lòng thương
xót của Chúa. Phải có một tấm lòng bao dung như Chúa mới có thể phục vụ một
cách vô tư mọi người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đây là nét
đặc trưng cao đẹp nhất của Nước Chúa dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô. Có lẽ
nhiều người sẽ đồng ý với những người Hồi giáo Algerie rằng: "Giáo hội
Công giáo rất nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người Algeria và mọi nơi, bất kể
họ có tin vào Đức Kitô hay không." (VietCatholic 23/11/2001) Tính cách vô
tư đó đã hấp dẫn mọi người tìm đến với Đức Kitô Vua Tình Yêu. Nhờ Người, Thiên
Chúa "đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc
Thánh Tử chí ái." (Cl 1,13)
Chính Người đang
thúc đẩy "triều đại Cha mau đến." (Mt 6,10) Hằng ngày chúng ta vẫn
đọc lời kinh cao đẹp ấy. Nhưng hỏi mấy ai hiểu được ý nghĩa sâu xa trong lời
kinh đó? Thú thật cho đến gần đây, mỗi khi đọc lời kinh đó, cá nhân kẻ viết bài
này rất run sợ vì vẫn nghĩ rằng Nước Cha trị đến có nghĩa là Chúa sắp tái lâm
để phán xét. Nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy "Nước Thiên Chúa là sự công
chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần." (Rm 14,17) Như thế, càng lâm
cảnh khổ đau, cô đơn, bị đàn áp bất công, càng cần phải xin cho "triều đại
Cha mau đến." Nghĩa là, Đức Giêsu luôn dạy chúng ta phải cầu xin Chúa Cha
ban hòa bình và no ấm cho nhân loại. Lời cầu xin đó chỉ có thể thành hiện thực
trong Đức Giêsu Vua Tình yêu mà thôi! Lý do "vì Thiên Chúa đã muốn làm cho
tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho
muôn vật được hòa giải với mình." (Cl 1,19-20)
9. Chúa Giêsu
Kitô, Vua Vũ Trụ – Lm Trần Đình Nhi
Để diễn tả quyền
bính cai trị của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ
khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Mátthêu
(25:31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin
Mừng Gio-an (18:33-37) cho ta một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu
là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng
yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào
Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23:35-43) trình bày Vua Giêsu
hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối
vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Thánh danh
Giêsu nghĩa là "Thiên Chúa cứu" đã nói lên uy quyền cứu độ của Thiên
Chúa dành cho muôn dân qua sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu và tác động của Chúa
Thánh Thần trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha.
a) Những kẻ phủ
nhận vương quyền của Chúa Giêsu
Vua Giêsu bị
đóng đinh và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
được thể hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế
qua cái chết đang đến gần Chúa Giêsu thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên
Chúa sắp sửa toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể
nhân loại.
Trong giờ phút
trọng đại ấy, thánh Luca cho ta một hình ảnh tương phản giữa những kẻ phủ nhận
vương quyền của Chúa và những kẻ tôn vinh Người. Một phía là các nhà lãnh đạo
tôn giáo Israel, đám lính tráng và một tên gian phi bị đóng đinh cùng nhau nhục
mạ Người. Một phía là đám dân chúng kính cẩn đứng nhìn và tên gian phi hối cải
đã can đảm bênh vực, tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội và cầu xin Người cứu độ mình.
Những kẻ phủ
nhận vương quyền của Chúa Giêsu đã nhìn vương quyền ấy theo nhãn quan riêng của
họ. Đối với đám lính tráng, vương quyền chỉ có nghĩa đơn giản là quyền hành của
một ông vua trần gian, thí dụ như hoàng đế Rôma hoặc vua Hê-rốt chẳng hạn. Do
đó họ không thể chấp nhận một người đã bị họ đóng đinh vào thập giá lại có thể xưng
mình là "vua dân Do-thái" được. Nếu quả thực Chúa Giêsu là một tên
tội phạm, thì chính dân Do-thái cũng chẳng muốn chấp nhận một người như vậy là
vua của họ. Tên gian phi nhục mạ Chúa thì chỉ nhìn vương quyền của Chúa dựa
trên nhu cầu riêng tư của hắn. Vì Chúa Giêsu không thể tự cứu mình và cứu được
hắn, nên Chúa Giêsu cũng chẳng hơn gì hắn. Nhưng đối với những nhà lãnh đạo tôn
giáo Do-thái, cái nhìn của họ về vương quyền của Chúa Giêsu phức tạp hơn. Khi
đặt câu hỏi giả dụ Chúa Giêsu là "Đấng Kitô", chắc chắn họ đã hiểu rõ
ý nghĩa của tước hiệu Kitô ấy. Là những người học biết và tin vào Kinh Thánh,
họ hiểu Đấng Kitô là ai theo sấm ngôn của I-sai-a nói về Người Tôi Trung được
Thiên Chúa tuyển chọn: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các
chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá
ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của
Ta đến tận cùng cõi đất" (Is 49:6). Nhưng đối với họ, Chúa Giêsu chỉ là
một anh thợ mộc đến từ Na-da-rét miền Ga-li-lê. Những người ở Giê-ru-sa-lem đặt
câu hỏi Chúa Giêsu có đích thực là Đấng Kitô không và họ tự trả lời: "Ông
ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì
chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả" (Ga 7:27). Tóm lại, họ không muốn
nhìn nhận sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu, mặc dù Chúa Cha đã đích thân giới
thiệu: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn" (Lc 9:35), hoặc
chính Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: "Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng
đã sai tôi đến là Đấng chân thật. Các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết
Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi" (Ga
7:28-29).
Có lẽ mỗi cách
phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu qua những hạng người ấy đều nói lên một
cách nào đó của những con người hôm nay không muốn nhìn nhận quyền năng cứu độ
của Chúa Giêsu. Những tham vọng, tự cao tự đại và lợi nhuận vật chất đã trở
thành những trở ngại, che lấp con mắt đức tin của ta để ta không nhận ra được
con người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giêsu nữa.
b) Nhìn nhận
Chúa Giêsu là Vua cứu độ
Trái ngược với
những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu là đám dân chúng "đứng
nhìn" và nhất là người gian phi thống hối. Những kẻ phủ nhận thì ồn ào
buông lời chế giễu Người. Còn những người nhận biết Chúa Giêsu thì giữ thái độ
im lặng kính cẩn hoặc tha thiết cầu xin Người. Bởi đâu họ nhận biết Người? Hẳn
phải là do cung cách của Chúa Giêsu ngay trong những giây phút trầm trọng cuối
đời. Chính trên thập giá, Người đã biểu lộ tột đỉnh của tình yêu, và tình yêu đã
nói lên cung cách của người "thí mạng sống mình vì bạn hữu" và sẵn
sàng tha thứ tất cả. Tình yêu đã biến đổi lòng đám dân chúng. Họ không theo
thói a dua của người đời mà khinh bỉ người tử tội Giêsu, giống như nhóm lãnh
đạo tôn giáo, tên gian phi không hối cải và đám lính tráng đã làm. Nhưng họ
đang "đứng nhìn", một thái độ chiêm ngưỡng để cố gắng nhận ra chiều
kích "dài, rộng, cao, sâu" của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu trên
thập giá cũng biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa
Giêsu. Nó giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở
đời này, như tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giêsu: "Ông không phải là
Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!" Nhưng là sự
sống đời đời. Anh khẩn cầu Chúa: "Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến
tôi!" Tình yêu trên thập giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết
Chúa Giêsu là ai và mình là ai. Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình,
qua lời đối đáp tên gian phi kia: "Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì
xứng với việc đã làm!" Anh còn nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng nào nữa.
Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn là "ông
Giêsu". Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi đích
danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được nghĩa thực của thánh
danh Người. "Giêsu" nghĩa là "Thiên Chúa cứu." Người là Vua
của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Chiêm ngưỡng
tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu, đồng
thời kêu cầu với Người: "Xin nhớ đến con" chắc chắn sẽ là điều mọi
Kitô hữu phải lập đi lập lại trong suốt cuộc sống mình.
c) Suy nghĩ và
cầu nguyện
Có khi nào tôi
thuộc nhóm người phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu không? Nếu có thì điều gì
đã làm cho tôi không muốn nhận Chúa làm vua tâm hồn tôi?
Tôi có chiêm
ngưỡng Chúa Giêsu và tình yêu Thiên Chúa khi cầu nguyện trước tượng Chúa chịu
chết trên thánh giá bao giờ không? Tôi thử tập thói quen cầu nguyện như vậy,
bằng cách quỳ trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá và ngước nhìn lên Chúa,
để cố gắng cảm nghiệm Chúa đã yêu thương tôi đến mức nào.
Những khi gặp
đau khổ hay bất công, tôi có dùng dịp ấy để biểu lộ tình yêu đối với người khác
không? Tôi có làm chứng cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không?
Cầu nguyện:
"Lạy Cha,
xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra
Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi
khổ đau của đời con,
và ơn bước theo
Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý
Cha định liệu.
Xin đừng để con
trở nên chua chát
nhưng được
trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên
nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khao
khát nóng bỏng
có ngày sẽ được
ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ
lau khô mọi giọt lệ
của những người
đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình
yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng
của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì
khổ đau của con
nói lên lòng tin
của con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con
vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà
con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho
con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ
vì Cha, chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá
trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho
đêm tăm tối,
nhờ đó con không
còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một
dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi."
- Cha Karl
Rahner
(Trích RABBOUNI,
lời nguyện 63)
10. Đức Giêsu
Kitô, Vua vũ trụ
(Suy niệm của Lm
Giuse Nguyễn Thể Hiện)
"Lạy Đức
Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!"
Bài tin mừng hôm
nay (Lc 23,35-43) trích trong trình thuật thương khó theo Thánh Luca, kể lại
những giây phút cuối cùng trước khi Đức Giêsu chết trên thập giá. Nhưng chính
trong khung cảnh bi thương đó, dung mạo và tư cách quân vương của Ngài đã được
mạc khải một cách rõ nét.
1. "Nếu hắn
là Vua Kitô" (cc.35-39)
Mở đầu bài tin
mừng là ba cảnh nhạo báng Đức Giêsu, do các thủ lãnh của dân, do lính tráng và
do một tên gian phi cùng chịu đóng đinh vời Đức Giêsu, thực hiện. Dân (laos)
thì đứng nhìn, trong một thái độ chăm chú mang tính tôn giáo (chứ không chỉ là
tò mò).
Trước tiên là sự
cười nhạo của các vị thủ lãnh. "Các thủ lãnh buông lời cười nhạo:
"Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô
của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!"" (c. 35). Lời của các
vị thủ lãnh ở đây có hai giá trị. Trước hết, do chỗ Đức Giêsu được trình bày
như một người có tài làm phép lạ ("cứu được người khác"), nên lời
thách thức "cứu lấy mình đi" trong thực tế là một lời nhạo báng tương
tự như trong 4,23 "thầy lang ơi hãy chữa lấy mình". Thứ hai, đặt
trong sự nghi ngờ về tư cách Mêsia của Đức Giêsu, lời yêu cầu "hãy cứu lấy
mình đi" đồng nghĩa với lời yêu cầu một dấu lạ chứng thực tư cách Mêsia.
Sau lời nhạo
báng của các thủ lãnh là sự chế giễu của bọn lính tráng. Đây chắc chắn phải là
những người lính Rôma (x. 23,47). "Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống
và nói: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!" (cc.36-37).
Lời chế giễu của bọn lính Rôma cũng tương tự như lời chế giễu của mấy ông lãnh
đạo Do Thái, nhưng tập trung trên khía cạnh chính trị, và như thế, làm nên đợt sóng
thứ hai trong cuộc cười nhạo Đức Giêsu bị đóng đinh. Tiếp nối ngay vào lời chế
giễu này, tấm bảng ghi bản án đặt phía trên đầu Đức Giêsu cũng là một thành
phần của lời chế giễu về phương diện "chính trị": "Phía trên đầu
Người, cũng có bản án viết: "Đây là vua dân Do Thái" (c.38).
Lời nhạo báng
thứ ba tiếp ngay sau đó, là của một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh
với Đức Giêsu. (Chúng ta không có cơ sở nào để khẳng định chắc chắn anh này là
một người Do Thái hay một người dân ngoại). "Một trong hai tên gian phi bị
treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao?
Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!" (c.39). Lần thứ ba xuất hiện
ngữ đoạn "hãy tự cứu mình đi", sau đó là một yếu tố được thêm vào cho
phù hợp với hoàn cảnh của tên gian phi: "và cứu cả chúng tôi nữa".
Nhưng chính Đức Giêsu, trong thực tế, lại chỉ chờ đợi ơn cứu độ đến từ Thiên
Chúa, đúng theo lôgích của lời Ngài đã nói trong 9,24: "Ai đành mất mạng
sống mình... thì sẽ cứu được mạng sống ấy".
Nội dung sự cười
nhạo của ba hạng người trong bài tin mừng hôm nay đối với Chúa Giêsu, cho chúng
ta hiểu thế nào là niềm mong chờ phàm trần mà người ta đặt nơi vương quyền của
Đức Giêsu.
Là Vua Mêsia,
Đức Giêsu sẽ đem đến cho con người ơn giải thoát của Thiên Chúa? Câu hỏi trở nên
vô cùng gay cấn khi người ta phải đối diện với Đức Giêsu đang quằn quại đau đớn
trong những giờ phút cuối cùng trước khi chết thê thảm trên thập giá. Kẻ không
thể cứu nổi chính mình khỏi thảm cảnh thập giá, sẽ có thể cứu cả nhân loại này
không? Vua Mêsia đấy ư? Đặt vào trong một nhãn quan mang tính chính trị, câu
hỏi xem ra càng thêm gay cấn. Những kẻ đặt hy vọng vào Ngài sẽ không phải tuyệt
vọng và buồn tủi hay sao, khi đối diện với tình cảnh của Ngài trên thập giá?
Mỗi năm chúng ta
đều mừng lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ. Nhiều lần chúng ta tuyên xưng vương quyền của
Ngài. Chúng ta vẫn trông chờ Ngài sẽ tỏ vương quyền của Ngài trong gia đình,
trong nhóm, trong cộng đoàn và trong xã hội mà chúng ta đang sống, nhưng hình
như Ngài có vẻ yếu thế (vì Ngài vẫn là Đấng chịu đóng đinh). Thực ra, chúng ta
chờ đợi gì nơi Ngài? Một vị vua sẽ phô trương quyền lực trong các lãnh vực tôn
giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội? Nếu Ngài không phô trương quyền lực
trong các lãnh vực đó cho chúng ta hưởng thụ và vinh vang, chúng ta sẽ nhìn lên
Ngài với cặp mắt nào? Có lẽ sẽ không phải là nhạo báng, nhưng chắc sẽ là oán
trách và than thở...
Hóa ra Đức Giêsu
vẫn có thể đang bị nhạo cười theo một nghĩa nào đó bởi chính chúng ta, những đồ
đệ của Ngài.
2. "Hôm
nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (cc.40-43)
Đối nghịch với
ba lời nhạo báng và nhục mạ ở phần thứ nhất của bài tin mừng là một cảnh tượng
hết sức ý nghĩa, bắt đầu bằng một phản ứng của người còn lại trong hai kẻ cùng
chịu đóng đinh với Đức Giêsu đối với thái độ nhục mạ vừa diễn ra: "Nhưng
tên kia mắng nó rằng: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên
Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng
với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái" (cc.40-41). Người
trộm lành thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản
án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
"Rồi anh ta
thưa với Đức Giêsu: "Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ
đến tôi!" (c.42). Người trộm lành trực tiếp thưa chuyện với Đức Giêsu sau
khi đã phê bình tên gian phi đồng bọn. Anh gọi: "Giêsu!". Đây là lần
duy nhất trong Tân Ước Đức Giêsu được gọi tên riêng một cách gần gũi như thế
này. Trong một số trường hợp (không nhiều), Đức Giêsu được gọi bằng tên riêng nhưng
luôn luôn kèm theo một sự xác định như: "Lạy Thầy Giêsu..." hay
"Giêsu Nadaret"... Người trộm lành đã sám hối bây giờ không hướng về
Thiên Chúa, mà hướng về Đức Giêsu và công nhận tư cách và vai trò Mêsia của
Ngài. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của
những Kitô hữu gốc Do Thái. Đức Giêsu, đối với anh trộm lành, là Đấng Mêsia
Phục Sinh mà anh có thể có tương quan thiết thân với Ngài. Trong lời cầu nguyện
này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu.
"Và Người
nói với anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên
Đàng" (c.43). Trong lời xin của mình, người trộm lành mong ước một ơn cứu
độ tương lai sẽ được thực hiện vào lúc cùng tận, khi vương quốc Mêsia được thực
hiện theo cách hiểu của niềm mong đợi Israel. Nhưng Đức Giêsu lại bảo đảm cho
anh một ơn cứu độ của "hôm nay" với một lời hứa long trọng. Ngài hứa
ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm
nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc
trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.
Đức Giêsu chịu
đóng đinh đã cho thấy Ngài không phải là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta
những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài
khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát
chúng ta khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của ngài không liên quan trước
hết đến những thực tại trần gian, mà là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa.
Ngài hứa với người trộm lành một sự hiệp thông trọn vẹn trong sự sống viên mãn
trên Thiên Đàng. Ngài phá bỏ những rào cản không cho con người hiệp thông trọn
vẹn với Thiên Chúa trong hạnh phúc miên viễn, cho dù con người ở đây là tên
gian phi đang bị kết án tử hình.
Lời tuyên bố
long trọng của Đức Giêsu dành cho người trộm lành cho thấy một nội dung quan
trọng của lòng tin Kitô giáo. Tương lai của nhân loại, cá nhân cũng như tập
thể, là chính Đức Kitô. Thiên Đàng được trình bày ở đây không phải trong nhãn
quan khải huyền, mà là trong những hạn từ diễn tả sự ở với Đức Kitô. Đàng khác,
ơn cứu độ là thực tại của "hôm nay" và của cá nhân, chứ không phải
chỉ là thực tại của tương lai và mang tính tập thể. Đức Kitô thực hiện vương
quyền của Người ngay hôm nay và cho từng người cũng như cho mọi người.
Trong viễn tượng
của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức
Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu.
Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan
trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà
xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương
quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu
trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách
thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng
Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng
người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì
Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả
với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong
đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở,
nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự
sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực. Ngài không làm những hành động chính
trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục. Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu
việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương
quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải
đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua.
11. Lễ Chúa
Giêsu Kitô Vua.
(Bài giảng của
ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Cách đây hai
ngàn năm, một tội nhân bị đưa ra trước công đường của một vị quan tổng trấn.
Hai người gặp nhau lần đầu, mặc dù đã nghe nói về nhau. Philatô, người tượng
trưng cho quyền lực trần thế, Đức Giêsu, người đại diện cho quyền lực trên cao.
Cuộc gặp gỡ này vừa là một vụ án, vừa là một vở kịch. Người sát hạch cũng là
người bị hỏi, bên bị cáo cũng là người thẩm vấn. Quả thật là một sự đổi vai
giữa hai nhân vật này.
"Ông có
phải là vua dân Do Thái không?". Một câu hỏi kỳ lạ, thậm chí vô duyên. Có
lẽ nào người hiện diện trước mặt ông là một vị vua mà lại không được ông, một
vị tổng trấn uy quyền, biết đến? Điều đó cho thấy Đức Giêsu không phải là một
vị vua theo quan niệm thế gian. Vương quốc của Người không phải ở thế gian này.
Hai ngàn năm đã
qua sau vụ án, hôm nay vẫn có những người đang đặt câu hỏi mang tính thách thức
như Philatô về vương quốc của Chúa. Vẫn có biết bao người đang kiếm tìm vương
quốc ấy, và cũng có vô số tín hữu sẵn sàng đổ máu đào vì vương quốc kỳ diệu này.
"Vậy ông là
vua sao?" Lại một lần nữa, Philatô buông một câu hỏi vô nghĩa. Trước câu
hỏi này, Đức Giêsu cũng không đưa ra một câu trả lời trực tiếp. Người nói:
"Chính ngài nói rằng tôi là vua". Tiếp đó, Người minh định rõ ràng
chức năng vương hoàng của Người, đó là chức năng làm chứng cho sự thật. Vậy là
đã rõ, vương quốc của Chúa là vương quốc của sự thật, mà sự thật thì không bị
xiềng xích. Sự thật cũng như trái tim, không bị chi phối bởi sắc tộc, ngôn ngữ
hay thế mạnh quân sự. Sự thật đã và đang đem lại chiến thắng cho con người.
"Nước tôi
không thuộc chốn này". Đức Giêsu nhấn mạnh hai lần điều này. Người không
muốn để cho Philatô hiểu về chức vương hoàng của Người theo kiểu thế gian.
Không chỉ Philatô, mà suốt bề dầy của lịch sử, những ai muốn quan niệm hoặc
trình bày tước vị "Vua" của Đức Giêsu theo kiểu trần thế đều bị thất
bại. Đã có thời trong, khá nhiều người, kể cả một số vị lãnh đạo, mang quan
niệm sai lầm về sức mạnh của Giáo Hội, khi họ cho rằng Giáo Hội mạnh mẽ nhờ thế
lực trần gian hoặc do sức mạnh của đồng tiền. Quan điểm ấy đã chuốc lấy những
bài học chua cay. Đức Giêsu tuyên bố chức năng vương hoàng của Người vào lúc
Người bị điệu ra trước pháp đình. Qua đó, người muốn khẳng định rõ: Người làm
vua để phục vụ và trao gửi yêu thương. Sau bao thế kỷ, Giáo Hội cũng đã ngộ ra
rằng sức mạnh của Giáo Hội không đến từ quyền lực trần thế, mà là đến từ Đấng
chịu đóng đinh. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi, mặc dù phải đối diện với biết bao
khó khăn do thù nghịch đến từ phía người Do Thái và nhà cầm quyền La-mã, nhưng
vẫn tăng trưởng, vì họ tìm được sức mạnh nơi Đấng đã chịu đóng đinh trên thập
giá, đã chịu chết và đã Phục Sinh.
Khi mừng lễ Chúa
Kitô Vua Vũ Trụ, Phụng vụ muốn nhắc cho chúng ta về khái niệm "vương
quyền" của Đức Giêsu. Vương quốc của Người đã được khởi đầu ở trần gian
này rồi, như lời rao giảng của Chúa khi khởi sự công cuộc loan báo Tin Mừng:
"Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và
tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Tuy thế, vương quốc của Chúa vẫn chưa được
thực hiện, mà đang trong thời kỳ đạt tới thành toàn, vào thời điểm Chúa muốn.
Sự thành toàn của vương quốc Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong tương lai, lúc
ấy, Con Người sẽ từ mây trời ngự đến, thống trị vinh quang mãi mãi (Bài đọc I).
Năm phụng vụ
chấm dứt với chúa nhật hôm nay. Chúng ta cũng được mời gọi suy nghĩ về ý nghĩa
cuộc đời. Là con dân của Nước Chúa, người tín hữu phải nỗ lực thực thi tình bác
ái và xây đắp an bình, vì Nước Chúa là nước của bình an, nhân ái, chan hòa tình
Chúa tình người. Khi cố gắng thực thi lời Chúa dạy là chúng ta làm cho vương
quốc của Chúa mau trị đến.
Tuyên xưng Chúa
là Vua, chúng ta cũng muốn thuộc trọn về Người. Đây cũng là dịp để chúng ta
nghĩ về lòng trung thành của chúng ta với Chúa. Tấm "hộ chiếu" của
vương quốc vĩnh cửu chính là đức tin vững vàng, đức cậy trung tín và đức mến
thiết tha. Chúa sẽ nhận ra chúng ta, qua việc thiện chí sống và thực thi những
nhân đức này.
Suy Niệm:
Đức Giêsu Kitô
là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong Ngài muôn loài được tạo thành. Nhờ Ngài vạn vật
được cứu độ. Vì thế Ngài là chủ tể là vua vũ trụ. Nước của Ngài không hạn hẹp
một quốc gia nào, một dân tộc nào. Nhưng bao trùm toàn thể chúng sinh. Vinh
quang uy quyền của ngai báu Ngài không tỏ hiện bằng vũ lực, bằng cao sang thế
trần, nhưng êm đềm trong yêu thương, trong tình thân ái để đem hạnh phúc đích
thực cho mọi tâm hồn.
Cầu Nguyện:
Lạy Thiên Chúa
toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cải tạo mọi sự trong Con yêu dấu Chúa, là vua
vũ trụ: Xin đoái thương cho mọi loài thọ tạo đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ,
biết phụng thờ uy linh Chúa, và biết luôn luôn ngợi khen Chúa. Chúng con Cầu
xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
12. Chúa Giêsu,
Vua Yêu thương
(Suy niệm của Lm
Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Sau khi Chiến
tranh Thế giới thứ Nhất chấm dứt, cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát.
Balan cũng không tránh khỏi thảm hoạ. Đất nước bị quân Đức và Nga thay nhau cày
xéo. Bao thanh niên ngã gục trên chiến trường. Nhiều làng mạc, thành phố bị bom
đạn thiêu rụi.
Trước tình hình
đó, Toà thánh muốn tìm một giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò đặc sứ
tại quốc gia này. Linh mục Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển chọn.
Ngay sau đó, cha Ambrose lên đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng
nề.
Thế nhưng công
việc của cha Ambrose tại Balan đã tiến triển tốt đẹp. Toà thánh nhận ra điều
đó. Rồi chẳng bao lâu sau, ngài được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng y coi
sóc tổng giáo phận Milan. Đến năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời, Hồng
y Ambrose Ratti được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.
Năm 1925, Đức
Thánh Cha Piô đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh
truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng
Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày
lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó
chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình
An.
Về sau, khi có
cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu
lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm
phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu
kỳ mới.
Một linh mục đã
nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều
ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một
đức vua.
Nhớ lại ngày Đức
Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật:
vàng, nhũ hương, và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế
nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong
những giờ phút cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn
như một vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi
quân Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ
phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái
bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ "Đây là Vua Dân Do
thái". Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực
sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế (x. Thomas
Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình
của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi
Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu.
Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế
diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh
hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ
giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những
ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu
như: "Nếu là Đức Kitô", "Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển
chọn", "Nếu là Vua Do thái". Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những
lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia.
Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là "Đức Giêsu ngước mắt lên
trời", và những gì anh nghe được lại là "Lạy Cha xin tha cho chúng vì
chúng không biết việc chúng làm".
Chính việc
"thấy" và "nghe" kia đã hình thành trong anh một cảm xúc
kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình
bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác
gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng
hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó
vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên
tiếng bênh vực cho Ngài: "Ông này đâu có làm gì sai trái"(Lc 23: 41).
Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin:
"Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài"(Lc
23: 42).
Làm sao trong
cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh "trộm
lành" lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng
xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã
giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một
quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học
trả lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót
thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.
Mà tình yêu sẽ
tồn tại muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân
xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng
lòng tha thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường
độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: "Xin Ngài nhớ đến tôi".
"Ngày hôm
nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta"(Lc 23: 43). Không lời nào
yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly.
Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu
nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì
yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là
tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi "ở làm một với nhau" thì tình
yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là "nên
một" và "ở cùng".
Trên thánh giá,
Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa
tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình yêu.
Suy tôn Chúa
Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài "nhớ" đến mình trên mọi hành
trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hoà
bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
13. Đấng Kitô
của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm
Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 23:35-43 là
màn chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút
hơi thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị đóng đinh giữa hai phạm
nhân. Áo xống của Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất nhiều
nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai phạm nhân với hai thái độ
khác nhau và Chúa Giêsu. Có thể chia đoạn nầy làm hai: - Nhóm dân chúng, thủ
lãnh và quân lính (23:35-38); - Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung
tâm của cảnh chế giễu nầy.
Luca đã dùng
phân từ "kai", "và" để lên kết các nhóm người lại "và
dân chúng (c. 35) - và các thủ lãnh" - "và quân lính" - "và
tấm bảng". Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một thái độ chế giễu Chúa
Giêsu. Điểm chung là họ dùng câu điều kiện "nếu", trong đó họ có lời
thách thức giống nhau "Hãy tự cứu mình" (cc. 35.37.39), và họ gọi
Chúa Giêsu bằng những tước hiệu tương tự nhau "Đấng Kitô" (c. 35),
"Vua dân Do thái" (c. 37); "Đấng Kitô" (c. 39). Câu trả lời
cho những thách thức và chế giễu nầy nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân thứ
hai (c. 42), và trong lời hứa thiên đàng cho phạm nhân nầy (c. 43).
Dân chúng (c.
35)
Luca chỉ ghi
nhận "dân chúng đứng nhìn". Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn cách
bàng quan, mà tham dự vào sự khinh rẻ và chế nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8:
"Ai thấy (theôreô) tôi cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu mỏ buông
lời mỉa mai". Trong 14:29, Luca cho thấy "cái nhìn" (theôreô)
gắn liền với "chế giễu" (empaizô) (14:29). Chính dân chúng đã đứng chung
với các thượng tế và thủ lãnh trước toà Philatô (23;13) và đồng ý kết án tử
Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu (động từ ở thể phân từ hiện
tại) mà không phản đối, chính là đồng loã với những người lên tiếng chế giễu
Người.
Các thủ lãnh (c.
35)
Ở đây Luca chỉ
nói đến "các thủ lãnh", trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả
các thượng tế. Động từ ekmyktçrizô nghĩa là "nhạo báng"; chỉ gặp
trong 16:14; 23:35. Có thể có mối liên hệ giữa đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời
họ nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến khía cạnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách
Con Thiên Chúa được Thiên Chúa sai đến. Cụm từ "Hãy cứu lấy chính
mình" được lập lại 3 lần bởi các thủ lãnh (c. 35), quân lính (c. 37) và
phạm nhân (c. 39). Động từ "sozô" "cứu" dùng rất nhiều
trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý nghĩa rộng hơn sự chữa lành
bệnh. Đó là cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời (x. 7:50; 8:48.50; 17:19; 18:42).
Động từ "sozô" và tước hiệu "Christos", Kitô, liên hệ với
nhau. Sau lời Phêrô tuyên xưng Người là "Đấng Kitô" (9:20), Chúa
Giêsu nói đến sự cứu độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo Người
(9:24). Tước hiệu "Đấng Kitô của Thiên Chúa" đã được Phêrô tuyên xưng
lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu nầy nhấn mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và tương
quan và sự thông hiệp của Người với Thiên Chúa. "Của Thiên Chúa" có
nghĩa là do Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến. Tước hiệu "Kitô" đứng
một mình như trong lời của phạm nhân thứ nhất (c. 39) có thể hiểu là một đấng
thiên sai, một vị vua được xức dầu nào đó. Rồi tước hiệu "Người được tuyển
chọn" cũng nói lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính Thiên Chúa xác
nhận điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố biến hình (9:35).
Nhóm quân lính
(c. 36)
Sau các thủ lãnh
tôn giáo, đến dân ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những người canh giữ
(22:63), Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói đến trong lời
tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn (18:32; 22:62). "Empaizô" "chế
giễu" là khinh rẻ và lấy người khác làm trò chơi cho mình. Những người
canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt Người, đánh Người và bảo Người đoán xem ai đã
làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê muốn Người làm những phép lạ để thoả mãn sự
tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng bên thập giá đưa giấm lên cho Người uống
(23:36). Tước hiệu "Vua dân Do thái" nầy phát xuất từ dân ngoại mà
thôi: Philatô (x. 23:3), tấm bảng treo trên đầu Người (23:38) và lính tráng ở
đây. Lần đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi là vua, basileus, khi Người
vào thành Giêrusalem: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến"
(x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là Christos (x. 23:2).
Cho đến lúc nầy,
cả các thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và chắc chắn Chúa Giêsu là ai.
Người ta thắc mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma
quỉ (4:34; 4:41; 8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của
Người. Người ta thắc mắc về Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây
là cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu chứng tỏ ra Người là ai, bằng
cách làm theo yêu cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu của họ, vì
Người biết họ không tin vào Người ( 22:67), và chính khi chịu đóng đinh, Người
tỏ ra cách tỏ tường nhất Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là
Đấng Thiên Sai, được gởi đến để cứu chuộc con người. Không làm theo điều kiện
họ đặt ra, Chúa Giêsu không phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.
Tấm bảng (cc.
23:38)
"Và"
(xem trên) liên kết tấm bảng nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa Giêsu. Có
sự khác biệt ít nhiều giữa các tin mừng về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu
Chúa Giêsu (x. Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). "Houtos" chỉ Đấng bị
đóng đinh dưới tấm bảng. Cách trình bày đơn sơ "Và có tấm bảng trên đầu
Người" muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng "Người nầy là Vua dân Do
thái" tương phản với người đang bị đóng đinh. Như thế, tấm bảng nối dài
lời nhạo báng của lính tráng.
Phạm nhân thứ
nhất (cc. 23:39)
Luca dùng động
từ blasphçmçô, "nói phạm thượng", để chỉ thái độ của người nầy đối
với Chúa Giêsu. Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói phạm thượng đến
Chúa Thánh Thần (12:10), những người canh giữ và phạm nhân nầy nói phạm thượng
đến Chúa Giêsu (22:65; 23:39). Như thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại
Thiên Chúa. Người nầy nói phạm thượng vì tình cảnh bất lực và vô vọng của mình.
Anh muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô để giải thoát anh khỏi cái
chết gần kề.
Phạm nhân thứ
hai (cc. 40-42)
Người nầy ngỏ
lời trước tiên với người đồng chịu án (23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42).
Trong lời ngỏ với phạm nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ Thiên Chúa, đến
việc nhìn nhận tội và chấp nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh vực Chúa
Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi,
người nầy gián tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là
tiêu biểu của những người không kính sợ Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ
Maria là gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa. Ai kính sợ Thiên Chúa thì được
Người xót thương (1:50). Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa khi ông
dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và
lính tráng. Cái chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ Đấng có thể ném cả thân
xác và linh hồn ông vào hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy, ông sẽ
được Thiên Chúa xót thương và cứu lấy ông.
Nói về Chúa
Giêsu, ông bênh vực Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như
thế (23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông gọi Người bằng tên "Giêsu",
chứ không bằng bất cứ tước hiệu nào. Tên "Giêsu" nầy liên kết với
"Đấng Thánh của Thiên Chúa (4:34), với "Con của Đấng Tối Cao"
(8:28), với "Con vua Đavít" (18:38), với "Thầy" (17:13) và
"Chúa" (Cv 7:59). Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước của Người.
Mimneskomai, "nhớ", bao hàm ý nghĩa cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng
thương xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54). Thiên Chúa nhớ đến
giao ước mà cứu khỏi tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến "Nước", basileia,
của Người. Nước của Chúa Giêsu đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30);
"Nước Thiên Chúa" được nhắc đến tới 31 lần trong Luca. Như thế lời
của phạm nhân thứ hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu trở thành câu trả lời gián tiếp
cho những người nhạo báng trên, và đó cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: -
"Giêsu" là Con Thiên Chúa, nên Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương
xót ông như Thiên Chúa; - "Giêsu" là Đấng Kitô, là Vua nên Người mới
có "Nước của Người"; - Nước của Người là Nước của Thiên Chúa và Người
là Con Thiên Chúa; đồng thời cũng là Con vua Đavít. Vậy Người thật sự là
"Đấng Kitô của Thiên Chúa", và cũng là "Vua dân Do thái".
Chúa Giêsu trả
lời với phạm nhân nầy bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với Người trong thiên
đàng. Đây là thiên đàng của Thiên Chúa (x. Kh 2:7). "Ở trong thiên
đàng" là ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách khác là
"trong tay" của Người (x. 23:46). Phạm nhân thứ hai đã tuyên xưng
Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chối bỏ Người; bởi đó ông
được Người nhận biết và cho hưởng Nước Trời (x. 12:8).
Chúa Giêsu không
chết trong thinh lặng. Người chết sau khi được tuyên xưng cách công khai là
"Đấng Kitô của Thiên Chúa". Như thế cái chết trên thập giá của Người
có tính cách cứu độ và mang ơn giải thoát đến cho mọi người.
14. Mở cửa về
hướng tình thương.
(Suy niệm của
Achille Degeest)
Bài Phúc Âm nêu
rõ ngộ nhận cơ bản ngăn cách kẻ thiển cận với Đức Giêsu. Một bên là những kẻ
luẩn quẩn trong cái nhìn thuần tuý trần tục về sự vật, bên kia là những tâm hồn
được Đức Kitô tác động cho nên mở rộng đến cực độ. Địch thủ của Chúa đứng ở
bình diện những viễn ảnh sơ đẳng mà tước hiệu 'Vua' gợi ra trong trí họ. Trái
lại, Đức Giêsu mở ra cho kẻ tội lỗi những viễn ảnh vô tận về một Vương quốc của
tha thứ và yêu thương. Hai bình diện hoàn toàn khác biệt. Con người bị ràng
buộc nặng nề vào những chân trời hạ giới, cho nên thảm trạng của Đức Kitô (cũng
là thảm trạng Giáo Hội) ở chỗ rất khó đưa con người lên tới tầm cao định mệnh
toàn diện và siêu nhiên của nhân loại. Bản thân Đức Giêsu là một cơ may lịch sử
tặng cho con người để gặp Thiên Chúa. Thế mà trong lịch sử thời Phúc Âm và
trong Giáo Hội ngày nay, chúng ta thấy gì? Một số từ chối Đức Kitô vì mắt họ
vấp phải cái khía cạnh trông thấy được của Đức Kitô làm người, của Giáo Hội gồm
toàn những con người với bản chất rất nhân loại. Những kẻ khác thì thích ứng,
đức tin họ chỗi dậy, và nhờ được tha thứ cho những giây phút yếu đuối, họ tiến
vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta nhận xét thêm. Đứng trước nhân loại, Giáo Hội có
trọng trách phải có bộ mặt giống tôn nhan Đức Kitô khiêm hạ, nghèo khổ, không
vị lợi, quay về cả hai phía Thiên Chúa và con người, cho nên Giáo Hội thu hút
những tâm hồn muốn tiến lên trong đức tin. Chúng ta nhấn thêm vào hai điểm
trọng yếu trong bài Phúc Âm hôm nay.
1) Đức Kitô
không thiết lập một triều đại thế gian có quyền năng kỳ diệu hoặc nhiều phép
thần thông. Con người, nhất là kẻ không tin, rất háo hức muốn được chứng kiến
những cuộc biểu diễn phép thần. Kẻ thù của Chúa đứng bên chân thập giá, tấn
công về điểm tâm lý ấy. Họ nói: Chúa hãy làm cử chỉ phi thường xuống khỏi thập
giá là người ta sẽ tin vào Chúa ngay. Chúa đáp lại bằng sự im lặng. Chúa sống
trên một bình diện quá cao. Ở đây chúng ta có nên đặt ra một câu hỏi có tính
chất thời sự không? Phải chăng một số nào đó, gồm cả Kitô hữu, đòi Đức Kitô
dùng phép thần làm cho thế giới hết đau khổ, bất công, giặc giã, ...? Có những
kẻ dám nói, nếu Đức Kitô có quyền năng của một ông vua thì xin hãy cải thiện xã
hội! Với những kẻ ấy, Đức Giêsu không đáp lời bằng phép lạ, bằng điều phi
thường.
2) Đức Kitô
thiết lập triều đại tha thứ yêu thương. Tha thứ yêu thương là những ân huệ nhận
được từ Trên, như thể muốn biểu hiện luật nội tâm của Trái Tim Thiên Chúa. Kẻ
nào lãnh nhận ân huệ đó cũng phải lấy tha thứ yêu thương làm luật nội tâm cho
mình trong cách đối xử với anh em. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, mỗi
người chúng ta có thể, trong sự thật, nói như kẻ trộm lành: Lạy Chúa, xin nhớ
đến con khi vào Nước Trời. Thốt lên như thế là cầu xin cho định mệnh vĩnh cửu
của chúng ta, nhưng cũng là xin được hưởng ngay bây giờ ơn yêu thương tha thứ
của Chúa. Toàn bộ Phúc Âm khẳng định: Trong cách đối xử với anh em, chúng ta
không được chậm trễ, ngay hôm nay chúng ta phải sống ơn tha thứ, sống tình
thương yêu. Đó là hai thực tại cực kỳ ý nghĩa của vương quốc Đức Kitô.
15. Giêsu –Vua
phục vụ.
(Trích từ 'Niềm
Vui Chia Sẻ')
Vua, một tước vị
đã bị dìm dưới bùn đen do những vua chúa, những hoàng đế độc tài, tham quyền cố
vị, giết cả bạn cả anh em, kể cả cha mẹ như một Nêron bạo vương, dìm mình trong
dâm ô với hàng ngàn cung phi. Tai chúng ta vừa nghe tiếng vua, trí chúng ta
liên tưởng ngay đến cảnh tượng ghê tởm khủng khiếp đó.
Thế nhưng tại
sao chúng ta lại mừng lễ Chúa Giêsu là Vua. Vua Giêsu của chúng ta có như thế
không? Hay là cần phải thay đổi tiếng vua thành chủ tịch, tổng thống, quốc
trưởng cho hợp thời? Nhưng có thay đổi danh xưng, thì bản chất của những kẻ
tham quyền cố vị, háo danh háo sắc chẳng có gì thay đổi. Điều đó đang diễn ra
trước mắt chúng ta, vì "ai lấy thúng úp được voi"? đổi danh xưng làm
gì, đổi bản chất người mới đáng kể.
Bài đọc I cho
thấy dân Do Thái truất phế vua Saolê, một vị vua bất xứng, để chọn Đavit lên
thay thế. Hết vua nầy đến vua khác. Vua nào cũng thế thôi. Suốt đời Chúa Giêsu,
Ngài chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Ngài không hề làm vua của một quốc
gia hày trên một mảnh đất nào. Ngài đã không tỏ vẻ gì là một hoàng đế, là một
ông vua. Ngài còn nhất quyết từ chối và lẫn trốn mỗi khi dân chúng có ý định
tôn Ngài lên làm vua. Cũng có lần người ta gọi Ngài là "Vua Dân Do
Thái", nhưng là để chế nhạo Ngài, như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm
nay.
Lúc đó Chúa
Giêsu đang là một tên tử tội bị kết án đóng đinh thập giá giữa hai tên gian ác.
Từ dưới chân thập giá, giới lạnh đạo cũng như quân lính và dân chúng đều chế
giễu thách thức Ngài. Những lời giảng dạy và những việc Ngài làm để cứu chữa
người khác được đưa ra để nhạo báng Ngài: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì
ông hãy tự cứu mình đi!" Một trong hai tên gian ác bị đóng đinh cùng với
Chúa Giêsu cũng lặp lại lời chế giễu thách thức đó: "Nếu ông là Đức Kitô,
ông hãy tự cứu ông và cứu cả chúng tôi nữa!" Trên đầu thập giá của Chúa
Giêsu, tấm bảng cáo trạng đã ghi rõ: "Giêsu – Nagiaret, Vua dân Do Thái".
Còn Chúa Giêsu thì vẫn im lặng trước những lời chế nhạo và thách thức của họ.
Sự im lặng của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không phải là vua theo kiểu người dân
Do Thái chờ đợi, một vị vua chính trị giải phóng dân tộc, cũng không phải là
vua theo kiểu là người "cướp chính quyền", tranh giành quyền thống
trị của hoàng đế Xêda hay của bất cứ vị lãnh tụ nào trên trần gian nầy. Trước
toà án của Tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Tôi là Vua, nhưng
nước Tôi không thuộc về thế gian nầy".
Lúc nầy, đang khi
người ta chế nhạo vương quyền của Chúa Giêsu, thì tên ác kia – mà người ta gọi
là "tên trộm lành" đã nhận ra vương quyền đích thực của Chúa Giêsu.
Anh nhìn nhận Chúa Giêsu là người vô tội, Ngài thạt là Đức Kitô, là Đấng Thiên
Chúa sai đến cứu độ nhân loại. Anh đã diễn tả lòng tin của anh bằng một lời cầu
xin: "Lạy Ngài, khi nào về Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi". Chúa
Giêsu đã xác nhận vương quyền của Ngài bằng cách nhận lời cầu xin của anh:
"Tôi nói thật với anh, ngay hôm nay, anh sẽ ở với Tôi trên Nước
Trời".
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu là
Vua. Vua là người dựng nước, Vua là người cứu nước, Vua là người của dân tộc.
Thánh Phaolô đã triển khai ba điểm nầy trong Bài đọc II hôm nay. Chúa Giêsu là
Vua, vì Ngài là Con Một của Thiên Chúa Cha. Vương quốc là của Con, là Trưởng Tử
của mọi tạo vật, vì Ngài hiện hữu trước mọi tạo thành, mọi sự được dựng nên
"nhờ Ngài và trong Ngài". Như vậy Chúa Giêsu Kitô là đầu toàn thể vụ
trụ: vật hữu hình và vô hình, trái đất chúng ta và không gian liên hành tinh,
cả những tinh vân cực xa. Sau cùng, Hội Thánh là Thân Thể của Ngài và thế giới
người chết cũng là nơi Ngài cai trị như là Trưởng Tử, là người đầu tiên sống
lại từ cõi chết. Lịch sử sẽ hoàn tất nơi Chúa Kitô, bởi vì toàn thể vũ trụ đang
tiến tới chỗ hòa giải trọn vẹn "nhờ Ngài và trong Ngài" và chính máu
Ngài đổ ra trên thập giá để thiết lập nền hòa bình vĩnh cửu.
Chúa Giêsu là
Vua, nghĩa là Ngài đã lãnh đạo, mở đường đưa cả loài người vào cõi sống vĩnh
cửu, vào Nước Trời. Ngài đã giải thoát loài người khỏi mọi ách thống trị của sự
ác và sự chết, để con người được gặp Thiên Chúa, được tham dự vào tình yêu, sự
thật và sự sống của Thiên Chúa. Để hoàn thành sứ mạng đó, Ngài đã chấp nhận bị
liệt vào hàng gian ác và đã chết cùng với những kẻ gian ác để đem họ vào cõi sống
với Ngài.
Chúa Giêsu là
Vua vũ trụ là Vua cả nhân loại, nhưng Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài
bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính
lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Chúa Giêsu Vua,
ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai, thay cho tiếng hoan hô là những
tiếng chữi rủa, thách thách, nhạo cười, đả đảo...
Chắc hẳn không
ai thích làm vua kiểu đó. Nhưng thích hay không, chúng ta cũng phải làm vua, vì
khi được rửa tội, chúng ta đã là dân tộc vương đế, vương đế theo kiểu Chúa
Giêsu: Phải làm vua dục vọng của mình, phải dám lên tiếng bênh vực sự thật,
phải dám hy sinh cho những người nghèo khổ. "Ai biết phục vụ anh em, người
đó là người chỉ huy": Phục vụ là cai trị.
Muốn được vào
Nước của Thiên Chúa, được làm công dân Nước Chúa, không có con đường nào khác
ngoài con đường của "người trộm lành", đó là khiêm tốn nhìn nhận mình
là kẻ có tội "Phần chúng ta, thế này là phải lắm". Tin tưởng:
"Còn Ngài có làm gì xấu đâu", và cầu xin: "Lạy Ngài, xin nhớ đến
tôi'.
Nếu Chúa Giêsu
thực sự là Vua của lòng chúng ta, là Vua của đời ta, thay cho các "thần
tượng" vua chúa khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ được nghe Chúa đáp lại vào
lúc cuối đời mình: "Ta bảo thật với con, hôm nay con sẽ ở với Ta trên Nước
Trời".
16. Trên khổ giá
- R. Gutzwiller.
Qua trình thuật
trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức
Kitô phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng
đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ
Ngài.
Sự đối kháng: Sự
đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh
vào thập giá, bị đối xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một
tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới
đem đi xử tử. Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ,
phải làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài.
Phần còn lại, chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện
trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo
báng cười chê Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên Ngài là
Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ
rêu rao như thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay
người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua
dân Do thái và vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc
ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: 'Vua dân Do
thái' và sau hết sự đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: 'Nếu ông là Đức Kitô
của Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa'. Đó là một lời xúc phạm ghê
gớm của một kẻ cùng chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn
gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm
thoải mái, mạnh khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với
Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là
một thách đố đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô
đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được
hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong
lãnh vực tâm hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy
hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh
thần. Bởi thế Thập giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.
Giải đáp: Thánh
Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất
Chúa nói với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: 'Lạy Cha xin tha thứ cho
chúng vì chúng không biết việc chúng làm'. Không một lời than trách không một
tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời thứ
tha... Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để
chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được ơn cứu
thoát.
Họ không biết
việc họ làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận
biết một nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai
đoạn từ gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không
hành động như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến
vấn nạn này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi
bị hành xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. 'Nemo contra Deum
nini Deus solus". (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây
phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch laị mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng
con Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng
vượt trên hẳn lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm
nhặt.
Câu nói thứ hai
Chúa nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn
Đức Giêsu khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: 'Lạy Đức Giêsu, khi
Ngài đến trong nước của Ngài'. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh
quang Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người
bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: 'Phần chúng
ta, như thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm'.
Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, 'nhưng ông này, ông không hề làm
điều gì sai trái'. Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh
quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh
cửu nữa. Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: 'Quả thật,
tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi'. Vì tội mà cửa đóng kín
lại, nhờ ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân
loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng
đường. Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con
người bị lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con
đường mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định,
nhưng chính là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố
quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên
quyết để quay về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ
Ngài được hưởng ơn cứu thoát.
Như thế qua
trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai
câu nói của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng 'phản
kháng': Một lời Ngài 'nài' xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời
'chấp nhận' Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng
sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.
17. Đức Kitô
Vua.
Thiên Chúa đã
tuân giữ lời Ngài đã phán hứa, bằng cách sai phái vị cứu tinh đến, để thiết lập
một vương quốc, thế nhưng vương quốc của Ngài không giống như vương quốc con
người đã mường tượng ra. Chính Ngài đã xác nhận cho Philatô biết được sự thật
ấy.
Đúng thế, những
vương quốc trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự
giàu sang và vinh quang. Nhưng vương quốc của Đức Kitô thì không do trần gian
và cũng không giống với trần gian.
Ngài từ chối
loại vương quốc huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ
cho ông mọi vương quốc làm sản nghiệp. Ngài thường lẩn trốn mỗi khi dân chúng
muốn tôn Ngài lên làm vua theo nhãn quan của họ. Ngài không dùng những phương
tiện trần gian để bảo vệ nước của mình, cũng không tự biện hộ, để tránh né khỏi
bản án tử hình. Nhưng cho dù phải chết, Ngài vẫn xác quyết mình là vua và nước
Ngài đã thực sự bắt đầu nơi trần gian: Tôi sinh ra là để làm vua, và tôi đến để
làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi, và người ấy sẽ
thuộc về nước của Tôi.
Đây chính là
điểm then chốt của sứ điệp. Thế nhưng chân lý của Chúa là chân lý gì? Tôi xin
thưa, chân lý Ngài mang đến là ý định cứu rỗi của Chúa Cha, muốn thu thập mọi
người trở thành con dân Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho ý
định của Chúa Cha, và chứng cớ của Ngài thì trung thực bởi vì Ngài bởi Chúa Cha
mà ra, Ngài biết Chúa Cha yêu thương nhân loại và Ngài nhận lãnh sứ mạng nói
cho nhân loại biết được sự thật ấy.
Không những Ngài
chỉ nói mà hơn thế nữa, Ngài còn làm chứng bằng cả con người và cuộc đời của
mình nữa. Ngài chính là tiếng nói yêu thương của Chúa Cha phán với nhân loại.
Bằng việc làm vì Ngài đã trở nên một người ở giữa chúng ta, cùng đau khổ, và
cùng chết với chúng ta. Nhưng Chúa Cha đã cho Ngài sống lại.
Từ đấy và trong
Ngài, nhân loại múc lấy khả năng có thể sống lại, có thể trở về với Chúa Cha.
Bởi đó, thánh Phaolô đã gọi Ngài là trưởng tử, là người tiền phong của nhân
loại, đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã
qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này,
dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Dân Do Thái chỉ
dừng lại nơi của cải, giàu sang và uy quyền. Tất cả những cái đó sẽ tan biến
theo dòng thời gian, vì thế họ không chấp nhận Ngài. Nhưng nước vĩnh cửu Chúa
hứa ban còn vượt trội gấp bội những gì con người mong ước, Ngài hứa và sẽ trao
ban vì Ngài đã chiến thắng sự chết và địa ngục. Điều gay go nhất, đó là chúng
ta phải đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì với những kẻ tin thì lời Ngài hứa
mới chính là điều đáp lại ước muốn căn bản nhất của con người, đó là ơn phúc và
bình an.
Báo chí Saigon
có một dạo đã xôn xao bàn tán: Ngày 15.11.1969, một cô bé da đen đang sống vất
vưởng trong một cô nhi viện tại xóm Gà, lối đi Gò vấp, thì bỗng dưng có một
người da đen sang trọng đến thăm, ông đem tới cho cô một sự thật làm đảo lộn
đời cô: Cô chính là con của Bokassa, hoàng đế của nước Trung Phi. Từ một cô bé
lọ lem, cô nghiễm nhiên trở thành một nàng công chúa.
Còn với chúng
ta, thuộc về nước Chúa, trở nên con dân của Chúa, chân lý này có ảnh hưởng gì
đến đời sống chúng ta hay không?
18. Chúa Kitô,
Vua vũ trụ – Veritas
(Trích từ 'Hãy
Ra Khơi')
Các tông đồ ngày
xưa, từ khi bắt đầu theo Chúa cho đến khi được Chúa Thánh Thần biến đổi sau
biến cố Phục sinh, và chúng ta hôm nay nếu không được Chúa Thánh Thần soi sáng
thì không thể nào hiểu được mầu nhiệm thập giá. Trong cuộc đời của Chúa cũng như
trong cuộc đời của mỗi lần Chúa mạc khải mầu nhiệm thập giá mà chính Ngài đã
thực hiện là mỗi lần các tông đồ hoặc né tránh hoặc hiểu sai ý nghĩa và tranh
nhau chỗ vinh quang tả hữu, nhất nhì trong Nước Chúa.
Trong ngày lễ
Chúa Kitô Vua hôm nay, kết thúc năm phụng vụ theo chu kỳ C, để rồi vào tuần tới
Chúa nhật I Mùa vọng, khai mào năm phụng vụ mới theo chu kỳ A, Giáo Hội mời gọi
chúng ta suy niệm và sống mầu nhiệm Nước Chúa, tôn vinh Chúa Kitô làm Vua vũ
trụ dựa theo Tin Mừng thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây, mô tả cảnh
Chúa Giêsu chịu chết treo trên thập giá giữa hai kẻ trộm, một kẻ dữ buông lời
xúc phạm và một kẻ lành thành tâm thống hối ăn năn và nhận được lời bảo đảm của
Chúa: "Hôm nay con sẽ được ở với Ta trên thiên đàng".
Tại sao trong ngày
lễ Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao
biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá như vậy? Chúng ta không có
nhiều giờ để chú giải sâu rộng đoạn Phúc âm trên, nhưng một cách vắn tắt chúng
ta có thể nói trước hết bản chất của Nước Chúa được Chúa Giêsu mạc khải nơi đây
cho người trộm lành, đó là được ở với Chúa. Nước Chúa là nơi Chúa ở với ta, ta
ở với Chúa, được vui hưởng sự hiện diện của Ngài và Chúa Giêsu đã thực hiện
Nước Chúa là ban ơn cứu rỗi cho con người qua cái chết hy sinh trên thập giá,
không có con đường nào khác và Chúa Giêsu đã nhiều lần xác nhận: "Ai muốn
theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta".
Chúa Giêsu chiến
thắng những sự dữ, những bạo lực, những sự ác ôn âm mưu mánh mung trong tâm hồn
con người bằng cái chết hy sinh trên thập giá và Chúa vẫn còn tiếp tục làm như
vậy, tiếp tục chịu chết như vậy, cả trong ngày hôm nay nữa để thực hiện quyền
làm chủ của Ngài trên mọi sự.
Thật ra, là Đấng
Tạo Hóa mọi loài, mọi vật, Chúa làm chủ mọi loài mọi vật, Chúa đã làm vua mọi
loài mọi vật, nhưng Chúa đã tạo dựng con người có tự do và con người đã dùng tự
do này để thoát ra khỏi bàn tay Chúa, thoát ra khỏi quyền làm chủ của Ngài.
Không những con người thoát ra khỏi quyền làm chủ của Ngài, mà con người còn
dùng quyền tự do của mình để làm cho vạn vật này thoát ra khỏi quyền làm chủ
của Thiên Chúa.
Chúa làm vua,
nhưng Chúa muốn cho con người nhìn nhận Ngài làm vua qua con đường thập giá.
Chúa biết rõ đây là cách thế duy nhất để chiến thắng sự tự do của con người, để
chiến thắng sự dữ mà tự do của con người gây ra trên trần gian này đó là cái
nhìn từ Thiên Chúa, Thiên Chúa Cha luôn nhìn về lịch sử của con người từ trên
cao xuống qua thập giá của Chúa Giêsu.
Nói đến đây tôi
nhớ lại một bức tranh của một nghệ sĩ tài ba về cảnh Chúa Giêsu chịu chết treo
trên thập giá không theo cách thông thường nhìn từ dưới lên, mà một cách đặc
biệt nhìn từ trên cao xuống. Thiên Chúa Cha nhìn vào trần gian qua thập giá của
Chúa Giêsu từ trên cao xuống và nhìn từ phía con người thì sao?
Bài Phúc âm hôm
nay cũng gợi lại cho chúng ta một khía cạnh căn bản thường bị bỏ quên, đó là
khía cạnh được người trộm lành thực hiện việc ý thức về tội lỗi của mình, anh
đã thống hối nhìn nhận lỗi lầm, khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa không
thể cứu rỗi con người, nếu con người không muốn được cứu rỗi. Con người có tự
do, họ có thể chống lại Ngài, khước từ ơn cứu rỗi Ngài ban, hoặc lãnh nhận một
cách tích cực và sốt sắng. Chúa Giêsu chỉ thực hiện quyền làm vua của Ngài,
quyền làm Chủ của Ngài trên con người, khi con người biết thống hối ăn năn quay
trở về với Ngài. Chúng ta chỉ có thể nhìn nhận Chúa Giêsu là Vua, nhìn nhận ơn
cứu rỗi của Chúa để Chúa thực hiện nơi mình và để mình được hiện diện với Chúa.
Đây là bước đầu tiên
căn bản không thể thiếu được. Chính vì thế mà tác giả Phúc âm thánh Marcô khi
mô tả giây phút khởi đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Chúa đã xác nhận một
cách mạnh mẽ qua lời Chúa Giêsu: "Nước Trời đã gần đến. Hãy ăn năn thống
hối và tin vào Tin Mừng".
Mừng lễ Chúa
Kitô Vua hôm nay, chúng ta không nên dừng lại ở nơi những khẩu hiệu hoan hô bên
ngoài: "Chúa là Vua", nhưng mỗi người chúng ta cần phải ý thức về
những lỗi lầm của mình và thống hối ăn năn trở lại xin Chúa tha thứ. Xin Chúa
thực hiện quyền làm chủ của Chúa trên con người của chúng ta, trên cuộc đời
chúng ta. Xin Chúa tha thứ tất cả tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Chúa, để
chúng ta được trở nên con cái Chúa, để Chúa thực sự là chủ, là Vua trên cuộc
đời của mỗi người chúng ta. Xin Chúa củng cố đức tin mà giờ đây chúng ta cùng
nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
19. Trộm lành.
Khi nói Chúa
Giêsu là vua, chúng ta có thể thắc mắc ngay: Chúa là vua của nước nào? Nước
Chúa ở đâu? Và ai là dân của Chúa? Những thắc mắc này, chính Chúa đã trả lời
khi Chúa nói với tổng trấn Philatô: "Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng
về phía sự thật thì nghe tiếng tôi". Câu trả lời ấy cho chúng ta biết: đâu
không phải là Nước Chúa và đâu là Nước Chúa. Nước Chúa không thuộc về thế gian,
có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng
không thể đồng hóa với nước Chúa. Vậy Nước Chúa ở đâu? Thưa Nước Chúa ở trong
các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón
nhận sự thật. Như vậy, Nước Chúa gồm tất cả các tâm hồn yêu chuộng sự thật. Do
đó, Nước Chúa rộng hơn Hội thánh, bởi vì ngoài Hội thánh, vẫn có biết bao nhiêu
người yêu chuộng sự thật. Đang khi đó, trong Hội thánh cũng có thể có nhiều
người không thuộc về Nước Chúa, vì họ không yêu chuộng sự thật, không đón nhận
sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.
Vậy, tất cả
những ai đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa, điển hình
như người trộm lành kể lại trong bài Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên
thập giá, những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau: có kẻ xót
thương, có người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có
người nhận ra Chúa và van xin Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám
thách thức Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những
người vô lễ khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa
liều chết vì nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa
cứu vớt để được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược
ngạo, ít ra cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một
hoàn cảnh thật bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và
nhìn nhận sự vô tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên
hết những phép lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã
nhận ra vương quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van
xin đầy hy vọng sâu xa: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ
đến tôi". Lời cầu nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho
anh.
Đó, chúng ta
thấy, cả hai người trộm cùng có những hoàn cảnh như nhau, nhưng chỉ có người
trộm lành bên phải Chúa đã được cứu rỗi, vì anh đã nhận ra tình yêu cứu độ và
biết cầu xin. Chắc chắn anh ta không phải là loại người thuộc giáo lý, hiểu
biết lý thuyết về đạo, nhưng vì anh ta đã tin và cầu nguyện với lòng khiêm tốn
chân thành, nên anh đã được cứu độ. Thánh Âu tinh đã nói về người trộm này như
sau: "Từ tội giết người, y được dẫn đến thẩm phán, từ thẩm phán đến thập
giá, từ thập giá đến thiên đàng". Và thánh Gioan Kim Khẩu cũng nói:
"Từ thập giá y đã bay bổng lên trời. Thực vậy, tự thân là một tên ăn trộm
chuyên nghiệp, y đã dùng ngón nghề của mình để cướp lấy Nước Trời, bằng lòng
sám hối và lời tuyên xưng đức tin".
Ngoài ra, về hai
người trộm này còn cho chúng ta một bài học khác nữa, đó là vác thập giá có
công và vác thập giá không có công. Chúng ta thấy: người trộm bên trái Chúa đã
vác thập giá, hơn nữa, đã bị đóng đinh trên thập giá nhưng không có công gì.
Trái lại, người trộm bên phải cũng vác thập giá và bị đóng đinh vào thập giá,
sau cùng đã được thưởng công lên thiên đàng. Cái khác nhau về sự thưởng phạt
giữa hai người là do cách vác thập giá của mỗi người: người trộm bên trái đã
kiêu căng, khích bác và chỉ trích Chúa, nên đã không có công trạng gì. Trái
lại, người trộm bên phải Chúa đã khiêm nhường, cậy tin vào Chúa, nên anh đã
được công, được Chúa ban phúc thiên đàng.
Trong Tin Mừng,
chúng ta thấy Chúa hứa trả công cho mỗi người tùy theo công việc họ đã làm.
Công việc của mỗi người chúng ta là vác thập giá theo Chúa. Lời Chúa hứa thật
khích lệ chúng ta. Giả sử Chúa căn cứ vào những thành tích to lớn hay lấy lương
trả công cho mỗi người, thì nhiều người chúng ta chắc sẽ là tay không, vì mình
chẳng có công trạng gì như thế. Nhưng Chúa nói Chúa sẽ căn cứ vào công việc của
mỗi người vác thập giá theo Chúa mà thưởng công. Như vậy thì tất cả chúng ta:
những người già yếu, những người khốn khó, những người nghèo túng, những người
bệnh tật, những người neo đơn, những người kém cõi... tất cả những ai đang vác
thập giá vì Chúa đều là đối tượng được Chúa thưởng sau này.
Lễ Chúa Kitô Vua
kết thúc năm phụng vụ là đoạn cực mạnh trong bản Allêluia của Giáo Hội, hô vang
niềm hy vọng, niềm vui và sự phấn khởi của người có lòng tin vào Chúa. Ngày lễ
hôm nay đem lại cho chúng ta một tâm tình lạc quan tin tưởng, một lòng quảng
đại vô bờ bến, một sức mạnh để vươn lên mà không chông gai nào làm chùn được,
không đau khổ nào ngăn được, Chúa Kitô Vua đã toàn thắng đau khổ và sự chết để
cho chúng ta được toàn thắng đau khổ và sự chết. Allêluia, Allêluia, Allêluia.
20. Vua vũ trụ.
Hôm nay chúng ta
mừng lễ Chúa Kitô – Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ. Năm phụng vụ mở đầu bằng
mầu nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng
vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ
thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là
khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Cho nên thật
thích hợp khi kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm
Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chỉ một mình Đức Kitô mới là vua đích thực. Chỉ một mình
Ngài mới là Đấng để con người lệ thuộc và tôn thờ.
Tuy nhiên để có
thể sống nội dung đích thực của ngày lễ Chúa Kitô vua hôm nay, chúng ta cần suy
nghĩ xem: tước hiệu Vua Kitô phải được hiểu như thế nào? Và việc tuyên xưng Đức
Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
Lần giở những
trang Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu không có thiện cảm lắm với tước hiệu
vua, một tước hiệu vốn gắn liền với hình ảnh độc tài, độc đoán. Và vì thế cũng
dễ gây cảm giác khó chịu cho con người thời đại dân chủ hôm nay. Đức Giêsu đã
dứt khoát thắng được cơn cám dỗ về quyền bính khi Ngài ở trong sa mạc chuẩn bị
cho sứ vụ công khai. Có lần, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng tôn phong
Ngài làm vua, nhưng Ngài tránh đi nơi khác.
Vậy mà trong
những giờ đau đớn nhất, khi bị nộp trước quan tổng trấn của đế quốc Lamã, tay
bị trói, đầu đội mão gai, thì Đức Giêsu lại nhận mình là vua, nhưng Ngài minh
định ngay: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Và Ngài không làm vua theo
cung cách của các vua chúa trần gian. Đức Giêsu là vua nhưng Ngài là vua của
phục vụ, của khiêm hạ, của quên mình, nhất là của vua tha thứ trong yêu thương.
Chính trong niềm
đau tột cùng và cái chết tất tưởi trên thập giá mà vương quyền của Đức Kitô
được tỏ hiện. Và điều này một số người đã không nhầm lẫn. Tin Mừng mà chúng ta
vừa nghe nói về anh trộm lành. Anh trách mắng người bạn cùng chịu hình phạt với
mình đã chế nhạo vương quyền Đức Kitô, rồi quay sang Đức Kitô, anh bày tỏ với
hết lòng tin tưởng: "Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến
tôi". Và Đức Giêsu nhận lời anh: "Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên thiên
đàng với Ta".
Cái vương quyền
ấy, vào thời điểm ấy mới đẹp làm sao! Đức Kitô trên thập giá hoàn toàn là kẻ
bại trận. Chỉ có người đặt lòng tin vào sự phục sinh của Ngài mới có thể hiểu
được vương quyền ấy. Ở đây, chúng ta đứng trước một vương quyền thiêng liêng,
nghĩa là vương quyền theo Thánh Thần Thiên Chúa, được trang bị chỉ bằng sức
mạnh của Chúa Thánh Thần. Nếu vị vua ấy có giải phóng thì theo một nghĩa sâu
sắc là giải phóng tâm hồn.
Vị vua ấy đòi
hỏi gì ở thần dân mình? Một điều duy nhất, đó là đức tin. Nghĩa là tin tưởng
vào lời Ngài, Ngài mới làm cho chúng ta nên cao trọng. Thay vì bắt buộc phải
sống sát mặt đất, đến với đêm đen, đối diện với một tương lai u tối và vô định,
nhất thiết dẫn đến sự chết thì Ngài lại cho phép chúng ta tin tưởng cậy trông.
Và như thế không phải Ngài đã làm cho chúng ta nên trưởng thành đó sao? Sự tin
tưởng cậy trông khiến con người lớn lên, chính là điều dẫn con người đến với sự
yêu thương. Sự tin tưởng cậy trông chính là điều cho phép con người trực diện
với cái chết bởi vì đã có lời loan báo sự yêu thương và sự sống vĩnh cửu.
Vua của chúng ta
là như thế đó! Chức vị vua của Ngài là để phục vụ cho thần dân. Uy quyền của
Ngài, sự toàn năng của Ngài đó là quyền tối thượng để yêu thương và tha thứ.
Ngài đã thi hành vương quyền ấy bằng cách lôi kéo con người ra khỏi tội lỗi và
sự chết để đưa vào vương quốc của sự sống vĩnh cửu. Không, vương quốc của Ngài
không thuộc về thế gian này. Nguồn gốc và uy quyền chính đáng của Ngài không
tìm thấy trong thế gian này. Ngài múc lấy nó từ Thiên Chúa để rồi Ngài cho phép
chúng ta đi suốt cuộc đời trần thế này, không phải trong điệu nhạc buồn thảm
chết chóc nhưng là trong lời ca vẻ vang của ngày lễ Phục sinh, vì được cùng Ngài
sống lại vinh quang.
Mừng lễ Chúa
Kitô – Vua vũ trụ, có nghĩa là chúng ta tuyên xưng vương quyền của Đức Kitô để
bước đi trong vương quốc của Ngài. Do đó việc tuyên xưng Đức Kitô là Vua phải
dẫn đưa người tín hữu đến một thái độ cần có trong đời sống đức tin.
Tuyên xưng Đức
Kitô là Vua chính là mặc lấy thái độ của anh trộm lành trong bài Tin Mừng hôm
nay: biết sám hối, ăn năn, tin vào quyền năng yêu thương của Ngài. Chỉ những ai
biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước
Trời.
Tuyên xưng Đức
Kitô là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng.
Khi vua Hêrôđê
được các đạo sĩ báo tin sự ra đời của vị Vua Israel, ông ta run sợ, ông sợ một
sự cạnh tranh... Xin tất cả các vua Hêrôđê trên trần gian hãy an tâm, vương
quyền của Đức Kitô không cạnh tranh với ai cả. Ngược lại, nó mời gọi tất cả
những ai, cách nào đó đang thực thi quyền bính, hãy noi theo vua vũ trụ, làm
tôi tớ cho những người mà họ cai trị.
Dĩ nhiên lời mời
gọi này ưu tiên hướng đến những Kitô hữu, những người mà nhờ Bí tích Rửa tội,
đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Nếu Đức Kitô là Vua Tình Yêu thì
người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con đường của Đức Kitô đã đi: con
đường của yêu thương, phục vụ để xây dựng vương quốc của Ngài trên trần gian
này;vương quốc của huynh đệ, vương quốc của tình thương, vương quốc của công lý
và hòa bình.
Và mỗi một lần,
chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương, dù nhỏ bé nhất, thì
chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận được lời hứa của Đức Giêsu: Hôm nay đây, con sẽ
ở cùng ta trong vương quốc của Ta.
Lễ Chúa Kitô Vua
vũ trụ nhắc nhớ cho mỗi người Kitô hữu chúng ta về một vương quốc đích thực mà
mỗi người phải mong đợi bước vào, về một vương quyền đích thực mà mỗi người
phải tôn nhận và quy phục. Hãy thực sự chọn Đức Kitô là Vua và là Cứu Chúa của
đời ta và hãy bước đi trong đường lối của Ngài, vì chỉ nơi Đức Kitô chúng ta
mới tìm được sự sống viên mãn cho chính mình.
Giáo hội luôn
nhắc nhở chúng ta về phẩm giá cao cả của mỗi người Kitô hữu, đó là được tham dự
vào vương quyền của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta được mời gọi tham dự vào vương
quyền của Đức Kitô bằng cuộc sống phục vụ, yêu thương quên mình. Lạy Chúa Kitô
Vua vũ trụ và Vua của mỗi người chúng con. Xin Chúa đón nhận chúng con vào vương
quốc của Chúa và thêm sức để chúng con sống xứng đáng với tước hiệu là thần dân
của Chúa.
21. Cơn cám dỗ
cuối cùng – Thiên Phúc
(Trích từ 'Như
Thầy Đã Yêu')
Vua Cảnh Công
nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang
sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn
tùy tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua
chau mày hỏi: - Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười
Án Tử trả lời:
- Nếu các vua đời
trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự
thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại
khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
Vua trần gian có
thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái
lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định:
"Nước tôi không thuộc về thế gian này". Vì thế, cung cách của vị vua
Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy
của Người.
Dưới hình thức
nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập
giá, đã nói lên vương quyền của Chúa Giêsu: "Hắn đã cứu được người khác,
thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Thiên
Chúa tuyển chọn" "Đấng Kitô" chính là người được xức dầu, là
tước hiệu của vua. "Người Thiên Chúa tuyển chọn" chính là tước hiệu
Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói
lên vương quyền của Người: "Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến
tôi".
Tuy nhiên, Nước
của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng
không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình
Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không "xuống
khỏi thập giá" cách ngoạn mục, nhưng đã "kéo mọi người" lên với
Người. Người đã không "cứu lấy chính mình", nhưng đã "cứu lấy
mọi người" khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn
lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh thánh rằng: "Người đã
hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân". Người đã hòa mình
trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết
giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người: "Bạn của người thu thuế và
phường tội lỗi".
Vâng, vương
quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng
"khối" tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám
dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu
cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người.
Thần dân đầu
tiên mà vị vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh
phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay
lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ
trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người:
Anh mắng người trộm dữ: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả
Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì
xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!" Anh tỏ lòng kính
sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc
chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa
lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã
tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh
cầu nguyện: "Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Người
nhận lời tức khắc: "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Một lời hứa mà
Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được
thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng Phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi
vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh
phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với vua Giêsu, mà anh đã
chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh
viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng
sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước
vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời,
nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì vua Giêsu tiếp tục
lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh
Thiên Chúa: "Người này quả thật là công chính".
Và trong suốt
2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người;
những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ
những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa
như anh trộm lành, mới được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người
biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước
Trời.
Lạy Chúa, xin
cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về
với Người.
Xin dạy chúng
con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ
biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương.
Amen.
22. Đức Giêsu,
vua tình yêu
(Suy niệm của
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Ngày Chúa Nhật
cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Yêsu Kitô Vua.
Vua: người trổi
vượt trên tất cả
Vua là người
trổi vượt hơn người khác, thắng được tất cả, nên có quyền trên người khác. Lịch
sử Việt Nam cho thấy, sau "ngàn năm nô lệ giặc Tàu" Đinh Bộ Lĩnh là
người đầu tiên thắng được các sứ quân và là vị vua đầu tiên "Đinh Tiên
Hoàng". Ngày nay khi người ta nói vua bóng đá, người ta nhắc tới người
chơi bóng đá rất giỏi và trổi vượt hơn người khác, chẳng hạn như Pélé và
Maradona. Khi nhắc tới môn cờ vua, người ta nhắc tới tên những vua cờ như Karpov
và Kasparov.
Đức Yêsu là Vua.
Ngài là vua các vua, ngài làm vua cả hoàn vũ này, vì mọi quyền năng trên trời
dưới đất đều đã được ban cho Ngài (Mt.28, 18). Đức Yêsu chấp nhận thân phận con
người trọn vẹn, Ngài bất lực như tất cả mọi người khi Ngài đang sống đời tại
thế, nhưng khi Ngài chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá, Thiên Chúa đã cho
Ngài sống lại, và ban cho Ngài quyền năng trên tất cả trời và đất. Đức Yêsu là
vua cả hoàn vũ này.
"Chính để
anh em được tự do mà Đức Yêsu đã giải phóng anh em" (Gl.5, 1). Với tình
yêu và bằng tình yêu, Đức Yêsu đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả, để chúng ta
được tự do và làm chủ tất cả. Tình yêu giải phóng chúng ta khỏi nô lệ, và giúp
chúng ta làm chủ, làm vua và là người tự do.
Đức Yêsu: người
"yêu" trổi vượt tất cả những người đang yêu
Thánh Phaolô
trong thư gởi tín hữu ở Colôsê cho thấy Thiên Chúa biểu lộ quyền năng và tình
yêu của Ngài nơi Đức Yêsu. Đức Yêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Nhờ
Ngài, mọi vật được tạo thành, hữu hình hay vô hình. Mọi vật được tạo thành nhờ
Ngài và cho Ngài. Ngài là đầu của Giáo Hội, là người đầu tiên sống lại từ cõi
chết. Ngài hoà giải tất cả với Thiên Chúa trong máu Ngài.
Đức Yêsu trổi
vượt trên tất cả vì yêu. Ngài là vua tình yêu, không ai yêu mãnh liệt như Ngài.
Ngài dám chết, để người Ngài yêu được sống. Ngài hiến mạng Ngài, để thành lương
thực nuôi dân Ngài. Ngài để lại cho họ một mệnh lệnh rất đơn sơ: hãy yêu nhau
như Ngài yêu họ: "Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của
thầy, là các con yêu thương nhau" (Ga.13, 35). Ngài không đòi con người
làm điều gì khác ngoại trừ yêu thương, ngài muốn tất cả những người thuộc về
Ngài làm mọi công việc vì yêu thương. "Yêu thương là chu toàn tất cả lề
luật".
Trước những lời
nhạo báng của những người ghét Ngài, Ngài vẫn không oán hận. Ngài tha thứ. Ngay
trong những lúc cùng quẫn nhất, Ngài vẫn luôn độ lượng, quên mình để yêu thương
người khác: "hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta". Lời của Đức
Yêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và ban bình an.
Con vua lại được
làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua
Vua là nét đặc
trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền trên tất cả, Ngài thống trị vũ trụ,
vì vũ trụ đều do Ngài tạo dựng, tất cả phải tùng phục Ngài. Thiên Chúa khi tạo
dựng nên con người, Ngài đã trao cho con người sứ mạng và quyền thống trị trên
cá biển chim trời (St.1, 28). Làm chủ vũ trụ này, là sứ mạng của con người và
của mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa là
Cha chúng ta, Ngài tạo dựng chúng ta qua cha mẹ mỗi người chúng ta. Ngài không
tạo dựng chúng ta như những người nô lệ, nhưng như những người tự do, để chúng
ta làm chủ vũ trụ này, để chúng ta được cai trị vũ trụ này. "Con vua lại
được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa". Chúng ta là con Thiên Chúa,
Ngài cho chúng ta quyền thống trị trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta làm chủ
vũ trụ này với lý trí và tài năng Ngài ban cho chúng ta.
"Được làm
vua, thua làm giặc". Người thắng, làm chủ, làm vua. Người thua, làm nô lệ,
làm tôi đòi. Thiên Chúa muốn chúng ta làm chủ, Ngài không muốn chúng ta làm nô
lệ, Ngài mời gọi chúng ta chiến thắng chính con người chúng ta, chiến thắng
những khuynh chiều xấu nơi mỗi người. Nếu chúng ta thua, chúng ta làm nô lệ cho
những khuynh chiều hạ đẳng, chúng ta làm nô lệ xác thịt, nô lệ tiền bạc, nô lệ
danh vọng hão huyền. Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng, Ngài muốn chúng ta
làm vua với Ngài, với Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý
chia sẻ:
1. Điều gì quý
nhất Đức Yêsu đã làm cho bạn?
2. Cách hành xử
của bạn có giống cách hành xử của Đức Yêsu không, khi có ai chọc tức làm cho
bạn muốn nổi khùng, hoặc khi bạn bị oan ức? Trên đời, liệu có ai có cách hành
xử giống cách hành xử của Đức Yêsu không?
3. Nếu được gọi
Đức Yêsu với một tước hiệu mà bạn ưng ý nhất, thay vì gọi Đức Kitô Vua thì bạn
gọi Ngài bằng tước hiệu nào?
23. Chú giải của
Lm Fx. Vũ Phan Long
ĐỨC VUA CŨNG LÀ
ĐẤNG CỨU THẾ CHỊU ĐÓNG ĐINH
1.- Ngữ cảnh
Đây là đoạn văn
trích từ bài tường thuật của tác giả Luca về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu.
Trong bản văn này, Đức Giêsu đã đến điểm chung kết số phận Người; cuộc
"xuất hành" của Người (9,31) đi từ cuộc đời này đã đưa Người đến
chặng cuối này. Người đã bị đóng đinh tại nơi gọi là "Cái Sọ" giữa
hai tên gian phi (23,33). "Quyền lực tối tăm" (22,53) đã khép lại
trên Người. Bây giờ, đến lúc các thủ lãnh và lính Rôma sỉ vả Người. Nhưng cũng
trong tình cảnh này, Người được chính thức gọi là "vua dân Do Thái".
Tiếp bối cảnh
tang thương này, là một bản văn chỉ có trong TM III: một tên gian phi nhục mạ
Người, nhưng tên kia đã mắng lại vì nhận biết sự vô tội của Đức Giêsu và xin
Người nhớ đến anh. Đức Giêsu đã ban một lời hứa thật đẹp.
2.- Bố cục
Bản văn có thể
chia thành hai phần:
1) Dân chúng,
các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (23,35-38);
2) Hai tên gian
phi đối với Đức Giêsu (23,39-43).
3.- Vài điểm chú
giải
- Dân chúng đứng
nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (35): Theo thói quen của ngài,
tác giả Lc không trích nguyên văn bản văn Kinh Thánh, nhưng bản văn thánh vẫn
bàng bạc trong bài tường thuật. Ở c. 35 này, chúng ta có thể nhận ra Tv 22,8
LXX ("Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai"
[Bd CGKPV]): "Hễ thấy (theôrountes) tôi là họ nhạo cười (exemyktêrisan),
họ trề môi, họ lắc đầu" (NTT), vì Lc 23,35 dùng lại hai động từ này:
"Dân chúng đứng nhìn (theôrôn), còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo
(exemyktêrizon)". Bằng cách này, tác giả cho thấy là quang cảnh này lại
hoàn tất Kinh Thánh cách bí nhiệm.
- Đấng Kitô của
Thiên Chúa, người được Chúa tuyển chọn (35): "Đấng Kitô của Thiên
Chúa" là danh hiệu vương giả; "người được Chúa tuyển chọn" là
danh hiệu của Đấng Mêsia.
- đưa giấm cho
Người uống (36): Oxos (do tính từ oxys, "cay") được dùng trong vùng
đông Địa Trung Hải thời cổ. Đây là một thứ rượu chua, hoặc cay, khác với oinos
là rượu ngọt. Ta không rõ vì sao người ta lại cho Đức Giêsu uống thứ rượu này,
chỉ biết là Lc đã bỏ đi thứ "rượu pha mộc dược" nhằm giảm đau
(esmyrnismenon oinon) trong Mt 15,23.
- Nếu ông là vua
dân Do Thái (37): Câu này gợi ý tới lời quan Philatô hỏi Đức Giêsu (23,3) cũng
như tới tấm biển ghi bản án trên thập giá (23,38).
- Chúng ta chịu
như thế này là đích đáng (41): Tên gian phi thứ hai nhìn nhận tội mình, và như
thế là mặc nhiên diễn tả tâm tình metanoia (hoán cải) trước nhan Thiên Chúa.
- hôm nay, anh
sẽ được ở với tôi (43): "Hôm nay" đây không phải là "ngày đóng
đinh theo lịch", nhưng là ngày "ơn cứu độ thiên sai được ban",
đặc biệt nhờ cái chết của Đức Giêsu.
- thiên đàng
(43): Danh từ Hy Lạp paradeisos lấy từ tiếng Ba Tư cổ (pairidaêza) được dùng ba
lần trong Kinh Thánh với nghĩa là một khu vườn có cây cối (Dc 4,13; Nkm 2,8; Gv
2,5). Bản LXX đã dịch "khu vườn" ở Êđen là paradeisos (St
2,8.9.210.15.16; 3,1...). Người Do Thái diễn tả thế giới bên kia bằng những
công thức liên hệ đến không gian: "sheol" hoặc nơi cư ngụ của tất cả
những người đã chết, "lòng Abraham" hoặc "thiên đàng", là
nơi mà những người công chính quây quần quanh các tổ phụ mà chờ đợi được nhận
vinh quang trọn vẹn vào lúc tận thế.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
Vào lúc Đức
Giêsu chào đời, thần sứ Chúa đã loan báo: "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã
sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa"
(Lc 2,11). Như thế, ngay từ khi mới xuất hiện, Đức Giêsu đã có một nhiệm vụ lớn
lao. Ngay từ đầu, câu hỏi này đã được nêu ra: Đức Giêsu sẽ thực hiện nhiệm vụ
này như thế nào? Người có ở ngang tầm với mọi tình cảnh bần khốn của con người
chăng? Phải chăng Người là Đức Kitô, là Đức Vua vĩnh viễn được Thiên Chúa sai
phái đến, để đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn?
Câu hỏi này được
đặt ra hết sức trầm trọng sau khi Đức Giêsu bị đóng đinh, không phải là đặt ra
trên bàn giấy, trong cuộc tranh luận, nhưng được ném ra cho Đức Giêsu đang ở
trên thập giá, giữa hai tên gian phi. Toàn bản văn được đặt dưới dấu chỉ là
"đức vua", có khi là đối tượng cho người ta mỉa mai (cc. 35-39), có
khi là đối tượng cho người ta tin tưởng để rồi được ban thưởng (cc. 40-43).
* Dân chúng, các
thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (35-38)
Trước tiên, có
đoàn dân chúng. Họ có vẻ không hiểu những gì đang xảy ra. Rất có thể họ đang tự
hỏi làm thế nào mà con người đã không kháng cư lại cái chết lại có thể là đức
vua bao đời mong đợi và nếu Người là vị vua ấy, tại sao Thiên Chúa không cứu
Người? Chúng ta biết tác giả Lc vẫn có thiện cảm với những người nghèo nhất,
những người cùng rốt. Ngài cho thấy dân chúng đứng lặng thinh và cho biết rằng
họ không chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Một vài câu sau, ngài sẽ
nhận xét: "Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự
việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về" (c. 48). Những con người này có thể
đại diện cho tất cả những người có thiện chí đang muốn hiểu được chương trình
của Thiên Chúa, nhưng không thể được, vì những người có thể soi sáng cho họ đều
mù quáng và không ý thức về điều dữ họ đang làm.
Dưới chân thập
giá, cũng có các nhà lãnh đạo, các đối thủ của Đức Giêsu, những người chịu trách
nhiệm về cái chết của Người. Bây giờ họ chỉ còn có thể chế nhạo Người về biết
bao tự phụ và điên rồ mà Người đã chứng tỏ trước đây thôi. Một kẻ đã bị buộc
phải đi đến thập giá và bị người ta làm cho mình tất cả những gì mình không
muốn, có thể nào lại là Đức Vua Cứu thế được Thiên Chúa gửi đến? Đáng giá gì
một Đức Kitô mà đến việc cứu chính mình khỏi chết cũng không làm nổi? Nếu ý đồ
của hắn ta là thật, hắn chỉ việc chứng minh ngay bây giờ đi!
Câu nói chế nhạo
sau đây trở đi trở lại như một điệp khúc: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì
cứu lấy mình đi"; "Nếu ông là Đấng Kitô thì hãy chứng tỏ sức mạnh của
mình đi!". Các lời này, các thủ lãnh nói ra để sỉ vả Người. Thật ra, khi
vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã bị Satan cám dỗ như thế (4,3), rồi tại Nadarét,
Người cũng đã bị yêu cầu như vậy (4,23); nay là tại chặng chót của hành trình
trần thế.
Còn một nhóm thứ
ba có mặt là toán lính. Họ cũng là những người nghèo, nên vì một ít tiền bạc,
có thể dùng vũ lực để áp đảo những người có lối ăn nói, thói tục và tôn giáo khác
họ. Họ có tội, nhưng họ cũng là nạn nhân của sự điên rồ của các sĩ quan của họ;
họ phải vâng lệnh. Họ đóng kịch như dâng rượu lên đức vua, để chế nhạo Người.
Ngay cả tấm biển ghi bản án, "Đây là vua dân Do Thái", thật ra là một
cái nhãn hiệu đầy mỉa mai do quan Philatô tạo ra (x. Ga 19,15.19.22). Tên gian
phi thứ nhất cũng yêu cầu được cứu với giọng cay độc. Thập giá đặt một dấu chấm
hỏi to lớn trên tất cả công trình trước đây của Đức Giêsu. Thập giá dường như
đã bác bỏ cao vọng của Người. Một con người đã bị đóng cứng trên thập giá và
sắp chết thì còn có thể giúp đỡ ai? Trong bầu khí đen tối này, chi tiết:
"Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy
ra, đều đấm ngực trở về" (c. 48), là chi tiết đầy an ủi và hy vọng.
Trước tất cả
những lời sỉ nhục và thách thức đó, Đức Giêsu không trả lời một tiếng nào.
* Hai tên gian
phi đối với Đức Giêsu (39-43)
Một tên gian phi
cũng cùng với tập thể kia hòa lời mỉa mai sỉ nhục Đức Giêsu. Thế nhưng tên gian
phi thứ hai lại trách bạn mình. Anh nhìn nhận tội lỗi mình và nhìn nhận cái
chết thập giá dành cho mình là xứng đáng, nhưng anh tuyên bố Đức Giêsu vô tội.
Chẳng những thế, anh còn công nhận rằng con người bị đóng đinh và bị chế giễu
này, con người không xuống khỏi thập giá dù bị thách thức, chính là Đức Vua Cứu
thế. Anh đã diễn tả lòng tin vào Đức Giêsu như Đấng Mêsia vương giả bằng lời
thỉnh cầu: "Khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi"; lòng tin
này được bày tỏ với một tình yêu đặc biệt qua lời kêu cầu rất thân thương: "Giêsu
ơi!". Anh ta không xin Đức Giêsu cứu cho khỏi chết, vì anh chấp nhận cái
chết như là hình phạt đích đáng. Nhưng anh xác tín rằng Đức Giêsu không chấm
dứt cuộc đời với cái chết, mà qua cái chết, Người sẽ đi vào trong vương quốc
Người. Anh tin rằng Đức Giêsu cứu người ta không phải chỉ là khỏi cái chết,
nhưng là đưa sang bên kia cái chết. Như thế, câu viết trên bản án đầy vẻ bôi
bác, "Đây là vua dân Do Thái", lại đạt được nội dung đích thực: Đức
Giêsu đúng là Vua Cứu thế; Người đi vào vương quốc của Người và đưa vào đó tất
cả những ai tín thác nơi Người.
Với anh gian phi
này, Đức Giêsu trả lời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên Thiên Đàng". Qua câu nói này, Người cho hiểu rằng, với cái chết,
Người sẽ đi vào trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa; nhưng cũng cho
hiểu rằng chính Người quyết định ai sẽ vào đó với Người: chính Người bố trí để
đưa người ta đi vào hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tất cả những
điều xảy ra trên Núi Sọ hôm ấy có thể được nhìn theo theo nhiều quan điểm: đối
với các thủ lãnh, đây là một thành công vì họ đã trừ khử được một kẻ lâu nay cứ
ngáng đường họ. Đối với dân chúng, dường như họ còn chờ đợi để hiểu rõ biến cố
này hơn. Nhưng đối với tác giả Lc khi suy gẫm về câu chuyện này, thì đây là
chương trình của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh nay đã hoàn tất.
Ngoài ra, tư
cách "Vua" của Đức Giêsu, điều mà các thủ lãnh và lính tráng đưa ra
làm trò cười bởi vì họ chỉ đầy ứ sự căm hờn và mỉa mai, lại đã được khẳng định
tích cực khi người gian phi thứ hai lấy đức tin nhìn nhận Người và được Người
hứa cho vào thiên đàng, "Nước của Ngài". Cho đến chết, Người vẫn là
Đấng cứu độ những người tội lỗi.
Chúng ta ghi
nhận trong mỗi phân đoạn có một cảnh đối lập:
- Trong phân
đoạn 1: Trong khi dân chúng đứng nhìn (rồi họ sẽ hoán cải: c. 38), các thủ lãnh
và lính tráng lại chế giễu Đức Giêsu;
- Trong phân
đoạn 2: Trong khi tên gian phi thứ nhất nhục mạ Người, tên gian phi thứ hai lại
tin tưởng trao phó cuộc đời cho Người.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Ra sức làm
một hành vi vĩ đại, thì đã chứng tỏ mình đáng được nể trọng. Nhưng im lặng thản
nhiên, khi bị người ta khinh bỉ, sỉ nhục, bôi nhọ, thì càng chứng tỏ mình có
tâm hồn cao thượng và đáng nể trọng hơn. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế, nhất là
khi Người lại là chính Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, và các kẻ đang nhao nhao
sỉ nhục Người chỉ là những thọ tạo của Người. Đấy là bài học cho các Kitô hữu
mỗi khi cảm thấy mình không được tôn trọng đủ.
2. Bản văn nói
lên sự mỉa mai của loài người trước Đức Giêsu bị đóng đinh, nhưng cũng cho thấy
có sự mỉa mai của Thiên Chúa đối với sự "khôn ngoan ranh mãnh" của
người đời: Chính khi họ tưởng họ thắng được Thiên Chúa thì họ lại thua vĩnh
viễn; chính khi công trình cứu độ có vẻ thất bại, thì lại thành công mỹ mãn.
3. TM Luca ghi
lại biết bao người đã tin tưởng đến với Đức Giêsu và đã trải nghiệm sự giúp đỡ
và ơn cứu độ của Người. Người thường bảo họ: "Đức tin của con đã cứu
con" (7,50; 8,48; 17,19; 18,42). Cũng như người phụ nữ tội lỗi và như
Dakêu, có những người đã đến với Người từ tình trạng bị đẩy ra bên lề và đã
được Người ban ơn hoán cải và ơn cứu độ. Anh gian phi hoán cải là kết tinh của
công trình cứu chữa này. Anh ở trong tình trạng bị loại trừ tuyệt đối, anh nhìn
nhận mình đáng phải chết đóng đinh, nhưng anh cũng xứng đáng được Đức Giêsu áp
dụng câu nói: "Đức tin của anh đã cứu anh". Anh đã tin vào Đức Giêsu,
một con người bị đóng đinh như anh. Do đó, anh đã được ban cho ơn cứu độ toàn
vẹn.
4. Đức Giêsu
chịu đóng đinh là để cho thấy rằng Người không phải là một Đức Vua Cứu thế sẽ
đảm bảo cho họ có sự sung túc trần thế. Người đã không cứu chính mình khỏi
chết, thì Người cũng không gìn giữ chúng ta khỏi bệnh tật và cái chết. Quyền
lực của Người không nhắm đến đời sống thoải mái trần tục của chúng ta, nhưng
nhắm đến đời sống của chúng ta với Thiên Chúa. Ai tìm sự hiệp thông với Thiên
Chúa, và biết nhờ Đức Giêsu, Đức Giêsu sẽ cứu độ người ấy, cho dù người ấy đến
với Người như một tên gian phi.
24. Chú giải của
Noel Quesson.
Lễ Đức Kitô Vua
là một ngày lễ rất gần đây bởi vì lễ này đã cử hành lần đầu tiên năm 1925.
Những canh tân phụng vụ thời nào cũng có. Thật vậy, việc cử hành thật sự vương
quyền của Đức Giêsu là ngày lễ Thăng Thiên: Nhưng, trong Chúa nhật cuối cùng
này của năm phụng vụ, chúng ta chiêm niệm "Triều đại của Thiên Chúa"
đến từ từ xuyên qua, lịch sử và đạt đến sự thực hiện viên mãn vào thời cách
chung.
Để mừng lễ Đức
Kitô Vua chúng ta, một cách rất nghịch lý, Giáo Hội đưa ra cho chúng ta cảnh
tượng mà Đức Giêsu khai mạc triều đại của Người: ngai vàng của Người là thập
giá. Vương miện Người là một vòng gai làm đổ máu khuôn mặt Người... lễ phong
vương của Người là một "danh hiệu" của việc kết án tử được đóng đinh
bên trên đầu Người. "Đây là vua dân Do Thái! Hai chứng nhân, hai nam tước
của Người, là hai tên gian phi bị kết án với Người.
Nghịch lý cao cả
của Tin Mừng! Vua ư? Phải! Nhưng chắc chắn không như cách hiểu của những người
hoặc muốn đứng về phe Người để hoan hô tôn phong Người hoặc là những đối thủ
của Người để lên án Người. Vua "theo cách của Thiên Chúa"!
Khi đến nơi gọi
là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên
gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện
rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ
lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. Dân chúng đứng nhìn.
Vậy đây là đinh
điểm!
Đó là "đỉnh
núi" của Tin Mừng. Sau "Núi Bát Phúc" nơi Đức Giêsu lần đầu tiên
công bố sứ điệp của Người... sau "Núi Ta-bo" nơi Đức Giêsu biến hình
và nhận sự tấn phong của Chúa Cha: "Đây là Con Ta. Người đã được Ta tuyển
chọn, hãy vâng nghe lời Người!". Đây là đỉnh điểm thứ ba và cao siêu của
Tin Mừng. Ở cổng vào thành phố Giê-ru-sa-lem và gần cổng Ép-ra-im, trong một
nơi khai thác đá cũ những thợ khai thác đá còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng
hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5 mét. Đối với mọi người, đó là
"Golgotha", từ này có nghĩa là cái sọ (tiếng Hy-lạp là Kranion; tiếng
La-tinh là Calvanô) vì hình dạng của tảng đá. Một truyền thuyết lâu đời cho
rằng đó là cái sọ của A-đam được chôn cất mãi mãi ở đó! Đỉnh núi ấy của Tin
Mừng là một ngọn "núi trọc", một ngọn núi "cô độc". Một nơi
buồn thảm: một miếng đất nhỏ xíu, cao hơn mặt đất dùng để đặt giá treo cổ những
tử tội, gần con đường có nhiều người đi qua, để mọi người có thể nhìn thấy các
tội nhân bị hành hình và lấy đó mà làm gương!
Thật vậy đám
đông đang ở đó... và nhìn... ao ước nhìn! Ở đây, Luca dùng một từ rất có ý
nghĩa: Ngài không dùng từ "đám đông", nhưng dùng từ "dân
chúng" (tiếng Hy-lạp là saos), một từ thường dùng để chỉ "dân Thiên
Chúa". Cũng từ ấy dùng để nói "toàn dân say mê nghe Người giảng dạy
trong Đền Thờ" (Lc 19,48) trong lúc mà các thượng tế và kinh sư cả các
thân hào trong dân tìm cách giết Người (Lc 19,47). Luca thường ghi nhận rằng
đối với Đức Giêsu, "dân chúng" khác với các thân hào (Lc 20,1 -20,45
- 21,38)
"Và dân
chúng đứng nhìn" như biến cố làm họ chán ngán. Sự im lặng của dân chúng
rất ấn tượng. Dân chúng Israel hiền lành không còn hiểu gì cả. Họ đã chờ đợi
Đấng Mêsia như một "ông vua", một vua Đa-vít mới. Trong lịch sử của
họ, vương quyền không kéo dài được bao lâu và các ông vua của họ, không phải
thiếu nhưng không có được tầm cỡ của vua Đavít và Salômôn; nhưng đó là thời kỳ
huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua
là Đấng Mêsia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù làm vị thẩm phân của Thiên Chúa.
Vâng họ cứ ngỡ rằng Đức Giêsu đến để "phục hưng vương quyền của
Israel". Họ đã thử tôn Người lên làm vua": Người lại tránh né (Ga
6,15; Lc 19,38). Và giờ đây, Người kia kìa, bị kết án tử hình! Còn dân chúng
đứng nhìn.
Còn các thủ lãnh
thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu
thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!"
Khác với những
người dân đen đang đứng nhìn, đã hẳn, ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ
lãnh cười nhạo và buông lời thách thức. Thách đố của họ là Đức Giêsu hãy tỏ
vương quyền của Người là Đấng Mêsia. Đấng được Thiên Chúa xức dầu là một danh
hiệu vương đế bởi vì các vua Israel được gọi như thế, và quả thực đã
"thánh hiến" bởi dầu thánh, (Chrême) làm họ trở thành những Đức Kitô
(tiếng Hy-lạp Christos dịch từ tiếng Mêsia trong tiếng Do Thái). Nếu Đức Giêsu
là Đức Kitô, Đấng được tuyển chọn (từ này lấy trong sách Isai-a 42,1) nếu Người
là Cứu Chúa của thế gian trước tiên Người phải tự cứu lấy mình.
Những lời gào la
chế nhạo ấy là tiếng vang của những lời ma quỷ cám dỗ trong sa mạc lúc Đức
Giêsu bắt đầu đời sống công khai của Người (Lc 4,3); cũng là tiếng vang của
những lời chê trách mà các người đồng hương Nagiarét đã nói với Người:
"Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình" (Lc 4,23) Trong thế giới hiện đại
của chúng ta, "những kẻ thế thạo Thiên Chúa" không còn lớn tiếng như
thế, nhưng chẳng phải vẫn luôn có cùng một vấn đề, cùng một lời khinh chê:
"Thiên Chúa phải tỏ mình ra đi, cho người ta thấy! Phải hiện ra đi, nếu
Người hiện diện! Và câu trả lời của Thiên Chúa vẫn luôn là câu trả lời của Đức
Giêsu: Người im lặng và không can thiệp vào bình diện các sự vật trần thế mà
Người để chúng tồn tại hoàn toàn tự lập. Người không biện hộ cho mình. Người để
cho mình bị lên án là bất lực và không hiện hữu. Đức Giêsu, cũng như Thiên
Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ để "hành động vì mình", sử
dụng sự Toàn Năng của mình chỉ vì chính mình.
Lính tráng cũng
chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là
vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!"
Đó là những binh
sĩ La Mã, những dân ngoại trong đoàn quân xâm lăng; họ dùng từ "vua"
mà họ nhìn thấy ghi phía trên đầu Người. Một sự chế giễu cao siêu lại một lần
nữa nhắm vào kẻ bị loại trừ đó, bị treo trên thập giá... thở khò khè chờ tắt
thở!
Phía trên đầu
Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do thái".
Nghi lễ lên ngôi
của các ông vua bao gồm một bản phong vương: một Thượng tế nhân danh Thiên Chúa
ban cho nhà vua "danh hiệu" của vua, như người ta thấy trong Thánh
Vịnh 109: "Ngày đăng quang con nắm tuyển thủ lĩnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa
thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh
con".
Ở đây bên trên
"ngai vàng" ứng biến là thập giá, bản án dùng làm bản phong vương,
giống như Lời của Chúa Cha tấn phong Con Người trên sông Giođan ngày Người chịu
phép rửa: "Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con" (Lc
3,22). Trong Tin Mừng thánh Luca, bản án trên thập giá không được trình bày như
một "lời lên án". Đức Giêsu đã được giới thiệu như một ông vua, nhưng
"Nước Người không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Trong một sứ vụ
của Người, Người đã hết sức cẩn thận không cho người ta giải thích sứ vụ của
Người theo nghĩa chính trị. Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế
nhưng không cạnh tranh với "các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần
thế". Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy
vọng hoang tưởng của chủ nghĩa Đấng Mêsia vua dân Israel.
Một trong hai
tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là
Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Câu chuyện của
Luca được xây dựng theo kiểu bi kịch, trong sự căng thẳng tăng lên dần: dân
chúng đứng "nhìn", các thủ lãnh "cười nhạo", lính tráng
"chế giễu", những tên gian phi "nhục mạ".
Luật của Môsê
đòi phải có "hai chứng nhân" để mọi hành động trở thành hợp pháp. Như
thế, các chứng nhân của việc tôn phong Chúa: Biến hình là hai nhân vật chính
của Cựu ước. Môsê và Êlia (Lc 9, 28.36). Hai chứng nhân của sự sống lại sẽ là
hai người lữ hành dễ thương và bí hiểm trên đường trở về Emmau (Lc 24,18),
trước đó ít lâu là hai chứng nhân không kém huyền bí của Ngôi Mộ trống (Lc
24,4). Nhưng ở đây, hai chứng nhân cho sự lên ngôi ở Núi Sọ chỉ là hai tên cướp
tầm thường. Đức Giêsu, vị vua bị nhạo báng đến cùng!
Đức Giêsu, vị
vua của ngày thứ Sáu Tuần Thánh là một vị vua bị bóp méo xuyên tạc mà người ta
ngần ngại chỉ ra như một người bị nhạo báng, trần truồng, bị khạc nhổ và đầy
những vết thương đẫm máu, hai bên có hai tên gian phi.
Nhưng tên kia
mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày
cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã
làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!"
Trong tiếng ồn
ào của sự khinh bỉ chung, đây là một tiếng nói yếu ớt và nghèo nàn dám nói chen
vào. Chính Đức Maria ở dưới chân thập giá đã nghe được và đã thuật lại cho
Luca, là người duy nhất đã kể lại cho chúng ta. Luca vị thánh sử của lòng
"nhân hậu" và của những "người nghèo hèn" đã phải vui mừng
đặc biệt về việc này. Triều Đại của Đức Ki tô, Nước Thiên Chúa chỉ mở ra cho
những người "hối cải". Đối với Đức Kitô, cách thực thi vương quyền
của Người trên mọi người, kể cả những kẻ thù của Người, chính là ban cho họ ơn
tha thứ (Lc 23, 34.43); một sự tha thứ không hạn chế? Để vào được Nước Chúa,
không cần điều lớn lao là "công chính". Người tội lỗi cũng có chỗ
trong Nước Chúa với một điều kiện duy nhất: đón nhận ơn tha thứ mà Thiên Chúa
lúc nào cũng ban cho chúng ta. Người đầu tiên sống sự hòa giải hoàn vũ này là
một "kẻ cắp", kẻ đã biết nhận ra tội lỗi của mình và đồng thời công
bố sự vô tội của Đức Giêsu.
Rồi anh ta thưa
với Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến
tôi!" Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên Thiên Đàng."
Đức Giêsu đúng
là "Ađam mới", giúp nhân loại về lại địa đàng đã mất. Chia sẻ
"cùng một nỗi khổ cực như Đức Giêsu, chết, đó là bắt đầu "sống với
Đức Giêsu".
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét